Nghệ thuật sống chân chính là ý thức được giá trị quý báu của đời sống trong từng khoảnh khắc tươi đẹp của cuộc đời.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Điều quan trọng không phải vị trí ta đang đứng mà là ở hướng ta đang đi.Sưu tầm
Nếu muốn tỏa sáng trong tương lai, bạn phải lấp lánh từ hôm nay.Sưu tầm
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác. Kinh Pháp cú
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Để sống hạnh phúc bạn cần rất ít, và tất cả đều sẵn có trong chính bạn, trong phương cách suy nghĩ của bạn. (Very little is needed to make a happy life; it is all within yourself, in your way of thinking.)Marcus Aurelius
Khi bạn dấn thân hoàn thiện các nhu cầu của tha nhân, các nhu cầu của bạn cũng được hoàn thiện như một hệ quả.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Cuộc sống không phải là vấn đề bất ổn cần giải quyết, mà là một thực tiễn để trải nghiệm. (Life is not a problem to be solved, but a reality to be experienced.)Soren Kierkegaard
Tôn giáo của tôi rất đơn giản, đó chính là lòng tốt.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Nếu quyết tâm đạt đến thành công đủ mạnh, thất bại sẽ không bao giờ đánh gục được tôi. (Failure will never overtake me if my determination to succeed is strong enough.)Og Mandino

Trang chủ »» Danh mục »» Rộng Mở Tâm Hồn »» Tây Vực Ký »» Xem đối chiếu Anh Việt: Quyển 9 »»

Tây Vực Ký
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Quyển 9

Donate

(Lượt xem: 2.837)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục  Vietnamese || English || Tải về bảng song ngữ


       

Điều chỉnh font chữ:

Quyển 9

Fascicle IX

QUYỂN 9 - Nước Ma-yết-đà - Phần hai
Fascicle IX - The Country of Magadha (Part 2)
Về phía đông cây bồ-đề [nơi Phật thành đạo], qua sông Ni-liên-thiền-na, đi vào trong rừng lớn có một ngọn tháp. Phía bắc tháp có một hồ nước, là nơi con voi tơ [tiền thân của Phật] hầu hạ voi mẹ.
To the east of the bodhi tree and across the Nairanjana River there is a stupa in a great wood, and to the north of the stupa is a pond where a fragrant elephant attended his mother.
Thuở xưa, khi đức Như Lai còn tu hạnh Bồ Tát, sinh ra làm một con voi con sống ở vùng núi phía bắc, đến ở bên bờ hồ này cùng với voi mẹ mù lòa. Voi con [đến hồ này để] lấy ngó sen cho mẹ ăn, lấy nước trong cho mẹ uống, cung kính hiếu dưỡng, trải qua năm tháng không thay đổi.
In the past, when the Tathagata was practicing the deeds of a bodhisattva, he was born as the son of a fragrant elephant, living on North Mountain, and he came to the pond for pleasure. As his mother was blind, he drew pure water and fetched lotus roots to feed her with respect and filial piety; this he did for a long time.
Ngày kia có một người đi rừng lạc đường, loanh quanh tới lui [không biết đường ra] khóc lóc thảm thiết. Voi con nghe tiếng khóc khởi lòng thương, liền dẫn người ấy [ra khỏi rừng để] đi về.
A man once lost his way while traveling through the wood, and walked back and forth, weeping piteously. Hearing the sound, the young elephant felt pity for the man, guided him out of the wood, and showed him the way home.
Người này sau khi về đến thưa với vua rằng: “Thảo dân biết chỗ ở của một con voi tơ trong rừng, nơi một hồ nước, là một con voi rất quý lạ, [đại vương] có thể đến đó bắt nó.”
After the man returned home he reported to the king, “I know that a fragrant elephant is wandering about the pond in the wood. This is a rare animal and you can go caphire it.”
Vua nghe như vậy liền dẫn quân lính đến bắt voi. Người kia đi trước dẫn đường, [vừa nhìn thấy liền] đưa tay chỉ voi cho vua. Ngay lập tức, cả hai tay ông ta đều rơi xuống đất giống như bị chặt đứt. Nhà vua tuy kinh sợ vì điều kỳ lạ đó, nhưng vẫn bắt voi mang về. Voi bị nhốt đã lâu nhưng không chịu ăn cỏ uống nước. Người quản tượng thấy vậy liền báo sự việc lên nhà vua. Vua đích thân đến hỏi, voi con trả lời: “Mẹ tôi bị mù, mấy ngày qua phải chịu đói khát, nay tôi lại bị giam giữ nơi đây, còn lòng dạ nào có thể ăn ngon được?”
The king agreed and sent soldiers to caphire the elephant. The man accompanied them as a guide but at the very moment he pointed out the young elephant for the king, both his arms fell off as if they had been severed. Even though the king was surprised by the sight he still caphired the young elephant and brought him home. The young elephant refused to eat grass or drink water for a long time after he was caught. The stable keeper informed the king, who went personally to inquire into the matter. The young elephant said, “My mother is blind and is starving all day long. As I am now a captive, how can I enjoy delicious food?”
Nhà vua cảm động trước tấm lòng hiếu thảo của voi con, liền thả cho voi đi.
Moved by the elephant’s filial sentiment, the king released him.
Ngọn tháp bên cạnh đó phía trước có dựng một trụ đá, là nơi ngày xưa đức Phật Ca-diệp-ba ngồi tịnh. Kế bên lại có di tích của bốn vị Phật quá khứ kinh hành cùng ngồi thiền.
In front of the stupa beside the pond is a stone pillar where Kasyapa Buddha sat in meditation in the past. Beside it are places where the four past buddhas sat and walked up and down.
Từ chỗ di tích này đi về hướng đông, qua sông Mạc-ha (Maha), đến trong khu rừng lớn có một trụ đá, là nơi có người ngoại đạo nhập định rồi phát ra lời nguyền độc ác.
After crossing the Maha River to the east of the seats of the four past buddhas, I reached a great wood in which there is a stone pillar marking the place where a heretic sat in meditation and made an evil vow.
Thuở xưa có ông ngoại đạo Uất-đầu-lam tử lập chí ẩn dật nơi sông nước, giấu thân trong vùng đồng cỏ, liền đến ẩn cư trong rừng này, mai danh ẩn tích, đã đạt được năm phép thần thông, chứng đắc phép định Đệ nhất hữu.
In the past the heretic Udraka Ramaputra was someone who aspired to spiritual attainment and made his abode in the wilderness. He engaged his mind in meditation and lived in seclusion in this wood of religious practice. As he had gained the five supernormal powers and achieved the samadhi of neither thought nor non-thought,
Vua nước Ma-yết-đà đặc biệt hết sức tôn kính, mỗi ngày đều thỉnh vào cung dùng bữa trưa. Ông Uất-đầu-lam tử đạp trên hư không mà đi, tới lui không bỏ ngày nào, cho nên đến giờ thì vua nước Ma-yết-đà trông ngóng, đợi khi đến rồi thì tiếp đón, cầm tay đưa đến chỗ tòa ngồi.
the king of Magadha highly respected him and invited the hermit to the palace for a meal every day at noon. Udraka Ramaputra traveled through the air to and fro without interruption and the king of Magadha would look into the air and wait for him. On his arrival the king received him and gave him a seat.
Một lần vua có việc sắp đi ra bên ngoài, muốn ủy thác [việc tiếp đón] mà xét trong triều thần không thấy ai có thể đảm nhận được việc này. Vua có đứa con gái còn nhỏ nhưng tính tình hiền thục cẩn trọng, thông minh lanh lợi. [Vua xét thấy] đã là người thân tín lại có đủ năng lực, thật không có ai khác hơn được, nên cho gọi đến dạy rằng: “Nay ta sắp đi xa nên uỷ thác cho con, con phải hết lòng chu toàn việc này. Vị tiên Uất-đầu-lam là người xưa nay ta tôn kính. Đúng giờ cơm trưa ông ấy sẽ đến, con phải phụng sự giống như ta thường làm.”
Once the king was about to go out on a pleasure trip and intended to entrust 919b someone to serve the hermit. But there was no one in the inner palace who was competent to answer the call, except his own daughter, a courteous, well behaved, and prudent young lady with a kind heart whom no one excelled in amiability and virtue. The king of Magadha summoned his daughter and ordered her, “I am traveling to a distant place and have something to entrust to you. Please be careful to fulfill this duty to completion. The hermit Udraka Ramaputra is someone I always venerate respectfully. When he comes at mealtimes you should serve him as I do.”
Vua dặn dò xong liền lên đường tuần lãm khắp nơi. Công chúa theo chỉ ý của vua, cũng chờ đón [vị tiên] theo đúng nghi thức. Khi vị tiên đến thì cũng cung kính cầm tay đưa đến tòa ngồi.
Having given this instruction the king started on his journey. Under the king’ order the young maid waited for the hermit as usual, and upon his arrival she received him and took him to his seat.
Uất-đầu-lam tử xúc chạm với người nữ liền khởi tâm ô nhiễm của Dục giới, bị mất thần thông. Ăn cơm xong nói lời từ tạ ra về nhưng lại không bay lên hư không được. Trong lòng rất xấu hổ, liền nói dối với công chúa rằng: “Ta từ khi theo đường tu đạo, nhập định dưỡng thần, qua lại trong hư không, chẳng có lúc nào nhàn rỗi. Người dân trong nước mong muốn được nhìn thấy ta, ta cũng nghe biết việc ấy đã lâu. Các bậc tiên thánh trước đây đều dạy rằng, phải nghĩ làm lợi lạc cho muôn người, lẽ đâu giữ riêng sự tốt đẹp cho mình mà quên việc cứu giúp khắp thảy? Nay ta muốn mở cửa đi ra, bước đi trên mặt đất [như người thường] để những người nhìn thấy đều được phước lợi.”
Due to having been in contact with a woman, Udraka Ramaputra felt an impulse of desire and lost his supernormal powers.
After the meal was over and he was about to return the hermit found that he was no longer able to fly. Ashamed, he said deceitfully to the maid, “I have been practicing the Way and sitting in meditation with a peaceful mind for many years, and I am used to flying through the air without any leisure moments. I heard long ago that the people of the country wished to see me. Previous teachers taught us that we should work for the benefit of others as our duty. How can one work only for one’s own good and forget about altruistic considerations? I now wish to depart through the door and walk on the earth so that those who see me may gain bliss and benefit.”
Công chúa nghe như vậy liền cho thông báo để mọi người xa gần đều biết. Lúc bấy giờ, mọi người tranh nhau [kéo đi xem], cùng tưới nước quét dọn đường, có đến cả trăm ngàn vạn người cùng chờ đợi ông đến để được xem hình dáng.
On hearing these words, the princess made a public announcement. Thereupon, the people hurriedly sprinkled water and swept the thoroughfare clean, and hundreds and thousands of people stood still for a long time, waiting for the appearance of the hermit. 
Ông Uất-đầu-lam đi bộ từ cung vua về đến khu rừng ẩn cư rồi liền ngồi yên nhập định, nhưng tâm cứ chạy theo ngoại cảnh, ngồi trong rừng thì chim quạ kêu vang, đến bên hồ thì cá rùa rì rầm, tâm ông tán loạn, đến nỗi thất thần, phải bỏ việc thiền định. Do vậy nên ông sinh tâm oán hận, phát ra lời nguyền ác độc: “Trong tương lai ta sẽ sinh làm một loài ác thú hung bạo, thân như con chồn nhưng có cánh như chim, bắt ăn thịt hết các loài có sự sống. Thân ta sẽ có chiều ngang đến 970 km, hai cánh mỗi bên đều rộng 480 km, vào rừng ăn hết họ nhà chim, xuống sông ăn hết các loài sống dưới nước.”
Udraka Ramaputra walked from the palace to the religious wood and sat down to practice meditation, but his mind was disturbed by the external environment. When he stayed in the wood he heard the crowing and chirping of crows and other birds, and when he was near the pond the splashing of fish and turtles annoyed him. His attention was distracted and his mind confused, and he lost his spirit and was unable to practice meditation. He became enraged and made an evil vow, saying, “Let me be in the future a fierce and wicked animal with the body of a leopard and the wings of a bird, preying on living creatures. My body will be three thousand li in width and each of the wings fifteen hundred li in length. I shall haunt the forests to devour the feathered tribes (birds) and enter the waters to eat aquatic animals.”
Phát lời nguyền xong, tâm oán hận giảm dần, cố gắng một lúc thì ông nhập định trở lại được như cũ. Không bao lâu sau ông chết, sanh lên cõi trời Đệ nhất hữu, sống lâu 80.000 kiếp. Đức Như Lai báo trước rằng khi thọ mạng ở cõi trời đã hết sẽ nhận kết quả của lời nguyền cũ, thọ thân xấu ác [đúng như đã nguyền], rồi sẽ lưu chuyển trong đường ác, chưa biết bao giờ ra khỏi.
After he made this vow his anger gradually abated, and through hard work he regained his original meditative state soon afterward. Before long he died and was reborn in the Heaven of Neither Thought Nor Non-thought, enjoying a life span of eighty thousand kalpas. The Tathagata predicted that after the conclusion of his heavenly life the hermit would realize his original vow and be reborn as the ugly creature. From that time on he would cycle in the evil states of transmigration without a fixed time for his release.
Về phía đông con sông Mạc-ha, đi vào khu rừng lớn, qua hơn 32 km thì đến núi Khuất-khuất-trá-bá-đà. Núi cao chót vót, nhiều hang sâu thăm thẳm nhìn không thấy đáy. Dưới chân núi có nhiều khe suối, rừng cây cao vút che phủ khắp nơi. Đỉnh cao vách đứng, cỏ xanh phủ dày rậm rạp. Có ba đỉnh núi cao vút vươn lên như thấu tận trời cao, hình thể hòa lẫn với mây trời. Sau khi Tôn giả Đại Ca-diệp-ba vào ngụ trong núi này rồi tịch diệt, [người đời] không dám gọi rõ tên nên gọi là núi Tôn Túc.
To the east of the Maha River I entered a great jungle and, going for more than one hundred li, I reached Kukkutapada (known as Jizu, “Cock’s Foot,” in Chinese) Mountain, also called Gurupada (known as Zunzu, “Sage’s Foot,” in Chinese) Mountain. The lofty peaks are extremely steep and the deep valleys seem to be bottomless. At the foot of the mountain and among the brooks there are tall trees in the valleys, and the peaks and cliffs are covered in luxuriant green grass. There are three precipitous, cloud-capped peaks, nearly touching the sky. Because Venerable Mahakasyapa entered nirvana on this mountain people of later times, not wishing to mention his name inappropriately, called it Guru’s Foot Mountain.
Ngài Ma-ha Ca-diệp-ba (Mahakasyapa) là đệ tử hàng Thanh văn của đức Phật, đã chứng được sáu phép thần thông và đầy đủ tám giải thoát. Khi đức Như Lai biết nhân duyên giáo hóa đã trọn vẹn, ngài sắp vào Niết-bàn, liền bảo ngài Ca-diệp: “Ta trải qua vô số kiếp chuyên cần tu tập khổ hạnh, vì chúng sinh mà cầu pháp vô thượng. Tâm nguyện từ xưa như vậy, bây giờ đã đạt kết quả hoàn mãn. Nay ta sắp vào đại Niết-bàn, đem các kho tàng Chánh Pháp giao lại cho ông để giữ gìn, truyền rộng, đừng để cho mất mát, suy giảm. Đây là áo cà-sa thêu bằng chỉ vàng do di mẫu của ta dâng cúng, ông hãy lưu giữ, chờ ngày đức Từ Thị (Maitreya) thành Phật mà trao lại. Đối với những người tu tập theo giáo pháp của ta để lại, cho dù là tỷ-khâu, tỷ-khâu-ni, ổ-ba-sách-ca, ổ-ba-tư-ca, đều nên cứu giúp hóa độ trước tiên, khiến cho được lìa khỏi sự lưu chuyển [trong luân hồi].”
Mahakasyapa was a sravaka disciple [of the Buddha] who achieved the six supernatural powers and possessed the eight forms of liberation. When the Tathagata had completed his career of edification and was about to enter nirvana, he told Kasyapa, “For innumerable kalpas I diligently practiced austerities seeking the supreme Dharma for the benefit of all living beings. As I have now fulfilled my desire and expectation that I wished for in the past, I am going to enter mahanirvana. I entrust to you the Dharma pitaka and you should preserve and spread it and never let it degrade. I will leave behind the golden-thread kasaya that my aunt offered to me, to be transmitted to Maitreya when he becomes a buddha in the future. All those who cultivate themselves in my bequeathed teaching, whether bhiksus, bhiksunis, upcisakas, or upasikas (male and female lay devotees), should first be delivered from the cycle of transmigration.”
Ngài Ca-diệp nhận ý chỉ của Phật, giữ gìn Chánh Pháp. Sau khi kết tập Kinh điển xong, qua đến năm thứ 20, ngài chán bỏ cuộc vô thường nên muốn nhập diệt, liền đến núi Kê Túc, theo sườn núi phía bắc mà lên, vượt qua đường núi nhỏ hẹp, khúc khuỷu nguy hiểm, đến được sườn núi phía tây nam. Đường lên đỉnh núi rất hiểm trở, cây cỏ mọc dày lấp kín, đường đi lại bị tảng đá chắn ngang không thể qua được. Ngài Ca-diệp liền dùng tích trượng vung lên mở đường, tảng đá lập tức tách ra như bị đao chém, mở ra lối đi, cây cỏ chướng ngại trên đường cũng ngã rạp như bị dao bén chặt đứt.
Having received the Buddha’s instmctions, Kasyapa upheld the right Dharma. In the twentieth year after the conclusion of the Great Council he grew tired of the impermanent world and wished to enter nirvana. He went to Kukkuta Mountain and climbed the north side of the mountain; going by a roundabout route he reached the southwest ridge. The peaks are dangerous and difficult to ascend, and the paths are tortuous and overgrown with weeds. He cleared the way with his pewter staff and cut down the weeds as if he were using a knife.
Khi đường đi đã thông suốt, ngài liền theo đường tiến lên, quanh co khúc khuỷu, qua lại ngoằn ngoèo, cuối cùng lên đến đỉnh núi, quay mặt về hướng đông bắc. Khi đến vị trí giữa ba đỉnh núi, ngài ôm áo ca-sa của Phật đứng ngay ngắn ở đó. Do nguyện lực của ngài, ba đỉnh núi liền thu vào họp lại thành một để che phủ [ngài và áo ca-sa], cho nên ngày nay vẫn còn ba vách núi chỉa thẳng lên trời.
After he had opened the mountain path he proceeded along the roundabout route in a crisscross manner. On reaching the summit he faced the northeast. Standing amid the three peaks, he held the Buddha’s kasaya [robe] in both hands and, by the power of his vow, the three peaks closed together, leaving behind the three protuberant ridges we see now.
Trong tương lai, khi đức Thế Tôn Từ Thị ra đời, sau ba hội thuyết pháp vẫn còn lại vô số chúng sanh kiêu căng ngạo mạn, muốn lên núi này, đến chỗ ngài Ca-diệp. [Khi ấy,] đức Từ Thị khảy móng tay, đỉnh núi liền tự mở ra. Những chúng sinh ấy sau khi thấy được ngài Ca-diệp càng tăng thêm sự kiêu mạn. Bấy giờ, ngài Đại Ca-diệp dâng áo ca-sa [Phật để lại lên cho đức Thế Tôn Từ Thị], cung kính lễ bái xong rồi bay lên hư không, thị hiện các phép thần thông, hóa ra lửa [tam-muội] tự thiêu thân mình và nhập diệt. Lúc đó, đại chúng được chiêm ngưỡng rồi liền dứt trừ tâm kiêu mạn, nhân đó có sự xúc cảm sâu xa, nhận hiểu được giáo pháp, đều chứng thánh quả.
When Maitreya comes to the world as a World-honored One he will preach the Dharma in three assemblies. After that there will still be numerous arrogant people who will ascend this mountain and come to the place of Kasyapa. Maitreya will snap his fingers, and the mountain peaks will open by themselves, and, seeing Kasyapa, the people will become all the more arrogant. At this moment Mahakasyapa will hand over the kasaya [to Maitreya]. After making a speech and paying homage [to the new buddha] Kasyapa will rise into the air and manifest various divine transformations. A fire will burst forth to cremate his body and in this manner he will enter nirvana. Having seen this sight, the people will abandon their pride and then will be awakened and realize sainthood.
Ngày nay trên núi có xây một ngọn tháp, những đêm thanh vắng từ xa nhìn đôi khi thấy có ánh đuốc sáng [ở tháp], nhưng khi có người lên núi để tìm xem thì không thấy gì cả.
Therefore a stupa has been built on the mountain. On quiet nights a burning torch can be seen from a distance, but if one goes up the mountain nothing can be seen.
Từ núi Kê Túc đi về hướng đông bắc hơn 32 km thì đến núi Phật-đà-phạt-na, đỉnh cao sừng sững, vách đá cheo leo hiểm trở. Trên sườn núi có một hang đá, đức Phật từng ghé lại dừng nghỉ. Bên cạnh đó có một tảng đá bằng phẳng, Đế Thích và Phạm Vương từng sử dụng để mài bột chiên-đàn Ngưu Đầu mang [cúng dường] tô phết trên thân Như Lai. Cho đến nay tảng đá này vẫn còn lại mùi hương thơm ngào ngạt.
920a Going more than one hundred li northeast from Kukkutapada Mountain I reached Buddhavana Mountain with its lofty peaks and steep cliffs. Among the rocks is a cave where the Buddha once stayed. Beside the cave is a huge rock on which Indra and Brahma pulverized oxhead sandalwood and rubbed the body of the Tathagata with the powder. Even now the rock retains a strong fragrance.
Có năm trăm vị A-la-hán tiềm tàng linh hiển nơi ở núi này, người hữu duyên có thể gặp, hoặc được nhìn thấy, thỉnh thoảng các ngài hiện hình sa-di đi vào trong làng khất thực. Những hình tích linh thiêng ẩn hiện lạ kỳ, thật khó có thể kể lại hết.
The latent spirits of the five hundred arhats remain here. Those who have the chance to meet them may see them appearing as sramaneras going to the villages to collect alms. Their miraculous deeds, whether secret or manifest, are difficult to relate in detail.
Từ cái hang ở giữa núi Phật-đà-phạt-na đi về hướng đông khoảng 10 km thì đến rừng Duệ-sắt-tri, những bụi trúc lớn nhỏ mọc thành rừng, phủ khắp đầy khe kín núi.
Going east for more than thirty li in the deep valleys of Buddhavana Mountain, I reached Yasti Wood (known as “Stick Wood” in Chinese), hill of bamboo that covers the mountain and valleys.
Thuở ấy, có vị bà-la-môn nghe nói đức Phật Thích-ca cao đến 5.3 mét thì hoài nghi chưa tin, bèn làm một cây gậy trúc dài 5.3 mét, ý muốn dùng để đo thân Phật, [nhưng mỗi khi ông mang đến] đo thì thân Phật luôn cao hơn [cây gậy của ông] 5.3 mét, [ông càng làm gậy dài hơn thì thân Phật càng tăng cao hơn,] không thể nào đo được thân Phật. Cuối cùng ông đành ném gậy trúc [nơi đây] mà đi. Nhân đó, cây gậy trúc bén rễ [về sau mọc lên thành rừng].
Formerly there was a brahman who heard that Sakya Buddha was sixteen feet tall, but he doubted this and did not believe it. So he used a sixteen-foot-long long bamboo stick to measure the height of the Buddha but each time he did so, the Buddha’s height always exceeded the length of the stick by sixteen feet. In this manner the brahman found the Buddha’s height becoming higher and higher and he could not ascertain his actual height. He cast off the stick and went away; the stick took root, [giving rise to the bamboo grove].
Giữa rừng trúc có một ngọn tháp lớn do vua Vô Ưu xây dựng, [để ghi dấu nơi] ngày xưa đức Như Lai từng lưu lại bảy ngày, vì chư thiên và loài người hiện phép thần thông lớn, thuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu thâm sâu.
In the wood there is a great stupa built by King Asoka. Formerly the Tathagata showed great supernatural powers and preached the deep and subtle Dharma for various heavenly and human beings at this place for seven days.
Trong rừng trúc này, gần đây có cư sĩ Xà-da-tê-na, thuộc dòng dõi sát-đế-lợi ở miền Tây Ấn, ý hướng luôn chuộng sự thanh bạch giản dị, lòng vui với chốn núi sâu rừng vắng, thân dù sống giữa đời giả tạm nhưng tâm trụ yên trong lẽ chân thật, đối với những kinh sách nội điển, ngoại điển đều nghiên cứu đến mức tinh tế, cùng cực. Ông nói ra những lời thanh cao, hình dung cử chỉ nhẹ nhàng thanh nhã. Các vị sa-môn, bà-la-môn, ngoại đạo, quốc vương, đại thần, trưởng giả, những người giàu có thường tranh nhau tìm đến trò chuyện cùng ông, cũng là để học hỏi, thỉnh cầu sự chỉ dạy của ông. [Ở vùng này,] trong mười nhà thì đã có đến sáu nhà cho con theo học với ông.
In Yasd Wood there was recently an upasaka named Jayasena (known as Shengjun, “Victorious Army,” in Chinese), a man of the ksatriya caste of West India. He preferred to live a plain and simple life in the mountains and forests, and while he stayed in the world of illusion his mind dwelled in the state of reality. He was learned in the subtle meanings of both Buddhist and heretical texts, eloquent in discussion and perspicuous in thinking. Various sramanas, brahmans, heretical and heterodox scholars, kings, ministers, elders, and wealthy and powerfid people approached him to seek his instructions with full conviction. His disciples could be found in six families out of ten.
Đến năm gần 70 tuổi, ông vẫn ham mê đọc sách không mệt mỏi, nhưng bao nhiêu nội dung khác đều từ bỏ, chỉ còn chuyên chú vào kinh Phật. Ông luôn tự sách tấn mình, thân tâm đều nỗ lực, ngày đêm không ngơi nghỉ.
When he was nearly seventy years old he still devoted himself to arduous study without fatigue. He gave up all other subjects of learning and engaged himself solely in the study of Buddhist scriptures, exerting himself mentally and physically day and night.
Ông theo đúng cách thức của Ấn Độ, dùng bột trầm hương nhồi với nước thành bùn nhão rồi đắp thành những tháp nhỏ cao khoảng 15-20 cm, sao chép kinh văn rồi đặt vào trong tháp, gọi là xá-lợi Pháp. [Những tháp nhỏ này] ngày càng nhiều, ông liền xây dựng một ngọn tháp lớn, mang đặt tất cả [các tháp nhỏ] vào trong đó, thường xuyên chăm sóc cúng dường. Cho nên, nói về hành nghiệp của cư sĩ Thắng Quân thì miệng thuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, dẫn dắt người học, tay thì xây dựng tháp báu, theo đúng cách thức vun bồi phước nghiệp thù thắng, ban đêm lại còn kinh hành, lễ bái đọc tụng, ngồi thiền tư duy, cho đến không đủ thời gian dành cho việc ăn uống ngủ nghỉ, cả ngày lẫn đêm đều không biếng trễ.
In India it is the custom to make miniature stupas, five or six inches high, out of scented clay. Copies of scriptures are put inside these stupas, which are known as Dharma relics. When a large number of such stupas has been accumulated a great stupa is constructed to contain them all for perpetual veneration. Whenever Jayasena was teaching his disciples, as he orally inculcated them with the wonderful Dharma his hands were busy making small stupas in order to accumulate supreme bliss. At night he walked to and fro, or worshiped and recited scriptures, or sat in quiet meditation, taking no time to sleep or eat, and he never relaxed in the daytime or at night.
Đến năm ông 100 tuổi mà ý chí việc làm vẫn chưa suy giảm. Trong 30 năm, ông làm được 700.000 ngọn tháp xá-lợi Pháp, cứ đủ 100.000 thì lại xây một tháp lớn rồi đặt [các tháp] xá-lợi Pháp vào trong đó để cúng dường chu đáo, thỉnh chư tăng đến làm pháp hội để xưng dương, tán thán, bày tỏ sự vui mừng. Những lúc ấy thường có hào quang chiếu sáng, linh ứng khác thường, điềm lành sáng rõ. Rồi từ đó về sau, thỉnh thoảng [trong tháp] cũng thường có hào quang tỏa sáng.
Even when he was a hundred years old he did not lessen his effort, and over a period of thirty years he made seven kotis of Dharma relic stupas. Each time he completed one koti of stupas he constructed a great stupa to contain all the small 920b ones for people to make offerings to, and monks were invited to celebrate religious functions. On each occasion a divine light shone brightly, an apparent spiritual manifestation, and after that a light was emitted from time to time.
Từ rừng trúc đi về hướng tây nam hơn 3.2 km thì gặp một ngọn núi lớn. Phía nam của núi có hai suối nước nóng, nước rất nóng. Ngày xưa, đức Như Lai đã biến hóa ra dòng nước này rồi tắm trong đó. Cho đến nay dòng nước vẫn còn, nước chảy trong vắt không hề vơi cạn. Người người xa gần đều đến đây để tắm gội. Những người mắc bệnh trầm kha lâu ngày, tắm nước ở đây rồi đa phần đều được thuyên giảm. Bên cạnh đó có một ngọn tháp, là nơi đức Như Lai đi kinh hành.
More than ten li to the southwest of Yasfi Wood there are two hot springs to the south of a great mountain. The water is very hot and after the Buddha had caused these springs he bathed in them. They are still in existence and the flow of clear water has never diminished. People come here from far and near to bathe and the springs may effect a cure for those who suffer from chronic illness. Beside the springs is a stupa built at a place where the Tathagata walked up and down.
Từ rừng trúc đi về hướng đông nam khoảng 1.5-2 km thì đến một ngọn núi lớn. Phía trước con đường chạy ngang có một ngọn tháp, là nơi ngày xưa đức Như Lai đã vì chư thiên và loài người mà thuyết pháp trong ba tháng an cư. Lúc ấy vua Tần-bì-sa-la muốn đến nghe Pháp nên cho mở đường bằng cách dọn sạch rồi xếp đá làm bậc thang leo lên. Đường rộng hơn 33 mét, chiều dài khoảng 1-1.5 km.
Going southeast for six or seven li from Yasfi Wood, I reached a great mountain. In front of a ridge of the mountain there is a stone stupa. In the past the Tathagata once preached the Dharma at this place for the three months of the rains retreat. At that time King Bimbisara wished to come to listen to the Dharma, so a passageway through the mountain, with stone steps more than twenty paces wide and three or four li in length, was built to the site.
Từ ngọn núi lớn này đi về hướng bắc khoảng 1-1.5 km có một ngọn núi đứng đơn độc. Thuở xưa, vị tiên Quảng Bác (Vyasa) sống ẩn dật nơi đây, đục vách núi làm nhà, dấu tích vẫn còn. Những gì ngài truyền dạy cho học trò vẫn còn được lưu truyền mãi cho đến nay.
Three or four li to the north of the great mountain is an isolated hill where the hermit Vyasa once dwelled. The cave he excavated in the rock is still in existence. He imparted his teachings to his disciples and the system of his learning is still prevalent.
Từ ngọn núi đơn độc này đi về hướng đông bắc khoảng 1-1.5 km có một núi nhỏ cũng đứng lẻ loi, vách núi tạo thành hang động rộng lớn có thể đủ chỗ cho hơn ngàn người ngồi. Ngày xưa, đức Như Lai đã thuyết pháp tại đây trong ba tháng. Phía trên hang đá có tảng đá lớn bằng phẳng, là nơi Đế Thích, Phạm Vương mài chiên-đàn Ngưu Đầu thành bột để tô phết lên thân Phật. Mùi hương thơm còn lại trên đá đến nay vẫn ngào ngạt. Ở góc tây nam của hang đá lớn này có một cái động, người Ấn Độ gọi là cung điện của loài a-tố-lạc.
Four or five li to the northeast of this isolated hill is a smaller isolated hill. The size of the cave excavated in the rock of the hill is large enough to provide seats for over one thousand people. In the past the Tathagata once preached the Dharma at this place for three months. Above the cave is a big rock on which Indra and Brahma ground oxhead sandalwood to rub the powder on the Buddha’s body. The fragrance lingering on the rock is still very strong. 
At the southwest corner of the cave there is a grotto known in India as Asura’s Palace.
Trước đây có một người bẩm tính tò mò, rất giỏi chú thuật. [Một hôm, ông] rủ một số người cùng tính khí, cả bọn 14 người cùng đi vào trong động này. Đi được chừng 11-13 km thì bỗng nhiên chung quanh rực sáng, rồi nhìn thấy thành ấp lầu gác, tất cả đều bằng vàng, bạc, lưu ly. Những người này vừa đến liền có các thiếu nữ đứng chờ sẵn bên cổng vào, hân hoan chào đón, hết sức nghiêm trang kính trọng. Khi đi tiếp đến cửa vào nội thành thì gặp hai cô tỳ nữ, mỗi người bưng một cái mâm bằng vàng chứa đầy hương hoa bước đến đón lại, bảo rằng: “Quý vị nên xuống hồ để tắm, rồi thoa phết hương thơm, đội mũ kết hoa, sau đó hãy vào trong thành, như vậy mới thật là tốt đẹp. Riêng vị giỏi chú thuật kia thì có thể nhanh chóng đi vào ngay.”
A mischievous man, skillful in the art of sorcery, once invited [thirteen] close friends who shared the same interests, and the group of fourteen went together into the grotto. After going for thirty or forty li they came out into an open, bright place and saw city walls, terraces, and pavilions all made of gold, silver, and lapis lazuli. When they approached the city some young maidens standing by the city gate pleasntly and cordially welcomed them. Then they proceeded and eventually arrived at the inner city, where two maidservants, standing by the gate, each holding a golden tray full of flowers and incense, greeted them and said, “You must bathe yourselves in the pool, rub your bodies with incense, and put on garlands before you can be admitted in the proper manner. The sorcerer may go in right away, however.”
Mười ba người còn lại liền xuống hồ tắm gội. Nhưng khi vừa xuống hồ thì bỗng dưng đầu óc hoang mang mơ hồ như thoạt có thoạt không, rồi chợt nhận ra mình đang ngồi giữa ruộng lúa, nằm về phía bắc của núi này, cách xa khoảng 11-13 km.
The thirteen friends went to bathe but as soon as they entered the bathing pool they forgot everything and found themselves sitting in a paddy field on a plain thirty or forty li to the north of the grotto.
Bên cạnh hang đá lớn có con đường vượt núi rộng khoảng 17 mét, dài khoảng 1-1.5 km. Ngày xưa, vua Tần-tỳ-sa-la muốn đến chỗ Phật nên cho phá núi thông đường, chẻ vách đá, lấp khe sâu, hoặc xếp đá, hoặc đục vách núi, làm thành bậc thang để đi đến nơi Phật ngự.
Beside the grotto there is a viaduct more than ten paces wide and four or five li in length. In the past, when King Bimbisara was about to go to the place of the Buddha, rocks were cleared from the valley, precipices were leveled to dredge the stream, and stones were piled up and cliffs excavated to make steps leading to the place of the Buddha.
Từ giữa ngọn núi này đi về hướng đông khoảng hơn 20 km thì đến thành Củ-xa-yết-la-bổ-la, dịch nghĩa là cung thành Thượng Mao, nằm ngay giữa nước Ma-yết-đà, là cố đô của các đời vua trước. Nơi đây sản xuất rất nhiều cỏ cát tường thơm nên gọi tên là Thượng Mao. Thành có núi cao vây quanh bốn phía, xem như thành quách bảo vệ vòng ngoài. Phía tây có đường nhỏ thông ra bên ngoài. Phía bắc có đường xuyên núi làm cửa ra. Chiều đông tây dài, chiều nam bắc hẹp, chu vi khoảng 50 km. Dấu tích hiện còn của khu vực nội thành có chu vi hơn 10 km. Hai bên những con đường hẹp mọc đầy cây yết-ni-ca (karnikara), hoa có hương thơm ngào ngạt, màu vàng sáng như vàng ròng, vào tháng cuối mùa xuân [hoa nở rộ] vàng rực cả núi rừng.
From this great mountain going east for more than sixty li, I reached the city of Kusagrapura (known as Shangmaogongcheng, “Superior Reed Palace City,” in Chinese). Kusagrapura, in the center of the country of Magadha, was the capital of previous kings in ancient times. It is so called because it abounds in superior and lucky fragrant reeds. The surrounding hills serve as its outer walls, with a narrow path leading to the west and a passage opening to the north. It is long from east to west, narrow from south to north, and more than one hundred fifty li in circuit. Karnikara (mayeng) trees grow everywhere on the mountain paths. The flowers have a special fragrance and are golden in color. Late in spring the whole wood becomes golden-colored.
Ngoài cửa thành phía bắc có một ngọn tháp, là nơi Đề-bà-đạt-đa cùng vua Vị Sinh Oán, vốn đã kết thành bạn hữu, [đồng mưu] thả con voi say Hộ Tài ra với muốn làm hại Phật. Khi ấy, đức Như Lai [đưa tay chỉ], 5 đầu ngón tay liền hóa ra năm con sư tử, con voi say thấy vậy [sợ quá] liền nằm phục xuống trước mặt Phật.
Outside the north gate of the palace city is a stupa built at the place where Devadatta, who was on intimate terms with Ajatasatru, loosed the intoxicated elephant Dhanapala in an attempt to hurt the Tathagata. The Tathagata produced five lions from the tips of [his] five fingers to tame the drunken elephant before going on his way.
Từ chỗ [đức Phật] hàng phục con voi say nhìn về hướng đông bắc có một ngọn tháp, là nơi ngài Xá-lợi tử nghe tỳ-kheo A-thấp-bà-thị thuyết pháp được chứng quả.
To the northeast of the place where the drunken elephant was subdued was the spot where Sariputra attained sainthood on hearing the Dharma preached by Asvajit (known as Masheng, “Victorious Horse,” in Chinese) Bhiksu.
Ban sơ, khi ngài Xá-lợi tử còn chưa xuất gia, tài cao học rộng, được người đương thời kính trọng, có nhiều học trò theo học, được ngài truyền dạy. Một hôm, ngài sắp sửa vào thành lớn Vương Xá thì gặp lúc tỳ-kheo Mã Thắng cũng đang đi khất thực. Ngài Xá-lợi tử từ xa trông thấy ngài Mã Thắng liền bảo với các học trò rằng: “Người đang đi đến kia nhìn [dáng vẻ] rất uy nghi mẫu mực, nếu không chứng quả thánh làm sao có được [phong cách] từ hòa tịch tĩnh như vậy? Chúng ta nên dừng đợi một chút để xem vị ấy đi đến đâu.”
When Sariputra was a layman he was well known for his high talents and broadmindedness, and he had disciples and pupils studying under his instruction. He was once going to the great city of Rajagrha when Asvajit Bhiksu was on almsround. Seeing Asvajit from a distance, Sariputra said to his disciples, “That man over there looks very graceful and refined in deportment. He could not be so calm and quiet in demeanor unless he has attained sainthood. Let us wait here a moment and see where he is going.”
Tỳ-kheo Mã Thắng đã chứng quả A-la-hán, tâm được tự tại, hình dung cử chỉ từ hòa thanh nhã, chống tích trượng uy nghi đi đến. Ngài Xá-lợi tử thưa hỏi: “Xin hỏi trưởng lão có được khỏe không? Không biết thầy của ngài là ai, ngài chứng được pháp gì, mà có được sự an vui như thế?”
Being an arhat, Asvajit Bhiksu was free from mental defilements and carried himself in a gentle and peaceful manner, holding a religious staff in hand. Sariputra said to him, “Elder Sir, are you living in good health and happiness? Who is your teacher and what Dharma have you realized that you look so happy and contented?”
Ngài Mã Thắng đáp rằng: “Ông thật không biết sao? Thái tử con Vua Tịnh Phạn, từ bỏ ngôi vị Chuyển Luân Thánh Vương, khởi tâm từ bi thương xót [chúng sinh] trong sáu đường, khổ hạnh sáu năm, sau đó tu chứng thành Chánh Giác, đầy đủ tất cả trí tuệ, chính là bậc thầy của ta. [Ngài dạy rằng] các pháp vốn chẳng phải có, chẳng phải không, khó có thể dùng lời nói để truyền đạt, chỉ giữa Phật với Phật mới có thể nói ra đến chỗ rốt ráo, lẽ nào người ngu muội [như ta đây] lại có thể trình bày cặn kẽ được sao?”
Asvajit said, “Do you not know that the prince of King Suddhodana relinquished his position as a wheel-turning monarch and, out of pity for all beings in the six paths of transmigration, he practiced austerities for six years and attained perfect enlightenment and now possesses all-knowing wisdom? He is my teacher. As regards the Dharma, it is neither real nor empty and it is difficult to give a systematic exposition of it. It can be fully explained only by the buddhas. How could I, an ignorant person, discuss the matter in detail?”
Nhân đó, [ngài Mã Thắng liền] đọc một bài tụng, rồi xưng tán Giáo pháp của Phật. Ngài Xá-lợi tử nghe xong liền được chứng quả.
921a Asvajit then uttered a stanza in praise of the buddha-dharma and Sariputra attained sainthood on hearing the stanza.
Từ nơi ngài Xá-lợi tử chứng quả nhìn về phía bắc không xa lắm có một hầm lớn rất sâu, bên cạnh có xây một ngọn tháp, là nơi Thất-lợi-cúc-đa (Thắng Mật) muốn dùng hầm lửa và cơm có thuốc độc để làm hại Phật.
Not far to the north of the place where Sariputra attained sainthood there is a large, deep pit beside which a stupa has been built. This was the place where Srigupta (known as Shengmi, “Auspicious Secrecy,” in Chinese) attempted to kill the Buddha in a fire pit and with poisoned rice.
Thắng Mật là người tôn sùng ngoại đạo, bám chấp rất nặng nề các tà kiến, [nghe lời] các Phạm chí chỉ dạy rằng: “Kiều-đáp-ma được người trong cả nước tôn kính, khiến cho bọn chúng ta không còn chỗ nương dựa, nay ngươi hãy mời ông ấy đến nhà để dùng cơm, rồi cho đào một cái hầm lớn, trong đó đốt lửa, dùng gỗ mục gác qua rồi phủ kín đất khô trên mặt [để không thể nhận ra]. Tất cả thức ăn, nước uống đều cho thuốc độc vào. Nếu như [ông ấy] thoát được hầm lửa thì cũng sẽ ăn nhằm thuốc độc.”
Srigupta had faith in the heretics and held fast to erroneous views. Some brahmans said to him, “Gautama is respected by the people of the country so we have lost our supporters. Invite him to a meal at your home. At the gate of your house dig a big pit, light a fire in it, then cover the pit with some rotten timber and camouflage it with dry earth. Poison should be put into all food and drink you serve him. Even if he escapes the fire pit he will be poisoned to death.”
Thắng Mật vâng lời, liền chuẩn bị bữa ăn có thuốc độc [rồi mời Phật đến]. Người trong thành đều biết Thắng Mật khởi tâm độc ác muốn hại Thế Tôn nên ai cũng can ngăn, xin Phật đừng đến đó. Đức Thế Tôn nói: “Đừng ôm lòng lo lắng, thân Như Lai không gì có thể làm hại được.”
Following this suggestion, Srigupta prepared a meal and poisoned the food. All the people in the city knew that Sngupta plotted against the World-honored One with an evil intention, and they all exhorted the Buddha not to go [to his house] for the meal. The World-honored One told them, “Do not worry! Nothing can harm the body of a tathagata.”
Ngài liền nhận lời thỉnh mà đến. Khi [Như Lai] vừa đặt chân đến ngoài ngõ thì hầm lửa kia biến thành hồ nước trong veo, mặt nước sáng như gương, mọc đầy hoa sen. Thắng Mật nhìn thấy như vậy thì lo lắng nhưng không biết làm sao, nói với đồng bọn rằng: “[Ông ấy] có pháp thuật thoát được hầm lửa nhưng chúng ta vẫn còn thức ăn có độc.”
He accepted the invitation and went, and as soon as his foot touched the doorsill the fire pit turned into a pool full of lotus flowers growing out of clear, lucid water. Srigupta was panic-stricken at this but said to his disciples, “Even if the Buddha has escaped the fire pit through magical power there is still poisoned food for him.”
Đức Thế Tôn ăn xong [vẫn thản nhiên không hề trúng độc], liền vì Thắng Mật thuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu. Thắng Mật nghe xong sám hối tạ lỗi rồi xin được quy y.
After the World-honored One had taken the meal he preached the wonderfill Dharma and, on hearing the Dharma, Srigupta apologized for his misdeeds and took refuge in the Buddha.
Từ chỗ Thắng Mật đào hầm lửa, về phía đông bắc, ở chỗ khúc quanh của dãy núi bao bọc như tường thành, có một ngọn tháp, là nơi vị danh y Phược-ca vì Phật mà xây dựng một giảng đường để Phật thuyết pháp, có tường bao quanh, bên trong trồng nhiều hoa quả. Dấu tích nền móng cùng những chồi cây mọc lên từ gốc cũ hiện vẫn còn thấy được. Khi đức Như Lai còn tại thế có nhiều lần dừng nghỉ nơi đây. Bên cạnh đó là nhà cũ của ông Phược-ca, nay vẫn còn thấy được di tích chỗ nhô lên của nền nhà và chỗ lõm xuống của một cái giếng.
At a bend of the mountain city to the northeast of Srigupta’s fire pit is a stupa where the great physician Jivaka (wrongly transliterated as Qipo in Chinese) built a preaching hall for the Buddha. Flowers and fruit trees were planted at the open spaces around the building, and remains of the structure and new sprouts from the old plants can still be seen. When the Tathagata was living in the world he stayed mostly in this hall. Beside it is the site of Jivaka’s private residence; the remnant foundations and an old well still exist in ruins.
Từ thành này đi về hướng đông bắc khoảng 4.6-4.9 km thì đến núi Cật-lật-đà-la-củ-trá, nằm tiếp theo mặt nam của ngọn núi phía bắc, một ngọn duy nhất vút cao lên, có rất nhiều chim thứu tụ tập làm tổ, hình dáng lại rất giống như một cái đài cao phản chiếu lên bầu trời xanh, cùng với sắc núi xanh hòa lẫn, chỉ thấy phân chia hai màu đậm nhạt.
Going northeast for fourteen or fifteen li from the palace city, I reached Gridhrakuta Mountain (known in China as “Vulture Peak” or “[Vulture] Terrace,” formerly mistranscribed as Qishejue Mountain). It links with the south side of North Mountain, protruding all alone to a great height, where vultures perch; it also resembles a high terrace. The verdant mountain presents a distinct color in contrast with the sky.
Đức Như Lai trong gần 50 năm trụ thế phần nhiều ở núi này, rộng thuyết các giáo pháp nhiệm mầu. Vua Tần-tỳ-sa-la vì muốn nghe Pháp nên đã huy động nhân công, từ chân núi lên đến đỉnh núi, vượt khe sâu, băng dốc đứng, xếp đá làm đường bậc thang rộng hơn 17 mét, dài khoảng 1.5-1.9 km. Trên đường này có hai ngọn tháp nhỏ, một gọi là tháp Hạ Thừa, tức là nơi vua xuống xa giá để bắt đầu đi bộ lên, và một gọi là tháp Thối Phàm, tức là nơi vua không cho phép những người phàm tục tầm thường tiếp tục cùng đi.
During the fifty years of his missionary career the Tathagata stayed on this mountain on many occasions to preach the wonderful Dharma.
In order to hear the Buddha’s preaching, King Bimbisara sent men to build a road leading from the foot of the mountain to the summit, more than ten paces wide and five or six li in length, across valleys and over rocks, with stones piled up into steps. There are two small stupas on the way. One is known as the place of alighting, where the king [dismounted from his carriage] to walk on foot, proceeding on his way; the other stupa is the place of where ordinary people were barred from going farther [with the king].
Vùng đất trên đỉnh núi có chiều đông tây dài, chiều nam bắc hẹp. Nằm ven sườn núi phía tây có một tinh xá xây bằng gạch nung, kiến trúc cao rộng, kỳ vĩ, cửa mở về hướng đông. Đức Như Lai nhiều lần ở nơi đây thuyết pháp, ngày nay có tạc một tượng Phật [tư thế đang] thuyết pháp, kích thước bằng như người thật.
The summit is oblong from east to west and narrow from south to north. On the brink of the west side of the precipice is a brick shrine, high and spacious, built in a marvelous style, with its door opening to the east. The Tathagata preached the Dharma at this place many times. There is now a life-size statue of the Tathagata in the posture of delivering a sermon.
Phía đông tinh xá có một tảng đá dài, là nơi đức Như Lai kinh hành trên đó. Bên cạnh đó lại có một tảng đá lớn, cao khoảng 4.5-5 mét, chu vi hơn 50 mét, là nơi Đề-bà-đạt-đa xô đá hại Phật. Phía dưới sườn núi phía nam có một ngọn tháp, là nơi ngày xưa đức Như Lai giảng kinh Pháp Hoa.
To the east of the shrine is an oblong stone on which the Tathagata walked to and fro. Beside it is a great rock, fourteen or fifteen feet high and more than thirty paces in circumference. This was the place where Devadatta hurled a stone from a distance to strike the Buddha. To the south and below the cliff was the place where the Tathagata preached the Saddharmapundarika-siitra in olden times.
Phía nam tinh xá, kề bên vách núi có một thạch thất lớn, là nơi ngày xưa Như Lai từng nhập định. Phía tây bắc của thạch thất này lại có một thạch thất khác, phía trước có một tảng đá lớn bằng phẳng, là nơi tôn giả A-nan bị ma khủng bố.
To the south of the shrine and beside a steep rock is a cave where the Tathagata sat in meditation in days of yore. To the northwest of the Buddha’s cave there is another cave, in front of which is a huge rock where Ananda was frightened by Mara.
[Thuở xưa,] tôn giả A-nan nhập định nơi này, Ma vương hóa ra con chim thứu, cứ sau ngày 15 mỗi tháng, vào lúc quá nửa đêm thì đậu trên tảng đá lớn, đập cánh kêu to để khủng bố tôn giả. Bấy giờ, tôn giả A-nan kinh sợ không biết phải làm sao, đức Như Lai [từ xa] thấy biết, duỗi cánh tay đưa ra an ủi, xuyên qua vách đá, xoa đầu ngài A-nan, dùng lời lẽ đại từ bảo rằng: “Chỉ là do ma biến hóa, không nên sợ hãi.”
Once when Venerable Ananda was sitting in meditation at this place, Mara transformed himself into a vulture and occupied the huge rock one night in the black half of the month, flapping his wings violently and shrieking terrifically to frighten Ananda. The venerable monk was alarmed and terror-stricken. The Tathagata, seeing him in trouble, stretched out a comforting hand through the stone wall of the cave, stroked Ananda’s head, and said to him with great compassion, “It is merely a phantom of Mara. Do not be frightened!”
Ngài A-nan được Phật an ủi, thân tâm liền an lạc. Trên tảng đá có dấu chân chim thứu và trên vách đá có một lỗ thông [nơi đức Phật đưa tay xuyên qua], tuy thời gian trải qua đã lâu nhưng đến nay vẫn còn.
Reassured, Ananda felt at ease and happy both physically and mentally. The traces left by the bird on the rock and the hole made in the stone wall in the cave still exist despite the long passage of time.
Kế bên tinh xá có một số thạch thất, là nơi các vị đại A-la-hán như ngài Xá-lợi tử nhập định. Phía trước các thạch thất này có một cái giếng lớn, đã khô cạn nhưng dấu tích vẫn còn.
Beside the shrine there are several caves in which Sariputra and other great arhats practiced meditation. In front of Sariputra’s cave is a big well; it is now dried up but the mouth of the well still exists in the ruins.
Phía đông bắc tinh xá, nằm giữa khe suối có một tảng đá lớn bằng phẳng, là nơi đức Như Lai phơi áo cà-sa, những nếp hằn [của cà-sa trên đá] vẫn còn rất rõ rệt như được khắc vào. Bên cạnh tảng đá có dấu chân của Phật, những nét luân tướng tuy đã mờ nhưng hình dáng kích thước vẫn còn thấy được.
A huge flat rock in the stony gully to the northeast of the shrine is the place where the Tathagata dried his kasaya. The stripes of the robe left on the rock are as distinct as if they were carved on it. Beside the rock are the footprints of the Buddha. Although the traces are obscure their size and shape are still discernible.
Phía bắc đỉnh núi có một ngọn tháp, là nơi đức Như Lai nhìn về thành Ma-yết-đà, cũng là nơi ngài đã thuyết pháp trong bảy ngày.
On top of North Mountain is a stupa at the place where the Tathagata gazed at the city of Magadha and preached the Dharma for seven days.
Từ cửa ra phía bắc của dãy núi bao bọc như tường thành, nhìn về hướng tây có núi Tỳ-bố-la. Theo truyền thuyết dân gian ở đây thì nơi phía bắc của sườn núi bên hướng tây nam của núi này, ngày xưa có 500 con suối nước nóng, bây giờ chỉ còn lại khoảng mấy chục suối mà thôi, hơn nữa lại có nóng có lạnh, không phải đều nóng cả. Những suối này phát nguyên từ hồ Vô Nhiệt Não ở phía nam Tuyết sơn, chảy ngầm dưới lòng đất cho đến núi này, nước suối rất trong và ngon ngọt, mùi vị vẫn giống như nước hồ trên nguồn. [Các dòng suối ngầm này] đã chảy qua hơn 500 nhánh tiểu địa ngục nhiệt. Lửa trong các nhánh địa ngục này vẫn còn rất nóng nên làm cho nước suối nóng. Nơi miệng suối chảy ra đều được khắc đá tạo hình, chẳng hạn như hình đầu sư tử hoặc đầu bạch tượng, hoặc tạo hình những ống dẫn nước bằng đá bên trên, phía dưới lại xây đá thành hồ chứa nước. Nhiều người từ các nước phương xa cũng đến đây để tắm, khi tắm xong thì bao nhiêu bệnh tật đa phần đều được khỏi.
To the west of the north gate of the mountain city is Vipula Hill. I heard the local people say that on the north side of the cliff, southwest of the hill, there used to be five hundred hot springs but now there are only a few score, Not all of them are hot springs, as some are cold and others are warm. The source of these springs is Anavatapta Lake to the south of the Snow Mountains; the water flows underground to this place. It is nice and clear and tastes the same as the water in its lake of origin. The water flows out in five hundred streams through the small hot hells, and as the fire of the hells rises up it makes the water of the springs lukewarm. All the mouths of the springs have stone carvings in the shapes of the heads of lions or white elephants; aqueducts lead the water below into tanks made of slabs of stone. People come from various places in different regions to bathe in the tanks and they can often wash away their old maladies.
Hai bên khu vực suối nước nóng này có rất nhiều tháp và tinh xá, nay chỉ còn lại nền móng di tích, nằm san sát bên nhau, thảy đều là dấu tích những nơi bốn vị Phật quá khứ từng kinh hành và ngồi thiền. Nơi đây sơn thủy hữu tình, chẳng những là chốn nương thân của những bậc nhân ái trí tuệ, mà bao người muốn ẩn dật cũng đều quy tụ về đây rất nhiều.
On both the right and the left sides of the hot springs stupas and shrines were built with their foundations laid as closely together as the scales of a fish, and all of these are sites where the four past buddhas sat and walked up and down in ancient times. This place of mountains and streams is an ideal hermitage for wise and benevolent people to take up their abodes and there must be many recluses living in seclusion in this locality.
Phía tây khu vực suối nước nóng có động Ti-bát-la, là nơi ngày xưa đức Thế Tôn từng lưu trú. Phía vách sau có một hang sâu, [tương truyền] là cung điện [của loài] a-tố-lạc.
To the west of the hot springs is Pippala Cave, in which the World-honored One always made his abode. The cavern behind the back wall of the cave is Asura’s Palace.
Có rất nhiều vị tỳ-kheo tu tập thiền định đến ở trong động này, thỉnh thoảng nhìn thấy những hình ảnh quái dị như rồng, rắn hoặc sư tử, khiến người nhìn thấy sinh tâm cuồng loạn. Nhưng vì nơi đây là vùng đất thù thắng, các bậc thánh từng lưu trú rất nhiều, nên người ta vẫn ngưỡng mộ đạo phong [của người xưa] mà tìm đến, bất kể những mối nguy hiểm kia.
Bhiksus who practiced meditation mostly resided in this cave. Strange phantoms in the shapes of dragons, snakes, and lions often appeared in this cave and those who saw them were driven insane. But because this is a well-known place where holy and spiritual people stayed, others, in admiration of their edification, braved the danger and came here one after another.
Gần đây có một vị tỳ-kheo giới hạnh tinh nghiêm, tâm thường vui thích với sự vắng lặng tịch tĩnh, nên muốn đến động này để tu tập thiền định. Có người can ngăn rằng: “Không nên đến đó, vì có nhiều điều tai họa quái dị, đã làm hại không ít người, chẳng những khó nhập định mà e rằng còn có thể mất mạng. Nên nhìn những việc [nguy hại] trước đây [mà cẩn thận], đừng để sau này phải hối hận.”
Recently a bhiksu who was pure in observing the disciplinary rules and took delight in lodging at quiet and peaceful places desired to live in this cave to practice meditation. Someone advised him, “Do not go to that cave—it is full of disasters and many people have been killed. It will be difficult for you to gain mental concentration there and you might even lose your life. Heed the warnings from previous accidents and not cause yourself regret in the future.”
Vị tỳ-kheo ấy nói: “Không phải vậy. Tôi có chí cầu Phật quả, hàng phục thiên ma. Những điều nguy hại như thế đâu có gì đáng nói?”
The bhiksu said, “No, it is not so. I am aiming my efforts at attaining buddhahood in order to sub jugate the heavenly Mara. What mischief could be worth mentioning?”
Nói rồi liền chống tích trượng đi đến động đá này, lập đàn tràng, trì tụng thần chú. Mười ngày sau, từ hang sâu [phía sau động] xuất hiện một thiếu nữ, bước đến nói với vị tỳ-kheo rằng: “Tôn giả đắp y hoại sắc, giữ giới hạnh thanh tịnh làm chỗ nương tựa cho muôn loài, tu tập định tuệ, mở con đường lành cho hết thảy sinh linh, mà nay đến cư trú ở nơi này, làm cho bọn chúng tôi phải kinh hoàng sợ hãi. [Nếu làm theo] lời dạy của đức Như Lai, há có thể như vậy được sao?”
He shook his pewter staff and went to the cave, where he prepared an altar and recited mantras. After ten days a young woman came out of the cavern and said to the bhiksu, “Venerable Sir, you wear the dyed robe [of a monk] and keep the disciplinary rules so that living beings may take refuge under you, and you cultivate wisdom and practice meditation to be a good guide for living creatures. But now you are staying here and we are frightened. Is this what the Tathagata has taught you to do?”
Vị tỳ-kheo đáp: “Ta giữ gìn giới hạnh thanh tịnh, vâng theo lời dạy của Như Lai nên ẩn mình vào nơi núi cao khe sâu, xa lìa chốn huyên náo tạp nhiễm. Sao bỗng dưng ngươi lại oán trách ta, rốt lại ta đã có lỗi gì?”
The bhiksu said, “I observe the pure rules in accordance with the Buddha’s holy teachings and live in seclusion in the mountains in order to avoid the hubbub and excitement of social life. What is wrong with my being here that causes you to accuse me?”
Cô gái nói: “Tôn giả trì tụng thần chú, âm thanh phát ra thì có lửa từ ngoài lùa vào, thiêu đốt nơi cư ngụ của chúng tôi, làm cho tôi và đồng loại phải khổ sở. Xin ngài mở lòng từ bi thương xót, đừng tụng chú nữa.”
The woman said, “When you utter mantras the sound of your voice causes a fire bum from the outside into my dwelling and causes trouble for my kinsfolk. Will you have pity on us and not repeat mantras any more?”
Vị tỳ-kheo nói: “Ta tụng chú là để tự bảo vệ, không hề muốn làm hại ai. Ngày trước, có những người tu hành đến đây tu tập thiền định, chỉ muốn cầu chứng quả thánh nhằm cứu độ sinh linh đau khổ, lại nhìn thấy bao điều quái dị khiến họ kinh sợ, [có người] mất cả thân mạng, đều là tội lỗi của các ngươi, việc ấy ngươi nói thế nào?”
The bhiksu said, “I recite mantras for self-protection, not to do harm to others. In the past when monks stayed here to practice meditation in the hope of gaining sainthood, so as to save those who were suffering in the dark path of transmigration, they were scared to death by the sight of your terriffying appearance. It was all your fault. What do you say to this?”
[Thiếu nữ] đáp rằng: “Là do chúng tôi tội chướng nặng nề, trí tuệ cạn cợt [nên đã sai lầm]. Từ nay về sau xin sống yên giữ phận, [chẳng còn dám quấy rối,] kính mong tôn giả đừng tụng chú nữa.”
The woman said in reply, “Heavy is my sin and shallow my wisdom. From now on I will live in seclusion and keep myself within bounds. But I also hope that you, Venerable Sir, will not repeat mantras.”
Vị tỳ-kheo [thôi tụng chú,] chỉ tu tập thiền định như trước, được bình an tĩnh lặng không có gì nguy hại.
So the bhiksu practiced meditation in peace and was not harmed.
Trên núi Tỳ-bố-la có một ngọn tháp, là nơi ngày xưa đức Như Lai từng thuyết pháp. Ngày nay có nhiều ngoại đạo lõa thể tụ tập về đây, tu tập khổ hạnh, ngày đêm không biếng trễ, từ sáng sớm họ chuyên chú nhìn theo [mặt trời] chuyển động [và xoay người theo như vậy] mãi cho đến tối.
On Vipula Mountain is a stupa where the Tathagata formerly preached the Dharma. Now many naked heretics stay at this place, practicing austerities 922a without negligence day and night, and from dawn to dusk they turn round to watch [the sun’s] movement.
Bên trái cửa ra phía bắc của dãy núi bao quanh như tường thành, bên mặt nam của sườn núi phía bắc, đi về hướng đông khoảng 1 km thì gặp một động đá lớn, là nơi ngày xưa Đề-bà-đạt-đa đã từng nhập định.
Going east for two or three li from the north side of the south cliff, on the left side of the north gate of the mountain city, I came to a great cave in which Devadatta sat in meditation in olden times.
Từ động đá này về phía đông không xa có một tảng đá bằng phẳng, trên đó có những đường vân loang lổ, hình dạng như vết máu, bên cạnh có xây lên một ngọn tháp, là nơi vị tỳ-kheo tu thiền định tự hại mình rồi được chứng quả thánh.
On a flat rock not far to the east of this cave there are traces resembling bloodstains. Beside it is a stupa built at the spot where a bhiksu who practiced meditation committed suicide and attained sainthood.
Xưa có vị tỳ-kheo chuyên cần nỗ lực cả thân tâm, ở yên tu tập thiền định, trải qua rất nhiều năm tháng vẫn không chứng được quả thánh, nhân đó tự trách mình liền than rằng: “Đời này không chứng được quả Vô học, mãi trói buộc bởi tấm thân này, thật uổng kiếp sinh ra nào có ích gì!” Liền đến nơi tảng đá này, tự [lấy dao nhọn] đâm vào cổ. Ngay lúc ấy ông liền chứng quả A-la-hán, cất mình bay lên hư không, thị hiện các phép thần biến, hóa lửa tự thiêu thân, nhập tịch diệt. [Người đời sau] ngợi khen chí khí mạnh mẽ cao thượng của ngài nên xây tháp này để ghi lại công đức.
This bhiksu exerted mental and physical effort in practicing meditation in seclusion but he failed to attain sainthood after long time had passed. He blamed himself and said regretfully, “I could not attain the perfect stage of sainthood with nothing more to learn in a timely way. What is the use of keeping this body of mine, which is really a burden to me?” So he came to this rock and cut his throat. At that very moment he realized arhatship, ascended into the air, performed miraculous transformations, produced a fire to cremate his body, and entered nirvana. This stupa was built in memory of his merits and to extol his sublime character.
Từ nơi vị tỳ-kheo chứng quả, nhìn về hướng đông, phía trên vách đá có một ngọn tháp xây bằng đá. Đây là nơi chứng quả của vị tỳ-kheo tu tập thiền định, tự đâm đầu xuống vách núi.
On the cliff to the east of the place where the bhiksu [committed suicide and] attained sainthood is a stone stupa at the spot where another bhiksu practiced meditation, threw himself down the cliff, and gained sainthood.
Vào thời đức Phật còn tại thế, có một vị tỳ-kheo, ngồi thiền lâu năm trong rừng núi, cầu chứng quả thánh, nhưng tinh tấn chuyên cần đã lâu vẫn không chứng quả. Vị ấy ngày đêm luôn giữ niệm tỉnh thức, không để mất sự định tĩnh. Đức Như Lai biết rõ căn cơ vị này đã sắp thuần thục nên đến nơi đây để giúp cho thành tựu. Từ tinh xá Trúc Lâm, đức Phật đi đến dưới chân núi này, khảy móng tay gọi vị tỳ-kheo ấy rồi đứng lại để chờ. Vị tỳ-kheo [từ trên vách núi cao] nhìn thấy Thánh chúng [đi theo Phật], thân tâm đều hoan hỷ phấn khích, từ trên cao buông mình nhảy xuống [chỗ Phật đứng]. Do tâm hoàn toàn thanh tịnh, cung kính tin tưởng lời Phật nên thân hình rơi xuống còn chưa chạm đất liền chứng quả thánh. Đức Thế Tôn bảo vị ấy: “Nên biết đã đến thời điểm thích hợp rồi.”
At the time of the Buddha there was once a bhiksu who sat in the woods and mountains, practicing meditation in order to achieve sainthood. He worked hard for a long time but could not realize his wish. Day and night he never forgot to fix his mind in tranquil meditation. Knowing that the fundamental ability of the bhiksu was about to be fully developed, the Tathagata went to render assistance to him. He came from the Bamboo Grove to the foot of the cliff, snapped his fingers to call the bhiksu, and stood there waiting for him. Seeing the holy monks from a distance, the bhiksu was encouraged and jumped down the cliff with delight. As his mind was pure and he had faith in the Buddha’s words, he gained sainthood before his body reached the ground. The World-honored One told him, “You should know it isn ow the time!”
Vị ấy liền lập tức bay lên hư không, thị hiện các phép thần thông biến hóa. [Người đời sau] muốn biểu dương lòng tin thanh tịnh [của ngài] nên xây dựng [ngọn tháp] này để ghi nhận.
The bhiksu then ascended into the air and showed divine manifestations. In order to exalt the bhiksu’s pure faith this stupa was built as a memorial.
Từ cửa ra phía bắc của dãy núi bao quanh như tường thành, đi khoảng 600 mét thì đến vườn trúc Ca-lan-đà, ngày nay có một tinh xá, xây bằng gạch trên nền móng bằng đá, cửa mở về hướng đông. Khi đức Như Lai còn tại thế, thời gian cư ngụ ở nơi này rất nhiều, thuyết pháp giáo hóa chúng sanh, dẫn dắt người phàm kẻ tục. Ngày nay, nơi đây có một tượng toàn thân Như Lai.
Going out of the north gate of the mountain city for about one li, I reached Kalandaka Bamboo Garden, in which there is now a temple, a brick chamber built on stone bases with a door opening to the east. When the Tathagata was living in the world he spent much time in this temple, preaching the Dharma for the edification and guidance of the common people and converting the secular folk. There is a life-size image of the Tathagata of recent origin.
Thuở xưa, trong thành này có trưởng giả Ca-lan-đà (Kalandaka), nổi tiếng là gia đình giàu có tôn quý, từng mang cả khu vườn trúc rộng lớn dâng cúng cho ngoại đạo. Đến khi được nghe đức Như Lai thuyết pháp liền phát khởi lòng tin thanh tịnh, thấy hối tiếc vì đã dâng cúng vườn trúc cho ngoại đạo kia, để bây giờ đấng Thiên Nhân Sư không có chỗ cư ngụ.
At the beginning there was an eminent elder named Kalandaka, well known for his nobility and enormous wealth. He presented this great Bamboo Garden to the heretics but after he saw the Tathagata and heard the Dharma with pure faith, he regretted that he had given his garden as a lodging for the heterodox believers and now did not have a place to house the Teacher of Human and Heavenly Beings.
Lúc bấy giờ, quỷ thần cảm động vì tâm thành của trưởng giả Ca-lan-đà liền [hiện ra] xô đuổi bọn ngoại đạo, bảo họ rằng: “Trưởng giả Ca-lan-đà sẽ xây dựng tinh xá nơi vườn trúc này [để dâng cúng] đức Phật, các ngươi nên nhanh chóng rời khỏi nơi đây, nếu không sẽ gặp tai ách nguy hiểm.” Ngoại đạo phẫn nộ, ôm hận mà đi.
At that time various gods and spirits, moved by the elder’s sincerity, expelled the heretics and told them, “Elder Kalandaka wishes to build a temple for the Buddha in Bamboo Garden. You should quickly go away so as to avoid mishap and disaster.” The heretics left the garden in anger and resentment.
Trưởng giả liền xây dựng tinh xá nơi đây. Sau khi hoàn tất, ông đích thân đến thỉnh Phật. Đức Như Lai lúc bấy giờ liền chấp nhận sự cúng dường này.
The elder built a temple in the garden and when the construction was completed he went in person to invite the Buddha, who then accepted the gift.
Phía đông vườn trúc Ca-lan-đà có một ngọn tháp, do vua A-xà-đa-thiết-đốt-lộ xây dựng. Sau khi đức Như Lai nhập Niết-bàn, vua các nước cùng phân chia xá-lợi, vua Vị Sinh Oán nhận được phần của mình liền mang về đây, theo đúng phép tắc xây dựng tháp để cung kính để cúng dường. [Về sau,] khi vua Vô Ưu phát khởi tín tâm, liền cho mở [tháp này] ra lấy xá-lợi xây tháp khác để thờ, nhưng vẫn còn để lại một ít, thỉnh thoảng thường có hào quang tỏa ra chiếu sáng.
To the east of Kalandaka Bamboo Garden is a stupa built by King Ajata- satru (known in Chinese as Weishengyuan, “Enemy Before Birth,” formerly abridged wrongly as Asheshi). After the Tathagata’s nirvana the various kings shared his relic bones and King Ajatasatru obtained his portion, for which he built this stupa with veneration to make offerings to the relics. Later, after King Asoka had faith in the buddha-dharma, he opened this stupa and took out the relics for building more stupas. There are still some remnant relics in the stupa, which often emits a bright light.
Ngọn tháp của vua Vị Sinh Oán [xây dựng] có thờ xá-lợi bán thân của tôn giả A-nan.
In another stupa beside the one built by Ajatasatru are entombed the relics of Venerable Ananda’s half-body.
Ngày xưa, khi tôn giả sắp tịch diệt, rời nước Ma-yết-đà đi đến thành Phệ-xá-ly. Cả hai nước đều muốn dùng binh lực để giao tranh với nhau [để giành xá-lợi]. Tôn giả khởi lòng bi mẫn, thương xót, [muốn tránh cuộc binh đao] nên đã tự phân thân [từ giữa dòng sông cho xá-lợi chia đều về hai bên]. Vua nước Ma-yết-đà được xá-lợi cung kính mang về để cúng dường, liền chọn vùng đất thù thắng nơi đây, theo đúng phép tắc xây dựng tháp để kính thờ.
When Venerable Ananda was about to enter nirvana he left the country of Magadha and proceeded to the city of Vaisali. The two countries contended with each other [to keep Ananda’s body] and were on the brink of war. Out of pity for them, Ananda divided his body. When the king of Magadha got his portion he brought it back and built a stupa for it at this superior place.
Bên cạnh đó là [di tích] nơi kinh hành của đức Như Lai. Tiếp đó không xa lại có một ngọn tháp, là nơi các ngài Xá-lợi tử và Một-đặc-già-la tử kiết hạ an cư.
Beside it is the spot where the Tathagata formerly walked up and down. Not far from here is a stupa built at the place where Sariputra and Maudgalaputra stayed to observe the summer retreat during the rainy season.
Từ vườn trúc đi về hướng tây nam khoảng 1.5-1.9 km có một động đá rất lớn, nằm về mặt bắc của ngọn núi phía nam, ở giữa rừng trúc lớn. Đây là nơi Tôn giả Ma-ha Ca-diệp cùng với 999 vị Đại A-la-hán kết tập Kinh tạng sau khi đức Như Lai nhập Niết-bàn. Phía trước động còn di tích một nền nhà cũ, là nền giảng đường do vua Vị Sinh Oán vì sự kết tập Pháp Tạng của các vị Đại A-la-hán mà xây dựng.
Five or six li to the southwest from the Bamboo Garden and to the north of South Mountain, there is a large cave in a great bamboo grove. Maha- kasyapa and nine hundred and ninety-nine great arhats stayed here to collect the Tripitaka after the nirvana of the Tathagata. In front of the cave are the old foundations of a hall built by King Ajatasatru for the great arhats who took part in collecting the Dharma pitaka.
Thuở ấy, ngài Đại Ca-diệp đang tĩnh tọa giữa chốn núi rừng, bỗng có hào quang chiếu sáng, rồi lại thấy mặt đất chấn động, liền nghĩ: “Đây là điềm báo điều gì, sao có sự quái dị này?” Ngài dùng thiên nhãn quán sát, thấy đức Phật Thế Tôn ở giữa hai cây sa-la sắp nhập Đại Niết-bàn, liền gọi các đệ tử cùng đi ngay đến thành Câu-thi-na. Trên đường đi gặp một Phạm chí tay cầm cành hoa trời, ngài Ca-diệp liền hỏi: “Ngài từ đâu đến đây? Có biết thầy của tôi nay đang ở đâu không?”
In the beginning, Mahakasyapa was sitting at leisure in a mountain forest when he suddenly saw a brilliant light and the earth quaked. He said, “What does this strange phenomenon augur?” He observed with his divine eye and saw that the Buddha, the World- honored One, had entered nirvana at the twin [su/u] trees. He ordered his disciples to go with him to the city of Kusinagara and on the road they met a brahman holding some celestial flowers in his hand. Kasyapa asked him, “Where do you come from? Do you know where my great teacher is?”
Phạm chí đáp: “Tôi mới từ thành Câu-thi-na đến đây, thấy thầy của ngài đã nhập Niết-bàn. Đại chúng trời, người cùng đến đó cúng dường. Cành hoa tôi cầm đây lấy từ nơi đó.”
The brahman said, “I have just come from the city of Kusinagara and I have seen that your great teacher has entered nirvana. Human and heavenly beings in a great assembly are making offerings to him. These flowers in my hand were obtained from them.”
Ngài Ca-diệp nghe xong nói với môn đồ: “Mặt trời trí tuệ đã thôi không còn chiếu sáng, thế giới tối tăm mù mịt, bậc dẫn đường khéo léo của chúng sanh đã bỏ đi xa, chúng sinh phải ngả nghiêng đọa lạc.”
Hearing these words, Kasyapa said to his disciples, “The Sun of Wisdom has sunk and the world is enveloped in darkness. The Good Guide has abandoned us and living beings will stumble and fall.”
Có tỳ-kheo lười nhác vui mừng nói rằng: “Như Lai tịch diệt rồi, bọn ta được yên vui, nếu có mắc lỗi lầm gì, đâu còn ai quở trách?”
The indolent bhiksus, however, felt happy and said to each other gleefully, “Since the Tathagata has entered nirvana we will be able to live an easy life. No one will reproach or restrain us if we commit any fault.”
Ngài Ca-diệp nghe như vậy hết sức bi cảm đau thương, nghĩ đến việc phải kết tập Pháp tạng, căn cứ giáo pháp để sửa trị những người phạm lỗi. Rồi ngài đến chỗ hai cây sa-la [nơi Phật nhập Niết-bàn,] chiêm ngưỡng kính lễ.
Having heard these words, Kasyapa felt all the more sorrowfill and thought about collecting the Dharma pitaka as a guiding principle to prevent the violation of moral regulations taught by the Buddha. He then went to the twin [sala] trees to see and worship the Buddha.
Đấng Pháp Vương đã tịch diệt, hai cõi trời người không ai dẫn dắt, các bậc Đại A-la-hán cũng đều diệt độ. Lúc bấy giờ, ngài Đại Ca-diệp liền suy nghĩ rằng: “Theo lời Phật dạy, phải kết tập Pháp Tạng.”
After the demise of the King of the Dharma human and heavenly beings lost their guide, and various great arhats also entered nirvana. At that time Mahakasyapa considered that the Dharma pitaka should be collected in obedience to the Buddha’s teachings.
Ngài liền lên trên núi Tô-mê-lô, đánh chuông lớn và lớn tiếng nói rằng: “Nay tại thành Vương Xá sắp có pháp sự, các bậc chứng quả nên nhanh chóng về tập hội.”
So he ascended Mount Sumeru, struck a big bell, and made an announcement, saying, “A Dharma event is to be conducted in the city of Rajagrha. All those who have attained sainthood should promptly assemble!”
Tiếng chuông lớn truyền theo lời dạy của ngài Ca-diệp đi khắp cả đại thiên thế giới, những bậc đã chứng thần thông nghe xong đều tụ tập về. Lúc bấy giờ, ngài Ca-diệp nói với đại chúng rằng: “Như Lai đã tịch diệt, thế giới chẳng còn gì. Nay phải kết tập Pháp Tạng để báo ân Phật. Việc kết tập Pháp tạng cần phải tinh giản tĩnh lặng, nếu quá đông người làm sao thành tựu sự nghiệp thù thắng? Vậy [trong hội chúng này] những ai đầy đủ tam minh, chứng đắc lục thông, có khả năng nghe rồi nhớ giữ không quên, đạt biện tài vô ngại, những bậc thượng nhân như thế mới nên tham gia kết tập, còn tất cả những người khác, [còn ở quả vị hữu học], hãy quay về nơi ở của mình.”
Kasyapa’s summons was carried by the sound of the bell to all the three-thousand great chiliocosms,and, on hearing the summons, all those who had acquired supernatural powers came to the assembly. At that time Kasyapa told the congregation, “The Tathagata has entered nirvana and the world is now empty. We should collect the Dharma pitaka in order to repay the Buddha’s kindness. Only a select number of people may take part in collecting the Dharma, so that they may work in peace. We should not flock into a crowd and upset this sublime task. Only superior people who possess the three kinds of knowledge and the six supernatural powers, who have heard and practiced what is not erroneous, and who are eloquent without hindrance are invited to take part in the collection, while those who have more to learn should return to their respective abodes.”
Như vậy, còn lại được 999 người, riêng trừ ngài A-nan còn ở quả vị hữu học, ngài Đại Ca-diệp gọi vào và bảo rằng: “Ông vẫn chưa dứt hết lậu hoặc, nên ra khỏi thánh chúng này.”
A total of nine hundred and ninety-nine persons was selected. Ananda was not included in the list, as he was still in the stage of learning. Mahakasyapa called to him and said, “Because you have not become spiritually perfect it is fitting for you to leave the holy assembly.”
Ngài A-nan nói: “Tôi theo hầu đức Như Lai trải qua nhiều năm, hết thảy các pháp hội đều chưa từng bỏ sót, nay đến lúc kết tập lại bị đuổi ra. Đấng Pháp Vương đã tịch diệt rồi, tôi thật đã mất đi chỗ nương tựa.”
[Ananda] said, “I attended the Tathagata for many consecutive years. Whenever there was a discussion on the Dharma I never missed it. Now I am not allowed to take part in the task of collecting the Dharma. The King of the Dharma has entered nirvana and I have lost what I relied on.”
Ngài Ca-diệp nói: “Ông chớ nên buồn lo khổ não. Ông tuy là người tự thân theo hầu bên Phật, lại thực sự là bậc đa văn, nhưng chưa dứt hết dục hoặc, tập khí kiết sử còn chưa đoạn trừ.”
Kasyapa told him, “Do not be vexed! It is true that you have been the Buddha’s personal attendant and heard most of his utterances, but you are not free from the delusion of passion and your bonds of habitual illusion have not yet been cut off.”
Ngài A-nan không thể nói gì thêm, đành từ biệt lui ra, rồi đi đến một nơi yên tịnh tịch tĩnh, quyết lòng chứng quả vô học, nhưng hết sức tinh cần nỗ lực mà vẫn không chứng quả. Đến lúc quá sức mỏi mệt, muốn ngả lưng tạm nghỉ chốc lát thì đầu chưa chạm đến gối đã chứng quả A-la-hán. [Sau đó liền] đi đến nơi kết tập, gõ cửa thưa rằng mình đã đến. Ngài Ca-diệp [từ bên trong] hỏi [vọng ra]: “Ông đã dứt lậu hoặc rồi phải không? Vậy nên dùng thần thông mà vào, không cần mở cửa.”
Ananda was tongue-tied and departed. He went to a solitary place, desiring to gain the perfect stage of having nothing more to learn. Although he worked hard he could not realize his ambition. Feeling tired, he went to take a nap and at the moment just before his head touched the pillow he instantly attained arhatship. He returned to the assembly hall and knocked at the door to announce his arrival. Kasyapa inquired, “Have you cleared off all your bonds? You should be able to utilize your supernatural powers and come in without opening the door.”
Ngài A-nan vâng lời, [dùng thần thông đi] qua khe hở nơi lỗ khóa cửa mà vào, đảnh lễ chúng tăng rồi lui về chỗ ngồi. Lúc đó đúng vào ngày 15 của mùa an cư kiết hạ. Ngài Ca-diếp lên tiếng [trước đại chúng] rằng: “Xin đại chúng lắng nghe! A-nan nghe nhiều nhớ giỏi, được Như Lai khen ngợi, nay hãy tuyên đọc lại tạng Tố-đát-lãm. Ưu-ba-ly là người nắm giữ giới luật thông suốt rõ ràng mọi người đều biết, nay hãy tuyên đọc lại tạng Tỳ-nại-da. Ta là Ca-diệp-ba sẽ tuyên đọc lại tạng A-tỳ-đạt-ma.”
Accordingly, Ananda entered through the keyhole. After paying homage to the monks he withdrew and resumed his seat. This event occurred on the first full-moon day of the summer retreat.
Then Kasyapa made a declaration, “Please listen to me attentively: Ananda was praised by the Tathagata for his all-around knowledge—let him collect the Sutra pitaka. Upali is well known to all for his clear understanding of the monastic rides—let him collect the Vinaya pitaka. And I, Kasyapa, shall collect the Abhidharma pitaka. ”
Sau ba tháng an cư thì việc kết tập Tam tạng hoàn tất. Vì [trong pháp hội này] ngài Đại Ca-diệp-ba làm bậc thượng tọa trong chúng tăng, nên nhân đó mà gọi là [pháp hội kết tập của] Thượng Tọa Bộ.
When the three months of the rainy season came to an end the collection of the Tripitaka was completed. Because Mahakasyapa was the elder among the monks and presided over the assembly, it became known as the Assembly of the Elder.
Từ chỗ ngài Đại Ca-diệp-ba [tổ chức] kết tập, nhìn về hướng tây bắc lại có một ngọn tháp, là nơi ngài A-nan đến ngồi thiền sau khi bị chúng tăng quở trách, không cho tham dự kết tập và rồi chứng quả A-la-hán tại đây. Sau khi chứng quả rồi mới được tham dự kết tập.
To the northwest of the place where Mahakasyapa collected the Tripitaka is 923a the spot where Ananda came and sat in meditation and attained arhatship after he had been criticized by the monks and not allowed to take part in the gathering. He was permitted to join in the work after realizing sainthood.
Từ nơi ngài A-nan chứng quả A-la-hán đi về hướng tây hơn 6.5 km có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng, là nơi kết tập Kinh điển của Đại chúng bộ.
More than twenty li to the northwest of the spot where Ananda attained sainthood is a stupa constructed by King Asoka at the place where the great assembly of monks made their collection of the Buddha’s teachings.
[Thuở ấy, chư tăng chứng đắc các quả vị] hữu học và vô học, có đến mấy trăm ngàn người không tham dự pháp hội kết tập do ngài Đại Ca-diệp [tổ chức], cùng đến nơi này bàn với nhau rằng: “Khi Như Lai còn tại thế, tất cả cùng học một thầy. Đấng Pháp Vương tịch diệt rồi lại loại bỏ bọn chúng ta ra. Nay muốn báo ân Phật, chúng ta cũng phải kết tập Pháp Tạng.”
Hundreds and thousands of arhats and ordinary monks, who were not admitted to the assembly headed by Mahakasyapa, gathered here. They said among themselves, “When the Tathagata was living in the world we all studied under one teacher. Now that the King of the Dharma has entered nirvana we have been discriminated against. In order to repay the Buddha’s kindness we should collect the Dharma pitaka. ”
Liền đó, hết thảy phàm tăng, thánh tăng cùng tụ hội, bao nhiêu bậc hiền trí đều họp bàn, cùng nhau kết tập tạng Tố-đát-lãm (Kinh Tạng), tạng Tỳ-nại-da (Luật Tạng), tạng A-tỳ-đạt-ma (Luận tạng), tạng Tạp tập và tạng Cấm chú, riêng chia thành năm tạng. Do pháp hội kết tập này có cả phàm tăng lẫn thánh tăng cùng tụ hội nên được gọi là [pháp hội kết tập của] Đại chúng bộ.
So the ordinary and saintly monks gathered together and sages and wise people joined the meeting. They collected the Sutra pitaka, the Vinaya pitaka, the Abhidharma pitaka, the Miscellaneous pitaka, and the DharanTpitaka as a separate fivefoldpitaka. Because this collection was done by both ordinary and saintly monks in the assembly, it is called the Collection of the Great Congregation. 
Từ tinh xá Trúc Lâm đi về hướng bắc khoảng 350 mét thì đến hồ Ca-lan-đà, là nơi ngày xưa đức Như Lai đã nhiều lần thuyết pháp. Nước hồ [thuở xưa] trong vắt, có đủ tám công đức, sau khi Phật nhập Niết-bàn thì khô kiệt.
Going north for more than two hundred paces from Bamboo Temple I reached Kalandaka Pool. Formerly the Tathagata preached the Dharma at this place. The water was clear and clean and possessed the eight virtues. After the Buddha’s nirvana the pool dried up completely.
Từ hồ Ca-lan-đà đi về hướng tây bắc khoảng 1 km thì gặp một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng, cao hơn 20 mét. Bên cạnh đó có dựng một trụ đá cao khoảng 17 mét, khắc ghi về việc xây dựng tháp này. Trên đầu trụ đá có tạo hình con voi.
Two or three li to the northwest of Kalandaka Pool is a stupa built by King Asoka, more than sixty feet high. Beside it is a stone pillar carved with an inscription narrating the events of stupa’s construction, which is more than fifty feet tall and has the figure of an elephant on top.
Từ trụ đá nhìn về hướng đông bắc không xa là thành Át-la-xà-cật-lợi-hứ. Vòng thành bên ngoài đã hư hoại hoàn toàn, chẳng còn dấu tích gì. Phần nội thành tuy cũng hư hoại, nhưng nền móng còn lại vẫn còn nhô cao, chu vi khoảng hơn 6.5 km, mỗi hướng đều có một cửa ra vào.
Not far to the northeast of the stone pillar is the city of Rajagrha (known in Chinese as Wangshe, “Royal House”). The outer walls have been destroyed and there is no trace of them left; the inner walls, though ruined, still have foundations of some height. It is more than twenty li in circuit with a gate on each side.
Ban sơ, vua Tần-tỳ-sa-la đóng đô ở thành Thượng Mao. Nhà dân ở trong thành thường bị hỏa hoạn, một nhà bất cẩn gây cháy thì bốn phía lân cận đều phải chịu tai họa, lúc nào cũng phải lo lắng canh phòng không ngớt, việc làm ăn phải bỏ phế, dân chúng than oán, cuộc sống không yên ổn. Đức vua nói: “Là do trẫm không có đức độ cho nên dân chúng phải lo lắng không yên vì tai họa, nên tu sửa đức hạnh như thế nào để giải trừ tai họa?”
After King Bimbisara made the city of Kusagrapura his capital the registered inhabitants frequently suffered the calamity of fire. If one family was careless the neighbors on all four sides would also be involved in the disaster. The people were busily engaged in preventing fires and had no leisure to manage their properties. So they harbored a grudge about the situation and lived uneasily in their abodes. The king said, “It is due to my lack of virtue that my subjects suffer adversities. What meritorious deeds should I do to avert their misfortune?”
Quần thần tâu rằng: “Đại vương đức độ hài hòa trải khắp, chính sách trị dân sáng suốt rõ ràng, chỉ do người dân bất cẩn mới sinh hỏa hoạn. Nay nên ban hành luật nghiêm khắc buộc tội thì sau đó sẽ không có người phạm vào. Khi có hỏa hoạn thì truy cứu đến cùng nơi bốc cháy đầu tiên, buộc tội người gây ra, đày vào khu rừng lạnh, là nơi vất bỏ xác chết, xưa nay vẫn cho là vùng đất chẳng lành, không có dấu vết người lui tới. Nay bị đày đến nơi đó cũng giống như đem vất bỏ xác chết. Người dân sợ hình phạt như vậy ắt phải tự cẩn trọng phòng hộ [không để xảy ra hỏa hoạn nữa].”
His ministers said, “O Great King! You rule over the country with mild virtue and magnanimity, and your governance and education are brilliant and discerning. Because the fires are caused by the imprudence of the humble people, a strict law should be proclaimed to prevent future accidents. Whenever a fire occurs the one who has caused the accident should be thoroughly investigated and the chief offender should be punished by exile to a sitavana, a place in which corpses are disposed. Such places are regarded by the people as inauspicious so no one would wilingly visit them. After someone has been banished to a sitavana he will be [like] nothing other than a discarded corpse. The people will be more cautious and protect themselves in order to avoid living in such a shameful spot.”
Vua nói: “Hay lắm! Vậy hãy cho tuyên cáo khắp trong dân chúng.”
The king said, “Good! Make an announcement to notify all the inhabitants.”
Sau đó không bao lâu thì có hỏa hoạn, cung vua là nơi cháy trước tiên. Vua liền bảo quần thần rằng: “Theo đúng quy định], nay ta sẽ phải chịu đi đày.”
Soon after the palace itself caught fire and the king said to his ministers, “I must move my lodgings.”
Rồi ra lệnh cho thái tử lo việc nhiếp chính, vì để gìn giữ kỷ cương pháp luật của đất nước nên vua tự mình dời đến ở [trong khu rừng lạnh].
He ordered the prince to act as regent to attend to state affairs and for the sake of upholding the impartiality of the national law he made up his mind to go live [in the cemetery].
Bấy giờ, vua Phệ-xá-ly nghe tin vua Tần-tỳ-sa-la vào ở trong rừng lạnh, liền tập trung quân đội, muốn bất ngờ tấn công. Quân biên phòng dò biết được tin này báo về, trong nước liền lập tức xây dựng thành ấp [chỗ khu rừng lạnh]. Do nhà vua đến ở đó trước tiên nên gọi là Vương Xá. Các quan triều đình và dân chúng cũng lần lượt dời nhà đến ở nơi thành mới.
At that time, hearing that King Bimbisara was living in a cemetery in the wilderness, the king of VaisalT mustered his troops and made ready to launch a surprise attack. According to information sent back by his frontier guards, a city had been built [at the cemetery], called the City of the Royal House, and the king had moved there. Government officials and common people had also moved to live in the new city.
Lại cũng có thuyết nói rằng, đến đời vua Vị Sinh Oán mới xây dựng thành này. Khi thái tử Vị Sinh Oán đã nối ngôi rồi, nhân đó mới dời đô đến đây. Đến khi vua Vô Ưu dời đô về thành Ba-trá-ly thì thành Vương Xá được dành riêng cho người Bà-la-môn. Cho nên ngày nay trong thành này không có dân thường, chỉ có gần 1.000 gia đình bà-la-môn.
It is also said that this city was built at the time of King Ajatasatru. When Prince Ajatasatru ascended the throne he made this city his capital, but after King Asoka moved the capital to Pataliputra he gave Rajagrha to the brahmans. Hence there are no ordinary inhabitants in this city, only less than a thousand brahman families.
Ở góc phía tây nam của cung thành có hai ngôi chùa nhỏ, chư tăng các nước khác lui tới thường đến nghỉ lại đây. Đây là nơi ngày xưa đức Phật từng đến thuyết pháp. Tiếp đó về phía tây bắc có một ngọn tháp, là nơi sinh trưởng của trưởng giả Châu-để-sắc-ca.
At the southwest comer of the palace city there are two small monasteries where guest monks from different countries may make stay in the course of their travels. This was a place where the Buddha once preached the Dharma. Further to the northwest is a stupa built at the native place of Elder Jyotiska (known in Chinese as Xingli, “Heavenly Body,” formerly mistranscribed as Shutijia).
Bên ngoài cửa thành phía nam có hai ngọn tháp nằm hai bên đường đi, là nơi đức Như Lai từng thuyết pháp và hóa độ La-hỗ-la. Từ nơi đây đi về hướng bắc khoảng 10 km thì đến chùa Na-lạn-đà.
On the left side of the road outside the south gate of the city is a stupa at the spot where the Tathagata preached the Dharma and ordained Rahula.
From here going north for more than thirty li, I reached Nalanda Monastery (known in Chinese as Shiwuyan, “Insatiable in Almsgiving”).
Các bậc kỳ lão kể lại rằng, phía nam chùa này có một hồ nước nằm trong rừng cây am-một-la. Con rồng trong hồ đó có tên là Na-lạn-đà, vì xây chùa gần bên nên lấy tên đó làm tên chùa.
I heard some old people say that in the mango grove to the south of the monastery there was a pond where a dragon named Nalanda lived, hence the name of the monastery built beside the pond.
Nhưng thật ra là khi đức Như Lai còn tu hạnh Bồ Tát, sinh ra làm một vị đại quốc vương, đặt kinh đô ở đất này. Vì [đức vua là người] thương xót chúng sanh, thường vui thích chu cấp bố thí, người thời bấy giờ ca ngợi đức hạnh tốt đẹp [của vua] nên tôn xưng là Thí Vô Yểm (bố thí không chán), do vậy mà chùa cũng lấy đó làm tên.
In facts, when the Tathagata was practicing bodhisattva deeds in a former life he was a great king who founded his capital at this place. Because he had compassion for living beings and took delight in almsgiving, the people called him “Insatiable in Almsgiving” in praise of his virtue, and this monastery was named after this appellation.
Vùng đất này trước đây là một vườn cây am-một-la, có 500 thương nhân dùng 1.000.000 đồng tiền vàng để mua rồi dâng cúng Phật. Đức Phật đến đây thuyết pháp ba tháng, các thương nhân đều chứng quả thánh.
The land for building the monastery was originally a mango grove; five hundred merchants purchased it with ten kofis of gold coins and presented it to the Buddha. The Buddha preached the Dharma at this place for three months and thereupon the merchants attained sainthood.
Sau khi Phật nhập Niết-bàn không bao lâu, vị vua đời trước của nước này là Thước-ca-la-a-dật-đa, kính trọng Đại thừa, sùng kính noi theo Tam bảo, thấy đây là vùng đất lành nên xây dựng chùa này.
Not long after the Buddha’s nirvana, Sakraditya (known as Tiri, “Sun of Indra,” in Chinese), a former king of this country, who esteemed the One Vehicle and honored the Triple Gem, selected this propitious spot by divination and constructed the monastery here.
Lúc bắt đầu khởi công xây dựng, [đào đất] làm thân rồng [ở đây] bị thương. Lúc ấy, có người ngoại đạo Ni-kiền giỏi thuật bói toán, thấy vậy nói rằng: “Vùng thắng địa này, xây chùa ắt được hưng thịnh, sẽ là khuôn mẫu phép tắc cho cả năm vùng Ấn Độ [noi theo], qua ngàn năm vẫn hưng thịnh, người theo học [ở đây] đời sau sẽ dễ dàng thành tựu học nghiệp, nhưng có nhiều người bị chứng thổ huyết, là do việc làm tổn thương thân rồng.”
When the construction work began the dragon’s body was pierced, and a nirgrantha (naked Jain ascetic) who was a good diviner saw this and predicted, “This is a propitious site. The monastery built on it will certainly be prosperous and become the standard for all the five parts of India. It will continue to thrive for more than a thousand years. Students of future generations in this monastery will easily gain achievements in their studies but most of them will spit blood, because the dragon has been injured.”
Đến người con [vua Thước-ca-la-a-dật-đa] là vua Phật-đà-cúc-đa vẫn kế tục truyền thống, noi theo sự nghiệp thù thắng [của vua cha] nên kế bên đó về phía nam cũng xây dựng một ngôi chùa.
Sakraditya’s son, King Buddhagupta (known as Juehu, “Buddha-protected,” in Chinese), succeeded to the throne to continue the good works and built another monastery to the south of the original one.
Tiếp đến vua Đát-tha-yết-đa-cúc-đa cũng dốc lòng noi theo người đi trước, nên kế bên đó về phía đông cũng xây dựng một ngôi chùa.
King Tathagatagupta (known as Rulai, “Thus-come,” in Chinese) earnestly followed the example of his predecessors and built another monastery to the east.
Sau đó là vua Bà-la-a-điệt-đa nối ngôi, kế tiếp đó về phía đông bắc lại cũng xây dựng một ngôi chùa. Sau khi việc xây dựng hoàn tất liền tổ chức pháp hội khánh thành, mời thỉnh hết thảy chư tăng, từ những vị nổi danh đến người tầm thường, từ những vị phàm tăng cho đến các bậc thánh tăng, tất cả đều chí thành mời thỉnh.
After ascending the throne, King Baladitya (known as Youri, “Morning Sun”) built a fourth one to the northeast. After the construction work was completed a festive meeting was held to celebrate the occasion, at which both prominent and obscure persons were entertained with sincerity and holy as well as ordinary monks were invited.
Tham dự pháp hội này có đủ chư tăng ở năm vùng Ấn Độ, từ ngàn dặm xa xôi cũng đều tụ họp về. Khi chư tăng đã ngồi yên vị, bỗng có hai vị đến sau, liền được mời lên tầng thứ ba. Có người thưa hỏi rằng: “Đức vua trước khi tổ chức pháp hội này đã sớm thưa thỉnh hết thảy chư tăng cả phàm lẫn thánh. [Hai vị] đại đức từ phương nào, sao đến muộn quá vậy?”
Monks from the five parts of India traveled long distances to attend the meeting. Two monks arrived late, after all the participants had been seated, and they were led to the third story. Someone asked them, “When the king prepared the feast he first sent invitations to the holy and ordinary monks. Why have you two virtuous ones arrived so late, and where have you come from?”
Đáp rằng: “Chúng tôi ở nước Chí-na. Hòa thượng của chúng tôi có bệnh, [chúng tôi hầu ngài] ăn xong mới đi. [Cũng vừa] nhận được lời mời thỉnh của vua từ xa nên đến đây dự hội.”
They said, “We come from China. Because our teacher is ill we served him his meal before we started the journey. But we were invited by the king and we have come to attend the meeting from a great distance.”
Người vừa thưa hỏi [nghe như vậy] kinh hãi, liền vội vàng tâu lên vua. Trong lòng vua biết ngay đó là bậc thánh, liền đích thân đến thưa hỏi. Nhưng khi vua lên đến nơi thì không còn thấy [hai vị ấy] nữa, không ai biết đã đi đâu.
The inquirer was surprised to hear this and promptly made a report to the king, who, knowing that the two monks were saints, went in person to greet them. He arrived at the storied pavilion too late, however, and the two monks had already gone somewhere unknown to the others.
Đức vua [nhân việc này] càng thêm tin sâu [Phật pháp], liền từ bỏ ngôi vua mà xuất gia. Sau khi xuất gia, vào trong chúng tăng thì phải ở địa vị thấp nhất, nên trong lòng thường không vui, chẳng được an ổn, [tự nghĩ]: “Trước đây ta làm vua, ở ngôi tôn quý nhất. Bây giờ xuất gia, lại ở địa vị thấp nhất trong chúng tăng.”
The king’s faith was deepened and he eventually relinquished the monarchy to become a homeless monk. After he became a monk he was the lowest in rank in the community of monks and this made him unhappy and discontented. He thought, “When I was a king I used to occupy the uppermost position but now as a monk I am relegated to a humble position behind all the other monks.”
Sau đó liền bạch lên chư tăng, tự nói ra suy nghĩ của mình. Chúng tăng vì sự hòa hợp, liền chế định những người chưa thọ giới thì ngồi xếp ngôi thứ theo tuổi đời. Cho nên chỉ riêng chùa này mới có quy chế như vậy.
He went to tell the monks how he felt, and they then called a meeting and made a ride that those who were not yet fully ordained could establish their seniority according to age, which became a tradition peculiar to this monastery.
Con của vua [Bà-la-a-điệt-đa] là vua Đại-xà-la, sau khi lên ngôi, với tín tâm kiên cố liền cho xây dựng một ngôi chùa kế đó về phía tây.
This king’s son, Vajra (known as Jingang, “Diamond,” in Chinese), was a man of firm faith. After his succession to the throne he built a monastery to the west.
Về sau, vua của miền Trung Ấn lại xây dựng một chùa lớn ở phía bắc, rồi xây tường cao chung quanh [tất cả các chùa đã có] và chỉ mở chung một cửa lớn ra vào.
Later, a king of Central India built another great monastery to the north and constructed a lofty enclosure with one gate for all the monasteries.
Nhờ các đời vua nối tiếp nhau xây dựng, dốc hết sức cho việc kiến trúc, điêu khắc, nên thành ra một cảnh quan hoành tráng trang nghiêm.
Because the entire complex was constructed by kings of successive dynasties, the buildings were erected by the most exquisitely skilled carpenters, employing such tools as burins and curved chisels to make the architectural complex a really magnificent sight.
Trong ngôi chùa [đầu tiên] do vua Đế Nhật xây dựng, ngày nay có an trí một tượng Phật, mỗi ngày chúng tăng đều cử ra 40 vị tăng đến đây thọ thực, [xem như cách] để [tưởng nhớ và] báo ân thí chủ [là vua Đế Nhật].
In the great monastery built by King Sakraditya there is an image of the Buddha. Forty monks are assigned to take their meal every day in this monastery in honor of the almsgivers’ kindness.
Tăng chúng [ở chùa Na-lạn-đà] có đến mấy ngàn vị, đều là những bậc tài cao học rộng, đạo đức cao vời, được người đương thời kính trọng. Những vị vang danh đến tận nước ngoài có hơn mấy trăm người.
There are several thousand monks, all of whom are brilliant scholars of high learning; those whose virtue is esteemed by their contemporaries and whose reputation is known in foreign lands number in the several hundreds.
[Tăng chúng ở đây] giới hạnh trong sạch, trinh bạch, đức hạnh luật nghi nghiêm trang thuần khiết. Đại chúng có quy chế phép tắc nghiêm ngặt nên chư tăng đều là những vị tinh thuần trong trắng. Các nước khắp vùng Ấn Độ đều kính ngưỡng noi theo.
They are pure in observing the monastic regulations and faultless in conduct according to the Vinaya rides. The monks have strict restrictions and they are all chaste and spotless, so that they are looked up to as exemplars in the various countries in India.
[Trong sinh hoạt thường nhật thì chư tăng] suốt ngày luôn thưa thỉnh đạo lý, bàn luận lẽ diệu huyền, suốt đêm luôn tự răn nhắc không chút buông thả, kẻ già người trẻ cùng giúp đỡ thành tựu cho nhau [trong sự tu tập], nếu có ai không bàn luận học hỏi về ý nghĩa thâm sâu diệu huyền của giáo pháp thì đều tự cảm thấy cô độc và xấu hổ.
They always ask for more instructions and deliberate on the abstruse theories incessantly all day long. They admonish each other day and night and extend mutual help between old and young. Anyone who did not engage in discussion of the profound teachings of the Tripitaka would be ashamed of themselves.
Cho nên, những người cầu học từ nước khác đến đây thưa thỉnh đều có thể dứt được lòng nghi, lại phát triển được tài năng danh tiếng. Do vậy mà có những người mạo danh [chùa này] để đi đến đâu cũng được cung kính trọng vọng.
Thus foreign scholars who wish to win fame come here to clarify the dubious points they found in their learning before they can join the ranks of the well-reputed. Some travel about citing the name of this monastery to fraudulently gain honor and consideration.
Người từ phương xa hoặc ở nước khác muốn đến đây tranh biện nghĩa lý thì phải qua được sự cật vấn của vị tăng giữ cửa, đa phần đều bị khuất phục phải ra về, chỉ những ai học lực thâm sâu, suốt thông kim cổ thì mới có khả năng lọt vào. Cho nên những kẻ hậu học từ xa đến phải phô bày khả năng, tài nghệ của mình, và trong mười người đã có đến bảy, tám người thất bại ra về. Trong số vài ba người uyên bác có thể vào được thì chúng tăng lại thay nhau cật vấn, nên hầu hết đều bị khuất phục, mất cả thanh danh trước đó.
Most of the people from different regions and countries who desire to enter this monastery to hold discussions are barred from entering the establishment after a preliminary interrogation by the gatekeeper. Only those who are well versed in both ancient and contemporary learning can gain admittance. The visiting students carry on debates with the resident monks but seven or eight out of ten flee in defeat. The remaining two or three learned scholars may also be deflated of their arrogance since their reputation can be damaged by questions raised later by the resident monks.
Nhưng nếu là những bậc tài cao học rộng, nhiều tài năng và hiểu biết sâu xa, đức hạnh rạng ngời, sáng suốt thông minh, [thì khi đến đây càng] hòa thêm ánh sáng huy hoàng, tiếp nối [truyền thống tốt đẹp của] tự viện, ví như các ngài Hộ Pháp (Dharmapāla) và Hộ Nguyệt (Candragupta), danh thơm vang rền khắp chốn, làm tỏa lan giáo pháp Phật-đà; hoặc như các ngài Đức Tuệ (Guṇamati), Kiên Tuệ (Sāramati), tiếng xưng tụng truyền khắp đó đây, người đương thời kính nể. [Còn phải kể đến] tài giảng thuyết sáng tỏ của ngài Quang Hữu (Prabhamitra), sức biện luận cao tột của ngài Thắng Hữu (Visesamitra). Hoặc như ngài Trí Nguyệt (Jānacandra) có phong thái sáng suốt mẫn tiệp, ngài Giới Hiền (Silabhadra) thì đức độ cao tột, trí tuệ sâu xa. Những bậc cao thượng như thế, ai ai cũng đều biết đến, đức độ vượt trội hơn người đi trước, học vấn thông suốt sách vở xưa nay, mỗi vị trước tác và chú giải đến mười mấy bộ luận, đều lưu hành rộng rãi, được người đương thời quý trọng.
Highly talented and versatile sages endowed with retentive memory and good virtue maintain the glory of the monastery 924a and follow in the wake of their predecessors. Dharmapala and Candragupta, who won their fame in the scope of the bequeathed teachings of the Buddha; Gunamati and Sthiramati, whose good repute is well known even today; Prabhamitra, skilled in theoretical discussion; Visesamitra, fluent in elevated conversation; Jiianacandra of elegant demeanor and perspicacious discernment; and Silabhadra of sublime virtue and profound insight—all were men of supreme quality, well known to all, whose virtuous deeds excelled those of their forerunners. They are well versed in ancient learning, each having composed more than ten widely popular treatises that are highly valued even today.
Chung quanh chùa [Na-lạn-đà] có hàng trăm thánh tích, chỉ nêu ra đây vài ba chỗ để giới thiệu sơ lược mà thôi.
The sacred traces around the monastery are counted by the hundreds, of which I shall cite just two or three as brief examples.
Từ chùa [Na-lạn-đà] đi về phía tây không xa có một tinh xá, là nơi ngày xưa đức Như Lai đã từng lưu lại ba tháng, vì đại chúng trời, người mà rộng thuyết giáo pháp nhiệm mầu.
Not far to the west of the monastery is a temple where the Tathagata once stayed for three months and spoke extensively on the wonderful Dharma for various devas and people.
Về phía nam khoảng 170 mét có một ngọn tháp nhỏ, là nơi [thuở trước] có vị tỳ-kheo ở phương xa đến đây được gặp Phật.
More than a hundred paces to the south is a small stupa at the place where a bhiksii coming from a distance saw the Buddha.
Thuở ấy, có vị tỳ-kheo từ phương xa tìm tới, vừa đến chỗ này thì gặp đức Như Lai và thánh chúng, trong lòng phát sinh sự tôn kính, liền gieo mình năm vóc sát đất, cung kính đảnh lễ, nhân đó phát nguyện cầu được địa vị Chuyển Luân Vương. Đức Như Lai thấy biết liền bảo đại chúng rằng: “Đáng tiếc thay cho vị tỳ-kheo này, thật quá đáng thương, [ông ấy có] phước đức sâu dày từ nhiều đời, lòng tin kiên cố, nếu như cầu quả Phật thì không bao lâu sẽ chứng đắc, nhưng nay lại phát nguyện cầu địa vị Chuyển Luân Vương, trong đời vị lai chắc chắn sẽ phải thọ quả báo này. [Khi lễ Phật] năm vóc sát đất thì phía dưới chạm thấu tầng kim luân, trong đó có bao nhiêu hạt bụi cực nhỏ thì mỗi một hạt bụi như vậy sẽ là một thân thọ báo làm Chuyển Luân Vương. [Trải bấy nhiêu đời làm Chuyển Luân Vương,] đã chìm đắm trong dục lạc thế gian thì ngày càng xa lìa quả thánh.”
Once a bhiksii approached from a distance and met the Tathagata and the holy monks at this place. With a mind of veneration, the bhiksii prostrated himself [before the Tathagata] and wished to be a universal monarch. Seeing him the Tathagata told the assembly of monks, “This bhiksii is very pitiful. He is a man of great bliss and deep virtue with a mind of firm faith, and he would have realized buddhahood very soon if he had aimed at [that goal]. But he wishes only to become a universal monarch and he will surely get the reward in his future lives and be a universal monarch for as many lifetimes as [there are] atoms of dust from the place wher he now prostrates down to the gold wheel beneath the earth. Because of his addiction to worldly pleasure he is far removed from the realization of sainthood.”
Về phía nam có một pho tượng Bồ Tát Quán Tự Tại trong tư thế đứng. Có người từng nhìn thấy tượng Bồ Tát này tay bưng lư hương đi đến tinh xá thờ Phật, đi nhiễu quanh đó trọn một vòng theo hướng về bên phải.
To the south is a standing statue of Avalokitesvara Bodhisattva. Sometimes it has been seen proceeding to the Buddha’s temple and circumambulating it to the right with a censer in its hand.
Phía nam của tượng Bồ Tát Quán Tự Tại có một ngọn tháp, bên trong có tóc và móng tay của Như Lai được cắt trong thời gian ba tháng [lưu lại nơi này]. Những người có bệnh tật, đến đây đi nhiễu trọn vòng quanh tháp thì đa phần đều được khỏi.
In the stupa to the south of the statue of Avalokitesvara Bodhisattva are kept hair and fingernail [relic]s of the Buddha, shaven and clipped over a three-month period. Sick people are often cured of their illnesses by circumambulating the stupa.
Bên ngoài bờ tường phía tây có một cái hồ, bên cạnh có một ngọn tháp, là nơi [ngày xưa] có người ngoại đạo tay cầm con chim sẻ, hỏi Phật về việc sống chết.
The stupa beside the tank at the outside of the west wall of the enclosure was the place where a heretic, holding a small bird in his hand, asked the Buddha about the problem of life and death.
Tiếp theo về phía đông nam, nằm bên trong bờ tường, cách xa hơn 80 mét, có một cây lạ cao khoảng 2.5-3 mét, gốc chẻ thành hai thân. Đây là do ngày xưa đức Như Lai dùng một nhành dương xỉa răng xong ném xuống đất, nhân đó bén rễ mọc thành cây, dù năm tháng trôi qua đã lâu nhưng cây này không hề thay đổi chiều cao.
More than fifty paces further to the southeast, inside the enclosure, is an extraordinary free, eight or nine feet high with two branches.
The Tathagata once chewed a piece of willow twig [to clean his teeth] and threw the used twig to the ground, where it took root and grew into this tree. Although a long time has passed the branches never increase or decrease in number.
Tiếp đến về phía đông có một tinh xá lớn cao hơn 66 mét, là nơi ngày xưa đức Như Lai từng lưu lại bốn tháng để giảng thuyết giáo pháp nhiệm mầu. Tiếp theo về phía bắc, cách đó khoảng 170 mét có một tinh xá, bên trong có tượng Bồ Tát Quán Tự Tại, tín đồ đến đây cúng dường, mỗi người đều nhìn thấy tượng này khác nhau, không có vị trí nhất định, hoặc thấy ngài đứng bên cửa, hoặc thấy ở bên ngoài mái chùa. Kẻ tăng người tục từ các nước khác đều đến đây cúng dường.
Next, to the east is a great temple more than two hundred feet in height. The Tathagata once spoke on various wonderful Dharmas at this place for four months. More than one hundred paces further to the north is a temple in which is enshrined an image of Avalokitesvara Bodhisattva. When pure devotees come to make offerings they see it at various places, either standing beside the gate or under the eaves outside the temple, as it has no fixed position. Both monks and laypeo- ple from different countries come to make offerings to the image.
Từ đây nhìn sang hướng bắc có một tinh xá lớn cao khoảng 100 mét, do vua Bà-la-a-điệt-đa xây dựng, kích thước và sự trang hoàng nghiêm sức cho đến tượng Phật bên trong đều giống như tinh xá lớn ở chỗ cây bồ-đề [nơi Phật thành đạo].
To the north of the temple of Avalokitesvara Bodhisattva is a great temple, more than three 924b hundred feet high, built by King Baladitya. Its size and ornamentation and the Buddha’s image within are similar to those of the great temple at the bodhi tree.
Phía đông bắc có một ngọn tháp, là nơi đức Như Lai ngày xưa từng giảng thuyết giáo pháp nhiệm mầu trong bảy ngày. Phía tây bắc nơi này [có di tích] nơi tọa thiền của bốn vị Phật quá khứ. Phía nam lại có một tinh xá bằng hợp kim đồng, do vua Giới Nhật xây dựng, tuy chưa làm xong nhưng theo thiết kế thì sau khi hoàn tất sẽ cao hơn 33 mét.
The stupa to the northeast is the place where the Tathagata once expounded the wonderfid Dharma for seven days, while to the northwest is a sitting place of the four past buddhas. To the south is Brass Temple, constructed by King Siladitya, though the work is unfinished. According to the drawing of the building when completed it will be one hundred feet in height.
Tiếp theo về phía đông, xa hơn 330 mét, nằm bên ngoài bờ tường, có một tượng Phật đứng bằng đồng cao khoảng 27 mét, có lầu xây cao lên sáu tầng rồi lợp mái che bên trên tượng, do vua Mãn Trụ xây dựng.
Further to the east, more than two hundred paces outside the enclosure, is a copper image of the Buddha in the standing posture, over eighty feet tall and sheltered by a pavilion as high as six stories. It was made by King Purnavarman in olden times.
Từ tượng Phật bằng đồng này đi về hướng bắc khoảng gần 1 km thì gặp một tinh xá xây bằng gạch, bên trong có tượng Bồ Tát Đa-la. Tượng cao lớn mà sự linh ứng rất rõ ràng. Vào ngày đầu năm mới, người đến đây cúng dường rất nhiều, vua quan các nước gần đó cùng các nhà hào tộc thường mang hương hoa, tràng phan, bảo cái đến cúng dường, cùng khua lên các loại chuông khánh hòa với đàn sáo, tiến hành pháp hội trong suốt bảy ngày đêm như thế.
Two or three li north of the copper image of the Buddha made by King Purnavarman is a brick temple in which is enshrined an image of Tara Bodhi-sattva, tall in size with an obvious spiritual manifestation. Profuse offerings are made to the image every New Year’s Day and the kings, ministers, and wealthy people of neighboring regions, holding fragrant incense and flowers as well as precious canopies and parasols, come to join the seven-day ceremony performed amid the harmonious music of bells, stone chimes, and string and wind instruments.
Bên trong cửa phía nam của bờ tường bao quanh có một cái giếng lớn.
Inside the south gate of the enclosure is a large well.
Khi đức Thế Tôn còn tại thế, có một đoàn thương nhân rất đông, đang lúc nóng bức lại khát nước, cùng đi đến chỗ Phật. Đức Thế Tôn chỉ tay vào chỗ đất này, nói rằng ở đó có nước. Vị thương chủ liền dùng trục xe đóng xuống đất, đất vừa lún xuống thì nước phun vọt lên. Các thương nhân uống nước rồi nghe Phật thuyết pháp, đều được chứng quả thánh.
Formerly when the Buddha was living in the world a group of merchants who were suffering from heat and thirst came to this place and the World- honored One pointed at the earth and said that water might be obtained there. The lord of the merchants dug into the ground with the axle of a cart and water gushed out from the depression in the earth. All those who drank the water and heard the Dharma became enlightened and attained sainthood. 
Từ chùa [Na-lạn-đà] đi về hướng tây nam khoảng 2.5-3 km thì đến ấp Câu-lý-ca (Kolika), có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng. Đây là quê hương của tôn giả Một-đặc-già-la tử. Bên cạnh đó có một ngọn tháp, là nơi tôn giả nhập Niết-bàn Vô dư, trong tháp có xá-lợi thân của tôn giả lưu lại.
Going southwest for eight or nine li from the monastery I reached the town of Kolika, in which there is a stupa built by King Asoka. This was the birthplace of Venerable Maudgalaputra. Beside it is another stupa built at the spot where the venerable monk entered final nirvana; his relic bones were entombed in it.
Tôn giả thuộc chủng tánh Đại Bà-la-môn, từ thuở thiếu thời là bạn thân với ngài Xá-lợi tử. Xá-lợi tử là bậc tài trí thông minh được người đời quý trọng, còn tôn giả tinh tế sáng suốt tiếng thơm lan xa. Hai người tài trí tương đồng, dù làm việc gì cũng gắn bó bên nhau, kết tình chung thủy, giao ước với nhau cùng đi cùng đến. Rồi hai người đều chán bỏ cuộc sống thế tục, cùng bỏ nhà ra đi cầu đạo, theo học với thầy là San-xà-da.
Maudgalaputra was born into a great brahman family and was a close friend of Sariputra since their youth. Sariputra was noted for his brilliant talent, while Venerable Maudgalaputra was reputed for his fine discernment. They were equals in genius and wisdom and were always together, whether traveling or staying at a place, having forged a lifelong friendship, and they vowed to take similar actions in their activities. Both of them grew disgusted with the world and renounced their homes together, serving Sanjaya as their teacher.
Khi ngài Xá-lợi tử gặp được A-la-hán Mã Thắng, nghe Pháp chứng thánh quả, trở về kể lại với tôn giả. Tôn giả nghe xong liền hiểu, chứng được sơ quả, nhân đó cùng với 250 đồ đệ tìm đến chỗ Phật. Đức Phật từ xa nhìn thấy liền chỉ tay nói với đại chúng: “Người đang đi đến kia sẽ là bậc đệ nhất thần túc trong các đệ tử của ta.”
When Sariputra met with the arhat Asvajit he heard the Dharma from the latter and attained sainthood. He immediately repeated what he had heard from the arhat to Venerable Maudgalaputra, who upon hearing the Dharma became enlightened and realized the first stage of sainthood. Maudgalaputra came to the place of the Buddha with his two hundred and fifty disciples. When the World-honored One saw him from a distance he pointed at the newcomer and told the assembly of monks, “That person coming from over there will become the disciple most notable for his miraculous powers.”
Khi đã đến nơi, ngài liền thỉnh cầu xin được xuất gia theo Phật. Đức Thế Tôn nói: “Lành thay, tỳ-kheo! Tu hạnh thanh tịnh được lìa khổ não.”
After arriving at the Buddha’s place Maudgalaputra requested that he be admitted into the brotherhood of the Dharma. The World-honored One replied to him, “Welcome, bhiksu! By living a pure life you will be free from the bondage of suffering.”
[Tôn giả] vừa nghe lời ấy xong, râu tóc liền tự rụng hết, y phục thế tục tự nhiên biến mất [thay vào bằng áo ca-sa], được giới phẩm đầy đủ thanh tịnh, uy nghi điều thuận. Trải qua bảy ngày liền dứt sạch lậu hoặc, chứng quả A-la-hán, được sức thần thông.
At the sound of these words Maudgalaputra’s beard and hair fell off and his secular garments changed. He observed the disciplinary rules in a pure manner and behaved in the proper way. After seven days he became free from the bondage of rebirth, attained arhatship, and gained miraculous powers.
Từ ấp Câu-lý-ca đi về hướng đông khoảng 1-1.5 km có một ngọn tháp, là nơi vua Tần-tỳ-sa-la nghinh đón đức Phật.
Three or four li to the east of the Maudgalaputra’s birthplace is a stupa at the spot where King Bimbisara welcomed the Buddha.
Khi đức Như Lai vừa mới chứng quả Phật, ngài biết lòng người ở nước Ma-yết-đà đang khát ngưỡng [giáo pháp] nên nhận lời thỉnh cầu của vua Tần-tỳ-sa-la, vào lúc sáng sớm đắp y, cầm bình bát, cùng với một ngàn vị tỳ-kheo đi theo hai bên, hết thảy [trước đây] đều là những Phạm chí kỳ cựu theo ngoại đạo bới tóc, mến mộ pháp Phật nên [xin được xuất gia] mặc áo hoại sắc. Các vị này cùng theo sau Phật vào thành Vương Xá.
After the Tathagata first realized buddhahood he sensed that the people of Magadha longed to meet him. At King Bimbisara’s invitation he dressed himself properly, took up his almsbowl one morning, and went to the city of Rajagjha accompanied by a thousand bhiksus. These bhiksus had formerly been brahmans who wore their hair in the shape of a conch on the top of their heads but in admiration of the Dharma they had donned the dyed robes to follow the Buddha.
Lúc bấy giờ, thiên vương Đế Thích biến thành một ma-na-bà, đầu bới tóc, tay trái cầm bình vàng, tay phải cầm gậy quý, chân đi trên không cách đất khoảng bốn lóng tay, làm kẻ dẫn đường cho Phật và Đại chúng.
At that time Indra transformed himself into a manava (a young brahman) wearing a topknot in the shape of a conch; he held a golden vase in his left hand, carried a precious staff in his right hand, and walked in the air four fingers’ [height] above the ground, leading the way for the Buddha among the congregation.
Khi ấy vua Tần-tỳ-sa-la của nước Ma-yết-đà cùng với các vị bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ trong nước, số đông đến trăm ngàn vạn người, có đủ nghi thức tiền hô hậu ủng, cùng ra khỏi thành Vương Xá để cung nghinh thánh chúng.
King Bimbisara of the country of Magadha, together with the brahmans, elders, and laypeople of his country, hundreds and thousands in number, came out of the city of Rajagrha to greet the group of holy monks.
Từ chỗ vua Tần-tỳ-sa-la nghinh đón Phật, đi về hướng đông nam hơn 6.5 km thì đến ấp Ca-la-tý-nã-ca (Kalapinaka), có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng. Đây là nơi sinh trưởng của tôn giả Xá-lợi tử. Có một cái giếng [từ thuở ấy] đến bây giờ vẫn còn. Bên cạnh đó có một ngọn tháp, là nơi tôn giả tịch diệt, trong tháp có xá-lợi thân của tôn giả để lại.
Going southeast for more than twenty li from the place where King Bimbisara welcomed the Buddha, I reached the town of Kalapinaka, in which there is a stupa built by King Asoka. This was the birthplace of Venerable Sariputra. The well is still in existenceand beside it is a stupa built at the spot where the venerable monk entered nirvana;d his relic bones are preserved in the stupa.
Tôn giả thuộc chủng tánh Đại Bà-la-môn, thân phụ ngài là người tài cao học rộng, hiểu sâu những lẽ huyền vi, bao nhiêu kinh điển cổ thư đều nghiên cứu học tập. Thân mẫu ngài nằm mộng và kể lại cho thân phụ ngài rằng: “Đêm qua, tôi mộng thấy một người kỳ lạ, thân mặc áo giáp, tay cầm [chày] kim cương, đập phá vỡ các ngọn núi, rồi lui lại đứng dưới một ngọn núi còn lại.”
Venerable Sariputra was born in a great brahman’s family. His father was a highly talented scholar of extensive knowledge, with deep insight into what was subtle and abstruse and well read in various texts. His wife once had a dream and told it to her husband, saying, “Last night I had a dream in which I saw a strange man clad in armor holding a diamond club in his hand. He demolished all the mountains, except the one by which he calmly stood.”
Thân phụ ngài nói: “Giấc mộng thật tốt đẹp. Bà chắc chắn sẽ sanh một đứa con trai, học thức vượt trội hơn hết trong thế gian, khuất phục hết thảy các luận sư, bác bỏ tất cả đường lối tông phái của họ, duy nhất chỉ thua kém một người nên làm đệ tử của người ấy.”
Her husband said, “It is a good dream. You will give birth to a son who will be a learned scholar in the world and defeat all scistra masters and refute their theories. He will be inferior to only one person and will become that person’s disciple.”
Quả nhiên sau đó mẹ ngài có thai, rồi bỗng nhiên trở nên rất thông minh sáng suốt, luận thuyết cao siêu, tranh biện cứng cỏi, ngôn từ lưu loát. [Rồi sinh ra] tôn giả, năm lên tám tuổi đã vang danh khắp chốn, tánh tình thuần hậu chân chất, giàu lòng từ bi, dứt bỏ mọi trói buộc, thành tựu trí tuệ. Ngài cùng với Một-đặc-già-la tử kết bạn từ thuở thiếu thời, cùng chê chán trần tục nhưng chưa biết nương theo đường nào, nên cùng nhau đến chỗ thầy ngoại đạo San-xà-da để tu tập. Hai người cùng bảo nhau: “Nơi này chưa phải chân lý rốt ráo, chưa thể thoát khỏi tất cả khổ đau. Mỗi chúng ta nên cầu tìm con đường sáng, ai nếm được vị cam lồ trước thì phải giúp người kia cùng hưởng.”
In the course of her pregnancy the woman suddenly became wise and intelligent and could carry on a discussion eloquently without faltering in her speech. When Venerable Sariputra was eight years old his name spread far to the four quarters. He was honest and guileless by nature and had a mind of compassion. He destroyed the bondage of rebirth and achieved wisdom. He was Maudgalaputra’s friend since their youth. They detested the world but did not know where to take refuge. So they went to the place of the heretic Sanjaya for spiritual practice and cultivation, but they told each other, “What we are learning here is not the ultimate troth; it cannot free us from the scope of suffering. We should each go by a [different] route to seek a brilliant teacher. Whichever of us tastes the sweet dew first must tell the other so that he may also enjoy it.” 
Lúc bấy giờ, ngài Đại A-la-hán Mã Thắng cầm bình bát đi vào thành khất thực. Ngài Xá-lợi tử nhìn thấy uy nghi phong thái thanh cao nhàn nhã liền thưa hỏi: “Thầy của ngài là ai?”
At that time the arhat Asvajit, almsbowl in hand, was going to the city on almsround. Seeing that he was peaceful and elegant in demeanor, Sariputra asked him, “Who is your teacher?”
Đáp rằng: “Thái tử dòng họ Thích chán bỏ thế tục, xuất gia thành bậc Đẳng Chánh Giác, đó là thầy của tôi.”
[Asvajit replied,] “The prince of the Sakya clan who, weary of the world, renounced his home and achieved full enlightenment, is my teacher.”
Ngài Xá-lợi tử lại hỏi: “Vị ấy dạy pháp gì, có thể nói cho tôi nghe được không?”
Sariputra said, “What Dharma did he preach? Can I hear of it?”
Đáp rằng: “Tôi mới học pháp, chưa đạt hết ý nghĩa thâm sâu.”
[Asvajit said,] “I have just started receiving instructions and I have not yet mastered the profound teachings.”
Ngài Xá-lợi tử nói: “Chỉ xin nói lại những gì ngài đã được nghe.”
Sariputra said, “Please tell me just as much as you have heard.”
Ngài Mã Thắng liền theo đó mà nói, ngài Xá-lợi tử nghe xong liền chứng sơ quả, sau đó cùng với 250 đệ tử đi đến chỗ Phật. Đức Thế Tôn từ xa trông thấy, chỉ tay nói với đại chúng rằng: “Đó sẽ là người có trí tuệ bậc nhất trong các đệ tử của ta.”
Asvajit then expounded the Dharma as was suitable for the occasion. On hearing the Dharma Sariputra attained the first stage of sainthood and, together with his two hundred and fifty disciples, he came to the place of the Buddha. When the World-honored One saw him from a distance he pointed at him and told the assembly of monks, “[That person] will be the foremost in wisdom among all my disciples.”
Khi đến nơi rồi, ngài liền đảnh lễ, xin được xuất gia theo học pháp Phật. Đức Thế Tôn nói: “Lành thay, tỳ-kheo!”
Sariputra saluted the Buddha and wished to follow the buddha-dharma. The World-honored One said to him, “Welcome, bhiksu!”
[Ngài Xá-lợi tử] vừa nghe xong câu ấy liền đầy đủ giới phẩm. Sau đó nửa tháng, nhân được nghe Phật thuyết pháp cho Phạm chí Trường Trảo, ngài có chỗ tự hiểu ra, liền chứng quả A-la-hán.
Hearing these words, Sariputra became a fully ordained monk and half a month later, when he heard the Buddha preaching the Dharma to the long-nailed brahman, he became enlightened and realized arhatship.
Về sau, ngài A-nan được Phật báo trước sắp đến lúc tịch diệt, liền truyền rộng đi tin đó cho mọi người, ai ai cũng xúc động buồn đau. Ngài Xá-lợi tử càng luyến tiếc ngưỡng vọng sâu sắc hơn, không chịu được việc sẽ nhìn thấy Phật nhập Niết-bàn, liền thỉnh cầu đức Thế Tôn xin được nhập diệt trước. Đức Thế Tôn nói: “Ông nên tự biết lúc nào thích hợp.”
Later, when Ananda heard about the time of the Buddha’s [approaching] nirvana, he spread the news to many people, who were aggrieved and saddened. Sariputra too was deeply saddened by the news. He could not bear the idea of the Buddha entering nirvana so he asked permission of the World- honored One to allow him to die first. The World-honored One told him, “You should know that this is the right time for you to do so.”
[Ngài Xá-lợi tử liền] từ biệt các đệ tử, quay về quê nhà. Vị sa-di thị giả thông báo khắp trong thành ấp đều biết. Vua Vị Sinh Oán và người dân trong nước vội vã kéo đến tập hội. Ngài Xá-lợi tử vì mọi người mà rộng thuyết giáo pháp, tất cả nghe xong lui về. Đến sau lúc giữa đêm, ngài điều tâm nhiếp ý, nhập phép định Diệt tận, rồi xuất định mới nhập tịch diệt.
[Sariputra] then departed from his disciples and returned to his native place. His attendant sramanera informed the inhabitants in the city and the towns of Sariputra’s intention. King Ajatasatru and the people of his country came in a great hurry and assembled together like clouds. Sariputra expounded the Dharma exten-sively for them and, after hearing the Dharma, the audience dispersed. Late in the night he concentrated his mind and entered the samadhi of complete cessation of sensation and perception. When he came out of the samadhi he passed into nirvana.
Từ ấp Ca-la-tý-nã-ca đi về hướng đông nam khoảng 1-1.5 km có một ngọn tháp, là nơi người đệ tử của tôn giả Xá-lợi tử nhập Niết-bàn, cũng có thuyết cho rằng đây là nơi 300.000 vị đại A-la-hán cùng lúc nhập Niết-bàn Vô dư vào thời Phật Ca-diệp-ba còn tại thế.
Four or five li to the southeast of the town of Kalapinaka is a stupa at the place where the disciples of Venerable Sariputra entered nirvana. It is also said that at the time of Kasyapa Buddha the great arhat Trikoti (koti meaning “one hundred million” in Chinese) entered final nirvana at this same place.
Từ ngọn tháp này đi về hướng đông hơn 10 km thì đến núi Nhân-đà-la-thế-la-cũ-ha Núi này khe vách âm u, cây cối um tùm, đỉnh núi có hai ngọn cao vút lên giữa trời.
Going to the east for more than thirty li from the stupa of Sariputra’s dis-ciples, I reached Indrasailaguha Mountain (known as Dishiku, “Indra’s Cave,” in Chinese). The mountain valleys are deep and quiet, with exuberant flowers and trees. There are two prominent peaks on the mountain’s summit.
Nơi sườn phía nam của ngọn núi phía tây có một hang đá lớn, rộng nhưng không cao lắm. Ngày xưa đức Như Lai thường dừng nghỉ nơi đây. Thuở ấy, Thiên Đế Thích từng mang 42 điều nghi vấn khắc lên đá để thưa hỏi, được đức Phật giảng giải, dấu tích ấy vẫn còn. Ngày nay ở đây có làm một pho tượng dựa theo dung nghi của Phật, người vào trong hang lễ bái ai ai cũng cảm thấy kính sợ. Phía trên sườn núi có di tích nơi bốn vị Phật quá khứ kinh hành và ngồi thiền.
On the south cliff of the west peak is a large cave, wide but not high, where formerly the Tathagata often stayed. In those days Indra carved marks on the rock concerning forty-two dubious points about which he inquired of the Buddham, who gave him explanations. The marks are still there. The present image [in the cave] was made in imitation of the posture of the Buddha as he was on that occasion. All of those who entered the cave to worship the image was inspired with a feeling of awe and veneration. On the crag of the mountain 925b are sites where the four past buddhas sat and walked back and forth.
Trên ngọn núi phía đông có một ngôi chùa. Dân gian ở đây truyền tụng rằng, tăng chúng trong chùa này thỉnh thoảng có người vào khoảng giữa đêm nhìn sang bên ngọn núi phía tây thấy trước hang đá thờ tượng Phật có đèn đuốc thường chiếu sáng. Phía trước chùa này có ngọn tháp Cắng-sa.
On the east peak is a monastery. The local people say that at night the monks of this monastery often see lamps and candles burning brightly before the image in the cave on the east peak.
In front of the monastery on the east peak of Indrasailaguha Mountain is a stupa named Hamsa (“Wild Goose”).
Thuở trước chùa này tu tập theo Tiểu thừa. Tiểu thừa là tiệm giáo nên cho phép việc dùng ba loại tịnh nhục, [chư tăng] chùa này cũng tuân theo như vậy. Về sau, có lúc không có ba loại tịnh nhục [để ăn], có một tỳ-kheo đang kinh hành, nhìn thấy bầy chim nhạn bay liệng quanh đó liền nói đùa rằng: “Hôm nay chúng tăng không đủ thức ăn, các vị bồ tát nên biết phải làm gì.”
The monks of this monastery once practiced the Hinayana teachings. Because these are gradual teachings, the monks were allowed to eat the three kinds of pure meat and this habit persisted. Later, after the three kinds of pure meat had become unobtainable, a bhiksu, while taking a walk, saw a flock of wild geese flying overhead. He said in jest, “Today the monks are running short of food for their midday meal. The Mahasattva should know that this is the right time [to make a sacrifice]!”
Lời nói chưa dứt liền có một con nhạn [tách khỏi đàn] bay lùi lại, rồi tự lao mình xuống chết ngay trước mặt vị tăng. Vị tỳ-kheo thấy vậy liền đem sự việc bạch trước chúng tăng, ai nấy nghe qua cũng đều xúc động thương xót, cùng bảo nhau rằng: “Đức Như Lai thiết lập phép tắc, vốn tùy căn cơ mà dẫn dắt, bọn chúng ta ngu muội chỉ biết tuân theo tiệm giáo. [Nay mới biết] Đại thừa là giáo lý chân chánh, chúng ta nên từ bỏ kiến chấp trước đây để chuyên tu theo đúng Thánh giáo của Như Lai. Con nhạn này đã răn nhắc thức tỉnh chúng ta, đích thật là bậc dẫn đường sáng suốt. Chúng ta nên biểu dương công đức sâu dày, truyền lại [việc này] cho muôn đời sau.”
Before he had finished speaking one of the wild geese flew back and dropped dead on the ground in front of the monk. Seeing this incident, the bhiksu related it to all the monks, who were sad to hear it and said among themselves, “The Tathagata preached the Dharma according to the faculty of understanding of those in the audience, in order to guide and induce them to enlightenment. We have been stupidly following the gradual teachings. The Mahayana tenets are the right principles and we should correct our former behavior and follow the holy teachings. This wild goose is our clever guide and it came to admonish us. Its great virtue should be glorified and the event transmitted to posterity.”
Do vậy, chư tăng liền xây dựng một ngọn tháp để xưng dương tán thán và đưa xác chim nhạn an táng bên dưới tháp.
Thus a stupa was built in memory of its spirit of sacrifice, and the dead goose was buried under it.
Từ núi Nhân-đà-la-thế-la-cũ-ha đi về hướng đông bắc khoảng 48-51 km thì đến chùa Ca-bố-đức-ca, có hơn 200 vị tăng sĩ, tu học theo phái Thuyết nhất thiết hữu. Phía đông của chùa có một ngọn tháp do vua Vô Ưu xây dựng, là nơi đức Phật từng vì đại chúng thuyết pháp một đêm.
Going northeast for one hundred and fifty or sixty li from Indrasailaguha Mountain, I reached Kapotaka (“Pigeon”) Monastery where more than two hundred monks lived; they study the teachings of the Sarvastivada school. To the east of the monastery is a stupa built by King Asoka. The Buddha once preached the Dharma to the monks at this place for an entire night.
Thuở ấy, có một người chuyên vào rừng giăng lưới bắt chim. Ngày ấy không bắt được con chim nào cả, tự nghĩ: “Ta thật là người bạc phước, làm chuyện gì cũng tệ hại.” Liền đi đến chỗ Phật, lớn tiếng nói rằng: “Hôm nay Như Lai thuyết pháp ở đây, khiến cho tôi giăng lưới không bắt được gì, vợ con tôi đói khát, ngài bảo tôi phải làm sao?”
Meanwhile a bird catcher was catching some of the feathered tribe with a net in the wood but he failed to get any birds for a whole day. He said, “I lack good fortune and whatever I do is always adverse for me.” He came to the place of the Buddha and declared, “Today the Tathagata is preaching the Dharma here and I am unable to catch any birds with my net. What should I do to feed my starving wife and children?”
Đức Như Lai nói: “Ông hãy nhóm lửa lên, ta sẽ cho ông món ăn.”
The Tathagata told him, “Build a fire! I shall give you food.”
Khi ấy, đức Như Lai biến hóa ra một con chim bồ câu lớn, tự lao vào trong lửa mà chết. Người ấy mang chim về, cùng ăn với vợ con.
The Tathagata then took the form of a pigeon and burned himself to death in the fire. The bird catcher took the dead pigeon home and ate it with his wife and children.
Về sau ông quay lại chỗ Phật lần nữa, đức Như Lai liền dùng phương tiện nhiếp phục giáo hóa, người giăng lưới ấy nghe pháp rồi liền hối lỗi, tự thay đổi tính tình, xuất gia tu học, chứng được quả thánh. Cho nên ngôi chùa xây dựng ở đây có tên là chùa Bồ Câu.
Later, he returned to the place of the Buddha, who converted him in an appropriate way. On hearing the Dharma the bird catcher repented of his misdeeds, made a fresh start in life by relinquishing his home for spiritual cultivation, and realized sainthood. Thus the monastery constructed at this place was named Pigeon Monastery.
Từ chùa Bồ Câu đi về hướng nam khoảng 1 km thì đến một ngọn núi nằm lẻ loi. Núi cao sừng sững, cây rừng rậm rạp xanh tốt, hoa thơm phủ khắp sườn núi, suối trong chảy theo khe sâu. Trên núi có nhiều tinh xá và miếu thờ, kiến trúc điêu khắc cực kỳ tinh xảo công phu. Trong tinh xá ở giữa núi có tượng đức Bồ Tát Quán Tự Tại, kích thước tuy nhỏ nhưng uy nghi trang nghiêm, tay cầm hoa sen, trên đỉnh đầu có tượng Phật. Thường có nhiều người đến đây, phát tâm nhịn ăn mong cầu được thấy Bồ Tát [hiện hình], có khi bảy ngày, hoặc mười bốn ngày, cho đến một tháng. Nếu [tâm thành đủ] chiêu cảm liền thấy đức Bồ Tát Quán Tự Tại diệu tướng trang nghiêm, hào quang oai thần rực rỡ, từ trong tượng bước ra, an ủi khích lệ người ấy.
Two or three li to the south of Kapotaka Monastery is an isolated hill that 925c is tall and precipitous, covered by splendid flowers, with luxuriant trees and clear streams. On the hill there are many beautifully constructed temples and shrines with most exquisite carvings and engravings. In the central temple an image of Avalokitesvara Bodhisattva is enshrined; it is small in size but august and mystical in spiritual manifestation. The figure holds a lotus flower in one hand and has a small statuette on its forehead. Some people once fasted and prayed earnestly for seven days, a fortnight, or even one month here, wishing to see the bodhisattva in person. Someone who had gained spiritual influence saw [Avalokitesvara] Bodhisattva, a majestic and stately figure with a bright radiance, come out of the image to give him comfort and advice.
Thuở trước có lần vua Tăng-già-la ở Nam Hải, một buổi sáng kia nhìn vào gương soi mặt bỗng nhiên không thấy mặt mình, thay vì vậy lại thấy rõ tượng Bồ Tát này, nằm giữa rừng Đa-la, trên một ngọn núi ở nước Ma-yết-đà trong châu Thiệm-bộ. Nhà vua hết sức mừng vui xúc động, [liền cho người] vẽ lại [như đã thấy] để theo đó đi tìm. Khi tìm đến núi này thì gặp được [pho tượng Bồ Tát] quả thật giống hệt [như đã thấy]. Nhân đó liền xây dựng tinh xá, mang phẩm vật đến cúng dường rất nhiều. Từ đó về sau, các vua khác vẫn nhớ đến và noi theo việc này nên gần kề bên [tinh xá] đó cũng xây dựng lên nhiều tinh xá, miếu thờ, rồi thường mang hương hoa, các loại âm nhạc đến cúng dường không ngớt.
In former times, the king of the country of Simhala in the South Sea looked in his mirror one morning but he did not see his own reflection, and instead saw the image of this bodhisattva in a wood of tala trees on a small hill in the country of Magadha in Jambudvipa. Deeply delighted, the king set out to seek the image. When he came to this hill he found that the image here was similar to the one he had seen in his mirror, so he built the temple and made various offerings to the image. The kings of later times followed his example and built more temples and shrines beside it; offerings of incense, flowers, and music were made incessantly.
Từ nơi tượng Bồ Tát Quán Tự Tại này đi về hướng đông nam khoảng 13 km thì đến một ngôi chùa, tăng chúng hơn 50 người, thảy đều tu học theo giáo pháp Tiểu thừa. Phía trước chùa có một ngọn tháp lớn, có nhiều điều linh dị, là nơi ngày xưa đức Phật đã vì Phạm thiên vương thuyết pháp trong bảy ngày. Kế bên có di tích nơi ba vị Phật quá khứ ngồi thiền và kinh hành.
Going southeast for more than forty li from the image of Avalokitesvara Bodhisattva on the isolated hill, I reached a monastery with more than fifty monks, all of whom studied the Hinayana teachings. In front of the monastery is a great stupa that revealed miraculous signs many times. Formerly the Buddha preached the Dharma to Brahma and others at this place for seven days. Beside it are ruins where the three past buddhas sat and walked back and forth.
Từ chùa này đi về hướng đông bắc khoảng 23 km thì đến một khu dân cư lớn, nằm trên bờ phía nam của sông Căng-già, dân cư thịnh vượng, giàu có. Có một số đền thờ Phạm thiên, tất cả đều điêu khắc trang sức rất mực công phu.
Going northeast for more than seventy li from the monastery I reached a big village south of the Ganges River, with a dense population of prosperous villagers. There are several deva temples, all beautifully adorned with engravings.
Về phía đông nam không xa lắm, có một ngọn tháp lớn, là nơi đức Phật ngày xưa từng thuyết pháp một đêm.
Not far to the southeast is a great stupa at the place where the Buddha once preached the Dharma for one night.
Từ nơi đây về hướng đông là vào vùng rừng núi, đi hơn 32 km thì đến khu dân cư Lạc-ban-nị-la (Lavanila). [Nơi đây có] một ngôi chùa, phía trước chùa có ngọn tháp lớn do vua Vô Ưu xây dựng, là nơi ngày xưa đức Phật từng thuyết pháp trong ba tháng. Từ đây đi về hướng bắc khoảng 1 km có một hồ nước lớn, chu vi khoảng 10 km, có hoa sen đủ bốn màu, nở quanh năm.
Going east from here through mountains and forests for over one hundred li, I reached Lavanila Village. The great stupa in front of the monastery here was built by King Asoka. The Buddha once preached the Dharma here for three months. Two or three li to the north of this place is a large lake more than thirty li in circuit with lotus flowers in four colors blooming all four seasons of the year.
Từ đây về hướng đông là vào khu rừng núi rộng lớn, đi khoảng 65 km thì đến nước Y-lan-noa-bát-phạt-đa (Iranaparvata), thuộc miền Trung Ấn.
Going east from here through great mountains and forests for more than two hundred li, I reached the country of Iranaparvata (in the domain of Central India).
End of Fascicle IX of The Great dang Dynasty Record of the Western Regions

Hình minh họa: Đồ họa thể hiện hành trình qua các thánh tích trong nước Ma-yết-đà – Phần 2 - Quyển 9 - Tây Vực Ký



    « Xem chương trước «      « Sách này có 15 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.135.209.231 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

Việt Nam (161 lượt xem) - Senegal (13 lượt xem) - Hoa Kỳ (12 lượt xem) - ... ...