Bồ Tát Quán Âm, một lòng chỉ nghĩ đến chuyện cứu độ trăm họ trong thiên
hạ, thường hay quan sát những áng mây lững lờ bay trên trời. Một hôm,
Ngài thấy bầu không khí ở bên trên vùng tây bắc tỉnh Vân Nam nổi lên
từng cuộn mây mịt mù nồng nặc ác khí, và những đám mây ấy tụ thật lâu
không tan, Ngài biết ngay rằng ở đấy chắc chắn đang xảy ra chuyện không
lành. Ngài liền gọi Thiện Tài và Long Nữ lại bảo rằng:
– Hôm nay ta quán thấy trời Vân Nam đầy mây oan khí ác, chắc chắn rằng
dân chúng chỗ ấy đang bị tai ương, chúng ta hãy đến đó xem có chuyện chi
và giúp đỡ trăm họ thoát khỏi ách nạn.
Ba người lập tức cưỡi mây lành đến Vân Nam, và giáng hạ vào một ngôi
làng trên núi. Ngài Quán Âm hóa thành một ông lão, Thiện Tài Long Nữ hóa
thành hai đứa con trai và con gái của ông. Lúc ấy hoàng hôn đã phủ xuống
vạn vật, nhưng sao không thấy nhà nào lên đèn, cửa nhà nào cũng đóng
chặt kín, không một tiếng động, ngay cả tiếng chim kêu chó sủa cũng rất
hiếm. Cả một ngôi làng chìm trong bầu yên lặng rùng rợn như cõi chết.
Ngài Quán Âm cảm thấy có điều gì bất ổn, không biết có chuyện quái đản
gì đã xảy ra ở chỗ này khiến cho dân chúng phải sống trong cảnh thê
lương như vậy, nên nhất định tìm hiểu nguyên do.
Ba người tìm đến trước cửa một ngôi nhà bề ngoài trông có vẻ giàu sang
sung túc, nhưng gõ cửa thật lâu mà không hề nghe động tĩnh gì bên trong.
Ngài Quán Âm lại gõ cửa, vừa gõ vừa nói lớn:
– Ba cha con chúng tôi là người từ xa đi ngang làng này, trời đã tối,
xin cho chúng tôi ngủ nhờ một đêm!
Thật lâu sau mới nghe tiếng chân người, rồi cánh cửa mở ra he hé, và
giọng một bà lão hỏi vọng ra:
– Mấy người từ đâu tới? Tới đây để làm gì?
Ngài Quán Âm trả lời:
– Chúng tôi từ miền đông đến đây thăm người thân, chiều nay đi ngang nhà
bà, xin bà rộng lòng cho chúng tôi tá túc một đêm.
Qua khe cửa mở hé, bà lão nhìn thấy một ông lão và hai đứa bé, vốn là
người phúc hậu nên bà mở rộng cửa ra cho ba người bước vào nhà. Ngồi vào
nhà khách rồi, ngài Quán Âm mới hỏi bà lão:
– Thưa cụ, thôn ta có chuyện chi xảy ra vậy, tại sao ngoài đường không
có lấy một bóng người, cửa nhà nào cũng đóng cửa im ỉm, đèn đuốc cũng
không ai thắp nữa là vì sao?
Bà lão thở dài nói:
– Quý vị không biết mấy tháng nay làng chúng tôi bị một chướng nghiệp
thê thảm đến dường nào! Ôi! Trước kia làng chúng tôi đâu có như thế này,
vùng Thương Sơn Nhĩ Hải này đất đai thì màu mỡ phì nhiêu, nhà nhà sinh
sống trong cảnh yên vui khá giả, đồng thời ai cũng tốt bụng và hiếu
khách, khách lạ phương xa đến làng lúc nào cũng được tiếp đãi nồng
nhiệt, có đâu như bây giờ, mọi nhà đều sống trong phập phồng bất an, ai
còn tâm trí đâu mà tiếp đãi khách…
Thiện Tài đứng ở bên cạnh, hỏi:
– Thưa cụ, ở đây xảy ra chuyện gì đáng sợ đến thế?
Bà cụ đáp:
– Năm ngoái có một con yêu quái đến đây. Con yêu này không biết từ đâu
đến, nó đặc biệt độc hại và hung ác, chỉ chuyên ăn cặp mắt của những đứa
trẻ, hoặc là con trai, hoặc là con gái nhưng phải là con một duy nhất
trong một gia đình. Hiện nay, xung quanh cả vùng này không thể tính đếm
được những người đã bị nó hãm hại, có những đứa trẻ bị nó móc mắt đã trở
thành mù loà, đi khắp nơi để ăn xin. Có những đứa trẻ không muốn sống
nữa nên nhảy xuống sông tự sát. Có những đứa khác trở nên điên loạn,
thật là thê thảm. Con yêu quái này có nhiều thần thông nên biết đi mây
lướt gió, biến hóa muôn hình, đi lại không để dấu vết. Nó rất hung ác,
lại có sức mạnh vô song, nó có thể bắt một con bò xé làm hai mảnh, hay
dùng chân đá một khối đá lớn văng ra xa một vài dặm. Nó đã cưỡng bách
dân làng xây riêng cho nó một cái miếu, quy định rằng cứ ngày 30 mỗi
tháng phải cống hiến cho nó một đứa bé, mà phải là con một trong gia
đình, bỏ đứa bé trong miếu để nửa đêm nó về ăn. Nhà nào chỉ có một đứa
con trai hay con gái duy nhất thì nhà ấy xui xẻo, có ai có thể đành đoạn
đem con mình tới miếu cống hiến cho yêu quái bao giờ! Nhưng nó đã rêu
rao rằng nếu ai dám không tuân, nếu tháng nào nó không có mắt trẻ con để
ăn, nó sẽ đạp thôn này thành bình địa. Cho nên chúng tôi không có cách
nào khác hơn là rút thăm, ai xui xẻo bắt trúng thăm chỉ đành đưa đứa con
độc nhất của mình đến miếu để bảo toàn sự sống cho dân làng.
Thật ra, không nhà nào có thể chịu đựng được, nửa đêm nghe tiếng thét
thảm thiết của đứa bé trong miếu vọng ra, ai nghe cũng cảm thấy ruột đứt
làm trăm mảnh! Tháng trước xảy ra chuyện bất thường, đứa bé bị bắt thăm
đã được đưa vào miếu rồi nhưng trốn ra được, con quái vật thấy nó bỏ
trốn bèn nổi trận lôi đình chạy vào làng giết chết hơn mười người, người
nào cũng chết không toàn thây, tim và phổi bị móc phơi ra ngoài, thật là
khủng khiếp và thê thảm. Con yêu quái còn hăm rằng nếu còn xảy ra chuyện
này một lần nữa thì nó sẽ giết trọn cả làng. Vì thế dân làng nghe nói
đến con quỷ ấy thì vừa hận vừa sợ, rất nhiều người đã đem gia đình con
cái lưu lạc sang xứ khác, những người còn lại không đi được thì lúc nào
cũng nơm nớp lo sợ. Trời ơi nếu không trừ con yêu quái này thì làm sao
chúng tôi tiếp tục sống nổi đây? Tuy nhiên, ai là người trừ khử nó được?
Cách đây vài ngày có một thầy tu, phẫn nộ quá nên liều mình tìm cách trừ
con yêu quái, suýt nữa mất mạng. Tại sao không có Bồ Tát nào đến cứu
chúng tôi hở trời?
Nghe bà lão vừa khóc vừa kể, Bồ Tát Quán Âm rất căm giận. Ngài nghĩ
rằng: “Con yêu quái này độc hại như thế thì chắc chắn phải là một loại
hung thần ác sát nào đây. Loại yêu quái này rất có thể từ địa ngục lên.
Trước hết, ta phải điều tra cho rõ ràng mới được”. Nghĩ thế xong, Ngài
an ủi bà lão:
– Cụ không phải sợ hãi nữa, rồi con yêu quái này thế nào cũng sẽ bị hàng
phục.
Bồ Tát Quán Âm ngầm ra hiệu cho Thiện Tài, Long Nữ ở lại bầu bạn bên
cạnh bà lão, còn mình thì lưu lại một thân giả, còn thân thật thì nhảy
vọt lên mây. Ngài cưỡi mây lập tức đến cửa địa ngục. Diêm La Vương vội
vàng bước ra nghênh tiếp:
– Quán Âm Đại sĩ giá lâm mà chúng tôi không ra nghênh đón từ xa, thật là
thiếu sót! Lâu quá không thấy Đại sĩ quang lâm địa ngục, không biết hôm
nay Ngài đến đây có điều chi dạy bảo?
Bồ Tát Quán Âm nói:
– Tôi đến đây điều tra một việc, vừa rồi ở Thương Sơn Nhĩ Hải xuất hiện
một con quỷ chỉ chuyên ăn mắt của những đứa trẻ con một trong gia đình.
Tôi ước chừng loại hung thần ác sát ấy có thể từ địa ngục các ông trốn
lên. Vậy cách đây vài tháng, có con quỷ nào trốn thoát ra không?
Diêm La Vương nghe thế không ngừng dập đầu lạy mà nói:
– Cách đây ba tháng, quả nhiên có một con quỷ chuyên việc gác ngục đã
chạy thoát ra khỏi chốn này. Điều này do tôi canh quản không đủ nghiêm
mật, xin Bồ Tát tha tội, tôi xin đi bắt nó trở về đây ngay.
Ngài Quán Âm nói:
– Quả nhiên là như thế. Con ác quỷ làm đủ tội ác ở nơi ấy, không thể dễ
dàng tha thứ cho nó được. Tôi nghĩ ông không cần phải đi bắt, để tôi
khắc phục nó và giam nó ở trên đỉnh Ngũ Đài, để đời đời nó không bao giờ
chạy thoát và làm ác được nữa.
Diêm La Vương gật đầu liền liền biểu lộ sự đồng ý:
– Đại sĩ dạy thế cũng phải, xin Bồ Tát tùy tiện xử trị con ác quỷ La sát
ấy. Từ đây về sau tôi quyết sẽ canh chừng cẩn mật hơn để không có con
quỷ nào khác có thể trốn ra.
Ngài Quán Âm dùng mây lành trở về, nhập vào cái thân giả đang ở nhà bà
cụ già và hỏi:
– Bao giờ con yêu quái trở lại làng này? Cụ đừng sợ nữa, chúng tôi sẽ đi
bắt nó.
Bà lão vừa kinh ngạc vừa nghi ngờ:
– Cụ và hai cháu đây chỉ có ba người mà đòi đi bắt yêu quái sao được?
Các vị nên cẩn thận là hơn.
Rồi bà chỉ Thiện Tài mà nói:
– Nếu cậu đây là con trai duy nhất trong nhà thì nguy hiểm lắm, các vị
nên bỏ trốn là tốt hơn cả.
Ngài Quán Âm đáp:
– Cụ không phải lo cho chúng tôi, chúng tôi đã có cách. Chỉ xin cụ cho
biết bao giờ con yêu quái trở lại đây là được.
Bà lão bán tín bán nghi trả lời:
– Ngày mai là đúng ngày 30, con yêu quái thế nào cũng trở lại. Chúng tôi
đã rút thăm, rút trúng đứa con trai duy nhất của nhà lão Tôn. Nếu các vị
thật sự có bản lĩnh thì xin cứu con trai của lão Tôn.
Nói xong bà dọn cơm cho ba cha con ăn, ăn xong mọi người trở về chỗ ngủ
của mình nghỉ ngơi.
Hôm sau, Ngài Quán Âm cùng Thiện Tài, Long Nữ đi bộ một vòng trong thôn
làng, thấy có vài đứa trẻ mù loà ngồi trước cửa nhà mình, trông thật là
đáng thương, ai nhìn cũng đau lòng. Long Nữ, Thiện Tài thấy chúng như
thế cảm thấy quá thương tâm, lắc đầu thở dài mà hỏi ngài Quán Âm:
– Sư phụ, những đứa trẻ này có thể sáng mắt lại không?
Bồ Tát Quán Âm nói:
– Chiều nay, sau khi hàng phục yêu quái, ta sẽ bắt nó nhả ra lại tất cả
những đôi mắt mà nó đã nuốt, rắc chút nước cam lồ lên rồi gắn trả lại
cho những đứa trẻ ấy, chúng nó sẽ sáng mắt trở lại, các con đừng lo.
Ba người đến trước cái miếu mà dân làng đã xây riêng cho ác quỷ, thấy
nơi ấy đã tụ tập nhiều người dân làng, họ nghe nói ba cha con này tình
nguyện đi hàng phục yêu quái nên họ rủ nhau kéo đến. Họ cũng biết rằng
nơi đây sẽ xảy ra một trận chiến ác liệt, nên họ đến cầu nguyện cho yêu
quái bị hàng phục và cho ba cha con được bình yên vô sự.
Dân làng nói với Bồ Tát Quán Âm rằng:
– Thưa cụ, ba cha con cụ một già hai trẻ làm sao có thể hàng phục yêu
quái được?
Rồi họ lại đem những chuyện tàn ác độc hại của yêu quái ra kể lại một
lần nữa. Bồ Tát Quán Âm nói với mọi người:
– Các vị là người lương thiện, người lương thiện tự nhiên sẽ được Bồ Tát
che chở bảo hộ, còn yêu quái làm ác thì thế nào cũng bị thu phục, xin
quý vị hãy tin tôi.
Dân làng lại hỏi:
– Nhưng Bồ Tát ở đâu? Nếu không hàng phục được yêu quái thì chúng tôi sẽ
không chịu đựng được nổi nữa, con em chúng tôi bị tàn hại nhiều rồi!
Bồ Tát Quán Âm nói:
– Hỡi dân làng, xin hãy nhìn kìa, Bồ Tát đến rồi.
Ngài đưa tay chỉ, mọi người nhìn theo hướng ngón tay của ngài, thấy một
luồng ánh sáng vàng rực từ trời chiếu xuống, trong nháy mắt đã trở thành
một vòng tròn ánh sáng, bên trong có một thiên tướng mặc áo giáp, đội mũ
sắt, tay cầm chùy báu, thật là nghiêm trang uy dũng. Khi dân làng thấy
có thiên tướng xuất hiện, ai cũng quỳ xuống đất lễ lạy, nhưng khi họ
ngẩng đầu đứng dậy thì thiên tướng và vòng tròn ánh sáng đã ẩn mất. Khi
thấy được thiên tướng rồi dân làng mới biết rằng ba cha con này không
phải là người tầm thường, nên tỏ vẻ tin cậy. Ngài Quán Âm nói với mọi
người:
– Bây giờ thì quý vị có thể an tâm rồi. Tối nay, xin mọi người đừng ra
đây tìm cách giúp đỡ, chỉ cần quý vị chuẩn bị cho chúng tôi một cây côn
dài và dấu đằng sau cửa, rồi sau đó ai về nhà nấy ngủ, sáng mai thức dậy
sẽ có tin vui.
Dân làng biết ba cha con nhà này thật sự phi phàm, họ bèn kéo tay ngài
Quán Âm cám ơn nhiều lần, nhắc nhở Ngài phải hết sức cẩn thận.
Đêm hôm ấy trời không trăng sao, bốn bề tĩnh lặng.
Đúng nửa đêm, một luồng ánh sáng xanh xẹt ngang trời, âm u rùng rợn, sau
đó là một làn gió quái lạ thổi đến mang theo một luồng yêu khí nồng nặc.
Lúc ấy Bồ Tát Quán Âm đã hóa thành một đứa bé trai ngồi trong miếu của
La Sát, Thiện Tài hóa thành một vị thiên tướng cao lớn uy nghi, mai phục
ở một bên miếu, còn Long Nữ thì lo bảo vệ đứa bé trai thật đã bị đem vào
cống hiến làm mồi cho quỷ.
Gió quái và yêu khí càng lúc càng nồng, tiếp theo liền là một tiếng kêu
thảm thiết xé màn đêm, và một con quái vật khổng lồ từ trời rơi xuống,
xồng xộc chạy vào miếu. Trong nháy mắt con quái vật biến thành một con
ác quỷ la sát đầu có mọc hai sừng, thân mọc sáu tay, đi thẳng tới trước
mặt đứa bé. Vừa thấy đứa bé trong miếu, ác quỷ bèn rú lên một tràng cười
hiểm độc, sáu cánh tay quờ quạng một cách hung ác. Nhưng sao hôm nay con
yêu quái cảm thấy đứa bé trong miếu dường như có điều chi lạ lạ. Thường
khi, những đứa trẻ khác thấy nó thì sợ hãi khóc thét lên, nhưng hôm nay
đứa bé trai này không những không khóc mà còn đưa ngón tay chỉ thẳng vào
người nó.
Con yêu quái chưa kịp có phản ứng cũng không biết điều chi đang xảy ra,
đã thấy cả vạn tia ánh sáng vàng bắn tới thân, sáu bàn tay của nó lập
tức bị những tia ánh sáng ấy cột chặt lại không động đậy được. La sát
giật mình kinh hãi, dùng hết sức mình để vùng vẫy nhưng sáu bàn tay đã
bị trói chặt cứng, toàn thân cũng bị ánh sáng vàng ấy khóa lại không sao
cử động. La sát cảm thấy không xong, muốn chạy trốn ra khỏi lưới ánh
sáng vàng, nhưng ngay lúc ấy liền thấy trước mặt mình có một vị thiên
tướng vô cùng cao lớn, trợn tròn đôi mắt giận dữ, tay cầm chùy báu chận
lại và đánh xuống. La sát bị đánh ngã nhào xuống đất, khi nó lồm cồm bò
dậy nhìn lại một lần nữa thì thấy đứa bé ban nãy đã biến thành Quán Thế
Âm Bồ Tát, tay cầm tịnh bình, đầu đội mũ báu, chân đạp hoa sen. Hắn bèn
dập đầu không ngừng xin tha mệnh: “Bồ Tát thứ tội! Bồ Tát thứ tội!”
Ngài Quán Âm giận dữ mắng một tiếng “Súc sinh!” rồi dùng tay chỉ một
cái, những tia ánh sáng đang trói thân ác quỷ liền biến thành những sợi
dây thừng bằng sắt cột lại thật chặt, khiến nó đau đớn kêu lên:
– Bồ Tát tha tội cho con, con không dám hại người nữa!
Bồ Tát Quán Âm đứng trên hoa sen, nhìn xuống ác quỷ đang quỳ dưới đất mà
nói:
– Súc sinh kia, tại sao không lo canh gác dưới địa phủ mà lên cõi nhân
gian tạo tội ác, tàn hại không biết bao nhiêu đứa trẻ, vạn ác không từ,
đáng lẽ phải đập tan thân mi thành vạn mảnh để giải hận cho những người
đã bị mi hãm hại. Nhưng nay ta cho mi một cơ hội chuộc tội, mi phải nhả
ra hết đây những cặp mắt mà mi đã nuốt!
Ác quỷ La sát lập tức nhận lời, khấu đầu không ngừng:
– Vâng, con xin nhả ra hết, chỉ xin đại sĩ khai ân, tha cho con mạng
sống này!
Ngài Quán Âm dùng tịnh bình tiếp lấy từng con, từng con mắt một. Sau đó
Ngài vẫy tay, một đóa mây đen bọc kín La sát lại lôi về đỉnh Ngũ Đài,
nhốt dưới một tảng đá lớn, vĩnh viễn không xoay trở được.
Ngài Quán Âm bắt giam La sát ra sao, dân làng đều trông thấy rõ ràng
từng chi tiết. Thì ra Ngài đã dùng thần lực khiến cho dân làng nằm mộng
thấy cuộc đấu giữa Ngài và La sát, cho nên tuy họ không có mặt trong
miếu mà cũng như có mặt vậy. Hơn nữa, trong mộng họ còn thấy, sau khi La
sát bị trói quỳ dưới đất, họ đã ùn ùn chạy tới đánh nó một trận để hả
nỗi căm hờn.
Hôm sau trời vừa sáng, dân làng thức dậy thì lại thấy một điều lạ lùng
khác: những đứa trẻ mù đã sáng mắt lại! Thì ra Bồ Tát Quán Âm đem những
con mắt đã thu được trong tịnh bình gắn trả lại cho những đứa trẻ mù,
khiến chúng trở lại hoàn hảo như xưa. Dân làng vô cùng hân hoan, nhốn
nháo kéo nhau đến miếu La sát, nhưng trong miếu không có lấy một bóng
người, ngay cả ba cha con ông già cũng không thấy nữa!
Trong lúc dân làng còn đang ngạc nhiên, thì rán nắng hồng tỏa ra trên
một đỉnh núi xa, trong ánh rán nắng xuất hiện bảo tướng trang nghiêm của
Bồ Tát Quán Âm, tay Ngài cầm tịnh bình, trong bình có cắm nhành dương
liễu. Ngài đi chân không đứng trên tòa sen báu, có Thiện Tài và Long Nữ
đứng hai bên. Dân làng lập tức quỳ xuống lễ bái, và những đứa bé mù đã
sáng mắt cũng dập đầu nghe “cốp, cốp” liên tục lớn tiếng kêu lên: “Đa tạ
đại ân đại đức Bồ Tát Quán Âm!”.
Trong không trung xa xa có tiếng Ngài Quán Âm vọng lại:
– Hỡi dân làng, các vị hãy nhớ kỹ, chỉ cần các vị nhất tâm hướng thiện,
tất nhiên sẽ được Bồ Tát bảo hộ.
Khi dân làng ngước lên thì rán nắng hồng trong không trung đã biến mất,
Bồ Tát Quán Âm cùng Thiện Tài, Long Nữ cũng không thấy nữa. Dân làng
cùng những đứa bé đều cảm kích, một lần nữa nhìn lên không trung mà bái
lạy.
Để ghi tạc trong lòng ân đức Bồ Tát Quán Âm đã hàng phục La sát, dân
làng bèn quyên tiền quyên vật biến miếu La sát thành am Quán Âm, bên
trong có tạc lại bảo tướng của Quán Âm Đại sĩ. Bức tượng này vẫn giữ
nguyên vẹn vẻ đẹp bên ngoài của đức Quán Âm môi hồng mắt liễu mày ngài,
nhưng lại căn cứ vào hình dáng ông lão do ngài Quán Âm hóa thân đương
thời để hàng phục La sát, nên họ còn vẽ thêm hai hàng râu mép nhỏ rức
như hai dấu phẩy.
Từ đó về sau ở khu vực Thương Sơn Nhĩ Hải, phần đông dân chúng đều quy y
Phật, tạo nên phong khí một vùng mà ai cũng nhất tâm hướng thiện, kính
thờ Phật Pháp, dân chúng trở nên thuần hậu. Con quỷ La sát một thời lộng
hành ở Thương Sơn Nhĩ Hải chuyên ăn mắt những đứa trẻ con một trong gia
đình, vĩnh viễn bị giam giữ trên đỉnh Ngũ Đài của Thương Sơn. Dân làng
còn xây một cái “gác La Sát” ở ngay trên ấy, bên trong có tạc hình một
vị thiên tướng Kim Cang để canh giữ nó.
Tòa gác La Sát này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, du khách có dịp đến
Thương Sơn có thể nhìn thấy. Ở vùng ấy, ai ai cũng biết chuyện Ngài Quán
Âm hàng phục La sát, đến nay vẫn còn được lưu truyền.