QUYỂN 5 - (6 nước)
Fascicle V - Six Countries, from Kanyakubja to Visaka
● Nước Yết-nhã-cúc-xà ● Nước A-du-đà ● Nước A-da-mục-khư ● Nước Bát-la-da-già ● Nước Kiêu-thưởng-di ● Nước Tỳ-sách-ca
1. The Country of Kanyakubja
2. The Country of Ayodhya
3. The Country of Ayamuklia
4. The Country of Prayaga
5. The Country of Kausambi
6. The Country of Visaka
Nước Yết-nhã-cúc-xà chu vi gần 1.300 km. Kinh thành phía tây giáp sông Căng-già, chiều dài khoảng 6.5 km, chiều rộng khoảng 1-1.5 km, thành cao hào sâu, phòng vệ kiên cố, nhà cửa lầu gác san sát. Hoa lá cây trái, ao hồ soi bóng, nơi nơi sáng trong tươi mát. Hàng hóa hiếm lạ từ các nước khác đa phần đều quy tụ về đây. Dân cư phồn vinh, đời sống sung túc. Hoa trái đủ loại dồi dào, lúa thóc gieo trồng theo thời vụ. Khí hậu ôn hòa, phong tục thuần chất. Người dân dung mạo thanh nhã, y phục xinh đẹp, chú trọng việc học, chuyên sâu nhiều tài nghề, thường bàn luận những việc thanh lịch cao xa. Về tín ngưỡng thì có người theo Chánh pháp, có người tin tà đạo.
The country of Kanyakubja is more than four thousand li in circuit and the
893c capital city, with the Ganges River at the west, is over twenty li in length and four or five li in breadth. The city wall and moat are strongly built and terraces and pavilions are to be seen everywhere. Flowery woods are brilliant in color and the ponds are filled with transparent water, like a mirror. Rare goods of different places are collected here. The inhabitants live happily in abundance and their families are rich and prosperous. There are many kinds of flowers and fruit and crops are sown and reaped in good time. The climate is mild and pleasant and the people are simple and honest by custom. Their features are handsome and graceful and their clothes and adornments are bright and resplendent. They earnestly study arts and literature and talk in a lucid and far-sighted manner.
Heterodoxy and orthodoxy are each each by half of the population
Có hơn 100 ngôi chùa, tăng chúng hơn 10.000 vị, tu tập theo cả Đại thừa lẫn Tiểu thừa. Có hơn 200 đền thờ Phạm thiên với khoảng hơn mấy ngàn người tu theo các đạo khác.
and both Mahayana and Hinayana teachings are studied by the people. There are more than two hundred deva temples with several thousand heretics.
[Nghe kể rằng] thuở trước khi tuổi thọ người dân nước này còn rất dài, kinh thành có tên là Câu-tô-ma-bổ-la (Kusumapura), đức vua hiệu là Phạm Thụ, có đầy đủ phước đức và trí tuệ, văn võ song toàn, uy thế nhiếp phục khắp châu Thiệm-bộ, thanh danh chấn động các nước lân bang. Vua có 1.000 người con trai mưu trí dũng lược và 100 người con gái xinh đẹp tuyệt trần. Lúc bấy giờ có một vị tiên nhân cư ngụ ở ven sông Căng-già, ngưng thần nhập định đã qua mấy vạn năm, hình thể như cây khô, đến mức chim chóc tụ tập làm tổ, mang đến một quả ni-câu-luật làm rơi trên vai vị tiên, bốn mùa qua lại, năm tháng dần trôi, mọc lên thành cây to che bóng mát. Trải qua nhiều năm, vị tiên xuất định, muốn hất cây ra khỏi vai để đứng dậy nhưng lại sợ động rơi các tổ chim. Người thời bấy giờ thấy chuyện như vậy vô cùng cảm phục đức độ của vị tiên, nên tôn xưng tên hiệu là Tiên nhân Đại Thụ.
In the age when the human life span was very long, the old capital city of the country of Kanyakubja was called Kusumapura (known as Huagong, “Flowery Palace,” in Chinese). The king, named Brahmadatta, was a person endowed with both bliss and wisdom; he was well versed in literature and the arts of war. His prestige kept Jambudvipa in awe of him and his renown spread to the neighboring countries. He had one thousand sons, all of whom possessed the qualities of wisdom and bravery as well as magnanimity and resoluteness. He also had one thousand daughters who were beautiful in features and had refined manners.
There was then a rsi (sage) who lived by the banks of the Ganges. He concentrated his mind in meditation for several myriads of years and his form became like that of a dried-up tree. Some migratory birds alighted upon him and dropped a fruit of the nyagrodha (banyan) free on his shoulder. With the passage of many hot and cold seasons the fruit grew into a big free with branches growing downward to form a vault. After many years the rsi rose from his meditation and wished to shake off the tree but he feared that he might overturn the nests of the birds. The people appreciated his virtue and called him the Rsi of the Big Tree.
Về sau, tiên nhân trong lúc dạo chơi rừng rậm, ghé mắt xem qua chỗ bến sông, tình cờ nhìn thấy các nàng công chúa con vua Phạm Thụ đang nô đùa cùng nhau, tâm ái nhiễm cõi Dục liền khởi lên, sinh tâm nhiễm trước, do vậy mới vào thành Hoa Cung, muốn biện lễ cầu hôn.
One day, as the rsi was enjoying the view of the riverside, he made a pleasure trip into the dense wood, where he saw the king’s daughters playing and frolicking merrily. His sexual passion was aroused and his mind became stained. So he went to Kusumapura to ask to marry one of the king’s daughters.
Vua nghe tiên nhân đến, liền nghênh tiếp thưa hỏi: “Đại tiên là bậc đã dứt tình với ngoại cảnh, sao nay lại hạ mình đến đây?”
On hearing of the ryz’s arrival, the king received him in person and greeted him, saying, “As Your Reverence lives outside the scope of the human world,
894a why do you condescend to pay me a visit?”
Tiên nhân đáp: “Ta sống trong rừng sâu hoang vắng đã lâu năm, lúc xuất định dạo chơi thì tình cờ nhìn thấy các công chúa con vua, trong tâm sinh nhiễm ái nên từ xa đến đây xin cầu hôn.”
The rsi said, “I have lived in the woods and near the lakes for many long years. When I came out of meditation I made a pleasure trip and saw your daughters, and a mind of contamination has arisen in me. I have come from afar to propose marriage.”
Vua nghe như vậy rồi không biết phải làm sao, lền nói với tiên nhân: “Vậy xin ngài hãy quay về, đợi ta chọn ngày lành tháng tốt cho việc này.”
On hearing these words the king did not know what to do and said to the rsi, “Return to your place and wait for an auspicious time.”
Tiên nhân nghe lời vua liền quay trở về rừng. Sau đó vua mới hỏi ý từng người con gái, nhưng không người nào ưng thuận cuộc hôn nhân này. Vua sợ uy lực của tiên nhân nên mà lo lắng sầu khổ, hình dung tiều tụy. Cô công chúa nhỏ nhất liền đợi lúc vua rãnh việc đến thưa rằng: “Phụ vương có ngàn người con trai, muôn nước chư hầu đều ngưỡng mộ quy phục, sao còn có việc gì phải ưu sầu lo sợ đến như thế?”
Hearing the king’s order, the rsi went back to the woods.
The king then consulted with his daughters about the matter but none of them would consent to accept the offer. Fearing the rsi’s divine power, he became heavy-hearted and weighed down with worry. One day when the king was at leisure, his youngest daughter calmly asked him, “Father, you have a thousand sons and you are admired by all countries. Why do you look so worried as if you have fear in your mind?”
Vua nói: “Tiên nhân Đại Thụ muốn cầu hôn nhưng các chị con không ai ưng thuận. Tiên nhân ấy có uy lực rất lớn, có thể ban phúc giáng họa. Nếu như không được thỏa lòng ắt sẽ giận dữ khiến cho đất này bị diệt vong, vương tộc tuyệt diệt, làm ô nhục cả đến các đời tiên vương. Ta nghĩ đến mối họa này nên mới lo sợ.
The king said, “The Rsi of the Big Tree has come to propose marriage but none of your sisters consented to be married to him. The rsi has divine power and could cause either disaster or bliss. If I cannot fulfill his desire he will certainly become angry with me and destroy our country and terminate our ancestral line, causing insult to our forefathers. This is why I am deeply worried; this is really my fear.”
Công chúa út thưa rằng: “Tạo ra mối lo này là lỗi của chúng con. Con nguyện đem thân nhỏ bé này để giữ cho vận nước được trường tồn.”
The king’s youngest daughter said apologetically, “It is our sin to have caused you such deep worry. I wish to offer my humble self to lengthen the transmission of the royal line.”
Vua nghe như thế rất mừng, liền ra lệnh chuẩn bị xa giá đưa dâu. Khi đến chỗ ở của tiên nhân liền thưa rằng: “Đại tiên tình thương phủ khắp muôn nơi, rủ lòng nghĩ đến thế gian, nay xin được dâng đứa con gái nhỏ để theo hầu nâng khăn sửa túi.”
The king was delighted to hear this and ordered a carriage to take his youngest daughter to her [new] home.
Upon arriving at the rsi’s hermitage the king apologized to him, saying, “Great Rsi, you comply with supramundane sentiments and you also stoop to care for worldly affection. I venture to offer my youngest daughter to be at your service.”
Tiên nhân nhìn thấy không vui, bảo vua rằng: “Nhà vua khinh lão già này nên gả cho đứa con chẳng xinh đẹp.”
The rsi, displeased at the sight of the girl, said to the king, “You must despise me as an old man to give me such an ill-looking girl in marriage.”
Vua nói: “Tôi đã hỏi qua tất cả những đứa khác, chẳng đứa nào chịu nghe lời, chỉ có đứa nhỏ nhất này nguyện theo hầu ngài.”
The king said, “I have asked all my other daughters but none of them would obey my order. Only this youngest one consented to serve you.”
Tiên nhân nổi giận, liền phát lời nguyền rằng: “Hỡi chín mươi chín người con gái kia, các người sẽ tức thời bị gù lưng. Với hình thể xấu xí, suốt đời các người không thể lấy chồng.”
The rsi was enraged and called down evil on the king’s other daughters, saying, “Let all ninety-nine (sic) girls immediately become hunchbacked! With their disfigured shapes let them remain unmarried their whole lives long!”
Vua sai người đi xem thì quả nhiên tất cả các công chúa đều đã bị gù lưng. Từ đó về sau, người ta gọi nơi đây là thành Khúc Nữ, nghĩa là thành có những cô gái lưng gù.
The king’s messenger went back to check the efficacy of the curse and found that the girls had actually become hunchbacked. Thereafter the place was called the City of Hunchbacked Maidens.
Đức vua hiện nay vốn thuộc giai cấp phệ-xá, hiệu là Hạt-lợi-sa-phạt-đàn-na. Vương tộc này đã cai trị đất nước qua hai thế hệ, ba đời vua.
The present king, named Harsavardhana (known as Xizeng, “Increment of Happiness”), is a descendant of the vaisya caste. His family had three kings that ruled over the country for two generations.
Đức vua cha là Ba-la-yết-la-phạt-đà-la, truyền ngôi cho người con lớn là Yết-la-phạt-đà-la, tên Hán dịch là Vương Tăng. Vua Vương Tăng vì là con lớn nên được nối ngôi, từ đó lấy đức độ trị dân.
His father was named Prabhakaravardhana (known as Guangzeng, “Increment of Light”) and his elder brother was Rajyavardhana (known as Wangzeng, “Increment of the Kingdom”). As Rajyavardhana was the senior prince he succeeded to the throne and administered state affairs in a virtuous manner.
Lúc bấy giờ, miền Đông Ấn có vua nước Yết-la-noa-tô-phạt-lạt-na là Thiết-thưởng-ca, thường nói với triều thần rằng: “Nước láng giềng có vua hiền đức, đó là họa của nước ta.” Liền giả vờ mời sang thăm rồi hại chết đi.
At that time, King Sasarika (known as Yue, “Moon,” in Chinese) of the country of Karnasuvarna (known as Jiner, “Golden Ear,” in Chinese) in East India often said to his ministers, “A sagacious king in a neighboring country might be the cause of disaster to our own country.” So he lured Rajyavardhana to his country and murdered him.
Người trong nước bị mất vua, thảy đều hoảng loạn. Bấy giờ có vị đại thần là Bà-ni, chức vị cao, oai đức lớn, nói với các quan đồng triều rằng: “Việc lớn của quốc gia phải quyết định trong ngày hôm nay. Hoàng đệ hiện nay cũng là con của tiên vương, bẩm tính nhân từ, giàu lòng hiếu kính, biết trọng người hiền tài, gần gũi kẻ dưới, ý tôi muốn đưa lên nối ngôi, không biết các vị nghĩ thế nào? Xin mỗi người hãy nói ra ý kiến của mình.”
Since the people lost their lord the country of [Kanyakub ja] fell into a chaos.
At that time, the minister Bhandi, a man of high position and good repute, said to his colleagues, “Today we should make a decision about a matter of fundamental importance for the nation. The son of the former king and younger brother of the late monarch is a kind and benevolent man who has filial piety toward his parents and an affectionate mind; he respects the sages and treats his subordinates with equality. I wish to propose him for the throne. What do you think of this? Please state your views.”
Các quan đều ngưỡng mộ đức hạnh của Hỷ Tăng nên không ai có ý gì khác. Liền sau đó, các vị đại thần phụ chính cùng đến thưa với vương tử Hỷ Tăng: “Thưa vương tử, tiên vương ta tích công bồi đức, làm rạng rỡ đất nước. Truyền ngôi lại cho vua Vương Tăng, lẽ ra phải sống trọn tuổi trời ở ngôi vua, nhưng do chúng thần bất tài, để vua phải chết dưới tay kẻ thù, thành mối nhục lớn cho đất nước, đó là tội của chúng thần. Nay người dân bàn tán với nhau, lan truyền những bài đồng dao bày tỏ sự mến chuộng, quy phục đức sáng của vương tử, thảy đều mong ngài nối ngôi trị vì, trả thù cho anh, rửa nhục cho nước, tiếp tục làm rạng rỡ công nghiệp của tiên vương. Nếu được vậy thật không còn gì hơn nữa. Mong vương tử đừng từ chối.”
The ministers all admired
894b the virtue of the late king’s younger brother and had no objection to him. Thus the assistant ministers and other officials exhorted him to be king, saying, “May the prince listen to us. By accumulating merits and cultivating virtues the former king possessed the throne and ruled over the country extensively. When the throne was handed down to Rajyavardhana he should have lived to an old age, but due to the incapability of his assistant ministers he was killed by his enemy. This is a great shame to our country and it is also the fault of the humble ministers. Current public opinion and folk rhymes say that you, a sagacious prince, should succeed to the throne in order to avenge your deceased brother and wipe out the national humiliation, as well as glorify the deeds of your father. This is really a great exploit, so we hope you will not decline the offer.”
Vương tử nói: “Từ xưa đến nay, nối ngôi trị nước là việc quan trọng khó làm. Ngôi vua ở trên muôn dân nên trước khi đưa lên cần phải xét kỹ. Ta là người kém đức nên cha và anh đều sớm đi xa, nay suy tôn lên ngôi vị tối cao, liệu có chu toàn được chăng? Cho dù lòng dân có muốn ta kế vị, ta cũng đâu dám quên đi sự kém cỏi của mình. Nay ở ven bờ sông Hằng có tượng Bồ Tát Quán Tự Tại, đã từng có nhiều sự linh hiển, ta sẽ đến đó thỉnh ý ngài.”
The prince said, “From ancient times up to the present it has always been an important affair for one to succeed to the throne, so we should be prudent in establishing a man in the position of a monarch. I am indeed poor in virtue and both my father and my elder brother have departed. Although you recommend me to succeed to the throne, do you think I am a competent candidate for the position? Despite public opinion I dare not forget my own unsubstantiality and shallowness. Now, on the bank of the Ganges River there is an image of Avalokitesvara Bodhisattva that has shown many spiritual manifestations. I wish to go there to consult the oracle of the bodhisattva.”
Vương tử nói rồi liền đến trước tượng Bồ Tát, phát nguyện nhịn ăn, thành tâm cầu thỉnh. Bồ Tát cảm sự thành tâm nên hiện hình, hỏi vương tử: “Con muốn thỉnh cầu việc gì mà thành khẩn đến thế?”
So he went to the image of the bodhisattva and prayed before it after having observed the appropriate fast. Mmoved by his sincerity, the bodhisattva revealed his true features and inquired of him, “For what do you seek with such sincerity and earnestness?”
Vương tử thưa rằng: “Con phải chịu nhiều tai họa chồng chất, cha hiền đã sớm qua đời, chưa hết đau thương thì lại thêm anh con bị người hại chết. Con tự biết mình kém đức, nhưng nay nhân dân trong nước suy tôn, muốn con kế nghiệp trị vì để làm rạng rỡ cơ nghiệp tiên vương. Con ngu muội không biết phải làm sao, dám mong được Bồ Tát chỉ dạy.”
The prince said, “My accumulated ill fortune caused the death of my father and the murder of my elder brother was a heavy punishment inflicted upon me. I am aware of my own lack of virtue but the people wish to elect me to succeed to the throne to glorify the deeds of my departed father. Being ignorant of what to do, I hope to hear your holy mandate.”
Bồ Tát liền nói: “Tiền thân của con trước đây là một tỳ-kheo ẩn tu trong khu rừng kia, thường tinh tấn không giải đãi. Nhờ phước đó mà nay sinh làm vương tử. Vua nước Kim Nhĩ đã hủy hoại Phật pháp, con hãy lên ngôi vua để làm cho Phật pháp hưng thịnh trở lại, lấy từ bi làm tôn chỉ, thương xót muôn dân, chẳng bao lâu nữa con sẽ cai trị khắp năm vùng Ấn Độ. Nếu muốn cho vận nước lâu dài, phải nghe theo lời răn dạy của ta, ắt có sự gia hộ của thần minh, được phúc đức lớn, lân bang không có kẻ địch mạnh hơn. Đừng lên ngồi tòa sư tử, cũng đừng xưng hiệu đại vương.”
The bodhisattva told him, “In your previous life you were a forest-dwelling bhiksu in this wood and practiced the Way diligently. By the power of this meritorious action you are now a prince in this life. Since the king of the country of Karnasuvarna destroyed the buddha-dharma you should ascend the throne to work for its revival. With a mind of great compassion and sympathy for the people you will soon become king of all the five parts of India. If you wish to prolong the sovereignty of your country you should follow my advice, and then you will be blessed by the gods and have no powerful enemy in neighboring countries. You should not ascend the lion seat nor should you assume the title of king.”
Vương tử Hỷ Tăng nghe lời dạy của Bồ Tát rồi lui về. Sau đó liền lên ngôi vua nhưng chỉ xưng là Vương tử, lấy hiệu là Thi-la-a-điệt-đa, tuyên cáo với các quan triều thần rằng: “Ngày nào mối thù anh ta chưa trả, các nước quanh ta còn chưa thần phục, ta quyết không ăn cơm bằng tay phải. Hết thảy quan dân trong nước, xin hãy một lòng cùng ta gắng sức.”
With this instruction the prince left the image and ascended the throne with the appellation of prince and the name Siladitya (known as Jieri, “Sun of Morality”).
Prince Siladitya said to his ministers, “For as long as my elder brother is not avenged and neighboring countries have not pledged allegiance to me, I will not take food with my right hand. I hope you court officials will work together with one heart.”
Sau đó liền huy động toàn bộ quân đội trong nước, gấp rút rèn luyện binh sĩ. Tất cả gồm có 5.000 thớt voi trận, 20 ngàn ngựa chiến, 50 ngàn bộ binh, từ tây sang đông bất ngờ xua quân chinh phạt, voi không gỡ bành, người không cởi giáp, ròng rã trong sáu năm thì chinh phục hết năm vùng Ấn Độ.
Then he took command of all his troops in the whole country and trained the fighters, who consisted of five thousand elephant-mounted soldiers, twenty thousand cavalrymen, and fifty thousand infantrymen. He marched from west to east to attack those who refused to acknowledge allegiance to him. With his elephants unreleased and his men fully armed, for six years he subjugated all the five parts of India.
Đất đai đã mở rộng nên quân đội cũng được tăng cường, lên đến 60 ngàn con voi trận, 10 ngàn con ngựa chiến. Biên thùy yên ổn suốt 30 năm không có chiến tranh.
He not only expanded his territory but also enlarged his military forces, having increased his elephant corps to sixty thousand men and his cavalrymen to one hundred thousand strong.
For thirty years no weapon was raised for fighting
Vua đưa ra chính sách cai trị, giáo hóa ôn hòa, bình ổn, chú trọng sự tiết kiệm không lãng phí, thường vun bồi phước đức, gieo trồng thiện căn, quên ăn bỏ ngủ. Vua lệnh cho cả năm vùng Ấn Độ không được ăn thịt. Người nào phạm tội giết hại vật mạng đều bị xử tội chết không tha. Vua lại cho xây dựng ven bờ sông Hằng mấy ngàn ngọn tháp, mỗi tháp đều cao hơn 33 mét. Khắp các thành ấp, làng mạc trong năm vùng Ấn Độ, ở những nơi giao lộ của đường lớn, ngõ hẹp đều cho xây dựng các nhà từ thiện, tích trữ đồ ăn thức uống cũng như thuốc men để bố thí cho những kẻ nghèo khổ, không để thiếu thốn.
and the prince administered the country in peace and practiced frugality. He sought blessedness and performed good deeds so sedulously that he forgot about eating and sleeping. He ordered that within the five parts of India no was allowed to eat meat and if anyone killed any living creature the culprit would be executed without pardon. Alongside the Ganges River he built several thousand stupas, 894c each over one hundred feet high. Temples were constructed in towns and villages and at thoroughfares and crossroads in the five parts of India, where food and drink were stored and medicines laid in to be distributed as alms to wayfarers and the poor, without negligence.
Những nơi thánh tích vua đều cho xây dựng chùa viện. Cứ 5 năm lại tổ chức một lần Vô già đại hội, vét hết tài vật trong kho đưa ra bố thí hết cho mọi người, duy chỉ giữ lại binh khí. Mỗi năm một lần cung thỉnh sa-môn khắp các nước cùng hội họp để cúng dường bốn nhu cầu thiết yếu trong 21 ngày, trang nghiêm pháp tòa, rộng bàn nghĩa lý, để cho chư tăng tranh luận biện bác với nhau, làm rõ chỗ đúng sai, hơn kém, khen điều hay, chê điều dở, phá trừ chỗ tối, xưng dương chỗ sáng. Đối với những bậc giới hạnh thanh khiết, đạo đức thuần tịnh, học thức thâm sâu thì suy tôn, thỉnh lên tòa sư tử, đích thân vua đến cầu học pháp. Đối với những vị tuy giới hạnh thanh tịnh nhưng học pháp kém cỏi thì chỉ thêm phần kính lễ, bày tỏ sự tôn trọng. Còn với những kẻ không giữ giới luật, việc xấu đã rõ ràng thì trục xuất hẳn ra khỏi nước, không muốn gặp lại.
Monasteries were constructed at sacred sites and once every five years a great congregation was convened, in which everything in the royal treasury, except weaponry, was given away as alms. Every year sramanas of different countries were invited to attend a meeting for twenty-one days, during which time they were provided with the four monastic requisites, and seats were prepared on well-decorated mats so that they might carry out debates and arguments about the teachings of Buddhism, to see who was superior and who inferior in learning. The good ones were praised and the bad ones censured, while the ignorant were dismissed and the brilliant ones promoted. Those who strictly observed the disciplinary rules and were pure in morality were selected to ascend the lion seat and the king received the Dharma from them in person. Those who were pure in observing the disciplinary rules but lacked learning were merely saluted to show respect to them. Those who violated the disciplinary rules and whose immorality was obvious were banished from the country, never to be seen or heard of again.
Đối với những vua nhỏ của các nước lân bang cũng như các đại thần phụ tá, nếu là người siêng tạo phước đức, cầu điều thiện không mệt mỏi thì vua cùng nắm tay mời ngồi ngang hàng, xem đó là bạn lành. Bằng như ngược lại thì gặp mặt không nói chuyện, có việc cần bàn thì chỉ cho sứ giả qua lại. Vua đi khắp nơi tìm hiểu dân tình, không thường ở trong cung nội. Mỗi khi đi đến đâu thì cho dựng lều tranh tại đó làm chỗ ngụ. Riêng trong ba tháng mùa mưa, trời mưa nhiều nên không đi lại. Khi ngụ nơi hành cung, mỗi ngày vua đều cho chuẩn bị những món ngon vật lạ để thết đãi những người thuộc các tôn giáo khác. Vua thường thỉnh 1.000 vị tăng chúng và 500 vị bà-la-môn.
If the lords and their assistant ministers of the small neighboring countries performed meritorious deeds tirelessly and sought goodness without weariness, the king would take them by the hand to sit together with him and call them “good friends.” He never spoke to those kings who were different in character, and if a negotiation was required to settle a matter an envoy was sent to deal with it. Whenever he went on an inspection tour he would not stay at any one place but would have a hut made for his lodging wherever he stopped on the way. During the three months of the rainy season he would not travel about because of the rain. At his temporary residence he always had delicious food prepared every day to feed one thousand monks of different schools and five hundred brahmans.
Mỗi ngày, vua phân chia thời gian ra ba phần, một phần để lo việc chính sự, trị nước, hai phần còn lại dành cho việc làm phước tu thiện, siêng năng không mệt mỏi, gắng sức suốt ngày không cho là đủ.
He always divided a day into three periods: one was spent attending to state affairs and two were devoted to performing meritorious deeds and doing good work. He lived assiduously and the day was too short for him.
Ban đầu, [Huyền Trang] nhận lời mời của vua Câu-ma-la (Kumara) nên từ nước Ma-yết-đà (Magadha) đi sang nước Ca-ma-lâu-ba (Kāmarūpa). Lúc bấy giờ, vua Giới Nhật đang tuần du ở tại nước Yết-chu-ốt-kỳ-la (Kajunghira), lệnh cho vua Câu-ma-la rằng: “Hãy nhanh chóng đưa vị sa-môn vừa từ xa đến ở chùa Na-lạn-đà đến đây gặp ta.”
At first I was invited by King Kumara to proceed from the country of Magadha to the country of Kamarupa. At that time King Siladitya was making an inspection tour in the country of Kajunghira, and he sent an order to King Kumara, saying, “It befits you to come promptly with the sramana, a guest from a distant land, to Nalanda, to attend an assembly.”
Huyền Trang liền cùng vua Câu-ma-la đến hội kiến. Vua Giới Nhật an ủi chuyện khó nhọc đường xa rồi hỏi: “Đại sư từ nước nào đến đây, mong cầu điều gì?”
Thus I went together with King Kumara to meet him. After exchanging greetings, King Siladitya inquired of me, “Which country do you come from? What is the purpose of your journey?”
Huyền Trang đáp: “Bần tăng từ Đại Đường đến đây để cầu pháp Phật.”
I said in reply, “I come from the country of Great Tang to seek the buddha-dharma.”
Vua hỏi: “Nước Đại Đường ở đâu? Đi qua đường nào đến đây? Khoảng cách gần hay xa?”
The king said, “Where is the country of Great Tang located, by what route did you travel, and how far is it from here?”
Huyền Trang đáp: “Từ đây đi về hướng đông bắc hơn mấy mươi ngàn dặm thì đến Đại Đường, người Ấn Độ gọi là nước Ma-ha-chí-na.”
I replied, “It is situated to the northeast at a distance of several myriads of li, and it is the country known in India as MahacTna.”
Vua nói: “Ta có nghe về nước Ma-ha-chí-na có thiên tử Tần Vương, từ thuở nhỏ đã thông minh học rộng, lớn lên uy vũ như thần. [Nghe nói rằng] triều đại trước đó loạn lạc, lãnh thổ phân chia, binh lửa khắp nơi, muôn dân đồ thán, chết chóc tràn lan. Thiên tử Tần Vương sớm nuôi chí lớn, khởi tâm đại từ bi cứu vớt muôn dân, bình định khắp nước, giáo hóa đến tận phương xa, ân đức thấm nhuần khắp chốn. Những nước xa xôi biên địa đều ngưỡng mộ thần phục. Dân chúng cảm đức nhà vua vẫn thường ca ngợi, gửi tâm tình qua khúc nhạc ‘Tần vương phá trận’. Ta từ lâu đã được nghe những lời xưng tụng này. Vậy phẩm hạnh và đức độ của vua ấy có thật đúng như người ta xưng tán chăng? Nước Đại Đường kia có đúng như lời ta đã nghe chăng?”
The king remarked, “I have heard that in the country of Mahacma the Prince of Qin has been an intelligent man since his youth, and that now that he has grown up he is a man of unusual bravery. The generation before his was a time of chaos and the country disintegrated. Wars were waged one after another, causing the people to suffer bitterly. But the Prince of Qin, who was far-sighted from an early age, cherished the mind of great compassion to save living beings and he restored order in his country. His moral influence spread widely and his beneficence extended far. People of different localities and regions admire him and serve him as his subjects. Out of gratitude for his edification and maintenance, all the common people chant the Music of Prince Qin s Victory in praise of him. It has been a long time since we heard this elegant eulogy bestowed on him. Is the good repute heaped on him for his great virtue true to the facts? Is such the actual condition of the country of Great Tang?”
Huyền Trang đáp rằng: “Quả thật đúng vậy. Chí-na là quốc hiệu từ đời vua trước. Đại Đường là quốc hiệu của vua hiện nay. Khi chưa lên ngôi gọi là Tần vương. Nay đã nối ngôi trời, gọi là Thiên tử. Triều đại trước vận hạn đã dứt, muôn dân không người chủ quản, chiến tranh loạn lạc khắp nơi, dân lành bị tàn hại. Tần vương tài đức rộng, ôm chí lớn, sẵn lòng từ mẫn, uy phong chấn động khắp nơi, diệt sạch những kẻ hung tàn, khiến cho tám phương đều được bình lặng, muôn nước về triều cống. Nhà vua thương yêu dân lành, tôn kính Tam bảo, giảm thuế khóa, bớt hình phạt mà quốc khố chi dụng có thừa, người dân không phạm tội. Sự giáo hóa lớn lao và ảnh hưởng tốt đẹp của vua nhà Đường thật khó nói hết được.”
I said in reply, “Yes. Cma is the name of the country [now and] during the reign of the former king, while Great Tang is the national title of the reigning sovereign. Before his accession to the throne he was called the Prince of Qin, and after ascending the throne he is now entitled the Son of Heaven. When the fortune of the previous monarch came to an end the people lost their lord and the country fell into a chaos caused by war and cruel harm and injuries were inflicted on the people. The Prince of Qin, endowed with innate ambition, had the mind of compassion and by exerting the influence of his prestige he annihilated all his enemies. Peace prevailed over all the eight quarters and various countries presented tributes. He loves and tends creatures of the four kinds of birth and respects the Triple Gem with veneration. He has reduced taxation and mitigated penalties yet he has surplus funds in the state treasury, and no one attempts to violate the law. Concerning his moral influence and his profound edification of the people, it is difficult for me to narrate all of this in detail.”
Vua Giới Nhật khen rằng: “Lành thay! Người dân nước ấy thật có phước lành mới chiêu cảm được vị Thánh vương như vậy.”
King Siladitya remarked, “How grand it is! The people of that land have performed good deeds that caused them to have a saintly lord.”
Khi ấy, vua Giới Nhật sắp lên đường trở về thành Khúc Nữ để tổ chức pháp hội, đi theo vua có đến mấy vạn người, cùng đến bờ phía nam sông Căng-già. Vua Câu-ma-la cũng có mấy vạn người đi theo, đến nơi bờ phía bắc. Người của hai vua lấy dòng chảy giữa sông làm ranh giới phân chia, rồi hai bên cùng đi theo cả đường bộ và đường thủy. Hai vua đi trước dẫn đầu, bốn binh chủng nghiêm trang oai vệ theo sau, hoặc đi thuyền dưới nước, hoặc cưỡi voi trên bộ, đánh trống lớn, thổi tù và, lại có nhạc công đánh đàn thổi sáo.
When King Siladitya was about to return to the city of Kanyakubja to convoke a religious assembly, hundreds of thousands of his followers gathered on the southern bank of the Ganges, while King Kumara, followed by a multitude of tens of thousands of people, was on the northern bank of the river.
Divided by the stream, the two retinue groups proceeded by land and water simultaneously, with the two kings leading their four divisions of troops, who sailed in boats and rode elephants, beating drums and blowing conches, plucking strings and playing pipes.
Đi khoảng 90 ngày thì đến thành Khúc Nữ, dừng lại trong rừng Đại Hoa ở phía tây sông Căng-già. Lúc bấy giờ có hơn 20 vị vua của các nước, trước đó đã vâng lệnh vua Giới Nhật cung thỉnh các vị sa-môn tài đức trong nước mình cùng với các vị bà-la-môn, quan quân tướng sĩ, đều kéo đến tham dự đại hội.
After traveling for ninety days they reached the city of Kanyakubja. In a great flowery wood to the west of the Ganges more than twenty kings of various countries, who had been informed beforehand, came with intelligent sramanas and brahmans as well as officials and soldiers of their respective countries to attend the great assembly.
Trước đó vua Giới Nhật đã cho xây dựng một ngôi chùa lớn ở phía tây sông Căng-già. Về phía đông của chùa lại có xây một đài báu cao hơn 33 mét, trong có tượng Phật bằng vàng kích thước lớn bằng thân hình nhà vua. Phía nam đài này lại dựng một đàn báu làm chỗ để tắm tượng Phật. Từ đó đi về hướng đông bắc chừng 14, 15 dặm có đặc biệt xây lên một hành cung.
King [Siladitya] had previously constructed a large monastery on the west bank of the river, with a precious terrace erected at the east to the height of over one hundred feet, on which was placed a golden image of the Buddha of the same size as the king. At the south of the terrace was erected a precious altar, which was the place for bathing the Buddha’s image. At a distance of fourteen or fifteen li to the northeast from here a temporary palace was built.
Lúc ấy vào tháng hai, mùa xuân. Từ ngày mồng một bắt đầu dùng những món ngon vật lạ dâng lên các vị sa-môn, bà-la-môn, cho đến ngày 21. Từ chỗ hành cung đến trong phạm vi chùa, hai bên đường đều dựng lầu gác, có đủ loại trang sức, các nhạc công đứng yên bên đường thay phiên tấu lên những nhạc khúc khác nhau.
It was in the second month of spring, and from the first day up to the twenty -
895b first of the month the sramanas and brahmans were feted with delicious food.
From the temporary palace up to the monastery pavilions adorned with countless jewels were erected along the road on both sides, and musicians standing motionless performed elegant music uninterruptedly.
Đức vua từ trong hành cung thỉnh xuất một tượng Phật vàng cao hơn 1 mét, lúc ẩn lúc hiện trên lưng một con voi lớn, có che quanh một bức màn báu. Vua Giới Nhật trang phục như Đế Thích, cầm lọng báu theo hầu bên trái [tượng Phật]. Vua Câu-ma-la với dung nghi mô phỏng như Phạm vương, cầm phất trần màu trắng theo hầu bên phải. Mỗi vua đều có năm trăm quân cưỡi voi mặc giáp đi theo hộ vệ. Trước sau tượng Phật đều có các nhạc công cưỡi trên một trăm con voi lớn, đánh trống và tấu nhạc.
From the temporary palace the king, with a concentrated mind, took out a dimly visible golden image that was more than three feet tall. It was carried on a big elephant screened by a precious curtain. King Siladitya, dressed as Indra, held a precious canopy and attended on the left side, while King Kumara, dressed as Brahma, carried a white fly-whisk and attended on the right side. On each side there were five hundred elephant-mounted soldiers, clad in armor and guarding the buddha image before and behind, and on each side were one hundred elephants that carried musicians to perform music.
Vua Giới Nhật dùng các loại hoa bằng ngọc trai, vật báu và vàng, bạc, cứ mỗi bước đi lại tung rải ra bốn hướng để cúng dường Tam bảo.
As he walked King Siladitya scattered pearls and miscellaneous jewels, as well as pieces of gold and silver and flowers as offerings to the Triple Gem.
Trước tiên cùng đến chỗ đàn báu, dùng nước thơm để tắm tượng Phật. Nhà vua đích thân cùng mọi người nâng tượng, đưa lên đài báu phía tây, rồi dùng các loại trân bảo với mấy trăm ngàn tấm y bằng lụa quý kiêu-xa-da dâng lên cúng dường. Lúc đó chỉ có hơn 20 vị sa-môn cùng hành lễ với vua, các vị tiểu vương đích thân làm thị vệ.
He first bathed the image with perfumed water on the precious altar. Then the king personally carried the image to the west terrace and offered hundreds and thousands of jewels and gems and pieces of kauseya cloth to it. At that time there were only about twenty sramanas participating in the function with the king, while the kings of other countries acted as attendant guards.
Sau khi dùng cơm xong, người của các tông phái khác nhau cùng tập trung để phân tích luận bàn những lời vi diệu [trong Giáo pháp], thẩm xét lẽ chân thật. Khi mặt trời sắp lặn, vua Giới Nhật quay trở lại hành cung.
After the meal was over the monks of different schools assembled to discuss the subtle theories and deliberate on the ultimate truth. When the sun was about to set the king returned to the temporary palace.
Cứ như thế, mỗi ngày vua đều thỉnh tượng Phật vàng đi với đầy đủ nghi lễ như ngày đầu, cho đến ngày cuối pháp hội. Ngày ấy nơi đài lớn tự nhiên phát hỏa, nơi cổng lầu của chùa cũng có khói lửa mịt mù. Vua nói: “Nay ta xả bỏ hết vật báu của quốc gia vì cầu phúc cho tiên vương, xây dựng chùa này để làm sáng tỏ công nghiệp thù thắng đời trước. Do ta kém đức không được thiện thần trợ giúp nên mới phát sinh tai họa dị thường. Nếu điềm bất tường này cho thấy đúng là [ta bạc phước] như thế thì còn sống để làm gì?”
In this manner the golden image was taken out every day in the same kind of procession as on the first day, until the convocation was dispersed.
Sudenly the great terrace caught fire and the monastery and its entrance arch were set ablaze. The king said, “I have spent all the valuables of the national treasury to construct this monastery in the name of my late father in order to glorify his superior deeds. Owing to my lack of virtue I could not evoke spiritual protection but caused this calamity. Unlucky man that I am, what use is it for me to live any longer?”
Vua nói như vậy rồi đốt hương lễ bái phát lời thệ nguyện rằng: “Trẫm may mắn nhờ phước nghiệp đời trước mà được làm vua toàn cõi Ấn Độ, nguyện cho phước lực của trẫm hóa giải được trận hỏa tai này. Nếu không cảm ứng được như vậy thì xin bỏ mạng nơi đây.” Phát nguyện như vậy rồi liền đứng lên nhảy thẳng vào nơi cổng chùa đang cháy. Ngay khi ấy, như thể có người dập lửa, chỉ trong chốc lát thì lửa tắt khói tan hết.
Then he burned incense to worship [the Buddha] and made a pledge, saying, “Due to my good deeds in the past I became a king ruling over all parts of India. May the power of my blessedness extinguish this disastrous conflagration. If no spiritual response arises I will give up my life right now.” While saying this, he jumped down and landed on the doorsill. The fire was immediately extinguished, just as if someone had put it out, and the smoke vanished.
Các vị tiểu vương nhìn thấy đều lấy làm lạ lùng, càng thêm kính sợ. Vua Giới Nhật không đổi sắc mặt, giọng nói vẫn điềm nhiên như cũ, hỏi các vua khác: “Nếu trận hỏa tai này thiêu rụi tất cả thành tro bụi, trong lòng các vị sẽ nghĩ sao?”
The various kings, witnessing this strange event, felt increased awe and respect for him. Without changing his countenance and speaking in his normal tone, King Siladitya inquired of the various kings, “What would you think if this disaster had actually consumed all that I had achieved?”
Các vua đều phủ phục lạy xuống, khóc mà nói rằng: “Thành tựu được thắng tích này là truyền lại đời sau. Nếu nhất thời bị lửa thiêu rụi thì còn lấy gì để tưởng nhớ? Huống chi đối với việc này, ngoại đạo còn khoái chí biết bao.”
The kings prostrated themselves on the ground, weeping piteously, and said, “We expected that this superior site achieved by you would be handed down to posterity. If it had been completely consumed nothing else would have been memorable. Only the heretics would have felt delighted and rejoiced over the disaster.”
Vua nói: “Cứ lấy việc này mà xét thì thấy lời dạy của Như Lai đúng thật. Học thuyết của ngoại đạo bám chấp vào quan điểm thường còn, chỉ có bậc Đạo Sư của chúng ta mới răn dạy về lẽ vô thường. Nay đàn tràng thí xả đã hoàn tất, tâm nguyện đã thỏa mãn, ví như có vì tai họa này mà hủy diệt hết thì lại càng giúp ta hiểu rõ hơn chân lý đúng thật mà Như Lai đã thuyết. Nên biết rằng đây là việc rất tốt lành, các vị không thể vì thế mà đau buồn.”
The king said, “In view of this accident, what the Tathagata has taught is true. The heretical and heterodox schools persist in the view of permanence but our great teacher alone inculcated the theory of impermanence. I have given in alms what I could afford, to my mind’s satisfaction. But all of this is transient and destructible and it proves the truth as taught by the Tathagata. [The accident] is a great beneficence and there is no reason to be deeply regretful about it.”
Sau đó vua Giới Nhật liền cùng các vua sang phía đông, leo lên ngọn tháp lớn để ngắm cảnh chung quanh. Lúc vừa bước xuống các bậc thang, bỗng có người lạ cầm dao xông tới đâm vua. Trong lúc cấp bách vua lùi ngược lên mấy bậc thang rồi bất thần chồm người tới nắm giữ được người ấy, liền giao cho các quan. Lúc ấy các quan đều bất ngờ hoảng hốt đến nỗi không kịp ứng cứu. Các vua đều xin hạ lệnh giết người ấy, nhưng vua Giới Nhật tuyệt nhiên không có vẻ gì giận dữ, ra lệnh đừng giết. Rồi vua đích thân tra hỏi: “Ta đã làm gì hại đến ngươi mà muốn ra tay bạo ác với ta như thế?”
He then followed the various kings and went up to the great stupa in the east to have a view of the scenery. When he was descending the steps after having viewed the environs, a stranger suddenly appeared and attempted to attack him with a knife. The king, cornered by the assailant, retreated to a higher step and, bending down backward he got ahold of the man and handed him over to his officials. At that time the officials were so alarmed with fright that they failed to come to the king’s rescue. The various kings demanded that the man be put to death but King Siladitya, without any resentment, ordered that he not be killed and personally interrogated him, asking, “What wrong did I do to you that you attempted to commit such a violent atrocity?”
Người ấy thưa rằng: “Đại vương ân đức trải đều không phân biệt, người dân trong nước cũng như ngoài nước đều được thấm nhuần. Chẳng qua tôi là kẻ cuồng si ngu dại không nghĩ được việc lớn, chỉ vì nghe lời xúi giục của ngoại đạo mà làm kẻ thích khách, mưu giết nhà vua.”
The man said in reply, “Your Majesty’s virtuous benevolence is impartial and all people, both in your country and abroad, are the recipients of your beneficence. I am a wild idiot who does not know what is of great importance. At the instigation in one word from the heretics I acted as an assassin and attempted to murder you.”
Vua lại hỏi: “Ngoại đạo vì sao lại khởi tâm ác độc như vậy?”
The king said, “Why did the heretics cherish such an evil intention?”
Đáp rằng: “Đại vương tập họp các nước, dốc của cải trong kho để cúng dường các vị sa-môn, đúc tượng Phật, nhưng những người ngoại đạo này được triệu tập từ xa đến đây lại không được hỏi han cung kính, trong lòng họ cảm thấy hổ thẹn nhục nhã nên mới xúi giục kẻ cuồng si ngu dại này táo bạo làm việc hung ác.”
In reply, the man said, “Your Majesty assembled [the sramanas of different countries, emptied the treasury for their maintenance, and cast images of the Buddha, while the heretics summoned from distant places were not properly cared for. Thus they felt humiliated and ordered me, a wild idiot, to commit this malicious act in a deceitful way.”
Vua nghe vậy liền cho tra hỏi những kẻ theo ngoại đạo, liền biết được là có 500 bà-la-môn, đều là những người tài giỏi, theo lệnh vua được triệu tập đến, vì ganh ghét các vị sa-môn được nhà vua kính lễ trọng hậu nên đã cho bắn tên lửa muốn thiêu rụi đài báu, định nhân lúc dập lửa mọi người sẽ rối loạn, có thể thừa dịp sát hại đức vua. Không ngờ họ chẳng hề có được cơ hội đó, nên quay sang xúi giục người này, chọn nơi hiểm yếu để hành thích vua.
Through further investigation into the heretical adherents it was found that five hundred brahmans and other people of high talent who were assembled under the king’s order felt envious of the hospitality and veneration enjoyed by the sramanas and they had shot a burning arrow to set fire to the precious terrace in the hope of murdering the great king amid the turmoil of people trying to put out the fire. As [the plot had not succeeded] they hired this man to carry out the assassination at a strategic point.
Lúc bấy giờ, các tiểu vương và các quan đại thần đều xin vua hạ lệnh tru diệt hết bọn ngoại đạo này, nhưng vua chỉ cho trừng trị những kẻ cầm đầu, còn người hùa theo đều không bắt tội. Theo đó liền trục xuất 500 bà-la-môn ra khỏi biên giới Ấn Độ. Xong việc, vua quay về kinh đô.
At that time the various kings and ministers proposed to put the heretics to death but the king punished only the chief criminals, while the rest of the party were pardoned and the five hundred brahmans were banished from the domain of India. Afterward the king returned to his capital city.
Phía tây bắc thành [Khúc Nữ] có một ngọn tháp, do vua Vô Ưu xây dựng để ghi dấu nơi ngày xưa đức Như Lai đã thuyết giảng các pháp vi diệu trong 7 ngày. Bên cạnh tháp vẫn còn dấu tích nơi bốn vị Phật quá khứ đã kinh hành, tọa thiền. Lại có một tháp nhỏ thờ tóc và móng tay của Như Lai.
The stupa at the northwest of the city was constructed by King Asoka at the site where the Tathagata had once spoken on various wonderfid doctrines for seven days. Beside it were places where the four past buddhas used to sit and walk up and down. There is also a small stupa containing hair and nail relics of the Tathagata.
Từ ngọn tháp nơi đức Phật thuyết pháp, nhìn về hướng nam, đến chỗ giáp sông Căng-già lại có ba ngôi chùa, cùng nằm trong một khuôn viên nhưng khác cửa ra vào. Nơi đây tượng Phật trang nghiêm đẹp đẽ, tăng chúng nghiêm cẩn hòa hợp. Cư sĩ làm công quả giúp chùa có hơn mấy ngàn gia đình. Trong chùa có xá-lợi răng Phật đựng trong hộp báu, dài hơn 5 cm, ánh sáng, màu sắc khác thường, sáng tối thay đổi. Hằng ngày có cả trăm ngàn người từ khắp nơi xa gần, cả quan lẫn dân, tìm đến lễ bái, chiêm nguỡng.
The stupa built at the place where the Tathagata preached the Dharma faces the Ganges River on the south. There are three monasteries built in one enclosure, with separate entrances. The images of the Buddha are magnificent and beautiful and the monks are quiet and austere. There are several thousand families of monastic servitors. In a precious casket in the temple there is a tooth relic of the Buddha, about one and a half inches long, with a special luster that changes color between morning and evening. Hundreds and thousands of people, both officials and commoners, come every day from far and near to see it and pay homage to it.
Kẻ giữ gìn nơi đây muốn dẹp bớt sự ồn ào huyên náo nên quyền biến đặt ra một khoản phí rất nặng. Ông báo cho mọi người xa gần đều biết rằng, muốn thấy được răng Phật thì phải nộp một đồng tiền vàng lớn. Thế nhưng người chiêm bái vẫn kéo đến hàng đoàn, vui vẻ tranh nhau nộp tiền. Vào những ngày trai, xá-lợi được đưa ra đặt trên tòa cao, có đến trăm ngàn người đốt hương rải hoa cúng dường. Tuy hoa rơi chồng chất rất nhiều nhưng không bao giờ che khuất hộp đựng răng Phật.
Its guardians, who did not like the din and hubbub caused by the crowd, started demanding a heavy entrance fee from the worshipers and announced far and near that those who wished to see the Buddha’s tooth relic would have to pay a large amount of money. Worshipers were displeased with these monks, thinking that they delighted in collecting money in the form of the entrance fee. On each fast day the relic was exposed on a high cushion and hundreds and thousands of people burned incense and scattered flowers. No matter how many flowers were piled up high [before it], the relic casket was never covered over.
Phía trước chùa, hai bên đều có tinh xá, xây cao hơn 33 mét, nền móng bằng đá, vách bằng gạch nung, bên trong đều có tượng Phật được trang nghiêm bằng các loại trân bảo, hoặc đúc bằng vàng bạc, hoặc bằng hợp kim đồng. Phía trước hai tinh xá này lại có hai ngôi chùa nhỏ.
At each side and in front of the monasteries there is a temple more than one hundred feet high built with brick on stone bases. The buddha images in them, cast either in gold and silver or brass, were adorned with various kinds of gems. In front of each of the two temples there is a small monastery.
Cách chùa không xa về hướng đông nam lại có một tinh xá lớn, nền đá vách gạch, cao gần 70 mét, bên trong có tượng đức Như Lai ở tư thế đứng, cao hơn 10 mét, đúc bằng hợp kim đồng, trang sức bằng các loại châu báu tuyệt đẹp. Trên bốn phía vách tường bằng đá của tinh xá có điêu khắc hình ảnh minh họa đầy đủ những sự việc lúc đức Như Lai còn tu hạnh Bồ Tát đã từng trải qua.
Not far to the southeast of the monasteries there is a large temple more than two hundred feet high built out of brick on stone bases, housing a standing stahie of the Buddha over thirty feet tall, which was cast in brass and adorned with various kinds of gems. On the stone walls of the temple there are carvings depicting in frill detail the acts of the Tathagata when he was practicing the way of a bodhisattva.
Từ tinh xá bằng đá này, không xa về hướng nam lại có một đền thờ thần mặt trời. Không xa về hướng nam của đền lại có đền thờ Đại Tự Tại Thiên, được xây dựng toàn bằng đá ngọc xanh, chạm trổ rất tinh vi, quy mô kích thước đồng như tinh xá nói trên. Mỗi nơi đều có một ngàn gia đình lo việc quét dọn, đàn trống ca nhạc suốt ngày đêm không ngớt.
Not far to the south of the stone temple is a temple of Surya (the sun god), and not far further to the south there is another temple dedicated to Mahesvara (Siva), both of which were built with bluestone and fully carved with sculptures. They are the same size as the Buddhist temple and each has one thousand families to serve as scavengers to keep the place clean. Music from drums and voices is performed day and night without cease.
Về hướng đông nam thành Khúc Nữ, cách khoảng 1.5-2 km, nằm về phía nam sông Căng-già có một ngọn tháp cao gần 70 mét, do vua Vô Ưu xây dựng. Chính tại nơi đây, ngày xưa đức Như Lai đã thuyết pháp trong 6 tháng về sự vô thường, khổ, không, bất tịnh của thân thể. Bên cạnh đó còn có di tích nơi kinh hành, tọa thiền của bốn vị Phật quá khứ. Lại có ngọn tháp nhỏ thờ tóc và móng tay của Như Lai. Những người có bệnh nếu thành tâm đi nhiễu quanh tháp này trọn vòng thì bệnh sẽ thuyên giảm, còn được thêm phước lợi.
At a distance of six or seven li to the southeast of the great city there is a stupa over two hundred feet high built by King Asoka at the site where the Tathagata once preached on the doctrine that the physical body is impermanent, sorrowful, empty, and impure. Beside it is a site where the four past buddhas used to sit and walk up and down. There is also a small stupa containing hair and nail relics of the Tathagata. Anyone who suffers from an illness can surely be cured and benefited if he or she circumambulates the stupa with a pious mind.
Từ thành Khúc Nữ đi về hướng đông nam khoảng 32 km thì đến thành Nạp-phược-đề-bà-củ-la (Navadevakula), nằm bên bờ phía đông của sông Căng-già, chu vi khoảng 6.5 km. Trong thành có hồ nước trong, cây cối hoa trái soi bóng ven bờ.
Going southeast from the great city for more than one hundred li, I reached the city of Navadevakula, which is situated on the eastern bank of the Ganges River and is over twenty li in circuit, with and pure ponds surrounded by flowery woods that are reflected in the water.
Phía tây bắc của thành này, trên bờ phía đông sông Căng-già, có một đền thờ Phạm thiên, xây thành nhiều tầng, kiến trúc rất tinh vi đẹp đẽ.
To the northwest of the city of Navadevakula at the east of the Ganges is a deva temple consisting of storied pavilions and multitiered terraces, which were exquisitely constructed.
Về hướng đông của thành, cách khoảng 1.6 km có ba ngôi chùa nằm trong cùng một khuôn viên nhưng khác cửa ra vào. Tăng chúng ở đây hơn 500 vị, thảy đều tu tập theo phái Thuyết nhất thiết hữu, thuộc Tiểu thừa.
Five li to the east of the city there are three monasteries built in one enclosure but with separate gates. There are over five hundred monks, all of whom study the teachings of the Hinayana Sarvastivada school.
Phía trước chùa, cách khoảng 330 mét, có một ngọn tháp, do vua Vô Ưu xây dựng. Nền tháp tuy đã nghiêng lún nhưng vẫn còn cao hơn 33 mét. Tại vị trí này, thuở xưa đức Như Lai đã từng thuyết pháp bảy ngày. Trong tháp có xá-lợi, thỉnh thoảng phóng tỏa hào quang. Bên cạnh đó vẫn còn dấu tích nơi kinh hành, tọa thiền của bốn vị Phật quá khứ.
More than two hundred paces in front of the monasteries there is a stupa built by King Asoka. Although the foundations have collapsed the structure is still more than one hundred feet high. It was built at the site where the Tathagata preached the Dharma for seven days. In the monasteries there is a piece of a sarira (relic) that emits a light from time to time. Beside them are places where the four past buddhas used to sit and walk up and down.
Về phía bắc chùa này, cách chừng 1-1.4 km, ven bờ sông Căng-già có một ngọn tháp cao gần 70 mét, do vua Vô Ưu xây dựng. Ngày xưa, đức Như Lai từng thuyết pháp tại đây trong bảy ngày, có 500 ngạ quỷ đến nghe Phật thuyết pháp tỉnh ngộ, bỏ thân ngạ quỷ được sanh về cõi trời.
Three or four li to the north of the monasteries and on the bank of the Ganges is a stupa more than two hundred feet high that was built by King Asoka at the site where the Tathagata preached the Dharma for seven days. Five hundred hungry ghosts then came to the Buddha and became awakened after hearing the Dharma; having been released from the realm of hungry ghosts they were reborn in the heavens.
Bên cạnh tháp này còn có dấu tích nơi bốn vị Phật quá khứ từng kinh hành và tọa thiền. Cạnh đó lại có tháp thờ tóc và móng tay của Như Lai.
Beside the stupa at the place where the Buddha preached the Dharma is
896b a site where the four past buddhas used to sit and walk up and down. Beside it is a stupa containing the Tathagata’s hair and nail relics.
Từ nơi đây đi về hướng đông nam gần 200 km, qua sông Căng-già rồi quay về hướng nam thì đến nước A-du-đà, thuộc miền Trung Ấn.
From here going to the southeast for over six hundred li, I crossed the Ganges to the south and reached the country of Ayodhya (in the domain of Central India).
Nước A-du-đà chu vi khoảng 1.630 km, chu vi kinh thành khoảng 6.5 km. Lúa thóc dồi dào, hoa quả tốt tươi, khí hậu ôn hòa dễ chịu. Phong tục nơi đây hiền lành nhu thuận, người dân thích làm việc phước thiện, chuyên cần học tập các tài nghề. Trong nước có hơn 100 ngôi chùa, tăng chúng hơn 3.000 vị, tu tập theo cả Đại thừa lẫn Tiểu thừa. Có 10 đền thờ Phạm thiên, người theo ngoại đạo rất ít. Giữa kinh thành có một ngôi chùa cổ, là nơi Bồ Tát Phạt-tô-bạn-độ đã sống trong mấy mươi năm, soạn ra các bộ luận Tiểu thừa cũng như Đại Thừa. Kế bên chùa này có một nền nhà cũ, chính là ngôi giảng đường thuở xưa Bồ Tát Thế Thân đã vì các vị quốc vương cùng sa-môn, bà-la-môn thông tuệ kiệt xuất từ bốn phương hội về mà giảng thuyết giáo pháp.
The country of Ayodhya is more than five thousand li in circuit and its capital city is over twenty li in circuit. This country abounds in cereal crops and has plenty of flowers and fruit. The climate is mild and the people are benign by custom. They have an inclination for performing meritorious deeds and are diligent in learning the arts and crafts. There are more than one hundred monasteries with over three thousand monks, who study both Mahayana and Hinayana doctrines. There are ten deva temples with a few heretics. In the great city there is an old monastery that was the place where Vasubandhu Bodhisattva (known as Shiqin in Chinese, and formerly called Poshubandu, wrongly translated as “Heavenly Kinsman”) spent several decades composing various treatises on both Mahayana and Hinayana doctrines. The old foundations beside it are the ruins of a hall in which Vasubandhu Bodhisattva expounded Buddhist theories and spoke on the Dharma for the kings of different countries, as well as for prominent sramanas and brahmans coming from the four quarters.
Phía bắc kinh thành, cách xa chừng 1.3-1.6 km, giáp bờ sông Căng-già có một ngôi chùa lớn, có một ngọn tháp cao gần 70 mét do vua Vô Ưu xây dựng. Đây là nơi đức Như Lai đã vì đại chúng trời, người mà thuyết giảng diệu pháp trong ba tháng. Bên cạnh tháp này còn có dấu tích nơi bốn vị Phật quá khứ kinh hành và tọa thiền.
Four or five li to the north of the city, in a great monastery on the bank of the Ganges is a stupa over two hundred feet high built by King Asoka, marking the place where the Tathagata spoke on the various wonderful doctrines to heavenly and human beings for three months. The stupa beside it marks a place where the four past buddhas used to sit and walk up and down.
Từ chùa này đi về hướng tây khoảng 1.3-1.6 km có tháp thờ tóc và móng tay của Như Lai. Phía bắc tháp này vẫn còn dấu tích một nền chùa cũ, là nơi luận sư Thất-lợi-la-đa của phái Kinh bộ đã soạn bộ luận Tỳ-bà-sa.
Four or five li to the west of the monastery is a stupa containing the Tathagata’s hair and nail relics. To the north of the stupa containing hair and nail relics are the ruins of a monastery in which the sastra master Salabdha (known as Shengshou, “Received in Victory,” in Chinese) of yore composed the Vibhasa-sastra of the Sautrantika school.
Phía tây nam kinh thành, cách khoảng 1.5-1.9 km có một ngôi chùa cổ nằm giữa rừng cây am-một-la, là nơi Bồ Tát A-tăng-già vừa thọ học giáo pháp [với bậc thánh] vừa giảng giải dẫn dắt người phàm phu. Bồ Tát Vô Trước mỗi đêm đều lên thiên cung thọ học các bộ luận Du-già Sư-địa, Trang Nghiêm Đại Thừa Kinh, Trung Biên Phân Biệt v.v... với Bồ Tát Từ Thị, rồi ban ngày lại vì đại chúng mà giảng giải những đạo lý nhiệm mầu [của các bộ luận] này.
In a great mango grove five or six li to the southwest of the city there is an old monastery where Asanga Bodhisattva (known as Wushuo, “No Attachment,” in Chinese) received instructions and guided the common people. At night he ascended to the place ofMaitreya Bodhisattva in [Tusita] Heaven to learn the YogacSrabhumi-sastra, the Mahayanasutralamkdra-sastra, the Madhyanta-vibhaga-sastra, [and other texts]; in the daytime he lectured on the marvelous principles to a large audience.
Cách khu rừng này hơn 160 mét về hướng tây bắc có tháp thờ tóc và móng tay của Như Lai. Kế bên tháp có một nền nhà cũ, chính là nơi Bồ Tát Thế Thân từ cõi trời Đổ-sử-đa xuống gặp Bồ Tát Vô Trước.
More than one hundred paces to the northwest of the mango grove is a stupa containing hair and nail relics of the Tathagata. The old foundations beside it mark the place where Vasubandhu Bodhisattva descended from Tusita Heaven to see Asanga Bodhisattva.
Bồ Tát Vô Trước là người nước Kiện-đà-la, ra đời sau khi Phật diệt độ 1.000 năm, gặp được Phật pháp liền tỏ ngộ, xuất gia tu học theo phái Di-sa-tắc (Mahīśāsaka) [thuộc Thượng tọa bộ của Tiểu thừa], không lâu sau quay sang tin tưởng Đại thừa. Ngài có người em là Bồ Tát Thế Thân, xuất gia tu học theo phái Thuyết nhất thiết hữu [thuộc Tiểu thừa], vốn là người học rộng nhớ lâu, nghiên cứu sâu rộng. Đệ tử ngài Vô Trước là Phật-đà-tăng-ha, có hạnh nguyện ẩn mật khó lường, những người học rộng tài cao đều nghe tiếng. Ba vị hiền triết này thường bảo nhau: “Sự nghiệp một đời của người tu hành đều là nguyện được gần đức Từ Thị. Trong ba chúng ta, nếu ai xả bỏ thân này trước và được thành tựu như nguyện ấy thì phải báo tin cho những người khác được biết nơi mình sinh về.”
Asanga Bodhisattva, a native of the country of Gandhara, was a man of virtue born one thousand years after the demise of the Buddha and realized the Way after receiving edification. He became a monk of the Mahisasaka school to learn its teachings, but soon afterward he turned his mind toward the Mahayana doctrines. His younger brother, Vasubandhu Bodhisattva, became a monk of the Sarvastivada school to receive an education. He was a man of wide learning with a retentive memory, and he possessed comprehensive knowledge and probed into its essence. Asanga’s disciple Buddhasimha (known as Shizijue, “Buddha Lion”) was a monk who observed the disciplinary rules immaculately and was well known for his high talents. These two or three sagely persons often said among themselves that since the purpose of their spiritual cultivation was to see Maitreya in person [in their next rebirth], whoever among them died first and fulfilled his long-cherished wish should come back to inform the others where he had been reborn.
Sau đó, ngài Sư Tử Giác qua đời trước, nhưng sau ba năm không thấy báo tin gì. Bồ Tát Thế Thân sau đó cũng qua đời, trải qua 6 tháng cũng không thấy báo tin. Bấy giờ, những người ngoại đạo đều chê cười chế giễu, cho rằng Bồ Tát Thế Thân và ngài Sư Tử Giác đều đã đọa vào đường ác nên lời giao ước xưa không ứng nghiệm.
Buddhasimha died first but he did not come back to report his whereabouts for three years. Later Vasubandhu passed away but he too did not report back after six months. The heretics sneered at them, deeming that Vasubandhu Bodhisattva and Buddhasimha had been reborn in an evil state and so they could not show any spiritual response.
Một đêm nọ, Bồ Tát Vô Trước đang giảng dạy phép định cho các đệ tử trong khoảng đầu hôm, bỗng nhiên ánh đèn như mờ tối hẳn đi vì trên không trung bừng sáng chói lọi, rồi có một vị thiên tiên từ trên không trung giáng hạ, đến trước bậc thềm kính lễ ngài Vô Trước.
Asanga Bodhisattva was instructing his disciples in the methods of practicing meditation one night when the lamplight suddenly faded out and a great brightness appeared in the sky. A heavenly being descended from the air and entered the courtyard to worship Asanga,
Ngài Vô Trước hỏi: “Sao ông đến muộn thế? Bây giờ tên ông là gì?”
who asked him, “Why do you come so late? What is your name now?”
Vị tiên đáp: “Từ khi tôi xả thọ mạng, liền vãng sinh về Nội viện cung trời Đổ-sử-đa, hóa sinh từ hoa sen. Hoa sen vừa nở ra, Bồ Tát Từ Thị khen rằng: ‘Lành thay, Quảng Tuệ! Lành thay, Quảng Tuệ!’ Tôi đi nhiễu [quanh ngài] vừa xong thì lập tức đến đây báo tin.”
[The heavenly being] said in reply, “After my death here I repaired to Tusita Heaven, where I was born from a lotus flower in the inner department of the heaven. When the lotus flower opened Maitreya said to me with praise, ‘Welcome, Guanghui (“Vast Wisdom”)! Welcome, Guanghui! ’ As soon as I had just finished circumambulating him once, I descended to report this to you.”
Bồ Tát Vô Trước hỏi: “Còn Sư Tử Giác bây giờ ở đâu?”
Asanga Bodhisattva asked, “Where is Buddhasimha now?”
Đáp: “Trong lúc tôi đi nhiễu thì nhìn thấy Sư Tử Giác đang ở ngoại viện, mê đắm những sự vui thú, còn không rảnh mắt để nhìn thấy tôi, làm sao có thể đến đây báo tin?”
The reply was, “When I was circumambulating [Maitreya] I saw Buddhasimha in the outer department indulging himself in sensual pleasures, and he was so busy that he had scarcely any time to look at me, nmuch less come down to report to you! ”
Bồ Tát Vô Trước nói: “Thôi bỏ qua việc ấy. Giờ nói cho tôi biết hình tướng Bồ Tát Từ Thị thế nào? Ngài thuyết giảng pháp gì?”
Asanga Bodhisattva said, “Let it be so. Now what does Maitreya look like? What Dharma does he preach?”
Vị tiên đáp rằng: “Tướng tốt của Bồ Tát Từ Thị không thể dùng lời mô tả hết. Ngài diễn thuyết diệu pháp, ý nghĩa cũng không khác [chúng ta học] ở đây, nhưng diệu âm của Bồ Tát thanh tao hòa nhã, người nghe không thấy mệt mỏi, tiếp nhận hoài không chán.”
The reply was, “His features are so beautiful that they are beyond description. He preached on the wonderful Dharma, of which the purports were the same as you have explained here. The bodhisattva has a melodious voice, so fluent and elegant that those who hear it forget about fatigue and his students never feel bored.”
Từ chỗ nền cũ giảng đường của ngài Vô Trước đi về hướng tây bắc khoảng 13 km thì đến một ngôi chùa cổ, phía bắc giáp sông Căng-già. Trong khuôn viên chùa có một ngọn tháp xây bằng gạch nung cao hơn 33 mét. Đây là nơi mà Bồ Tát Thế Thân bắt đầu phát tâm Đại thừa.
More than forty li to the northwest of the old foundations of Asariga’s lecture hall I came to an old monastery with the Ganges River at its north, where there is a brick stupa over one hundred feet high. This was the place where Vasubandhu Bodhisattva began to cherish a mind to accept the Mahayana teachings.
Bồ Tát Thế Thân từ miền Bắc Ấn đến đây. Lúc ấy, Bồ Tát Vô Trước bảo người đệ tử của ngài ra chờ đón. Khi đến chùa này, hai bên gặp nhau, người đệ tử của ngài Vô Trước đêm ấy nghỉ bên ngoài cửa sổ, [nhường phòng cho ngài Thế Thân], sau lúc nửa đêm tụng kinh Thập Địa. Ngài Thế Thân nghe kinh rồi, cảm động tỉnh ngộ, sinh tâm hối tiếc, nghĩ rằng: “Giáo pháp thậm thâm vi diệu, xưa nay ta chưa từng được nghe, lại sai lầm mắc tội phỉ báng, cũng là do nơi tấc lưỡi này. Lưỡi này là nguồn gốc của tội [phỉ báng], nay phải cắt bỏ.”
When he was traveling here from North India Asariga Bodhisattva sent a disciple to greet him at the midway point, and it was at this monastery where they met each other. Asanga’s disciple stayed outside the house and at night he recited the Dasabhiimi-sutra. Upon hearing the recitation Vasubandhu became awakened and repented that he had not before heard the very profound and wonderful Dharma. Thinking that the source of the fault of slander is the tongue, he intended to cut off [his own tongue].
Nghĩ rồi liền cầm dao sắc lên, muốn tự cắt lưỡi, chợt thấy ngài Vô Trước đã đứng trước mặt, bảo rằng: “Giáo pháp Đại thừa là lý lẽ chân thật tột cùng, chư Phật đều tán thán, các bậc hiền thánh đều noi theo đó làm tông chỉ. Anh có ý muốn răn dạy nhưng em đã tự hiểu ra rồi. Có thể nhận hiểu đúng lúc như vậy thì còn gì tốt đẹp hơn? Theo lời Phật dạy thì cắt lưỡi không phải là cách để sám hối. Trước đây đã dùng lưỡi để hủy báng Đại thừa, nay hãy dùng lưỡi ấy để ngợi khen xưng tán Đại thừa, tự sửa lỗi mình để hoàn thiện hơn, đó mới là điều tốt. [Cắt lưỡi đi rồi] ngậm miệng không nói thì có ích gì đâu?”
As he grasped a scraping knife to slice off his tongue he saw Asanga appearing before him, who told him, “The system of Mahayana teachings is the ultimate truth, praised by all the buddhas and regarded as the orthodox school by various saints. I intended to admonish you but now you have become awakened by yourself. Nothing is better than a timely awakening. According to the teachings of the buddhas, cutting off one’s tongue is not a way of repentance. In bygone days you insulted the Mahayana teachings with your tongue, so it would be better for you to amend your ways by praising the Mahayana teachings, also with your tongue. What would be the benefit of becoming mute?”
Lời nói vừa dứt thì hốt nhiên chẳng thấy người đâu nữa. Ngài Thế Thân vâng lời dạy, thôi không cắt lưỡi nữa. Sáng ra liền tìm đến chỗ ngài Vô Trước xin học giáo pháp Đại thừa. Từ đó nghiên cứu tinh chuyên tư tưởng, soạn luận Đại thừa đến hơn trăm bộ, tất cả đều được lưu hành rộng rãi.
After having said this, [the illusion] disappeared. Following this advice, Vasubandhu did not cut off his tongue and went to Asariga to study the Mahayana teachings with him. He engaged in careful learning with profound speculation and wrote more than a hundred treatises on Mahayana theories, all of which are very popular works.
Từ nơi đây đi về hướng đông khoảng 98 km, qua sông Căng-già, quay sang hướng bắc gặp nước A-da-mục-khư, thuộc miền Trung Ấn.
From here going to the east for more than three hundred li, I crossed the Ganges to the north and reached the country of Ayamukha (in the domain of Central India).
Nước A-da-mục-khư chu vi khoảng 780-810 km. Kinh thành giáp với sông Hằng, chu vi khoảng 6.5 km. Ở đây khí hậu, đất đai, thổ sản đều giống như nước A-du-đà. Người dân tính tình thuần hậu chất phác, chuyên cần học tập, thích làm việc phước thiện.
The country of Ayamukha is two thousand four hundred or five hundred li in circuit. The capital city borders on the Ganges River and is more than twenty li in circuit. The climate and local products of this country are the same as in the country of Ayodhya. The people are honest and their custom is plain and simple. They are diligent in learning and like to perform meritorious deeds.
Trong nước có năm ngôi chùa, tăng chúng hơn 1.000 vị, tu tập theo giáo pháp của phái Chính lượng thuộc Tiểu thừa. Có 10 ngôi đền thờ Phạm thiên, ngoại đạo các phái chung sống lẫn lộn.
There are five monasteries with over one thousand monks who study the Hinayana teachings of the Sammitiya school. There are more than ten deva temples, where heretics live together.
Cách kinh thành không xa về hướng đông nam, trên bờ sông Căng-già, có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng, cao gần 70 mét. Đây là nơi thuở xưa đức Như Lai từng thuyết pháp trong ba tháng. Kế bên tháp còn có di tích nơi bốn vị Phật quá khứ tọa thiền và kinh hành. Nơi đây cũng có tháp xây bằng đá xanh thờ tóc và móng tay của Như Lai. Bên cạnh tháp có một ngôi chùa, tăng chúng hơn 200 vị. Tượng Phật trong chùa được trang sức rất uy nghiêm, sinh động như Phật tại thế. Lầu gác cao lớn tráng lệ, kết cấu nhiều tầng tinh xảo. Đây là nơi ngày xưa luận sư Phật-đà-đà-bà đã soạn ra bộ luận Đại Tỳ-bà-sa của phái Thuyết nhất thiết hữu.
Not far away to the southwest of the city there is a stupa at the bank of the Ganges. Built by King Asoka, it is two hundred feet high, marking the place where in olden times the Tathagata preached the Dharma for three months. Beside it there is a place where the four past buddhas used to sit and walk up and down, and there is also a stupa containing the Tathagata’s hair and nail relics. Over two hundred monks live in the monastery beside the stupa. The Buddha’s image is well adorned and has an austere appearance, as if he were still alive. The terraces and pavilions of the monastery are grand and beautifully built in a special style, rising high up into the air. This was the place where in olden times the sastra master Buddhadasa (known as Jueshi, “Buddha Servant”) composed the Mahavibhasa-scistra of the Sarvastivada school.
Từ nơi đây đi về hướng đông nam khoảng 230 km, qua sông Căng-già, quay sang hướng nam thì gặp nước Bát-la-da-già, nằm về phía bắc sông Diêm-mâu-na, thuộc miền Trung Ấn.
From here going to the southeast for more than seven hundred li, I crossed the Ganges to the south and reached the country of Prayaga, north of the Jumna River (in the domain of Central India).
Nước Bát-la-da-già chu vi gần 1.630 km. Kinh thành nằm ở vị trí hai sông giao nhau, chu vi khoảng 6.5 km. Nơi đây đồng lúa tốt tươi, hoa quả xanh tốt. Khí hậu ôn hòa dễ chịu, phong tục hiền thiện nhu thuận, người dân ham thích học nghề, tin theo ngoại đạo. Có hai ngôi chùa, rất ít tăng sĩ, đều tu tập theo giáo pháp Tiểu thừa. Có đến mấy trăm ngôi đền thờ Phạm thiên, người theo ngoại đạo rất đông.
The country of Prayaga is more than five thousand li in circuit and its capital city, situated at the confluence of the two rivers, is over twenty li in circuit. It abounds in cereal crops and fruit trees are luxuriant. The climate is temperate and the people are kind and agreeable by custom. They take pleasure in learning arts and crafts and believe in heretical religions. There are two monasteries with few monks, all of whom study Hinayana teachings. Deva temples amount to several hundreds and they have a large number of heretics.
Phía tây nam kinh thành, trong rừng hoa chiêm-bác-ca có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng, nền móng tuy đã nghiêng lún nhưng vẫn còn cao hơn 66 mét. Đây là nơi thuở xưa đức Như Lai từng hàng phục ngoại đạo. Kế bên lại có tháp thờ tóc và móng tay của Như Lai cùng với di tích nơi [Phật] kinh hành.
In the wood of campaka flowers to the south of the great city is a stupa built by King Asoka, which is still more than one hundred feet high though the foundations have collapsed. Formerly the Tathagata subdued heretics at this place. Beside it is a stupa containing hair and nail relics and there is also
897b a site where he used to walk up and down.
Bên cạnh tháp thờ tóc và móng tay Như Lai có một ngôi chùa cổ, là nơi Bồ Tát Đề-bà đã soạn ra luận Quảng Bách, bác bỏ [những điểm sai lầm của] Tiểu thừa và hàng phục ngoại đạo.
Beside the stupa of hair and nail relics is an old monastery where Deva (known as Tian, “God”) Bodhisattva composed the Satasastra-vaipiilya to frustrate Hinayana adherents and conquer heretics.
Ban đầu khi Bồ Tát Đề-bà từ Nam Ấn mới đến ở chùa này, trong thành có một vị bà-la-môn ngoại đạo luận giải cao thâm, học rộng nghe nhiều, tài biện luận không ngăn ngại, thường dựa theo danh xưng truy cầu thực nghĩa, luôn có thể phản biện để dồn đối thủ đến chỗ bế tắc. Khi biết ngài Đề-bà là người nghiên cứu sâu rộng những ý nghĩa uyên áo, vị này muốn khuất phục ngài nên tìm đến, trước hết hỏi họ tên: “Ông tên là gì?”
When Deva Bodhisattva first came to this monastery from South India there was in the city a heretical brahman who was learned in debate and eloquent in discussion without impediment. He insisted on the identification of names and facts and he would refute his opponents to their wits’ end. Knowing that Deva was widely learned in profound doctrines and wishing to break his spirit, the brahman started a conversation by inquiring his name, saying, “What is your name?”
Ngài Đề-bà đáp: “Tên là trời.”
Ngoại đạo lại hỏi: “Trời là ai?”
The heretic said, “Who is Deva?”
Lại hỏi: “Tôi là ai?”
The heretic said, “Who is I?”
Ngài Đề-bà đáp: “Là chó.”
Ngoại đạo lại hỏi: “Chó là ai?”
The heretic said, “Who is the dog?”
Ngài Đề-bà đáp: “Là ông.”
Ngoại đạo hỏi tiếp: “Ông là ai?”
The heretic said, “Who are you?”
Ngoại đạo lại hỏi: “Trời là ai?”
The heretic said, “Who is Deva?”
Ngài Đề-bà đáp: “Là tôi.”
Ngoại đạo hỏi: “Tôi là ai?”
The heretic said, “Who is I?”
Ngoại đạo lại hỏi: “Ai là chó?”
The heretic said, “Who is the dog?”
Ngài Đề-bà đáp: “Là ông.”
Ngoại đạo hỏi tiếp: “Ông là ai?”
The heretic said, “Who are you?”
Ngài Đề-bà đáp: “Là trời.”
Cứ hỏi đáp xoay vòng như thế, ngoại đạo chợt có chỗ hiểu ra, từ đó về sau hết sức cung kính phẩm cách của ngài Đề-bà.
In this manner they argued in a circle and the heretic began to understand [that Deva was irrefutable]. Since then he deeply respected Deva’s moralizing edification.
Trong thành có đền thờ Phạm thiên, trang trí cực kỳ sinh động, cao rộng đẹp đẽ, có nhiều sự linh hiển lạ thường.
In the city there is a deva temple consisting of many lofty and beautifully decorated buildings, which showed spiritual signs in various ways.
Theo thần tích ghi chép của đền thì đây là nơi tốt đẹp tuyệt vời để chúng sanh gieo trồng phước đức, vì cúng dường chỉ một đồng tiền ở đền thờ này công đức lớn hơn bố thí một ngàn lượng vàng ở những nơi khác. Hoặc như có thể xem nhẹ mạng sống, tự tìm cái chết trong đền thờ này thì sẽ được hưởng phước báo vui sướng nơi cõi trời lâu dài đến vô cùng tận.
According to the records of the temple it is the best place for people to plant meritorious seeds. The merit of donating one coin at this temple is greater than that of giving one thousand pieces of gold in alms at other places, and [it is believed that] someone who commits suicide and dies in this temple will enjoy eternal bliss in the heavens.
Phía trước đền thờ có một cây đại thụ cành lá sum suê, bóng mát phủ kín, có quỷ ăn thịt người sống dựa vào đó, cho nên hai bên cây này có nhiều hài cốt.
In front of the temple is a big free with luxuriant branches and leaves that cast dark shadows on the ground. A man-eating ghost made his abode in the free and skeletons were scattered about to the left and right sides.
Những người đã bước vào trong đền này, ai cũng xem nhẹ mạng sống, muốn xả bỏ, đó là vì đã khiếp sợ tà thuyết lại còn tin lời dụ dỗ của [thuyết] thần linh. Từ xưa đến nay mãi quen theo tập tục sai lầm như vậy không dứt.
People coming to this temple are liable to give up their lives, as they are simultaneously frightened by the horrible tradition and allured by the evil spirits. This absurd practice has been carried out without alteration from ancient times up to the present.
Gần đây có một vị bà-la-môn thuộc dòng tộc cao quý, tánh tình phóng khoáng, trí tuệ hơn người, khi đến thăm đền thờ này [nghe biết sự việc liền về] nói với mọi người rằng: “Những tập tục sai trái xấu xa thường rất khó khuyên dạy cho họ bỏ đi. Nay ta phải làm giống như họ thì sau đó mới giáo hóa được.”
Recently there was a young man of the brahman caste who was intelligent and magnanimous in character and endowed with brilliant wisdom and high talent. He came to the temple and said to the people, “Crooked customs and corrupt desires are hard to mend by dissuasion and guidance. I must practice the same in order to correct them.”
Ông liền leo lên cây đại thụ rồi nhìn xuống nói với bạn hữu: “Tôi sắp chết đây. Trước đây tôi cho rằng [chuyện sinh cõi trời] là dối gạt, nay xét thấy quả là chân thật. Âm nhạc cõi trời đang ở giữa không trung tiếp đón tôi. Nay tôi sẽ đi theo cảnh giới ấy thù thắng ấy, xả bỏ thân thô lậu này.”
He climbed up into the free and said to his friends gathered below, “I am going to die to testify to the truth of what is deceitful. Heavenly maidens and musicians are in the air to greet me. I shall forsake this humble body of mine at the best place for doing so.”
Nói rồi [vờ như] sắp buông tay nhảy xuống tự vẫn, bạn hữu hết lời can ngăn, nhưng vẫn [làm ra vẻ] quyết không thay đổi. [Mọi người thấy vậy liền] dùng y phục trải quanh gốc cây, nên khi ông nhảy không chết, [chỉ bị ngất đi]. Hồi lâu ông tỉnh lại, nói rằng: “Tuy nhìn thấy trên không trung tưởng rằng có chư thiên đón tiếp, nhưng thật ra đó chỉ là một đám tà thần dẫn nhập, không hề có chuyện được phước lạc của chư thiên.”
When he was about to throw himself down to end his life his relatives and friends tried to dissuade him from doing so, but he would not change his mind. They spread their garments on the ground below the free and saved his life when he dropped to the ground. After a long while he came to his senses and said, “I only saw some evil spirits in the air beckoning to me and there was nothing of heavenly bliss.”
Phía đông kinh thành, chỗ hai con sông giao nhau, rộng khoảng 3.2 km, địa thế thoáng đãng, cát mịn trải đầy. Từ xưa đến nay các bậc vua chúa, những nhà giàu có thế lực, mỗi khi tổ chức bố thí đều mang đến nơi này, đưa ra chu cấp không hề tính toán, cho nên nơi đây được gọi tên là Đại Thí Trường.
To the east of the great city and at the junction of the two rivers there is a dune more than ten li wide, dry and covered with fine sand. From ancient times up to now various kings and people of great wealth have always come here whenever they wished to give alms. This place is called the Grand Place of Almsgiving, where gifts are distributed without counting.
Hiện nay vua Giới Nhật noi theo lệ cũ, dốc lòng bố thí, tích lũy tài vật trong 5 năm, trong một ngày mang hết ra bố thí, mang đến Đại Thí Trường này rất nhiều đồ quý giá. Ngày đầu tiên an trí một tượng Phật lớn, trang sức uy nghiêm bằng các loại vật báu, rồi khởi đầu mang những món trân bảo quý giá nhất dâng lên cúng dường [Phật] trước nhất, sau đó đến cúng dường thường trụ tăng. Tiếp theo nữa là bố thí cho tất cả những người đang có mặt. Tiếp đến là bố thí cho những bậc tài cao học rộng, uyên bác đa tài, rồi tiếp nữa là đồ chúng ngoại đạo và những người sống ẩn dật, tiếp theo là những người cô độc góa bụa. Cuối cùng là những người nghèo khổ, những kẻ ăn xin. Vật thí gồm đầy đủ những đồ quý báu, những món ăn ngon, bố thí như vậy không thiếu một người nào, cho đến khi kho chứa đã hết, vật báu không còn, [nhà vua] liền lấy cả hạt minh châu trong búi tóc, cho đến những chuỗi ngọc đeo trên người, tất cả đều lần lượt đưa ra bố thí, không chút tiếc nuối. Sau đó khi bố thí hết sạch rồi mới mừng vui reo lên: “Vui thay! Tất cả những gì ta có, nay đã được cất vào kho chứa bằng kim cương kiên cố.”
At present, King Slladitya follows the example of his predecessors in practicing almsgiving. He spends all the wealth he has accumulated in five years on almsgiving in a single day and piles up precious things at the [Grand] Place of Almsgiving. On the first day he installed a large image of the Buddha adorned with various gems, to which he offered the best rare jewels. Next he gave offerings to the resident monks, then to those who were present in the assembly, then to the highly talented, learned, erudite, and versatile scholars, then to the heretical students, hermits, and recluses, and finally to the kinless and the poor. Various kinds of precious objects and the best delicious food were distributed to them all in a perfect manner according to their grades and ranks. When the treasury was emptied and the clothing and other objects were exhausted, [the king’s] lustrous pearl in his topknot and the necklace on his body were given away one after the other, without the least reluctance. When King Slladitya had completed the almsgiving he said, “How happy I am! I have placed all I had in the adamantine and indestructible storehouse!”
Từ hôm đó về sau, tất cả những vị vua của các nước [chư hầu] đều đem đến hiến tặng những đồ trân quý, thường không quá 10 ngày thì kho chứa [của vua Giới Nhật] lại đầy ắp.
After that the lords and kings of various countries offered precious jewels and garments to him, and in less than ten days his treasury was replenished.
Phía đông của Đại Thí Trường là chỗ hai con sông giao nhau. Mỗi ngày có đến mấy trăm người tự trầm mình chết ở đó. Hủ tục nơi đây tin rằng muốn cầu sanh lên cõi trời chỉ cần tìm đến chỗ này, nhịn ăn rồi trầm mình xuống sông tự vẫn thì tội lỗi đều được nước sông rửa sạch. Cho nên người ở những nước khác từ phương xa không ngừng kéo nhau đến đây, nhịn ăn trong bảy ngày rồi nhảy xuống sông tự vẫn. Cho đến những loài vượn núi, hươu rừng cũng tụ tập thành bầy nơi bến sông, hoặc tắm nước sông rồi quay về, hoặc ở lại đây nhịn ăn mà chết. Đang lúc vua Giới Nhật mở hội bố thí, có một con khỉ lớn ở nơi bến sông, một mình đến dưới gốc cây tuyệt thực, trải qua nhiều ngày chịu đói đến chết.
Several hundred people drown themselves every day at the confluence of the two rivers to the east of the Grand Place of Almsgiving. It is popular custom as the people believe that in order to be reborn in the heavens they should starve [themselves] and drown in the river at this spot. The people bathe in midstream to wash away their sins and defilements. Thus people from different countries come to this place from distant regions to starve for seven days and die. Even mountain apes and wild monkeys come in groups to the riverside. Some of them take a bath and go back, while others starve themselves to death. When King Slladitya was performing the great almsgiving a monkey stayed alone under a free at the riverside, without going anywhere, and fasted. After a few days it died of starvation.
Cho nên những người ngoại đạo tu khổ hạnh có dựng lên một cây trụ cao ở giữa sông, lúc sáng sớm khi mặt trời sắp mọc thì leo lên trụ, rồi một tay một chân bám chặt đầu trụ, trong khi tay và chân còn lại đưa ra lơ lửng trong không gian, giữ nguyên bất động, rướn cổ giương mắt, chăm chăm nhìn mặt trời di chuyển ở bên phải mình, mãi cho đến khi mặt trời sắp lặn mới leo xuống. Có đến mấy chục người tu theo cách như thế, mong dựa vào sự siêng năng khổ hạnh để được xuất ly sanh tử. Có người trải qua mấy chục năm như vậy không biếng trễ.
Some heretical ascetics plant long poles in the river; at dawn they climb up the poles and stand with one hand holding the top of the pole and one foot on a peg, while stretching out the other hand and foot into the air. Craning their necks, with eyes wide open, they gaze at the sun moving to the right and do not come down until dusk. There are several scores of such ascetics, who hope to escape the wheel of rebirth by practicing such rigorous austerities. Some of them have never relaxed their self-mortification for several decades.
Từ nơi đây đi về hướng tây nam thì vào rừng rậm, có ác thú, voi dữ tụ tập thành bầy tấn công người đi đường. Nếu không cùng đi thành toán đông người thì khó mà qua được. Đi hơn 163 km thì đến nước Kiêu-thưởng-di, thuộc vùng Trung Ấn.
From here I entered a great forest in the southwest, where ferocious animals and wild elephants in groups attack wayfarers. Unless accompanied by a large number of companions it is difficult for a traveler to cross this region alone.
After going for more than five hundred li, I came to the country of Kausambi (formerly known as Jushanmi erroneously, in the domain of Central India).
Nước Kiêu-thưởng-di chu vi gần 2.000 km. Chu vi kinh thành khoảng 10 km. Thu hoạch từ nông nghiệp dồi dào, trồng nhiều lúa tẻ, cây mía đường mọc rất tốt. Khí hậu nóng, phong tục rắn rỏi, mạnh mẽ, người dân hiếu học, chuộng học cả sách vở điển tịch và các tài nghề, thích làm việc phước thiện.
The country of Kausambi is over six thousand li in circuit and its capital city is more than thirty li in circuit. The land is fertile and good for agricultural production. The country abounds in nonglutinous rice and yields plenty of sugarcane. The climate is hot and the people are bold and furious by custom. They love to learn classical texts and arts and advocate the performance of good and meritorious deeds.
Có hơn 10 ngôi chùa, đều hư nát hoang phế. Tăng chúng hơn 300 vị, tu tập theo giáo pháp Tiểu thừa. Đền thờ Phạm thiên hơn 50 chỗ, người theo ngoại đạo rất đông.
There are about ten monasteries lying in a dilapidated and deserted condition, with more than three hundred monks who study the Hinayana teachings. There are over fifty deva temples with numerous heretics.
Trong kinh thành, chỗ cung điện cũ có một tinh xá lớn, chiều cao khoảng 20 mét, trong có tượng Phật điêu khắc bằng gỗ trầm, bên trên có treo một lọng che bằng đá, do vua Ổ-đà-diễn-na tạo dựng, thường hiện tướng linh hiển, đôi khi có hào quang chiếu sáng.
In the old palace in the city there is a great temple, more than sixty feet in height, that houses an image of the Buddha carved in sandalwood, with a stone canopy suspended over it. It was made by King Udayana (known as Chuai, “Release from Passion,” formerly mistranslated as King Youtian). The image often shows spiritual signs and emits a divine light from time to time.
Vua các nước đã có lần cậy vào sức mạnh muốn nâng tượng lên, nhưng tuy rất đông người cũng không thể nào làm tượng dịch chuyển, đành cho vẽ lại tượng [để mang về an trí] cúng dường. Vua nào cũng nói rằng tượng của mình vẽ là chân thật, đúng như nguyên bản, chính là pho tượng này.
The kings of various countries, relying on their might, wanted to take it but when they tried to lift it up they could not move it, even though a large number of people were employed to do so. Then they had pictures of the image produced for worship and each claimed that his picture was the most true to life.
Ban đầu, sau khi đức Như Lai thành Chánh Giác, ngài lên cung trời [Đao-lợi] để thuyết pháp cho mẹ, ba tháng chưa trở lại. Vua [Ổ-đà-diễn-na] nhớ tưởng [đến Phật] muốn tạo hình tượng, nên cầu thỉnh Tôn giả Một-đặc-già-la tử dùng sức thần thông đưa thợ khắc tượng lên cung trời [Đao-lợi], đích thân quan sát diệu tướng [của đức Như Lai] rồi về khắc thành tượng này bằng gỗ chiên-đàn. Khi đức Như Lai từ cõi trời [Đao-lợi] trở về, pho tượng này bỗng đứng lên nghinh tiếp Thế Tôn. Đức Thế Tôn liền ủy lạo rằng: “Giáo hóa nhọc nhằn chăng? Việc giảng đạo trong thời mạt pháp ta kỳ vọng nơi ngài đó.”
Speaking of the image’s origin, it is said that when the Tathagata, after having realized full enlightenment, ascended to Trayastrimsa Heaven to preach the Dharma to his mother, the king was eager to see him and wished to make a likeness of him. He requested Venerable Maudgalyayana to use his supernatural power to transport an artisan to the heavenly palace to observe the Buddha’s fine features, and the artisan carved an image of him in sandalwood. When the Tathagata returned to earth from heaven, the sandalwood image stood up to greet the World-honored One, who said to it sympathetically, “Are you tired from teaching the people? You are what we hope will enlighten the people in the last period of the buddha-dharma.”
Về phía đông tinh xá này, cách xa chừng 170 mét, có di tích nơi bốn vị Phật quá khứ đã ngồi thiền và kinh hành. Cách đó không xa có một giếng nước và phòng tắm của Như Lai. Giếng vẫn còn đầy nước nhưng phòng tắm đã hư hoại.
More than a hundred paces to the east of the temple are places where the four past buddhas used to sit and walk up and down. A well and bathhouse used by the Tathagata are not far away. The well still supplies water but the bathhouse has fallen into ruins.
Bên trong thành, ở góc thành phía đông nam vẫn còn dấu tích một nền nhà cũ, là nhà của trưởng giả Cụ-sử-la. Trong khuôn viên nhà có một tinh xá thờ Phật cùng một tháp thờ tóc và móng tay Phật. Lại có một nền nhà cũ là phòng tắm của Như Lai trước đây.
At the southeast comer inside the city are the ruins of the old residence of Elder Ghosila (formerly transcribed as Jushiluo incorrectly), where there is a Buddhist temple and a stupa containing [the Buddha’s] hair and nail relics. Another old foundation is that of the Buddha’s bathhouse.
Về hướng đông nam kinh thành, khoảng cách không xa, có một ngôi chùa cổ, là khu vườn cũ của trưởng giả Cụ-sử-la. Trong khuôn viên này có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng, cao gần 70 mét. Đây là nơi đức Như Lai đã thuyết pháp nhiều năm. Bên cạnh đó còn có dấu tích nơi kinh hành và ngồi thiền của bốn vị Phật quá khứ, lại có tháp thờ tóc và móng tay của đức Như Lai.
Not far to the southeast of the city is an old monastery built in the garden of Elder Ghosila in which is a stupa more than two hundred feet high built by King Asoka. The Tathagata stayed here preaching the Dharma for several years. Beside it are sites where the four past buddhas used to sit and walk up and down. There are also stupas containing the Tathagata’s hair and nail relics.
Về hướng đông nam của chùa, những lầu gác xưa hiện vẫn còn lại một nền gạch nung cổ. Đây là nơi Bồ Tát Thế Thân cư ngụ trong lúc soạn luận Duy Thức, chỉ rõ những chỗ yếu kém của Tiểu thừa, vấn nạn ngoại đạo.
On the storied pavilion to the southeast of the monastery is an old brick chamber in which Vasubandhu Bodhisattva stayed and composed the Vijnapti- mdtratdsiddhi-sastra to refute Hinayana teachings and defeat heretics.
Về phía đông chùa, nằm giữa rừng am-một-la có một nền nhà cũ. Đây là nơi Bồ Tát Vô Trước soạn ra bộ luận Hiển Dương Thánh Giáo.
In a
898b mango grove to the east of the monastery is the old foundation of a house in which Asanga Bodhisattva composed the Prakarandryavacd-sastra.
Phía tây nam kinh thành, cách khoảng 2.5-3 km có động đá của rồng dữ. Đây là nơi đức Phật đã hàng phục con rồng dữ, bên trong còn lưu hình ảnh lại, nhưng chỉ là truyền thuyết, nay không còn thấy nữa.
Eight or nine li to the southwest of the city is the cave of a venomous dragon. Formerly the Tathagata subdued this dragon and left his own shadow in the cave. Although this is recorded in books nothing more of it can be seen now.
Bên cạnh có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng, cao gần 70 mét, kế bên là di tích nơi đức Như Lai kinh hành cùng với tháp thờ tóc và móng tay của Như Lai. Những người có bệnh đến đây cầu nguyện phần nhiều đều được khỏi.
Beside the cave is a stupa more than two hundred feet high built by King Asoka. At its side are sites where the Tathagata used to sit and walk up and down and a stupa containing his hair and nail relics. Those who suffer from illness come here to pray for health and most of them are cured.
[Có truyền thuyết nói rằng] khi giáo pháp của đức Như Lai diệt mất thì nước này là nơi cuối cùng mất đi, cho nên trên từ các bậc quân vương, dưới đến thứ dân, mỗi khi vào địa phận nước này đều tự nhiên [nghĩ đến chuyện ấy mà] xúc động, ai ai cũng rơi lệ, than khóc rồi quay về.
As this is be the country where Sakyamuni’s Dharma will finally come to an end, all the people, from kings down to commoners, naturally feel sad when they come to this land and shed tears before returning home with sighs of regret.
Về hướng đông bắc của hang rồng dữ là một khu rừng lớn, đi tiếp khoảng 230 km rồi qua sông Căng-già, quay về phía bắc gặp thành Ca-xa-bố-la, chu vi khoảng 3.2 km, dân cư phồn thịnh. Kế bên thành có một ngôi chùa cổ, hiện chỉ còn lại nền móng. Đây là nơi ngày xưa Bồ Tát Hộ Pháp hàng phục ngoại đạo.
Going for more than seven hundred li through a great forest to the northeast of the dragon’s cave, I crossed the Ganges to the north and reached the city of Kasapura. t is over ten li in circuit and the inhabitants are rich and happy. Beside it there are the ruins of a monastery where Dharmapala Bodhisattva subdued heretics in the old days.
[Thuở ấy,] vua của nước này ủng hộ tà thuyết, muốn hủy phá Phật pháp, sùng kính ngoại đạo. Bọn ngoại đạo liền triệu thỉnh một luận sư thông minh mẫn tiệp, kiến thức cao minh, thông đạt lẽ u huyền, soạn một bộ sách tà ngụy với một ngàn bài tụng, gồm ba mươi hai ngàn chữ, để bác bỏ hủy báng Phật pháp, xiển dương đạo giáo của họ. Sau đó [vua] triệu tập tăng chúng để cùng ngoại đạo tranh biện. Nếu ngoại đạo giành phần thắng thì hủy diệt pháp Phật. Nếu chúng tăng không thua, [luận sư ngoại đạo sẽ] tự cắt lưỡi để tạ lỗi.
A previous king of this country who supported heterodox views intended to destroy the buddha-dharma in order to uphold the heretics. He invited from among them a sastra master, who was intelligent, had great talent, and understood subtle theories, to compose a fallacious book of thirty-two thousand words in one thousand stanzas to denounce the buddha- dharma and make his own sect the orthodox one. The king then summoned the monks to hold a debate, on the condition that if the heretical sastra master won the contest the buddha-dharma would be destroyed, and if the monks were undefeated then the sastra master would cut off his tongue.
Lúc bấy giờ, chư tăng sợ thua nên họp nhau bàn rằng: “Mặt trời trí tuệ Phật đã bị che khuất, cây cầu Chánh pháp [cứu độ chúng sinh] hẳn sắp bị hủy diệt, vì nhà vua về phe với ngoại đạo, làm sao chúng ta có thể chống lại được? Sự thể đã như thế này, liệu có kế sách gì chăng?”
At that time the monks, fearing that they might be defeated, assembled to discuss the matter, saying, “The Sun of Wisdom has sunk and the Bridge of the Dharma is about to be destroyed. How can we compete with the heretics who have the king standing by their side? Under these circumstances what should we do?”
Đại chúng thảy đều lặng thinh, không ai có ý kiến gì. Bồ Tát Hộ Pháp khi ấy còn nhỏ tuổi nhưng có biện tài trí tuệ, học rộng nghe nhiều, nổi tiếng khắp nơi. Ngài đứng lên thưa với đại chúng: “Con tuy ngu muội không đủ sáng suốt nhưng cũng xin nói ra kế sách của mình. Nay xin nhanh chóng cho con đến đó [tranh biện] theo lệnh nhà vua. Nếu thắng được thì đó là nhờ sự trợ giúp linh thiêng [của chư Phật Bồ Tát], còn nếu thua thì là do [con đây] tuổi trẻ non nớt. Như vậy trong cả hai trường hợp chúng ta đều có cách lập luận, mà Chánh pháp với chư tăng đều không tổn hại.”
The assembly remained silent and no one ventured to raise a proposal. Dharmapala Bodhisattva, then a young man who was eloquent, intelligent, and learned, and who enjoyed a widespread reputation, declared to the assembly, “Although I am an ignorant person I venhire to make a brief statement. It would truly befit you to send me promptly to answer the king’s order. If I win the debate it will be due to spiritual protection, and if I fail my youthfulness can be blamed. In this way we can give an explanation in either case and no censure will be incurred upon the Dharma or the community of monks.”
Mọi người đều cho là hợp lẽ, đồng lòng chấp thuận. Theo dự tính ấy, Bồ Tát Hộ Pháp liền theo lệnh vua đi đến, thăng tòa tranh luận. [Luận sư] ngoại đạo liền theo cương lĩnh cốt yếu, tùy chỗ xưng dương hay bài bác, lần lượt trình bày quan điểm của mình theo lối tụng đọc. Đọc xong, có ý chờ đối phương nêu quan điểm phản bác. Nhưng Bồ Tát Hộ Pháp nghe xong liền cười lớn rồi nói: “Xem như ta thắng rồi! Giờ ông có muốn ta tụng đọc luận này theo thứ tự ngược lại không? Hay nếu muốn ta sẽ tụng lại đầy đủ mà không theo thứ tự nào cả?”
The whole assembly consented to his proposal and, according to his suggestion, Dharmapala was sent to answer the king’s order.
He mounted the seat of discussion and the heretical [sastra master] recited his book in a rhythmic voice, brought out all the essentials of his work, and waited for a refutation. Dharmapala listened to his recitation and said with a smile, “I have won. Shall I recite your book backward, or shall I recite it with the phrases transposed in order?”
Luận sư ngoại đạo nghe qua tái mặt, nói rằng: “Ngươi chớ nên tự đề cao mình như vậy. Chỉ cần hiểu được trọn vẹn được ý nghĩa của luận này, ta sẽ nhận là ngươi thắng. Trước tiên theo thứ tự đọc lại từng câu, sau đó giải thích ý nghĩa là được.”
The heretic was dismayed and said, “You should not be self-important. One who can frilly understand the meanings of my book is the winner. First recite it in its proper sequence and then give an explanation of the text.”
Bồ Tát Hộ Pháp liền lấy giọng tụng giống luận sư ngoại đạo, tụng đọc lại toàn văn, sau đó giải thích ý nghĩa, từ ngữ lý lẽ chính xác không sai, cho đến âm điệu giọng đọc cũng không khác. Luận sư ngoại đạo nghe xong, liền muốn tự cắt lưỡi. Bồ Tát Hộ Pháp nói: “Cắt lưỡi chẳng phải là tạ lỗi, sửa sai mới là hối cải.”
Dharmapala then imitated the heretic’s rhythmic voice, recited the text, and expounded the meanings of its contents, with no fault either in phraseology or in principles, nor was there any deviation in the intonation. After hearing this, the heretic made ready to cut off his tongue. Dharmapala said to him, “Cutting off your tongue is not a way to amend yourself. Real repentance is to correct your [wrongly] grasped opinions.”
Bồ Tát liền vì luận sư ngoại đạo mà thuyết pháp, khiến tâm ý khởi sinh lòng tin, tỏ ngộ chân lý. Từ đó vua bỏ tà đạo, tôn sùng Chánh pháp.
He preached the Dharma to the heretic, who began to have faith in it and understand its meanings. The king gave up the erroneous way and embraced the Dharma in adoration.
Bên cạnh nơi Bồ Tát Hộ Pháp hàng phục ngoại đạo có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng, nền tháp đã nghiêng lún nhưng vẫn còn cao khoảng 70 mét. Đây là nơi ngày xưa đức Như Lai từng thuyết pháp trong sáu tháng. Bên cạnh đó có di tích nơi [đức Phật] kinh hành, cùng với tháp thờ tóc và móng tay của Như Lai.
Beside the place where Dharmapala subdued the heretic is a stupa built by King Asoka. Though the foundations have collapsed it is still more than two hundred feet high. Formerly the Tathagata preached the Dharma for six months at this place. Beside it is a place where [he] walked up and down and a stupa containing his hair and nail relics.
Từ nơi đây đi về hướng bắc khoảng 55-57 km thì đến nước Tỳ-sách-ca, thuộc miền Trung Ấn.
Going northward from here for one hundred seventy or eighty li, I reached the country of Visaka (in the domain of Central India).
Nước Tỳ-sách-ca chu vi khoảng 1.300 km. Kinh thành chu vi khoảng 5.5 km. Lúa má tốt tươi, hoa quả đủ loại. Khí hậu ôn hòa dễ chịu, phong tục thuần phác, chân chất. Người dân ham học, siêng năng không mệt mỏi, kiên tâm tu cầu phước đức.
The country of Visaka is more than four thousand li in circuit and its capital city is sixteen li in circuit. It abounds in cereal crops and yields plenty of flowers and fruit. The climate is moderate and the people are sincere and honest by custom. They are fond of learning without getting tired and they never regress in performing good deeds.
Trong nước có hơn 20 ngôi chùa, tăng chúng hơn 3.000 vị, thảy đều tu tập theo phái Chính lượng thuộc Tiểu thừa. Có hơn 50 đền thờ Phạm thiên, người theo ngoại đạo rất đông.
There are more than twenty monasteries with over three thousand monks, all of whom study the teachings of the Sammitiya sect of the Hinayana school. There are over fifty deva temples with a great many heretics.
Phía nam kinh thành, có một ngôi chùa lớn nằm bên trái con đường, là nơi ngày xưa A-la-hán Đề-bà-thiết-ma (Devasarman) đã soạn bộ luận Thức thân, nói về vô ngã nhân, còn A-la-hán Cù-ba (Gopa) soạn luận Thánh giáo yếu thật, nói về hữu ngã nhân. Do sự bám chấp [vào kiến giải của hai bên], đã có sự tranh luận hết sức gay gắt. Đây cũng là nơi Bồ Tát Hộ Pháp trong suốt bảy ngày đã khuất phục 100 luận sư Tiểu thừa.
To the south of the city there is a large monastery on the left side of the road in which the arhat Devasarman composed the Vijnanakaya-sastra to advocate the theory of the non-self in the human body, while the arhat Gopa wrote the Treatise on the Essential Truth o/ the Holy Teachings (Sheng jiao yao shi lunj to maintain the doctrine of the existence of the self in the human body. These incompatible views about the Dharma caused much controversy. It was also in this monastery that Dharmapala Bodhisattva subdued one hundred Hinayana sastra masters in seven days.
Bên cạnh chùa có một ngọn tháp cao khoảng 70 mét, do vua Vô Ưu xây dựng. Đây là nơi ngày xưa đức Như Lai đã thuyết pháp hóa độ trong 6 năm. Bên cạnh tháp có một cây lạ, cao khoảng 2.5 mét, trải qua nhiều năm không hề thay đổi. Ngày xưa đức Như Lai dùng một nhánh cây xỉa răng rồi vất bỏ nơi đây, nhân đó bắt rễ đâm chồi, lớn lên xanh tốt cho đến tận ngày nay. Những kẻ tà kiến và bọn ngoại đạo từng đến đây chặt cây, nhưng rồi cây lại mọc lên như cũ.
Beside the monastery is a stupa more than two hundred feet high built by King Asoka. Formerly the Tathagata preached the Dharma for six years at this place to edify the people. There is a marvelous tree, about six or seven feet tall, which neither sprouts leaves in springtime nor withers in autumn. Formerly the Tathagata cast down a tooth twig he had used for cleaning his teeth, which took root and grew into the luxuriant tree that it there now. People holding heterodox views and heretics have tried to cut the tree down but it grows back as before.
Cách đó không xa có di tích nơi bốn vị Phật quá khứ tọa thiền và kinh hành. Lại có tháp thờ tóc và móng tay của Như Lai. Những thánh tích nơi đây nối liền nhau cùng cây rừng soi bóng xuống mặt hồ, hình chiếu giao nhau lung linh huyền ảo.
Not far away from the tree are places where the four past buddhas used to sit and walk up and down, and there is also a stupa containing the Tathagata’s hair and nail relics. The foundations of the holy sites are connected with one another in a wood with ponds, in which the shapes of the trees are reflected.
Từ nơi đây đi về hướng đông bắc khoảng 163 km thì đến nước Thất-la-phạt-tất-để, thuộc miền Trung Ấn.
Going from here to the northeast for over five hundred li, I reached the country of Sravasti (formerly known as Shewei erroneously, in the domain of Central India).
End of Fascicle V of The Great Tang Dynasty Record of the Western Regions
Hình minh họa: Đồ họa thể hiện hành trình qua 6 nước trong Quyển 5 - Tây Vực Ký