QUYỂN 12 - (22 nước)
Fascicle XII -
Twenty-two Countries, from Jaguda to Gostana
● Nước Tào-củ-trá ● Nước Phất-lật-thị-tát-thảng-na ● Nước An-đát-la-phược ● Nước Khoát-tất-đa ● Nước Hoạt ● Nước Măng-kiện ● Nước A-lợi-ni ● Nước Hạt-la-hồ ● Nước Ngật-lật-sắt-ma ● Nước Bát-lợi-át ● Nước Hứ-ma-đát-la ● Nước Bát-đạc-sang-na ● Nước Dâm-bạc-kiện ● Nước Khuất-lang-noa ● Nước Đạt-ma-tất-thiết-đế ● Nước Thi-khí-ni ● Nước Thương-di ● Nước Khiết-bàn-đà ● Nước Ô-sái ● Nước Khư-sa ● Nước Chước-cú-ca ● Nước Cù-tát-đán-na
1. The Country of Jaguda
2. The Country of Vrjisthana
3. The Country of Andarab
4. The Country of Kliost
5. The Country of Huoh
6. The Country of Mungan
7. The Country of Alini
8. The Country of Raliu
9. The Country of Krisma
10. The Country of Pargliar
11. The Country of Himatala
12. The Country of Badakslian
13. The Country of Invakan
14. The Country of Kurana
15. The Country of Dharmasthiti
16. The Country of Sikni
17. The Country of Shangmi
18. The Country of Kabhanda
19. The Country of Wusha
20. The Country of Kasha
21. The Country of Cukuka
22. The Country of Gostana
Nước Tào-củ-trá chu vi khoảng 2.300 km. Kinh thành là Hạc-tất-na, chu vi khoảng 10 km, hoặc có khi dùng thành Hạc-tát-la, chu vi cũng khoảng 10 km, cả hai thành đều rất kiên cố hiểm trở. Trong nước nhiều sông núi, ruộng gò mênh mông, lúa thóc gieo trồng theo thời vụ, lúa mạch nhiều và tốt, cây cỏ xanh tốt sum suê. Nơi đây thích hợp trồng uất kim hương, cũng trồng được hưng cù, là loại cây được trồng nhiều ở vùng La-ma, lưu vực sông Ấn-độ.
The country of Jaguda is more than seven thousand li in circuit and its capital 939b city, called Hexina (Ghazni), is over thirty li in circuit; the capital is sometimes located in the city of Hesaluo (Guzar), which is also over thirty li in circuit.
Both cities are strongly fortified in invulnerable positions. The mountains and valleys are rich in natural resources and the cultivated farmlands, divided by ridges, are high and dry. Crops are sown in proper seasons. Winter wheat is abundant and vegetation is luxuriant with profuse flowers and fruit. The soil is good for growing aromatic turmeric and it produces the hingii herb (Ferula asafoetida), which grows in Rama-Indus Valley.
Trong thành Hạc-tát-la có một suối nước tuôn ra rồi phân nhánh chảy đi, người dân dùng để tưới ruộng. Khí hậu nơi đây rét lạnh, nhiều sương tuyết, tánh người nông nổi hấp tấp, nhiều sự gian xảo dối trá, ưa thích học nghề nghiệp, có nhiều tài nghề. Học tập nhanh nhạy nhưng không sáng tạo, mỗi ngày có thể tụng đọc mấy chục ngàn chữ. Về văn tự, ngôn ngữ đều khác hẳn với các nước khác, thường nói những lời hoa mỹ sáo rỗng, ít khi đúng thật.
In the city of Hesaluo there are gushing springs and the water flows to all sides; the people make use of it for irrigation. The climate is severely cold with much frost and snow. The people are frivolous and impetuous by nature and deceitful in disposition. They are fond of learning and are skillful in many kinds of crafts. They are clever, if lacking in discernment, and can recite a work of several myriads of
words in a day. Their written and spoken language differ from those of other countries. They produce more empty talk than real action.
[Về tín ngưỡng, người dân] tuy thờ phụng hàng trăm vị thần nhưng rất tôn sùng Tam bảo. Có đến mấy trăm ngôi chùa với hơn 10.000 tăng sĩ, tất cả đều tu tập theo giáo pháp Đại thừa.
Although they worship various gods they respect the Triple Gem. There are several hundred monasteries with more than ten thousand monks, all of whom study Mahayana teachings.
Đức vua hiện nay thuần tín, thông minh hiếu học, kế thừa truyền thống nhiều đời tiên vương nên hết sức nỗ lực vun trồng cội phúc.
The reigning king is a man of pure faith who inherited the throne handed down through many generations. He has engaged himself in performing meritorious deeds and is intelligent and studious.
Có hơn mười mấy ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng. Đền thờ Phạm thiên có đến mấy chục nơi, các phái ngoại đạo chung sống hỗn tạp. Ngoại đạo đông nên đồ chúng phát triển rất mạnh, đều thờ phụng thiên thần Sồ-na.
There are more than ten stupas built by King Asoka. Deva temples number several tens and the heretics, 939c who are in the majority, live together. Their disciples are extremely numerous and they worship the god Suna.
Thuở xưa, thiên thần Sồ-na từ núi A-lộ-nhu ở nước Ca-tất-thí dời về núi Sồ-na-hứ-la ở biên giới phía nam nước này, mặc ý ban phúc giáng họa, làm điều bạo ác. Những ai tin tưởng thờ phụng thì cầu điều gì cũng được toại nguyện, những người xem thường, khinh miệt thì phải chuốc lấy tai ương. Cho nên xa gần đều phải kính ngưỡng, trên dưới đều sợ sệt. Những nước gần đó, từ vua quan cho đến dân thường, mỗi năm vào ngày lành tháng tốt, không hẹn mà đều cùng đến gặp nhau tại nơi này, hoặc mang theo vàng bạc, châu báu, hoặc trâu, bò, dê, ngựa, gia súc... tranh nhau dâng cúng [thần Sồ-na] để bày tỏ lòng thành. Cho nên [nơi đây] vàng bạc, trân bảo trải đầy mặt đất, dê, ngựa, gia súc chen chúc đầy hang, nhưng không ai dám tham lấy, chỉ một lòng mang đến để dâng cúng mà thôi.
Formerly this god moved from Aruna Mountain in the country of Kapisi to Sunastra Mountain in the south of this country. Acting like a tyrant and doing evil deeds, he rode roughshod over the inhabitants. Those who have faith in him and seek his protection have their wishes fulfilled and those who despise him incur calamity. Thus the people, far and near and high and low, revere him with awe. The kings, ministers, officials, and common people, who observe different customs in neighboring countries, come here without making appointments on an auspicious day each year. They offer either gold, silver, and rare gems or they present sheep, horses, and other domestic animals to the god in competition with each other to show their piety and sincerity. Therefore gold and silver are scattered all over the ground and sheep and horses fill up the valley. Nobody dares to covet them; everyone is eager to make offerings to the god.
Những người thờ phụng ngoại đạo, gắng sức chịu khổ hạnh, được thiên thần truyền cho chú thuật, luyện tập làm theo có nhiều phần công hiệu, mang ra chữa trị bệnh tật rất nhiều người được khỏi.
To those who respect and serve the heretics and practice asceticism wholeheartedly, the god imparts magical incantations, of which the heretics make effective use in most cases; they are quite efficacious for the treatment of disease.
Từ nơi đây đi về hướng bắc khoảng 163 km thì đến nước Phất-lật-thị-tát-thảng-na.
From here going northward for more than five hundred li, I reached the country of Vrjisthana.
2. Nước Phất-lật-thị-tát-thảng-na
Nước Phất-lật-thị-tát-thảng-na, chiều dài đông tây khoảng 652 km, chiều nam bắc khoảng 325 km. Kinh thành Hộ-bật-na chu vi khoảng 6.5 km. Nơi đây đất đai, sản vật, phong tục đều giống như nước Tào-củ-trá nhưng ngôn ngữ có khác biệt. Khí hậu rét lạnh, tính người hung bạo cứng cỏi. Đức vua là người Đột-quyết, thâm tín Tam bảo, xem trọng việc học tập, noi theo đạo đức.
The country of Vrjisthana is more than two thousand li from east to west and over one thousand li from south to north. Its capital city, Hubina, is over twenty li in circuit. The native products and customs are the same as in the country of Jaguda but the language is different. The climate is very cold and the people are rustic and violent by nature. The king, who is of Turkish stock, has deep faith in the Triple Gem, advocates learning, and respects people of virtue.
Từ nước này đi về hướng đông bắc, vượt núi băng sông, đi qua mấy chục nơi là các thành thị ven biên của nước Ca-tất-thí và nhiều thôn ấp nhỏ, cuối cùng đến được ngọn núi lớn Bà-la-tê-na thuộc dãy Đại Tuyết sơn. Đỉnh núi rất cao, sườn núi dốc đứng nguy hiểm, đường đi nhỏ hẹp quanh co khúc khuỷu, vách núi khe sâu nối nhau liên tục, khi lên cao, khi xuống thấp. Dù đang giữa mùa hè nhưng băng tuyết phủ ngập đường, phải phá băng mở đường đi qua. Đi cả ba ngày mới lên tới đỉnh núi. Gió rét kinh người, tuyết phủ đầy khe, người đi qua phải liên tục cất bước không thể dừng lâu. Ngay cả loài chim ưng cũng không thể bay qua vách núi quá cao, phải hạ xuống mặt đất để đi qua đỉnh núi rồi mới cất cánh bay tiếp. [Từ trên đỉnh núi,] nhìn xuống các ngọn núi khác thấy giống như những gò đất nhỏ. Trong châu Thiệm-bộ, đây là đỉnh núi cao vượt hơn hết. Trên đỉnh núi không có cây, chỉ có rất nhiều ngọn đá mọc thành từng cụm, chen chúc nhau nhìn giống như rừng. Lại đi thêm ba ngày nữa mới xuống khỏi núi, đến nước An-đát-la-phược.
Proceeding northeast from this country over mountains and across rivers, I passed several tens of small frontier towns in the country of Kapisi and reached the Balasena Range of the Great Snow Mountains. The range is extremely lofty and precipitous, with dangerous and sloping stone steps on a tortuous path winding among the cliffs and peaks, sometimes descending into a deep ravine and ascending to a high precipice. Even in the height of summer it is frozen; one has to break ice while proceeding on the way. After a journey of three days I reached the top of the range, where the cold wind is strong and piercing and the accumulated snow fills the valley. Whenever travelers pass through this place they cannot halt their journey Even a falcon cannot fly over the range and has to alight and walk across it and then continue its flight. When one looks down on the lower mountains they appear to be small mounds, so this is a very high range in Jambudvipa. In the mountains there are no trees but many rocky peaks standing closely together, resembling a forest.
After a journey of three more days I descended from the range and reached the country of Andarab.
Nước An-đát-la-phược, thuộc lãnh thổ Đổ-hóa-la trước đây, chu vi khoảng 980 km. Chu vi kinh thành khoảng 4.6-4.9 km. Nước không có vua, chịu phụ thuộc nước Đột-quyết. Núi đồi liên tục nối nhau, ruộng đồng rất hẹp. Khí hậu rét lạnh, gió tuyết buốt da. Các giống lúa sinh trưởng tốt, thích hợp trồng cây ăn trái. Tính người hung bạo, phong tục hỗn loạn, không có kỷ cương, không biết chuyện tội phước. Người dân không xem trọng việc học tập, chỉ thờ phụng thần linh, ít người tin tưởng Phật pháp. Có ba ngôi chùa với mấy mươi vị tăng sĩ, tất cả đều tu học theo giáo pháp Đại chúng bộ [thuộc Đại thừa]. Có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng.
The country of Andarab, an old territory of the country of Tukhara, is more than three thousand li in circuit and its capital city is fourteen or fifteen li in circuit. It has no sovereign ruler and is a dependency of the Turks. Mountains and hills connect with one another and the plains are narrow and small. The climate is very cold with strong winds and heavy snow. Crops are abundant and the land is good for growing flowers and fruit. The people are rustic and violent by nature, without moral discipline. They have no idea of sin or merit and are not fond of learning. They erect only deva temples but a few of them believe in the buddha-dharma. There are three monasteries with a few tens of monks, all of whom study the teachings of the Mahasamghika school. There is one stupa built by King Asoka.
Từ nơi đây về hướng tây bắc, vượt núi qua khe, qua một số thành thị nhỏ, đi khoảng 130 km thì đến nước Khoát-tất-đa.
Going northwest from there, entering valleys, crossing rivers, and passing a number of small towns on a journey of more than four hundred li, I reached the country of Khost.
Nước Khoát-tất-đa, thuộc lãnh thổ Đổ-hóa-la trước đây, chu vi gần 325 km. Chu vi kinh thành khoảng 3.2 km. Nước không có vua, chịu phụ thuộc nước Đột-quyết. Nhiều núi non nên đất đồng bằng hẹp, nhiều gió rét lạnh. Lúa má tốt tươi, cây trái sum suê. Người dân tính tình hung bạo, phong tục hỗn loạn, không có phép tắc quy định. Có ba ngôi chùa, rất ít tăng sĩ.
The country of Khost, an old territory of the country of Tukhara, is less than one thousand li in circuit and its capital city is over ten li in circuit. It has no sovereign ruler and is a dependency of the Turks. There are many mountains and the plains are narrow and small. The climate is windy and cold but there are abundant crops and plenty of flowers and fruit. The people are rustic and violent by nature and the society lacks legal institutions. There are three monasteries with few monks.
Từ nơi đây về hướng tây bắc, vượt núi qua khe, qua nhiều thành thị, thôn ấp, đi khoảng 98 km thì đến nước Hoạt.
From here going northwest, crossing mountains and valleys and passing a number of towns and villages on a journey of more than three hundred li, I reached the country of Huoh.
Nước Hoạt, thuộc lãnh thổ Đổ-hóa-la trước đây, có chu vi khoảng 652 km. Chu vi kinh thành khoảng 3.2 km. Nước không tự lập vua riêng mà chịu sự phụ thuộc nước Đột-quyết. Đất đai bằng phẳng, lúa thóc gieo trồng theo thời vụ. Cây cỏ xanh tốt sum suê, có nhiều và đủ loại cây ăn trái. Khí hậu ôn hòa dễ chịu, phong tục thuần hậu chân chất, tính người nóng nảy hấp tấp. Y phục may bằng loại vải dạ thô dày. Người dân đa phần có tín tâm với Tam bảo, ít thờ phụng thần linh.
The country of Huoh, an old territory of the country of Tukhara, is more than two thousand li in circuit and its capital city is over twenty li in circuit. It has no independent ruler and is under the control of the Turks. The terrain is flat and crops are sown in the proper seasons. Vegetation is luxuriant with profuse flowers and fruit. The climate is mild and pleasant and the social customs are simple and honest. The people are of a rash and fiery disposition and wear garments made of felt and hempen cloth. Most of them believe in the Triple Gem; a few worship various gods.
Có hơn 10 ngôi chùa, tăng sĩ khoảng mấy trăm người, tu tập theo cả Đại thừa lẫn Tiểu thừa. Đức vua [của] người Đột-quyết, nắm quyền cai quản các nước nhỏ từ cửa Thiết Môn về phía nam, thường di chuyển nhiều nơi, không lưu trú thường xuyên ở đâu cả.
There are over ten monasteries with several hundred monks who study and practice the teachings of both the Mahayana and Hinayana schools. The king is a Turk who rules over the various small countries south of the Iron Gate and always travels from one country to another, without a permanent seat of government.
Từ nơi đây đi về hướng đông là vào phạm vi rặng núi Thông Lĩnh. Rặng Thông Lĩnh nằm giữa châu Thiệm-bộ, phía nam tiếp giáp với Đại Tuyết sơn, phía bắc chạy dài đến vùng Nhiệt hải (tức hồ Thanh Trì), Thiên Tuyền, phía tây giáp nước Hoạt, phía đông giáp nước Ô-sái (Wusha). Hai chiều đông tây và nam bắc đều trải dài đến mấy ngàn dặm, có đến mấy trăm ngọn núi, khe sâu đỉnh cao, cực kỳ hiểm trở, băng tuyết tích tụ quanh năm, gió rét kinh người. Vùng này sản xuất rất nhiều hành nên gọi là Thông Lĩnh, hoặc cũng có người nói vì núi non xanh thẳm một màu nên gọi tên như vậy.
From here going eastward I entered the Cong Ling (“Onion Range”), the center of Jambudvipa. On the south it connects with the Great Snow Mountains, on the north it reaches the Hot Sea and the Thousand Springs, on the west it borders the country of Huoh, and on the east it adjoins the country of Wusha. On each side there are hundreds of cliffs and ridges lining up in a row several thousand li in length. The deep valleys are perilous and precipitous with accumulated ice and snow that never melt; the cold wind is strong and piercing. It is called the Onion Range because many fistular onions are grown on the mountains, or it may be so called because of the oniongreen color of the cliffs.
Từ nơi đây đi về hướng đông khoảng 32 km thì đến nước Măng-kiện.
Going east for more than one hundred li, I reached the country of Mungan.
Nước Măng-kiện thuộc lãnh thổ Đổ-hóa-la trước đây, chu vi khoảng 130 km. Chu vi kinh thành khoảng 4.7-5 km. Đất đai, sản vật, phong tục về đại thể giống như nước Hoạt. Nước không có vua, chịu phụ thuộc nước Đột-quyết.
The country of Mungan, an old territory of the country of Tukhara, is more than four hundred li in circuit and its capital city is over fifteen or sixteen li in circuit. The native products and social customs are generally the same as in the country of Huoh. It has no sovereign rider and is a dependency of the Turks.
Phía bắc giáp với nước A-lợi-ni.
To the east is the country of Alini.
Nước A-lợi-ni cũng thuộc lãnh thổ Đổ-hóa-la trước đây, nằm cả hai bên bờ sông Phược-sô, chu vi khoảng 98 km. Chu vi kinh thành khoảng 4.6-4.9 km. Đất đai, sản vật, phong tục về đại thể cũng giống như nước Hoạt.
The country of Alini, an old territory of the country of Tukhara, is located on both banks of the Oxus, with a circumference of more than three hundred li; its capital city is over fourteen or fifteen li in circuit. The native products and social customs are generally the 940b same as in the country of Huoh.
Phía đông giáp với nước Hạt-la-hồ.
To the east is the country of Rahn.
Nước Hạt-la-hồ thuộc lãnh thổ Đổ-hóa-la trước đây, phía bắc giáp sông Phược-sô, chu vi khoảng 65 km. Chu vi kinh thành khoảng 4.6-4.9 km. Đất đai, sản vật, phong tục về đại thể cũng giống như nước Hoạt.
The country of Rahn, an old territory of the country of Tukhara, borders the Oxus River in the north and is more than two hundred li in circuit; its capital city is over fourteen or fifteen li in circuit. The native products and social customs are generally the same as in the country of Huoh.
Từ nước Măng-kiện đi về hướng đông, vượt đỉnh núi cao, qua khe núi sâu, lại đi qua một số thành thị ở đồng bằng, khoảng 98 km thì đến nước Ngật-lật-sắt-ma.
From the country of Mungan going east over high ranges, across deep valleys, and passing several cities in the plains on a journey of more than three hundred li, I reached the country of Krisma.
Nước Ngật-lật-sắt-ma thuộc lãnh thổ Đổ-hóa-la trước đây, chiều đông tây khoảng 325 km, chiều nam bắc khoảng 98 km. Chu vi kinh thành khoảng 4.7-5 km. Đất đai, sản vật, phong tục về đại thể đều giống như nước Măng-kiện, chỉ khác biệt là tính người hung ác và ngu xuẩn.
The country of Krisma, an old territory of the country of Tukhara, is more than one thousand li from east to west and over three hundred li from south to north. Its capital city is fifteen or sixteen li in circuit. The native products and social customs are generally the same as in the country of Mungan; the only difference is that the people are violent and malicious in disposition.
Đi về hướng bắc là nước Bát-lợi-át.
Nước Bát-lợi-át thuộc lãnh thổ Đổ-hóa-la trước đây, chiều đông tây khoảng 32 km, chiều nam bắc khoảng 98 km. Chu vi kinh thành khoảng 6.5 km. Đất đai, sản vật, phong tục về đại thể giống như nước Ngật-lật-sắt-ma.
The country of Parghar, an old territory of the country of Tukhara, is more than one hundred li from east to west and over three hundred li from south to north. Its capital city is over twenty li in circuit. The native products and social customs are generally the same as in the country of Krisma.
Từ nước Ngật-lật-sắt-ma đi về hướng đông, vượt núi cao, qua đồng bằng, khoảng 98 km thì đến nước Hứ-ma-đát-la.
Going east from the country of Krisma over mountains and across rivers on a journey of more than three hundred li, I reached the country of Himatala.
Nước Hứ-ma-đát-la thuộc lãnh thổ Đổ-hóa-la trước đây, chu vi khoảng 980 km, núi non, đồng bằng quanh co uốn khúc, đất đai màu mỡ, thích hợp trồng lúa, có nhiều lúa mạch, trăm loài hoa cỏ đều tươi tốt sum suê, trồng nhiều và đủ loại cây ăn trái. Khí hậu rét lạnh, tính người hung bạo nóng nảy, không phân biệt được tội phước. Hình thể thô xấu, cử chỉ hành vi cho đến cách trang phục bằng vải dạ, da thú hoặc vải bông, đều rất giống với người Đột-quyết.
The country of Himatala, an old territory of the country of Tukhara, is more than three thousand li in circuit. The land has a chain of mountains and valleys and the soil is fertile, good for growing crops and producing abundant winter wheat. Vegetation of diverse kinds thrives and fruit of every variety is profrise. The climate is bitterly cold and the people are violent and impetuous in disposition, not knowing what is iniquitous and what is meritorious. They are short and ugly in their features and their ways and manners, as well as their garments made of felt, fur, and hempen cloth, are quite the same as those of the Turks.
Phụ nữ đã có chồng thì đội trên đầu một loại mũ có sừng gỗ cao khoảng 1 mét, phía trước sừng có hai nhánh nhỏ, tượng trưng cho cha và mẹ chồng. Nhánh trên là cha chồng, nhánh dưới là mẹ chồng, khi một trong hai người mất đi thì tùy theo đó mà cắt bớt một trong hai nhánh. Nếu cha mẹ chồng đều mất cả thì không đội loại mũ có sừng này nữa.
Their married women wear a wooden horn about three feet high as a headdress, with two branches in front to represent their husbands’ parents, the upper branch indicating the father and the lower one standing for the mother. When one of the woman’s parents has died the branch indicating the deceased person is removed; when both parents have died the horn headdress is discarded altogether.
Nước này trước đây là một cường quốc, đức vua thuộc dòng họ Thích, thuở ấy khiến cho đa số những nước nằm về phía tây rặng Thông Lĩnh đều phải thần phục. Vì biên giới giáp với nước Đột-quyết nên dần dần chịu ảnh hưởng thói tục của họ, cũng xâm lăng, chiếm cứ lãnh thổ [nơi khác]. Do vậy mà người dân nước này đi các xứ khác, [chiếm cứ] đến mấy chục tòa thành kiên cố, mỗi nơi đều lập người đứng đầu riêng. Họ sống đời du mục trong các lều tròn lớn, thường xuyên di chuyển đó đây, về phía tây [có khi đi] giáp đến nước Ngật-lật-sắt-ma.
Formerly this was a powerful country and the royal lineage was of Sakya stock. Most of the states west of the Cong Ling Mountains were subject to this country. Because the land is linked with the territory of the Turks the people of this country are influenced by Turkish customs. They have to guard their own land against invasion and pillage so they wander about, leading a nomadic life in different regions. There are several tens of strong cities, each with its own rider. The people live in domed felt tents and move from place to place, up to the border of the country of Krisma in the west.
[Từ đây] đi về hướng đông khoảng 65 km thì đến nước Bát-đạc-sang-na.
Going east in a valley for more than two hundred li, I reached the country of Badakshan.
Nước Bát-đạc-sang-na thuộc lãnh thổ Đổ-hóa-la trước đây, có chu vi khoảng 652 km. Kinh thành nằm ven sườn núi, chu vi khoảng 1.5-2 km. Núi non, đồng bằng quanh co uốn khúc, đâu đâu cũng thấy cát đá. Đất đai thích hợp trồng các loại đậu, lúa mạch, trồng nhiều nho và các loại cây ăn trái như hồ đào, lê, nại... Khí hậu rét lạnh, tính người cứng rắn mạnh mẽ, tập tục không có lễ nghi quy tắc, không học các tài nghề. Con người hình dung tướng mạo xấu xí, đa phần mặc y phục bằng vải dạ thô. Trong nước có khoảng ba, bốn ngôi chùa, rất ít tu sĩ. Đức vua tánh tình thuần phác chân chất, tin sâu Tam bảo.
The country of Badakshan, an old territory of the country of Tukhara, is more than two thousand li in circuit and its capital city, built on the cliff of a mountain, is six or seven li in circuit. In this land there are mountains and valleys connected in a chain and the earth is covered with sand and stone. The soil is good for growing pulse and wheat and there is plenty of such fruit as grapes, walnuts, pears, and crabapples. The climate is fiercely cold and the people are staunch and violent by nature. They observe no eti- 940c quette and do not learn arts or crafts. Their features are ugly and vulgar and they mostly wear felt and hempen garments. There are three or four monasteries with very few monks. The king is a plain and honest man who deeply believes in the Triple Gem.
Từ đây về hướng đông nam, đi trong khe núi, khoảng 65 km thì đến nước Dâm-bạc-kiện.
Going southeast from here in a valley for more than two hundred li, I reached the country of Invakan.
Nước Dâm-bạc-kiện, thuộc lãnh thổ Đổ-hóa-la trước đây, chu vi khoảng 325 km. Chu vi kinh thành khoảng 3.2 km. Núi non trải khắp, ruộng đồng chật hẹp. Đất đai, sản vật, khí hậu, tính người... đều giống như nước Bát-đạc-sang-na, chỉ riêng ngôn ngữ có đôi chút khác biệt. Đức vua tánh tình hà khắc hung bạo, không biết phân biệt thiện ác.
The country of Invakan, an old territory of the country of Tukhara, is more than one thousand li in circuit and its capital city is over ten li in circuit. It has a chain of mountains and valleys interspersed with narrow plains and cultivated land. The native products, climate, and the characteristics of the people are the same as in the country of Badakshan but the language differs slightly. The king is a tyrannical person who does not distinguish between good and evil.
Từ nơi đây đi về hướng đông nam, vượt núi qua khe, đường đi qua mỏm núi đầy nguy hiểm, khoảng 98 km thì đến nước Khuất-lang-noa.
From here going southeast, over mountains and across valleys for more than three hundred li by perilous paths in the canyons, I reached the country of Kurana.
Nước Khuất-lang-noa thuộc lãnh thổ Đổ-hóa-la trước đây, có chu vi khoảng 652 km. Núi sông, đất đai, sản vật, khí hậu đều giống như nước Dâm-bạc-kiện. Tập tục không có phép tắc quy phạm, tánh người thô bỉ hung bạo, phần lớn không làm việc phước thiện, ít người tin tưởng Phật pháp, dung mạo xấu xí, đa số dùng y phục bằng vải dạ thô. Có một vách núi chứa đá thủy tinh, người dân chẻ và mài các tảng đá để lấy.
The country of Kurana, an old territory of the country of Tukhara, is more than two thousand li in circuit. The land, topography, and climate are the same as in the country of Invakan. There are no legal institutions and the people are vulgar and violent by nature. Most do not perform meritorious deeds though a few of them believe in the buddha-dharma. Their features are ugly and unsightly and they mostly wear felt or hempen clothes. There is a rocky mountain from which much crystal is produced. The people break up the rocks to obtain the mineral.
Chùa viện đã rất ít, tăng sĩ càng hiếm hoi. Đức vua tính tình thuần hậu chân chất, kính trọng tôn sùng Tam bảo.
There are a small number of monasteries with few monks. The king is a plain and honest man who respects the Triple Gem.
Từ nơi đây đi về hướng đông bắc, vượt núi qua khe, đường đi gian nan nguy hiểm, hơn 163 km thì đến nước Đạt-ma-tất-thiết-đế, cũng gọi là nước Trấn Khản hoặc nước Hộ Mật.
From here going northeast, climbing over mountains and traversing valleys for more than five hundred li on a hard and dangerous journey, I reached the country of Dharmasthiti (also called Zhenkan or Humi).
15. Nước Đạt-ma-tất-thiết-đế
Nước Đạt-ma-tất-thiết-đế nằm lọt giữa hai dãy núi, thuộc lãnh thổ Đổ-hóa-la trước đây. Chiều dài đông tây khoảng 490-520 km, chiều rộng nam bắc chỉ khoảng 1-1.5 km, nơi hẹp nhất chưa đến 600 mét. Biên giới giáp sông Phược-sô, địa hình quanh co khúc khuỷu, thế đất cao thấp gập ghềnh, đâu đâu cũng thấy nhiều cát đá, gió rét kinh người. Chỉ trồng được các loại lúa mạch, đậu và một ít cây rừng, những cây ăn trái tạp nhạp. Nơi đây nuôi và bán ra nhiều ngựa hay, tuy vóc dáng nhỏ nhưng có sức chịu đựng đường dài. Phong tục không có lễ nghĩa, tính người hung ác tàn bạo, hình dung tướng mạo xấu xí, dùng y phục may bằng vải dạ thô, tròng mắt phần nhiều màu xanh lục, khác hẳn với các nước khác. Có hơn 10 ngôi chùa, rất ít tăng sĩ.
The country of Dhar- masthiti, lying between two mountains, is an old territory of the country of Tukhara. It is one thousand and five or six hundred li from east to west and four or five li wide; at its narrowest point it is less than one li wide. It winds along the Oxus River. The land is uneven with mounds and hummocks and the earth is covered with shifting sand and stone; the cold wind is harsh and strong. Only wheat and pulse are planted; there are few trees and no flowers or fruit. The country produces many good horses, which, though small in size, are capable of undertaking hard journeys. The people have no sense of etiquette and righteousness. They are mstic and violent by nature, with ugly and unsightly features. Their garments are made of felt and hempen cloth and their eyes are of a dark green color, different from those of the people of other countries. There are more than ten monasteries with few monks.
Kinh thành là Hôn-đà-đa. Trong thành có một ngôi chùa do vị vua trước đây của nước này xây dựng, đục đá khoét vách núi để tạo thành phòng ốc điện đường. Nước này thuở trước chưa biết đến Phật pháp, chỉ thờ phụng các tà thần. Cách đây mấy trăm năm mới bắt đầu được giáo hóa biết đến Chánh pháp.
The capital of this country is the city of Khamdadh, in which there is a monastery built by a former king of this country. The cliffs were cut to [make material] to fill up the gully in order to prepare the building site for the halls and houses of the monastery. Formerly this country was not Buddhist and the people worshiped only heretical gods. A few hundred years ago the Dharma began to spread in this country.
Thuở ấy, đức vua có đứa con cưng bị bệnh, thuốc men chữa trị đều không hiệu quả, bệnh ngày một nặng thêm chứ không thuyên giảm. Đức vua đích thân đến đền thờ Phạm thiên, lễ bái thỉnh cầu cứu mạng. Lúc bấy giờ, ông từ giữ đền thay lời thần linh phán rằng: “Bệnh này sẽ thuyên giảm bình phục, không có gì phải lo.”
The beloved son of the king of this country was once ill; the physicians were unable to cure him so his illness worsened. The king then went in person to a deva temple to seek the help of the god. The priest in charge of the temple, speaking on the god’s behalf, said that the prince would surely be cured and there was no need to worry.
Vua nghe như vậy mừng vui, cho xa giá quay về, dọc đường gặp một vị sa-môn, hình dung cử chỉ đáng mến mộ nhưng y phục khác lạ, đức vua thấy lạ liền dừng lại hỏi xem vị ấy từ đâu đến. Vị sa-môn ấy đã chứng thánh quả, nhưng vì muốn hoằng truyền Phật pháp nên thị hiện hình dáng dung nghi như vậy. Liền đáp lời vua rằng: “Tôi là đệ tử đức Như Lai, gọi là tỳ-kheo.”
941a The king was pleased to hear this. On his way back home he met with a sra-mana who had a remarkable demeanor. Surprised to see the mendicant’s appearance and garments, the king inquired where he had come from. This sramana, who had realized sainthood, wished to spread the buddha-dharma and that was why he was dressed as he was. He answered the king, saying, “I am a disciple of the Tathagata, a bhiksu, as people say.”
Đức vua trong lòng còn lo lắng, liền hỏi: “Trẫm có đứa con bị bệnh, chưa biết sống chết thế nào?”
Feeling worried in his mind, the king anxiously said to him, “My son is ill and in critical condition.”
Vị sa-môn nói: “Ví như tiên vương của bệ hạ sống lại còn có thể được, nhưng cứu được đứa con này là chuyện không thể.”
The sramana said, “Even though the spirits of your ancestors may be brought back to life it will be difficult to save your beloved son.”
Vua nói: “Thiên thần vừa nói là không chết, giờ sa-môn này lại bảo chắc chắn phải chết. Người này chỉ dối trá lừa gạt người đời thôi, làm sao có thể tin được.”
The king said, “The god has said that my son will not die, yet this sramana says that he is near his end. How can I believe the words of such a humbug?”
Nhưng khi vua về đến cung thì đứa con đã chết. Vua tạm giữ kín chưa phát tang, lại đến hỏi thần một lần nữa, ông từ giữ đền vẫn nói: “Không chết, bệnh ấy sẽ khỏi.”
When the king returned to his palace, however, he found that his son had died. The king kept it a secret and did not send out an obituary, but went to see the priest, who again assured him that his son would not die and his disease would be cured.
Vua nổi giận, ra lệnh bắt trói lại rồi kể tội rằng: “Lũ các người tụ tập nơi đây để nuôi lớn việc ác, dối trá làm chuyện ra uy ban phúc. Con ta đã chết rồi mà vẫn nói là sẽ khỏi bệnh. Ăn nói xằng bậy như vậy thì ai là người có thể nhẫn chịu được? Lập tức mang ra giết tên giữ đền này và phá nát hết đền miếu đi.”
The king, enraged, had the priest bound and rebuked him, saying, “You people live in a group doing a lot of evil and you cheat people with your influence to gain advantages. My son has already died yet you still say that he will be cured of his illness. Your fraudulence and deceit are intolerable. The priest should be put to death and the temple demolished.”
Liền đó, kẻ giữ đền bị giết, tượng thần bị tháo gỡ ném xuống sông Phược-sô. Vua quay xa giá về cung, giữa đường lại gặp vị sa-môn liền hoan hỷ cung kính, cúi đầu tạ lỗi và nói rằng: “Lúc trước trẫm không biết đến chánh đạo sáng suốt nên tin theo một lũ tà đạo. Si mê lầm lỗi đã lâu, hôm nay nguyện xin chấm dứt, ngưỡng mong ngài rủ lòng thương xót, hạ cố đến vương cung.”
The priest was killed and the image of the god was removed and thrown into the Oxus River. After that the king on the return journey and on the way he again met with the sramana. He was glad to meet the mendicant, showed him respect, and paid homage to him, saying, “Formerly, I had no sagacious person to guide me and I set foot on the wrong path. Although it has been a long tradition it is time now for a reformation. I hope you will condescend to come to my residence.”
Vị sa-môn nhận lời thỉnh cầu, đến vương cung. Sau khi xong tang lễ đứa con, nhà vua thưa với vị sa-môn: “Đời người hợp tan, tan hợp; sinh tử lưu chuyển không cùng. Khi con trẫm có bệnh, đến hỏi việc sống chết, tà thần nói bậy rằng thế nào cũng khỏi. Nhưng lời dạy của ngài [rằng không cứu được] quả thật không sai. Xét theo đó thì biết ngài là người có chánh pháp, có thể kính vâng làm theo. Mong ngài rủ lòng thương xót, dẫn dắt những kẻ mê lầm.”
At the king’s invitation, the sramana accompanied him to the royal palace. After the prince’s burial the king said to him, “The human world is entanglemed in the cycle of rebirth. When my son was ill I asked the god about his fate, and the god lied and said that my son would certainly be cured of his illness. Then I heard your information, which proved to be true. From this I know that your Dharma is believable. Please have pity on me and guide this deluded disciple.”
Vua liền cung thỉnh sa-môn hướng dẫn quy cách, phép tắc, rồi y theo đó xây dựng chùa. Từ đó về sau Phật giáo mới phát triển nơi đây. Cho nên trong chùa có một tinh xá, chính là vì [để ghi nhớ công lao] vị A-la-hán này mà xây dựng.
He invited the sramana to make a plan for the construction of a monastery according to established rides. The temple of the old monastery was built for the arhat and since then the buddha-dharma began to flourish in this country.
Trong chùa có tinh xá lớn, bên trong có một tượng Phật bằng đá, phía trên tượng có lọng che tròn bằng đồng vàng, trang sức bằng nhiều loại trân bảo quý giá. Khi có người nhiễu Phật trọn vòng, lọng che cũng xoay theo, người đứng lại thì lọng dừng quay, sự linh ứng không thể đo lường được.
In the great temple of the monastery is a stone image of the Buddha, over which a gilded copper canopy, adorned with various precious things, is suspended. Whenever someone pays homage to the Buddha’s image by circumambulating it the canopy also turns along with the worshiper; if the person stops and sands still, the canopy stops turning too. Nobody knows the cause of this mystery.
Theo những bậc kỳ lão ở đây, có người nói là do nguyện lực của bậc thánh nhân hộ trì, lại có người cho là do có bố trí máy móc cơ quan bí mật. Quan sát khắp trên mái dưới hiên, tường đá chung quanh kiên cố cao tột [không thể giấu được cơ quan máy móc gì]. Khảo sát hết các ý kiến, vẫn không thể biết được sự thật là thế nào.
I heard some old people say that the canopy is suspended by the willpower of a saint, or that it is operated by a mechanical device. I noticed that the stone walls of the hall were high and strong and I could not tell which of the stories was true.
Đi về hướng bắc, vượt qua ngọn núi lớn của nước này là đến nước Thi-khí-ni.
Going north over a great mountain in this country, I reached the country of Sikni.
Nước Thi-khí-ni chu vi khoảng 652 km. Chu vi kinh thành khoảng 1.5-2 km. Núi cao, đồng bằng tiếp nối nhau, cát đá khắp nơi. Có nhiều lúa mạch, ít lúa mùa, cây cối thưa thớt, hoa quả rất ít. Khí hậu rét lạnh, phong tục hung bạo mạnh mẽ, tàn nhẫn đến mức có thể giết người, chuyên làm những chuyện trộm cướp, không biết lễ nghĩa, chẳng phân thiện ác, si mê không biết đến chuyện họa phúc ngày sau, chỉ sợ những tai ương trong hiện tại. Người dân hình dung tướng mạo xấu xí, thường dùng da thú hoặc vải thô may y phục. Chữ viết giống như vùng Đổ-hóa-la nhưng ngôn ngữ có khác biệt.
The country of Sikni is more than two thousand li in circuit and its capital city is over five or six li in circuit. Mountains and valleys connect together and sand and stone are spread all over the wilderness. The country produces much winter wheat but there are few other cereals. Trees are rare and flowers and fruit are scarce. The climate is very cold and the people are rustic and bold by custom, cruelly making slaughter and theft their profession. They do not know about ritual and righteousness and make no distinction between good and evil. They hold wrong ideas about future misfortune and happiness and fear disasters in their present life. Their features are vulgar and unsightly and they wear fur or hempen clothes. Their written language is the same as in the country of Tukhara but they speak in a different way.
Vượt qua ngọn núi lớn nằm ở phía nam nước Đạt-ma-tất-thiết-đế thì đến nước Thương-di.
Going south over a great mountain in the country of Dharmasthiti, I reached the country of Shangmi.
Nước Thương-di chu vi khoảng hơn 810 km. Núi non, thung lũng liên tục nối nhau, đất đai gập ghềnh không bằng phẳng. Nơi đây trồng đủ các giống lúa, đậu. Lúa mạch trồng khắp nơi và rất tốt. Trong nước sản xuất được chất khoáng thư hoàng. Người ta đục ven núi lấy đá, rồi chẻ đá ra để lấy thư hoàng. Nơi đây có thần núi rất hung bạo xấu ác, thường gây tai họa. Nếu cúng tế trước rồi mới vào núi thì được bình an, nếu không thì sẽ có gió bão nổi lên, cát bay đá chạy.
The country of Shangmi is two thousand and five or six hundred li in circuit, with alternating mountains and valleys as well as high and low hills. All sorts of cereals are grown; pulse and wheat are particularly abundant. It yields a large amount of grapes and produces orpiment, which is obtained by breaking up rocks hewn from the cliffs. The mountain gods are fierce and malicious and have repeatedly caused calamities. Travelers may be safe and have a pleasant journey if they worship the gods with offerings before entering the mountains; otherwise they may encounter abrupt windstorms and hail.
Khí hậu rét lạnh, phong tục hấp tấp nhưng tánh người thuần hậu chân chất, tập tục không có lễ nghi, mưu trí hẹp hòi, kỹ năng cạn cợt. Chữ viết giống như vùng Đổ-hóa-la, ngôn ngữ có khác biệt. Đa phần dùng y phục bằng vải dạ thô.
The climate is cold and the people are impetuous by custom but simple and honest in disposition. They have no idea of etiquette and righteousness. Their wisdom and resourcefulness are limited and their crafts are shallow and superficial. Their written language is the same as that of the country of Tukhara but they speak in a different way. They mostly wear felt and hempen clothes.
Đức vua thuộc dòng họ Thích, tôn sùng kính trọng Phật pháp nên người trong nước được giáo hóa theo, ai ai cũng có lòng tin thuần thành. Có hai ngôi chùa, rất ít tăng sĩ.
The king is of Sakya stock and respects the buddha-dharma; the people following his edification are all pure Buddhists. There are two monasteries with very few monks.
Từ biên giới phía đông bắc của nước này, vượt núi qua khe, trải qua nhiều nguy hiểm, đi khoảng 230 km thì đến vùng cao nguyên Ba-mê-la, chiều đông tây dài khoảng 325 km, chiều nam bắc rộng khoảng 32 km, nơi hẹp nhất không quá 3.2 km. Vùng này nằm giữa hai dãy núi tuyết nên có gió rét kinh người, mùa xuân, mùa hạ vẫn có tuyết rơi, ngày đêm đều có gió lốc thổi không ngừng. Đất đai nhiễm mặn, nhiều sỏi đá, không gieo trồng được, cây cỏ thưa thớt, cho nên bỏ hoang không có người ở.
Going over mountains and across valleys, through dangerous regions in the northeast part of the country for more than seven hundred li, I reached the Pamir Valley, which is more than one thousand li from east to west and over one hundred li from south to north; at its narrowest point it is less than ten li wide. It is situated between two snowy mountains and a fierce and strong cold wind blows day and night. Snow falls in spring and summer. The soil is saline and has much gravel; it is uncultivable and so there are scarcely any plants. It is an empty and dreary place without human habitation.
Trong vùng Ba-mê-la có một hồ rồng lớn, chiều đông tây khoảng 98 km, chiều nam bắc khoảng 16 km. Vì nằm trong phạm vi rặng Thông Lĩnh nên vùng đất này là cao nhất trong châu Thiệm-bộ. Nước hồ lắng trong như gương, không thể biết được độ sâu, màu nước xanh đen, vị rất ngon ngọt. Dưới đáy sâu của hồ có đủ các loài như thuồng luồng, ly, cá, rồng, giải, cá sấu, rùa, ba ba... Trên mặt nước thì có các giống chim như uyên ương, hồng nhạn, ngỗng trời, cắt, dã nhạn... Những trứng chim rất lớn vung vãi khắp nơi, hoặc trong cỏ rậm, hoặc trên bãi cát.
In the Pamir Valley there is a great dragon lake that is more than three hundred li from east to west and over fifty li from south to north. Lying among the ranges of the Cong Ling Mountains in the center of Jambudvipa, this lake is in the highest position. The water is pure and clear, of unfathomable depth, and bluish-black in color with a very sweet and refreshing taste. In the water dwell sharks, hornless dragons, fish, normal dragons, soft-shelled turtles, alligators, and tortoises; floating on the water’s surface are mandarin ducks, swans, wild geese, and bustards. The huge eggs laid by various birds are left in the wilds among the marshes or on sandy islets.
Phía tây của hồ chảy ra một dòng nước lớn, theo hướng tây chảy đến miền đông nước Đạt-ma-tất-thiết-đế rồi nhập vào sông Phược-sô, tiếp tục chảy về hướng tây, cho nên từ đây về bên phải tất cả các nguồn nước đều chảy về hướng tây.
The lake has a large outlet on the west side and water flows westward to the eastern boundary of the country of Dharma sthiti, where it joins the Oxus River and flows west. All streams on the right side of this point flow to the west.
Phía đông của hồ lại có một dòng nước lớn chảy ra, theo hướng đông bắc chảy xuống đến giáp miền tây nước Khư-sa rồi nhập vào sông Tỉ-đa, tiếp tục chảy về hướng đông, cho nên từ đây về bên trái tất cả các nguồn nước đều chảy về hướng đông.
On the east of the lake, another large stream flows northeast to the western boundary of the country of Kasha, where it joins the Sita River and flows east. All streams on the left side of this point flow to the east.
Từ phía nam cao nguyên Ba-mê-la, vượt qua núi là nước Bát-lộ-la, có nhiều vàng, bạc. Vàng ở đây có màu ửng đỏ như lửa.
Across a mountain in the south of the Pamir Valley is the country of Balura, where much gold and silver are produced; the gold is of a fiery color.
Từ giữa cao nguyên này đi về hướng đông nam, vượt núi cao hiểm trở, đường không thấy người đi, chỉ toàn băng tuyết, khoảng 163 km thì đến nước Khiết-bàn-đà.
From this valley going southeast for more than five hundred li, climbing over mountains by dangerous paths that are unihabitated all along the way and full of ice and snow, I reached the country of Kabhanda.
Nước Khiết-bàn-đà chu vi khoảng 652 km. Kinh thành xây dựng trên núi đá lớn, dựa lưng vào sông Tỉ-đa, chu vi khoảng 6.5 km. Núi non tiếp nối chập chùng, đất đồng bằng rất hẹp. Các giống lúa rất ít, các loại đậu và lúa mạch được trồng nhiều và tốt. Cây rừng thưa thớt, hoa quả rất ít. Ruộng đất nhiều gò đống, thành thị thôn ấp rộng thoáng. Tập tục không có lễ nghĩa, người dân ít học các tài nghề. Tính khí đã mạnh bạo lại thêm sức vóc mạnh mẽ. Hình dung tướng mạo xấu xí, y phục thường dùng vải dạ thô. Chữ viết, ngôn ngữ đều giống như nước Khư-sa.
The country of Kabhanda is more than two thousand li in circuit and its capital city, founded on a large rocky ridge with the Sita River at its back, is over twenty li in circuit. The mountains and ridges of the country connect together and the valleys and plains are small and narrow. There are few varieties of cereals but pulse and wheat are abundant. Trees are rare and flowers and fruit are scarce. The plains and swamps lie in waste and the cities and towns are desolate. The people have no idea of etiquette and righteousness by custom and seldom learn crafts. They are rustic and violent by nature but are valiant and brave as well. Their features are ugly and unsightly and they wear felt and hempen clothes. Their writing and spoken language are generally the same as in the country of Kasha.
Người dân thuần thành tin tưởng, kính trọng tôn sùng Phật pháp. Có mười mấy ngôi chùa, tăng sĩ hơn 500 vị, tu tập theo giáo lý của phái Thuyết nhất thiết hữu thuộc Tiểu thừa. Đức vua hiện nay tính tình thuần hậu chất phác, kính trọng Tam bảo, hình dung cử chỉ từ tốn thanh nhã, có ý chí cao, ưa thích học tập.
They have pure faith, however, and respect the buddha-dharma. There are over ten monasteries with more than five hundred monks, who study the Hinayana teachings of the Sarvastivada school. The present king is a simple and honest man who venerates the buddha-dharma. He has a composed and refined demeanor and is devoted to learning.
Nước này được thành lập đến nay đã rất lâu năm. Vương tộc tự cho mình là dòng dõi Chí-na-đề-bà-cù-đát-la. Thuở ban sơ nước này chỉ là một vùng hoang vu trong rặng Thông Lĩnh. Khi ấy, vua nước Ba-lạt-tư [sai sứ] sang cầu hôn với nhà Hán, rước dâu về đến nơi đây gặp lúc giặc loạn nổi lên, đường đi từ đông sang tây bị ngăn trở, liền để cô dâu ở lại trên đỉnh núi này. Núi cao vách đứng cực kỳ nguy hiểm, phải dùng thang để lên xuống, quân lính được bố trí canh phòng chung quanh suốt ngày đêm.
Many years have elapsed since the establishment of the country. The king professed himself a descendant of Cmadevagotra (Chinese, “Sun-god Stock”; see below).
Formerly the country was a wild valley in the ranges of the Cong Ling Mountains. In the past a Persian king once obtained a Chinese lady for his queen. As the bride was being taken to Persia she passed this place at a time when a rebellion was taking place. The road leading from east to west was blocked so the king’s bride was lodged on an isolated peak, so steep and lofty that ladders had to be used for going up and down. Guards were posted around the peak to keep watch day and night.
Trải qua ba tháng như thế thì giặc yên, chuẩn bị tiếp tục rước dâu về thì cô dâu đã có thai. Sứ thần bàng hoàng kinh sợ, nói với thuộc hạ: “Vua sai ta đón vương phi về, gặp phải giặc loạn phải dừng nơi hoang vắng này, sớm tối thấp thỏm không thể biết chuyện ngày mai. May nhờ đức lớn của vua nên giặc loạn đã yên, chuẩn bị về nước thì vương phi lại có thai. Việc này khiến ta lo lắng, thật không biết làm sao tránh được tội chết. Nay phải tìm cho ra thủ phạm [đã làm vương phi có thai] để sau này trị tội.”
After three months the uprising was quelled but when the bride was about to resume the journey she was found to be pregnant. The envoy who escorted her was terror-stricken and said to his followers, “The king ordered us to bring his bride back but we met with the revolt and remained in a precarious situation in the wilds, not knowing what would befall us. Thanks to the virtuous influence of our king, the insurgency has been put down. Now at this moment of resuming our return journey, the king’s bride is found to be with child. I am worried about the situation and do not know where I will die. We should find the chief culprit so that he can be put to death later.”
Nói rồi liền tra hỏi khắp trong thuộc hạ, nhưng chẳng tìm được manh mối gì. Khi ấy, một người nữ tỳ hầu cận vương phi nói với sứ thần: “Xin đừng tìm kiếm buộc tội lẫn nhau, việc này là do thần linh gây ra. Mỗi ngày [tôi đều thấy] vào lúc giữa trưa có một người đàn ông từ trong mặt trời cưỡi ngựa bay ra đến đây gặp [vương phi].”
They made a clamorous interrogation but could not find out the true criminal. At that moment the bride’s maidservant told the envoy, “Do not condemn anyone. Tthe pregnancy] is due to her union with a god. Every day at noon a man emerged from the disc of the sun and came to this place on horseback.”
Sứ thần nói: “Nếu đúng là như vậy, chúng ta cũng làm sao khỏi tội? Bây giờ về nước ắt phải chịu tội chết, còn nếu ở lại đây vua sẽ cho quân đến bắt. Tới lui đều không được, biết làm sao đây?”
The envoy said, “If that is so, how can we free ourselves of the blame? If we go back we shall be put to death, but if we stay here troops will be sent to attack us. What shall we do in such an awkward predicament?”
Mọi người đều nói: “Việc này không phải chuyện nhỏ, có ai lại chấp nhận tự đi vào chỗ chết? Nay chúng ta nên ở lại nơi đây, tránh tội được ngày nào hay ngày đó vậy.”
They all said, “This is not a trivial matter. Who would go willingly to suffer the punishment of death? We sgould instead pass our days abroad.”
Liền cùng nhau xây dựng một cung điện trên đỉnh núi đá, chu vi hơn 500 mét, xây thành vây quanh rồi tôn vương phi làm chủ, xếp đặt các chức quan, định ra quy chế, pháp luật. Đến kỳ sinh nở, vương phi sinh ra một đứa con trai dung mạo tuấn tú xinh đẹp. Vương phi cầm quyền nhiếp chánh, người con [lên ngôi] xưng vương hiệu. [Đức vua] có khả năng đi trên không trung, cưỡi mây đạp gió, uy đức lan xa, sự giáo hóa phủ khắp xa gần, các nước chung quanh đều đến thần phục.
So they built a palace and other houses on the top of a rocky peak, more than three hundred paces in circuit. They constructed a city wall around the palace and made the Chinese lady their queen. Officials were appointed and a legal system was established. When the time was came she gave birth to a son, who grew up into a handsome lad. He received the title of king and his mother acted as regent. He could fly about in the air and had control over the wind and clouds. His prestige and virtue spread far and his fame and edification extended to a great distance. All the neighboring regions and countries became 942a his vassal states.
Đến khi đức vua mạng chung, thi hài được an táng trong một hang đá trên ngọn núi lớn, cách thành này khoảng 32 km về hướng đông nam. Thi hài ấy đã khô lại nhưng đến nay vẫn không hư hoại, nhìn giống như một người gầy ốm, dáng vẻ tự nhiên như đang nằm ngủ. Thỉnh thoảng lại thay y phục, thường dâng cúng hương hoa. Con cháu nối truyền không dứt, đến tận ngày nay. Vì tổ tiên có mẹ là người Hán, cha là thần mặt trời (Nhật Thiên), nên tự xưng là dòng dõi Hán Nhật Thiên. Do vậy, người trong vương tộc có hình dáng giống người Trung Hoa, đầu đội mũ vuông, nhưng lại mặc y phục người Hồ. Con cháu về sau ngày càng suy yếu, bị các nước mạnh chèn ép.
When at length this king died at an old age his corpse was entombed in a cave in the mountains over one hundred li southeast of the capital. The corpse has become a mummy and is still intact, resembling an emaciated figure that seems to be fast asleep. Its garments are changed from time to time and sweet flowers are always placed before it by his descendants from generation to generation up to the present time. Because their maternal ancestor was a Chinese lady and on the paternal side he was the sun god, they claimed to be descendants of Chinese-sun-god stock. The facial features of the members of the royal clan are similar to those of Chinese people and they wear square caps, but they dress in the attire of the Hu people. Their offspring degenerated and suffered oppression from powerful countries.
Về sau, khi vua Vô Ưu thống trị khắp nơi, có cho xây dựng trong cung vua [của nước này] một ngọn tháp. Đức vua ấy sau đó dời về nơi cung ở góc phía bắc kinh thành, nơi cung điện cũ lại vì Tôn giả Luận sư Đồng Thụ mà xây dựng lại thành một ngôi chùa, lầu gác cao rộng, tượng Phật uy nghiêm.
When King Asoka prospered in the world he built a stupa in the palace, and the king [of this country] went to live in the northeast comer of the palace. He converted his old palace into a monastery for the venerable sastra master
Kumaralata. The terraces and pavilions were lofty and spacious and solemn images of the Buddha were installed in them.
Tôn giả [Đồng Thụ] là người nước Đát-xoa-thỉ-la, từ nhỏ đã thông minh sáng suốt, sớm lìa bỏ thế tục, chuyên tâm vào kinh điển, để hết tinh thần vào việc tìm hiểu nghĩa lý sâu xa huyền diệu. Mỗi ngày tôn giả tụng đọc ba mươi hai ngàn chữ, cũng viết xuống ba mươi hai ngàn chữ. Cho nên đương thời nổi tiếng là bậc học cao hiểu rộng, vượt trội hơn tất cả học giả, xác lập chánh pháp, phá trừ tà kiến, luận giải cao siêu, nghĩa lý thấu triệt, không một vấn đề khó khăn nào đặt ra mà không đáp lại được. Trong khắp năm vùng Ấn Độ, ai ai cũng kính nể tôn trọng. Ngài viết ra đến mấy mươi bộ luận, tất cả đều được lưu hành rộng khắp, mọi người đều học tập theo đó, trở thành bậc thầy khai sáng Kinh lượng bộ. Vào thời ấy, phương đông có ngài Mã Minh, phương nam có ngài Đề-bà, phương tây có ngài Long Mãnh và phương bắc có ngài Đồng Thụ, được xem là bốn mặt trời soi sáng thế gian. Cho nên vua nước Khiết-bàn-đà này ngưỡng vọng đức độ của tôn giả, liền mang quân chinh phạt nước Đát-xoa-thỉ-la, dùng sức mạnh để đưa tôn giả về đây, rồi xây dựng ngôi chùa này để theo đúng nghi thức cúng dường chiêm ngưỡng.
The venerable monk, a native of the country of Taksasila, was intelligent since childhood and renounced the world at an early age to engage in the study of the scriphires and fix his mind on the abstruse doctrines. Every day he recited thirty-two thousand words and wrote them down as well. Thus he was prominent in learning among contemporary scholars and enjoyed a high reputation in his time. He upheld the right Dharma and crushed erroneous views; in his brilliant discussions there was no question he could not answer. He was greatly esteemed in all of the five parts of India. His writings amounted to several tens of books, all of which were popular works studied by all scholars. He was the founder of the Sautrantika school. In his time, Asvaghosa in the east, Deva in the south, Nagaijuna in the west, and Kumaralata in the north were called the Four Brilliant Suns. Hearing of this venerable monk’s great fame, the king of this country mobilized his troops, attacked the country of Taksasila, and captured him. It was out of respect for him that this monastery was constructed.
Từ kinh thành đi về hướng đông nam khoảng 98 km gặp một vách đá lớn, trong có hai hang đá, mỗi hang đều có một vị A-la-hán nhập định Diệt tận. Các ngài ngồi dáng vẻ tự nhiên vững chãi, không dễ lay chuyển, nhìn giống như một người gầy ốm, da xương vẫn còn nguyên không hư mục, đã trải qua hơn bảy trăm năm. Râu tóc tai vẫn thường mọc dài ra nên mỗi năm chư tăng đều cử người đến cạo tóc và thay y phục.
More than three hundred li away to the southeast of the capital is a great rocky cliff with two caves. In each cave an arhat entered the samadhi of complete extinction, sitting erect and immovable in the shape of an emaciated man, and their skin and skeletons are undecayed. They have been there for more than seven hundred years. Their hair continues to grow so the monks shave their hair and change their garments once a year.
Từ phía đông bắc của vách đá lớn, trèo lên núi cao nguy hiểm, tiếp tục đi khoảng 65 km thì đến khu bôn-nhương-xá-la. Khu này nằm về sườn phía đông của rặng Thông Lĩnh, ở giữa bốn ngọn núi, diện tích ước chừng gần 670 hec-ta, ngay chính giữa đất thấp trũng xuống. Nơi đây mùa đông hay mùa hạ cũng đều đọng tuyết, gió rét thổi mạnh. Ruộng gò đều nhiễm mặn, lúa không mọc nổi. Không có cây rừng, trên mặt đất chỉ có loài cỏ vụn. Mặc dù thời tiết đang mùa nóng nực nhưng nơi đây vẫn đầy gió tuyết. Người đi đường chưa vào hẳn vùng này đã thấy mây đen sương khói mù mịt. Những thương nhân qua lại hết sức khổ sở vì sự gian nan nguy hiểm như vậy.
From the great cliff going northeast over ranges by a dangerous path for more than two hundred li, I reached Punyasala (“Charity House”), located at the center of a depression about one hundred qing in area (1 qing = 6.67 hectares). It is surrounded by four mountains of the eastern ridges of the Cong Ling Mountains. Snow accumulates in winter as well as in the summer season and the cold wind blows hard and strong. The land is of saline soil and does not grow crops. There are no trees, only short grasses. Even in the hot season snowstorms are likely to occur. On entering this region travelers may be immediately enshrouded by clouds and mist. This is a dangerous place, dreaded by traveling merchants.
Nghe những người già kể lại rằng: “Thuở xưa có một khách buôn, dẫn đoàn cùng đi hơn 10.000 người, lạc đà đến mấy ngàn con, chở hàng hóa đi buôn bán kiếm lời. Gặp phải bão tuyết, người và vật đều mất mạng. Lúc ấy, tại nước Khiết-bàn-đà có một vị Đại A-la-hán từ xa nhìn thấy, thương xót người gặp phải hiểm nguy khổ ách, muốn vận thần thông để cứu giúp. Khi vừa đến nơi thì thương nhân đã chết. Ngài liền thu thập hết trân bảo cùng những hàng hóa của người thương nhân đó, dựng lên một căn nhà để cất giữ tất cả, sau đó mua đất của nước bên cạnh, [dựng phúc xá] làm nơi nuôi duỡng những gia đình ở biên giới và chẩn cấp cho khách bộ hành qua lại. Cho nên ngày nay những thương nhân và người đi đường qua lại nơi đây đều được chu cấp.
I heard some old people say that once in the past a large group of merchants, with several thousand camels laden with goods to gain profit, encountered a snowstorm at this place and all the people and animals lost their lives. At that time a great arhat in the country of Kabhanda saw the catastrophe from a distance. Having pity on the merchants caught in danger, he intended to rescue them through his supernatural power but when he arrived at the spot the merchants were already dead. So he collected the jewels and valuables and all their property and built a house in which he stored various commodities. He also purchased a piece of land in the neighboring country to make a settlement in the frontier city and hired people to live there to look after travelers. At present all wayfarers and merchants are provided with daily necessaries at this place.
Từ nơi đây về hướng đông là đi xuống sườn phía đông của rặng Thông Lĩnh, lại lên một đỉnh núi cao, vượt khe sâu, đường trong khe núi hiểm trở, gió tuyết không ngừng. Đi hơn 260 km thì ra khỏi rặng Thông Lĩnh, đến nước Ô-sái.
From here going eastward down the eastern ridges of the Cong Ling Mountains, climbing over perilous ranges and across deep valleys, through dangerous paths in the gorges, and braving continuous wind and snow, I proceeded for more than eight hundred li and emerged from the Cong Ling range, arriving in the country of Wusha.
Nước Ô-sái chu vi khoảng 325 km. Chu vi kinh thành khoảng 3.2 km, phía nam giáp sông Tỉ-đa. Đất đai màu mỡ, lúa má tốt tươi, cây rừng sầm uất, hoa trái nhiều và đủ loại. Nơi đây sản xuất nhiều loại ngọc quý, như ngọc trắng, ngọc đen, ngọc xanh... Khí hậu ôn hòa, mưa gió thuận thời, tập tục ít có lễ nghĩa, tính người cứng rắn hung bạo, nhiều dối trá lừa lọc, ít biết đến liêm sỉ. Văn tự, ngôn ngữ có phần giống với nước Khư-sa. Người ở đây hình dung tướng mạo xấu xí, y phục thường dùng vải dạ thô. Biết tôn sùng tin tưởng, cung kính thực hành Phật pháp. Có hơn 10 ngôi chùa, tăng sĩ gần được 1.000 vị, tu tập theo giáo pháp phái Thuyết nhất thiết hữu, thuộc Tiểu thừa. Từ mấy trăm năm nay, dòng vua nước này không có người truyền nối nên trong nước không có vua, chịu phụ thuộc nước Khiết-bàn-đà.
The country of Wusha is more than one thousand li in circuit and its capital city is over ten li in circuit. It borders on the Sita River in the south and the land is fertile, producing abundant crops. The trees are luxuriant with plenty of flowers and fruit. It yields much jade of different hues, such as white, jet[-black], and sapphire. The climate is mild with good weather favorable for the growth of crops. The people lack etiquette and righteousness and are strong-willed and rustic in disposition; they are deceitful and have little sense of shame. Their written and spoken language are somewhat similar to those of the country of Kasha. Their features are ugly and unsightly and their clothes are made of fur and hemp. They believe in and respect the buddha-dharma, however. There are some ten monasteries with less than a thousand monks, who study the Hinayana teachings of the Sarvastivada school. The royal lineage has been extinct for several hundred year so this country has no sovereign ruler and is subject to the country of Kabhanda.
Về phía tây kinh thành, cách xa khoảng 65 km có một ngọn núi lớn, cao ngất hiểm trở, chạm tay vào đá liền có khí bốc lên như mây, chung quanh vách núi bờ vực chênh vênh tưởng chừng như sắp sụp đổ. Trên đỉnh núi có một ngọn tháp, hình thể, kiến trúc đặc biệt khác lạ.
Going westward from the capital for more than two hundred li, I reached a great mountain where the mists of the mountain rises high and turns into clouds upon touching the rocks. The precipices are lofty and steep, as if they were broken, and they seemed likely to collapse at any moment. The stupa built at the summit affords a splendid sight.
Người dân ở đây kể rằng, cách đây mấy trăm năm có một vách núi sụp đổ xuống, lộ ra bên trong có một vị tỳ-kheo đang nhắm mắt ngồi thiền, thân hình cực kỳ to lớn nhưng hình dung khô kiệt, râu tóc mọc dài rủ xuống phủ vai che mặt. Có người thợ săn nhìn thấy liền tâu lên đức vua. Vua đích thân đến xem và kính lễ, rất nhiều quan chức, dân thường đều không mời mà đến, thắp hương rải hoa tranh nhau cúng dường. Đức vua hỏi: “Vị này là ai mà to lớn thế này?”
I heard some local people say that several hundred years ago a cliff of the mountain collapsed and exposed a bhiksii sitting with closed eyes behind the rocks. He was tall in stature but appeared to be emaciated. His beard and hair covered his face and shoulders. A hunter saw him and reported the case to the king. The king came in person to see and worship the bhiksu, and the inhabitants and officials in the capital also came of their own accord to vie with one another in offering incense and flowers. The king asked, “Who is this man, so tall in stature?”
Có một vị tỳ-kheo bảo vua: “Vị này râu tóc tai rủ dài, thân đắp áo cà-sa, như vậy hẳn là một vị A-la-hán đang nhập Diệt tâm định. Người nhập Diệt tâm định thường xác định trước thời gian nhập định, hoặc có người nói khi nghe tiếng chuông, hoặc khi ánh nắng chiếu vào, nói chung là có những yếu tố tác động từ bên ngoài như vậy thì liền xuất định. Nếu không có những tác động ấy thì tiếp tục an nhiên bất động, nhờ có định lực giữ gìn nên thân thể không bị hư hoại. Nhưng thân xác thịt sống nhờ ăn uống nên khi xuất định sẽ bị hủy hoại, phải dùng váng sữa loãng thoa lên thân thể cho tươi nhuận lại, rồi sau đó hãy đánh chuông để ngài xuất định.”
A bhiksu said in reply, “This man with long beard and hair, clad in religious robes, is an arhat absorbed in the samadhi of mental extinction. One who is absorbed in such a samadhi has prelimited the duration of the trance. He may be aroused by the sound of a musical instrument or by the shining of sunlight; with such signals he may be awakened from the abstract meditation. If there is no disturbance he will remain motionless. The power of samadhi sustains his body 942c from decaying but when he has come out of the samadhi his physical body, which is composed of food, may become feeble and fragile. We should infuse him with ghee to nurture his body before we awaken him from the mental concentration.”
Đức vua nói: “Hãy làm như vậy.” Sau đó liền cho đánh chuông lên. Âm thanh vừa chấn động, vị A-la-hán liền mở mắt ra nhìn, sau một hồi lâu mới cất tiếng hỏi: “Các người là ai mà thân hình nhỏ bé thế? Tại sao cũng [có người] mặc áo cà-sa?”
The king said, “Let it be so!”
A musical instrument was then struck. As soon as the instrument was sounded the arhat awakened and, after looking around for awhile, he said, “Who are you, of such base appearance and wearing religious robes?”
Vị tỳ-kheo lên tiếng đáp: “Tôi là tỳ-kheo.”
The monk said, “I am a bhiksu. ”
Vị A-la-hán hỏi: “Vậy thầy có biết thầy tôi là đức Như Lai Ca-diếp đang ở đâu không?”
The arhat said, “Where is my teacher, Kasyapa Tathagata?”
Vị tỳ-kheo đáp: “Ngài nhập Đại Niết-bàn đã lâu lắm rồi.”
The monk said, “He entered mahanirvana a long time ago.”
A-la-hán nghe vậy nhắm mắt lại, vẻ buồn bã như có điều tư lự, lát sau lại hỏi: “Vậy đức Như Lai Thích-ca đã ra đời chưa?”
Hearing this, the arhat closed his eyes, disappointed. He then asked, “Has Sakyamuni Tathagata come into the world yet?”
Vị tỳ-kheo nói: “Ngài đã ra đời dẫn dắt chúng sinh, giờ cũng đã nhập diệt rồi.”
The monk said in reply, “He has passed away after having been born into the world to guide living beings.”
A-la-hán nghe xong cúi đầu xuống, hồi lâu mới ngẩng dậy rồi bay lên không trung, hiện các phép thần thông biến hóa, hóa lửa tự thiêu thân, di hài rơi xuống đất. Đức vua thu nhặt hài cốt ngài, xây ngọn tháp [trên núi này] để phụng thờ.
When the arhat had heard this information he lowered his head. After a long while he ascended into the air and cremated himself with fire produced through his supernatural power, and his ashes dropped to the ground. The king collected them and built a stupa for them.
Từ nơi đây đi về hướng bắc, vượt núi, băng qua sa mạc, đồng hoang, khoảng 163 km thì đến nước Khư-sa.
Going northward from here for more than five hundred li over mountains and through deserts and wilderness, I reached the country of Kasha (formerly called Shule, the name of the capital city. To be correct, it should be called Srikritati, which indicates that the name Shule [for the country] is apparently wrong).
Nước Khư-sa chu vi khoảng 1.630 km, nhiều vùng sa mạc, đất trồng trọt rất ít. Lúa má tốt tươi, cây trái sum suê tươi tốt. Nơi đây sản xuất vải dạ bằng lông thú nhuyễn, dệt thủ công các loại thảm và vải bông mịn. Khí hậu ôn hòa dễ chịu, mưa hòa gió thuận. Tính người hung dữ mạnh bạo, tập tục quỷ quyệt dối trá, xem nhẹ lễ nghĩa, học tập các tài nghề cũng chỉ cạn cợt. Vùng này có tục lệ khi sinh con thì dùng miếng ván phẳng ép vào đầu. Người dân dung mạo thô xấu, có tục xăm mình, tròng mắt màu xanh lục. Chữ viết thì dùng của Ấn Độ, tuy có sửa đổi sai lệch nhưng vẫn giữ được đại thể. Giọng nói, ngữ điệu đều khác với các nước.
The country of Kasha is more than five thousand li in circuit, consisting mostly of desert with little cultivable land. Crops are abundant and there are plenty of flowers and fruit. It produces fine felt and hemp, as well as exquisitely woven cotton cloth and woolen carpets. The climate is mild and the weather changes according to the seasons. The people are rustic and violent by nature and deceitfill by custom. They have little sense of etiquette and righteousness and their learning is superficial. It is their custom to compress the heads of their newborn babies into a flat shape. They are vulgar and coarse in appearance, tattoo their bodies, and have green eyes. Their written language evolved after the fashion of the language of India. Although there are deletions and aberrations, the linguistic structure and function are mainly preserved. The diction and accent of their dialect differ from those of other countries.
Người dân thuần thành tin theo Phật pháp, siêng làm việc phúc thiện. Có đến mấy trăm ngôi chùa, tăng sĩ hơn 10.000 vị, tu tập theo giáo pháp phái Thuyết nhất thiết hữu, thuộc Tiểu thừa, không nghiên cứu sâu nghĩa lý, chỉ thường tụng đọc kinh văn, cho nên có rất nhiều người tụng đọc thông suốt được cả Tam tạng kinh điển cũng như luận Tỳ-bà-sa.
They piously believe in the buddha-dharma and diligently perform meritorious deeds. There are several hundred monasteries with over ten thousand monks who study the Sarvas- tivada school of the Hinayana teachings. The monks do not delve into the doctrines but they can recite by heart most of the texts. Therefore many of them are reciters of the Tripitaka and the Mahavibhasa-sastra.
Từ nơi đây đi về hướng đông nam khoảng 163 km, qua sông Tỉ-đa rồi vượt tiếp một ngọn núi cát lớn thì đến nước Chước-cú-ca.
From here going southeast for more than five hundred li, crossing the Sita River and a great sandy range, I reached the country of Cukuka (formerly called Juqu).
Nước Chước-cú-ca chu vi khoảng 325 km. Chu vi kinh thành khoảng 3.2 km, thành bao quanh cao rộng, kiên cố hiểm trở. Trong thành nhà cửa đông đúc. Núi đồi tiếp nối, sỏi đá khắp nơi. Có hai con sông chạy dọc theo biên giới, có thể tận dụng cho việc trồng trọt. Các loại cây ăn trái như nho, lê, nại... rất nhiều. Thời tiết lạnh, nhiều gió. Người dân tính tình nóng nảy hung bạo. Tập tục toàn là dối trá, những chuyện trộm cướp diễn ra công khai. Chữ viết giống với nước Cù-tát-đán-na, ngôn ngữ có khác biệt. Lễ nghĩa bị xem nhẹ, việc học các tài nghề thì cạn cợt qua loa. [Cũng có người] tin sâu Tam bảo, ưa thích làm việc phước thiện. Có mấy chục ngôi chùa, đa phần đã hư hoại đổ nát. Tăng sĩ hơn 100 vị, tu học theo giáo pháp Đại thừa.
The country of Cukuka is more than one thousand li in circuit and its capital city, which is over ten li in circuit, is in an impregnable position with a large number of registered inhabitants. There is a chain of mountains and hillocks covered with stone and gravel. Two rivers wind through the country so the land is good for cultivation. Such fruit as grapes, pears, and crabapples are abundant. The seasonal wind is cold. The people are rude and deceitfid by custom and robbery is committed openly. Their writing is similar to that of Gostana (see below) but the spoken language is different. They have little sense of etiquette and righteousness and their learning is superficial, but they piously believe in the Triple Gem and are fond of performing meritorious deeds. There 943a are several tens of monasteries, most of which are in ruins. The monks, about a hundred in number, study Mahayana teachings.
Miền nam nước này có một cụm núi lớn, vươn cao chót vót, có nhiều đỉnh núi nhọn vút trùng điệp. Cây cỏ sống trong băng giá rét lạnh, mùa xuân hay mùa thu cũng không thay đổi màu sắc. Khe sâu nước xiết, chảy tràn bốn hướng. Trên sườn núi có rất nhiều động đá, nằm la liệt như bàn cờ. Những vị chứng thánh quả ở Ấn Độ thường vận thần thông vượt đường xa đến cư trú nơi đây. Các vị A-la-hán đã tịch diệt cũng rất nhiều nên nơi đây có nhiều ngọn tháp. Hiện nay vẫn còn ba vị A-la-hán đang nhập Diệt tâm định trong các hang đá, thân hình như người gầy ốm, râu tóc vẫn thường mọc dài ra, cho nên các vị sa-môn thỉnh thoảng lại đến cạo tóc cho các vị.
In the southern part of this country there is a great mountain with lofty peaks and ranges standing one behind the other. The grass and frees are coldresistant and they are always the same, whether in spring or autumn. The streams in the gullies flow rapidly in all directions. On the cliffs there are caves and rock cells scattered all over the precipices. Many Indians who achieved sainthood came here from a great distance through their supernatural power of levitation and settled in this place. Many of the arhats died here, so a large number of stupas have been built in the mountain. There are still three arhats living in the caves, absorbed in the samadhi of mental extinction. They look emaciated but their beards and hair continue to grow, so the monks go to shave them regularly.
Trong nước này có rất nhiều bộ kinh điển Đại thừa, so trong tất cả những nơi Phật pháp đã truyền đến thì không đâu nhiều bằng. Nếu tính những bộ kinh lớn có từ 100.000 bài tụng [trở lên] thì có đến mười mấy bộ. Những kinh ngắn hơn thì rất nhiều, được lưu hành rộng rãi khắp nơi.
A large number of Mahayana scriphires in particular are stored in this country; of all the places where Buddhism has prevailed none can surpass this country in its collection of scriphires. Books consisting of a hundred thousand stanzas each amount to more than ten titles, and those of fewer stanzas are widely circulated indeed.
Từ nơi đây về hướng đông, vượt núi qua khe, đi hơn 260 km thì đến nước Cù-tát-đán-na.
Going eastward from there for more than eight hundred li over ranges and across valleys, I reached the country of Gostana (this name is the elegant form of the local dialect, meaning “earth-nipple.” In the vulgar language it is called Huanna, while the Huns call it Yudun. In the other Hu language it is designated as Qidan, and in India it is named Qudan. Its old form, Yutian, is incorrect).
Nước Cù-tát-đán-na chu vi khoảng 1.300 km, sa mạc chiếm hơn phân nửa, đất đai trồng trọt rất hẹp, thích hợp các giống lúa, có nhiều giống cây ăn trái, sản xuất thảm dệt bằng lông thú, vải dạ nhuyễn, các loại ngọc trắng, ngọc đen. Khí hậu ôn hòa dễ chịu, nhiều gió cát. Tập tục ở đây biết trọng lễ nghĩa, người dân tánh tình nhu hòa, khiêm cung, ham học điển tịch và học các tài nghề. Dân chúng giàu có, sống an vui, nghề nghiệp ổn định. Quốc gia xem trọng âm nhạc, người dân ưa thích múa hát. Ít người dùng các loại vải dạ, vải thô dệt bằng lông thú, đa số đều dùng các loại tơ lụa hoặc vải dệt từ bông vải. Hình dung cử chỉ đều có lễ nghi, phong tục có kỷ cương nề nếp. Về văn tự, quy tắc ngữ pháp đều noi theo Ấn Độ, chỉ sửa đổi đôi chút về biến thể, cách thế, còn về đại thể vẫn giữ theo. Ngôn ngữ khác với các nước khác.
The country of Gostana is more than four thousand li in circuit and more than half the country is desert. There is only a limited area of cultivable land, which yields cereals and diverse kinds of fruit. The country produces woolen carpets and fine felt and the people are skillful in spinning and weaving silk. It also yields white and black jade. The climate is pleasant but there are dust whirls. The people have a sense of etiquette and righteousness and are genial and polite in disposition. They are fond of learning the classics and the arts and they are conversant with various crafts. The common people are wealthy and happy and the registered families live in peace and security. The state promotes music and the people love singing and dancing. A few of them wear woolen, hempen, felt, or fur clothes, but the majority use silk and white cotton for their clothing. They are graceful in deportment and well disciplined in behavior. Their system of writing follows that of India, with slight alterations and some reforms; their spoken language differs from that of other countries.
Người dân tôn sùng kính trọng Phật pháp. Có hơn 100 ngôi chùa, tăng sĩ hơn 5.000 vị, đa số đều tu tập theo giáo pháp Đại thừa. Đức vua hết sức kiêu hùng dũng mãnh, tôn kính Phật pháp, tự xưng mình là dòng dõi của Tỳ-sa-môn Thiên.
They esteem the buddha-dharma and there are over a hundred monasteries with more than five thousand monks who mostly study Mahayana teachings. The king is a very brave man and holds the buddha-dharma in high esteem. He claims to be a descendant of the deity Vaisravana.
Thuở xưa, nơi đây là một vùng hoang vắng không người ở, Tỳ-sa-môn Thiên cư ngụ tại đây. Khi thái Tử con vua Vô Ưu bị [kế mẫu mưu hại] móc mắt ở nước Đát-xoa-thỉ-la, vua Vô Ưu [biết chuyện] nổi giận trừng phạt các quan phụ tá cho thái tử, lại đày các gia tộc thế lực có liên quan [ở nước ấy] phải đến cư ngụ ở phía bắc Tuyết Sơn, trong vùng khe núi hoang vu. Những người bị đày ấy di chuyển dần đến vùng đất phía tây nơi này, rồi suy cử người cầm đầu lên làm vua.
In the past the deity Vaisravana stayed here when this country was uninhabited. After King Asoka’s prince had his eyes gouged out in the country
of Taksasila, the king angrily reproached his ministers and exiled some of the powerful and influential families to settle in the desert valleys to the north of the Snow Mountains. In the course of moving from place to place in search of pasture, the exiled people came to the western region of this country and elected their leader as king.
Cũng vào thời đó, có một hoàng tử ở Đông độ phạm tội bị đày ra, sống ở vùng đất phía đông nơi này, do thuộc hạ xúi giục nên cũng xưng làm vua.
Meanwhile, one of the sons of the emperor of a 943b land in the east was condemned to banishment and went to live in the eastern region of this country. At the instigation of his followers he made himself king.
Thời gian trôi qua rất lâu nhưng hai phía [đông tây] không hề biết đến nhau. Sau đó nhân lúc đi săn bắn, đôi bên gặp nhau giữa chốn rừng hoang, liền gạn hỏi về nguồn gốc tổ tiên của nhau, bên nào cũng muốn nhận mình là lớn hơn. Lời qua tiếng lại, đôi bên đều nổi giận, sắp sửa dàn quân đánh nhau.
For a long time the two kings were not in contact with one another. Once, when both men were out hunting, they met in the wilderness and each inquired of the other about his ancestral lineage. They then had a dispute over the question of who was superior in rank. The argument became more heated and they were soon on the brink of resorting to force.
Lúc ấy có người can ngăn rằng: “Sao phải vội đánh nhau lúc này? Trong lúc đi săn mà đánh nhau thì không thể phát huy hết được sức mạnh của đôi bên. Chi bằng nên quay về chuẩn bị quân binh, hẹn ngày cùng nhau giao chiến.”
Someone advised them, “Why should we fight a decisive battl while out hunting, when we have not frilly mobilized our troops? We should go back to arrange our fighters in battle array and then make an appointment to meet again.”
Đôi bên liền cùng nhau quay về, chuẩn bị binh khí, ngựa chiến, đôn đốc binh sĩ. Ngày giao binh liền cùng nhau kéo cờ đánh trống kéo đến. Sáng hôm sau cùng nhau giao chiến, vua phía tây yếu thế, cuối cùng thua trận bỏ chạy, bị quân phía đông đuổi theo bắt được chém đầu. Vua phía đông thừa thắng, phủ dụ dân phía tây [rồi sáp nhập hai nước], dời đô đến khoảng đất ở giữa, chuẩn bị xây dựng thành quách. Nhưng đức vua e rằng nếu không đúng phương thức, quy cách sẽ không thành tựu, nên liền cho bố cáo khắp xa gần để tìm người hiểu biết về địa lý.
So the two kings returned to their respective countries, had their soldiers drill and practice the arts of war, and boosted their morale. On the appointed day the two armies met on the battleground, with colors flying and drums beating, and the following day they engaged. The lord from the west was defeated and while attempting to retreat he was decapitated. The lord from the east comforted and assembled the inhabitants of the defeated country on his victorious march. He moved his capital to the central part of the country and planned to build city walls. He was concerned about not knowing where the ground was clay and feared that his plan would not succeed, so he made an announcement to invite learned soil scientists from far and near.
Bấy giờ có một ngoại đạo phái Đồ hôi, mang một bình lớn đựng đầy nước tự tìm đến nói: “Tôi biết về địa lý.” Nói rồi vừa rưới nước vừa đi theo một đường cong, trở về đến chỗ ban đầu lại đi thêm vòng nữa rồi vụt đi nhanh hơn, hốt nhiên biến mất. Mọi người liền y theo dấu nước rưới xuống đất mà xây nền móng, dựng lên thành trì, làm kinh đô của đất nước. Kinh thành của đức vua hiện tại chính là thành này.
An ash-smearing ascetic carrying a big calabash of water approached to recommend himself to the king, saying, “I know the structure of soil.” He dripped the water to mark the ground in a roundabout way twice and then departed and disappeared. The foundations of the city walls were laid down along the water marks and the city became the seat of government. The present king has made his capital in this city.
Thành không cao rộng lắm nhưng rất khó công phá. Từ xưa đến nay chưa bao giờ địch quân công phá được thành. Đức vua thuở ấy sau khi dời đô, xây thành lập ấp, dựng nước yên dân, mọi việc đều đã thành tựu thì tuổi đã cao nhưng vẫn chưa có con, trong lòng lo sợ không người nối dõi, liền đến chỗ đền thờ Tỳ-sa-môn Thiên để cầu đảo, mong được có con. Khi ấy, nơi vầng trán của tượng thần bỗng tách ra, xuất hiện một đứa trẻ sơ sinh, vua liền bế đứa trẻ quay về, người trong nước đều hân hoan chúc mừng.
Although it is not in a high and invulnerable position it is strong and difficult for attackers to capture. Since ancient times no one has ever occupied it in a war.
By the time the king had moved his capital to the newly built city for the establishment of his government and the settlement of his people, he was
already getting old, after many achievements and exploits. He was childless and feared that his ancestral line would die out, so he went to the place of the deity Vaisravana to pray for a son and a baby burst out from the forehead of the image of the deity. The king carried the baby home, to the delight of the whole country.
Đứa bé không chịu uống sữa, vua sợ rằng không sống được, liền đến đền thần, một lần nữa thỉnh cầu sự nuôi duỡng. Liền đó, nơi chỗ đất phía trước đền thờ bỗng phun lên chất nước giống như sữa. Đứa bé uống được sữa ấy, dần dần lớn lên cho đến trưởng thành, trí tuệ và sức mạnh từ trước đến nay chưa ai sánh bằng. [Khi nối ngôi vua,] uy đức giáo hóa đến tận miền xa, liền xây lớn đền thờ [Tỳ-sa-môn Thiên], nhận đó là tổ tiên của mình. Từ đó về sau đời đời truyền nối, các vua đều không để mất sự thờ kính thừa tự. Cho nên đền thần hiện nay rất nhiều trân bảo quý giá, vì các đời vua tiếp nối nhau chưa từng bỏ dứt việc cúng tế.
The baby refused to drink milk, however, and the king feared that it might not live long. So he went again to the temple to seek nourishment for the baby. The earth in front of the deity’s image suddenly bulged into the shape of a nipple, from which the baby drew milk [and he received nourishment in this way] until he grew up. He became an unprecedentedly brave and brilliant man whose influence spread far and he renovated the temple in honor of his forefather. Since then the royal lineage has continued from generation to generation without cessation. That is why the temple is frill of jewels and gems and ceremonies of worship and sacrifice are regularly offered to the deity without neglect.
Nhân vì [đức vua thuở xưa] được nuôi dưỡng nhờ dòng sữa sinh ra từ đất, nên lấy tên nước là Địa Nhũ (sữa đất).
Because their ancestor was nursed with milk from an earth-nipple, the people named their country after it.
Từ kinh thành đi về hướng nam khoảng 3.2 km có một ngôi chùa lớn, do một vị vua đời trước của nước này xây dựng cho vị A-la-hán Tỳ-lô-chiết-na.
About ten li to the south of the royal city is a great monastery built by a previous king of this country for the arhat Vairocana (“Universal Shining” in Chinese).
Thuở xưa, Phật pháp chưa truyền đến nước này, có vị A-la-hán từ nước Ca-thấp-di-la đến khu rừng này ngồi yên thiền định. Có người nhìn thấy y phục lạ lùng liền đem sự việc tâu lên đức vua. Vua đích thân đến xem hình dung cử chỉ, rồi hỏi: “Ông là ai mà một mình ở trong rừng vắng?”
Formerly, when the buddha-dharma had not yet spread to this country, the arhat came here and stayed in the wood, sitting in meditation. Someone saw him and was amazed by his appearance and garments. He reported the matter to the king, who came in person to see the arhat and said, “Who are you, staying alone in the solitary wood?”
Vị A-la-hán đáp: “Tôi là đệ tử của Như Lai, ở nơi im vắng để tu tập thiền định. Đại vương nên trồng cội phúc bằng cách rộng truyền Phật giáo, xây dựng chùa, cung thỉnh chư tăng.”
The arhat said, “I am a disciple of the Tathagata and I live alone, practicing meditation. O King, you should perform meritorious deeds to propagate the Buddha’s teachings and build a monastery for the assembly of monks.”
Vua hỏi: “Như Lai có đức độ gì, có thần lực gì mà ông phải sống lang thang không nhà, chuyên cần khó nhọc làm theo lời dạy của ngài?”
The king said, “What are the virtues of the Tathagata and what divine powers does he possess that made you dwell like a bird in the wood and practice his teachings so assiduously?”
Vị A-la-hán đáp: “Đức Như Lai thương xót muôn loài, dạy dỗ dẫn dắt chúng sinh trong ba cõi, lúc ẩn lúc hiện, thị hiện đản sinh hoặc nhập diệt. Học theo giáo pháp của ngài thì thoát ly sanh tử. Si mê không biết đến giáo pháp của ngài thì bị trói buộc mãi trong lưới ái dục.”
The arhat said in reply, “The Tathagata has compassion for all creatures of the four kinds of birth and guides all living beings of the three realms, either overtly or covertly, in the states of existence or extinction. Those who follow his Dharma will become free of birth and death, while those who do not believe in it will be entangled in the net of passion.”
Vua nói: “Nếu quả đúng như lời ngài nói thì thật là cao siêu vượt quá sự luận bàn. Đã là bậc đại thánh như vậy, nếu có thể vì ta mà hiện hình để ta được chiêm ngưỡng, ta sẽ vì ngài xây dựng chùa, hết lòng tin tưởng nương theo, rộng truyền giáo pháp.”
The king said, “Truly, as you have said, this matter is beyond verbal discussion. Since he is a great saint he may as well appear in physical form so that I might see him. Once I have seen him I will build a monastery, believe in him as my refuge, and propagate his teachings.”
Vị A-la-hán nói: “Đại vương cứ xây chùa hoàn tất, sẽ có sự cảm ứng.”
The arhat said, “After you have completed the construction of a monastery you will receive his spiritual response.”
Đức vua chưa tin hẳn nhưng cũng cho tiến hành việc xây chùa. Khi hoàn tất rồi liền mời thỉnh khắp xa gần, tổ chức pháp hội để khánh thành. Mọi việc chuẩn bị xong nhưng còn thiếu chuông lớn để đánh lên triệu tập. Khi ấy, vua hỏi vị A-la-hán rằng: “Chùa đã xây xong, giờ Phật ở đâu?”
Hopeful, the king agreed to build the monastery. When the construction was completed people from far and near assembled to celebrate the occasion as a religious function, but they lacked the instrument to be sounded for summoning the monks. The king said to the arhat, “Now the monastery is completed but where is the Buddha?”
Vị A-la-hán đáp: “Đại vương nên chí thành cầu thỉnh, sự linh hiển chứng giám của bậc đại thánh không ở đâu xa.”
The arhat said, “Work with utmost sincerity; the holy evidence is not far off.”
Đức vua liền chí thành lễ thỉnh, bỗng nhiên thấy giữa không trung có tượng Phật hiện ra, từ từ hạ xuống, trao cho nhà vua một cái chuông lớn. Đức vua nhân [sự linh hiển] ấy mà hết lòng thành tín, từ đó nỗ lực rộng truyền Phật giáo.
The king then prayed and worshiped and suddenly an image of the Buddha descended from the air and handed an instrument to him. Thereafter the king piously believed in the Buddha and propagated his teachings.
Từ kinh thành đi về hướng tây nam khoảng 6.5 km có núi Cù-thất-lăng-già. Đỉnh núi vươn lên hai ngọn, bốn bên vách núi cao ngất hiểm trở. Lưng chừng vách núi có xây dựng một ngôi chùa, tượng Phật trong chùa thỉnh thoảng chiếu hào quang rực sáng. Ngày xưa đức Như Lai từng đến thuyết giảng giáo pháp tinh yếu cho hàng trời người và có lời huyền ký rằng nơi đây sẽ có một quốc gia được thành lập, [người dân] kính trọng tôn sùng giáo pháp Như Lai, tu tập noi theo Đại thừa.
More than twenty li to the southwest of the royal city is Gosrnga (“Cowhom”) Mountain, with two high eaks surrounded by precipitous cliffs. In the valley a monastery was constructed, in which the Buddha’s image often emitted a bright light. In the past the Tathagata once came here and briefly preached the essence of the Dharma to human and heavenly beings. He prophesied that a country would be founded here and that the people would revere his teachings and follow Mahayana tenets.
Trên sườn núi Ngưu Giác có một động đá lớn, trong đó có một vị A-la-hán đang nhập Diệt tâm định để chờ đức Phật Từ Thị, trải qua hàng mấy trăm năm, người đến cúng dường không lúc nào ngớt. Gần đây, sườn núi có đá lở lấp kín cửa động. Đức vua mang quân thu dọn đất đá [để mở cửa động], liền có một bầy ong đen bay đến đuổi chích mọi người, [đành phải rút lui], cho nên đến ngày nay cửa động vẫn còn lấp kín.
Amid the rocks of Cowhorn Mountain there is a large cave in which an arhat is absorbed in the meditation of mental extinction, waiting for the advent of Maitreya Buddha. For several hundred years offerings have been made to him without cease. Recently the rocks collapsed and blocked the entrance to the cave. The king sent his soldiers to clear away the fallen stones but a swarm of black wasps flew out to sting them. Thus up to now the entrance has not been reopened.
Từ kinh thành đi về hướng tây nam khoảng 3.2 km có chùa Địa-ca-bà-phược-na, bên trong có tượng Phật đứng bằng nhựa cây sơn, vốn từ nước Khuất-chi [tự nhiên] di chuyển đến đây.
About ten li to the southwest of the royal city is Dirghabhavana Monastery, in which there is a standing image of the Buddha, made of ramie and lacquer, that came by itself to this place from the country of Kuci.
Thuở xưa, nước này có một vị quan bị khiển trách, phải sang ở tạm bên nước Khuất-chi, thường lễ bái tượng Phật này. Về sau vị ấy được trở về nước, [thường nhớ nghĩ đến tượng Phật nên] hết lòng cung kính lễ bái từ xa. Khoảng sau lúc nửa đêm, tượng này tự hiện đến nhà ông. Ông liền sửa sang xây dựng lại căn nhà mình thành ngôi chùa này.
A cabinet minister of this country was once banished to live in Kuci and while he was in exile he always worshiped this image. After he was recalled to his own country he continued to recall and venerate the image from afar. One night the image suddenly came to him. The man offered his residence for the construction of this monastery.
Từ kinh thành đi về hướng tây khoảng 98 km thì đến thành Bột-già-di. Trong thành có một tượng Phật ngồi cao khoảng 2.5 mét, đầy đủ tướng hảo trang nghiêm, uy nghiêm tịch tịnh. Trên đầu đội mũ báu, thỉnh thoảng có hào quang tỏa chiếu.
Going westward from the royal city for more than three hundred li, I 944a reached the city of Bhagya. In this city is an image of the seated Buddha, about seven feet in height, with consummate features, quiet and dignified, and with a precious crown on its head that occasionally emits a bright light.
Người dân ở đây kể rằng, tượng này vốn ở nước Ca-thấp-di-la được thỉnh về đây. Thuở xưa, vị A-la-hán [ở nước Ca-thấp-di-la] có một đệ tử sa-di, lúc sắp lâm chung muốn ăn một loại bánh bột gạo. Vị A-la-hán dùng thiên nhãn nhìn thấy ở nước Cù-tát-đán-na có món bánh ấy, liền vận thần thông đến để xin về. Sa-di ăn bánh xong liền phát nguyện sinh về nước Cù-tát-đán-na. Quả nhiên toại nguyện, được sinh làm vương tử nước này. Đến khi nối ngôi vua, uy thế chấn nhiếp xa gần, mang quân vượt Tuyết sơn chinh phạt nước Ca-thấp-di-la. Vua nước Ca-thấp-di-la chỉnh trang binh mã, định kéo ra biên thùy ngăn giặc. Lúc ấy, vị A-la-hán nói rằng: “Không cần đánh nhau, tôi có thể đẩy lui quân địch.”
I heard the local people say that this image was originally in the country of Kasmira and had been transported to its present location. In the past a sramanera, the disciple of an arhat, once desired to eat some fermented rice cake when he was on his deathbed. The arhat saw with his supernatural power of clairvoyance that this kind of cake was obtainable in the country of Gostana, so he went there through his faculty of divine feet and obtained some of the cake for his disciple. Having eaten the cake, the sramanera wished to be reborn in that country after death. His wish was actually fulfil led and he was reborn as a prince of [Gostana]. After his succession to the throne his prestige spread far and near., and later he crossed the Snow Mountains to invade the country of Kasmira. The king of Kasmira had concentrated his troops to resist the invaders at the frontier but the arhat exhorted him, “There is no need to resort to force. I can repulse them.”
A-la-hán liền đến trước vua Cù-tát-đán-na thuyết pháp. Lúc đầu vua chưa tin, vẫn muốn động binh, Vị A-la-hán liền lấy tấm y của sa-di ngày trước đưa cho vua xem. Vua nhìn thấy tấm y tự nhiên được trí Túc mệnh, [nhớ lại đời trước,] liền tạ lỗi với vua Ca-thấp-di-la, hai bên kết tình giao hảo rồi rút quân về, đồng thời cũng rước tượng Phật mà sa-di ngày trước thường cúng dường về theo trong đoàn quân để mỗi ngày lễ bái. Tượng về đến chỗ này thì không thể di chuyển đi tiếp được nữa. [Vua liền cho] xây dựng chùa tại đây, thỉnh chư tăng đến, lại cởi mũ báu của mình ra cúng dường đặt trên đầu tượng Phật. Mũ báu ngày nay còn nhìn thấy đó chính là mũ báu của đức vua thuở ấy cúng dường.
The arhat then went to speak on the essence of various Dharmas to the king of Gostana. At first the king would not listen to him and still wanted to send his army to the battleground. The arhat then produced the robe that the king had worn in his previous life as the sramanera. At the sight of the robe the king gained the supernatural faculty of remembering past events. He apologized to the king of Kasmira and withdrew his troops after reconciliation. He also brought back with his army the Buddha’s image that he had worshiped when he was a sramanera in his former life. When the image was brought to this place it refused to be moved any further, and so a monastery was built to enshrine the image where it stood. Monks were invited to live in the monastery and the king’s precious crown was placed on head of the image. The present crown on the image’s head is the one that was offered by the previous king.
Từ kinh thành đi về hướng tây khoảng 48-51 km, giữa sa mạc lớn, trên đường đi có nhiều gò đất, đều là những gò đất của chuột.
Along the main path, in a great desert one hundred and fifty or sixty li to the west of the royal city, are mounds that are actually heaps of earth dug out by rats from their holes.
Người dân nơi đây kể rằng, trong sa-mạc này, có con chuột to như con nhím, lông màu vàng, màu bạc khác biệt, là thủ lĩnh của loài chuột, mỗi khi ra khỏi hang đều có cả bầy chuột theo hầu.
I heard the local people say that the rats in the desert were as large as hedgehogs, that the ones with golden or silvery hair were the chiefs, and that each time they came out of their holes the other rats always followed them as attendants.
Thuở ấy, quân Hung Nô kéo sang đến mấy chục vạn, cướp bóc biên thùy, kéo vào đến gần đây, đóng quân ngay bên cạnh các gò đất của chuột. Vua Cù-tát-đán-na tập trung được mấy vạn binh, sợ không đủ sức chống lại quân địch. Đức vua từ lâu đã biết trong sa mạc có con chuột kỳ dị kia, nhưng chưa bao giờ nghĩ đó là thần vật. Nay giặc đã đến, không có nơi nào cầu cứu, từ vua đến quan quân đều kinh sợ, không biết tính kế gì, đành cầu may thiết lễ cúng tế, cầu xin chuột thần nếu có linh thiêng xin giúp sức dẹp giặc.
The Hun people once led hundreds of thousands of troops to attack the frontier [of Gostana] and they were stationed beside the rat mounds. At that time the king of Gostana had only a few tens of thousands of soldiers under his command and he feared that his army was not strong enough to resist the enemy. He always knew that the rats in the desert were marvelous animals but he did not regard them as divine beings. When the invaders arrived both the monarch and his subjects were greatly surprised and did not know how to deal with the situation. As a temporary expedient they tried conducting a sacrificial ceremony, praying to the rats in the hope that they might help strengthen the army.
Đêm đó vua Cù-tát-đán-na nằm mộng thấy con chuột lớn nói rằng: “Chúng tôi xin được giúp sức, đại vương nên sớm chuẩn bị quân mã, ngày mai cùng nhau chiến đấu, nhất định sẽ thắng.”
That night the king of 944b Gostana dreamed that a giant rat said to him, “I wish to assist you and I hope you will get your men ready for battle at an early hour. If you engage the enemy tomorrow you will certainly win the day.”
Vua Cù-tát-đán-na biết có thần linh trợ giúp liền lập tức chỉnh trang quân mã, ban lệnh cho tướng sĩ, trời chưa sáng đã xuất quân, gấp rút tiến đánh. Quân Hung Nô nghe tin thảy đều lo sợ, chuẩn bị mặc giáp lên ngựa, ngờ đâu tất cả yên ngựa, quần áo binh sĩ cho đến dây cung, dây buộc giáp và tất cả các thứ dây đai, dây buộc đều đã bị chuột cắn đứt nát. Ngay khi ấy, quân của vua Cù-tát-đán-na đã áp sát tới, quân Hung Nô đành thúc thủ, lớp bị trói, lớp bị chém, nhân đó giết được tướng giặc, phá tan quân giặc, đều là nhờ có thần linh giúp đỡ.
Knowing that he had spiritual assistance, the king of Gostana mobilized his troops and ordered them to launch a surprise attack before dawn. The Hun invaders were frightened when they heard of this. They rushed to put on their armor and mount the horses and chariots, but they found that the saddles and equipment, the strings of their bows and ties for the armor, and all such belts and cords had been gnawed through by the rats. The defenders then arrived suddely and the Hun people were overcome and suffered capture and massacre; the commanders were killed and the soldiers taken prisoner. The Hun people, thinking that their opponents had the help of divine beings, were awestruck.
Vua Cù-tát-đán-na cảm ơn sâu dày của chuột thần nên dựng đền thờ, thiết lễ cúng tế. [Từ đó về sau] đời đời tiếp nối đều tôn kính, đặc biệt quý trọng khác thường. Cho nên trên từ quân vương, dưới đến dân thường đều thường cúng tế, mong được phúc thần giúp đỡ. Khi đi đến hang chuột ở đây, mọi người thường xuống xe đi bộ, lễ bái cung kính hoặc cúng tế cầu phúc, dùng các món như y phục, cung tên, hương hoa, thực phẩm v.v... Những ai có lòng chí thành đều được nhiều điều phúc lợi. Nếu không cúng tế ắt thường gặp tai biến.
Out of gratitude toward the rats the king of Gostana built a temple to offer sacrifices to them, and this tradition has been carried down from generation to generation with a deep and special feeling of wonderment. From the monarch on down to common citizens, everyone performed sacrificial ceremonies to gain blessedness. Whenever they passed by the rat holes they alighted from their horses and carriages to worship the rats and offer clothing, bows, and arrows or fragrant flowers and delicious food to them, so as to pray for happiness. Because they did so with sincerity they gained benefit in most cases. If no sacrifice was offered one might meet with calamity.
Phía tây kinh thành, cách chừng 1.5-2 km, có chùa Sa-ma-nhược. Trong khuôn viên chùa có một ngọn tháp cao hơn 33 mét, có rất nhiều điềm lành linh ứng, thỉnh thoảng lại có hào quang chiếu sáng.
Five or six li to the west of the royal city is Samajna Monastery, in which there is a stupa more than a hundred feet high that shows frequent spiritual signs and occasionally emits a divine light.
Thuở xưa có một vị A-la-hán từ phương xa đến, dừng ở trong khu rừng này, dùng sức thần thông phóng đại hào quang. Đêm ấy đức vua ở trên lầu cao trong cung điện nhìn từ xa thấy ánh sáng chói lọi nơi khu rừng, liền dò hỏi nhiều người. Mọi người đều nói: “Có một vị sa-môn từ xa đến, ngồi yên trong rừng sâu mà hiện thần thông.”
In the past an arhat once came from a distance and stayed in the wood, issuing a bright light through his supernatural power. From a storied pavilion the king saw the light shining brightly in the wood at night and asked his attendants about it, and they all said, “A sramana has come from a distance and is now sitting in the wood, manifesting his supernatural powers.”
Vua bèn xa giá đích thân đến quan sát, thấy phong cách bậc hiền nhân sáng suốt thì hết sức cung kính, khâm phục vô cùng, liền xin thỉnh ngài về cung. Vị sa-môn nói: “Mỗi sự vật đều có chỗ thích hợp riêng, mỗi con người đều có chí hướng khác. Tôi chỉ quen với chốn rừng sâu hoang dã, lầu đài cao rộng không phải nơi tôi muốn đến.”
The king then ordered his driver to prepare his carriage and went in person to see the monk. When he saw the sage he cherished a feeling of respect for him and, in admiration of the monk’s demeanor, the king invited him to come to the palace. The sramana said, “Everything has its own appropriate position and each person has his particular inclination. A secluded wood with marshes and streams is the place I appreciate, while lofty halls and grand mansions are not what I should accept.”
Vua nghe như vậy càng thêm kính ngưỡng, hết sức tôn trọng, liền cho xây dựng một ngôi chùa, dựng một ngọn tháp rồi cung thỉnh, vị sa-môn liền nhận lời đến ở. Không bao lâu, đức vua nhờ sự cảm ứng mà tự nhiên có được mấy trăm hạt xá-lợi. Vua rất hoan hỷ mừng vui nhưng rồi tự nghĩ: “Xá-lợi cảm ứng mà đến, nhưng sao muộn thế này? Giá như đến sớm, ta có thể đặt bên dưới bảo tháp, chẳng phải đã thành một thắng tích kỳ diệu lắm sao?”
The king respected him all the more and treated him with even greater honor. A monastery was built with a stupa, and the sramana was invited to stay there.
Before long, to his great delight the king obtained several hundred grains of relic bones through his profound devotion. He regretted that the relics, as a spiritual response, had come a bit too late to have been enshrined in the stupa, which would consequently have become a superior holy site.
Vua liền đến chùa đem suy nghĩ ấy thưa với vị sa-môn. Ngài liền nói: “Đại vương đừng lo lắng, bây giờ đặt vào vẫn được. Đại vương nên dùng vàng, bạc, đồng, thiết và đá lớn làm thành các hộp chứa, rồi đặt hết xá-lợi vào trong đó.”
He went to the monastery and told his idea to the monks. The arhat said, “O King, do not worry! I can place the relics under the stupa for you. You should put the relics in golden, silver, copper, iron, and stone cases, one by one.”
Vua lập tức cho thợ làm ngay, không bao lâu đã hoàn tất, liền đưa tất cả đến chùa. Lúc ấy, người trong cung vua cùng quan, quân, dân thường đi theo đưa rước xá-lợi có đến hàng vạn người. Vị sa-môn A-la-hán dùng tay phải nâng ngọn tháp lên, đặt vào giữa lòng bàn tay [trái] rồi nói với nhà vua: “Bây giờ có thể đưa xá-lợi vào bên dưới tháp.”
The king ordered craftsmen to make the required cases and they completed the task in a few days’ time. The cases were sent to the monastery in precious carriages and hundreds of heralds, attendants, and officials from the palace escorted the relics, while tens of thousands of people watched the procession. The arhat lifted up the stupa with his right hand and placed it in his palm, saying to the king, “You may place the relics now.”
Khi ấy công nhân liền đào đất, đặt các hộp đựng xá-lợi vào dưới nền tháp. Sau khi hoàn tất, [vị A-la-hán mới] đặt tháp trở xuống, nguyên vẹn như cũ không hề nghiêng lệch. Tất cả những người chứng kiến đều ngợi khen là việc chưa từng có, lòng tin đối với Phật pháp càng thêm sâu vững, sự kính trọng Tam bảo càng thêm kiên định.
Then the ground was dug up for the cases and when this had been done, the stupa was replaced on the site without any damage or slanting. Those who witnessed the event said in admiration that they had never before seen such a sight; their faith in the Buddha became even more sincere and their minds of respecting the Dharma more steadfast.
Khi ấy, đức vua nói với mọi người rằng: “Trẫm thường nghe rằng năng lực của Phật khó nghĩ bàn, sức thần thông khó biết hết, hoặc có thể phân thân thành trăm ngàn muôn ức, hoặc ứng hiện trong hai cõi trời người, có thể nâng cả thế giới trong lòng bàn tay mà chúng sinh trong đó không hề hay biết, giảng giải Chánh pháp bằng âm thanh thông thường mà hết thảy chúng sinh tùy loại khác nhau đều có thể nhận hiểu, giác ngộ. Suy theo đó thì thần lực của Phật không ai bằng, trí tuệ của ngài không thể diễn đạt bằng ngôn từ. Nay hình tích thiêng liêng đã ẩn khuất nhưng lời dạy của ngài vẫn còn truyền lại. [Chúng ta nay được] thấm nhuần giáo pháp, nếm vị đạo mầu, càng ngưỡng mộ sự giáo hóa của ngài. Nay có được sự hiển linh này đều là nhờ phúc đức sâu dày. Hỡi bá quan văn võ và thần dân trăm họ, hãy cùng nhau gắng sức tu tập. Phải hết lòng tôn sùng cung kính, Phật pháp thâm sâu mầu nhiệm, nay chúng ta đều đã được thấy rõ.”
The king said to his group of officials, “I have heard that the Buddha’s power is inconceivable and his divine faculties are unfathomable. He can appear in hundreds of myriads of bodies simultaneously and take birth either in the human world or in heaven. He can lift up the world in his palm without making living beings feel any agitation. He expounded the nature of the Dharma in normal language to enable all creatures to reach enlightenment in different ways, according to their varying capacities. His divine power is incomparable and his wisdom is beyond description. Although his corporeal form has vanished his teachings have been handed down, so that we can enjoy the peace of his doctrine, live under the influence of his virtue, taste the flavor of the Way, and admire his characteristic way of life. Owing to his blessing, we have now obtained these holy relics. Do your utmost, all of you, to pay deep respect to the Buddha. You will then understand that the buddha- dharma is abstruse and profound.”
Phía đông nam kinh thành, cách khoảng 1.5-2 km có chùa Ma-xạ, do một vị vương phi trước đây của nước này xây dựng.
Five or six li to the southeast of the royal city is Maza Monastery, which was established by a concubine of a former king of this country.
Thuở xưa, nước này chưa biết trồng dâu nuôi tằm, nghe nói ở Đông quốc biết nghề ấy, liền sai sứ sang xin học. Vua Đông quốc giữ bí mật không cho biết, còn ra lệnh canh phòng nghiêm ngặt không để cho giống cây dâu và con tằm lọt ra khỏi nước. Vua Cù-tát-đán-na [đành tính kế] hạ mình cầu hôn với vua Đông quốc. Vua nước ấy đang có ý muốn mở rộng uy thế đến các nước xa nên chấp nhận [gả con gái]. Vua Cù-tát-đán-na lúc sai sứ đi đón dâu liền dặn dò rằng: “Nhà ngươi phải nói với vương nữ rằng, nước ta không có cây dâu và con tằm, xin tìm cách mang theo để sau này có thể may y phục cho cô ấy.”
In the past neither the mulberry tree or silkworms were known in this country. Hearing that a certain country in the east had mulberry trees and silkworms, [the king] dispatched a messenger to seek for them, but the monarch of the eastern country kept them hidden and would not grant the request. He gave orders to the frontier guards to prevent mulberry seeds or silkworms from being smuggled out of the country. The king of Gostana then humbly proposed to enter into a matrimonial alliance with the eastern country. The king of the eastern country had ambitions to exert his influence over distant lands through mollification, so he readily agreed to the proposal. The king of Gostana appointed an envoy to collect the bride and said to him, “Tell the daughter of the monarch of the eastern country that we have no silk thread, nor do we have we mulberry trees or silkworms, in our country. Ask her to bring some seeds with her [so that silk may be produced] to make garments for her.”
Vương nữ nghe lời, liền bí mật tìm các giống ấy rồi giấu vào chỗ trống bên trong mũ đội trên đầu. Khi đến biên giới, mọi người đều bị lục soát, nhưng mũ trên đầu vương nữ thì không ai dám động đến. Sau khi vào nước Cù-tát-đán-na rồi, đến chỗ đất bây giờ là chùa Ma-xạ, sắp xếp lễ nghi chuẩn bị rước vương nữ vào cung, liền để các giống dâu và tằm ở lại nơi đó. Vào ngày đầu xuân mới bắt đầu trồng dâu xuống. Tháng ba thì hái lá dâu nuôi tằm. Ban đầu còn phải dùng thêm các loại lá tạp để cho tằm ăn, dần dần cây dâu đủ lớn để nuôi tằm. Vương phi cho khắc quy chế lên bia đá, cấm không được giết hại tằm, phải đợi khi bướm nở ra đã bay đi hết mới được dùng kén ấy để lấy tơ. Nếu ai vi phạm quy chế này sẽ không được thần linh giúp đỡ. Sau đó lại nhân lứa tằm đầu tiên mà xây dựng ngôi chùa [Ma-xạ] này. Nơi đây hiện có một số gốc dâu đã khô, nghe nói chính là những cây giống ban đầu. Cho nên ở nước này không ai giết hại tằm. Nếu có ai lén lút giết hại thì năm sau nhất định không nuôi được tằm.
Hearing this, the daughter of the monarch secretly obtained some mulberry seeds and silkworms, which she hid inside the cloth of her hat. When she arrived at the frontier the guards searched all her belongings but they dared not inspect her hat. In this manner she entered the country of Gostana and lodged at the place where Maza Monastery now stands. She was then taken to the royal palace with proper rites and ceremony and the mulberry seeds and silkworms were kept at the palace. In early spring the mulberry seeds were planted, and in the month of breeding silkworms the leaves of the mulberry trees were plucked to feed them. In the early stages [the silkworms] were also fed with leaves of miscellaneous trees. From then on the mulberry trees thrived, their luxuriant foliage casting shadows in patches. The king’s concubine made an inscription on a stone tablet to lay down a rule forbidding people from harming the silkworms. Only when the silk moths had all flown away could the cocoons be reeled; the gods would not protect those who dared infringe this rule. This monastery was built in memory of the first group of silkworms. There are several withered mulberry trees, said to be the first mulberries planted there. Silkworms are not killed in this country and if anyone stealthily reels silk [from cocoons with larvae inside] he will reap a poor harvest in sericulture the following year.
Từ kinh thành đi về hướng đông nam khoảng 32 km có một sông lớn, chảy về hướng tây bắc, người dân dùng nước sông này để tưới ruộng.
More than one hundred li to the southeast of the [royal] city is a large river flowing northwest, which the people use for irrigation.
Có một thời, nước sông tự nhiên ngừng chảy. Nhà vua hết sức kinh sợ, liền xa giá tìm đến thưa hỏi một vị A-la-hán: “Nước sông lớn này là nguồn để dân sử dụng, nay bỗng dưng không chảy nữa, chẳng biết do lỗi nơi đâu? Phải chăng do việc cai trị của trẫm không được công bằng? Hay do đức độ của trẫm không đủ phủ khắp? Nếu không phải vậy, sao có thể bị khiển trách nặng nề thế này?”
At one time it dried up, to the great surprise of the king. He rode in his carriage to inquire of an arhat monk, saying, “The water of the large river is usually drawn and used by the people; what is the fault that has caused it to dry up? Have I been unjust in managing state affairs, have my virtuous deeds not extended to all? If not, then why is the punishment from above so severe?”
Vị A-la-hán nói: “Đại vương trị nước chân chánh hòa hợp, không có lỗi gì. Nước sông không chảy là do rồng gây ra, nên cầu khấn với rồng thì nước sông có thể chảy lại như trước.”
The arhat said, “Your Majesty rides the country in peace and good order. The drying up of the river is caused by the dragon [in the river]. It befits Your Majesty to immediately offer sacrifice and say prayers to him, and then the lost advantages may be recovered.”
Đức vua liền quay về, thiết lễ cúng tế rồng ở sông, bỗng nhiên thấy có một người con gái đạp sóng trên sông đi đến nói rằng: “Chồng tôi chết sớm, lệnh vua không có người nghe theo, do vậy nên nước sông không chảy nữa, khiến người nông dân bất lợi. Nếu đại vương tìm một người trong nước cho làm chồng tôi thì nước sông sẽ chảy lại như xưa.”
The king returned to his palace and performed a sacrificial ceremony for the dragon in the river. Suddenly a woman came over the waves and said to the king, “My husband has been dead for a long time and I am unable to carry out your order. That is why the river has dried up and the farmers have lost the advantage of irrigation. If you will select one of your noble ministers to be my husband the river’s waters will flow as usual.”
Vua nói: “Ta đồng ý như vậy, tùy ngươi lựa chọn.”
The king said, “Please do as you wish.”
Cuối cùng rồng chọn lấy vị đại thần của vua. Vua về cung nhóm họp quần thần thảo luận rằng: “Đại thần là trụ cột chống giữ đất nước, nông nghiệp là lương thực, sinh mạng của người dân. Đất nước mất đi trụ cột ắt phải nguy khốn, người dân mất đi lương thực ắt sẽ chết đói. Giữa sự an nguy của đất nước và sống chết của người dân, chúng ta nên chọn bên nào?”
The dragon [woman] looked at the ministers and was delighted with one of them.
After returning to the palace the king said to his ministers, “My ministers are the pillars of the state and agriculture is the source of the food that sustains our lives. If I lose my ministers the state will be endangered, but without food all of us will die. What shall I choose, the endangerment of the state or death?”
Vị đại thần liền bước ra, quỳ xuống tâu rằng: “Hạ thần lâu nay tài đức kém cỏi, lạm nhận trách nhiệm nặng nề, thường nghĩ việc báo ơn đất nước nhưng chưa có cơ hội. Nay theo sự chọn lựa của rồng, đâu dám so với trách nhiệm nặng nề [phục vụ đất nước]. Nhưng việc có lợi cho muôn dân thì tiếc chi một thân này? Hạ thần chỉ là người giúp nước, còn dân mới là gốc của nước, xin đại vương đừng suy nghĩ nữa. Chỉ xin đại vương vì hạ thần mà làm việc cầu phúc, cho xây dựng một ngôi chùa.”
The minister [chosen by the dragon woman] arose from his seat and kneeled, saying in reply, “I am an incompetent person who is unworthy of my important position, and I have always thought of dedicating myself to the service of my country but have not yet had the chance. Now, having been selected [to take up the appointment], how could I dare refuse to bear this important responsibility? If it is for the benefit of the masses of people, there is no need to be reluctant about sending away a minister. A minister is merely an assistant of the state, while the people are the foundation of the country. I hope Your Majesty will hesitate no more. I would be fortunate if a monastery can be constructed as a good deed done on my behalf.”
Vua chấp nhận lời thỉnh cầu, không bao lâu thì hoàn tất. Đại thần lại xin được sớm vào Long cung. Liền đó, quan dân trong cả nước cùng nhau trỗi âm nhạc, bày tiệc ăn uống đưa tiễn. Vị đại thần mặc y phục trắng, cưỡi ngựa trắng, từ biệt đức vua, từ biệt dân trong nước, rồi giục ngựa xuống sông, đi trên mặt nước mà không thấy chìm, đến khoảng giữa dòng thì vung roi rẽ nước, nước rẽ sang hai bên, từ đó mất dấu. Không bao lâu liền thấy con ngựa trắng nổi lên, trên lưng chở một cái trống lớn bằng gỗ chiên-đàn cùng một phong thư. Trong thư đại ý viết rằng: “Đại vương thật chu đáo, không thay đổi người được tuyển chọn. Xin nguyện [đại vương] được nhiều phúc lớn, lợi ích đất nước, thêm nhiều bề tôi. Hãy đem cái trống lớn này treo ở phía đông nam thành, nếu có quân giặc đến, trống sẽ tự kêu lên [trước để cảnh báo].”
The king consented to his request and the work was completed in no time.
The minister then asked permission to go to the dragon’s palace at an early date. All the officials and common people in the whole country held farewell banquets in his honor, accompanied by the performance of music. The minister, dressed in white and riding a white horse, bade farewell to the king and expressed thanks to his countrymen before he rode into the river. The horse walked on the surface of the water without sinking. When it came to midstream the minister waved his whip to slice the water and made an opening, through which he dropped into the river. After a short while the white horse floated out of the river, carrying a sandalwood drum on its back along with a letter, which said in brief, “Your Majesty did not despise me as a humble person and gave me the chance to be selected by the goddess. I hope you will perform more meritorious deeds for the benefit of your country and people. The big drum is to be hung to the southeast of the city. Before the approach of invaders it will sound by itself to give warning.”
Sau đó nước sông lại chảy, cho đến nay dân vẫn còn được hưởng lợi ích sử dụng. Năm tháng trôi qua, trống của rồng đã mất từ lâu, nhưng nơi treo cái trống ngày xưa, hiện giờ vẫn có treo một cái trống. Ngôi chùa nằm cạnh bờ hồ giờ đây hoang vắng đổ nát, không có tăng chúng.
Since then water has flowed in the river and the people have made use of it up to now. After such a the long lapse of time the original dragon drum is no longer in existence. At the place where it was hung another drum has been put as a substitute. The monastery beside the pond is deserted and in ruins, and there are no monks living there.
Từ kinh thành đi về hướng đông khoảng 98 km, trong đầm hoang rất lớn có một vùng đất rộng mấy chục khoảnh, hoàn toàn không có cây cỏ, đất có màu đen hơi pha đỏ.
More than three hundred li to the east of the royal city is a large expanse of marshland several tens of qing in area, the earth of which is reddish-black in color; it supports no vegetation whatsoever.
Các bậc kỳ lão kể rằng, đây là nơi ngày trước quân lính đánh nhau bị thua. Thuở xưa, quân đội Đông quốc hàng trăm vạn đánh sang phía tây. Lúc ấy, vua Cù-tát-đán-na cũng chỉnh trang binh mã mấy mươi vạn, kéo sang hướng đông để chống lại quân địch mạnh. Khi đến chỗ đất này thì quân hai bên gặp nhau, cùng giao chiến. Quân Cù-tát-đán-na thua trận, quân Đông quốc thừa thắng giết vua, chém tướng, tàn sát quân sĩ không còn một ai, máu loang nhuộm đỏ cả vùng đất này, dấu tích đến nay còn thấy.
I heard some old people say 945b that this was the place where the army [of this country] was defeated. In the past a country in the east once raised a million troops to make an invasion to the west. At that time the king of Gostana prepared an army several lakhs strong to resist the enemy from the east. The two armies met at this place and engaged in battle and the soldiers of the west were defeated by the troops from the east. The latter, advancing in the flush of victory, slaughtered people cruelly, captured the king [of Gostana], killed his generals, and massacred the soldiers, sparing not a single one. The ground was stained with blood and the traces are still visible.
Từ nơi đây đi về hướng đông khoảng 10 km đến thành Bễ-ma. Nơi đây có một tượng Phật đứng, khắc bằng gỗ chiên đàn, cao gần 7 mét, rất nhiều điều linh ứng, thỉnh thoảng lại tỏa chiếu hào quang. Những người có bệnh, tùy theo chỗ bị đau mà dùng lá vàng mỏng thiếp lên tượng [ở chỗ tương ứng] liền được khỏi bệnh. Những ai phát tâm khiêm cung thỉnh cầu, đa phần đều được toại nguyện.
Going eastward for more than thirty li from the battleground, I reached the city of Bhfma, in which there is a standing image of the Buddha carved out of sandalwood, over twenty feet high, which has shown spiritual responses many times and often emits a bright light. If someone who suffers from a painfid ailment pastes a piece of gold foil on the image at the part that corresponds to where his ailment is, he may be instantly relieved of the pain. If someone says prayers to the image with earnest devotion their wishes will be fulfilled in most cases.
Người dân ở đây kể rằng, tượng này do vua Ổ-đà-diễn-na của nước Kiêu-thưởng-di làm ra từ thời đức Phật còn tại thế. Sau khi Phật nhập diệt, tượng tự bay qua không trung đến phía bắc nước này, trong thành Hạt-lao-lạc-ca. Vào lúc tượng vừa đến thì dân trong thành đang sống yên vui giàu có, nhưng họ bám chấp sâu vào tà kiến nên không biết tôn kính tượng này. Tuy nhiên, họ vẫn kể cho nhau nghe việc tượng này tự bay đến, nên xem như một vị thần nhưng không quý trọng. Về sau, có một vị A-la-hán đến lễ bái tượng này. Người dân trong nước thấy y phục lạ lùng liền vội vã báo lên đức vua. Vua hạ lệnh lấy đất cát phủ lấp lên con người kỳ dị này.
I heard the local people say that this image was made by King Udayana of the country of Kausambi when the Buddha was living in the world. After the Buddha’s demise the image came through the air from that country to the city of Araurak in the north of this country [of Gostana].
The inhabitants of this city were living in happy and wealthy conditions and were deeply attached to erroneous views so when the image first came to the city they did not treasure or respect it. Even though they heard that it had come by itself they merely regarded this as a miracle and did not venerate the image as an unusual object of worship. An arhat later came to worship this image and the people, amazed at his strange garb, hurriedly went to report this to the king, who then ordered them to throw sand and earth on the strange person.
Bấy giờ, vị A-la-hán bị chôn thân trong đất cát, miệng không có gì ăn. Lúc ấy có một người từ trước vẫn thường lễ bái tượng này, nhìn thấy vị A-la-hán không được ăn uống như vậy thì không chịu được, liền lén mang thức ăn đến cho ngài. Khi vị A-la-hán sắp rời đi liền nói với người này: “Bảy ngày nữa sẽ có một cơn mưa toàn đất cát, chôn lấp cả thành này không ai sống sót. Ông nên biết điều đó để sớm tính kế thoát ra. Tai họa này là do [người trong thành] đã dùng đất cát chôn phủ thân ta.” Ngài nói xong thì rời đi, hốt nhiên không còn nhìn thấy nữa.
The arhat was covered with sand and earth and no food was provided to him. At that time a man who always worshiped the image with veneration could not bear to see the arhat being starved and secretly offered him food. When the arhat was about to leave he told the man, “Seven days from now a sandstorm will cover the entire city and no one will remain alive. You should know this and prepare an esacpe for yourself. This disaster will occur because the people cast sand and earth on me.” After saying this the arhat departed and immediately disappeared.
Người kia vào thành vội báo với những người thân của mình, nhưng ai nghe cũng đều cười nhạo không tin. Đến ngày thứ hai bỗng có gió lớn nổi lên, thổi bay hết những thứ dơ nhớp trên mặt đất, rồi từ trên trời mưa xuống đủ các loại trân bảo quý giá, tràn ngập khắp đường phố. Mọi người đều mắng nhiếc quở trách người đưa tin [xấu kia], nhưng người ấy trong lòng biết chắc sự việc sẽ đến [như lời vị A-la-hán], nên âm thầm chuẩn bị đào một đường hầm thông ra bên ngoài thành. Đến sau lúc nửa đêm của ngày thứ bảy, trời mưa xuống toàn đất cát, lấp kín cả thành. Người kia theo đường hầm mà ra khỏi thành, rồi đi về hướng đông đến nước này, dừng lại ở thành Bễ-ma. Khi người ấy vừa đến thì tượng Phật này cũng tự hiện đến, liền thiết lễ cúng dường ngay tại đó, không dám dời tượng đi nơi khác.
That man entered the city and warned his relatives and friends, but those who heard the information sneered at him. On the following day a big gale swiftly arose and blew away the filthy dust, while various kinds of gems and precious substances rained down all over the roads and thoroughfares. The people then berated their informant all the more, but the man knew that disaster was a certainty and secretly excavated a tunnel leading out of the city and made it into a cellar. After midnight on the seventh day sand and earth rained from the air and filled up the city. The man escaped through the tunnel and went east to this country [of Gostana], where he stayed in the city of Bhlma. No sooner had he arrived than the image also came to that place, where it was worshiped with offerings and no one dared remove it.
Trong các ghi chép xưa kia nói rằng: “Khi giáo pháp của đức Thích-ca dứt mất, tượng này sẽ vào Long cung.”
I heard a prophet say that by the end of Sakyamuni’s Dharma the image will enter the dragon’s palace.
Chỗ thành Hạt-lao-lạc-ca khi xưa, ngày nay là một gò đất lớn. Vua các nước cũng như những nhà có thế lực từ phương xa đến, nhiều người muốn khai quật để lấy trân bảo, nhưng mỗi khi vừa đến gần thì gió bão nổi lên, mây đen bốn phía, không còn nhìn thấy được đường đi.
The city of Araurak has now become a big mound. Kings and powerfill persons of many countries have attempted to excavate the precious treasure, but each time they have come to the side of the mound a strong, violent gale 945c has arisen, raising a shroud of dust and clouds in which they lose their way.
Từ thành Bễ-ma đi về hướng đông vào sa mạc, khoảng 65 km thì đến thành Ni-nhưỡng, chu vi khoảng 1-1.5 km, nằm giữa một cái đầm lớn, bùn đất trong đầm nóng ẩm, khó có thể lội qua. Vùng này lau sậy hoang vu rậm rạp, không có lối đi, chỉ duy nhất một con đường vào thành là có thể tạm đi qua được, cho nên những người qua lại trong vùng đều phải đi qua thành này. Vì thế, nước Cù-tất-đán-na dùng thành này làm cửa ngõ biên phòng phía đông.
From the east of the valley of Bhima I entered a desert. After going for more than two hundred li, I reached the city of Nina, which is three or four li in circuit, situated in a vast marsh. The marsh is hot and humid and it is difficult to pass through it. This region is overgrown with reeds and wild grass and has no tracks or paths. Because this is the only passageway leading to the city travelers have to go leave and depart by this way. Gostana made this city a frontier station in its eastern region.
Từ đây đi về hướng đông là vào một vùng cát di động rất lớn. Cát ở đây chảy tràn như nước, tụ lại rồi tản ra tùy theo luồng gió, người đi qua rồi không còn dấu chân nên rất nhiều người lạc đường. Bốn phía mênh mông không thấy được bờ mé, nên người đi qua lại thường xếp hài cốt [những người đã chết trước đây] lại thành đống để ghi dấu [nơi mình vừa đi qua. Vùng này thiếu nước, hiếm cỏ, nhiều cơn gió nóng. Loại gió này nổi lên thì người và vật đều bị hôn mê, nhân đó thành bịnh [mê sảng], thỉnh thoảng nghe như có tiếng ca hát, hoặc nghe tiếng kêu khóc. Khi nghe như vậy rồi thì tinh thần hoảng hốt, mất cả phương hướng, do vậy mà rất nhiều người mất mạng. Chuyện này đều là do những loài quỷ mị gây ra.
Going east from there I entered the Great Desert, in which the shifting sand is piled up and scatters with the wind. No trace of wayfarers can remain visible on the sand and travelers often lose their way in the vast wilderness and do not know which direction to go, so they have collected the skeletons of the dead to serve as landmarks. Water and pasture are scarce in the desert and the wind is hot; whenever the hot wind blows people and animals fall into a swoon and become ill. The sound of singing and shouting, or wailing and crying, is sometimes heard but when one looks around to locate the source of the sound no one can tell where it comes from. This phenomenon often causes death, as it is mischief wrought by ghosts and devils.
Đi như vậy khoảng 130 km thì đến lãnh thổ cũ của Đổ-hóa-la. Vùng này bỏ hoang từ lâu, các thành đều hoang vu.
Going further for more than four hundred li, I reached the old country of Tukhara, which has been deserted for a long time; all the cities are in ruins.
Từ đây đi về hướng đông khoảng 195 km thì đến nước cổ Chiết-ma-đà-na, tức là vùng Niết-mạt. Thành quách vẫn còn đó nhưng tuyệt nhiên không có bóng người.
From here proceeding to the east for more than six hundred li, I reached the old country of Calmadana, the land of Jumo. The lofty city walls are still there but there is no trace of human habitation.
Từ nơi đây tiếp tục đi về hướng đông bắc, khoảng 325 km thì đến nước Nạp-phược-ba, tức là đất cũ của người Lâu-lan.
Continuing my journey toward the northeast for more than one thousand li, I reached the old country of Navap, namely, the land of Lulan.
[Sách này trình bày về các nước vùng Tây Vực,] nêu hình thể núi sông, khảo sát ghi chép ranh giới đất đai từng vùng, mô tả tánh khí cương nhu [của người dân] mỗi nước, cũng ghi nhận liên quan đến phong tục, khí hậu. Do sự việc biến động không ngừng nên những chi tiết lấy bỏ [khi biên soạn] không giống nhau. Hơn nữa, những việc [nêu ra] đều khó lòng khảo nghiệm đến cùng, nhưng cũng không thể tùy tiện theo chủ quan mà nói. [Huyền Trang] chỉ y cứ những nơi mình đi đến mà ghi chép đại lược, nêu ra những điều mắt thấy tai nghe, tường thuật về thực trạng hoằng hóa Phật pháp ở từng nơi.
The purpose of composing this book has been to describe the mountains and valleys [of the Western Regions], to investigate and collect data on the conditions in different lands, to narrate in detail the upright and variable customs of various countries, and to record the climatic and topographic situations of diverse locales. As circumstances were always changing I laid emphasis on different points at different times. Although it was difficult for me to trace the origin of everything I described by no means did I resort to conjecture or fabrication, but I could write only in a brief manner about what I saw or heard on my journey and keep a record of the spread of the edification of Buddhism.
Từ nơi đây cho đến chốn xa xôi mặt trời lặn xuống ở phương tây, [nơi nơi] đều thấm nhuần ân huệ [của Đại Đường], những vùng xa xôi được giáo hóa đến, cùng kính ngưỡng đức độ [hoàng đế], người trong thiên hạ cùng nhau hòa hợp, thống nhất chung một mái nhà. Nếu không phải là như vậy thì làm sao [Huyền Trang này] một thân đơn lẻ có thể làm sứ thần hoàn tất cuộc hành trình xa xôi muôn dặm?
Up to the place where the sun sets all people live under the beneficence of the Emperor, whose ultimate virtue is admired by all within the reach of his moral influence. The entire empire is a great unity and the world is the manifestation of oneness. Am I merely a solitary envoy going in a single carriage, passing through travelers’ rest stations for a distance of ten thousand li?
***
End of Fascicle XII of The Great Tang Dynasty
Record oj the Western Regions
Ngài Huyền Trang rời Trường An vào tháng 8 niên hiệu Trinh Quán năm thứ ba (629), về đến Trường An vào tháng Giêng, niên hiệu [Trinh Quán] năm thứ 19 (645), mang về Trung Hoa một số xá-lợi Phật, nhiều tượng Phật và kinh, luật, luận, cụ thể như sau:
● 150 hạt xá-lợi nhục thân Như Lai.
● Một tượng Phật bằng vàng, tính cả hào quang và tòa sen cao 54 cm, mô phỏng tượng Phật trong hang rồng ở núi Tiền Chánh Giác nước Ma-yết-đà.
● Một tượng Phật bằng vàng, tính cả hào quang và tòa sen cao 110 cm, mô phỏng tượng Phật chuyển Pháp luân lần đầu tiên ở vườn Lộc Dã, nước Bà-la-ni-tư.
● Một tượng Phật bằng gỗ đàn hương, tính cả hào quang và tòa sen cao 50 cm, mô phỏng tượng do vua Xuất Ái nước Kiêu-thưởng-di vì nhớ nghĩ đức Như Lai mà tạo ra hình tượng như thật.
● Một tượng Phật bằng gỗ đàn hương, tính cả hào quang và tòa sen cao 97 cm, mô phỏng tượng đức Như Lai khi từ Thiên cung trở về đi trên thang báu ở nước Kiếp-tỷ-tha.
● Một tượng Phật bằng bạc, tính cả hào quang và tòa sen cao 134 cm, mô phỏng tượng đức Như Lai đang thuyết các kinh như Pháp Hoa... trên đỉnh Linh Thứu nước Ma-yết-đà.
● Một tượng Phật bằng vàng, tính cả hào quang và tòa sen cao 117 cm, mô phỏng ảnh tượng Phật lưu lại ở nước Na-yết-la-hạt sau khi hàng phục rồng dữ.
● Một tượng Phật bằng gỗ đàn hương, tính cả hào quang và tòa sen cao 44 cm, mô phỏng tượng đức Như Lai khi đi hành hóa trong thành Phệ-xá-ly.
♦ 224 bộ kinh Đại thừa
♦ 192 bộ luận Đại thừa
♦ 14 bộ kinh, luật, luận của Thượng tọa bộ
♦ 15 bộ kinh, luật, luận của Đại chúng bộ
♦ 15 bộ kinh, luật, luận của Tam-di-để bộ
♦ 22 bộ kinh, luật, luận của Di-sa-tắc bộ
♦ 17 bộ kinh, luật, luận của Ca-diệp-tý-da bộ
♦ 42 bộ kinh, luật, luận của Pháp Mật bộ
♦ 67 bộ kinh, luật, luận của Thuyết nhất thiết hữu bộ
♦ 36 bộ Nhân luận
♦ 13 bộ Thanh luận
Tất cả [Kinh điển] đựng trong 520 hộp, tổng cộng là 657 bộ [kinh, luật, luận]. Tổng thời gian đi về là 15 năm, 5 tháng.
Hình minh họa: Đồ họa thể hiện hành trình qua 22 nước trong Quyển 12 - Tây Vực Ký
Hình minh họa: Đồ họa thể hiện hành trình qua tất cả các nước trong Tây Vực Ký
Hình minh họa: Đồ họa thể hiện tổng quan hành trình của ngài Huyền Trang