Mất tiền không đáng gọi là mất; mất danh dự là mất một phần đời; chỉ có mất niềm tin là mất hết tất cả.Ngạn ngữ Nga
Chúng ta không thể giải quyết các vấn đề bất ổn của mình với cùng những suy nghĩ giống như khi ta đã tạo ra chúng. (We cannot solve our problems with the same thinking we used when we created them.)Albert Einstein
Những căng thẳng luôn có trong cuộc sống, nhưng chính bạn là người quyết định có để những điều ấy ảnh hưởng đến bạn hay không. (There's going to be stress in life, but it's your choice whether you let it affect you or not.)Valerie Bertinelli
Một người chưa từng mắc lỗi là chưa từng thử qua bất cứ điều gì mới mẻ. (A person who never made a mistake never tried anything new.)Albert Einstein
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Sự nguy hại của nóng giận còn hơn cả lửa dữ. Kinh Lời dạy cuối cùng
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Thành công không phải là chìa khóa của hạnh phúc. Hạnh phúc là chìa khóa của thành công. Nếu bạn yêu thích công việc đang làm, bạn sẽ thành công. (Success is not the key to happiness. Happiness is the key to success. If you love what you are doing, you will be successful.)Albert Schweitzer
Chúng ta nên hối tiếc về những sai lầm và học hỏi từ đó, nhưng đừng bao giờ mang theo chúng vào tương lai. (We should regret our mistakes and learn from them, but never carry them forward into the future with us. )Lucy Maud Montgomery
Có hai cách để lan truyền ánh sáng. Bạn có thể tự mình là ngọn nến tỏa sáng, hoặc là tấm gương phản chiếu ánh sáng đó. (There are two ways of spreading light: to be the candle or the mirror that reflects it.)Edith Wharton

Trang chủ »» Danh mục »» Rộng Mở Tâm Hồn »» Tây Vực Ký »» Xem đối chiếu Anh Việt: Quyển 1 »»

Tây Vực Ký
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Quyển 1

Donate

(Lượt xem: 3.721)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục  Vietnamese || English || Tải về bảng song ngữ


       

Điều chỉnh font chữ:

Quyển 1

Fascicle I

Quyển 1 - 34 nước
Fascicle I - Thirty-four Countries, from Agni to Kapisi
● Nước A-kì-ni ● Nước Khuất-chi ● Nước Bạt-lộc-ca ● Nước Nô-xích-kiến ● Nước Giả-thời ● Nước Phế-hãn ● Nước Tốt-đổ-lợi-sắt-na ● Nước Táp-mạt-kiến ● Nước Nhị-mạt-hạ ● Nước Kiếp-bố-đát-na ● Nước Khuất-sương-nhĩ-già ● Nước Khái-hãn ● Nước Bộ-khái ● Nước Phạt-địa ● Nước Hóa-lợi-tập-di-ca ● Nước Yết-sương-na ● Nước Đát-mật ● Nước Xích-ngạc-diễn-na ● Nước Hốt-lộ-ma ● Nước Du-mạn ● Nước Cúc-hòa-diễn-na ● Nước Hoạch-sa ● Nước Kha-đốt-la ● Nước Câu-mê-đà ● Nước Phược-già-lãng ● Nước Hột-lộ-tất-dân-kiện ● Nước Hốt-lẫm ● Nước Phược-hát ● Nước Duệ-mạt-đà ● Nước Hồ-thật-kiện ● Nước Đát-lạt-kiện ● Nước Yết-chức ● Nước Phạm-diễn-na ● Nước Ca-tất-thí
1. The Country of Agni
2. The Country of Kuci
3. The Country of Baluka
4. The Country of Nujkend
5. The Country of Shash
6. The Country of Feihan
7. The Country of Sutrushana
8. The Country of Samarkand
9. The Country of Mimohe
10. The Country of Kaputana
11. The Country of Kusanika
12. The Country of Kliagan
13. The Country of Bukhara
14. The Country of Betik
15. The Country of Horisrmka
16. The Country of Kasanna
17. The Country of Tirmidh
18. The Country of Sahaniyan
19. The Country of Khanin
20. The Country of Shuman
21. The Country of Kuvayana
22. The Country of Waklish
23. The Country of Kliuttalan
24. The Country of Komidai
25. The Country of Baghlan
26. The Country of Hrum-Simingan
27. The Country of Kliuhn
28. The Country of Baktra
29. The Country of Zumathan
30. The Country of Guzganan
31. The Country of Talaqan
32. The Country of Kacik
33. The Country of Bamiyana
34. The Country of Kapisi

Ra khỏi lãnh thổ nước Cao Xương cũ, quốc gia đầu tiên gần nhất tên là A-kỳ-ni.
Going out of what was formerly the land of Gaochang, I started my journey with the nearest country, called Agni (formerly known as Yanqi).
1. Nước A-kỳ-ni

Nước A-kỳ-ni, chiều đông tây gần 200 km, chiều nam bắc hơn 130 km, chu vi kinh thành khoảng 1.5-2 km. Bốn phía có núi non, đường đi hiểm trở, dễ phòng thủ. Sông suối giao nhau chằng chịt, nước được dẫn vào làm ruộng. Đất đai thích hợp với các loại lúa môn, lúa mùa, lúa mạch và các loại cây ăn quả như táo hồng, nho, lê, táo tây... Khí hậu điều hòa dễ chịu, phong tục chân chất, thẳng thắn. Chữ viết dùng chữ Ấn Độ, có thay đổi thêm bớt. Y phục dùng vải dệt từ bông vải. Đầu cắt tóc, không đội khăn. Tiền tệ thì dùng tiền vàng, tiền bạc và tiền đồng nhỏ.
The country of Agni, which is more than six hundred li from east to west and over four hundred li from south to north, its capital city being six or seven li in circuit, is surrounded by hills on four sides with perilous tracks that are easily defended. Spring water flows in a network of channels, leading the water to irrigate cultivated fields. The soil is suitable for growing millet, broomcom, winter wheat, fragrant jujubes, grapes, pears, crabapples, and other fruit. The climate is moderate and pleasant, and the people are honest and straightforward by social custom. Their alphabet is taken from that of India with slight modifications. The garments of the people are made of felt and hempen cloth. The men cut their hair short without wearing any headdress. As to their currency, they use gold, silver, and small copper coins.
Đức vua là người bản xứ, dũng mãnh nhưng ít mưu lược, thích khoe khoang bản thân. Đất nước không có kỷ cương, luật pháp không nghiêm túc. Trong vùng có hơn 10 ngôi chùa, tăng chúng hơn 2.000 vị, học theo giáo lý của phái Thuyết nhất thiết hữu (Sarvastivada) thuộc Tiểu thừa. Vì kinh giáo, luật nghi đều theo như Ấn Độ nên người học dùng thẳng kinh văn Phạn ngữ. Việc giữ giới luật rất nghiêm cẩn, thanh tịnh, chuyên cần, nhưng cho phép dùng ba loại tịnh nhục nên chỉ dừng ở mức của Tiệm giáo.
The king, a native of the country, is a brave man but he lacks resourcefulness and he indulges in bragging about his own merits. The country has no guiding principle or discipline and government orders are imperfect and not seriously implemented. There are more than ten monasteries with over two thousand monks, who are followers of the Sarvastivada school of the Hinayana teachings. Since they practice the scriptural theories and observe the Vinaya discipline of India, the students carefully study these subjects in Indian texts. 
They are pure and strict in observing the Vinaya rules, but they eat the three kinds of pure meat together with other foodstuffs, which shows that they are stagnating in the stage of the gradual teaching.
Từ đây đi tiếp về phía tây nam hơn 65 km nữa, qua một ngọn núi nhỏ, vượt hai con sông lớn, phía tây gặp một vùng đồng bằng. Đi tiếp hơn 230 km thì đến nước Khuất-chi.
Going from here toward the southwest for more than two hundred li, I climbed over a hill and crossed two large rivers and then reached a plain in the west. After proceeding for more than seven hundred li, I arrived in the country of Kuci (formerly known as Qiuci).
2. Nước Khuất-chi

Nước Khuất-chi, chiều dài đông tây hơn 325 km, chiều nam bắc gần 200 km, chu vi kinh thành khoảng 5.5-6 km. Nơi đây thích hợp trồng các loại lúa môn, lúa mạch, lúa nước và trái cây như nho, lựu, lê, táo tây, đào, mơ tây ... Có những khoáng sản như vàng, đồng, sắt, chì, thiếc... Khí hậu ôn hòa, phong tục chân chất. Chữ viết cũng dùng chữ Ấn Độ có đôi chút cải biến. Người dân giỏi về kỹ thuật âm nhạc, nhạc cụ đàn, sáo... hơn hẳn các nước khác. Y phục dùng gấm, vải thô; đầu cắt tóc, bịt khăn hoặc đội mũ. Về tiền tệ thì dùng tiền vàng, tiền bạc và tiền đồng nhỏ. Đức vua là người Khuất-chi, kém mưu trí, bị cường thần chèn ép.
The country of Kuci is over one thousand li from east to west and over six hundred li from south to north, and its capital city is about seventeen or eighteen li in circuit. The soil is fit for growing millet and wheat. It yields round-grained rice, grapes, and pomegranates, and plenty of pears, crabapples, peaches, and apricots. It produces gold, copper, iron, lead, and tin. Its climate is mild and the people are honest and upright by nature. Their writing is taken from that of India but with minor alterations. Their skill in playing wind and stringed instruments is well known in various countries. They dress in brocade and hempen clothes, cut their hair short, and wear turbans. For currency they use gold, silver, and small copper coins. Being a man of Kuci, the king has little resourcefulness and is under the control of powerfid ministers.
Ở đây có tục lệ vừa sinh con ra thì dùng miếng ván phẳng ép vào đầu để làm cho hình dáng dẹt lại, mỏng hơn, cho như vậy là đẹp. Trong nước có hơn trăm ngôi chùa, tăng chúng hơn 5.000 vị, học theo giáo lý của phái Thuyết nhất thiết hữu thuộc Tiểu thừa. Kinh giáo, luật nghi đều theo như Ấn Độ, nên người học kinh điển đều dùng nguyên bản Phạn văn. Họ vẫn theo Tiệm giáo nên dùng ba loại tịnh nhục, lấy việc chuyên tâm giữ mình thanh khiết, trong sạch để so sánh công phu.
It is their custom to press the heads of their babies into a flat shape with wooden planks. There are over one hundred monasteries with some five thousand monks, who study the Sarvastivada school of the Hinayana teachings. Their scriptural teachings and Vinaya discipline follow the example of India, so they study the books on these subjects in the original Indian language. As they eat the three kinds of pure meat together with other foodstuffs, they are still stagnating in the stage of the gradual teaching. But they are pure in conduct and deeply engrossed in studies, and they compete with one another in their achievement of spiritual cultivation.
Ở miền đông nước này có một tòa thành, phía bắc thành ấy có miếu thờ Phạm thiên, trước miếu có hồ rồng rất lớn.
In front of a deva temple to the north of a city in the eastern part of the country there is a big dragon pond.
Những con rồng ở đây thường biến hình để giao hợp với ngựa cái, sanh ra giống ngựa con gọi là long câu, bướng bỉnh, rất khó thuần phục để cưỡi. Phải đến những con ngựa con của giống long câu này mới thuần phục được để kéo xe. Do vậy nên nước này có nhiều ngựa hay.
The dragons of the pond often changed their form to mate with mares and gave birth to dragon colts, which were fierce and unruly, but the offspring of the dragon colts were tamable. That is why plenty of good horses are bred in this country.
Theo các ghi chép còn lưu lại, thời gần đây có một vị vua [cai trị ở tòa thành này], hiệu là Kim Hoa, dùng chính sách cai trị rất sáng suốt nên cảm được rồng hiện lên kéo xe cho vua. Lúc vua Kim Hoa sắp băng hà, dùng roi đánh xe chạm vào tai rồng, nhân đó rồng liền ẩn hình vào hồ mãi đến ngày nay.
I heard some old people say that there was recently a king named Golden Flower who, through his sagacious administration and sharp insight into political affairs, convinced one of the dragons to pull his carriage for him. When the king was approaching death he touched the dragon’s ear with his whip and it then submerged into the pond and hid itself, up to the present time.
Trong thành không có giếng nước, người dân phải ra lấy nước hồ. Rồng biến hình thành người, giao hợp với những phụ nữ [đi lấy nước], sanh ra con có sức mạnh, dũng mãnh khác thường, chạy nhanh như ngựa. Cứ như thế lâu ngày, dân cư trong thành ấy dần dần đều lai tạp giống rồng. Họ ỷ vào sức mạnh, tác oai tác quái, không nghe theo lệnh vua. Vua liền liên kết với quân Đột-quyết, giết hết dân trong thành, kẻ già người trẻ đều giết sạch, không sót một ai. Do vậy thành này hoang phế cho đến nay, không còn bóng người.
As there was no well in the city the people drew water from this pond. The dragons transformed themselves into human form and mated with the women. Their descendants were strong and courageous and could run as fast as a galloping horse. In this manner the blood of the dragons was diffused and everybody became a person of the dragon race. Relying on their physical strength, they rode roughshod over others and paid no heed to the king’s orders. Thus the king colluded with the Turks to slaughter all the inhabitants, old and young, in the city. After the massacre not a single person was left living in the city, which is now a deserted place without a trace of human habitation.
Về phía bắc tòa thành hoang phế này khoảng hơn 13 km, có hai ngôi chùa nằm ven sườn núi, cách nhau một con sông, cùng tên Chiếu-hỗ-ly (Cakuri), nhưng tùy theo vị trí mà gọi là Đông Chiếu-hỗ-ly và Tây Chiếu-hỗ-ly. Tượng Phật được trang trí chạm khắc rất đẹp, tinh xảo như vượt ngoài khả năng con người. Chư tăng dùng chay thanh tịnh, [trong sự tu tập luôn] chí thành gắng sức chuyên cần.
More than forty li to the north of the deserted city there are two monasteries separated by a river close to the comer of a mountain. Both monasteries, one on the east side and the other on the west side of the river, are named Cakuri. The images of the Buddha and the ornaments are so beautifully made that they almost excel human craftsmanship. The monks are pure and austere in conduct and are sincere and diligent in their studies.
Trong điện thờ Phật ở chùa Đông Chiếu-hỗ-ly có một phiến ngọc thạch, rộng gần 70 cm, màu trắng ngả sang vàng, hình dạng như con sò biển. Trên phiến ngọc thạch này có dấu chân Phật, chiều dài khoảng 60 cm, chiều rộng khoảng 20 cm, thỉnh thoảng vào những ngày trai [dấu chân Phật] lại tỏa ra ánh sáng.
In the buddha hall of Eastern Cakuri Monastery there is a jade stone about two feet in width, yellowish-white in color, in the shape of a sea clam. On the stone there is a footprint of the Buddha, one foot eight inches in length and more than six inches wide. On fast days it sometimes issues a brilliant light.
Bên ngoài cửa tây của kinh thành, hai bên đường đều có dựng tượng Phật, cao khoảng 30 mét. Cứ 5 năm lại có tổ chức một lần Đại hội ngay trước các tượng Phật này.
There are two standing statues of the Buddha, more than ninety feet in height, one at each side of the road outside the west gate of the capital city. It is at this place in front of the statues that the great quinquennial congregations are held.
Mỗi năm, vào tiết thu phân lại có một thời gian khoảng mấy mươi ngày, chư tăng cả nước đều về đây tập hội. Trên từ đức vua, dưới cho đến hàng sĩ phu, thứ dân đều gác bỏ mọi công việc thường ngày [để về đây] phụng trì trai giới, nghe kinh học pháp suốt ngày không mệt mỏi. Chư tăng các chùa trang hoàng tượng Phật nghiêm trang, dùng nhiều thứ châu báu, gấm lụa để trang sức rồi dùng xe đưa tượng Phật đi, gọi là rước tượng. Có đến hàng ngàn xe như thế quy tụ về nơi đại hội.
Every year, for several tens of days around the autumnal equinox, all the monks in the whole country come here to attend a meeting. From the monarch and princes on down to the commoners, all suspend their secular affairs and observe the precepts; they study the scriptures and listen to the discourses on the Dharma for a whole day at a time without feeling fatigue. All the monasteries decorate their buddha images with jewels and gems, dress them in brocade and damask, and carry them in handcarts, counted by the thousand, to conduct what is known as the procession of images, flocking to meeting place.
Thường thì vào ngày rằm và ngày cuối tháng, đức vua và các vị đại thần cùng họp bàn quốc sự, thỉnh ý các vị cao tăng [về các quyết định] rồi mới công bố.
The king always discusses state affairs with his ministers on the fifteenth and the last day of the lunar month and, after consulting with the eminent monks about their discussion, they make a proclamation.
Từ chỗ hội trường này đi về hướng tây bắc, qua sông thì gặp chùa A-xa-lý-nhị. Chùa cao rộng thoáng đãng, tượng Phật được tu tạo trang hoàng rất đẹp. Chư tăng ở đây nghiêm trang, hòa nhã, tinh tấn chuyên cần không giải đãi, lại là những bậc tôn trưởng giàu đức độ, tài cao học rộng. [Do vậy] có rất nhiều người tài đức từ phương xa ngưỡng mộ tìm đến xin được lưu trú.
At the northwest of the meeting place I crossed a river and reached Ascarya (“Marvelous”) Monastery. The buildings and courtyards of the monastery are splendid and spacious and the buddha images are well adorned. The monks, quiet and austere in appearance, are diligent in their studies, without negligence. Old people of virtue with much learning and great talents are venerated. In admiration of their good conduct, brilliant scholars come here from distant lands to stay with them.
Nhà vua cùng các bậc đại thần, sĩ phu, thứ dân và các nhà hào phú trong nước luôn cúng dường bốn nhu cầu thiết yếu cho chư tăng, ngày càng thêm cung kính.
The king and his ministers, as well as the common people and magnates, provide the monks with the four monastic requisites with increasing respect as time goes on.
Theo các ghi chép còn lưu lại, xưa kia có một vị vua nước này rất sùng kính Tam bảo, muốn đi xa chiêm bái các thánh tích, liền truyền lệnh cho người em cùng mẹ khác cha thay mình chăm lo việc nước. Người em nhận lệnh, lẳng lặng tự cắt nam căn để ngừa trước việc chưa phát sinh, rồi đặt trong hộp vàng niêm kín lại, dâng lên vua. Vua hỏi: “Đây là vật gì?” Người em thưa: “Ngày nào xa giá hồi cung, xin hãy mở ra xem.” Vua liền giao cho quan chấp sự giữ và mang theo trong chuyến đi.
I heard some old people saying that once a previous king of this country, who revered the Triple Gem, wished to go on tour to worship various holy sites at different places, and he had his younger brother act as regent during his absence. Upon receiving the king’s order the younger brother secretly cut off his own genital organ and put it in a golden casket, as a precaution against possible calumny. He sent the casket to the king, who asked, “What is it?” His younger brother said in reply, “Upon your return, Your Majesty may open it and see.” The casket was then handed to a guard of the king’s 870c retinue for safekeeping during the journey.
Ngày vua trở về, quả nhiên có kẻ muốn vu họa, tâu với vua rằng: “Đại vương giao ông ấy lo việc nước, đã làm chuyện dâm loạn trong cung.” Vua nghe qua nổi giận, muốn dùng hình phạt nghiêm khắc. Người em liền thưa: “Thật không dám trốn tránh, chỉ xin đại vương mở hộp vàng ngày trước ra xem.” Vua liền mở hộp ra, nhìn thấy [nhưng không nhận ra là gì]. Vua hỏi: “Vật gì lạ vậy? Ngươi muốn làm rõ điều gì?” Người em thưa: “Khi đại vương đi xa, lệnh cho thần chăm lo mọi việc triều chính, vì sợ mối họa sàm tấu này nên đã tự cắt nam căn trước rồi, để tự minh oan. Nay đã có chứng cứ này, xin đại vương rủ lòng soi xét.” Đức vua hết sức lạ lùng kinh sợ, [hiểu rõ lời sàm tấu] nên tình anh em càng thêm sâu đậm. Từ đó liền cho phép người em tự do ra vào cung cấm.
When the king returned from his trip a slanderer actually accused the regent, saying, “The regent appointed by the king committed adultery in the inner palace.” On hearing this accusation the king was enraged and intended to impose a heavy punishment on the culprit. His younger brother said, “I would not dare evade the responsibility but I hope that the golden casket can be opened.” When the king opened the casket and found a severed male organ contained in it, he asked, “What is this strange thing? What do you want to say about it?” His younger brother said, “When Your Majesty went out on tour and appointed me as regent, I feared that the disaster of a possible [accusation of] calumny might befall me, so I cut off my genital organ to prove my innocence. Now this misfortune has actually happened to me. I hope Your Majesty will make a clear investigation into the case.” The king was deeply surprised to hear this and since then his fraternity toward his younger brother became more profound, so that he was allowed free admission to the inner palace without hindrance.
Về sau, người em vua có lần trên đường đi gặp một người đang lùa 500 con bò đực đi thiến. Người em vua nhìn thấy, liên tưởng đến chuyện của mình càng thêm đau buồn, liền nghĩ: “Ta nay thành người bị hoạn, lẽ đâu chẳng phải do tạo nghiệp từ đời trước?” Liền bỏ tiền ra mua hết cả đàn bò ấy [để cứu chúng].
Later, when the king’s younger brother was walking on the road, he met with a herdsman driving a herd of five hundred bulls to be castrated. On seeing these animals that were about to suffer the same impairment as he had, the king’s younger brother reflected on his own fate and thought, “Is it not due to my past evil deeds that I am now a deformed manin this life?” Thus he redeemed the herd of bulls from mutilation with money and valuables,
Do sức chiêu cảm của tâm từ bi hiền thiện nên nam căn dần hồi phục như xưa. Vì hồi phục như xưa nên không ra vào trong nội cung nữa. Vua thấy lạ gạn hỏi, người em liền kể lại hết sự việc như vậy. Đức vua cho là chuyện kỳ đặc, liền xây dựng ngôi chùa A-xa-lý-nhị (có nghĩa là kỳ đặc) để xưng tán chuyện này, truyền lại tiếng thơm cho đời sau.
and through the power of his compassion his genital organ was gradually restored. As he regained his masculinity he refused to enter the inner palace any more. When the amazed king asked him why, he told the king all the details. Regarding this as a marvelous affair, the king constructed the monastery in a beautiful style to transmit [his brother’s] good reputation to posterity.
Từ nơi đây đi về hướng tây khoảng 195 km nữa, vượt qua một bãi cát nhỏ thì đến nước Bạt-lộc-ca.
From here going westward for more than six hundred li, I crossed a small desert and arrived in the country of Baluka (formerly known as Gumo or Jimo).
3. Nước Bạt-lộc-ca

Nước Bạt-lộc-ca, chiều đông tây dài gần 200 km, chiều nam bắc khoảng 98 km, chu vi kinh thành khoảng 1.5-2 km. Về thời tiết, khí hậu, thổ nhưỡng, phong tục, dân tình, cách dùng chữ viết đều giống như nước Khuất-chi, riêng ngôn ngữ có khác biệt đôi chút. Nước này có các mặt hàng vải bông, vải sợi rất mềm mại, được các nước chung quanh ưa chuộng. Trong nước có khoảng mấy chục ngôi chùa, tăng chúng hơn ngàn vị, tu tập theo phái Thuyết nhất thiết hữu, thuộc Tiểu thừa.
The country of Baluka is over six hundred li from east to west and more than three hundred li from south to north, its capital city being five or six li in circuit. The native products, climate, temperament of the people, customs, written language, and law are all the same as in the country of Kuci, but the spoken language differs somewhat. Its fine cotton and hempen cloth is much valued in the neighboring countries. There are several tens of monasteries with more than a thousand monks, who study the Sarvastivada school of the Hinayana teachings.
Đi về hướng tây bắc của nước này khoảng 98 km, vượt qua một sa mạc có nhiều đá thì đến Lăng sơn. Đây chính là nơi khởi đầu từ phía bắc của rặng Thông Lĩnh, sông suối phần lớn đều chảy về hướng đông. Tuyết tụ nơi khe núi, mùa xuân, mùa hạ vẫn đông cứng, tuy cũng có lúc tan ra nhưng rồi đóng băng lại ngay. Đường đi hiểm trở, gió rét lạnh thê lương, thường xảy ra nạn rồng dữ hại người đi đường. Do vậy, người đi đường không được mặc áo đỏ, không mang bình đựng nước, không kêu la lớn tiếng. Chỉ một chút sơ ý phạm vào những điều này thì ngay lập tức tai họa ập đến, cuồng phong nổi dậy, cát bay đá chạy. Người đã gặp phải thì tiêu tan tính mạng, khó lòng sống sót.
Proceeding northwest from this country for more than three hundred li, I crossed a stony desert and reached the Ice Mountains, which are located at the northern side of the Pamir Range, where most of the streams flow eastward. Snow is accumulated in the valleys, which are freezing even in the spring and summer seasons, and although they sometimes melt a little they soon become frozen again. The path is dangerous and the cold wind blows with a piercing vehemence. There are frequent disasters caused by ferocious dragons that give trouble to travelers. Travelers going by this route should not wear garments of reddish-brown color, nor should they carry calabashes or 871a shout loudly. The slightest infringement of these taboos will cause immediate disaster. A fierce wind will arise all of a sudden, sand flying in the air and pebbles raining down from the sky. Those who encounter such a catastrophe are sure to die, [or at least] it is difficult for them to escape alive.
Đi theo đường núi khoảng hơn 130 km thì tới hồ nước lớn Thanh trì (cũng gọi là Nhiệt hải hay Hàm hải), chu vi đến hơn 325 km, chiều đông tây dài, chiều nam bắc hẹp, bốn bên dựa núi, các dòng nước chảy dồn xuống, nước có màu xanh đen, vị mặn đắng, sóng cả mênh mông, cuồn cuộn kinh người. Trong hồ có đủ loại rồng, cá, thường xuất hiện các loài linh quái, nên khách bộ hành qua lại thường cúng tế cầu đảo, mong được phước lành. Tuy trong hồ rất nhiều loài thủy tộc nhưng không ai dám đánh bắt.
Going among the mountains for over four hundred li, I reached the Great Pure Lake (also known as the Hot Sea or the Salt Sea), which is more than one thousand li in circuit. It is long from east to west and narrow from south to north. There are hills around the lake and many streams flow into it. The water is dark blue in color and brackish and bitter in taste. It is a vast expanse of water with huge and boisterous waves. Fish and dragons live together in the lake and supernatural monsters sometimes appear in it. Therefore passing travelers pray to them for good fortune and there are plenty of aquatic animals, though no one would venture to catch them.
Từ Thanh trì đi về hướng tây bắc hơn 163 km nữa thì đến thành Tố Diệp nằm ven sông, chu vi khoảng 1.5-2 km. Đây là nơi các nhà buôn người Hồ từ nhiều nước đến sống chung với nhau.
From the Pure Lake going northwest for more than five hundred li, I reached the City of Sushe River, which is about six or seven li in circuit, a place where traders of the Hu tribes from different countries mingle their abodes.
Vùng này thích hợp trồng các loại lúa môn, lúa mạch, nho... Rừng cây thưa thớt, khí hậu lạnh lẽo, gió rét lạnh, người dân dùng y phục vải thô hoặc dệt bằng lông thú.
The soil is good for growing millet, wheat, and grapes but fruit trees are scarce. The climate is windy and cold and the people wear clothes made of felt and hemp.
Phía tây thành Tố Diệp có mấy mươi tòa thành riêng lẻ, mỗi thành đều lập người đứng đầu, tuy không nhận mệnh lệnh chi phối lẫn nhau nhưng đều trực thuộc vua Đột-quyết.
To the west of Sushe River are some tens of isolated cities, each having its own ruler, but they do not obey one another and they are all under the domination of the Turks.
Vùng đất từ thành Tố Diệp đến nước Yết-sương-na (Kasanna) có tên là Tốt-lợi, người dân cũng được gọi là người Tốt-lợi (Suli). Chữ viết, ngôn ngữ cũng gọi theo tên này. Chữ viết của Tốt-lợi căn bản rất đơn giản, chỉ có hơn hai mươi chữ cái, phối hợp nhau để tạo ra từ ngữ, ngày càng nhiều hơn. Có một số bản văn ghi chép, được đọc theo chiều đứng. Văn hóa được lưu tâm truyền thụ nối tiếp cho đời sau, không để dứt mất. Y phục dùng vải dệt bằng lông thú hoặc bông vải, quần áo thường vừa bó chặt sát người. Cắt tóc để lộ đỉnh đầu hoặc cạo sạch hết rồi dùng khăn lụa quấn quanh trán. Người dân vóc dáng to lớn nhưng tính khí nhút nhát, kiêu căng dối trá, thường mưu mô gian xảo, nói chung là tham lam, cầu lợi, dù là cha con với nhau cũng tính toán lợi hại. Người càng nhiều tiền càng được tôn quý, dù lương thiện tốt đẹp hay hèn hạ xấu xa cũng không phân biệt. Cho dù giàu có muôn vạn, họ vẫn ăn mặc tằn tiện thô xấu. Khoảng một nửa dân số ra sức làm nông nghiệp và nửa còn lại chuyên kinh doanh trục lợi.
The region stretching from city of Sushe River up to the country of Kasanna is called Suli, and the people are known by the same name. Their language is also known as Suli. The alphabet of their language is brief and simple, having only twenty-odd rudimentary letters, with which a vast vocabulary is formed by a methodical spelling system. The people have rough written records, which are read vertically and are transmitted from teacher to pupil without interruption. They dress in felt and hempen clothes and put on fur and cotton garments. Both their undergarments and their upper clothes fit tightly. They cut their hair short and expose the tops of their heads, or they shave their heads completely, tying a colored silk band on the forehead. They are tall and sturdy in stature but timid in disposition. Their general mood is perfidious and deceptive. They are mostly avaricious and take account of money matters even between father and son. Wealthy people are honored and esteemed and there is no distinction between the well-born and the lowborn. A millionaire, however, may lead a simple and coarse life. Half of the population are farmers and the other half traders.
Từ thành Tố Diệp đi khoảng 130 km nữa thì đến vùng đất Thiên Tuyền, vuông vức mỗi bề khoảng 65 km, phía nam là Tuyết sơn, ba mặt còn lại giáp bình nguyên, đất đai màu mỡ ẩm ướt, cây rừng sum suê. Vào tháng cuối mùa xuân, trăm hoa đua nở rực rỡ muôn phần, ao hồ suối nước có đến ngàn nơi nên mới thành tên gọi Thiên Tuyền.
Going westward from Sushe City for more than four hundred li, I arrived at Thousand Springs. The district known by this name is over two hundred li square, facing the Snow Mountains in the north, with plains on the three other sides. The soil is fertile and damp and there are luxuriant trees. In late spring various flowers bloom as beautifully as embroidered silk. As there are a thousand springs, the district is named as such.
Khả Hãn Đột-quyết thường đến đây tránh mùa nắng nóng. Nơi đây có bầy hươu, hầu hết đều được đeo vòng lục lạc, quanh quẩn bên người không hề sợ hãi bỏ chạy. Khả Hãn ưa thích ngợi khen việc này, hạ lệnh nếu ai giết hươu thì xử tội chết không tha, nên đàn hươu ấy được sống đến trọn đời.
The Turkish Khan often comes here in the summer season to avoid the heat. There are flocks of deer, most of them wearing bells and rings. They are docile and friendly with people and do not easily become so afraid as to flee. These animals are pets of the Khan, who has forbidden his subjects to slaughter them on penalty of death, so they can live out their natural lifetimes.
Từ Thiên Tuyền đi về phía tây khoảng 45-50 km thì đến thành Đát-la-tư. Chu vi thành này khoảng 2.5-3 km, là nơi các thương gia người Hồ từ các nước đến sống chung. Nơi đây các loại cây trồng cũng như đất đai, khí hậu nói chung đều giống như ở thành Tố Diệp.
Going westward from Thousand Springs for one hundred and forty or fifty li, I reached the city of Taras, eight or nine li in circuit, being a place where traders of the Hu tribes from different countries make their abodes together. The natural products and climate are roughly the same as in Sushe.
Từ đây đi về phía nam khoảng hơn 3.2 km có một thành nhỏ nằm riêng biệt, có khoảng 300 gia đình, gốc người Trung quốc, trước kia bị quân Đột-quyết cướp [bắt đi], sau mới tụ họp người cùng quê hương đến ở chung trong thành này. Họ ăn mặc, giao tiếp đều giống như người Đột-quyết nhưng ngôn ngữ, lễ nghi [Trung quốc] vẫn còn gìn giữ.
Going southward for about ten li is a small isolated town, in which live more than three hundred Chinese families who were formerly taken prisoner by the Turks. Afterward they gathered together all their compatriots and safeguarded this town, in which they settled. They adopted the costume and 871b etiquette of the Turks but retained the language and ways of life of their own country.
Từ thành này đi về hướng tây nam hơn 65 km thì đến thành Bạch Thủy, chu vi khoảng 1.5-2 km. Nơi đây đất đai, sản vật, phong thổ, khí hậu đều vượt hơn hẳn ở thành Đát-la-tư.
From here going southwest for more than two hundred li, I arrived at the City of White Water, which is six or seven li in circuit. The native products and climatic conditions are much better than in Taras.
Từ đây lại đi tiếp về hướng tây nam hơn 65 km nữa thì đến thành Cung-ngự (Gongyu). Thành có chu vi chưa đến 2 km. Đây là vùng đồng bằng ẩm ướt, đất đai hết sức màu mỡ tươi tốt, cây cối sum suê rậm rạp.
Going south for more than two hundred li, I reached Gongyu City, which is five or six li in circuit. The plains and marshlands are rich and fertile and covered with luxuriant trees.
Từ đây lại đi về hướng nam khoảng 13-16 km nữa thì đến nước Nô-xích-kiến.
From here going south for forty or fifty li, I came to the country of Nujkend.
4. Nước Nô-xích-kiến

Nước Nô-xích-kiến chu vi hơn 325 km, đất đai màu mỡ tốt tươi, việc canh tác và thu hoạch đều hoàn bị. Cây cỏ sum suê sầm uất, hoa quả rất nhiều. Nơi đây trồng nhiều nho, được người dân xem là loại trái quý. Có đến hàng trăm thành ấp, mỗi thành đều có người cai trị riêng, có giao thiệp qua lại nhưng đều độc lập, không chịu mệnh lệnh của nhau. Tuy có bản đồ phân hoạch ranh giới riêng biệt, nhưng đều được gọi chung là nước Nô-xích-kiến.
The country of Nujkend is more than one thousand li in circuit, and the soil is fertile, tilled and reaped perfectly. The vegetation is luxuriant and there are profuse flowers and fruit. Grapes are grown in large quantities and are highly valued. There are about a hundred cities and towns, each governed by its own ruler, and they are mutually independent in taking action. Although they have clearly demarcated areas they are collectively known as the country of Nujkend.
Từ đây đi về hướng tây hơn 65 km nữa thì đến nước Giả-thời.
From here going westward for over two hundred li, I came to the country of Shash (known as the country of Shi in Chinese).
5. Nước Giả-thời

Nước Giả-thời chu vi hơn 325 km, phía tây giáp sông Diệp, chiều đông tây hẹp, chiều nam bắc dài. Nơi đây đất đai, khí hậu cũng giống như nước Nô-xích-kiến.
The country of Shash is more than one thousand li in circuit, bordering the She River on the west. It is narrow from east to west and long from south to north. The natural products and climate are the same as in Nujkend.
Nước này có khoảng mấy chục thành ấp, mỗi nơi đều có người cai trị riêng, nhưng không có người đứng đầu, tất cả đều phụ thuộc Đột-quyết.
There are several tens of cities and towns, each having its own rider without a sovereign lord, and all of them are under the control of the Turks.
Từ nơi đây đi về hướng đông nam hơn 325 km thì đến nước Phế-hãn.
From here proceeding southeast for more than one thousand li, I reached the country of Feihan.
6. Nước Phế-hãn

Nước Phế-hãn chu vi khoảng 1.300 km, bốn bề núi non bao bọc, đất đai màu mỡ tốt tươi, hoa màu xanh tốt, trồng nhiều loại hoa quả. Nơi đây thích hợp nuôi ngựa và dê. Khí hậu lạnh lẽo, gió rét. Người dân tính tình rắn rỏi, mạnh mẽ, hình dung tướng mạo xấu xí. Ngôn ngữ khác biệt với những nước khác. Mấy chục năm qua, nước này không có vua, các thế lực trong nước tranh giành quyền lực với nhau, không ai phục ai, mỗi người đều chiếm cứ những nơi địa hình hiểm trở, phân chia ranh giới lãnh thổ riêng.
The country of Feihan is over four thousand li in circuit and is surrounded by mountains on four sides. The land is fertile and the agricultural products are rich. There are plenty of flowers and fruit, and it is fit for rearing sheep and horses. The climate is windy and cold and the people are stout and brave by nature. Their language is different from those of other countries, and their features are ugly and misshapen. For the last several decades there has been no sovereign ruler in the country; the chieftains compete with one another for power and no one yields to the others. They have delimited the boundaries of their districts by rivers and precipitous mountains.
Từ đây đi về phía tây hơn 325 km thì đến nước Tốt-đổ-lợi-sắt-na.
From here going westward for more than one thousand li, I reached the country of Sutrushana.
7. Nước Tốt-đổ-lợi-sắt-na

Nước Tốt-đổ-lợi-sắt-na chu vi khoảng 460-490 km, phía đông giáp sông Diệp. Sông Diệp phát nguyên từ phía bắc rặng Thông Lĩnh, chảy về hướng tây bắc, mặt sông mênh mông, nước ngầu đục, dòng chảy xiết. Nơi đây đất đai, phong tục cũng giống nước Giả-thời. Nước này có vua cai trị, thần phục Đột-quyết.
The country of Sutrushana is fourteen or fifteen hundred li in circuit, bordering the She River on the east, which has its source in the plateau to the north of the Pamir Range. It is a mighty river of muddy water with rapid currents. The native products and customs are the same as in the country of Shash. In this country there is a king who is affiliated with the Turks.
Từ nước này đi về hướng tây bắc thì vào một vùng sa mạc lớn, tuyệt nhiên không có cỏ cây, khô khan không có nước. Không có lối mòn để đi theo, bốn phía mênh mông thật khó xác định ranh giới, phương hướng, chỉ có thể dõi nhìn dáng núi cao từ xa để tìm và dựa vào những bộ xương khô rải rác đó đây để xác định hướng đi. Vượt qua khoảng hơn 163 km thì đến nước Táp-mạt-kiến.
From here going toward the northwest, I entered a great desert in which there is absolutely no water or grass. The roads are lost in the vast waste, and its limits are unfathomable. Only by looking at the huge mountains and following the scattered skeletons can one know the direction and find the path.
After traveling for over five hundred li, I reached the country of Samarkand (known as Kangguo in Chinese).
8. Nước Táp-mạt-kiến

Nước Táp-mạt-kiến chu vi khoảng 510-550 km, chiều đông tây dài, chiều nam bắc hẹp. Chu vi kinh thành hơn 6.5 km, hết sức hiểm trở, [địa thế phòng thủ] vững chắc, dân cư đông đúc, có nhiều mặt hàng quý, trân bảo từ nơi khác quy tụ về đây.
The country of Samarkand is sixteen or seventeen hundred li in circuit, long from east to west and narrow from south to north. The capital city is more than twenty li in circuit and is a completely invulnerable stronghold with a large population. Precious goods of different quarters are mostly centralized in this country.
Nước này đất đai màu mỡ tốt tươi, việc canh tác và thu hoạch đều hoàn thiện, cây cối xanh tốt, hoa quả tốt tươi. Nơi đây có nhiều ngựa hay, hàng thủ công mỹ nghệ đặc biệt tinh xảo vượt hơn các nước khác. Khí hậu ôn hòa, dễ chịu, cư dân tính tình mạnh mẽ, táo bạo, năng động. Các nước khác đều xem đây là trung tâm, bất kể gần xa đều noi theo những phép tắc, lễ nghi, quy phạm của nước này. Vua nước này sáng suốt dũng mãnh, các nước láng giềng đều thần phục. Binh mã hùng mạnh, đông đảo, phần đông là giả-yết. Danh hiệu giả-yết đều là những chiến sĩ dũng cảm, mạnh mẽ, xem cái chết chỉ như sự trở về. Họ chiến đấu như không có đối thủ.
The soil is rich and fertile and all kinds of crops are cultivated. The trees of the forests are luxuriant and have profuse flowers and fruit. This country yields many good horses and its skillfol craftsmen are the best among various countries. The climate is mild and temperate but the people are irascible by nature. The various states of the Hu tribe regard this country as their center, and people far and near follow the example of this country in social manners and behavior. The king is a valorous man and the neighboring countries obey his orders. He has a strong military force consisting of a large body of Cakar warriors; the Cakar people are courageous by nature, fearless of death, and without rival in martial skill.
Từ nước này đi về hướng đông nam thì đến nước Nhị-mạt-hạ.
From here proceeding toward the southeast, one goes to the country of Mimohe (known as Miguo in Chinese).
9. Nước Nhị-mạt-hạ

Nước Nhị-mạt-hạ chu vi ước khoảng 135-163 km, nằm lọt trong vùng khe núi, chiều đông tây hẹp, chiều nam bắc dài. Nơi đây thổ nhưỡng, phong tục tập quán đều giống như nước Táp-mạt-kiến.
The country of Mimohe is four or five hundred li in circuit, situated in the middle of a plain, narrow from east to west and long from south to north. The native products and customs are the same as in the country of Samarkand.
Từ đây đi về hướng bắc thì đến nước Kiếp-bố-đát-na.
From here proceeding toward the north, one arrives at the country of Kaputana (known as Caoguo in Chinese).
10. Nước Kiếp-bố-đát-na

Nước Kiếp-bố-đát-na chu vi ước khoảng 460-490 km, chiều đông tây dài, chiều nam bắc hẹp, phong tục, thổ nhưỡng đều giống như nước Táp-mạt-kiến.
The country of Kaputana is fourteen or fifteen hundred li in circuit, long from east to west and narrow from south to north. The native products and customs are the same as in the country of Samarkand.
Từ nước này đi về hướng tây hơn 98 km thì đến nước Khuất-sương-nhĩ-già.
From this country proceeding westward for more than three hundred li, one arrives at the country of Kusanika (known as Heguo in Chinese).
11. Nước Khuất-sương-nhĩ-già

Nước Khuất-sương-nhĩ-già chu vi ước khoảng 460-490 km, chiều đông tây hẹp, chiều nam bắc dài. Nơi đây thổ nhưỡng, phong tục tập quán đều giống như nước Táp-mạt-kiến.
The country of Kusanika is fourteen or fifteen hundred li in circuit, narrow from east to west and long from south to north. The native products and customs are the same as in the country of Samarkand.
Từ nước này đi về hướng tây hơn 65 km thì đến nước Khái-hãn.
From this country proceeding westward for more than two hundred li, one reaches the country of Khagan (known as East Anguo in Chinese).
12. Nước Khái-hãn

Nước Khái-hãn chu vi hơn 325 km, thổ nhưỡng, phong tục tập quán đều giống như nước Táp-mạt-kiến.
The country of Khagan is more than one thousand li in circuit and the native products and customs are the same as in the country of Samarkand.
Từ nước này đi về hướng tây hơn 130 km thì đến nước Bộ-khái.
From this country proceeding westward for more than four hundred li, one reaches the country of Bukhara (known as Middle Anguo in Chinese).
13. Nước Bộ-khái

Nước Bộ-khái chu vi ước chừng 510-550 km, chiều đông tây dài, chiều nam bắc hẹp, thổ nhưỡng, phong tục tập quán đều giống như nước Táp-mạt-kiến.
The country of Bukhara is sixteen or seventeen hundred li in circuit, long from east to west and narrow from south to north. The native products and customs are the same as in the country of Samarkand.
Từ nước này đi về hướng tây hơn 130 km thì đến nước Phạt-địa.
From this country proceeding westward for more than four hundred li, one reaches the country of Betik (known as West Anguo in Chinese).
14. Nước Phạt-địa

Nước Phạt-địa chu vi hơn 130 km, thổ nhưỡng, phong tục tập quán giống như nước Táp-mạt-kiến.
The country of Betik is more than four hundred li in circuit and its native products and customs are the same as in the country of Samarkand.
Từ đây đi về hướng tây nam hơn 163 km thì đến nước Hóa-lợi-tập-di-ca.
From here proceeding southwest for over five hundred li, one reaches the country of Horismrka.
15. Nước Hóa-lợi-tập-di-ca

Nước Hóa-lợi-tập-di-ca nằm dọc theo hai bên sông Phược-sô, chiều đông tây ước chừng khoảng 7-10 km, chiều nam bắc hơn 163 km, thổ nhưỡng, phong tục tập quán giống như nước Phạt-địa, ngôn ngữ chỉ khác biệt đôi chút.
The country of Horismrka, lying along the Oxus River on both banks, is twenty or thirty li from east to west and over five hundred li from south to north. The native products and customs are the same as in the country of Betik but the language is slightly different.
Từ nước Táp-mạt-kiến đi về hướng tây nam hơn 98 km thì đến nước Yết-sương-na.
Going southwest from the country of Samarkand for more than three hundred li, I reached the country of Kasanna (known as Shiguo in Chinese).
16. Nước Yết-sương-na

Nước Yết-sương-na chu vi ước khoảng 450-480 km, thổ nhưỡng, phong tục tập quán giống như nước Táp-mạt-kiến.
The country of Kasanna is fourteen or fifteen hundred li in circuit, and the native products and customs are the same as in the country of Samarkand.
Từ đây đi về hướng tây nam hơn 65 km thì vào vùng núi. Đường núi quanh co gập ghềnh, lối đi hẹp rất nguy hiểm. Vùng này không có người ở, lại cũng hiếm thấy cây cỏ, nguồn nước.
From here going southwest for more than two hundred li, I entered a mountainous region, where the roads are rough and rugged and the narrow path is dangerous. There are no inhabitants and little water and grass.
Từ núi này đi về hướng đông nam hơn 98 km thì đến cửa ải Thiết Môn, hai bên đều là vách núi cao chót vót, tuy có lối đi hẹp nhưng càng đi càng thêm hiểm trở. Vách núi đá hai bên dựng đứng có màu giống như sắt. Cửa ngăn bằng sắt, lại ghép bằng đinh sắt, có nhiều chuông lắc nhỏ cũng bằng sắt treo trên cửa. Do cửa này hiểm trở kiên cố nên có tên là Thiết Môn.
Going southeast among the mountains for over three hundred li, I entered the Iron Gate. On both sides of the Iron Gate there are precipitous rocks. Although there is a narrow path, it is hardly accessible. The rocky walls standing on both sides of the path are of the color of iron. The door panels are strengthened with iron and many iron bells are hanging on them. As it is in an impregnable position, it is called by this name.
Qua khỏi Thiết Môn thì đến vùng Đổ-hóa-la.
Going out of the Iron Gate, I arrived at the country of Tukhara (formerly transcribed incorrectly as the country of Tuhuoluo).
Vùng đất này, chiều nam bắc khoảng 325 km, chiều đông tây hơn 970 km, phía đông có rặng núi Thông Lĩnh án ngữ, phía tây giáp với Ba-lạt-tư (Persia), phía nam là Đại Tuyết sơn, phía bắc là cửa ải Thiết Môn. Sông lớn Phược-sô chảy từ đông sang tây, băng ngang qua giữa vùng đất này.
This territory is over one thousand li from south to north and more than three thousand li from east to west. It borders on the Pamir Range in the east, adjoins Persia in the west, touches the Great Snow Mountains in the south, and occupies the Iron Gate in the north, with the great Oxus River flowing westward through the middle of it.
Trong mấy trăm năm qua, hoàng tộc nước này không có người nối dõi, nên các thế lực trong nước tranh giành với nhau, mỗi phe đều chiếm cứ những nơi hiểm địa, tự xưng vương quyền, phân chia ra thành 27 nước. Tuy các nước này đã phân chia ranh giới, nhưng tất cả đều thần phục Đột-quyết.
For several centuries the royal family had no offspring and the powerful chieftains competed vigorously with one another, each trying to be the lord of his own district, delimited by rivers and strategic positions, and they divided the country into twenty-seven states. Although each [of these chieftains] has his own clearly demarcated territory they are all under the domination of the Turks.
Khí hậu ấm áp, sinh nhiều dịch bệnh. Khoảng cuối đông đầu xuân thường có nhiều đợt mưa dầm nối tiếp liên miên, cho nên phát sinh rất nhiều dịch bệnh trong khu vực từ Đổ-hóa-la chạy về phía nam và từ nước Lam-ba (Lampa) chạy về phía bắc.
As the climate is temperate illness and pestilence are rampant. By the end of winter and at the beginning of spring, when there is continuous heavy rain, febrile ailments are prevalent in all the countries south of this territory down to the north of Lampa.
Tăng chúng nơi đây bắt đầu an cư từ ngày 16 tháng 12, cho đến ngày 15 tháng 3 thì kết thúc, vì thời gian này có mưa nhiều. Đây cũng là ý nghĩa thiết lập giáo pháp, quy định tùy theo hoàn cảnh thực tế của mỗi nơi.
The monks commence their summer retreat on the sixteenth day of the twelfth month and end it on the fifteenth day of the third month. It is because this place has so much rain that the dates are thus fixed according to the seasons.
Cư dân nơi đây tính tình nhút nhát, mềm yếu, hình dáng dung mạo xấu xí, có điều cũng biết qua về trung tín, nghĩa khí nên không lừa dối, lường gạt. Cung cách ứng xử và ngôn ngữ có phần khác biệt với những nước khác. Về văn tự, căn bản có 25 mẫu tự, phối hợp tạo thành từ ngữ, đủ dùng để biểu đạt hết thảy sự vật, sự việc. Văn bản được đọc theo chiều ngang, từ trái qua phải. Số lượng văn bản khá nhiều, vượt xa hơn ở vùng Tốt-lợi. Y phục phần nhiều dùng vải dệt từ bông vải, hiếm khi dùng vải gai. Tiền tệ thông dụng là tiền vàng, tiền bạc, hình dạng khác biệt so với tiền của các nước khác.
The people are timid and cowardly and are bad-looking, but in manner they are creditable and loyal and they seldom resort to deception. Their language and manners differ slightly from those of other countries. There are twenty-five letters in their alphabet, by which various words are formed to express all things. Their writing is horizontal, from left to right, and their records have been gradually increased until they exceed those of Suli in number. They use more cotton than hemp in making clothes. For currency they use golden, silver, and other coins, which are different in shape from those of other countries.
Đi xuôi theo bờ phía bắc sông Phược-sô về phía hạ lưu thì đến nước Đát-mật.
Following the course of the Oxus River northward to the lower reaches, one arrives at the country of Tirmidh.
17. Nước Đát-mật

Nước Đát-mật, chiều đông tây dài, hơn 195 km, chiều nam bắc hẹp, hơn 130 km, chu vi kinh thành hơn 6.5 km. Cả nước có hơn 10 ngôi chùa, tăng chúng hơn 1.000 vị. Các tháp thờ và tượng Phật đều có nhiều điều thần dị, nhiều sự linh ứng.
The country of Tirmidh is more than six hundred li from east to west and over four hundred li from south to north, its capital city being more than twenty li in circuit, long from east to west and narrow from south to north. There are more than ten monasteries with over one thousand monks. The stupas (known in old times as futu, toupo, tapo, sitoubo, or soudoubo, all erroneous) and the venerated images of the Buddha are mostly miraculous and cause spiritual manifestations.
Về phía đông là nước Xích-ngạc-diễn-na.
To the east of this country is the country of Sahaniyan.
18. Nước Xích-ngạc-diễn-na

Nước Xích-ngạc-diễn-na, chiều đông tây hơn 130 km, chiều nam bắc hơn 163 km, chu vi kinh thành hơn 3.2 km. Có 5 ngôi chùa, tăng chúng rất ít.
The country of Sahaniyan is more than four hundred li from east to west and over five hundred li from south to north; its capital city is more than ten li in circuit. There are five monasteries with very few monks.
Về phía đông là nước Hốt-lộ-ma.
872b To the east of this country is the country of Kharun.
19. Nước Hốt-lộ-ma

Nước Hốt-lộ-ma, chiều đông tây hơn 32 km, chiều nam bắc hơn 98 km, chu vi kinh thành hơn 3.2 km. Vua nước này là người xứ Hề-tố, thuộc Đột-quyết. Trong nước có hai ngôi chùa, tăng chúng hơn 100 vị.
The country of Kharun is over one hundred li from east to west and more than three hundred li from south to north, its capital city being over ten li in circuit. The king is a Turk from Xisu. There are two monasteries with over one hundred monks.
Về phía đông là nước Du-mạn.
To the east of this country is the country of Shuman.
20. Nước Du-mạn

Nước Du-mạn, chiều dài đông tây hơn 130 km, chiều nam bắc hơn 32 km, chu vi kinh thành khoảng 5-5.5 km. Vua nước này cũng là người xứ Hề-tố, thuộc Đột-quyết. Trong nước có hai ngôi chùa, tăng chúng rất ít.
The country of Shuman is more than four hundred li from east to west and over one hundred li from south to north, its capital city being sixteen or seventeen li in circuit. The king is a Turk from Xisu. There are two monasteries with very few monks.
Phía tây nam giáp với sông Phược-sô rồi đến nước Cúc-hòa-diễn-na.
To the southwest along the Oxus River is the country of Kuvayana.
21. Nước Cúc-hòa-diễn-na

Nước Cúc-hòa-diễn-na, chiều đông tây khoảng hơn 65 km, chiều nam bắc hơn 98 km, chu vi kinh thành hơn 3.2 km. Có ba ngôi chùa, tăng chúng hơn 100 vị.
The country of Kuvayana is more than two hundred li from east to west and over three hundred li from south to north, its capital city being over ten li in circuit. There are three monasteries with over one hundred monks.
Về phía đông là nước Hoạch-sa.
To the east of this country is the country of Wakhsh.
22. Nước Hoạch-sa

Nước Hoạch-sa, chiều đông tây hơn 98 km, chiều nam bắc hơn 163 km, chu vi kinh thành khoảng 5-5.5 km.
The country of Wakhsh is more than three hundred li from east to west and over five hundred li from south to north, its capital city being sixteen or seventeen li in circuit.
Về phía đông là nước Kha-đốt-la.
To the east of this country is the country of Khuttalan.
23. Nước Kha-đốt-la

Nước Kha-đốt-la, chiều đông tây khoảng 325 km, chiều nam bắc cũng khoảng 325 km, chu vi kinh thành hơn 6.5 km. Phía đông giáp với rặng núi Thông Lĩnh, rồi tiếp đến là nước Câu-mê-đà.
The country of Khut- talan is over one thousand li from east to west and more than one thousand li from south to north, its capital city being over twenty li in circuit. It adjoins the Pamir Range and reaches the country of Komidai in the east.
24. Nước Câu-mê-đà

Nước Câu-mê-đà, chiều đông tây khoảng hơn 650 km, chiều nam bắc hơn 65 km, nằm lọt vào trong rặng núi Thông Lĩnh. Chu vi kinh thành hơn 6.5 km. Phía tây nam giáp với sông Phược-sô, phía nam giáp với nước Thi-khí-ni.
The country of Komidai is more than two thousand li from east to west and over two hundred li from south to north, being situated among the mountains of the Pamir Range. The capital city is more than twenty li in circuit. It borders on the Oxus River in the southwest and adjoins the country of Sikni in the south.
Về hướng nam, qua sông Phược-sô thì có thể đến các nước Đạt-ma-tất-thiết-đế (Dharmasthiti), Bát-đạc-sang-na (Madakhshan), Dâm-bạc-kiện (Yamgan), Khuất-lang-noa (Kurana), Hứ-ma-đát-la (Himatala), Bát-lợi-át (Parghar), Ngật-lật-sắt-ma (Kishm), Hạt-la-hồ (Rahula), A-lợi-ni (Arhan), Măng-kiện (Mungan).
Crossing the Oxus River to the south, it reaches the country of Dharmasthiti, the country of Madakhshan, the country of Yamgan, the country of Kuran, the country of Himatala, the country of Parghar, the country of Kishm, the country ofRahula, the country of Arhan, and the country of Mungan.
Từ nước Hoạt (Huoh) đi về hướng đông nam là nước Khoát-tất-đa (Khost) và nước An-đát-la-phược (Andarab). Các nước này được nói đến trong phần ghi chép hành trình quay về.
To the southeast of the country of Warwaliz are the countries of Khost and Andarab. Accounts of these countries may be found in the descriptions of my return journey.
Từ nước Hoạt đi về hướng tây nam là nước Phược-già-lãng.
To the southwest of the country of Warwaliz is the country of Baghlan.
25. Nước Phược-già-lãng

Nước Phược-già-lãng, chiều đông tây hơn 16 km, chiều nam bắc hơn 65 km, chu vi kinh thành hơn 3.2 km.
The country of Baghlan is more than fifty li from east to west and over two hundred li from south to north; its capital city is more than ten li in circuit.
Về hướng nam là nước Hột-lộ-tất-dân-kiện.
To the south is the country of Hrum-Simingan.
26. Nước Hột-lộ-tất-dân-kiện

Nước Hột-lộ-tất-dân-kiện chu vi hơn 325 km, chu vi kinh thành khoảng 4.5-5 km.
The country of Hrum-Simingan is over one thousand li in circuit and its capital city is fourteen or fifteen li in circuit.
Về hướng tây bắc là nước Hốt-lẫm.
To the southwest is the country of Khulm.
27. Nước Hốt-lẫm

Nước Hốt-lẫm chu vi hơn 260 km, chu vi kinh thành khoảng 1.5-2 km. Nơi đây có hơn 10 ngôi chùa, tăng chúng hơn 500 vị.
The country of Khulm is over eight hundred li in circuit and its capital city is five or six li in circuit. There are more than ten monasteries with over five hundred monks.
Về hướng tây là nước Phược-hát.
872c To the west is the country of Baktra.
28. Nước Phược-hát

Nước Phược-hát, chiều đông tây hơn 260 km, chiều nam bắc hơn 130 km, phía bắc giáp sông Phược-sô. Chu vi kinh thành hơn 6.5 km, thường được gọi là thành Tiểu Vương Xá. Thành tuy kiên cố nhưng dân cư rất ít.
The country of Baktra is more than eight hundred li from east to west and over four hundred li from south to north, bordered by the Oxus River on the north. Its capital city, which is more than twenty li in circuit, is popularly known as Smaller Rajagrha. It is a strongly fortified city but sparsely populated.
Vùng này sản vật phong phú, rất nhiều, trên đồng dưới nước đủ các loại hoa, thật khó kể ra hết. Nơi đây có hơn 100 ngôi chùa, tăng chúng hơn 3.000 vị, đều tu học theo giáo pháp Tiểu thừa.
There are a great many varieties of native products and the terrestrial and aquatic flowers are too many to be enumerated. There are more than one hundred monasteries with over three thousand monks, all of whom study and practice the Hinayana teachings.
Phía bên ngoài thành, về hướng tây nam có chùa Nạp-phược, do một vị vua trước đây của nước này xây dựng. Khắp một vùng phía bắc Đại Tuyết sơn, chỉ duy nhất chùa này là có các bậc đại sư giảng kinh viết luận truyền nối đời đời không dứt.
To the southwest outside the city is New Monastery, built by a previous king of this country. This is the only monastery north of the Great Snow Mountains in which various Buddhist commentators have worked continuously without intermission.
Tượng Phật trong chùa được làm bằng những loại trân bảo quý giá. Chùa cũng được trang hoàng bằng nhiều báu vật quý hiếm. Vì vậy, các vua lân bang tham lam đều muốn đánh cướp.
The Buddha’s image is adorned with famous jewels and the halls are decorated with rare precious substances. For this reason the rulers of various countries attacked the monastery in order to caphire the valuables.
Chùa vốn có một pho tượng Tỳ-sa-môn Thiên vương rất linh ứng, có thể dựa vào đó để âm thầm gìn giữ, bảo vệ chùa.
In the monastery there is a statue of the deity Vaisravana, who is reliable in his spiritual power and serves as a guardian of the monastery in a hidden sense.
Gần đây, vị Khả Hãn [đời trước] của Đột-quyết là Diệp Hộ, có người con trai là Khả Hãn Tứ Diệp Hộ, đã huy động toàn bộ binh lực kéo đến, dự tính bất ngờ tấn công vào chùa để cướp lấy trân bảo, báu vật. Khi còn cách chùa không xa, Khả Hãn cho dựng trại đóng quân tạm nghỉ giữa đồng. Đêm hôm đó, Khả Hãn mộng thấy Tỳ-sa-môn Thiên vương hiện ra nói rằng: “Nhà ngươi sức lực được bao nhiêu mà dám đến phá chùa?” Nói rồi dùng cây kích dài đâm một nhát xuyên từ trước ngực ra sau lưng. Khả Hãn kinh sợ tỉnh giấc, cảm thấy đau nhói nơi tim, liền kể lại cho thuộc hạ nghe về giấc mộng, rồi vội vã sai người đi thỉnh chư tăng đến để đích thân sám hối tạ tội. Nhưng thuộc hạ đi chưa kịp về thì Khả Hãn đã vong mạng.
Recently the Turkish Shehu Khan’s son, named Si Shehu Khan, mobilizing all the forces of his tribe and commanding his army, launched a surprise aback on the monastery and attempted to seize the jewels. Not far away from the monastery he camped with his troops. During the night he dreamed of Vaisravana, who said to him, “What power do you have that you dare to devastate the monastery?” So saying, he thrust his spear through the Khan’s chest. Waking in terror, the Khan felt an acute heartache and told his subordinates about his evil dream. Then he hurriedly sent messengers to invite the monks so that he might confess his wickedness in their presence, but he died before the messengers returned.
Nơi phía nam điện thờ Phật trong chùa có một chiếc bồn tắm của Phật, có thể chứa đến hơn một đấu nước, màu sắc rực rỡ kỳ diệu, khó có thể nói được đó là kim loại quý hay đá quý. Lại có một chiếc răng Phật, dài khoảng 3.5 cm, rộng chừng 2.5-3 cm, màu trắng ngà, hình thể sáng đẹp. Trong chùa còn có một cây chổi quét của Phật, được làm bằng cỏ ca-xa, dài hơn khoảng 70 cm, vòng quanh thân chổi đo được khoảng 24 cm. Cán chổi được trang sức bằng nhiều trân bảo quý giá.
In the southern buddha hall of this monastery there is a Buddha’s bathing pot of about one don (1 decaliter) in capacity. It is of a variegated color and dazzlingly brilliant, and it is difficult to say whether it is made of metal or of stone. There is also a Buddha’s tooth relic about one inch long and eight or nine fen (1 fen = 1/10 of an inch) wide. It is yellowish-white in color and bright and clean in texture. There is also a Buddha’s broom, made of kasa grass, about two feet long and seven inches around, the handle adorned various precious substances.
Ba báu vật này, vào những ngày lục trai, khi chư tăng và tín đồ cùng tụ họp, thường mang ra để thiết lễ cúng dường. Những lúc chí thành có sự cảm ứng liền phát hào quang.
These three articles are always shown on the six fast days to the assembly of monks and laypeople, who make offerings to them. When moved by the sincerity of the devotees these articles may emit a brilliant light.
Phía bắc chùa này có tháp thờ cao hơn 66 mét, được trang sức bằng đá kim cương cùng nhiều trân bảo quý giá. Trong tháp có xá-lợi, thường phát hào quang.
To the north of the monastery there is a stupa over two hundred feet in height, plastered with diamonds and decorated with various precious substances. A piece of relic bone is enshrined in the stupa, which often issues a divine light.
Phía tây nam chùa có một tinh xá được xây dựng rất lâu đời. Những bậc tài cao đức trọng từ phương xa về đây tu tập rất nhiều. Trong số đó, những vị chứng thánh quả nhiều không kể hết. Trước đây, các vị A-la-hán khi sắp nhập Niết-bàn thường thị hiện thần thông, mọi người đều thấy biết, nên liền dựng tháp thờ. Nền tháp san sát kề nhau, có đến mấy trăm tháp. Lại có hàng ngàn vị khác, tuy chứng thánh quả nhưng trước khi nhập Niết-bàn không thị hiện thần thông nên không ai biết để dựng tháp thờ.
To the southwest of the monastery there is a vihara (temple) that was built many years ago. Numerous learned monks congregated at this monastery from distant places, and it is difficult to number those who were arhats (saints). Therefore only those arhats who had manifested supernatural powers at the time of entering nirvana and had become well known to the monks had stupas built for them. These were a hundred in number, with their bases very close together. Although those monks who had attained sainthood were also numbered by the thousand no memorials were erected for them, as they did not show supernatural powers at death.
Ngày nay, chư tăng ở chùa này có hơn 100 vị, ngày đêm tinh tấn tu tập chẳng hề biếng trễ, thật khó phân biệt được [trong số đó] ai là phàm, ai là thánh.
Now there are over a hundred monks, who work hard day and night for spiritual cultivation, but it is difficult to 873a know who is an ordinary monk and who is a saint.
Cách kinh thành hơn 16 km về hướng tây bắc có thành Đề-vị (Trapusa). Về phía bắc thành này, cách khoảng 13 km có thành Ba-lợi (Bhallika). Trong mỗi thành này đều có một ngôi tháp cao hơn 10 mét.
Over fifty li to the northwest of the capital is the city of Trapusa, and over forty li to the north of this city is the city of Bhallika. In each of the two cities there is a stupa more than thirty feet in height.
Thuở xưa, đức Như Lai vừa chứng đắc quả Phật, từ gốc bồ-đề đứng dậy, sắp sửa đi đến Vườn Nai. Bấy giờ có hai vị trưởng giả nhìn thấy đức Phật thần thái uy nghiêm, dung nhan rạng rỡ, liền nghênh đón trên đường để dâng cúng gạo rang trộn mật ong. Đức Thế Tôn liền vì hai người mà thuyết giảng về phước báu trong hai cõi trời, người. Đây là những người đầu tiên được nghe về Năm giới và Mười nghiệp lành. Sau khi được nghe giảng dạy giáo pháp, họ đã thỉnh cầu Như Lai ban cho vật gì để [khi về nước có thể] thờ kính cúng dường. Đức Như Lai liền ban cho họ một ít tóc và móng tay của ngài.
When the Tathagata first realized buddhahood, he rose from his seat under the bodhi tree. When he was about to go to the Deer Park, the two elders [Trapusa and Bhallika] met him in his majestic glory and offered him some parched grain and honey out of their traveling provisions. The World-honored One spoke to them on the blessedness acquired by human and heavenly beings, and they were the first to hear the five precepts and the ten good deeds. After having heard the instructions on the Dharma they requested something for them to worship. Then the Tathagata gave them some of his hair and nail parings to take back home.
Hai trưởng giả sắp về nước, liền thưa thỉnh Như Lai về nghi thức thờ kính cúng dường [Thánh vật]. Đức Phật liền lấy y tăng-già-chi xếp ngay ngắn vuông vức đặt xuống đất. Tiếp theo, ngài đặt lên đó tấm y uất-đa-la-tăng, [cũng được xếp ngay ngắn vuông vức], rồi đến tấm y tăng-khước-kỳ. Sau đó, đức Phật úp bình bát lên rồi dựng thẳng tích trượng lên trên cùng. Tất cả sắp xếp theo thứ tự như vậy tạo thành một mô hình gọi là tốt-đổ-ba.
As they asked about the manner of venerating these relics, the Tathagata folded his samghati (double robe; incorrectly transcribed as sengqili in olden times) into a square and spread it on the ground, and he did the same with his uttarasahga (upper robe) and samkaksika (side-covering vest; incorrectly transcribed as sengqizhi in olden times). Then he placed his inverted almsbowl on the robes and set his pewter staff on top of the bowl to make the shape of a stupa.
Hai người vâng lời Phật dạy, khi về lại nơi ở của mình, mỗi người đều phỏng theo mô hình đức Phật đã chỉ dẫn mà xây dựng nên một ngọn tháp thờ [các Thánh vật]. Đây là những ngọn tháp đầu tiên trong đạo Phật.
The two men returned to their respective cities and each built a stupa after the pattern shown by the holy Buddha. This was the prototype of the stupas built by the Buddhists according to the teachings of the Buddha.
Về phía tây thành này, cách khoảng 23 km có một ngọn tháp cao khoảng 7 mét được xây dựng từ thời Phật Ca-diếp.
More than seventy li to the west of the city is a stupa over twenty feet in height, which had been built long ago at the time of Kasyapa Buddha.
Từ kinh thành đi về hướng tây nam vào vùng Đại Tuyết sơn thì đến nước Duệ-mạt-đà.
Proceeding southwest from the capital city, one enters a nook of the Snow Mountains and reaches the country of Zumathan.
29. Nước Duệ-mạt-đà

Nước Duệ-mạt-đà, chiều đông tây khoảng 16-20 km, chiều nam bắc hơn 32 km, chu vi kinh thành hơn 3.2 km.
The country of Zumathan is fifty or sixty li from east to west and over one hundred li from south to north, its capital city being more than ten li in circuit.
Về hướng tây nam là nước Hồ-thật-kiện.
Proceeding southwest one reaches the country of Guzganan.
30. Nước Hồ-thật-kiện

Nước Hồ-thật-kiện, chiều đông tây hơn 163 km, chiều nam bắc hơn 325 km, chu vi kinh thành hơn 6.5 km. Nơi đây có nhiều sông núi, sản xuất nhiều ngựa hay.
The country of Guzganan is more than five hundred li from east to west and over one thousand li from south to north, its capital city being more than twenty li in circuit. This country has many mountains and rivers and produces good horses.
Về hướng tây bắc là nước Đát-lạt-kiện.
Proceeding northwest one reaches the country of Talaqan.
31. Nước Đát-lạt-kiện

Nước Đát-lạt-kiện, chiều đông tây hơn 163 km, chiều nam bắc khoảng 16-20 km, chu vi kinh thành hơn 3.2 km. Biên giới phía tây giáp với nước Ba-lạt-tư.
The country of Talaqan is over five hundred li from east to west and fifty or sixty li from south to north, its capital city being more than ten li in circuit. It borders on the country of Persia in the west.
Từ nước Phược-hát đi về hướng nam hơn 32 km thì gặp nước Yết-chức.
Going south from the country of Baktra for more than one hundred li, I arrived at the country of Kacik.
32. Nước Yết-chức

Nước Yết-chức, chiều đông tây hơn 163 km, chiều nam bắc hơn 98 km, chu vi kinh thành khoảng 1-1.5 km. Đất đai nhiều sỏi đá, cằn cỗi, gò đồi nối tiếp nhau không bằng phẳng. Nông sản thì ít hoa quả, trồng nhiều các loại đậu, lúa mạch. Khí hậu rét lạnh, phong tục tánh khí người dân cứng rắn, mạnh mẽ.
The country of Kacik is more than five hundred li from east to west and over three hundred li from south to north, its capital city being four or five li in circuit. The soil is hard and infertile, with hills and mounds connecting to one another. There are few flowers or fruit but much pulse and wheat. The climate is severely cold and the people are harsh and fierce by custom.
Trong nước có hơn 10 ngôi chùa, tăng chúng hơn 300 người, đều tu học theo phái Thuyết nhất thiết hữu, thuộc Tiểu thừa.
There are more than ten monasteries with over three hundred monks, all of whom study the Sarvastivada school of the Hinayana teachings.
Về hướng đông nam nước này là đi vào Đại Tuyết sơn. Núi cao khe sâu, vách đứng hiểm trở, gió tuyết quanh năm, ngay cả mùa hạ cũng đóng thành băng, tuyết phủ đầy khe, đường trơn khó vượt. Thần núi và những loài yêu quái quỷ mị đe dọa kinh hồn, cướp bóc thành đoàn, hoành hành không kiêng sợ, xem việc giết người như chuyện mưu sinh.
Proceeding southeast one enters the Great Snow Mountains. The mountains are high and the valleys deep, and the peaks and cliffs are fraught with danger. 873b Wind and snowfall follow each other and even at the height of summer it is cold to the point of freezing. Snow heaps up in the valleys and the footpath is hard to walk on. Mountain deities and evil ghosts, when enraged, send forth monstrous sprites to create havoc. It is also infested with gangs of brigands, whose business is murder.
Đi khoảng 195 km nữa thì ra khỏi địa giới vùng Đổ-hóa-la (Tukhara), đến nước Phạm-diễn-na.
Going for more than six hundred li, I came out of the territory of Tukhara country and reached the country of Bamiyana.
33. Nước Phạm-diễn-na

Nước Phạm-diễn-na, chiều đông tây hơn 650 km, chiều nam bắc hơn 98 km, nằm bên trong phạm vi của Tuyết sơn. Người dân dựa theo khe núi, tùy thuận địa hình để lập thành làng mạc. Kinh thành xây dựng trên hai sườn núi, nằm vắt ngang qua khe suối, chiều dài khoảng 1.5-2 km, phía bắc dựa lưng vào sườn núi cao. Nơi đây trồng được lúa mạch dài ngày, có ít hoa quả, thích hợp việc chăn nuôi gia súc, đa phần là dê và ngựa.
The country of Bamiyana is more than two thousand li from east to west and over three hundred li from south to north, being situated among the Snow Mountains. The people lived on the slopes of the valleys and gradually became town-dwellers. The capital city lies upon a cliff and stretches across a valley six or seven li in length, with a lofty precipice at its back on the north. It produces winter wheat but few flowers and fruit. It is fit for cattle breeding and there are many sheep and horses.
Khí hậu rét lạnh, tánh khí người dân cứng rắn, hung bạo. Y phục thì dùng vải da thú, vải thô dày, cũng là để phù hợp với khí hậu. Về chữ viết, ngôn ngữ, phong tục, giáo hóa cho đến việc sử dụng tiền tệ đều giống như vùng Đổ-hóa-la. Tuy ngôn ngữ có đôi chút khác biệt nhưng cung cách ứng xử cũng như hình dung tướng mạo đại lược đều giống nhau. Về niềm tin [đối với Phật pháp] thì người dân nước này hơn hẳn các nước láng giềng. Trên từ Tam bảo, dưới cho đến các vị thần linh, người dân ở đây thảy đều thành tâm cung kính, hết lòng cúng dường lễ bái. Khách buôn từ nơi khác đến, thường có chuyện thiên thần hiện điềm lành hoặc báo điềm dữ, liền tùy theo đó mà có sự khấn nguyện, cầu phước đức.
The climate is severely cold and the customs are harsh and rude. The people mostly wear fur and hempen clothes, which are suitable for them. The written language, social institutions, and currency are the same as those in Tukhara. The spoken language is slightly different but the manners and features of the people are generally the same. Their mind of pure faith is far better than that of the people in neighboring countries. They worship the Triple Gem with utmost sincerity and venerate all gods down to the various deities. When merchants coming and going happen to witness visions of heavenly deities, whether as good omens or as predictions of disaster, they worship the deities to pray for blessedness. There are several tens of monasteries with several thousand monks, who follow the Hinayana teachings of the Lokottaravada school.
Trong nước có khoảng mấy chục ngôi chùa, tăng chúng mấy ngàn người, đều tu học theo phái Thuyết xuất thế (Lokottaravada), thuộc Tiểu thừa. Phía đông bắc kinh thành, ven sườn núi có một tượng Phật đứng bằng đá cao khoảng 45-50 mét. Tượng sắc vàng sáng chói, trang sức bằng đá quý màu sắc rực rỡ. Phía đông có một ngôi chùa do đức vua đời trước xây dựng. Phía đông của chùa có tượng Phật Thích-ca đứng, đúc bằng hợp kim đồng, cao hơn 33 mét, phải chia ra đúc riêng từng phần thân Phật rồi ghép tất cả lại để thành tượng Phật đứng này.
To the northeast of the royal city, at a comer of the mountains, there is a rock statue of the standing Buddha, one hundred forty or fifty feet in height, of a dazzling golden color and adorned with brilliant gems. To the east there is a monastery built by a previous king of the country. To the east of the monastery there is a copper statue of the standing Buddha, more than one hundred feet tall. It was cast in separate pieces and then welded together into shape.
Về phía đông kinh thành, cách khoảng 1 km, trong khuôn viên một ngôi chùa có tượng Phật nhập Niết-bàn, chiều dài hơn 330 mét. Đức vua mỗi lần tổ chức Đại hội Vô già thì từ vợ con đến trân châu, quốc bảo, quốc khố đều mang ra bố thí cho đến hết sạch, rồi vua bố thí cả thân mạng mình [cho chư tăng]. Sau đó, quần thần bá quan phải mang vàng bạc đến chỗ chư tăng để xin chuộc vua về. Đức vua làm những việc này như nhiệm vụ chính của mình.
In the monastery situated two or three li to the east of the city there is an image of the recumbent Buddha, more than one thousand feet long, in the posture of entering nirvana. At this place the king often convened the quinquennial assembly, in which he offered everything from his queen down to the national treasures as alms to the monks. When the state repository was exhausted he gave himself up to the monks, and then his officials paid ransom to the monks to redeem the king. This practice has become the king’s regular duty.
Từ ngôi chùa có tượng Phật nằm, đi về hướng đông nam hơn 65 km, vượt qua Đại Tuyết sơn, rẽ sang hướng đông thì gặp một hồ nước nhỏ. Nước hồ trong vắt, mặt hồ phẳng lặng soi bóng như gương. Cây cối quanh vùng rậm rạp xanh tốt. Nơi đây có một ngôi chùa, trong chùa có xá-lợi răng Phật và răng của một vị Độc giác từ thời Kiếp sơ, độ dài khoảng 1.7 cm, bề ngang khoảng 1.2 cm. Lại có răng của một vị Kim Luân Vương, dài 1 cm, rộng 0.6 cm. Lại có bình bát bằng sắt của Đại A-la-hán Thương-nặc-ca Phược-sa đã dùng trước đây, chứa được khoảng 8 đến 9 thăng. Ba di vật này của các bậc hiền thánh đều được dùng vàng bao bọc chung quanh. Lại có tấm y cửu điều tăng-già-chi của ngài Thương-nặc-ca Phược-sa. Y có màu đỏ sậm, được dệt bằng loại cỏ thiết-nặc-ca.
Going from the monastery of the image of the recumbent Buddha toward the southeast for over two hundred li, I crossed the Great Snow Mountains and reached the Small Marshland in the east, where the water of the springs and ponds is as clear and lucid as a mirror, with luxuriant trees of green foliage. There is a monastery in which are preserved a tooth relic of the Buddha and a tooth of a pratyekabuddha who lived at the beginning of the present kalpa (eon), more than five inches long and less than four inches wide. There is also a tooth of a gold wheel king, three inches long and two inches wide, as well as the iron almsbowl used by the great arhat Sanakavasa (incorrectly transcribed as Shangna-hexiu in olden times), with a capacity of eight or nine sheng (liter). These three kinds of relics left by the holy ones are sealed up in golden containers.
Ngài Thương-nặc-ca Phược-sa là đệ tử của ngài A-nan. Trong một tiền thân xưa kia, ngài dùng y dệt bằng cỏ thiết-nặc-ca cúng dường hết thảy chúng tăng nhân ngày giải hạ an cư. Nhờ phước lực này mà trong 500 đời sau đó ngài luôn được mặc loại áo này, ngay cả trong thân trung ấm cũng như sinh ấm. Đến khi ngài thọ sinh thân cuối cùng, áo này cũng xuất hiện cùng lúc với bào thai. Rồi khi ngài lớn lên mỗi ngày thì áo tự động dài rộng ra cho vừa vặn với thân hình. Đến lúc gặp Tôn giả A-nan độ cho ngài xuất gia thì áo tự nhiên biến thành pháp phục, đến lúc thọ giới Cụ túc lại biến thành y cửu điều tăng-già-chi. Khi sắp tịch diệt, ngài nhập định Biên tế, phát khởi trí nguyện lực, muốn lưu lại áo cà-sa này cho đến khi giáo pháp của Phật Thích-ca diệt mất. Sau khi giáo pháp diệt rồi thì tấm y này mới hư hoại. Ngày nay, tấm y đã thấy có đôi chút hư tổn, nên có thể tin được rằng đây là điềm báo.
There is also preserved a piece of Sanakavasa’s samghati robe, consisting of nine stripes of a dark red color. It was made of the cloth woven with the fiber of the sanaka (hemp) plant. Sanakavasa was a disciple of Ananda. In 873c a former life he presented a piece of hempen robe to the monks on the last day of the summer retreat. Through this meritorious deed he was born five hundred times always wearing a hempen garment, whether he was in the state of intermediate existence or born into the human world. In his last birth he was born wrapped in a hempen garment, which enlarged with the growth of his body. When he was converted to the Buddhist order by Ananda his garment turned into a religious robe, and when he received full ordination it became a samghati robe of nine stripes. When he was about to realize nirvana he entered the ultimate samadhi of perfection; through the power of his vow of wisdom he left his robe to last in the world until the end of the bequeathed teachings of the Buddha. It will decay only after the termination of the Dharma. It is now slightly diminished, and this is evidence for the veracity of the legend.
Từ nước này đi về hướng đông là vào vùng Tuyết sơn, vượt qua rặng Hắc Lĩnh thì đến nước Ca-tất-thí.
Going from here to the east and after crossing the Black Range, I reached the country of Kapisi.
34. Nước Ca-tất-thí

Nước Ca-tất-thí chu vi hơn 1.290 km, phía bắc dựa lưng vào Đại Tuyết sơn, ba phía còn lại đều giáp với rặng Hắc Lĩnh. Chu vi kinh thành hơn 3.2 km. Nơi đây thích hợp trồng các loại ngũ cốc, lúa mạch, nhiều cây trái, gỗ rừng, sản xuất nhiều ngựa hay và uất kim hương. Các loại hàng hóa hiếm lạ phần nhiều đều quy tụ về nước này.
The country of Kapisi is more than four thousand li in circuit, with the Snow Mountains at its back in the north and the Black Range surrounding the three other sides. It is fit for growing rice and wheat and there are plenty of fruit trees. It produces good horses and aromatic turmeric. Rare commodities from different places are mostly concentrated in this country.
Khí hậu nơi đây rét lạnh, nhiều gió. Người dân tính tình hung bạo dữ dằn, nói năng thô tục, thấp hèn; quan hệ hôn nhân hỗn tạp, rối loạn.
The climate is windy and cold and the people are rode and rustic by nature. Their language is vulgar and indecent and they practice mixed marriage.
Chữ viết về đại thể giống như ở vùng Đổ-hóa-la, nhưng phong tục, ngôn ngữ, giáo dục có nhiều khác biệt. Y phục dùng vải dệt từ bông vải cũng như vải gai và da thú. Về tiền tệ có tiền vàng, tiền bạc và tiền đồng nhỏ, quy cách, hình thức khác biệt với các nước khác.
The written language is generally the same as in the country of Tukhara but the customs and spoken language and social institutions are quite different. They wear woolen and cotton clothes and also use fur and hemp in making garments. For currency they use golden and silver coins and small coppers, whose sizes and shapes differ from those of other countries.
Đức vua thuộc chủng tộc sát-đế-lợi, có trí tuệ, mưu lược, dũng mãnh, mạnh mẽ, uy thế nhiếp phục các nước lân cận, thống nhất được hơn 10 nước. Vua có lòng thương dân, kính trọng và tôn sùng Tam bảo, mỗi năm đều tạo một tượng Phật bằng bạc cao 6 mét, lại tổ chức Đại hội Vô già bố thí, chu cấp cho những người nghèo khổ hoặc những người sống neo đơn, góa bụa, cô độc.
The king, who belongs to the Suli tribe, is a man of strategy, brave and fiery by nature and feared by neighboring regions; he has more than ten countries under his dominion. He loves and nurtures his subjects and venerates the Triple Gem. Every year he makes a silver image of the Buddha, eighteen feet in height. He also holds a quinquennial assembly for the distribution of charity to the poor and needy, and he gives alms to widows and widowers.
Trong nước có hơn 100 ngôi chùa, tăng chúng hơn 6.000 vị, phần lớn đều tu tập theo Phật giáo Đại thừa. Chùa tháp được xây dựng cao to rộng lớn, trang nghiêm thanh tịnh. Có khoảng mấy chục đền thờ Phạm thiên, tu sĩ theo các đạo khác có hơn 1.000 người, hoặc theo đạo lõa thể, hoặc bôi trét bùn đất lên thân hình, hoặc xâu đầu lâu người chết làm thành vòng đội trên đầu...
There are over one hundred monasteries with more than six thousand monks, most of whom study the teachings of the Mahayana school. The stupas and monasteries are tall and spacious and are kept clean in a solemn manner. There are over ten deva temples with more than one thousand heretical believers, who either go about naked or with dust smeared on their bodies; some wear strings of skulls as head ornaments.
Về phía đông kinh thành, cách khoảng 1-1.5 km, có ngôi chùa lớn nằm dưới mạn bắc của một ngọn núi, tăng chúng hơn 300 người, đều tu tập theo giáo pháp Tiểu thừa.
Three or four li to the east of the great city there is a large monastery at the foot of the northern mountain with over three hundred monks, all of whom study the teachings of the Hinayana schools.
Đọc trong các ghi chép xưa thấy kể rằng, thuở xưa vua Ca-nị-sắc-ca (Kanishka) của nước Kiện-đà-la (Gandhara) có uy vũ khuất phục các nước lân cận, nhiếp hóa rộng khắp đến cả phương xa, quân binh trải rộng nhiều vùng, đến tận phía đông rặng Thông Lĩnh. [Có vị Phiên vương ở] Hà Tây, [Trung quốc] vì sợ oai nên phải gửi [Thái tử sang làm] con tin. Vua Ca-nị-sắc-ca nhận con tin, đặc biệt ban lệnh đối đãi thật chu đáo, tùy theo mùa nóng lạnh mà cho thay đổi chỗ ở. Mùa đông ở nơi các tiểu quốc tại Ấn Độ, mùa hạ trở về nước Ca-tất-thí, mùa xuân và mùa thu thì ở nước Kiện-đà-la.
I heard some old people say that when King Kaniska of the country of Gandhara was on the throne, his prestige extended to the neighboring countries and his influence reached distant regions. He strengthened his military forces and expanded his territory to the east of the Pamir Range. Out of fear of the king’s might, the lord of a Chinese vassal state west of the Yellow River sent his son as hostage to the king. Upon receiving the hostage prince King Kaniska treated him with special kindness and courtesy, providing him with different lodgings according to the seasons. In the winter he stayed in various states in India and in the summer he returned to the country of Kapisi, while in the spring and autumn he stayed in the country of Gandhara.
[Vị Thái tử từ Trung quốc sang làm] con tin như vậy, mỗi năm tùy thời tiết mà được cư trú ở ba nơi. Tại mỗi nơi ông đều xúc tiến việc xây dựng chùa. Ngôi chùa này chính là được Thái tử xây khi đến đây ở vào mùa hạ. Cho nên, các bức tranh trên tường đều có vẽ hình [vị Thái tử làm] con tin, hình dung, tướng mạo, cách phục sức chính là người Trung quốc.
Therefore a monastery was built at each of these places where the hostage prince lived in the three different seasons. This monastery was the one built at his summer residence. Painted on the walls of the buildings are pictures of the hostage prince, his features and costume being quite the same as those of the Chinese people.
Về sau, Thái tử được cho về nước, tuy sông núi cách trở xa xôi nhưng lòng vẫn nhớ đến nơi ở cũ, nên tiếp tục việc cúng dường mãi không gián đoạn.
Afterward he was sent back to his own country, but in memory of his old residences he continued to send offerings to the monasteries without interruption in spite of the obstacles of mountains and rivers.
Do vậy nên ngày nay mỗi lần tăng chúng nơi đây làm lễ nhập an cư hoặc giải an cư, đều có tổ chức pháp hội lớn, vì vị Thái tử này mà dâng lời kỳ nguyện cầu phước lành. Điều này được tiếp nối không ngừng, mãi cho đến ngày nay.
Now the monks of the monastery still perform grand religious functions at the times of commencing and dissolving the summer retreat to pray for blessedness and perform meritorious deeds on behalf of the hostage prince, without cease up to the present time.
Nơi cửa đông của điện thờ Phật trong chùa này, nhìn về hướng nam có tượng Đại Thần vương. Phía dưới chân phải của tượng có chôn một kho báu, chính là kho báu của [vị Thái tử làm] con tin. Cho nên nơi ấy có khắc dòng chữ rằng: “Khi chùa hư hoại thì dùng [kho báu này] để tu sửa.”
Under the right foot of the stable of the great deity at the southern side of the east gate of the buddha hall courtyard of the monastery, there was an underground treasure laid up by the hostage prince with an inscription that reads, “When the monastery is in need of repair, take this treasure for its renovation.”
Hồi gần đây có vị vua nước lân cận, tham lam hung bạo, nghe nói chùa này có nhiều trân bảo, liền cho đuổi hết tăng chúng đi, rồi sắp sửa khai quật kho báu. Bỗng dưng ngay lúc ấy thì hình tượng chim anh vũ trên mão của Thần vương đập cánh kêu to, cả vùng đất nơi đây chấn động, nhà vua và quân lính đều ngã lăn ra đất, thân thể cứng đờ nằm yên bất động, một hồi lâu sau mới gượng dậy được, liền quỳ lạy sám hối tội lỗi rồi kéo nhau ra về.
Recently the king of a frontier country, an avaricious and cruel man, heard that there were plenty of jewels and gems stored in the monastery. After he had expelled the monks and was about to dig up the treasure, the figure of a parrot on the crown of the great deity vigorously flapped its wings and screamed in a terrible manner, causing an earthquake. The king and his soldiers were so frightened that they fainted and fell on the ground and it was a long time before they came to, after which they apologetically returned home.
Phía bắc chùa này, trên đỉnh núi cao có một số gian thạch thất, là nơi [Thái tử] con tin dùng để tu tập thiền định. Trong đó cũng có chứa nhiều trân bảo đủ loại, bên cạnh có khắc bài minh, do thần dược-xoa gìn giữ bảo vệ. Nếu có người muốn khai quật lấy đi bảo vật thì thần dược-xoa sẽ biến hình thành sư tử, hoặc thành mãng xà, thú dữ, độc trùng, hoặc các hình thù quái dị để khiến người kinh khiếp. Cho nên chẳng ai dám vào trộm cắp hay cướp lấy.
On the mountain to the north of the monastery there are several caves in which the hostage prince practiced meditation. A large quantity of miscellaneous valuables was stored in the caves, with an inscription placed beside them and guarded by a yaksa (demon). Whenever anyone wished to open the caves to take away the treasure the yaksa, through his supernatural power, would appear in different forms: as a python, a fierce animal, or a poisonous insect, all greatly enraged. Therefore no one dared to attempt to take the valuables by force.
Về hướng tây của những động đá này, cách khoảng 1 km, trên đỉnh núi lớn có tượng Bồ Tát Quán Tự Tại. Nếu người nào chí thành phát nguyện mong được nhìn thấy, Bồ Tát sẽ từ nơi tượng này hiện ra sắc thân mầu nhiệm để an ủi người ấy.
On a great mountain two or three li to the west of the caves there is a statue of Avalokitesvara Bodhisattva. When anybody earnestly wishes to see the bodhisattva he appears out of the statue in a graceful form to comfort the devotee.
Về hướng đông nam của kinh thành, cách hơn 10 km, có chùa Hạt-la-hổ-la, bên cạnh có ngọn tháp cao hơn 33 mét, thỉnh thoảng vào những ngày trai có khi phát tỏa ánh sáng rực rỡ. Nơi đỉnh tháp hình thể như chiếc bình bát úp bằng đá, có một khe hở, từ trong đó thường có làn khói màu đen bay ra, tỏa hương thơm. Vào những đêm khuya tĩnh mịch, thỉnh thoảng người ta nghe có tiếng nhạc từ bên trong tháp.
Over thirty li to the southeast of the great city is Rahula Monastery. Beside it there is a stupa more than one hundred feet in height that sometimes emits a brilliant light on fast days. From a crevice on the body of the stupa in the shape of an inverted almsbowl black aromatic oil oozes out, and on a quiet night one sometimes hears the sound of music.
Xem trong các ghi chép xưa thấy kể rằng, tháp này do một vị đại thần của nước này là Hạt-la-hổ-la xây dựng. Khi vừa hoàn tất, đêm đó vị đại thần nằm mộng thấy có người bảo rằng: “Ngôi tháp ông xây dựng vẫn chưa có xá lợi. Ngày mai sẽ có người hiến xá-lợi, nên đến chỗ nhà vua để thỉnh về.”
I heard some old people say that it was built by Rahula, a minister of this country. When the construction was completed he dreamed that someone said to him, “In the stupa you have constructed there is no sarira (relic bone) enshrined. Tomorrow morning someone will offer one to the king. You may as well ask the king for it.”
Sáng hôm sau, quan đại thần ấy liền vào triều, tâu lên vua rằng: “Hạ thần ngu muội chẳng lượng sức mình, dám xin có lời thỉnh cầu.”
The next morning the minister went to court and said to the king, “May I have the impudence to beg a favor from Your Majesty?”
Vua hỏi: “Khanh muốn thỉnh cầu điều gì?”
The king said, “What is your desire?”
Quan đại thần thưa: “Trong ngày hôm nay nếu có người hiến dâng vật phẩm, xin ban ân cho thần được nhận món đầu tiên.”
The minister asked, “Will Your Majesty grant me what is first offered to you today?”
Đức vua nói: “Được, ta chấp nhận.”
The king said, “Let it be so!”
Đại thần Hạt-la-hổ-la ra đứng ngoài cửa cung chờ đợi. Không bao lâu liền có một người mang bình xá-lợi vào. Đại thần liền hỏi: “Ông muốn dâng món gì?”
Rahula then waited at the gate of the palace to see who was coming first, and in a moment a man came with a bottle containing a grain of sarira. The minister inquired of the man, “What are you going to offer to the king?”
Người ấy đáp: “Xá-lợi Phật.”
The man said, “A buddha sarira (relic).”
Đại thần Hạt-la-hổ-la liền nói: “Để ta cầm giữ giúp ông. Ông nên vào tâu vua trước.”
The minister said, “I shall watch the sarira for you while you go in to report first to the king.”
Hạt-la-hổ-la sợ vua vì trân quý xá-lợi mà đổi ý, không giữ lời hứa đã ban cho, nên vội vã thỉnh xá-lợi ngay về chùa, leo lên tháp. Do tâm chí thành cảm ứng, chỗ bình bát úp bằng đá trên đỉnh tháp tự nhiên mở ra, ông liền vào an trí xá-lợi, xong vội vã ra ngay, miệng tháp đóng lại làm kẹt một vạt áo. Vua sai sứ đuổi theo, vừa đến nơi thì cửa đá đã khép kín lại. Do việc này nên mới có khe hở [chỗ vạt áo], từ đó có làn khói màu đen bay ra, tỏa hương thơm.
Rahula, fearing that the king might be reluctant to part with the precious sarira and might go back on his promise, quickly went to the monastery and climbed up on the stupa with such a pious mind that the stupa in the shape of an inverted almsbowl, moved by his earnestness, opened by itself so that he could deposit the sarira inside. He then hurriedly came out and the gusset of his robe was caught by the closing crevice. The king’s messenger chased after the relic but the stone stupa had already closed. Thus black aromatic oil oozed out from the crevice.
Về phía nam kinh thành, cách hơn 13 km có thành Tập-tế-đa-phạt-lạt-từ (Svetavatālaya). Thường những khi có động đất, hoặc băng lở đổ xuống từ sườn núi, thành này vẫn không bị ảnh hưởng gì.
More than forty li to the south of the city is the City of Svetavat Temple. Whenever there is a big earthquake and the mountains and precipices collapse, nothing is shaken within the limits of this city.
Lại về phía nam thành Tập-tế-đa-phạt-lạt-từ, cách hơn 10 km là núi A-lộ-nhu. Núi cao chót vót, sườn khe thăm thẳm mịt mù. Đỉnh núi này mỗi năm lại cao thêm sáu, bảy chục mét, [nghe nói] khi nào cao bằng núi Lăng-na-yết-la của nước Tào-củ-trá thì sẽ tự sụp đổ.
More than thirty li to the south of the City of Svetavat Temple is Aruna Mountain, with its lofty peaks and cliffs and gloomy valleys stretching far. The top of the mountain increases every year by several hundred feet in height, as if to look at Sunasrra Mountain in the country of Jaguda, and then it suddenly collapses.
Truyền thuyết địa phương kể rằng: “Thuở xưa thiên thần Sồ-na từ xa đến, muốn dừng ở núi này. Sơn thần tức giận, liền làm cho khe suối đều chấn động. Thiên thần nói: “Ngươi không muốn sống chung cùng ta nên làm chấn động như vậy. Nếu ngươi chỉ cần mở lòng một chút, lấy tình chủ khách mà đối đãi với ta thì sẽ có được rất nhiều trân bảo. Nay ta sẽ đến núi Lăng-na-yết-la của nước Tào-củ-trá, mỗi năm đến lúc ta nhận lễ vật hiến cúng từ quốc vương, đại thần, ngươi chỉ có thể đứng xa mà ngóng nhìn.” Cho nên, khi núi A-lộ-nhu cao lên đến mức nào đó rồi sẽ bị sụp đổ.
I heard the local people say that when the deity Suna first came here from a distant place, he wished to stay at this mountain. Terrified, the mountain god shook the rivulets in the valleys. The deity said, “You do not wish me to take up lodging with you, and so you shook the earth. If you had shown me a little hospitality I would have filled your chest with riches and valuables. Now I am going to Sunasrra Mountain in the country of Jaguda. Every year at the time when I receive worship and offerings from the king and his ministers, you may only look at me!” Thus Aruna Mountain increases to a height and then immediately collapses.
Về phía tây bắc kinh thành, cách hơn 65 km thì đến Đại Tuyết sơn, trên đỉnh núi có hồ nước. Người ta đến đây cầu mưa hay cầu nắng đều được thỏa nguyện.
More than two hundred li to the northwest of the royal city are the Great Snow Mountains, at the top of which there is a lake. Whenever people come here to pray for rain or fine weather their wishes are always fulfilled.
Xem trong các ghi chép xưa thấy chép rằng: “Thuở xưa ở nước Kiện-đà-la có vị A-la-hán thường nhận sự cúng dường của long vương ở hồ này. Mỗi ngày, đến bữa ăn giữa ngày thường dùng thần thông ngồi trên giường bay trên hư không mà đến. Có sa-di làm thị giả cho vị A-la-hán, lẻn chui xuống bên dưới rồi bám chắc vào giường, đến giờ A-la-hán ngồi trên giường, bay đến cung long vương mới nhìn thấy sa-di. Long vương nhân đó thỉnh mời sa-di ở lại dùng cơm, liền dùng cam lồ cõi trời dâng cúng vị A-la-hán, lại đem các món ăn của nhân gian cúng dường sa-di. Vị A-la-hán thọ trai xong liền vì long vương thuyết giảng giáo pháp. Sa-di như thường lệ lo rửa bát của thầy. Trong bát có dư hạt cơm [cõi trời], sa-di biết được hương vị ấy thì lấy làm lạ lùng kinh hãi, khởi lên niệm ác, oán hận thầy và giận long vương [đã không cho mình được hưởng món ăn quý lạ này].
I heard some old people say that formerly there was an arhat in Gandhara, who always received offerings of alms from the naga king of this lake. Every day at the time of the midday meal he would sit on his folding chair and fly through the air to the lake through supernatural power. Once his attendant novice hid himself below the folding chair and the arhat went to the lake as usual when the time arrived for him to make the journey. On arriving at the naga’s palace he discovered the novice, and so the naga king also invited the novice to the meal. The naga king offered heavenly delicious rice to entertain the arhat, while he gave the novice food of the human world. When the meal was over the arhat preached the Dharma for the naga king, and the novice washed his master’s almsbowl, as usual. When he discovered some remaining grains of rice in the bowl he was amazed by its fragrance and he immediately cherished a malignant feeling against his master and the naga king,
Sa-di ấy liền khấn nguyện cho tất cả phước lực của mình hiển hiện ngay bây giờ, khiến cho long vương mất mạng để tự mình thay thế làm long vương.
saying, “May the power of whatever good deeds I have performed appear to kill this naga and let me be the king.”
Khi sa-di khấn nguyện như vậy thì long vương bị đau đầu. Vị A-la-hán thuyết pháp khuyên dạy, long vương nghe lời dạy lễ tạ sám hối, tự trách lỗi mình. Nhưng sa-di vẫn ôm lòng sân hận, không chấp nhận lời sám hối của long vương. Do vậy, khi trở về chùa, sa-di liền hết lòng chú tâm khấn nguyện như cũ. Do phước lực [từ đời trước] nên khiến cho ngay trong đêm đó sa-di qua đời, lập tức tái sinh làm Đại long vương có oai lực mạnh mẽ, liền trở lại nơi hồ nước, sát hại vị long vương cũ và chiếm lấy long cung, dùng sức mạnh thống lĩnh tất cả thuộc hạ của long vương cũ.
The moment the novice 874c expressed this desire the naga king felt a headache. After listening to the sermons delivered by the arhat, the naga king repented his misdeed and blamed himself, but the novice, deeply resentful, would not make a confession nor accept the naga king’s apology. Having returned to the monastery, the novice, by his earnest desire and the power of his good deeds, died that night and was reborn as a great naga king with majesty and valor. He came to the lake, killed the resident naga king, occupied the naga palace, took possession of his subordinates, and became the master of all.
Do lời khấn nguyện [đầy sân hận] trước đó, Đại long vương liền làm cho mưa to gió lớn, cây cối ngả nghiêng, có ý muốn phá nát chùa.
Out of his old indignation he caused a violent storm that uprooted the trees, intending to destroy the monastery.
Lúc bấy giờ, vua Ca-nị-sắc-ca thấy chuyện lạ lùng liền thưa hỏi, vị A-la-hán kể rõ mọi sự việc. Vua biết chuyện rồi liền vì vị long vương cũ mà xây dựng một ngôi chùa nơi Tuyết sơn, đồng thời xây tháp cao hơn 33 mét. Đại long vương ôm mối hận cũ, lại làm cho nổi dậy mưa to gió lớn. Nhà vua dựng chùa, xây tháp hoàn toàn do khởi tâm hoằng truyền Phật pháp, tế độ chúng sinh, Đại long vương thì do tâm sân hận mà làm việc hung bạo, khiến cho việc xây dựng chùa tháp phải 6 lần sụp đổ, đến lần thứ bảy mới hoàn thành.
At that time King Kaniska, perplexed by the accident, made inquiries into the matter and the arhat told him everything. The king then built a monastery at the foot of the Snow Mountains with a stupa over one hundred feet high for the naga. Out of his old resentment the naga sent forth wind and rain. The king cherished the mind of universal salvation but the naga, out of his malignance and hatred, caused storms six times to destroy the monastery and stupa, but they were rebuilt seven times.
Vua Ca-nị-sắc-ca xấu hổ vì 6 lần thất bại, muốn lấp hồ để phá hủy nơi cư ngụ của Đại long vương, liền kéo quân đến dưới chân Tuyết sơn. Bấy giờ, Đại long vương hết sức kinh sợ, liền biến hình thành một ông già bà-la-môn, đến lạy trước đầu voi của vua mà can ngăn rằng: “Đại vương nhờ trồng sâu căn lành, làm việc tốt đẹp từ nhiều đời trước, cho nên nay mới được làm vua cõi người, ai ai cũng quy phục. Ngày nay vì sao lại muốn giao tranh với loài rồng? Loài rồng chẳng qua chỉ là thuộc loại súc sinh, là loài hung ác hèn kém, nhưng chúng có oai lực rất lớn, không thể dùng sức mạnh để cạnh tranh. Chúng có thể cưỡi mây đạp gió, bay trên không, lặn dưới nước, sức người không thể khống chế được. Đại vương vì sao phải nổi giận với một con rồng? Nay Đại vương huy động quân binh cả nước chỉ để đánh nhau với một con rồng, nếu thắng thì cũng chẳng thêm uy phong để nhiếp phục cõi xa, còn nếu bại thì phải ôm mối nhục thua trận. Nay tôi xin vì Đại vương hiến kế, tốt nhất là nên lui binh.”
King Kaniska, ashamed of his failure, intended to fill up the naga’s lake and demolish his dwellings. He mobilized his troops and came to the foot of the Snow Mountains. Deeply terrified, the naga king transformed himself into the form of an old brahman, halted the king’s elephant, and offered a remonstrance to him, saying, ‘‘Because, Great King, you have in the past performed good deeds and sowed many superior causes, you are now a king of humans and no one dares to disobey you. Why do you contend with a naga today? A naga is an animal, and though of a base and evil species he still possesses great power and cannot be subjugated by strength. He can ride on a piece of cloud and fly through the air, or tread upon empty space and walk over water, beyond the control of human power. What influence can your anger produce upon him? Now you have mobilized all of the military forces in the whole country to fight with a naga. Even if you win in the battle you will not gain the prestige that you achieve when you conquer a distant land; if you lose the war you will bring shame on yourself for being unable to defeat your enemy. It is in your own interest to withdraw your troops.”
Vua Ca-nị-sắc-ca không chịu nghe theo, rồng liền quay trở lại hồ, lập tức làm cho sấm sét nổi lên, cuồng phong nhổ gốc cây cối, cát bay đá chạy, mây kéo mịt mù, tối tăm trời đất, khiến cho quân binh hốt hoảng, ngựa chiến kinh hoàng.
King Kaniska did not listen to this remonstrance so the naga returned to his lake and caused a thunderstorm and a hurricane that uprooted the trees. Sand and stones rained down from the air, clouds and mist darkened the world, and the king’s troops and horses were frightened.
Khi ấy đức vua liền chí thành hướng về Tam bảo thỉnh cầu sự gia hộ, khấn nguyện rằng: “Đời trước con đã tạo nhiều phước lành, nay mới được làm vua cõi người, nhiếp phục những kẻ địch mạnh mẽ, thống lĩnh châu Thiệm-bộ. Hôm nay nếu bị loài súc sinh là con rồng này khuất phục, hóa ra là phước báu còn mỏng manh. Xin nguyện cho hết thảy phước lành con đã tạo từ xưa được hiển hiện ngay bây giờ.”
The king then took refuge in the Triple Gem, begging for protection, saying, “Because I have done many good deeds in the past I am now a king of human beings with mighty power to subdue strong enemies and rifle over Jambudvipa. Now I am humiliated by this naga animal, which shows that my blessedness is scanty. May whatever power I have gathered from doing good deeds be present at this very moment!”
Ngay lúc ấy, từ hai bên vai của đức vua liền bốc cháy lên hai ngọn lửa lớn. Rồng lập tức phải thối lui, gió yên mưa tạnh, mây tan trời sáng. Vua ra lệnh cho quân lính cùng khiêng một hòn đá lớn, dự định lăn xuống lấp hồ.
Immediately a huge flame arose from his shoulders, the naga retreated, the wind died down, and the mist and clouds dispersed. The king ordered each soldier in his army to carry a piece of stone to fill up the naga lake.
Đại Long vương biến hình trở lại thành người bà-la-môn, thưa với đức vua rằng: “Tôi chính là long vương ở dưới ao này, nay đã sợ oai vua xin quy phục. Xin đại vương thương xót tha cho tội lỗi trước đây. Đại vương là người nuôi dưỡng, che chở hết thảy sinh linh, lẽ nào chỉ riêng với tôi lại ra tay giết hại? Nếu đại vương giết tôi, tôi với đại vương sẽ cùng phải đọa vào đường ác. Bởi vì đại vương sẽ mang tội giết hại, còn tôi thì ôm lòng oán hận, nghiệp báo rõ ràng, thiện ác đều sáng tỏ như thế.”
The naga king resumed the form of a brahman and said again to the king, “I am the naga king of this lake and, out of fear of your great power, I have come to pledge allegiance to you. May the king take pity on me and forgive me for the faults I have committed. You are a king who nourishes and protects all living beings, so why should you do harm to me alone? If you kill me, we will both fall into the evil ways of existence, because you will have commited the sin of taking life, while I will have cherished a feeling of hatred and vengeance in my mind. Karmic retribution is apparent and shows plainly what is good and what is evil.”
Đức vua liền yêu cầu rồng phải lập một bản cam kết rõ ràng, nếu sau này tái phạm sẽ xử tội không tha. Rồng thưa rằng: “Tôi vì tạo nghiệp ác nên mới sinh làm thân rồng. Tánh rồng hung ác, không thể tự kiềm chế được. Một khi tâm sân hận khởi lên thì không cách gì chế ngự được. Nay đại vương làm chùa, tôi không dám phá nữa. Nhưng xin cho một người canh phòng trên đỉnh núi sau chùa, nếu thấy mây đen nổi lên thì lập tức đánh chuông lớn. Tôi nghe âm thanh đó sẽ dứt tâm xấu ác.”
The king then reached an agreement with the naga that should the naga commit another offense in the future, the king would certainly not pardon him. The naga said, “Because of my evil karma done in the past I am now a naga. As a naga is violent by nature, I am unable to restrain myself and in a fit of anger I may forget about the obligation. If you build another monastery I will dare not destroy it again. Please always send a guard to watch the peak of the mountain. If a black cloud arises he should at once strike an instrument. When I hear the sound I shall quench my evil mind.”
Đức vua ấy liền tiếp tục tu sửa chùa tháp, sai người trông chừng mây đen sau núi, cho đến ngày nay vẫn còn duy trì.
The king then constructed another monastery together with a stupa, and a guard was stationed to watch to see if any black cloud appeared. This is still done without interruption.
Xem trong các ghi chép xưa thấy nói rằng: “Trong tháp có xá-lợi từ xương thịt của Như Lai, khoảng hơn một thăng. Những sự thần kỳ biến hóa [của xá-lợi ấy] nhiều vô cùng, khó nói hết được. Có lần, trong tháp bỗng dưng có khói bốc lên, rồi không bao lâu lại có ngọn lửa lớn, người thời ấy đều cho rằng tháp kia hẳn là sẽ bị thiêu rụi. Nhưng tiếp tục quan sát không bao lâu thì tự nhiên lửa tắt, khói tan, liền thấy xá-lợi như lá phướn ngọc trắng xoắn thành hình trụ bay lên, cao đến chạm tầng mây rồi xoay vòng hạ xuống trở vào trong tháp.
I heard some old people say that inside the stupa there was preserved about one sheng of bone and flesh relics of the Tathagata.
Marvelous events are difficult to relate in detail. Once smoke suddenly arose from inside the stupa, and in a moment raging flames burst out of it. The people thought that the stupa must have been consumed by the fire, but after looking at it for a long time, when the smoke and flames had vanished, they saw the relics resembling a streamer of white pearls, winding upwards around an ornamental pillar, up to the clouds and whirling down again.
Phía tây bắc kinh thành, trên bờ phía nam của sông lớn, có chùa Cựu Vương, trong chùa có xá-lợi răng sữa của đức Thích-ca lúc tuổi nhỏ thay răng, dài khoảng 0.35 cm. Phía đông nam chùa này lại có một chùa khác cũng tên là Cựu Vương. Trong chùa có xá-lợi một mảnh xương đỉnh đầu của Như Lai, rộng khoảng 3.5 cm, có màu trắng vàng, nhìn thấy rõ cả lỗ chân tóc. Lại có xá-lợi tóc của Như Lai, màu xanh biếc ửng hồng, hình xoắn xoay về bên phải, kéo dài ra khoảng 33 cm, cuộn lại khoảng 1.7 cm.
In Old Royal Monastery on the southern bank of the great river in the northwest of the royal city is a deciduous tooth of Sakyamuni Bodhisattva about one inch long. To the southeast of this monastery there is another one, also called Old Royal Monastery, in which is preserved a piece of the Tatha- gata’s skull bone about one inch broad, yellowish white in color, with distinctive hair pores. There is also a hair of the Tathagata’s head, dark purple in color, curled up rightward about half an inch long, but when extended it measures about one foot.
Vào 6 ngày trai trong tháng, đức vua và các đại thần đều đến dâng hoa cúng dường ba thánh vật này.
These three objects are worshiped with scattering of flowers by the king and his ministers on the six fast days of every month.
Phía tây nam của ngôi chùa có xá-lợi xương đỉnh đầu Phật, lại có chùa Cựu Vương Phi, trong đó có tháp bằng đồng vàng cao hơn 33 mét.
To the southwest of this skull bone monastery is Old Queen’s Monastery, in which there is a gilt copper stupa more than one hundred feet in height.
Truyền thuyết kể rằng, trong tháp này có xá-lợi Phật, khoảng hơn một thăng, vào đêm rằm mỗi tháng đều phát ra vầng ánh sáng tròn, chói sáng ra bên ngoài, hòa cùng ánh trăng cho đến lúc rạng đông mới dần dần thu lại rồi nhập vào trong tháp.
I heard some local people say that it contained over one sheng of the Buddha’s relic bones, from which on the night of the fifteenth day of every month emits a round light shining continuously upon the dew basin of the stupa which gradually fades into it at dawn.
Phía tây nam kinh thành có núi Tỷ-la-sa-lạc, có nghĩa là “tượng kiên” (con voi kiên cố). Nơi đây có lần sơn thần hiện hình thành một con voi to lớn, nên gọi tên núi là “tượng kiên”.
To the southwest of the city is Pilusara (“Strong Elephant”) Mountain. It is called Strong Elephant because the tutelary deity of the mountain assumed the form of an elephant.
Ngày xưa, khi Phật còn tại thế, sơn thần Tượng Kiên từng có lần phụng thỉnh đức Phật cùng 1.200 vị Đại A-la-hán đến đây. Trên đỉnh núi có tảng đá lớn bằng phẳng, là nơi đức Như Lai ngồi nhận sự cúng dường của thần. Về sau, vua Vô Ưu xây tháp ngay trên tảng đá này, cao hơn 33 mét, ngày nay gọi là tháp Tượng Kiên. Cũng nghe nói rằng trong tháp có xá-lợi Như Lai, ước khoảng hơn một thăng.
Formerly, when the Tathagata was living in the world, the deity of Strong Elephant Mountain once invited the World-honored One and his twelve hundred great arhats to the mountain. There was a large flat rock on the top of the mountain, where the Tathagata took his seat and accepted the alms offered by the deity. Afterward King Asoka erected a stupa more than one hundred feet high on the rock. This is what the people now call Strong Elephant Stupa, and it is also said that about one sheng of the Tathagata’s relic bones is preserved in it.
Về phía bắc tháp Tượng Kiên, dưới sườn núi có suối Long tuyền, chính là nơi đức Như Lai và các vị A-la-hán sau khi thọ trai xong súc miệng, tước cành dương xỉa răng, nhân tiện cắm xuống, nay mọc lên thành rừng cây um tùm. Người đời sau xây dựng một ngôi chùa ở đó, gọi tên là Bệ-đạt-khư, có nghĩa là “tước dương chi”.
Below the cliff to the north of Strong Elephant Stupa is a naga spring, where the Tathagata and arhats washed their mouths by chewing willow twigs after taking the meal offered by the deity. They planted the twigs in the ground, where they took root and grew into the dense wood that it is now. Afterward, people built at this place a monastery called Pindaka (“Chewing Willow Twigs”) Monastery.
Từ nơi đây đi về hướng đông khoảng 195 km, núi đồi khe suối liên tục nối nhau, núi cao chót vót hiểm trở, sau khi vượt qua ngọn Hắc Lĩnh thì vào địa giới Ấn Độ, đến nước Lam-ba thuộc miền Bắc Ấn.
From here I traveled east for more than six hundred li through mountains and valleys connected with each other. The peaks and cliffs are steep and precipitous. After crossing the Black Range I entered the territory of North India and reached the country of Lampa (in the domain of North India).
End of Fascicle I of The Great Tang Dynasty
Record of the Western Regions


Hình minh họa: Đồ họa thể hiện hành trình qua 34 nước trong Quyển 1 - Tây Vực Ký




    « Xem chương trước «      « Sách này có 15 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.135.209.20 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (161 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Hoa Kỳ (12 lượt xem) - ... ...