"Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi."
Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt,
luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Người ta thuận theo sự mong ước tầm thường, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa.Kinh Bốn mươi hai chương
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Giải thích Phẩm Dược Thảo Dụ
Ở trong nầy có cả núi, sông, mây, mưa. Riêng
chỉ nói thí dụ về cỏ thuốc làm tiêu đề. Đất đai là chỗ hay sanh. Mây, mưa là việc hay nhuần thấm. Cây cỏ là chỗ sanh và chỗ thấm. Chỗ sanh, chỗ nhuận ấy thông suốt tất cả đều có chỗ dùng được; mà dược thảo thì dùng nhiều hơn. Các việc thiện hữu lậu đều có thể trừ các việc ác, vô lậu là tối cao. Trong những vị vô lậu ấy có 4 vị Đại Đệ Tử. Dùng dụ để lãnh hội sự thâm sâu gặp gỡ với thánh tâm của Phật. Phật ca ngợi là lành thay và thật là hy hữu. Thuật lại việc nầy có thể giải rõ được và dùng dụ của người nầy, cho nên gọi là phẩm Dược Thảo Dụ.
Phàm là cỏ thuốc thì phải chăm lo nhiều ngày. Nhờ mây mưa mà cành lá, mầm rễ tốt tươi bên ngoài. Bên trong thì đượm nhuần sức sống. Dụ cho các vị vô lậu trụ ở thân sau cùng là hữu dư Niết Bàn. Lại chẳng nguyện cầu vô thượng đạo mà nay được nghe kinh và tự lên được Phật Thừa, đồng với kẻ chuyên chở.
Kinh rằng: Chúng con ngày nay thật là những Thanh Văn, dùng Phật đạo nghe và làm cho tất cả được nghe. Trong ngoài đây đó tất cả đều dùng đến lực ưu việt. Cho nên được gọi là Dược Thảo Dụ phẩm. Phàm là cỏ thuốc thì có thể trừ được 4 loại gió lạnh. Bổ dưỡng ngũ tạng, sắc diện tươi tỉnh. Nay nhờ mây mưa bỗng nhiên thành Dược Vương. Dùng để trị bịnh cho chúng sanh, biến thể thành tiên. Dụ về các lậu khi nghe thì trải qua sự phá bỏ vô minh hoặc và khai mở tri kiến Phật.
Kinh rằng: Chúng con ngày nay thật là những Phật tử. Vô thượng đồ quý báu chẳng cầu mà có được. Phật tử muốn được gì thì tất cả đều đã được. Đối trước Phật đã được thọ ký. Vui thắm mà gọi vậy; cho nên nói là phẩm Dược Thảo dụ. Trước đây một lần là Thầy trò lãnh nhận sự thuật lại cái ý của thế giới Tất Đàn (thành tựu). Kế đến một lần ý nói về việc sanh làm người lành. Kế tiếp một lần đối trị với nghĩa đệ nhứt. Đây là ý của 2 Tất Đàn vậy. Đây lại có tên là phẩm giải thích về nhơn duyên. Ngoài ra dạy cho Bản Tích, quán tâm theo thí dụ có thể rõ; chẳng nói thêm nữa v.v…
Phẩm nầy là nói thí dụ về giai đoạn thành thục thứ
3. Xưa bảo rằng: Thuật lại điều nầy có 13 kệ tán thán ân đức sâu dầy của Phật. Lại nữa thuật nầy chỉ dạy công việc cho người. Câu văn dụ ấy nói khúc mắc nhiều lời. Sư bảo rằng: Chẳng nên thiên lệch như thế. Kinh gọi là những điều nói lành về những công đức chơn thật của Như Lai. Chuẩn bị lời thuật nầy về lãnh quyền, lãnh thuật, làm rõ câu văn tại nơi đây. 13 kệ dừng lại; đây là 2 Thừa mang ra dạy dỗ về ân nghĩa. Dạy cho người làm dụ cho Phật quyền về công đức.
Nay nói cả sự thuật lại nầy đều rõ biết khắp nơi. Đầu tiên là kết duyên với thiên tánh; ở giữa là đi dụ dỗ và sau cùng là giao phó cho tài sản. Tự mình hay thấm vô lượng vô biên các ân đức. Câu văn nầy lại chia ra làm
2. Một là lược thuật thành (tựu); hai là lược rộng thành (tựu). Lược thuật lại có 2. Một là song thuật lành thay; hai là lãnh nhận chẳng cùng với song thuật. Một là lành thay! thuật nầy 2 nơi đều lãnh nhận thực (tế). Một lành thay! thuật lại có 2 nơi lãnh về quyền (thừa). Lành nói về Như Lai công đức chơn thật. Chơn thật đây là thuật thật. Công đức là thuật quyền. Lại nữa Hoa Nghiêm rộng nói về lãnh thật. Ba Tạng dẫn dụ về lãnh quyền. Phương Đẳng là thể tín. Bát Nhã là lãnh giáo. Cả hai đều lãnh về quyền, thật. Sự giao phó của Pháp Hoa về của cải là chuyên luận về thật vậy. Ngôn từ cho tới chỗ khúc mắc, khéo léo. Cho nên nói là nói lành. Tất cả đều là Phật Pháp; cho nên nói là chơn thật. Thành thực như chỗ nói là tiêu chí ấn định vậy.
Lại nữa từ „Như Lai lại có“ trở đi thuật lại việc nhận lãnh nầy chẳng cùng. Vì sao lại chẳng cùng? Nghĩa là lui, tới, ngang, dọc, lại ngang lại dọc; chẳng ngang chẳng dọc. Tất cả đều chẳng cùng. Vì sao vậy? Mây lớn thì che khuất và làm cho mát mẻ. Mưa lớn đều nhuần thấm chẳng có chỗ nào là chẳng thấm. Hay làm cho thế gian tất cả đều được tri kiến pháp chưa từng gặp. Bỗng nhiên sự chỉ bày chi tiết dừng lại lãnh nhận Nhị Thừa được ích lợi. Chẳng phải con đường trời, người, cây cỏ dại. Đây gọi là thối lui; chỗ ấy chẳng cùng. Bồ Tát gọi là cỏ tốt nhất. Lại cũng còn gọi là cây lớn, cây nhỏ. Tốt xấu tự tha lợi lạc mà lại chẳng nhận lãnh. Đây là tiến tới mà chỗ ấy chẳng cùng. Lại nữa 10 pháp giới cũng thành Phật Pháp giới, cái nào hốt hoảng dừng lại nhận Nhị Thừa. Ngoài 8 pháp giới, cả 2 chẳng dùng đến lời nói. Đây chính là ngang qua chỗ chẳng cùng. Lại nữa 7 phương tiện từ cạn đến sâu tất cả đều vào chỗ chơn thật. Ngoài 5 phương tiện, tất cả 2 việc chẳng ở lời nói. Đây chính là chiều dọc; chỗ ấy chẳng cùng. Lại nữa 3 đời lợi ích chưa hề bỏ dở. Đây chính là ngang, lại là dọc chẳng cùng vậy. Phàm là núi, sông, khe, suối v.v… Tổng nói về một địa. Một chỗ đất có thể sanh mọi thứ và những thứ kia thọ nhận nơi nầy. Cây cỏ hạt mầm tất cả đều nương vào nơi đất, lại chẳng ngoài sự nương tựa.
Một đám mây chẳng nơi nào là chẳng bị khuất. Một trận mưa, một mùi vị không cây khô nào lại chẳng tốt. Tất cả đều nhuần thắm giống nhau và đều được tăng trưởng. Như Lai bình đẳng, bất khả tư nghì. Thật chẳng đốn trước tiên, sau dần đầu 3 cuối 1. Như rồng gặp mây cùng mưa làm cho tất cả thân, tâm chẳng làm mưa trừ nóng bức để được mát mẻ. Đây là 5 thừa, 7 phương tiện, 10 phương 3 đời bình đẳng rộng lớn, sâu xa cùng khắp bất khả tư nghì; chẳng có gì sai biệt. Đây cũng chính là chẳng phải chiều ngang, chẳng phải chiều dọc; chỗ nhận lãnh đều bất cập. Sự bất cập ấy chỉ cho việc chẳng cùng với đốn đoạt lấy. Đặc biệt dùng sơ tâm để hướng về hậu tâm. Chưa hết nơi đất đai cuối cùng; cho nên nói là bất tận vậy. Lại sơ ngộ, sơ A. Lại đầy đủ sau cùng với trà công đức. Hằng chỉ bày chi tiết về sự lãnh nhận chưa xong thì giả tiến để nhận lãnh ngang dọc khắp nơi. Lại dùng quyền hành của Đại Sĩ để tuyên nói như vậy. Rộng thuật lại thành có 2. Trường hàng kệ tụng và Trường hàng lại có 2. Đầu tiên thuật thành khai 3 hiển 1.
Kế đến từ „các ngươi Ca Diếp đến kết luận hân hoan“. Phần đầu có pháp dụ về việc gặp nhau. Trong pháp nầy lại có 2. Đầu tiên lại đưa ra pháp vương. Quyền, tín chẳng hư dối. Kế đến là đối với tất cả pháp trở đi, chánh thức thuật lại việc khai 3 hiển 1. Phàm là người, vua thì bên ngoài chẳng sợ hãi; bên trong chẳng 2 lời. Vua pháp lại cũng như vậy. Những việc ác hết rồi, lời nói phát ra, thành chơn lý.
Xưa bảo rằng: Thuật về trung căn chẳng hư dối; nên kẻ hạ căn tín thọ. Nay nói Phật Pháp tuy nhiều; nhưng chẳng ra khỏi quyền và thật. Quyền, thật ở bên ngoài, liền chẳng khác với pháp, mà nói là vô lượng. Ý nầy khó tin. Cho nên đưa ra pháp vương khuyên tin. Lại vì kẻ dưới mà dụ cho mây, làm chỗ căn bản.
Từ „đối với tất cả pháp“ trở đi -Ước giáo làm rõ chỗ khai quyền hiển thật. Từ „Như Lai quán biết“ trở đi -Ước trí làm sáng tỏ về khai quyền hiển thật. Do 2 giáo nầy hiểu 2 trí. Do 2 trí ấy, nói 2 giáo và trí giáo tương thành.
Tất cả pháp nghĩa là 7 phương tiện chiều ngang; đối lại với một thật là chiều dài. Nếu nói chẳng như vậy thì vì sao hai vạn ức Phật ở chỗ ban sơ phát đại tâm. Ở khoảng giữa thì giữ lấy nhỏ và lại lưu chuyển vào Ngũ Thú. Lại nữa 10 pháp giới, một người hay đầy đủ, hà huống là 7 phương tiện vậy? – Pháp nầy tuy nhiều phương tiện Ba La Mật chiếu soi; nhưng chẳng phải chẳng cùng tận. Dùng sự tùy theo loại âm thanh nói về không cũng chẳng phải dừng lại gặp. Vì trời, người mà nói giới lành. Vì Nhị Thừa nói Đế, Duyên. Vì Tam Tạng nói sự độ. Vì Thông Giáo nói vô sanh. Vì Biệt Giáo nói lần lượt khai mở Như Lai tạng. Đây gọi là thuật về việc lãnh nhận nầy để khai 3 vậy.
Từ „ở đây thuyết pháp“ trở đi -Ước giáo thuật lại sự hiển thật nầy. Địa ấy là thật tướng. Cứu cánh chẳng hai; cho nên gọi là một. Tánh nầy thật rộng; cho nên nói là thiết. Tịch mà thường chiếu sáng; cho nên nói là trí. Vô trụ là căn bản đứng ở tất cả pháp; cho nên nói là địa. Điều nầy Viên Giáo nói là thật. Phàm có nói thì tất cả đều làm cho chúng sanh đến được trí địa nầy.
Hiển thật là câu văn đốt sáng như mặt trời. Vì sao lại tối tăm cần phải giải thích vậy? – Như trong Đại Phẩm rộng trải qua các pháp tất cả Ma Ha Diễn. Diễn ấy là Đại Thừa và Thừa ấy là thật tướng. Thật tướng tức là tất cả trí địa.
Câu văn bên trên nói: Tuy chỉ một việc thật là chỉ cho địa nầy vậy. Ngoài 2 ra thì chẳng phải chơn; chỉ cho 7 phương tiện. Ước (giáo) nầy dần đốn nhị giáo. Thuật lại việc ấy là khai quyền hiển thật.
Từ „Như Lai quán rõ tất cả các pháp“ trở đi -Ước, Trí (giáo) đều thuật lại về khai quyền hiển thật. Quán tất cả đều quy trở về. Đây có thể chiếu sáng quyền vậy. Cuối cùng làm sáng tỏ và có thể chiếu sáng về thật. Nhị trí thường chiếu đến Viên (giáo); cả 2 cảnh đều thông đạt vô ngại. Cho nên có thể nói quyền thật nhị giáo. Điều nầy đưa ra cho trí và thích giáo. Rõ biết chỗ quay về, đây là biết về thuốc. Tâm nhiễm nơi việc làm; đây là rõ được bịnh. Bịnh, thuốc đều là quyền pháp. Quyền, pháp mỗi mỗi có chỗ quy thú. Giới lành sánh với chỗ gần người, trời. Nếu tạo ra cái nghĩa của duyên thì cuối cùng đưa tay ra xa với Phật quả. Niệm xứ, đạo phẩm sánh với chỗ làm của các ngươi là con đường Bồ Tát và nơi xa xôi kia là bảo sở. Cho đến lục độ Thông, Biệt các pháp, xa gần quy thú giữa chừng khác nhau có thể rõ được. Lại nữa giới lành ấy là trời, người, thuốc. Đế, Duyên, Độ là 3 Thừa, người, thuốc. Cho đến Thông, Biệt v.v… lại có thể giải rõ. Chỗ thực hành sâu xa của tâm có 2 loại. Thân tâm ấy dính mắc vào y và chánh (báo). Lại nữa thân tâm ấy dính mắc vào chỗ chấp ở pháp; dính mắc vào nơi y, chánh (báo) khởi lên sâu xa thập ác, làm chướng ngại nhơn, thiên thừa; dính mắc vào chỗ chấp pháp. Khởi lên tứ đảo, tam đạo, lục tế, tứ trụ, ngũ trụ v.v… sẽ làm trở ngại thánh thừa. Nên biết rằng thân tâm ấy bịnh, tướng chẳng giống nhau. Quyền, trí chiếu sáng thông đạt vô ngại. Lại nữa đối với các pháp cứu cánh tận cùng rõ biết thật trí là chỗ chiếu sáng vậy. Tất cả quyền pháp chẳng thể chẳng nhập vào thật; cho nên nói là cứu cánh. Thật trí rõ biết; cho nên nói là liễu. Mắt Phật thấy; nên nói là minh. Nếu trí nầy chiếu thuốc nầy và bịnh nầy thì chẳng chiếu thuốc kia, bịnh kia. Trí kia chiếu kia thì chẳng thể chiếu cái nầy. Chủng, biệt chẳng giống nhau về quyền, trí chiếu vậy. Tất cả biến chiếu đến tất cả thuốc và tất cả bịnh. Thật trí chiếu vậy. Hay chỉ bày cho chúng sanh như Viên cảnh trí nầy. Cho nên nói rằng tất cả huệ trí.
Lại nữa nhứt thiết pháp là Thập Pháp Giới. Mười pháp ấy mỗi mỗi tướng dục chẳng giống nhau. Mỗi mỗi nhân quả báo, trước về lại cũng khác. Rõ biết các pháp kết nghĩa là rõ biết bịnh. Rõ tất cả thâm tâm chỗ dính mắc; gọi đây là rõ thuốc. Thuốc ấy có sâu cạn. Đại Phẩm nói rằng: Như thật trí rõ tâm tham dục, tâm sân si. Dùng như thật trí rõ biết, gọi đây là rõ biết thâm tâm. Như lý thông đạt, chẳng có gì làm chướng ngại. Nếu giới lành, đế, duyên, độ và tất cả pháp dược v.v… hết thảy đều dùng như thật trí để rõ biết. Gọi đây là thông đạt vô ngại.
Lại nữa trong câu văn quyền trí thì thông đạt vô ngại. Ước quyền luận thật. Trong câu văn thật trí; lại nữa đối với các pháp thì các pháp là ước thật luận quyền. Hai câu văn hằng hiện hữu. Điều nầy làm sáng tỏ cho thật là quyền thật và quyền là thật quyền. Nên biết rằng cứu cánh chẳng quyền và chẳng thật; chẳng sai biệt mà cũng chẳng phải chẳng sai biệt. Dùng trí phương tiện thì quyền có sai thật. Tất nhiên đến được trí địa tức là không có sự sai biệt. Giống như đất không phân biệt cây, cỏ. Nếu phạm, nếu phạm. Nếu không phạm, nếu không phạm. Nếu phạm. Lại nữa như Ước tâm luận pháp, Ước pháp luận tâm. Tâm ấy có các số pháp và vô số. Tâm ấy chẳng lìa pháp và pháp ấy chẳng lìa tâm. Vô số mà số; số mà vô số vậy. Quyền, thật lại cũng như thế v.v…
Từ „dụ như“ trở đi. Phần thứ 2 nói về dụ và câu văn nầy lại có 2. Đầu tiên nói về dụ. Sau đó lại tổng xưng tán. Dụ ấy lại có khai về sự gặp nhau và khai ấy lại có 2. Một là dụ về sự sai biệt. Dụ bên trên thuật lại quyền giáo và quyền trí. Hai là dụ về vô sai biệt. Dụ bên trên thuật lại thật giáo và thật trí. Ba là cỏ, 2 là cây sâu cạn chẳng giống nhau; cho nên nói là sai biệt. Một đất, một mưa đều mang đến làm thấm ướt; cho nên nói là không sai biệt. Nếu quán điều nầy là cuối dòng nước thì nghĩa là mỗi mỗi đều chẳng giống nhau. Nếu cuối cùng rễ nầy tốt mà chưa có đất, mưa; bên trong hợp với phương tiện trí chiếu 7, 5 mỗi mỗi khác biệt về thật trí đến chiếu sáng; chung quanh là một thật. Một thật ấy là 7, 5, 7, 5 một thật. Sai biệt chẳng sai biệt, vô sai biệt, sai biệt v.v…
Dụ về sai biệt ấy có 6. Một là đất đai; hai là cây cối; ba là mây phủ; bốn là mưa rơi; năm là thấm nhuận và sáu là tăng trưởng. Đầu tiên dụ về đất đai. Xưa kia nói tổng quát là 3.000 đất đai, riêng có núi, sông, khe, suối. Vì Ngũ Thừa huân tập nhơn duyên. Suối ấy dẫn nước nhiều là dụ cho Bồ Tát. Khe ấy dụ cho Bích Chi Phật; sông ấy dụ cho Thanh Văn; núi cao thấm nhuần ít nên dụ cho người, trời. Nay ý nghĩa của sự huân tập nhơn duyên dụ cho hạt giống thọ nhận sự thấm nhuận rồi tăng trưởng. Tuy đất đai, núi, sông có thọ nhận sự nhuận thấm; nhưng nếu thiếu mầm mống và sự tăng trưởng là 2 nghĩa.
Lại nữa câu văn phía dưới lại dụ về việc gặp nhau và nói rằng: Cùng khắp thế giới trời, người, Tu La. Tụng kệ rằng: Đối với chư thiên, loài người và tất cả chúng sanh. Tất cả đều chẳng dùng đất đai sánh với thí dụ cho sự huân tập của nhơn duyên. Nay chỗ ấy chẳng dùng đến nữa. Nay hay dùng về Đại Thiên thế giới; dụ cho chúng sanh ở thế gian. Núi, sông, khe, suối, đất đai dụ cho ngũ ấm của thế gian. Thế giới chẳng có pháp khác. Vì núi, sông, khe, suối, đất đai, chỗ hợp thành. Chúng sanh không phân biệt pháp, vì ngũ ấm mà thành. Thổ địa liền thông, dụ cho thức ấm. Núi, sông, khe, suối dụ cho 4 ấm. Hay nương vào cây cỏ và nương vào đất đai. Đất đai lại chẳng phải là cây cỏ. Cây cỏ có cành lá nên gọi là cây cỏ. Hạt giống của cây cỏ lại chẳng có tên riêng. Hay giữ gìn công năng có thể sanh trưởng; nên gọi là chủng tử. Nơi ấy sanh ra cành lá; nên gọi là thảo mộc. Tất cả gốc rễ đều nằm nơi đất. Đất ấy là căn bản vậy. Bên trong bao gồm cả nhơn và quả. Tuy nương vào ngũ ấm, mà ngũ ấm chẳng phải là nhơn quả. Điều cần yếu là nương vào nơi ấm để được có sự huân tập của nhơn duyên. Tăng trưởng thành tựu nên gọi là huân tập của quả. Quả, nhơn nương vào ấm mà khởi; tức là núi, sông, đất đai thí dụ được thành hình. Cây cỏ, chủng tử, thọ nhuận, tăng trưởng dụ cho tất đàn (thành tựu) vậy.
Lại nữa liền hiển biệt dụ về núi tuy cao mà lại có chỗ ẩm nơi ngũ tướng. Cho đến đất đai bằng phẳng nhưng lại có đồi hồ và ngũ tướng. Tức là dụ cho 5 thừa và 5 ấm. Núi cao dụ cho Bồ Tát ngũ ấm; sông dụ cho Bích Chi Phật; khe dụ cho Thanh Văn; đất đai dụ cho chư Thiên; suối dụ cho con người. Mỗi một trong ngũ ấm đều có huân tập nguyên nhơn và huân tập kết quả chỗ nương vào. Giống như núi, sông, khe, suối, đất đai. Tất cả đều là chủng tử, cành lá v.v… là chỗ nương tựa vào.
Lại nữa dụng 3.000 Đại Thiên thế giới là dụ cho cái lý nhơn quả chính đáng thông với tất cả những chỗ nương vào. Núi, sông, khe, suối, đất đai dụ cho chúng sanh ấm, giới, nhập, quả báo và sắc tâm. Cây cỏ, rừng rậm dụ cho chúng sanh huân tập nhơn duyên. Đây là 3 pháp chẳng hề lìa nhau. Tập ấy nương vào ấm nhập; ấm nhập chẳng ra khỏi pháp tánh. Như cây cỏ nương vào núi sông. Núi sông nương vào thế giới v.v…
Lục Văn Uyển Nhiên nói về ý nghĩa tạo thành ra sao? Lại nữa lần lượt như thế nầy. Vì sao lại dùng đến lời kinh, sao chép trước sau vậy? Từ „chỗ sanh của cây cỏ“ trở đi -phần thứ 2 thí dụ về chỗ sanh của cây cỏ. Cây cũng là cỏ cùng chung giống loại. Cây ấy là cây và cách nói chung chung về các loại cỏ đã thành những chùm cây rậm rạp và biến thành rừng. Người dùng đó để trị bịnh được thì gọi là thuốc. Như trong các pháp thiện đều có thể trị được các việc xấu ác, mà vô lậu thiện thì trị cả được ý nghĩa của hoặc nữa.
Phía dưới nói về cây vừa. Cây cối, cành lá trong rừng che tàn rộng ra to lớn. Cho nên dụ cho 2 vị Bồ Tát. Các loại cùng với 5 thừa 7 thiện nhơn quả chủng tử; cho nên nói là nhược can. Tức là những chủng loại nầy mỗi mỗi đều có xưng gọi ý nghĩa; tức là tên gọi vậy. Mỗi mỗi đều có thể tướng; tức là sắc.
Từ „mây che“ trở đi; phần thứ 3 thí dụ cho mây che. Mây ấy có hình sắc che phủ. Câu văn phía dưới lại có nói về nghe âm thanh sét đánh và xa xa có sự chấn động. Cành lá che chở ấy là dụ cho lòng từ bi của Đức Phật. Hình sắc ấy dụ cho Phật ra đời. Âm thanh của tiếng sét ấy là dụ cho lời dạy của Phật. Mây che ấy tức là tam mật. Từ bi tức là ý mật. Hình sắc tức là thân mật. Tiếng sấm sét tức là khẩu mật; theo đó mà biến khắp. Mật ấy lại biến khắp; cho nên nói là di bố. Lấy lòng từ bi để huân tập nơi ứng thân để thuyết pháp khắp 10 pháp giới. Cho nên nói là di bố.
Kinh luật khác lại nói rằng: Mây ấy có 5 màu. Xanh là nhiều gió; đỏ là lửa nhiều; vàng trắng là đất nhiều; đen là nước nhiều. Có 4 điện sư gồm Đông thân vị; Nam bách chủ; Tây A Yết La và Bắc A chúc cái. Tứ điện đấu tranh với nhau cho nên có sấm sét.
Lại nữa nước, lửa, gió, đất tranh giành nhau; cho nên có sấm sét. Năm việc không có mưa. Một là gió thổi; hai là lửa nổi lên; ba là A Tu La vào biển; bốn là Vũ Sư dâm loạn; năm là nhà vua chẳng dùng lý để trị nước. Vũ Sư sân hận; cho nên chẳng mưa v.v…
Từ „một lúc cùng mưa“ trở đi -phần thứ 4 nói thí dụ về giáng mưa. Thí dụ dùng khẩu mật về 8 âm và 4 biện (tài). Tuyên nói pháp như mưa, làm lợi lạc quần sanh.
Từ „sự thấm ướt nầy phổ cập các nơi“ trở đi; phần thứ 5 thí dụ về sự thấm ướt. Pháp bảo cũng tuông mưa cho 7 loại chúng sanh. Tâm địa sơ hữu, tập nhơn chủng tử nghĩa là khi còn sống nghe được huệ; gọi là nhuần thấm. Cành lá gốc rễ ở đây ví cho niềm tin như là gốc; giới như là ngọn; định ấy là cành; huệ ấy là lá. Lần lượt hỗ tương cho nhau; nên nói về 4 điều nầy. Gốc, ngọn nhỏ nghĩa là người, trời tin về giới. Gốc, ngọn trung tức là Nhị Thừa, tin về giới. Gốc, ngọn lớn tức là Bồ Tát, tin về giới.
Từ „những cây lớn nhỏ“ trở đi; phần thứ 6 là dụ cho việc tăng trưởng. Lại lược bớt chỗ lá, làm sáng tỏ nầy tùy theo phần thọ nhận sự nhuần thấm. Tập báo và hai nguyên nhơn của thiện pháp liền cho mưa pháp. Tập báo hai quả mỗi mỗi được tăng trưởng; gọi điều nầy là chủng tánh; làm rõ chỗ thí quyền và xưng cơ. Nhỏ đây là chẳng quá phần. Lớn đây là chẳng giảm thiểu. Tức là 7 loại tập báo cả 2 nguyên nhơn vậy. Hoa quả là thật nghĩa là tập báo 2 quả.
Lại nói rằng: tăng trưởng tức có 3 nghĩa; gọi chủng tánh nầy tức là lý do của sự tăng trưởng. Do thiết lập sự giáo hóa gọi là cơ vậy. Mỗi mỗi được tăng trưởng chính thức làm sáng tỏ sự tăng trưởng. Hoa quả tốt tươi tức là tướng tăng trưởng.
Từ „tuy từ một đất sanh“ trở đi; đoạn lớn thứ 2 nói một đất đai, một sự mưa chẳng khác nhau; dụ nầy làm hiển lộ nơi một sự thật. Điều nầy lại có 3. Một ấy là nơi đất sanh; đạo lại là chỗ tâm địa sanh. Cuối cùng là nguyên nhơn của đạo và hậu trí địa. Hai là một mây, chỗ mưa. Một âm thanh là chỗ tuyên nói nhứt thừa pháp môn. Trong khai phát đạo, có 5 loại căn lành. Chung quy là một âm thanh bình đẳng của lời dạy. Ba là 3 cỏ 2 cây kia, sự lợi ích chẳng thể tự giác tri. Năm loại căn lành che mưa Phật Pháp, tùy phần tăng trưởng, mà chẳng tự rõ 5 loại nguyên nhơn, tất cả đều nương vào một Phật tánh. Lại chẳng tự rõ Ngũ thừa giáo, tất cả đều là Đại Thừa. Lại chẳng tự rõ đồng quy về Phật huệ; duy chỉ có Như Lai hay rõ được. Ca Diếp sẽ rõ Như Lai ở phần gặp theo thí dụ sau đây.
Gặp nhau sai biệt, dụ nầy chia làm hai. Trước tiên là gặp nhau chính thức. Kế đến là đưa ra thí dụ về việc chiếm lĩnh việc gặp nhau. Sai biệt dụ ấy lại có 6. Nay việc gặp chẳng thứ lớp. Khai dụ làm sáng tỏ cơ duyên phía trước, luận về chúng sanh. Sự gặp gỡ dụ cho việc làm sáng tỏ nên gặp được Như Lai trước. Như Lai là hóa chủ. Trong nầy gặp lần thứ nhất chánh thức là phần trên của phần thứ 3 về mây che. Lại cũng kiêm luôn việc gặp gỡ lần thứ nhất ở thế giới. Trong nầy phần 2 gặp bên trên lần thứ 4 dụ cho việc thấm nhuận mưa rơi. Trong nầy phần thứ 3 gặp nhau bên trên là phần 1 thế giới dụ cho núi, sông, khe, suối. Trong nầy phần 4 gặp nhau bên trên, phần 2 về cỏ, cây. Trong nầy phần 5 gặp nhau bên trên và phần 5 về thấm nhuần. Trong nầy phần 6 gặp nhau bên trên; phần 1 dụ cho việc tăng trưởng.
Dụ gặp nhau lần lượt làm rõ việc Đức Như Lai ra đời tức là có 8 âm thuyết pháp. Nói pháp tức là có thọ nhận sự giáo hóa chúng sanh. Chúng sanh khi nghe pháp, mỗi mỗi được thấm nhuần đạo. Được đượm nhuần ở đây giống với việc chẳng thể chẳng sai biệt trong sự tin tưởng v.v…
Phần thứ nhất gặp nhau như mây che. Trước tiên là khen ngợi Đức Phật tự che khuất và khi gặp nhau có hình như vầng mây. Sau đó khen về khẩu mật của Phật; khi gặp thì có tiếng nói được mây che. Như Lai cũng như vậy, khi xuất hiện nơi đời tức là chánh thức gặp lúc dùng ứng thân để xuất thế vậy. Như đám mây lớn nổi lên; tức là khen cho thí dụ chiếm cứ. Làm sáng tỏ lòng đại từ của Như Lai, hiện thân để che chở dạy dỗ tất cả. Dùng âm thanh lớn tức là khen vể khẩu mật của Đức Phật. Gặp mây có âm thanh. Trời, người, A Tu La là khen tặng riêng biệt về 3 cõi lành. Sự lợi ích của khẩu mật kia là 3 thừa căn tánh của 30 đứa con. Âm thanh riêng biệt kia làm lợi ích. Như đám mây lớn kia, tức là khen về thí dụ chiếm hợp với mây có âm thanh. Trùm khắp đại thiên nghĩa là Thông (giáo) khen tất cả đều là Phật tử đều che chở bởi lợi ích của khẩu mật. Hoặc gặp lúc nói 5 thí dụ.
Từ „sẽ phổ biến thế giới“ trở đi; kiêm cả việc gặp thế giới đất đai. Thế giới ấy tức là quốc thổ thế gian. Nhơn, Thiên, Tu La tức là giả danh của ngũ ấm thế gian.
Giả danh gặp thế giới bên trên. Ngũ ấm hợp với sông, núi, khe, suối bên trên.
„Đối nơi đại chúng mà xướng lên“ trở đi tức là phần thứ 2 gặp phần thứ 4 bên trên về thí dụ mưa thấm. Trước tiên là tiêu chương môn và sau đó là khuyên nghe thọ trì.
Chương môn có 6. Một là 10 hiệu. Nghĩa là Như Lai, Ứng cúng v.v… Hai là Tứ Hoằng; nghĩa là kẻ chưa được độ làm cho độ. Ba là tam đạt; nghĩa là đời nầy đời sau. Bốn là 1 tâm 3 trí; nghĩa là hiểu biết đầy đủ. Năm là ngũ nhãn; nghĩa là sự thấy. Sáu là tam nghiệp cùng với trí tuệ, hạnh. Trí đạo nghĩa là ý chẳng hộ. Khai đạo nghĩa là thân chẳng gìn giữ. Thuyết đạo nghĩa là khẩu chẳng gìn giữ. Lại xưng là Đạo Sư; nghĩa là tri đạo v.v…
Từ „các ngươi Trời, Người“ trở đi. Khuyến khích nghe, nhận. Phật có 8 giọng nói rõ ràng để nói 6 loại pháp môn. Từ nhiều mà luận khuyên 3 điều lành, tuyên bày đến nghe pháp. Lúc ấy vô số ức loại đến nghe pháp. Trong nầy có dụ thứ 3 gặp bên trên phần thứ nhứt về sông, núi. Nắm cả quả báo mà có chúng sanh, như nương vào nơi núi, sông để được có thế giới.
Trăm ngàn vạn ức nghĩa là 10 pháp giới chúng sanh. Nay nói đúng là 7 phương tiện chúng sanh sai biệt, phân chia như trên đã nói. Hoặc từ „các ngươi Trời, Người“ là tất cả hợp lại dụ cho núi, sông. Như Lai lúc ấy cho đến tinh tấn, giải đãi tức là phần thứ tư gặp bên trên, dụ cho cây cỏ phần thứ 2. Ngày xưa nói rằng: Câu văn nầy đưa ra chẳng hợp bên trên. Nay làm sáng tỏ cho dụ bên trên. Có cây cỏ sai biệt, lớn nhỏ chẳng đồng. Trong nầy làm rõ chỗ căn tánh có lợi, độn. Thực hành có tiến, lười. Chánh thì có tập nhơn sâu, cạn. Cùng với cây cỏ nghĩa ấy giống nhau. Há chẳng phải hợp dụ mà nói cho dài. Lúc ấy nghĩa là đầu tiên luận về chỗ tiệm; tức là lúc đầu tiên tại Lộc Uyển vừa nói 3 thừa. Nếu luận về hoàn cảnh nơi nơi thì được luận là thuở ấy. Lợi, độn ở đây là tổng nói về tam đồ nhơn ác, quả khổ, chẳng thể giữ được đạo nên gọi là độn. Bảy loại phương tiện, nghe lời dạy được lợi ích; gọi đây là lợi. Riêng biệt phê phán về trời, người hay thọ quả báo, chẳng chịu thọ đạo; gọi đây là độn. Tam thừa căn tánh đoạn hoặc xuất giới; gọi đây là lợi. Lại nữa Thanh Văn quán sanh diệt; gọi đây là độn. Bồ Tát quán bất sanh diệt; gọi đây là lợi. Thông, Biệt, Viên v.v…
Ba cõi buông lung; gọi đây là giải đãi. Trời, người giữ thập thiện, ngũ giới là tinh tấn. Người, trời chẳng sợ khổ là giải đãi. Nhị Thừa sợ vô thường là tinh tấn. Nhị Thừa tham lam chứng đắc chẳng cầu làm Phật; nên gọi là giải đãi. Bồ Tát chí cầu Phật đạo lấy đó làm tinh tấn v.v…
Từ „tùy theo nơi đây mà được lợi lành“; tức là phần thứ 5 hợp với bên trên phần thứ 5 thí dụ cho việc thọ nhận việc nhuần thắm. Tùy theo chỗ kham nghĩa là xưng gặp thời cơ; chẳng mất đi sự tăng, giảm; hoan hỷ được lợi ích tức là mỗi mỗi đều thừa mong pháp nhuận thọ nhận sự lợi ích. Các chúng sanh khi nghe pháp rồi; phần thứ 6 hợp với phần thứ 6 bên trên dụ cho sự tăng trưởng. Đời nầy an ổn, sau sanh vào xứ lành; tức là báo nhơn hoặc báo quả. Hợp với tòa hoa tăng trưởng. Lại được nghe pháp cho đến nhập đạo; tức là tập nhơn và tập quả. Hợp với bên trên là quả thật tăng trưởng. Nghe pháp rồi hợp với lý do tăng trưởng bên trên. Hiện đời an ổn là chính hợp sự tăng trưởng. Sau sanh xứ lành là tướng của sự hợp tăng trưởng. Phật như vầng mây lớn, che khắp tất cả. Tam đồ cũng được gội nhuần tăng trưởng. Như nói Bát Nhã hay Phương Đẳng là làm sáng tỏ cho địa ngục được lợi ích.
Lại nữa trong các kinh có nói về rồng, chim, quỷ, thần v.v… khi nghe pháp đều được đạo. Nếu lửa hết thì nước đông lạnh; tức là hiện đời được an ổn; hoặc sanh nơi cõi trời hay cõi người. Tức là sau đó sanh vào xứ lành. Ở nơi trời, người tu đạo tức là lấy đạo để làm niềm vui, Nếu người, trời nghe pháp, giữ giới, phước đức hộ thân, Quỷ, rồng chẳng phạm đến; tức là hiện đời an ổn; hoặc ở cõi trời thì sanh lại cõi trời và cõi người sanh lại cõi người. Hoặc sanh nơi trời người hỗ tương với nhau. Tức là sau đó sanh vào xứ lành. Sanh hay ngộ giải tức là dùng đạo để lấy đó làm vui. Nhị Thừa nghe pháp được hữu dư Niết Bàn; tức là hiện thế an ổn.
Như câu văn ở phía dưới nói rằng; Người nầy công đức sanh diệt độ tưởng. Ta ở ngoài cõi kia làm Phật, lại có tên khác. Người nầy đối với nước kia được nghe kinh nầy; chỉ có phương tiện hữu dư; cõi đất ấy là cõi lành. Đối với kia, nghe kinh nầy là được đạo, thọ lạc. Nếu sanh thân Bồ Tát, nghe Lô Xá Na Phật thuyết pháp thì được vô sanh nhẫn; tức là hiện thế được an ổn. Sau đó sanh về thế giới Tịnh Mãn. Vì pháp thân quyến thuộc tức là xứ lành, lấy đạo làm vui. Lìa những chướng ngại tức là hiện đời an ổn, nhiệm lực sẽ kham, dần được vào đạo; tức là đời sau lấy đạo để thọ lạc.
Ngũ Thừa là ngũ giới thừa, ra khỏi khổ Tam Đồ. Thập Thiện thừa ra khỏi 8 khổ của cõi người. Thanh Văn thừa xuất tam giới vô thường khổ. Duyên Giác thừa ra khỏi cái khổ từ việc nghe pháp kia. Bồ Tát thừa ra khỏi, bên trong vô lợi trí, bên ngoài vô tướng hảo khổ. Đây là Ngũ Thừa vậy.
Hỏi: Hay vì nhơn, thiên làm cho thế gian thừa ra khỏi thế gian thừa sao?
Đáp: Lại nữa Phật vì thật thừa; ngoài ra là quyền thừa. Lại nữa Phật vì quả thừa; ngoài ra là nhơn thừa. Lại nữa nên vì 3 thừa. Trời, người vì ở thấp. Nhị thừa ở giữa và Phật ở trên. Lại nữa người, trời được gọi là bất đoạn phiền não thừa. Nhị thừa được gọi là đoạn phiền não thừa. Phật được gọi là chẳng đoạn và chẳng phải chẳng đoạn thừa. Lại nữa người, trời gọi là bất đoạn. Phật được gọi là đoạn Nhị thừa gọi là cũng đoạn mà cũng chẳng đoạn. Lại nữa phàm phu hiền thánh, phi phàm phu hiền thánh, hữu không, phi hữu, phi không các thừa v.v…
Đại Luận làm sáng tỏ ở năm căn lành Thắng Phát biện tử tạng cùng với 3 cỏ 2 cây như thế nào? Nhơn, Thiên vì 2 đường lành. Nhị thừa vì một. Phật, Bồ Tát vì 5. Khai lớn hợp nhỏ. Ngũ thừa khai nhỏ hợp lớn. Tứ tạng hợp phàm khai thánh. Ngũ thừa tức là phàm thánh đều khai. Tùy việc chẳng giống nhau. Như đám mây lớn kia; phần thứ 2 đề xuất thí dụ chiếm hợp 6 ý. Đám mây lớn chiếm hợp phần một, hình thể âm thanh cả 2 lợi ích. Mưa ấy làm cho tất cả chiếm hợp phần thứ 2 của 6 chương pháp môn. Cây cỏ rừng rậm chiếm hợp phần thứ 4 thọ hóa chúng sanh lợi, độn, nhát, tiến, tập, nhơn, sâu, cạn. Như những loại nầy đều đầy đủ nhuần thắm. Chiếm hợp phần thứ 5 thọ nhận sự nhuận trạch được pháp lợi lạc. Mỗi mỗi được sanh trưởng chiếm hợp; phần thứ 6 hiện thế được an ổn tăng trưởng.
„Như Lai thuyết pháp một tướng“ trở đi; phần thứ 2 thí dụ về hợp vô sai biệt. Bên trên khai 3; nay hợp lại cũng 3; lại chẳng lần lượt thứ tự; một tướng, một vị. Cả hai hợp nhứt địa, nhứt vũ. Bởi vì cả hai giải thích một đất, một mưa. Những chúng sanh nầy hợp bên trên với cây cỏ, mỗi mỗi đều có sai biệt. Từ „vì sao vậy“ trở đi, giải thích đối với sự sai biệt Như Lai hay rõ biết sự sai biệt và vô sai biệt. Một tướng là chúng sanh tâm giống nhau với một tướng chơn như. Đó là một địa.
Một vị là một thừa pháp giống với sự chú giải một lý. Đây là một cơn mưa. Ngày xưa đối với một thật tướng, phương tiện khai làm 7 tướng. Đối với một thừa pháp phân biệt nói có 7 giáo. Phật rõ cứu cánh chung quy cũng chỉ một tướng, một vị. Nghĩa là cả sự giải thích về một tướng, một vị. Chúng sanh tâm tánh tức là tánh đức. Giải thoát xa rời, tịch diệt 3 loại tướng. Như Lai nói một âm thanh cho 3 pháp nầy tức là tam vị. Ba tướng nầy tức là lấy làm cảnh giới. Duyên sanh vào việc làm của Trung Đạo. Cuối cùng được tất cả trí quả. Cho nên nói cứu cánh cho đến tất cả chủng trí vậy. Hợp thảo mộc sai biệt dụ, như phía sau giải thích chẳng ghi thêm nữa. Có lúc tạo ra 3 ý hợp. Một là ý vô sai biệt, hợp với một địa một vũ bên trên; hai là ý sai biệt; hợp với cây cỏ sai biệt bên trên; ba là Như Lai hay rõ giải thích thành 2 ý. Vô sai biệt nghĩa là một tướng một vị. Một tướng hợp với bên trên một địa. Giải thoát tướng, vô sanh tử tướng. Lìa tướng thì không có tướng Niết Bàn. Diệt tướng là vô tướng lại vô tướng. Chỉ có thật tướng cho nên nói là một tướng. Một tướng ấy là không trụ bổn lập tất cả các pháp. Vô trụ vô tướng tức là vô sai biệt vậy. Lập tất cả pháp tức là có sai biệt. Sai biệt như cây cỏ. Vô sai biệt như một địa. Địa ấy tuy vô sai biệt mà hay sanh đào, mai, cây cỏ sai biệt với những thứ khác. Đào, mai, cây, cỏ tuy sai mà đồng với một tướng cứng. Nếu rõ biết địa đều là đào, mai tức là rõ biết sự thật trong ấy có quyền. Giải vô sai biệt tức là sai biệt. Nếu rõ biết đào, mai có tướng cứng chắc; tức là rõ biết sự thật trong ấy có quyền. Giải vô sai biệt tức là sai biệt. Nếu rõ biết đào, mai có tướng cứng chắc; tức là rõ biết trong quyền ấy có thật. Giải sai biệt tức là vô sai biệt, dùng nghĩa nầy vậy. Lấy một tướng hợp bên trên với một địa để thí dụ.
Nhứt vị tức là thật giáo độn nhứt không tạp. Ví dụ về một tướng có thể rõ được. Giải thoát ở đây là chẳng phân biệt biến dị nhị biên nghiệp lực trói buộc; cho nên nói là tướng giải thoát. Lìa tướng ấy là được Trung Đạo trí tuệ. Tuệ nầy có thể xa lìa nhị biên; chẳng dính mắc. Cho nên nói là lìa tướng. Diệt tướng tức là nhị biên nhơn diệt; nên được Hữu Dư Niết Bàn. Nhị biên quả diệt thì được Vô Dư Y Niết Bàn. Cho nên nói diệt tướng. Từng câu thí dụ tạo nên nghĩa sai và vô sai biệt. Tiêu chuẩn một tướng có thể rõ. Cứu cánh đến tất cả chủng trí là nếu được nhị biên diệt tướng thì tức là Thông, Biệt (giáo) hai hoặc hết. Nhập Phật tri kiến, dùng tất cả loại trí tâm để thực hành Bát Nhã. Đầu tiên phát cứu hai chẳng riêng biệt; cho nên nói là cứu cánh. Điều nầy tức là trí huệ Phật; cho nên nói là tất cả chủng trí vậy. Từ điều nầy có chúng sanh nghe pháp Như Lai chẳng tự rõ biết; tức là làm sáng tỏ sự sai biệt. Từ đây trở đi làm sáng tỏ nghĩa sai biệt. Chúng sanh ấy là núi, sông giả thật làm sai biệt; lại là chủng tử sai biệt. Như Lai tức là đám mây. Nghe pháp tức là mưa: Đọc tụng, tu hành tức là nhuần thắm. Công đức tức là sự tăng trưởng. Như những việc nầy sai biệt tất cả đều chẳng rõ biết. Tựu chung câu văn ấy có 5. Một là chúng sanh chẳng rõ; hai là Như Lai có thể rõ biết; ba là đưa ra thí dụ chiếm hợp chúng sanh chẳng rõ; bốn là như trước kết luận, giải thích Như Lai rõ biết; năm là giải thích điều nghi. Có chúng sanh nầy tức là đưa ra việc không rõ về người. Pháp ấy nghĩa là nghe một pháp âm. Trì thuyết nghĩa là chính thức làm rõ sự chẳng biết. Trì thuyết chẳng giống nhau và tu hành mỗi mỗi đều khác. Người, Trời giữ giới lành; ba thừa tạo nên chơn lý Duyên (giáo) và độ (lục). Giải ấy là sự chẳng đồng nhau; tức là sự sai biệt. Được chỗ công đức chẳng tự rõ biết là minh chứng cho 5 người, tuy mỗi mỗi đều có giáo lý kia; nhưng chẳng rõ Phật là một vị, chẳng phân biệt giáo nào cả. Lại chẳng rõ 7 loại phương tiện, mỗi mỗi tạo ra sự giải thích. Rồi mỗi mỗi chấp vào sự giải thích ấy là thật. Điều nầy tức là chẳng rõ nơi quyền. Lại chẳng biết thật tức là sự sai biệt chẳng tự rõ biết vậy.
Phần thứ 2 Như Lai có thể rõ biết; lược giảm số, đưa ra 10 cảnh hợp lại với 4 ý. Một là ước tứ pháp tri; hai là ước tam pháp tri; ba là ước nhị pháp tri; bốn là ước nhứt pháp tri. Ước tứ pháp nghĩa là chủng tướng tánh. Chủng ấy là 3 đường, là 3 loại đức. Tinh Danh gọi là: Tất cả các loại phiền não làm chủng loại của Như Lai. Điều nầy làm rõ lý do con đường phiền não tức là có Bát Nhã. Lại nói: Ngũ vô gián tất cả đều sanh tướng giải thoát. Do điều chẳng lành nầy; tức là có thiện pháp giải thoát. Tất cả chúng sanh tức là tướng Niết Bàn chẳng thể lại mất. Đây tức là sanh tử làm pháp thân. Đây là chung các tướng đối lại với các loại luận. Nếu tựu chung các loại luận về chủng loại thì tất cả cúi đầu giơ tay, tất cả đều là chủng loại giải thoát. Tất cả thể trí, tam thừa giải tâm tức là chủng loại Bát Nhã. Phàm có tâm là tất cả sẽ làm Phật; nghĩa là chủng tử pháp thân. Các loại sai biệt Như Lai hay rõ. Tất cả loại chỉ là một loại; tức là vô sai biệt. Như Lai lại hay biết. Sai biệt tức là vô sai biệt; vô sai biệt tức là sai biệt. Như Lai lại cũng hay biết.
Tướng thể tánh theo Ước (giáo) về thập pháp giới và thập như (thị) giải thích rằng. Nếu luận về sai biệt tức là tướng của 10 pháp giới; nếu luận về vô sai biệt; tức là tướng của một Phật cảnh giới. Sai biệt vô sai biệt Như Lai hay rõ. Sai tức là vô sai; vô sai tức là sai. Như Lai lại hay rõ biết. Thí dụ về thể tánh tự nhiên có thể rõ.
Từ „nhớ nghĩ việc gì“ trở đi thì Ước (giáo) 3 pháp làm sáng tỏ Như Lai rõ biết. Ba pháp ấy tức là 3 huệ; nhưng lại có 3 loại. Một là tam huệ cảnh; hai là tam huệ thể; ba là tam huệ nhơn duyên. Nhớ nghĩ về việc gì là làm sáng tỏ tam huệ dụng. Nhớ nghĩ dùng nơi chỗ niệm; tức là 3 huệ cảnh.
Từ „niệm như thế nào“ thì niệm ấy là kỷ lục của chỗ nghe pháp. Chánh ấy là thể của niệm huệ.
Từ „dùng pháp gì để niệm“ trở đi; tức là tam huệ chấp giữ cảnh giới nghe pháp là nhơn duyên nầy. Lại nữa tam huệ cảnh, cảnh giới nhơn duyên hợp; nên được tam huệ pháp, lại có tên là nhơn duyên vậy. Như 3 thừa 3 huệ nầy xưa kia giải thích là cảnh thể nhơn duyên có khác nhau; tức là sai biệt vậy. Nếu vào Viên Diệu Tam Huệ tức là chẳng sai biệt. Những điều có sai biệt và vô sai biệt Như Lai hay rõ biết. Lại nữa sai nghĩa là không sai; vô sai tức là sai. Như Lai lại cũng rõ biết. Lại nữa sai tức là không sai; không sai tức là sai. Như Lai lại cũng hay rõ biết.
Từ „dùng pháp gì“ trở đi Ước (giáo) nhị pháp làm sáng tỏ Như Lai hay rõ biết. Dùng pháp gì nghĩa là cái nhơn nầy. Được pháp gì tức là quả nầy. Nhơn của ngũ thừa mỗi mỗi đều được quả nầy; tức là sự sai biệt nầy. Chúng sanh giống như Phật vậy. Một sự giống nhau; chứ không có 2 cái như. Tuy chỉ là một nhơn và một quả. Tức là vô sai biệt sai biệt. Vô sai biệt Như Lai lại cũng rõ biết. Sai tức là vô sai; vô sai tức là sai. Như Lai lại cũng rõ biết.
Từ „chúng sanh trụ ở các loại địa“ là Ước (giáo) một pháp Như Lai cũng rõ biết. Bảy phương tiện trụ nơi thất vị. Cho nên nói là đủ loại địa. Điều nầy tức là sự sai biệt. Như Lai dùng như thật nhãn của Phật để xem; giống như bị trôi vào biển mất đi sự chính yếu; tức là chẳng sai biệt. Tùy theo ý nghĩ và lời nói kia, dùng trí phương tiện mà diễn nói; tức là Như Lai hay rõ biết sự sai biệt. Việc thuyết pháp nầy tất cả đều đến nơi tất cả trí địa. Tức là Như Lai hay rõ biết vô sai biệt v.v…
Từ „như cây cỏ kia“ trở đi; phần thứ 3 tán thán thí dụ, chiếm hợp chúng sanh chẳng rõ.
Từ „Như Lai rõ điều nầy“ trở đi; phần thứ 4 là tổng quát phía trước có thể rõ; một tướng một vị v.v…. Như trước đã giải thích về một tướng một vị giải thoát, lìa diệt v.v… làm duyên phân biệt. Tức là một trong vô lượng. Cứu cánh Niết Bàn chung quy ở nơi không. Tức là vô lượng trong một. Đây là sự giải thích thêm một lần nữa về sự vô sai biệt. Cái gì? -Một tướng, một vị, giải thoát, ly diệt. Nếu là 2 thừa pháp thể thì giống như sai biệt nầy là lời nói tuyên bày. Nay tạo nên Đại Thừa cứu cánh Niết Bàn chung quy ở nơi không; tức là Thông (giáo) vô sai biệt. Cứu cánh Niết Bàn kết luận 2 câu trước; tất cả đều chẳng phải nhị thừa hữu dư và vô dư. Cho nên đây là cứu cánh Niết Bàn.
Thường tịch diệt tướng tức là kết lại các câu, chẳng phải là Tiểu Thừa tịch diệt, mà là thường trụ tịch diệt. Câu văn bên trên nói rằng: Chư pháp từ xưa nay thường tự tịch diệt tướng; tức là ở nghĩa nầy. Chung quy ở nơi không là chẳng phải tro hết gọi là không, mà trong đạo đệ nhứt nghĩa nầy là không.
Bỉ, trọng, để, chưởng, giản, thật, dị, quyền xưa nói rằng chung quy cũng ở nơi không. Tuy rằng lại được thần thông sống lâu vô lượng thị hiện gấp đôi số trên. Khi thọ mạng hết, chung quy cũng như than tàn; cho nên nói là chung quy không. Điều khổ nầy Phật nói lời gì về khổ kinh nào? Quang Trạch nói rằng: Chung quy nhập vào hữu dư, xả vô thân trí vô thường vậy. Có người khó giải về điều nầy. Nếu như thế thì cùng với Nhị thừa có khác gì đâu? Kinh văn đưa ra hai sự cứu cánh. Cứu cánh đầu đến nơi tất cả chủng trí. Điều nầy đưa ra trí quả đối lại với trí Nhị thừa, chẳng phải cứu cánh. Hai là cứu cánh Niết Bàn thường tịch diệt tướng, chung quy ở nơi không. Điều nầy đưa ra đoạn đối với Nhị thừa và đoạn với phi cứu cánh. Câu văn cứu cánh biết rõ về phi Tiểu Thừa không. Ngài Long Ấn nói: Đại Niết Bàn không, vô pháp tướng, vô phiền não; cho nên nói không. Chung quy thường trụ đệ nhứt nghĩa không. Trung Sư nói: Chung quy đệ nhứt nghĩa không trí tuệ. Có người nói: Phật quả chẳng nhọc; cho nên nói không. Chú Giả nói: Không ấy có lỗ hổng để lại nên gọi là không. Những vị Thầy xưa tất cả đều chẳng giải thích chi tiết. Riêng Quang Trạch có ý gì đặc biệt chăng?
Từ „Phật rõ điều nầy rồi, quán xem chúng sanh“ trở đi; phần thứ 5 đoạn vật nghi. Phật xưa liền rõ biết đầu đuôi tất cả chỉ một, cớ gì chẳng phải Lộc Uyển tức là nói thật. Giải thích rằng. Quán chúng sanh tâm dục, tùy 3 tất đàn mà sẽ hộ trì. Sợ điều nầy phỉ báng; cho nên chẳng hề tức là nói vậy.
Từ „các ông Ca Diếp“ trở đi -Phần thứ 2 lại Tông xưng thuật muốn giải thích điều nghi. Nghi ấy là: nghe Phật vô lượng công đức; nghĩa là 4 đệ tử Tế Giáo lãnh giải điều gì phải là sự thật? Cho nên Phật xưng thuật tuy chưa đủ, Phật địa Tế Giáo chẳng phải rỗng không. Lại là dẫn phát kẻ hạ căn, làm cho đồng được giác ngộ. Câu văn nầy chia làm 2. Đầu tiên thuật về 2 sự giải thích. Đầu tiên tán thán việc hy hữu. Phàm phu có quay đầu nghe thì có thể được lợi ích. Bồ Tát việc nầy qua rồi, giải thích chẳng nhiều. Vô vi chánh vị hay xả; chứng nhập thật sâu xa là hy hữu. Có thể rõ biết tùy nghi thuyết pháp, thuật lại, có thể lãnh khai ba. Kế đến nói lời nói có thể sinh tin nhận. Tức là thuật lại sự nhiếp lãnh nầy hiển một. Vì sao lại giải thích về cái ý của thuật? -Để làm sáng tỏ, Phật ở nơi một đạo mà nói ba, sâu xa khó hiểu để ngươi có thể tin theo. Riêng điều nầy như câu văn trước đã nói. Như Lai lại có vô lượng công đức, các ngươi nói chẳng thể hết. Câu văn sau lại nói: Các người thật là hy hữu.
Ân Phật phổ cập đến kia giống như mây mưa, mà chẳng che khuất sự thắm đượm. Ân Phật chuyên chở giống như đại địa, gai góc chẳng sanh thành. Há hữu vi một cơ duyên, một phương hướng mà thành? Cho nên nói là các ngươi nói chẳng thể hết. Ân Phật tuy phổ cập đến chúng sanh hằng ngày nhưng chẳng hề tự rõ biết. Như 3 cỏ và 2 cây cùng trồng trên đất và sự nhuận thấm kia há mưa mà chẳng rõ được sao? Các ngươi nên biết rằng trước sau 10 ân sâu ấy là hy hữu. Chưa độ làm cho độ. Thuật lại điều nầy rõ biết Phật có tứ hoằng thệ nguyện, ân sâu rất là khó có. Chúng sanh đời nầy an ổn, sanh ra đời sau vào nơi lành, lấy đạo làm vui. Thuật nầy rõ biết đại bi cùng vui với ân sâu ấy là một việc hy hữu. Liền nghe pháp rồi, lìa những chướng ngại cùng với sức lực hay dần được vào đạo. Thuật nầy rõ biết đại bi mang ân cứu khổ sâu xa là hy hữu. Luân vương, Thích, Phạm là những cỏ thuốc nhỏ. Thuật nầy rõ biết khuyên lành trừ nhiệt não, ân sâu xa ấy hy hữu. Rõ pháp vô lậu hay được Niết Bàn và chứng Duyên Giác, đây là cỏ thuốc tầm trung. Thuật nầy rõ trừ được các nhiệt kiến, ái. Ân sâu đó thật là khó có.
Cỏ bên trên và cây nhỏ là xấu hổ với việc nhỏ và mong đợi ở việc lớn. Thuật điều nầy rõ biết sự chận giữ cái xấu xa lại. Ân ấy sâu xa thật là hy hữu. Cây lớn là thuật nầy trang nghiêm. Ân ấy thật sâu xa hy hữu. Cái thật cuối cùng là một đất, một mưa. Thuật nầy rõ biết giao phó tiền bạc của cải, ngồi đó thân tâm tài pháp tự tại an lạc. Ân ấy thật là sâu xa khó có. Phật thuật điều sai biệt nầy ca ngợi. Sự ca ngợi về 10 ân câu văn không cùng. Nếu thuật nầy không sai biệt tán thán tức là một ân lớn vậy.
Kệ có 54 hàng rưỡi. Tụng bên trên khai hiển. Khai hiển có pháp dụ. Nay tất cả đều tụng. Bốn hàng đầu tụng về thuyết pháp. Kế đến 5 hàng rưỡi tụng về dụ thuyết. Pháp thuyết lại có 2. Trước tiên là đưa ra pháp Vương nhị, tức là khai hiển. Nay nửa hàng kệ đầu tụng về pháp vương không hư dối. Dưới 3 hàng rưỡi tụng về khai hiển. Câu văn trên 2 giáo 2 trí. Nay lại đều tụng. Một hàng rưỡi đầu tiên tụng về 2 giáo. Hai hàng sau tụng về 2 trí. Đầu tiên tùy thuận chúng sanh và dưới nửa hàng tụng về quyền giáo.
Kế đến Như Lai tôn trọng trở đi -phần thứ 2 gồm một hàng tụng về thật giáo. Tiếp theo „có trí nếu nghe“ trở đi gồm một hàng tụng về giải thích quyền trí. Sau đó là „cho nên Ca Diếp“ trở đi gồm một hàng tụng về giải thích thật trí. Tùy theo đủ loại duyên, nói đủ các loại giáo. Tất cả làm cho được đại thừa chánh kiến. Từ đây trở đi trước tất cả gọi là tà kiến. Tụng nầy là ý của Như Lai Tứ Tất Đàn. Phá hữu pháp vương tức là ý đối trị. Tùy chúng sanh dục tức là ý thế giới. Rõ biết nghe tin, giải bày điều nghi hối đã mất vĩnh viễn là vì cái ý của con người. Làm cho được chánh kiến là đệ nhất nghĩa ý. Tam Tất Đàn tức là tụng phần bên trên dùng trí phương tiện để diễn thuyết. Nay được chánh kiến, tụng bên trên cho đến tất cả trí địa vậy …
Ca Diếp nên biết, thí dụ như thế có 51 hàng rưỡi. Tụng bên trên về dụ thuyết. 10 hàng rưỡi đầu tiên là khai dụ, kế đến 40 hàng tụng về hợp dụ. Bên trên khai 2 dụ. Nay 9 bài kệ rưỡi phần đầu, tụng về dụ sai biệt. Kế đến một hàng tụng về vô sai biệt dụ. Sai biệt bên trên lại có 6. Nay lại tụng thành 6, mà chẳng giống như văn trường hàng khai dụ; như hợp lần lượt vậy. Ba hàng đầu tiên tụng về dụ cho 3 đám mây. Mưa nầy phổ cập tất cả. Phần thứ 2 gồm một hàng tụng phần thứ 4 về dụ cho mưa thấm ướt.
Kế đến là núi, sông, khe, suối trở đi. Phần 1 có 3 câu; tụng phần một về đất đai, sông núi và dụ nầy lần lượt che khuất. Phần thứ 4 có 2 câu; tụng phần thứ 2 dụ cho cây cỏ. Kế đến là những cây lớn nhỏ -Phần thứ 5 có 2 hàng 3 câu. Tụng phần thứ 5 là thọ nhận sự thấm được. Tất cả các cây là phần thứ 6 gồm 2 hàng; tụng phần thứ 6 là dụ cho sự tăng trưởng. Mây ấy dụ cho ứng thân. Ứng thân tùy theo trí tuệ để thực hiện cho nên nói là Huệ Vân. Hay đầy đủ 12 bộ pháp cho nên nói là hàm nhuận. Nếu ứng thân chẳng thuyết pháp, như Tu Phiến Đa Đa Bảo thì mưa nầy chẳng bao gồm sự nhuận trạch. Thân phóng ánh sáng lớn như điện chớp. Mộng chấn động với tứ biện tài như tiếng sấm sét. 95 loại ánh sáng tà chẳng hiện ra; cho nên nói là Am Tế. Trừ 98 loại nhiệt não. Như đất bên trên mát mẻ. Như có thể dư sự quấy rối. Ứng thân giáng thế giống như tam hữu. Có tâm đến giữ thật ấy chẳng thể được.
Tám âm tứ biện hay mưa pháp. Bốn phương cùng lúc đều nghe. Lại nói rằng tứ đẳng. Phàm có tâm tức là tất cả đều nhuần thấm; cho nên nói đất tốt được nhuần. Đây tức là sự thành tựu bên trên. Lại thành tựu bên dưới chính là núi, sông. Dụ cho núi, sông, khe, suối gồm một câu. Tụng phần thứ nhứt về đất đai tức là 7 phương tiện chúng sanh ngũ ấm. Nay mong cho mưa pháp để thân khẩu được nhu nhuyến. Như đất nầy được thấm nhuần vậy.
„U mông sở sanh“ là tụng phần trên của phần thứ 2 về chúng sanh tập nhơn sai biệt. Dụ cho chúng sanh từ lâu đời đã trồng tập nhơn ẩn tại ấm giới vào bên trong; cho nên nói là „U mông“. Nay „mông“ pháp vũ tất cả đều được khai phát. Do vậy nói là sở sanh. 100 loại lúa, đậu nói qua thông (giáo) giữ lại ngũ cốc. Dụ cho ngũ thừa hay sanh ra trăm việc lành. Cam giá bồ đồ dụ cho định huệ. Càng (huệ) địa phổ nhuận dụ cho những kẻ chưa tin làm cho tin. Ngoài ra dụ như câu văn. Giống như thể, tướng, tánh phần, lớn, nhỏ nầy gồm một hàng. Tụng phần thứ 2 về dụ cho vô sai biệt. Câu văn bên trên lại có
3. Trong nầy lược bớt chẳng tụng về một địa mà lại sanh thêm. Hai câu đầu tụng về chỗ sanh và chỗ nhuần thấm. Kế đến một câu tụng về việc hay thấm; tức là tụng về vô sai biệt mà mỗi mỗi thêm tươi tốt tụng về sai biệt, chẳng tự rõ biết.
Phật lại đưa ra như vậy gồm 40 hàng. Tụng phần thứ 2 về hợp dụ. Đầu tiên 35 bài kệ tụng về hợp sai biệt. Kế đến „như vậy Ca Diếp“ gồm 5 hàng, tụng về gặp nhau không sai biệt. Bên trên dụ về gặp nhau sai biệt. Phía trước chính thức gặp nhau và phía sau dụ cho việc yên ổn. Nay tụng lại hợp như trước. Kế đến liền tán thán thí dụ về sự yên ổn. Một hàng đầu tụng về thí dụ gặp mây. Bên trên 2 câu dùng thân để gặp mây. Bên dưới 2 câu tán thán thí dụ việc gặp nhau yên ổn. Tức là xuất hiện gồm 2 phần có 8 hàng rưỡi. Tụng phần 2 hợp với thí dụ về mưa. Bên trên phần trước là tiêu đề về chương cánh cửa. Kế đến là khuyến khích nghe và thọ trì. Liền ra khỏi gồm 3 hàng, lược tụng 10 hiệu. Kế đến một hàng rưỡi tụng về Tứ Hoằng. Trong chương thứ 6 về cánh cửa thì hay tụng 2 chương.
Từ „nhuần khắp tất cả“ trở đi gồm một hàng rưỡi là tụng về Tứ Hoằng Thệ Nguyện. Từ chư thiên, loài người trở đi gồm phần 2 có 4 hàng, tụng về sự khuyến khích nghe cùng thọ trì.
Từ „ta xem xét tất cả“ trở đi; phần 3 có 4 hàng, tụng phần thứ 3 gặp bên trên về núi, sông để thí dụ. Thí dụ về núi, sông nầy có 7 loại và 5 ấm của chúng sanh. Như mưa xuống chẳng chọn khe, suối. Phật bình đẳng nói (pháp); do vậy không có đây, kia. Có cơ duyên là đây; không cơ duyên là kia. Trồng việc lành là yêu thương; nghịch ghét thì thành giận. Việc Phật là chính mình; ma sự là của kia. Ứng ban đầu là đến; ứng phía sau là đi. Vào chỗ thật là ngồi; ra quyền là đứng. Phật quán chúng sanh là như thế; tức là so với cái ý của việc mưa trên núi, sông.
Tụng bên trên về vô lượng ức loại chúng sanh, đến Phật để nghe pháp. „Quý tặc trên dưới“ trở đi, phần thứ 4 gồm 2 hàng. Tụng bên trên phần thứ 4. Như Lai lúc ấy quán xem chúng sanh nầy vì đó mà nói pháp, hợp với phần thứ 2 là chỗ sanh của cỏ cây rừng rậm. „Quý tặc cho đến lợi độn“. Ước (giáo) 7 phương tiện chuyền nhau tạo thành. „Tất cả chúng sanh nghe ta nói pháp“ trở đi; phần thứ 5 gồm 11 hàng. Tụng bên trên đủ loại vô lượng. Tất cả làm cho hoan hỷ, hợp với thí dụ thọ nhận, nhuần khắp. Câu văn nầy chia làm 3. Đầu tiên hàng thứ nhứt là kẻ thông minh nhận việc thấm nhuần. Kế đến „hoặc nơi trời, người“ trở đi; phần thứ hai gồm 7 hàng, riêng biệt làm rõ chỗ thọ nhận sự nhuần thấm. Kế đến 3 hàng kết là chỗ thấm hay thấm.
Có người giải rằng: Người, trời là cỏ nhỏ. Nhị Thừa là cỏ vừa. Ngoại phàm là cỏ lớn. Nội phàm là cây nhỏ. Từ Sơ Địa đến Thất Địa là cây lớn. Có người lấy nội phàm làm cây cỏ lớn. Sơ địa đến Thất địa là cây nhỏ. Bát địa là cây lớn. Có người lại lấy 30 tâm làm cỏ lớn. Sơ địa đến Lục địa làm cây nhỏ. Sau Thất địa là cây lớn. Tuy nhiên 3 cỏ 2 cây Phật tự gặp dụ ấy và làm sáng tỏ cho câu văn như vậy.
Vì sao mà tâm của Sư ngược lại với Phật và sai với kinh vậy ?
Tựu chung thì trong biệt thọ nhuận ấy câu văn có
5. Một hàng đầu người, trời đều chưa đoạn hoặc, hợp lại làm cỏ nhỏ. Kế đến „rõ biết vô lậu pháp“ trở đi; gồm phần thứ 2 có 2 hàng làm rõ chỗ Nhị Thừa. Đều có đoạn chứng, hợp làm cỏ vừa. Kế đến „cầu Thế Tôn xứ“ trở đi; phần thứ 3 gồm một hàng làm rõ lục độ. Chí nguyện cầu làm Phật để hóa độ tha nhân. Hơn Nhị Thừa, riêng làm cỏ bên trên. Kế đến „lại nữa các Phật Tử“ trở đi; phần thứ tư một hàng rưỡi làm rõ chỗ Thông Giáo. Đã đoạn thông hoặc, thệ nguyện phò trì để hóa tha. Nhìn xuống dưới thì tốt, so với trên lại kém. Cho nên nói là cây nhỏ. Kế đến „an trụ thần thông“ trở đi; phần thứ 5 gồm một hàng rưỡi làm rõ chỗ Biệt Giáo. Tự hành hóa tha, cao rộng làm hơn; cho nên nói là cây lớn. Ước (Giáo) 3 vị Bồ Tát mỗi mỗi làm 3 cây. Lục Độ Ước 3 (A) Tăng Kỳ. Thông Giáo Ước 7, 8, 9 địa. Biệt Giáo Ước 30 tâm. Từ „Phật bình đẳng nói“ trở đi; phần thứ 3 có 3 hàng; kết cuộc chỗ nhuận thấm có thể nhuận.
Lại có 2. Đầu tiên một hàng rưỡi dụ tán thán sự yên ổn, giải thích chỗ thọ nhuận. Chỉ làm sáng tỏ 7 loại. Bảy loại là nhỏ như một giọt nước biển. Phật dùng dụ nầy một hàng rưỡi, làm rõ có thể thấm nhuần Phật trí nhiều như biển cả.
Từ „Ta mưa pháp“ trở đi gồm tám hàng rưỡi; tụng phần thứ 6 về các chúng sanh nghe pháp nầy rồi cùng hoan hỷ tăng trưởng. Dụ nầy lại có 2. Phía trước 2 hàng là tổng tụng về sự tăng trưởng, lại có 2. Hàng đầu tiên tổng tụng sự tăng trưởng. Kế tiếp một hàng tụng về sự yên ổn và giải thích.
Kế „Pháp của chư Phật là“ trở đi gồm 6 hàng rưỡi, riêng làm sáng tỏ sự tăng trưởng và chia ra làm 4. Một hàng rưỡi đầu tiên làm rõ chỗ người, trời tăng trưởng, cho đến được đầy đủ. Đây là tụng về hiện thế an ổn. Dần đến tu hành, là tụng về hậu thế lấy đạo, nhận làm vui. Tiếp theo „âm thanh“ trở đi; phần thứ 2 gồm một hàng rưỡi tụng về Nhị Thừa tăng trưởng. Trụ ở thân sau cùng có 2 cách giải. Cách giải thứ nhất nói rằng: Với thân Nhị Thừa nầy nếu chẳng gặp được Phật, thì thân cuối chắc không phải sau. Do thấy Phật cho nên thành tối hậu thân; tức là ý nghĩa của sự tăng trưởng. Cách thứ 2 nói rằng. Nhị Thừa được hữu dư Niết Bàn, trụ ở tối hậu thân được Phật ngũ vị điều thục, được vào Pháp Hoa, nghe Đại Thừa và được giải thoát; tức là tăng trưởng.
Từ „Nếu chư Bồ Tát trí huệ kiên cố“ trở đi; phần thứ 3 gồm một hàng rưỡi là Thông Giáo tăng trưởng. Kiên cố tăng trưởng là thể pháp huệ, rõ biết 3 cõi, là đoạn hết hoặc. Từ „lại có trụ thiền“ trở đi gồm phần thứ 4 có 2 hàng, là Biệt Giáo tăng trưởng v.v...
Hỏi: Một mây một mưa cùng với một âm giống hay khác ?
Đáp: Dưới đất dùng một âm làm cho kia nghe một pháp. Phật dùng một âm tùy theo loại, mỗi mỗi đều giải rõ; làm cho một mây một mưa. Chính là tùy theo loại của một âm vậy.
Có người giải rằng: Pháp thân bất nhị; nên gọi là một. Từ pháp thân xuất ra âm thanh; cho nên nói là một âm. Có người lại nói: Một thuở cùng nghe tiếng phát ra; cho nên nói một âm thanh. Có người nói: Trong 5 âm, tùy theo đó dùng một âm. Đại luận làm rõ một âm là (quả) báo của chúng (sanh). Chẳng nói cùng xuất ra; lại chẳng nói là từ pháp thân xuất ra âm thanh ấy.Tỳ Bà Sa nói rằng: Phật dùng một âm để nói Tứ Đế. Năm người nghe tiếng nói người, 8 vạn chư thiên nghe tiếng của chư thiên. Địa ngục, Dạ Xoa mỗi mỗi nghe giống với ngôn ngữ của họ. Xướng cáo đến Phạm Thiên là tiếng của Phạm Thiên. Lại nữa Phật báo (thân) đã thanh tịnh; nên âm thanh tối diệu nên hiện là Phạm âm. Nếu báo (thân) được Phạm âm thì chỗ người chẳng nghe và nghe lại chẳng rõ biết.
„Như thế Ca Diếp“ trở đi; phần thứ 2 có 5 hàng tụng về sự vô sai biệt bên trên. Dụ nầy lại chia làm 2. Phía trước một hàng rưỡi, tụng vô sai biệt của sai biệt. Sau đó 3 hàng rưỡi tụng về sai biệt, vô sai biệt. Dụ như một đám mây lớn, như một vị của mưa. Tức là tụng hợp bên trên một vị mưa chẳng sai biệt. Làm thấm đượm nơi người, hoa; mỗi mỗi được thành sự thật; tức là tụng bên trên sự sai biệt.
Kế đến „Ca Diếp nên rõ, dùng các nhơn duyên“ trở đi tức là làm rõ quyền; quyền tức là sai biệt. Hợp lại bên trên là chỗ sanh ra. Nay sẽ vì ngươi; tức là hiển thật. Thật đây tức là vô sai biệt. Hợp với tâm bên trên một địa vậy. Phi diệt độ là chưa độ được dễ dàng. Riêng nói Nhị Thừa là vì bảo chứng nầy mạnh. Người, trời chẳng tính quả là Niết Bàn. Bồ Tát chẳng ở khoảng giữa riêng chứng. Là con đường Bồ Tát là sự hành đạo của Bồ Tát lại đầy đủ đoạn thông hoặc. Ngươi đã đoạn tận tức là con đường Bồ Tát. Pháp Hoa luận nghĩa là phát tâm thối thất rồi, trở lại phát tâm nữa. Trước đó tu thiện, chẳng mất; giống như sau đó được quả. Nhị Thừa trí đoạn là con đường Bồ Tát. Nhị Thừa chấp là quả nầy vậy. Người nói là con đường Bồ Tát. Con đường ấy chính là cái nhơn.
Hỏi: Bồ Tát lại có quả sao ?
Tín giải rằng: Được đạo là được quả. Đại Phẩm nói rằng: Có pháp là Bồ Tát đạo. Vô pháp là Bồ Tát quả.
Vì sao lại chẳng nói là Bồ Tát quả ?
Đáp: Nghĩa nầy lại nên được. Nay nói: hoặc đạo,, hoặc quả; tất cả đều là cái nhơn Phật cả. Nhơn đây tức là đạo vậy. Giải thích về phẩm Thọ Ký
Phạm Âm và Già La nói về Thọ Ký nầy. Các kinh
lại phá bỏ Thọ Ký. Tịnh Danh nói: Từ như sống được thọ ký. Từ như mất được thọ ký. Như chẳng sanh diệt tức là rõ biết vô ký. Ngài Tư Ích nói: Nguyện chẳng nghe về tên Thọ Ký. Đại Phẩm nói: Thọ ký là lý luận. Nay kinh nầy nói những gì ?
Đáp: Nếu thấy có việc thọ ký, người thọ ký; việc thấy nầy đều phá bỏ. Bồ Tát thệ ký và ký nầy cùng đầy đủ. Với thế đế nói là ký và đệ nhất nghĩa, nên không. Tử Tất Đích lúc ấy nói như sau:
Nếu qua các cõi để thọ ký như phẩm Pháp Sư phần đầu; hay biệt cùng với ký sẽ nói ở 3 lần sau. Nếu là chánh nhơn ký thì như Thường Bất Khinh. Nếu là nhơn duyên ký thì như phẩm Pháp Sư 10 loại cúng dường. Nếu là liễu nhơn ký như người thọ 3 căn. Nếu chánh nhơn ký thì rộng. Nếu là duyên liễu ký thì hẹp. Hoặc ký chậm hay ký nhanh. Hoặc Phật ký như câu văn nầy; hoặc Bồ Tát ký như Bất Khinh. Tuy không định ở kiếp số và quốc độ mà lại được thọ ký. Lại huyền ký như Phẩm Hóa Thành, là những đệ tử vị lai vậy. Kinh khác hay thọ ký cho Bồ Tát và chẳng thọ ký cho Nhị Thừa. Hay thọ ký cho việc lành, chẳng phải việc dữ; hay thọ ký cho người nam, chẳng phải người nữ. Hay thọ ký cho người, trời; chẳng thọ ký cho loài súc sanh. Nay kinh nầy tất cả đều thọ ký.
Nếu là Thủ Lăng Nghiêm thì có 4 loại thọ ký. Nay kinh nầy cũng đầy đủ như thế. Người chưa phát tâm cũng thọ ký, như phẩm Thường Bất Khinh. Phát tâm hiện tiền vô sanh, 3 lần thọ ký vậy. Anh Lạc có 98 loại thọ ký, đã rõ kia hay chẳng rõ. Chúng nhơn rõ hết rồi hay chẳng rõ. Chúng ấy đã rõ biết đầy đủ rồi hay chưa rõ biết. Gần thì rõ biết mà xa chẳng rõ biết; xa thì rõ biết mà gần thì chẳng rõ biết. Đều rõ biết tất cả và chẳng rõ biết. Đã biết kia hay chẳng biết. Phát tâm tự thệ chưa rộng rãi cùng với người. Chưa được Tứ Vô Úy. Chưa được thiện quyền. Chúng nhơn rõ biết hết rồi hay chưa rõ biết. Phát tâm rộng rãi được vô úy, thiện quyền.
Tất cả đều rõ nghĩa là địa vị ở Thất Địa. Vô úy thiện quyền được không quán. Tất cả chẳng rõ biết là chưa vào Thất Địa, chưa được vô trước hạnh v.v...
Kẻ xa mà chưa giác ngộ chính là Di Lặc vậy. Các căn đầy đủ chẳng bỏ, là việc làm vô trước của Như Lai. Kẻ gần không giác ngộ là người nầy chưa thể diễn thuyết các hạnh của Hiền Thánh. Đây là Sư Tử Ưng vậy. Xa gần đều giác ngộ; các căn đầy đủ chẳng xả là hạnh vô trước. Đây là nhu thuận Bồ Tát vậy. Xa gần đầy đủ chẳng giác ngộ là chưa được thiện huyền; chẳng thể rõ biết Như Lai Tạng. Đây là Đẳng Hành Bồ Tát vậy.
Ngoài ra kinh văn còn nói rằng: Kẻ biết gần là từ Phật trong hiện tại được thọ ký. Như Di Lặc v.v... Kẻ rõ xa là chẳng từ vị Phật nầy mà từ vị Phật tương lai sẽ được thọ ký. Như Phật nói với Tệ Ma rằng: Tương lai Di Lặc sẽ thọ ký cho ngươi. Gần xa đều rõ nghĩa là Phật. Bây giờ và tương lai đều cùng thọ ký. Gần xa đều chẳng rõ là Phật bây giờ và tương lai, tất cả đều chẳng thọ ký.
Nguyên là chư Phật vốn do vì một đại sự nhơn duyên mà ra đời. Nay khai thị cho chúng sanh để ngộ nhập Phật tri kiến. Nay đại sự đang hiển bày. Phật nói điều nầy xong cho chúng sanh thì nhập diệt. Phật đã vì bản hoài mà làm cho chúng sanh mãn nguyện và cung ứng pháp và thọ ký. Như cha gặp con, há chẳng giao cho tài sản. Lại nữa con người vô lượng đã có những hạnh nguyện nhiều đời và nay ở tại Phật nầy.
Kinh lại nói: Bổn nguyện nầy như vậy; cho nên mới cho thọ ký. Hai việc nầy đầy đủ nhơn duyên là thế giới Tất Đàn; nên thọ ký. Lại nữa Nhị Thừa nghe kinh và cải bỏ Tiểu, nhập vào Đại Viên; nhơn ấy đã đủ. Nhơn nầy tất chiêu quả; cho nên nói Như Lai cùng thọ ký. Lúc ấy cả chúng rõ biết, phát nguyện. Nguyện vì khi sinh ra bằng sanh thân hay pháp thân trong ngoài đều là bà con. Hoặc nguyện sanh vào nơi kia để làm lợi lạc cho chúng sanh. Hai nguyện nầy là vị nhơn Tất Đàn mà thọ ký. Lại nữa thọ Nhị Thừa ký là muốn phá bỏ lớn vào nhỏ Bồ Tát.
Vì sao vậy ? Nếu định có Nhị Thừa có thể thoái lui thành nhỏ, thì nay chẳng có Nhị Thừa thì có chỗ nào để mà thối lui? Lại nữa muốn phá kẻ phát tâm Nhị Thừa thì người kia chứng tự xả còn ta là ai mà giữ lại ? Lại chưa phá việc cải đổi thành Tiểu, liền cải đổi thành Tiểu. Sẽ chứng Tiểu; tức là chẳng giữ việc chứng. Đây là 4 đối trị Tất Đàn cùng thọ ký.
Lại nữa vô sanh hiện tiền tất do thật giải về khai Phật tri kiến chẳng nói ngoa. Lại làm sáng tỏ Phật tánh cho nên cùng thọ ký. Tiểu Thừa khi vào thật, quyết định sẽ làm Phật. Nếu mà tất cả chúng sanh như vậy, lại có Phật tánh tại sao lại chẳng thọ ký ? Như vậy chúng sanh ấy hằng không có duyên sao ? Nay nghe kinh, tin giải duyên vào chánh Cụ Túc. Nghe Phật tri kiến, rõ biết Phật tánh. Gặp Phật Pháp thấy Phật tánh. Hai việc nầy là đệ nhất nghĩa của Tất Đàn cùng thọ ký. Bốn điều thọ ký nầy gồm tất cả những thọ ký bên trên đã hết v.v...
Thọ ký lại nói rằng gồm: Thọ ký, thọ quyết, thọ biệt. Thọ đây là cùng nghĩa với thọ nhận; nghĩa là được thọ ký; là việc thọ ký. Quyết đây là quyết định; biệt đây là liễu biệt. Người căn cơ trung bình nghe nói pháp thí dụ 2 lần liền khai 3 hiển một. Đầy đủ lãnh giải Như Lai thuật thành. Tuy bị rõ biết làm Phật, mà thời gian chưa đến. Nếu mong đợi nơi lời giáo huấn của Phật thọ ký thì cái quả ở tương lai ở nhiều kiếp và nhiều nước, quyết định gần xa, liễu biệt tức liền hoan hỷ lớn.
Nay từ Đức Phật thọ ký và được có tên; cho nên nói rằng: Phẩm Thọ Ký. Câu văn nầy là thí dụ nói về đoạn thứ 4. Ba đoạn bên trên đều nói về thí dụ. Trong nầy việc thọ ký lại dùng đến thí dụ. Luận về thọ ký sao ý ấy không có đoạn thứ 5 ?
Một cách giải rằng: Chỉ bên trên, chỉ bên dưới, lược bớt chẳng luận. Lại nói: Cây cỏ dụ cho tất cả việc thọ nhận sự thấm nhuần và mỗi mỗi được tăng trưởng. Lần lượt rõ biết, tứ chúng đều được lợi ích. Những nhà viết kinh lược bớt chẳng nói thêm. Văn nầy lại chia làm 2. Một là chánh cùng với trung căn thọ ký. Hai là hứa cho những kẻ hạ căn đời sau.
Phần đầu lại có 2. Đầu tiên là thọ ký cho Ngài Ca Diếp. Kế đến là thọ ký cho 3 người. Cũng có văn Trường Hàng và Kệ tụng. Trường Hàng về Ngài Ca Diếp trong ấy có 6. Một hàng nói về nguyên nhân; hai là đắc quả; ba là kiếp số và tên nước là Trang Nghiêm; bốn là thọ mệnh; năm là chánh tượng (pháp) lâu dài như câu văn; sáu là nước ấy thanh tịnh.
Trong phần 3 đệ tử lại có 3. Một là yêu cầu thọ ký; hai là cùng thọ ký. Thỉnh cầu thọ ký lại có 7 kệ. Hàng thứ nhất là chính thức thỉnh. Kế đến 2 hàng rưỡi là khai dụ. Kế đến 2 hàng rưỡi là hợp dụ. Tiếp theo 1 hàng là kết; thọ ký cho 3 người. Mỗi mỗi đều có hành nhơn và được quả, kiếp số, đất nước, thọ mệnh và giáo pháp trụ ở đời bao lâu.
Giống như câu văn từ „Đệ tử của ta“ trở đi gồm có 2 hàng rưỡi hứa vì những người căn cơ thấp liền nói đời sau. Người nầy nghe pháp dụ nầy. Lại thấy thọ ký cho bậc cao và bậc trung mà giống như còn nghi ngờ chẳng rõ biết, sau sanh thẹn lòng. Muốn tăng tiến con đường đạo, trước hứa thọ ký tổng quát, sau đó mới nói túc duyên v.v...
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú
(Hết quyển 7 -Phần trên) Giải thích Phẩm HÓA THÀNH DỤ
Hóa là dùng thần lực để làm. Dùng đến thần
lực; cho nên không mà trở thành có. Gọi đây là hóa. Đề phòng địch phá nên làm thành. Bên trong thì hợp với Nhị Thừa Niết Bàn. Dùng quyền trí để làm. Lấy quyền trí lực thì không thể nói là có được. Dùng sự dạy dỗ để hóa và đề phòng suy nghĩ nên thấy. Gọi đây là Niết Bàn. Tô tức dẫn vào chỗ thật chưa cứu cánh mà nói là diệt độ. Quyền giả bày ra; cho nên nói là hóa thành. Thí dụ như phía trước đã nói. Đây là giải thích về nhơn duyên vậy.
Ước Giáo cho rằng nếu là nghĩa của Tam Tạng thì đối với Niết Bàn sanh ra tưởng an ổn và sanh ra tưởng diệt độ. Còn nếu là Thông Giáo Nhị Thừa cùng với Tam Tạng giống nhau. Bồ Tát chẳng phải như vậy. Thích Luận nói rằng: Như người cha qua hiểm nguy, một chân bước vào thành và một chân ở ngoài cửa, nhớ nghĩ đến vợ con. Cho nên từ thành ấy bị nguy hiểm. Phàm là lời thệ nguyện thì phải tập vào trong sanh tử, mà chẳng lấy cái không để làm chứng.
Biệt Giáo thì chẳng đi đến thành để hóa. Dùng thành để phòng ngừa nguy hiểm. Từ cửa thành trải qua, thành ấy sẽ tạo ra phương tiện đoạn trừ kiến, tư, hoặc. Chẳng phải đạo thì đây là tối cao.
Viên Giáo rõ biết chẳng có giặc, bịnh nên chẳng cần thành. Cho nên nói là hóa thành vậy. Nay dùng cái ý của Viên Giáo nầy. Do vậy mà tiêu đề là Phẩm Hóa Thành Dụ. Bổn tích quán tâm chẳng nghi.
Hỏi: Phẩm nầy nói về nhân duyên của những người hạ căn được giác ngộ; nên gọi là túc thế phẩm được chăng?
Đáp: Phẩm nầy ban đầu rộng nói về nhơn duyên; nhưng sau cuối thì dụ cho hóa thành. Nếu từ trước thì nên gọi là túc thế và qua nửa sau; nên gọi là hóa thành. Lại nữa người thượng căn ít nghi; nên hay giữ cây đao; ba, bảy tư duy. Dùng đó để làm rõ cơ duyên. Kẻ trung căn thì nghi cũng ít; nên thêm phần thí dụ. Sâu dùng hai vạn ức Phật để giáo hóa trở thành đạo vô thượng. Dùng lấy cơ duyên nầy. Kẻ hạ căn nghi ngờ lại dày hơn; tức liền dùng chuyện đời trước xa xôi đã có cơ duyên. Nếu bắt đầu từ đời trước tức là làm rõ nhơn duyên sâu xa kia và nói đoạn giữa nầy là hóa thành. Để làm rõ chỗ cứu cánh kia nên nói là bảo sở. Những nhà chú giải kinh điển thường lấy phẩm nầy làm chuẩn, giữ lại được trước sau là từ ý nghĩa nầy vậy; cho nên nói là Phẩm Hóa Thành.
Hỏi: Hóa thành là quyền bảo sở hay là thật. Với ý gì mà lấy thật làm quyền ?
Đáp: Do rõ biết thành nầy là do hóa ra; tức là rõ biết bảo sở là thật; cho nên mục tiêu hóa ra đó, chẳng mất đi cái thật. Đoạn nầy trong 3 phẩm kinh văn. Thí dụ như trước có 4. Hay lãnh giải thuật thành, tất cả đều ở trong đoạn thọ ký. Người nào chẳng lãnh giải được ? – Yên tâm được thọ ký thuật thành; cho nên kiêm luôn được 2 ý. Lại nữa hiểu rõ thuật thành được thọ ký. Hoặc là trước sau không định. Lãnh giải hay làm thinh, phát ngôn chẳng giống nhau. Câu văn nầy thiếu không đủ chia ra phẩm; nên nhập vào với đoạn khác. Trong phẩm nầy chính nói về nhơn duyên; sau đó 2 phẩm nói về thọ ký. Phần đầu lại có 2. Một là đầu tiên làm rõ chỗ tri kiến dài lâu; hai là làm rõ sự kết duyên của đời trước. Đức Như Lai 3 lần minh chứng cho sự thấy xa ấy như thấy ngày hôm nay. Cho nên dẫn ra các việc, quyết định chẳng hư. Sau đó nói về túc thế vậy. Hai điều nầy mỗi mỗi đều có văn trường hàng và kệ tụng. Trường hàng phần đầu lại có 3. Một là ra chỗ, thấy việc; tức là việc tốt thành tướng tốt của Đại Thông Thắng Phật. Hai là đưa ra thí dụ để minh chứng cho sự lâu dài ấy và ba là đoạn kết, thấy xưa như nay v.v...
Kệ có 7 hàng, tụng về 3 nghĩa phía trước như câu văn. Từ „Phật thọ 540“ trở đi là chính thức làm sáng tỏ chỗ kết duyên. Lại nữa đây có 2. Đầu tiên là lý do kết duyên; hai là chính thức kết duyên. Lý do trong ấy lại có
2. Lý do xa và lý do gần. Lý do xa lại có 2. Một là Đại Thông Trí Thắng Phật thành đạo. 20 phương Phạm âm đến thỉnh cầu nghe pháp. Việc thành đạo lại có 5. Một là tuổi thọ của Phật dài lâu Phật nầy đang ngồi. Phần thứ 2 là những sự việc trước khi thành đạo. Sánh với con đường của chư Phật giống nhau; chỉ vì duyên sự khác nhau. Đức Thích Ca tu khổ hạnh 6 năm. Cỏ mọc chung quanh còn không biết. Chư thiên than khóc, đất rung động mà chẳng nghe để thay đổi chỗ ngồi để được đắc đạo. Di Lặc ngay trong ngày xuất gia liền đắc đạo. Vị Phật kia trong 10 kiếp ở trước mắt. Không có căn nào là lợi, độn; nhưng đạo thì có khó, dễ. Duyên ấy nói đầy đủ để chỉ có ngắn, dài. Ba là các vị Tỳ Kheo của Ngài Đại Thông trải qua 10 tiểu kiếp trở đi là minh chứng cho việc chính thức thành đạo. Bốn là vị Phật nầy chưa xuất gia là minh chứng cho việc sau khi thành đạo, quyến thuộc đến cúng dường. Năm là lúc ấy có 16 vị vua tán thán bằng những bài kệ. Đây là làm rõ chỗ thỉnh chuyển pháp luân.
Câu văn thứ nhất dễ giải thích. Câu văn thứ 2 trước khi thành Phật lại có 2. Một là Phật ngồi nơi Đạo Tràng, trải qua các thời tiết. Hai là chư thiên cúng dường. Từ „Phật bảo chư... đến lúc được tam bồ đề“, phần thứ 2 nầy các Phạm Vương thỉnh cầu và câu văn chia làm hai. Một là uy quang chiếu động; 20 phương các vị Phạm Vương đến thỉnh. Uy quang đầu tiên là do nhơn quả trong quá khứ; nên kinh nói rằng: Khi mang thai Tất Đạt Đa, 3000 quốc độ bỗng nhiên có ánh sáng lớn. Mặt trời mặt trăng không chiếu đến mà nơi ấy vẫn được sáng tỏ.
Ở trong nầy chúng sanh mỗi mỗi được thấy tướng ấy. Lúc mới thành đạo lại cũng như vậy. Buổi sáng vì chư Thiên ở cõi Sắc; buổi trưa vì chư Thiên ở cõi Dục rồi dùng thần hồn để thuyết pháp. Buổi tối lại cũng như vậy. Quán tâm cho rằng khi chúng sanh sanh ra thì tâm tánh vốn thanh tịnh. Vì ấm, nhập, giới che khuất nên bị tối. Nếu tu quán huệ bổn tánh thì lý sẽ hiển. Lại nữa 2 núi ấy là 2 chân lý. Giữa thời gian ấy là đạo. Ánh sáng mặt trời, mặt trăng là 2 trí. Ánh sáng của Phật là trung đạo; chẳng phân biệt trí quang. Chiếu sáng cái gốc ấy có 3 chân lý làm cho chỗ tối cũng sáng.
„Lúc bấy giờ ở phía Đông“ trở đi -Phần thứ 2 có 10 phương Phạm Vương. Câu văn nầy lại chia làm 2. Trước tiên là 9 phương và sau đó là phương trên. 9 phương nầy chia ra làm 4. Một là Đông. Hai là Đông Nam. Ba là Nam và bốn là tổng cộng làm sáng tỏ 6 phương khác. Trước 3 phương Phạm; câu văn nầy mỗi mỗi có 7. Một là thấy đoan nghiêm; hai là kinh ngạc; ba là muốn hỏi chỗ nghi ngờ; bốn là tìm ánh sáng đến để gặp Phật; năm là 3 nghiệp cúng dường; sáu là thỉnh pháp; bảy là mặc nhiên hứa khả. Tất cả như câu văn. Phương trên Phạm Vương dừng lại có 6. Thế Tôn liền nói cho nên chẳng phải mặc nhiên hứa khả. Ngày xưa nói: Đông, Đông Nam thỉnh nhỏ; bảy phương kia thỉnh lớn. Phương trên thỉnh nhỏ, lớn. Nếu Thích Luân làm sáng tỏ Phạm Vương, gốc chính là thỉnh lớn. Phật tuy nói về nhỏ; nhưng chưa theo chỗ thỉnh. Nếu nói Bát Nhã giống như là 10 Phạm Vương thỉnh. Nếu nương vào câu văn của phẩm Phương Tiện thì Phạm Vương thỉnh lớn. Kế đến Phật Pháp cùng giống nhau, chẳng nên thỉnh riêng. Nay thì kinh luận còn lại đều lược. Chư Sư sửa rộng ra. Lại như Phật nay tự đầu chí cuối đều chuyển 5 vị Pháp luân, mỗi mỗi đều có mời Phạm Vương thỉnh. Kia lại cũng mặc nhiên. Phần đầu 16 chữ thỉnh chuyển đầy đủ dạy dỗ; rồi nay Phật nói Hoa Nghiêm. Đông, Đông Nam 2 phương ấy thỉnh chuyển nửa sự dạy dỗ. Như nay Phật nói ba tạng. Còn lại 7 phương sau thỉnh chuyển đối lại nửa kia để làm rõ chỗ đầy đủ ấy. Như nay Phật nói Phương Đẳng. Phương trên Phạm Vương thỉnh mang thêm một nửa để làm sáng tỏ chỗ đầy đủ. Như nay Phật nói Bát Nhã. Sau đó 16 chữ thỉnh bỏ phân nửa để làm rõ chỗ đầy đủ. Như nay Phật nói Pháp Hoa là đề hồ giáo vậy. Nay và xưa các tiết mục và văn, nghĩa giống nhau v.v...
„Lúc bấy giờ Đức Đại Thông Trí Thắng thọ nhận 10 phương“ trở đi – là lý do kết duyên gần. Do Phật thọ nhận việc thuyết pháp; cho nên sau được che chở giảng chánh thức tạo việc kết duyên. Câu văn nầy chia làm 2. Một là trước khi chuyển về nửa chữ Pháp luân. Hai là các con thỉnh chuyển và phế bỏ một nửa, làm rõ đầy đủ chữ Pháp luân. Đầu tiên ấy lại chia làm 3. Một là thọ nhận việc thỉnh cầu; hai là chính thức chuyển pháp luân; ba là nghe pháp được đạo. Trong nầy nên nói về 3 thừa như câu văn của lời tựa, mà nay chẳng nói là chính thức vì kẻ hạ căn mà nói. Luận về kết duyên khai hiển v.v... Lược chẳng nói về lục độ. Ba lần chuyển nghĩa là biểu thị cho việc khuyến khích chứng đạo v.v...
Lại sẽ có 3 lần chuyển đối với sự chỉ bày giáo hóa làm cho lợi lạc vui mừng. Thị đây tức là thị hiện chuyển pháp luân. Giáo đây tức là khuyên chuyển pháp. Lợi kỷ nghĩa là chứng được việc chuyển pháp. Lại đối với việc thấy chân lý suy nghĩ, vô học. Vì Thanh Văn mà 3 lần chuyển. Vì Duyên Giác mà 2 lần chuyển. Vì Bồ Tát một lần chuyển. Vì sao lại như vậy ?
Do căn lợi, độn đã nói qua một lần rồi. Thông (giáo) cũng ví như tất cả 3 lần chuyển. Vì sao lại 3 lần? – Chư Phật nói pháp; pháp ấy đến với 3. Vì chúng sanh có 3 loại căn cơ vậy. Đại Luận và Bà Sa đều tạo ra thuyết nầy.
Hỏi: Đầu tiên là 5 người. Sao lại thực hiện cho 3 căn cơ ?
Đáp: Lại còn có 8 vạn chư thiên. Vì sao lại chẳng phải 3 căn. Vì sanh tam huệ, tam căn, tam đạo vậy. Có 12 hạnh. Đó là: Một là ước (giáo) về Tứ Đế; hai là ước về 16 hạnh. Giáo 12 tức là hiển thị khuyến khích để chứng được điều nầy. Hành 12 nghĩa là 3 lần chuyển tất cả đều sanh nhãn trí, làm rõ chỗ giác. Lại nữa giáo có 12 vì hay chuyển; hạnh có 12 vì sở chuyển. 12 hạnh là bánh xe; 12 giáo không phải bánh xe. Nếu tạo 2 nghĩa của bánh xe thì nhãn trí làm rõ cho người giác ngộ. Ước (giáo) có 48 pháp. Khai mở 4 tâm này thành 16 tâm. Nghĩa là pháp khổ nhẫn làm nhãn khổ; pháp trí làm trí. So sánh nhẫn nầy thì làm sáng tỏ chỗ so sánh trí làm giác. Ngoài ra 3 đế cũng lại như vậy. Cho nên thành ra 16 tâm. Ba loại căn tánh của người; mỗi mỗi cũng có 16 tâm. Cho nên thành 48 hành. 12 đế là bánh xe giáo pháp; 12 hành là thực hành bánh xe chuyển pháp. Giáo luân tức là hay chuyển tuy là một quyền trí. Sở chuyển tức là 12 giáo vậy. Nếu hành pháp luân hay chuyển là giáo có 12. Sở chuyển là hành lại có 12. Hoặc Thông (giáo) có 3 người; Ước (giáo) có một người. Nay tựu chung thấy chơn lý đạo có 3 người. Kẻ lợi căn nghe, thấy thị hiện chuyển pháp liền sanh nhãn trí và làm sáng tỏ chỗ giác. Ba người hợp lại đưa ra cho nên nói là 12 hành. Chỗ chẳng thể chuyển là Sa Môn chẳng nghe việc trên, lại chẳng thể hiểu rõ. Hà huống là hay chuyển.
Bích Chi Phật tuy giác ngộ ở miệng; nhưng chẳng thể giảng nói Bà La Môn nghe gọi điều nầy; nhưng chẳng giải rõ lý nầy. Ma Phạm lại cũng như vậy. Phu chuyển nghĩa là chuyển pháp nầy độ nhập vào tâm kia, làm cho kia được giác ngộ và phá trừ 62 kiến chấp. Lại gọi là chuyển pháp luân. Vì chẳng thể sánh nghĩa nầy với Ma Phạm; vì họ không thể chuyển được. Lại có nơi giải về Đại Thừa Tứ Đế. Kế tiếp đó chuyển 2 đế và tiếp theo chuyển 1 đế và lần lượt chuyển không còn đế nào. Tất cả đều được gói trọn ý trong ấy.
Tiểu Thừa Tứ Đế dùng sanh diệt làm thể. Đại Thừa dùng vô sanh diệt làm thể v.v... 12 nhân duyên ấy là trở lại biệt tướng, quán rõ về Tứ Đế. Ước (giáo) nói về khổ tập tức là có vô minh, lão tử. Ước (giáo) đạo diệt tức là có chỗ vô minh diệt cho đến lão tử diệt. Lại có 3 người theo Thông (giáo) thì quán 12 duyên. Nhị Thừa sanh diệt 12 duyên. Vì Bồ Tát vô sanh 12 duyên. Vô sanh 12 duyên. Gốc ấy vốn không sanh cho nên nay chẳng diệt.
Tướng sanh tức là tướng sanh chuyển chuyển đến diệt v.v...
Lại nữa Tam Thừa cũng như Thông (giáo) luận về Tứ Đế. Nhị Thừa có so sánh cùng Tứ Đế. Vì Bồ Tát không so sánh Tứ Đế. Lại nữa lục độ lại Thông (giáo) 3 người. Trong Đại Phẩm phần Phát Thú phẩm nói rằng: A La Hán Bích Chi Phật. Nhơn là 6 Ba La Mật cho đến bờ kia. Nhiếp Đại Thừa nói rằng: Phàm phu nhị thừa tất cả đều có lục độ, thường là chẳng giống nhau. Nếu được đầy đủ Ba La Mật thì hàng Nhị Thừa đến bờ Niết Bàn bên kia. Lại được gọi là Ba La Mật. Thường là chẳng đến được Phật đạo bờ kia. Bồ Tát này khác biệt. A Tỳ Đàm nói có 6 chân. Sáu chân đây là 6 độ. Kinh Bảo Vân làm sáng tỏ 3 thừa Tỳ Ni v.v...
Phần thứ 3 là nghe pháp được giác ngộ. Đầu tiên người kém và trung bình nhiều. Chẳng thọ tức là không giữ 4 việc thấy. Ngộ sơ quả, được giải thoát. Thoát ra khỏi 2 sự trói buộc là quả con, được vô học. Thâm diệu định tức là đều giải thoát cả v.v...
Lúc bấy giờ 16 vị Vương Tử đều xuất gia trở đi ¬Phần thứ 2 thỉnh thêm một lần nữa về mãn tự Pháp luân. Câu văn nầy lại có 7. Một là xuất gia; hai là thỉnh pháp; ba là cùng xuất gia; bốn là Phật nhận lời thưa thỉnh; năm là lúc chúng có rõ và không rõ; sáu là thời tiết và bảy là nói rồi nhập định. Chủ căn đây tức là 6 căn. 6 căn thanh tịnh cho nên nói là thông lợi. Lại nữa 6 căn hỗ tương với nhau; nên nói là thông. Vào cảnh giới Phật; cho nên nói là lợi. Trí huệ minh liễu nên khai, thị, ngộ, nhập. Phật kia đầu tiên nói về viên đốn. Chư Thiên Đại Thừa công đức tất cả đều đầy đủ. Thương cho các phương tiện; nên lại khai quyền hiển thật một lần nữa. Thanh Văn tất cả đều đã thành tựu. Làm rõ chứng nầy để trừ những cơ nguy động loạn. Do vậy mới thỉnh. „Chúng con chí nguyện tri kiến của Như Lai“ là kinh Pháp Hoa nầy hằng làm rõ chỗ tri kiến Phật. Duy ý chí là đối với việc nầy. Tức là chính thức thỉnh. Câu văn đầy một chữ, bỏ nửa chữ. Làm sáng tỏ chỗ hiển là điều nầy. Qua 2 vạn kiếp là bên trên khai 3 rồi liền lâu dài; chẳng gồm ở giữa, không có việc gì. Nhìn xuống ý những câu văn phía dưới thì 2 vạn kiếp. Tất nhiên nói Phương Đẳng, Bát Nhã. Câu văn nói rằng: Nói lục Ba La Mật và các việc thần thông. Bát Nhã là việc thực hành thần thông. Trong các kinh Phương Đẳng phần nhiều làm sáng tỏ những việc làm bất khả tư nghì. Trong câu văn tụng lại nói rằng: Phân biệt pháp chân thật. Tức là Đại Phẩm làm sáng tỏ thật tướng của ý Bát Nhã.
16 Sa Di tín thọ cùng với Nhị Thừa tức là tin được giải thoát. Ngoài ra một ngàn vạn đều sanh nghi hoặc. Việc nầy chúng không thể giải được. Việc nầy họ không giải được tức là cùng với 16 người con ấy. Phần kết của Pháp Hoa là duyên.
Phần thứ 7 làm sáng tỏ chỗ thuyết pháp rồi nhập định. Đây chính là lý do gần của việc kết duyên. Do Phật nhập định chưa ra khỏi; cho nên những nghi ngờ của mọi người chẳng biết thưa thỉnh ai. Với 16 vị nầy sau đó không giải thích. Kinh che lấp không giảng việc nầy.
Trong câu văn làm sáng tỏ chỗ nhập định; tức là chỗ thanh tịnh. Chánh nhập định tức là trụ ở nơi thiền định. Nhập định thời gian tức là 8 vạn 4 ngàn kiếp v.v...
„Lúc ấy 16 vị Bồ Tát (Sa Di) rõ Phật nhập thất“ trở đi. Phần thứ 2 là chánh kết duyên. Tựu chung điều nầy có 2. Trước tiên là nói pháp kết duyên. Kế đến là nói dụ để kết duyên. Tựu chung nói pháp lại có 3. Thứ nhất là làm sáng tỏ xưa nay chỗ cùng kết duyên. Thứ 2 là làm rõ khoảng trung gian lại gặp gỡ. Thứ ba là làm rõ chỗ nay trở lại nói Pháp Hoa.
Phần một lại có 4. Một là rõ việc Phật nhập định; hai là Vương Tử che lấp việc giảng; ba là chúng được lợi ích và 4 là Phật từ định khởi dậy xưng tán các Bồ Tát. Do Phật nhập định cho nên được nói. Phật rõ biết một lần giáo hóa là xong, chẳng cần phải thuần thục những người ở giai đoạn nầy. Cho nên làm cho Vương Tử cùng với sự kết duyên nầy. Lại nữa rõ biết những điều nầy là do các Vương Tử; cuối cùng được độ. Vì nhập định lâu, chẳng ra khỏi v.v...
„16 vị Sa Di nầy“ trở đi -Phần thứ nhất là rõ Phật nhập định. „Mỗi vị thăng tòa nói pháp“ -Phần thứ 2 chờ nói Pháp Hoa. „Mỗi mỗi đều được độ“ -Phần thứ 3 thuyết pháp làm lợi ích. Tất cả đều phát Bồ Đề tâm; cho nên nói rằng độ. Nếu lúc sơ phát tâm thệ nguyện sẽ làm Phật để trải qua ở thế gian; tức nghĩa là trải qua 7 phương tiện bỉ ngạn vậy. „Đại Thông Trí Thắng qua 8 vạn“ -Phần thứ 4 là Phật từ định dậy, xưng tán khuyến tin. Trong nầy lại có 2. Một là chính thức xưng tán các Bồ Tát. Hai là các ngươi tất cả đều sẽ được khuyên là gần gũi giữ thân cận. Trong việc khuyến vật thân cận lại có 2. Trước tiên là khuyên gần gũi. Kế đến từ „vì sao vậy“ trở đi -Phần thứ nhất là giải thích cái ý khuyên thỉnh. „Phật bảo 16 vị Tỳ Kheo nầy“. Phần thứ 2 làm sáng tỏ ở khoảng thời gian giữa thường hay gặp nhau. Việc gặp nhau lại có 3 loại. Nếu gặp gỡ ngẫu nhiên thì thường là thọ Đại Thừa. Khoảng trung gian nầy tất cả đã thành tựu rồi, chẳng đến ngày hôm nay. Nếu mà sự gặp gỡ ngẫu nhiên thì sẽ bỏ Đại; nhưng lại tiếp nhận Tiểu. Bối cảnh trung gian nầy giống như chưa hết. Nay lại được nghe những lời giáo huấn của Đại Thừa. Ba là chỉ luận việc gặp Tiểu chứ chẳng luận về gặp Đại. Tức là trung gian chưa độ. Ngay cả ngày nay lại cũng chưa hết. Đầu tiên thì thọ nhận Đại, cho đến sau khi diệt độ, được đạo gọi là đây.
Hỏi: Như bên trên có hứa về thời gian lâu dài; nay đầu tiên là La Hán; phải biết rằng vô sanh pháp nhẫn sao lại có thể dễ được các cấp vậy ?
Đáp: Thứ nhất nói rằng: Đại Thánh thiện xảo nương vào Tứ Tất Đàn (4 sự thành tựu) để nói như thế này; hoặc nói Phật đạo dài lâu; hoặc nói Phật dễ được. Đối trị yểm đạo dài thì nói ngắn. Đối với Đạo sanh khinh dị nên nói lâu dài. Hoặc vì phát sanh căn lành đời trước. Hoặc tùy theo sở dục của thế gian; hoặc vì nghe nói dài, ngắn liền được nhập vào đệ nhứt nghĩa. Nên biết rằng: nói như hỏi về số kiếp và nay lại được A La Hán. Đây chính là quyền thực hành Tứ Tất Đàn. Hướng dẫn họ thực hành nhập đạo vậy.
„Chư Tỳ Kheo! Nay ta nói ngươi ở Đức Phật kia“ trở đi -Phần thứ 3 làm rõ ngày nay trở lại nói kinh Pháp Hoa. Câu văn nầy lại chia làm 2. Trước tiên là cũ gặp mới. Sau đó làm sáng tỏ trở lại, nói kinh Pháp Hoa. Phần đầu cũ gặp mới lại cũng có 2. Một là nối kết các Thầy xưa và nay. Hai là gặp đệ tử xưa và nay. 16 vị Sa Di là xưa. 8 phương làm Phật là nay.
„Chư Tỳ Kheo! Chúng ta mỗi người làm Sa Di“ trở đi. Kế đến gặp đệ tử lại có 2. Một là gặp trong hiện tại và hai là gặp ở vị lai. Hiện tại lại có 4. Một là chẳng thối lui, trụ ở Tam Bồ Đề. Hai là những chúng sanh nầy thoái chuyển; nay trụ ở Thanh Văn. Ba là „sở dĩ giả hà“ trở đi, giải thích cái ý về việc thoái trụ. Bốn là lúc ấy chỗ giáo hóa vô lượng trở đi là chính thức kết hợp lại với xưa và nay. „Và ta diệt độ, vị lai thì“ trở đi -Phần thứ 2 là gặp các đệ tử trong tương lai. Phần nầy lại có 2. Một là chính thức gặp; hai là „ta diệt độ rồi sau đó lại có“ giải thích phần nghi. Nghi ở đây nói cái gì ? -Hiện tại được nghe Phật nói Pháp Hoa được nhập vào một đạo. Đây có thể là việc kết duyên lưu bố. Vị lai ấy là chẳng nghe Pháp Hoa mà vào diệt độ. Điều ấy há có thể bỏ Tiểu được nhập vào Nhứt Thừa chăng ? -Giải thích rằng: Tuy là diệt độ; nhưng muốn cùng gặp được nghe. „Ta ở nơi các nước ấy làm Phật được nghe kinh nầy. Các nước kia tức là Tam Thừa Thông Giáo, hữu dư quốc. Ngoài ra các Đức Như Lai phương tiện nói pháp. Đoạn nghi ở đây là 3 phương tiện để nói. Sự thật nầy không có 3.
„Chư Tỳ Kheo! nếu Như Lai“ trở đi -Phần thứ 2 chính thức làm sáng tỏ việc ngày nay trở lại nói kinh Pháp Hoa. Việc nầy lại có 3. Một là lúc chúng thanh tịnh. Hai là chính thức nói kinh Pháp Hoa; ba là giải thích phía trước để khai 3 ý. Đến lúc Niết Bàn, chư Phật ra đời dạy đạo và lúc xong rồi, liền nói kinh nầy. Như Phật Ca Diếp và Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh v.v... khi các Ngài nói kinh nầy xong, liền nhập Niết Bàn.
Đức Thích Ca nói kinh Pháp Hoa rồi liền xướng lên rằng: Ta sẽ nhập diệt. Chúng lại thanh tịnh tức là đoạn đức vậy. Tín giải kiên cố. Tin ấy tức là 4 lòng tin không hư hoại. Giải tức là vô lậu chánh giải. Liễu đạt chơn đế, đầy đủ những Thiền Định. Trí nầy đoạn lập vậy. Lúc bấy giờ dạy sâu đạo lớn, nghe rồi tất nhiên tin nhận. Lại nữa chúng ấy lại thanh tịnh, được Tam Tạng giáo ích, miễn trừ những việc khổ nạn. Tín giải kiên cố nghĩa là đối với những lời dạy của Phương Đẳng về tâm, tướng, thể và tín. Liễu đạt pháp không, nghe lời dạy của Bát Nhã và thuyết pháp. Đối với trong pháp không, tâm được liễu đạt, tức là chuyển cái ý của sự dạy dỗ. Từ „liền đó các Bồ Tát tập hợp lại“. Đây là chính thức nói Pháp Hoa. Tập hợp các Bồ Tát tức là tụ hội thân tộc lại để nói kinh nầy.
Bên trên có giải thích về thân tộc và pháp thân Đại Sĩ ảnh hưởng chúng. Dùng lời văn nầy để làm kinh nghiệm cho nghĩa nầy và xác minh. Tập chư Bồ Tát là hội các thân tộc lại và chúng Thanh Văn là thân mệnh của những người con nầy. „Tỳ Kheo nên rõ, Như Lai phương tiện“ trở đi là giải thích khai mở 3 ý. Nếu ở đời không có Nhị Thừa mà được diệt độ thì vì sao Như Lai trước phải nói về quyền giáo? Giải thích rằng: Tỳ Kheo nên rõ Như Lai phương tiện là sâu rõ chúng sanh có tánh Tiểu, muốn đắm trước vào nơi những tệ hại của ngũ trần nên có 5 sự ô trọc. Do vậy, đầu tiên nói 3, làm cho phá tan những tệ hại ấy để miễn trừ sự khó khăn. Sau đó lại nói một. „Giống như 500“ trở đi -Phần thứ thí dụ vậy. Có khai, có hợp khai và dụ ấy lại chia làm 2. Phần thứ nhứt dụ về vị Đạo Sư. Phần bên trên che đậy cùng giảng giải kết duyên lớn tức là nghi về nhà lửa, tổng dụ về phương tiện là con được lược tụng. Phần thứ 2 dụ về vị Đạo Sư tương lai. Dụ bên trên, ở giữa gặp gỡ nhau và nay thì trở lại nói kinh Pháp Hoa vậy. Nếu ở khoảng giữa gặp từ „ta nghe pháp, tất cả đều vì Tam Bồ Đề; chẳng vì người nầy mà tạo ra thí dụ. Nếu ở khoảng giữa mà gặp „nay trụ ở Thanh Văn địa“, chính là vì người nầy tạo ra 2 thí dụ vậy. Tức là phỏng theo thí dụ riêng về phương tiện của nhà lửa và tụng rộng ra. Cuối cùng về thí dụ của vị Đạo Sư đầu tiên ấy, qua câu văn nầy có 5.
Thứ nhất tức là phỏng theo thí dụ tổng quát về nhà lửa, về phương tiện lược tụng, trong đó có 6 ý. Dụ 150 do tuần là dụ cho bên trên chưa độ được các niềm vui, mà dính mắc vào các luận, rồi trở lại nơi chốn. Tức là phỏng theo trong nhà lửa rộng rãi nầy của 3 cõi chẳng an ổn; nên phẩm Phương Tiện an ủi đối lại với cái ý chẳng an ổn ấy.
Thứ hai là thí dụ về con đường nguy hiểm xấu ác. Dụ bên trên là chưa độ được những phiền não sâu dày; nên đối với trí tuệ của Như Lai khó tin, khó giải. Tức là phỏng theo trong nhà lửa ấy khởi lên phương tiện phẩm để an ủi đối với pháp chẳng an ổn kia.
Thứ ba là thí dụ về số nhiều. Đây chính là dụ cho bên trên có trăm, ngàn, vạn, ức loại; tất cả đều sanh ra nghi hoặc, chẳng thể rõ được của chúng sanh. Tức là dụ cho trong nhà lửa ấy có 30 đứa con và 500 người là phương tiện để nói về trí của chúng sanh và ý của tánh dục.
Thứ tư là thí dụ về ý muốn qua khỏi con đường nầy để đến nơi có của cải quý giá. Ngày xưa thì chẳng giữ; nhưng nay thì giữ lại thí dụ nầy. Dụ bên trên che đậy việc nói về Pháp Hoa. Phỏng theo thí dụ về cỏ; trong ấy chỉ có một vị của mưa và trong nhà lửa ấy duy nhất chỉ có một cánh cửa, phẩm Phương Tiện là ý nói về chỉ bày cho con đường của Phật ấy.
Thứ năm là thí dụ cho một vị Đạo Sư. Dụ bên trên nầy nói về vị Vương Tử thứ 16. Tức là trong cỏ thuốc ấy có mây dày, nhà cháy và Trưởng Giả phương tiện, nay ta lại có ý như thế.
Hỏi: Trong nầy tạo ra thí dụ, sao chẳng làm cho cha con xa lìa, khiến cho Trưởng Giả lo lắng vào nhà lửa, chẳng phải gọi là hư vọng sao ?
Đáp: Phàm tạo ra tên của thí dụ, mỗi mỗi tùy theo ý nghĩa. Bên trên lấy sự cơ cảm mà có không. Cho nên nói là cha con xa nhau, rồi cha con gặp nhau. Nếu dùng sự cảm ứng lúc ban đầu là phú thác cho cơ hội; cho nên nói rằng kinh ngạc vào nơi nhà lửa. Ở điều nầy làm rõ chỗ dẫn dắt chúng sanh, đời đời thường gặp nhau. Chỗ nào được gọi là xa nhau. Trước đó lâu dài kết nối nhân duyên, cái nào được nói ban đầu nên như thế. Vì nghĩa nầy cho nên chẳng tạo ra sự xa lìa và gọi là sự kinh ngạc vào vậy, mà đây là ý nầy, chắc rõ.
Hỏi: Vì sao chẳng tạo ra thí dụ chẳng hư ngụy ?
Đáp: Từ trên đến đây đã có 22 lần khai quyền hiển thật là ý nghĩa của hình ảnh nầy. Bất hư, ý muốn chính là khuyên bảo sự tin tưởng. Kẻ hạ căn tin tưởng chẳng lâu dài; cho nên chẳng đầy đủ. 500 do tuần ở đây là ở vị Thầy nầy 3 cõi kết hoặc làm thành 300. Bảy địa chỗ đoạn tập khí làm 400. Bát địa trở lên đoạn vô minh làm 500. Nay ở đây nghĩa là chẳng phải nghĩa riêng biệt chính đáng. Lại nữa chẳng phải nghĩa thông thường của Tam Thừa.
Lại có người nói rằng: Nổi trôi sanh tử, dễ dàng biến thành tử sanh. Ở giữa sự sanh tử ấy phân chia ra sự sanh tử. Thường hay lấy 3 loại khai mở làm 500. Chẳng dùng đến sự nổi trôi. Lưu lại là đầu tiên có sự hiểu biết; ngược lại với lúc ban đầu. Cho nên chẳng nói vậy. Có người nói điều nầy khó. Thắng Phát nói rằng: Nhơn có 5 và quả có 2. Quả 2 nghĩa là Phân đoạn biến dị. Nhơn ấy là 5 trụ. Nói quả tức là biệt khai lưu lại cùng với trung gian. Nói là nhơn, lại liền nói rộng về 5 trụ. Chẳng dựa theo, chẳng thể dùng đến. Đại Luận làm sáng tỏ nhục thân Bồ Tát, tức là phân đoạn. Pháp thân Bồ Tát tức là biến dị. Lại nói rằng: A La Hán xả bỏ báo thân của 3 cõi, thọ thân Pháp tánh. Cho nên rõ biết sanh tử là 2 vậy. Có người nói rằng: 300 ấy dụ cho 3 cõi. 400 ấy dụ cho Thất Địa. Giữa 2 nước khó qua. 500 ấy dụ cho Bát Địa trở lên. Khó ấy là nói về 400 dụ cho Thất Địa; tức là cùng với 300 dụ cho Lục Địa và Lục Địa ấy cùng với Nhị Thừa tế công. Nhị Thừa lâu dài mà chỉ có 60 kiếp; hoặc giả 100 kiếp. Từ Bồ Tát đến Lục Địa thì 22 Đại Tăng Kỳ. Nhị Thừa đối với con đường thành Phật quanh co qua lại chẳng được dễ dàng. Nay nghĩa nầy chẳng phải là nghĩa khác, lại cũng chẳng phải là nghĩa thông thường. Có người nói rằng: Tam giới là 300. Thất trụ và Nhị Thừa là
400. Từ Thất trụ trở lên là 500.
Như Đại Kinh nói rằng: Quả đầu tiên 8 vạn kiếp cho đến Bồ Đề Tâm xứ. Như con người có 3 gốc, đến được nơi nầy tức là lành giải. 5 loại người cho đến nơi nầy; gọi là qua 500 vậy. Đây chính là chỗ tối gần; cho nên nói là đến 8 vạn kiếp. Kẻ lanh lợi không cần đến như vậy. Như Phật ở đời được Tứ Quả vậy. Khi nghe Pháp Hoa đều phát tâm. Hà tất phải là 8 vạn kiếp. Ngài A Nan nói: Trải qua chỗ sáng tỏ, 300 do tuần, đứng nơi Nhị Địa, há đây là qua chỗ 3 người sao ? Nếu 5 người cùng phát tâm Bồ Đề; gọi đây là qua 500 người. Cùng với ý của Đại Kinh là một. Làm rõ chỗ 5 người phát tâm, lìa nơi Ngũ Vị. Chẳng phải là ý trong nầy. Trong nầy làm sáng tỏ 300 ấy là quyền thừa độ cho hóa thành. 500 ấy đến bảo sở, gọi thật độ, bỏ hóa thành, tiến đến bảo sở. Nếu 5 người đều qua, đều tiến; khi mất hóa thành thì dụ cho ý nầy.
Có người nói rằng: 3 cõi là 300; Thanh Văn là 400. Duyên Giác địa là 500. Phàm phu 3 cõi chướng. Nhị Thừa Niết Bàn chướng. Lại nữa có, không hai cách thấy. Hoa Nghiêm cây thuốc chẳng sanh, thấm nước sâu, đề phòng hầm lửa. Hầm lửa tức là 3 cõi. Nước sâu ấy là Nhị Thừa. Ba cõi đối với Nhị Thừa là lao ngục. Nhị Thừa đối với Bồ Tát là lao ngục. Lại nữa phước trí nhị biên, chẳng thể tự hành, chẳng thể hóa tha. Đại Phẩm làm rõ chỗ 400 do tuần, cùng với Nhị Thừa thành 100. Pháp Hoa khai mở thành 500. Đại Phẩm làm rõ chỗ Bồ Tát qua khỏi Phàm Thánh Nhị Địa; chưa làm sáng tỏ Nhị Thừa tức là quyền. Ý là bỏ hóa thành, liền chưa luận về hóa thành. Lại chưa làm rõ bảo sở.
Đáp rằng Đại Phẩm đã hiển thật; cho nên hiện ra bảo sở; chưa khai quyền, chẳng làm rõ chỗ hóa thành.
Câu văn bên dưới nói rằng: Vì dừng lại; cho nên nói Nhị Niết Bàn. Đây làm cho qua khỏi 300 do tuần. Nơi Trụ Địa của ngươi gần nơi Phật Huệ. Điều nầy làm cho ra khỏi 200 do tuần. Câu văn liền phân chia rõ, không có lao hoặc. Lại làm rõ Nhị Thừa 6 nghĩa cùng với 10 nghĩa riêng biệt. Cùng ra khỏi 3 cõi, cùng hết nơi sanh, cùng đoạn chánh sử, cùng được hữu dư, vô dư; cùng được tất cả trí, cùng gọi là Tiểu Thừa. Cho nên hợp lại làm một hóa thành. Riêng khai 10 nghĩa. Hành nhơn xa gần 10 kiếp, 100 kiếp. Căn lợi độn từ vị Thầy, riêng ngộ không buồn hươu dê. Có tướng, không tướng, quán lược bớt chỗ rộng. Hay nói được Tứ Quả pháp. Chẳng thể nói pháp được noãn pháp. Phật ở đời hay chẳng ở đời. Đốn chứng, tiệm chứng, hiện nhiều thần thông, ít thuyết pháp. Thanh Văn chẳng định, nhà lửa 3 xe; nay làm 200. Ba căn giống với nhà lửa bị thiêu đốt. Ba căn cầu ra khỏi cho nên có 3 xe. Con đường thành Phật quá xa đối với Nhị Thừa; cho nên phải lìa khỏi 200. Phật Thừa không có chướng ngại, thường hay làm rõ chỗ 200. Vì sao mà Ước (giáo) phàm khai làm 3 và Ước (giáo) với Thánh khai làm hai. Đây chính là lời nói dẫn dụ. Đã qua rồi dụ cho Tiểu. Chưa qua được, dụ cho nhiều. Nếu như vậy thì chưa thành nghĩa rốt ráo mà con đường thành Phật tuy dài xa như vạn lý mà có 500 hơn; tức là dễ dàng.
Hỏi: 200 là Nhị Thừa nan. 3 cõi thì phàm phu nan. Vậy thì Bồ Tát có khó khăn chăng ?
Bồ Tát chẳng lấy nhà lửa làm khó. Nên chẳng cầu xe để ra khỏi mà cầu xe ra khỏi. Làm sao cầu 200 sở chứng để làm gì ? v.v...
Đại Luận quyển thứ 66 nói rằng: Con đường nguy hiểm là thế gian. 100 do tuần là dục giới; hai trăm là sắc giới, 300 là vô sắc giới; 400 là Nhị Thừa. Ngược lại ra khỏi 100 là con đường của Nhị Thừa. 200 là vô sắc và 300 là sắc giới; 400 là dục giới. Kinh nầy làm rõ 500 do tuần tức là con đường của Bồ Tát. Nếu hơn 500 tức là vào con đường thành Phật v.v... Có vị Thầy và kinh luận khác nhau về lối ra như phía trước. Nay nương vào kinh để phán đoán Tam giới quả báo xứ có 300. Hữu dư quốc xứ có 400. Thật báo quốc xứ có 500. Câu văn phía dưới hợp với các thí dụ nói rõ về các việc sanh tử. Sanh tử tức là nơi chốn rõ ràng. Với yếu chỉ Phật thì khó rõ biết, liền nên giải rộng. Kiến hoặc ấy là 100. Năm phần bên dưới là
200. Năm phần bên trên là 300. Trần sa là 400. Vô minh là 500. Câu văn phía dưới hợp các thí dụ lại nói về phiền não hiểm nguy, ác đạo, nghĩa ấy giống nhau. Nhập vào không để quán hay qua khỏi 300. Nhập vào giải để quán, có thể qua khỏi 400. Nhập vào trung để quán có thể qua khỏi 500.
Câu văn phía dưới hợp với các thí dụ nói về thiện trí hiểm đạo, tướng sai biệt qua lại; tức là 2 trí nhơn quả 2 loại 500 nghĩa phù trợ nhau. Hai là hiểm nạn ác đạo, dụ cho sanh tử nhơn quả vậy. Phân đoạn biến dị điều nầy tức là quả hiểm nạn. Kiến, tư ngũ trụ tức là nhơn hiểm nạn. Do nhơn quả nầy; cho nên nói là ác đạo. Vô nhơn tức là con đường ấy có 2 loại. Một là sáng sủa tuyệt diệu có người có thể nương tựa vào. Hai là không có người có thể nương tựa. Dụ cho trong sanh tử có Niết Bàn, trong phiền não có Bồ Đề. Tuy lại sáng sủa tuyệt diệu tức là có người có thể nương vào. Nếu sanh tử phiền não mà không có Niết Bàn Bồ Đề thì trong thuốc không có bịnh và trong bịnh không có thuốc. Đây là sự sáng sủa tuyệt diệu không người có thể nương tựa. Ba là có nhiều chúng. Đây là dụ cho Vương Tử, chỗ hóa ấy chưa độ được chúng. Bốn là muốn qua khỏi con đường nguy hiểm nầy. Cầu đến các loại giác ngộ. Nói là đến nơi có nhiều của quý. Năm là có một vị Đạo Sư, tức là 16 vị Vương Tử vậy. Mắt tai thanh tịnh nói là thông minh. Ý thanh tịnh tức là lanh lợi. Tổng cộng mà nói tức là 6 căn thanh tịnh. Trí đây tức là một tâm ba trí. Minh đây tức là đầy đủ 5 mắt. Lại nữa tam minh là làm rõ cho Thập Lực đã đạt. Từ người dẫn đường chúng sanh trở đi là phần thứ 2 thí dụ cho việc dẫn dắt. Đây cùng với nhà lửa phương tiện, việc dụ tụng rồng, ý ấy giống nhau. Tựu chung câu văn nầy có 3.
Một là thí dụ về chỗ gặp người. Dụ căn bản kết duyên với kẻ chưa được độ, bản duyên chẳng mất mà làm đạo sư sẽ gặp. Giống như bên trên nơi nhà lửa Trưởng Giả thấy lửa kinh sợ, nơi phẩm Phương Tiện thấy ngũ trược mà khởi tâm đại bi.
Hai là thí dụ về trên đường đi lười biếng thối lui. Ở khoảng giữa ấy gặp ngay việc thối tâm Đại Thừa; tức là tiếp cận với Tiểu. Cùng với việc ở trong nhà lửa chẳng dùng đến thân hình tay chân mà ca ngợi 3 xe hy hữu. Phẩm Phương Tiện tức là Đại Thừa hóa về niệm dụng với ý phương tiện vậy.
Ba là lúc ấy Đạo Sư biết người nầy trở đi, tức liền diệt mất hóa thành để dụ cho việc đến bảo sở.
Dụ bên trên để trở lại nói kinh Pháp Hoa, liền tập hợp các vị Bồ Tát và các chúng Thanh Văn để nói kinh nầy tức là cùng với nhà lửa chỉ cho một xe phương tiện và nhân đó nói về Vô Thượng Đạo, ý ấy giống nhau. Phân biệt câu văn và lần lượt giải thích câu văn đầu là chỗ gặp người. Qua đó kết duyên với người. Ngày xưa được lợi ích lớn, bị gặp cảnh nầy. Chưa được sự lợi ích lớn, đúng là chỗ nầy. Nếu Ước (giáo) trong 500 người và 30 người con thì vẫn chưa có người khai ngộ. Trên đường đi giải đãi thối lui, tức là thí dụ thứ hai nầy. Câu văn nầy lại chia ra làm hai. Một là bỏ lớn; hai là tiếp nhận nhỏ. Bỏ lớn là phỏng theo bên trên, tức là một. Tiếp nhận nhỏ là phỏng theo bên trên bỏ ba. Bỏ lớn, câu văn nầy chia làm ba. Một là giữa đường giải đãi thối lui; tức là phỏng theo bên trên không có cơ duyên lớn. Hai là bạch với Đạo Sư rằng: Phỏng theo bên trên chẳng thọ nhận lời khuyên răn. Chúng ta mệt thật tức là chẳng thọ nhận nơi cửa khuyên lơn, mà lại sợ hãi tức là chẳng thọ nhận lời khuyên ở cánh cửa. Ba là chẳng thể tiến tức là phỏng theo việc bên trên liền hóa đi. Phân chia câu văn ấy ra, sẽ giải thích như sau:
Ở đầu và giữa đường là chẳng phải ở giữa mà gọi là giữa đường. Đây là lấy sự phát tâm làm chỗ bắt đầu và cho đến khi thành Phật là cuối cùng. Giữa hai thời gian nầy khởi lên ý thoái lui; cho nên gọi là giữa đường. Lần thứ hai bạch với Đạo Sư rằng: Tự ái qua giữa đường ấy một vị Đạo Sư từ bi. Như câu văn nói: Có một Đạo Sư cùng hướng dẫn mọi người. Tự có kết duyên với Đạo Sư. Như câu văn nói chỗ gặp người và họ bạch với Đạo Sư. Tức là có quyền trí Đạo Sư. Như câu văn nói. Đạo Sư có nhiều phương tiện. Tự có thật trí Đạo Sư. Như câu văn nói. Đạo Sư rõ biết người nầy là vậy. Nay nói bạch với Đạo Sư, chính là nói việc kết duyên Đạo Sư. Dùng sự thối lui nầy từ chỗ lớn; tức là lớn ấy mất và tiếp nhận cái nhỏ: tức là cái nhỏ sanh. Một sanh một diệt, cảm nơi pháp thân; nơi gọi đây là bạch. Vương Tử rõ biết sự thối lui chỗ lớn nầy tức là nghe chỗ thưa nầy. Căn lành yếu ớt. Vô minh là chỗ che lấp cho nên nói là thật mệt. Nản sanh tử nên gọi là sợ hãi. Phần thứ ba là chẳng thể tiến tới con đường phía trước, dụ cho sự xa xôi. Kiến, tư trần sa và vô minh khó thể đoạn dứt; cho nên mới tiếp nhận Tiểu Thừa. Chẳng làm cho đốn mà trở lại nơi gốc, lại có nghĩa là tiến.
Từ Đạo Sư nhiều phương tiện trở đi. Phần thứ hai tức là dùng sự tiếp cận với Tiểu. Bên trên nhà lửa Phương Tiện khai Tam Thừa pháp; tất cả đều có 4 ý. Trong nầy đầy đủ. Đầu tiên nhiều phương tiện dụ cho sự phỏng theo tuyên bố, mà tạo ra sự nhớ nghĩ. Phần thứ 2 bị thương tổn và mất của quý báu. Dụ cho việc rõ biết có Tiểu mà chẳng có Đại. Kế đến liền nghĩ như sau: Phần thứ 3 là dụ cho sự hóa thành. Đây là chính thức dùng phương tiện, là lúc quá mỏi mệt với chúng. Phần thứ 4 là vào thành, dụ cho ngộ nhập Tam Thừa. Hai ý bên trên như câu văn, tạo ra hóa thành tức là dụ cho tự trở lại chia làm hai. Đầu tiên là tạo ra sự hóa ấy và sau đó nói về hóa. Dùng lực phương tiện để chính thức tạo ra hóa ấy. Bảo cho đại chúng và chính thức nói rằng khác. Bên trên xe dụ nói rằng:
Ta vì các ngươi mà tạo ra xe nầy. Nay thành đã có; cho nên trước là tạo tác và nói là hóa thành dụ, phỏng theo sự khuyến khích chỉ bày chứng đắc bên trên. Các ngươi chớ có sợ hãi, chưa được mà đã muốn trở lui nên khuyên lơn thay đổi, làm cho tiến tới phía trước và vào thành. Nay được ở thành lớn và cho đến việc tùy theo ý mà làm. Đây chính là chỉ bày chuyển đổi. Chỉ cho thành ấy có thể ở. Nếu vào thành rồi được yên vui thì chứng chuyển, tán thán thành ra an ổn. Trước khi đến bảo sở, lại có thể được rời khỏi.
Trong Tam Tạng chưa luận về việc tiến đến phía trước. Một nói là làm rõ Tam Thừa thì mới nói. Nếu phát khởi Đại Thừa cầu thành Phật thì đó lại là tốt. Như điều nầy chẳng thể hay tạo ra Tam Thừa lại cũng tốt. Ví dụ như Thắng Man nói rằng:
Tam Thừa, nghiệp đầu chẳng ngu nơi pháp, tự rõ biết được làm Phật, thường trốn sợ chẳng kham; cho nên chấp vào sự tịch diệt vĩnh viễn. Nếu như vậy thì thành Biệt giáo. Lại nói rằng: Hay làm cho vào hóa thành, rồi sau đó lại tiến đến phía trước. Đại Phẩm Tịnh Danh đều có ý nầy. Đây chính là biệt tiếp thông ý vậy. Tuy nhiên nay Phật chưa khai hiển bày phía trước, chẳng được ảnh làm sáng tỏ mà có lời nói nầy. Nếu luận về đời trước thì có thể nói rằng: Người nào lại rõ biết ý thối lui? Vương Tử dạy rằng:
Các ngươi nếu sợ sanh tử, há lại giữ cho Niết Bàn mất đi sao? Sau đó lại đi trên con đường lớn. Lại có thể tùy theo ý. Lại như ngày nay người muốn học Đại Thừa mà sợ sanh tử và muốn khởi tâm thối lui và có người khuyên nói rằng: Ngươi nên đoạn trừ phiền não chứng La Hán, sau đó là được Đạo Lớn, lại có thể được vậy. Nay trong hiện tại một đời hóa đạo chưa tròn, chẳng được xao lảng để có lời nói nầy. Nếu khai quyền hiển thật tức là được nói. Như ở trong Niết Bàn giữ lại A La Hán. Tất cả đều ở ý nghĩa nầy. Đại hoan hỷ tức là văn huệ; chưa hề có (Vị Tằng Hữu) tức là Noãn vị. Miễn con đường ác tức là Đảnh Vị. Vui an ổn tức là Nhẫn Vị. Trước nhập thành tức là Kiến Đế Vị. Đã độ rồi tức là Vô Học Vị. Ở đây cùng với nhà lửa, đích tử nguyện mạnh nhảy ra khỏi nhà ấy giống nhau. Sanh đã qua rồi, tưởng như được tận trí. An ổn tưởng như được vô sanh trí. Lại nữa đầy đủ trí đức như điều nầy đã vượt qua; chứng được đoạn đức như an ổn.
Có người nói bảo sở là 3 cõi Nhị Thừa; nếu qua khỏi tức là đến Phật đạo. Phật đạo chính là bảo sở. Đại Kinh có 3 câu văn. Một là tâm đến Bồ Đề; hai là đến Bồ Đề và ba là đến cửa Niết Bàn. Nếu đến Bồ Đề tâm thì tất nhiên đến Bồ Đề và Niết Bàn. Dẫn dụ qua 3 câu văn nầy thì thấy rằng: Đến Bồ Đề tâm nghĩa là đến cái nhơn. Bồ Đề Niết Bàn nghĩa là đến cái quả. Trong quả ấy có trí đoạn. Bồ Đề tức là trí; Niết Bàn nghĩa là đoạn. Đều nói trước sau, đều nói trí đoạn. Cho nên nói 3 đoạn văn ấy. Tuy nhiên qua 500 ấy có 3 nghĩa. Một là miễn trừ con đường ác; hai là được con đường tốt; ba là bảo sở. Bồ Đề tâm nghĩa là qua khỏi con đường ác. Bồ Đề hạnh, như con đường bằng phẳng. Ba là được con đường Phật, như thế được bảo sở.
Câu văn phía dưới nói rằng: Nay vì ngươi mà nói thật, người sẽ được chỗ chẳng chơn. Đây chính là làm rõ chỗ qua 500 con đường ác. Vì Phật tất cả trí sẽ phát nguyện tinh tấn lớn lao; nghĩa là hành Bồ Đề với con đường tốt. Ngươi chứng tất cả trí; 10 lực và Phật Pháp nghĩa là được con đường Phật. Tại sao lại phải cần đủ qua khỏi 500 ? Nhị Thừa qua khỏi 300. Bồ Tát qua khỏi
400. Phật Thừa qua khỏi 500 vậy.
„Lúc ấy Đạo Sư rõ biết điều nầy“ trở đi. Phần thứ 3 là tiêu mất và dẫn đến bảo sở. Ở trong nầy có 2. Một là trí, tức là điều nầy. Hai là hướng đến bảo sở. Cho nên được ngừng nghỉ, chẳng phải còn mệt nhọc nữa. Dụ bên trên là lúc Niết Bàn đến thì Đại Chúng lại thanh tịnh. Miễn trừ các nạn và cơ lớn phát triển. Tức là tiêu mất hóa thành để dẫn đến bảo sở. Bên trên chính thức nói Pháp Hoa đến chỉ cho tướng chơn thật. Bảo sở có 2 nghĩa. Nếu dùng sự cứu cánh tức là dùng quả tối cao làm bảo sở. Như câu văn bên trên nói: Chỉ có Phật với Phật mới có thể rõ biết hết thật tướng của các pháp. Nếu phân nhập tức là dùng sơ phát tâm trụ làm bảo sở. Cho nên câu văn trên nói rằng: Vô thượng bảo tụ, chẳng cầu tự được. Lại nói rằng: Được phần của Phật Pháp. Phật Tử chỗ nên được thì đều đã được.
Đại Kinh nói rằng: Tu Đà Hoàn là đến 8 vạn kiếp. Đến đó là chỗ sơ phát tâm. Điều nầy nói kẻ độn căn thì cần phải dùng đến 8 vạn mười ngàn kiếp. Nếu như 4 quả trong Tam Tạng, chẳng trải qua lúc Tiểu, tất cả đều được nhập vào Đại; há cần đủ 8 vạn cùng với 10 ngàn nữa sao? v.v...
Nơi tốt đẹp ở gần đây là thành lớn ta đã tạo ra. Tức là đưa ra việc phế bỏ thí dụ về quyền; dùng đến sự chiếm lãnh thí dụ hiển thật. Bên trên nói: Trí huệ Như Lai khó tin, khó hiểu. Với những người nầy nên dùng pháp nầy để lần vào trí huệ Phật; phỏng theo trong Phương Tiện nói: Ta làm cho thoát khổ ràng buộc, được vào Niết Bàn là do Phật dùng Phương Tiện lực để thị hiện và dạy cho Tam Thừa.
Xin hỏi rằng: Xe, thành đều là dụ cho vô sanh trí. Xe ấy vì sao không có thành mà lại có vậy? mà xe ấy ở 3 thành kia lại chỉ một, là xe động và thành tịnh chăng ?
Đáp: Bên ngoài cửa Trưởng Giả có xe. Có sự cách biệt ngăn che, cho nên các con không thấy được. Có thể giả thiết cho rằng ở ngoài cửa có xe; nhưng xe thật không có. Còn thành thì có đất đai, chẳng thể là giả thiết. Cho nên thành ấy có. Tựu chung theo giáo lý thì dạy rằng: Chấp vào 3 lời dạy cho đó là lý; tức là 3 lời dạy ấy đều được cái lý. Điều nầy có nghĩa là như thành vậy. Về lý ấy chấp giữ giáo lý nên chỉ là một. Điều dạy nầy tức là không có quả của 3 nhà. Tức là nghĩa của xe ấy phỏng theo không vậy. Xe ấy có 3 và thành ấy là một. Mọi người cùng ở một chỗ. Chỉ vì thành có một. Xe thì có 3 người, mà 3 người ấy chỗ vui không giống nhau; cho nên có 3. Theo lý dạy dỗ ấy thì cuối cùng 3 nhà chẳng sanh, chẳng khác như thành kia. Ba người chánh sứ tuy giống nhau hết, mà tập khí thì có tận và không tận; có bạn được tri kiến, mà cũng có sự chẳng được. Cho nên dùng sự trang nghiêm cùng tận vô sanh nầy. Nghĩa nầy chẳng giống như 3 xe. Ba nhà tận vô sanh trí là làm sáng tỏ nguyên nhân tận cùng và cái quả mất. Nơi nầy như thành tuyệt nhiên an tịnh; tận vô sanh trí và vận dụng nhập Vô Dư, như xe chuyển động vậy. Khó ấy v.v...
Nay làm rõ chỗ Ước (giáo) về tâm của chúng sanh; xe, thành đều đầy đủ. Ước (giáo) cho rằng Phật trí làm sáng tỏ, lại có lại không. Chỗ quyền trí làm sáng tỏ vì chỗ có như thành chỗ thật trí làm sáng tỏ vì cái không như xe cộ v.v...
Hóa thành với ý chính là bỏ lớn và lấy người nhỏ. Nương vào đó để sinh ra quanh co học làm người nhỏ. Bên trên 2 lần đủ ý chánh. Vì phát sanh sự quanh co và học làm người nhỏ. Nương theo đó mà thối lui làm người lớn. Ba xe theo Thông (giáo) xưa nay. Hóa thành chính là dẫn theo ý của giáo. Chưa được đạo tức là hóa.
Hỏi: Hóa làm 3 thứ xe và hóa thành khác nhau cái gì ?
Đáp: Ba xe dụ ấy cho việc chuyển bánh xe pháp. Hóa thành là dụ cho việc chuyển biến thần thông. Lại nữa xe ấy theo Ước (giáo) là dụ cho âm thanh. Các người con nghe mà chẳng thấy. Thấy ấy có màu sắc, nên tạo ra thí dụ.
Hỏi về thành cùng nhị sứ ra sao ?
-Sứ ấy hay chỉ bày như dạy cho việc luận lý. Thành ấy liền lo; giáo động mà thành thì tịnh. Giáo ấy tức là Tứ Đế và 12 duyên có khác biệt. Thành ấy lại có 2 trí, nhận vô dư chẳng khác. Giáo ấy xuyên qua nhơn quả. Thành và xe hay ở tại nhơn quả. Giáo ấy thông qua hữu vi, vô
vi. Thành và xe hay ở tại vô vi. Quyền trí nghĩa là xe, xe ấy là không. Gọi giáo ấy là thí thất vậy. Thật trí nghĩa là xe, xe ấy là có. Chẳng lìa văn tự để nói giải thoát.
Quyền, trí chiếu vào thành là có, hướng dẫn chúng sanh. Thật, trí chiếu thành là không. Bên cạnh chơn, chẳng phải thật; cho nên quyền chiếu xe ấy là ba. Hòa hợp 3 duyên; cho nên thật trí chiếu vào xe là một. Đầy đủ nhứt thừa. Quyền, trí chiếu thành là một. Đây là bên cạnh chơn vậy. Thật, trí chiếu thành làm ba. Như Lai Tạng vậy, Quyền, trí chiếu thành là tịnh. Đây là thán đoạn vậy. Thật, trí chiếu thành làm động. Diệt cái nầy để hóa. Quyền, trí chiếu xe là vận. Vận ấy nhập vào Vô Dư. Thật, trí chiếu xe là tịnh. Chẳng động, chẳng ra khỏi vậy. Sự giải thích như thế nầy há cùng với xưa giống nhau. Ngày xưa chỉ tại nơi Tiểu Thừa mà tạo ra nghĩa.
Hỏi: Phàm 5 nơi khai 3 hiển một. Vì đó có sự sai khác chăng ?
Đáp: Thông luận không khác; biệt luận có khác. Phương Tiện Phẩm Ước Giáo khai 3 hiển 1. Câu văn nói rằng: Như Lai hay dùng một Phật Thừa, vì chúng sanh thuyết pháp. Chẳng hai lại chẳng ba. Nhà lửa Ước (giáo) khai 3 hiển 1. Xe ấy là nghĩa vận chuyển. Vận ấy là thí dụ cho đi.
Câu văn rằng: Mỗi Thừa với xe lớn dạo đi bốn phương, vui vẻ khoái lạc. Trung Tín Giải Ước (giáo) cho rằng con người mở ra 3 và hiển 1. Kết bạn với người làm thuê, tức là người con của Trưởng Giả. Nghe tiếng của chúng ta mà đến, đó thật là Phật Tử vậy. Trong phẩm Dược Thảo dụ Ước (giáo) nói về sự sai biệt, chẳng sai biệt để làm rõ quyền và thật; chẳng để cho chạy khỏi, mà hay làm rõ chỗ chúng sanh chẳng rõ biết, Phật làm cho rõ biết việc nầy. Nếu rõ biết 7 sự sai biệt, ấy tức là rõ biết về quyền. Cùng nương tựa vào một lý vô sai biệt; tức là rõ biết sự thật. Sai biệt vô sai biệt, vô sai biệt mà sai biệt, làm cho rõ ý nghĩa nầy vậy. Cuối cùng chẳng nói lời không một, có một. Với điều nầy Ước (giáo) tự làm về quyền, thật 2 trí, tùy theo tự ý nghĩa và lời nói. Cho nên Phật có thể rõ biết mà chúng sanh thì chẳng biết. Lại là thông trước và thông sau; rõ biết hay chẳng rõ biết việc làm sáng tỏ về quyền, thật. Nay việc hóa thành chính là như Ước (giáo) cho rằng cái lý khai 3 và hiển 1. Bảo sở hóa thành, tất cả lớn nhỏ đều có cả 2 lý. Phá trừ cái lý biến hóa của Nhị Thừa. Hiển nơi bảo sở chơn thật một lý vậy.
Phía dưới về 500 sự lãnh hội cùng với thí dụ về châu báu. Đây cũng là cái lý của Ước (giáo) vậy.
Từ „Chư Tỳ Kheo! Như Lai“ trở đi cùng hợp lại với thí dụ thứ 2. Đầu tiên là chính thức hợp với phía sau và đưa ra thí dụ cùng chiếm lãnh, mà chẳng phải theo thứ tự.
Từ „Như Lai lại cũng như vậy“ trở đi -đầu tiên hợp với thí dụ về vị Đạo Sư thứ 5. „Nay vì các ngươi“ trở đi. Phần thứ 2 hợp với phần thứ 3 dụ cho số đông nhiều người.
Từ „rõ biết sanh tử phiền não đạo, hiểm nạn“ trở đi. Phần thứ 3 hợp với phần thứ 2 dụ về con đường hiểm ác. Hai chữ „xa xôi“ ấy hợp với thí dụ phần thứ nhứt 500 do tuần; nên qua, nên khỏi. Phần thứ 5 hợp với việc thông tuệ, đạt đến sự sáng suốt. Lại là hợp với phần thứ 4 là muốn qua khỏi con đường nguy hiểm để đến nơi trân bảo ấy.
Từ „nếu chúng sanh hay nghe“ trở đi, hợp với phần thứ 2, dụ về vị Thầy trong tương lai. Dụ căn bản ấy có 3; nay hợp lại làm 3. Nếu chúng sanh hợp với phần thứ nhất với nơi đông người ấy thì hay nghe một Phật Thừa. Hợp với phần thứ 2 là bỏ lớn nhận nhỏ là thí dụ.
Từ „nếu chúng sanh trụ nơi Nhị Địa“ trở đi, hợp với phần thứ 3 là diệt hóa rồi thí dụ cho đến bảo sở. Phần thứ 2 dụ căn bản có việc thối lui việc lớn, tiếp nhận việc nhỏ. Nay đầy đủ cả.
Phía bên trên về thối lui việc lớn có 3 ý. Hằng nghe một Phật Thừa. Hợp với ở trên, giữa đường giải đãi, thối lui, ý nói không có căn cơ. Chẳng muốn gặp Phật, chẳng muốn nghe Pháp. Hợp với bên trên và bạch với Đạo Sư là chẳng thọ nhận lời khuyên bảo. Liền tạo ra ý niệm rằng. Hợp với bên trên chẳng thể tiến tới phía trước, liền có ý thay đổi. Phật rõ biết tâm nầy, gặp việc trên, nhận việc nhỏ rồi thối lui. Dụ ấy căn bản có 4, nay gặp lại thành 3. Phật rõ biết tâm nầy, gặp vị Đạo Sư bên trên có nhiều phương tiện, phỏng theo ý ấy để tuyên nói. Khiếp nhược hạ liệt, gặp bên trên những điều nầy có thể mẫn cảm, rõ biết có cơ duyên nhỏ, mà ở giữa đường lại dừng nghỉ. Gặp phần thứ 3 là hiện ra hóa thành và thí dụ việc mọi người vào thành, mà ở giữa đường lại nói về hai Niết Bàn. Tam giới hoặc hết; nhưng vô minh trần sa chưa phá được. Đối với 2 việc nầy thường phê phán về Hữu Dư và Vô Dư Niết Bàn, lại cũng là Thanh Văn, Duyên Giác Niết Bàn. Lại nữa Phần Đoạn đã hết; nhưng biến dị chưa trừ được. Khoảng giữa 2 cái chết ấy, bàn về Hữu Dư và Vô Dư. Cho nên nói Trung Đạo v.v...
Từ „nếu chúng sanh trụ ở Nhị Địa“ trở đi, gặp phần thứ 3 sẽ đến bảo sở. Câu văn bên trên lại có 2; nay gặp lại cũng 2. Nếu chúng sanh trụ nơi Nhị Địa. Tức là điều nầy rõ biết sự dừng nghỉ rồi.
Từ „Như Lai lúc bấy giờ liền vì đó nói“ trở đi. Điều nầy gặp việc hướng đến bảo sở. Như vị Đạo Sư kia. Phần thứ 2 dụ cho việc theo gặp. Dụ việc chấp nhận thối lui và đến gặp lại có 3. Khi tiêu mất rồi dụ cho việc đến gặp, hiển một. Như câu văn v.v...
Phần thứ 2 kệ tụng có 49 hàng rưỡi, kệ tụng bên trên. Bên trên lại có 2. Nay 22 hàng rưỡi đầu tiên, tụng về lý do kết duyên. Kế đến 27 hàng, tụng phần thứ 2 về chánh thức kết duyên. Bên trên lý do là có gần, xa. Nay 12 hàng đầu tụng việc lý do xa bên trên. Kế đến „Vô lượng huệ Thế Tôn“ trở đi gồm 10 hàng rưỡi, tụng về lý do gần. Bên trên lý do xa có 2. Đầu tiên 6 hàng tụng về con đường thành đạo to lớn thông thoáng. Kế đến 6 hàng tụng về 10 phương Phạm Thiên đến thỉnh chuyển pháp luân. Bên trên việc thành đạo lại có 5. 3 hàng đầu tiên tụng về phần thứ 2 trước việc thành đạo.
„Kế tiếp qua 10 Tiểu Kiếp“ trở đi; phần thứ 2 có 1 hàng tụng về phần thứ 3 là chính thức thành đạo. Kế đến „vị Phật kia có 16 đệ tử“ trở đi; phần thứ 3 gồm 2 hàng tụng. Phần thứ 5; 16 vị Vương Tử thỉnh chuyển Pháp luân, kiêm luôn tụng phần thứ 4 về việc thành đạo rồi, quyến thuộc thân thỉnh cúng dường. Lược bớt chẳng tụng phần một, Phật sống lâu dài.
Từ „Thế Tôn thật khó gặp“ trở đi có 6 hàng. Tụng về 10 phương Phạm Thiên mời thỉnh. Bên trên có 2. Một hàng đầu tụng về uy quang chuyển động sáng sủa. „Kế đến hướng Đông“ trở đi; phần 2 có 5 hàng tụng về 10 phương Phạm Thiên tìm theo ánh sáng mà đến. Trong nầy phía trước có 3 hàng tụng về Phương Đông. Kế đến 2 hàng tổng tụng về 9 phương vậy.
Từ „Vô lượng huệ Thế Tôn“ trở đi; phần thứ hai gồm 10 hàng rưỡi tụng về lý do gần. Bên trên lại có 2. 5 hàng đầu tụng phần thứ nhất, chuyển Nhị Thừa pháp luân.
Kế đến „lúc 16 vị Vương Tử“ trở đi; phần thứ 2 gồm 5 hàng rưỡi. Tụng phần thứ 2 lại thỉnh một lần nữa về chuyển Đại Thừa pháp luân. Bên trên phần một, câu văn lại có 3. Đầu tiên từ „Vô lượng“ trở đi nửa hàng, tụng phần thứ nhứt việc thọ nhận lời thỉnh.
Kế đến „vì tuyên nói“ trở đi. Phần thứ 2 có một hàng rưỡi. Tụng phần thứ 2 là chính thức chuyển Nhị Thừa pháp luân. Kế đến từ „tuyên dương“ trở đi; phần thứ 3 có 3 hàng. Tụng phần 3 thì chúng nghe pháp được đạo.
„Lúc ấy 16 vị Vương Tử“ trở đi gồm 5 hàng rưỡi. Phần thứ 2, Vương Tử lại thỉnh, lại có 7. Hai câu đầu tụng về vị Vương Tử thứ nhất xuất gia. Kế đến „tất cả đều thỉnh ông ta“ trở đi. Phần thứ 2 gồm 1 hàng rưỡi. Tụng phần thứ 2 là chính thức thỉnh chuyển Đại Thừa.
Kế đến „Phật rõ Đồng Tử“ trở đi. Phần thứ 3 gồm 2 hàng tụng về trong 2 vạn kiếp ấy nói Phương Đẳng, Niết Bàn.
Kế tiếp „nói đây là Pháp Hoa“ trở đi. Phần thứ 4 có nửa hàng. Chính thức tụng phần thứ 4 thọ thỉnh việc nói Pháp Hoa.
Tiếp theo „vị Phật kia nói kinh rồi“ trở đi. Phần thứ 5 gồm 1 hàng. Tụng phần thứ 7 nói kinh rồi nhập định. Lược bớt chẳng tụng phần thứ 3 về Phụ Vương sẽ gặp 8 vạn người cầu xuất gia. Phần thứ 5 nghe kinh thì trong chúng có người rõ biết mà có người chẳng rõ biết. Phần thứ 6 nói kinh thời tiết dài lâu.
Từ „các Sa Di nầy“ trở đi gồm 27 hàng, tụng việc chính thức kết duyên. Câu văn trên lại có 2. 8 hàng đầu tụng về việc thuyết pháp. Kế tiếp 19 hàng tụng nói về Thí Dụ. Bên trên thuyết pháp lại có 3. 3 hàng đầu tụng phần thứ nhất về ngày xưa đã kết nhân duyên. Kế đến một hàng tụng về phần thứ 2 giữa sự gặp nhau. Kế đến 4 hàng tụng phần thứ 3 ngày nay trở lại nói kinh Pháp Hoa. Bên trên về ngày xưa kết duyên lại có 4. Nửa hàng đầu tụng về việc Phật nhập định. Kế tiếp „vì vô lượng ức“ trở đi. Phần thứ 2 gồm 1 hàng rưỡi, tụng chính thức việc giảng trở lại. Sau đó „mỗi mỗi Sa Di“ trở đi; phần 3 gồm một hàng tụng về việc nghe pháp được lợi ích. Lược bớt chẳng tụng phần thứ 4 về Phật từ định mà dậy rồi xưng tán.
Tiếp đến „Phật kia sau khi diệt độ“ trở đi; phần thứ 2 có một hàng tụng về giữa sự gặp gỡ nhau. „Đây là 16 vị Sa Di“ trở đi; phần thứ 3 có 4 hàng, tụng về ngày nay nói kinh Pháp Hoa. Câu văn bên trên lại có 2. Đầu tiên là trước sau gặp nhau; có hiện tại và vị lai. 3 hàng đầu tụng về sự kết hợp gặp nhau, trong hiện tại là Thầy trò. Từ „đây là nhơn duyên từ xa xưa“ trở đi; phần thứ 2 gồm 1 hàng tụng về việc trở lại nói kinh Pháp Hoa. Câu văn trên lại có 3. Đầu tiên 1 câu tụng phần thứ nhất các chúng thanh tịnh. Đây là nhơn duyên gốc, ngày nay chúng dễ có cơ hội phát tâm. Kế tiếp „nay nói Pháp Hoa“ trở đi; phần thứ 2 gồm 3 câu tụng phần thứ 2 vì đó mà nói kinh nầy. Lược bớt không tụng phần thứ 3 giải thích về cái ý của khai ba vậy.
„Con đường hiểm ác“ trở đi; phần thứ 2 có 19 hàng, tụng về thí dụ khai mở chỗ gặp gỡ. 11 hàng rưỡi đầu tụng về thí dụ khai mở. Sau đó 7 hàng rưỡi tụng về thí dụ gặp nhau. Bên trên khai dụ lại có 2. Ba hàng đầu tụng về thí dụ 500 do tuần. Kế tiếp 8 hàng rưỡi tụng về thí dụ gặp Đạo Sư. Bên trên thí dụ về 500 lại có 5. Một hàng đầu tụng phần thứ 2 về con đường ác nguy hiểm.
Kế tiếp „vô số thiên vạn“ trở đi; phần thứ 2 gồm nửa hàng, tụng phần thứ 3 có nhiều người. Kế tiếp „đường nầy thật xa“ trở đi; phần thứ 3 có nửa hàng tụng phần thứ nhất về 500 do tuần. Kế tiếp „lúc ấy có một Đạo Sư“ trở đi; phần thứ 4 gồm 1 câu; tụng phần thứ 5 về một Đạo Sư.
Về việc rõ biết có 3 câu, tụng về thông tuệ minh đạt, chẳng tụng phần thứ 4. Từ „các người đều mệt mỏi“ trở đi; phần thứ 2 có 8 hàng rưỡi; tụng phần thứ 2 thí dụ về việc gặp Đạo Sư. Câu văn trên lại có 3. Hai chữ đầu, tụng bên trên phần thứ nhất gặp Đạo Sư. Từ „tất cả đều mệt mỏi“; phần thứ 2 gồm 5 hàng 3 câu 3 chữ. Tụng phần thứ 2 các người lười mỏi thối lui; nên thí dụ về quyền lập hóa thành. Kế tiếp „Đạo Sư rõ biết điều nầy“ trở đi; phần thứ 3 có 2 hàng rưỡi, tụng phần thứ 3 về diệt hóa (thành) và thí dụ dẫn đến bảo sở.
Bên trên phần thứ 2 câu văn lại có 2. Nghĩa là đầu tiên giải đãi thối lui; kế đến thối lui. Ba câu đầu chả tụng về sự giải đãi thối lui. Kế tiếp 5 hàng, tụng về sự tạo ra hóa (thành) ấy và tiếp lại thối lui. Sự giải đãi thối lui bên trên lại có 3. Nay lược bớt chẳng tụng phần thứ nhất ở giữa đường. Phần bên trên của việc tiếp đó thối lui rồi hóa (thành); câu văn nầy nay tất cả đều tụng. Hàng đầu tiên tụng về phần thứ 2 bị tổn thương mất việc lớn. Kế tiếp „tìm đến suy nghĩ“ trở đi; phần thứ 2 gồm 2 câu; tụng phần thứ nhất và tạo sự nhớ nghĩ. Kế đến „hóa ra thành lớn“ trở đi; phần thứ 3 gồm 2 hàng rưỡi; tụng phần thứ 3 là chỗ tạo ra hóa thành. Câu văn bên trên lại có 2. Một hàng rưỡi đầu tiên, tụng về thí dụ chính thức tạo tác hóa thành. Các nhà cửa đều là quán về cảnh không. Vườn tược là Nhị Thừa, tổng trì vô lậu pháp luân. Cửu Thứ Đệ Định là sông ngòi chảy. Bát Giải là Duyên Trì. Trọng Môn là Tam Không Môn. Lại nữa đây là trọng không tam muội, tận vô sanh trí. Vì lầu các cao xuất. Nam nữ là Định Huệ. Quán Tâm giải thích rằng: Trí thể đầy khắp như ao trong thành. Thiện pháp đầy đủ như hàng rào vây chung quanh. Cứu cánh không, ấy là nhà. Chơn thiện hay thành tự hành. Như người đàn ông hay cán đáng việc gia đình. Từ bi giáo hóa bên ngoài như người đàn bà bên ngoài đến. Kế tiếp „liền hóa rồi“ trở đi; phần thứ 2 gồm 1 hàng tụng việc nói hóa (thành) bên trên. Kế tiếp „mọi người liền vào; phần thứ 4 gồm 1 hàng, tụng phần thứ 4 về vào thành.
Từ „Đạo Sư biết rồi“ trở đi; phần thứ 3 gồm 3 hàng rưỡi; tụng phần thứ 3 về diệt hóa đến bảo sở. Câu văn bên trên lại có 2. Một câu đầu tụng phần thứ nhất về việc đã biết rồi. Kế tiếp „tập chúng“ trở đi; phần thứ 2 có 2 hàng một câu; tụng về việc diệt hóa và dẫn hướng tới bảo sở. Từ „ta lại cũng như thế“ trở đi; phần thứ 2 gồm 7 hàng rưỡi; tụng phần thứ 2 gặp với 2 thí dụ. Nửa hàng đầu tụng về việc gặp lần đầu với thí dụ về 500. Kế tiếp 7 hàng, tụng về việc gặp nhau lần thứ 2 và thí dụ việc gặp Đạo Sư.
Bên trên việc gặp 500 người ấy lại có 4 câu. Gồm nửa hàng tổng tụng đã qua. Thấy những người cầu đạo gồm 2 hàng. Tụng thí dụ về gặp giải đãi thối lui. Bên trên tụng ấy thí dụ về khai mở; chẳng tụng việc giữa đường. Bây giờ có 1 hàng gặp giữa đường giải đãi thối lui. Kế đến 1 hàng tụng việc gặp gỡ và tiếp theo thối lui rồi tạo hóa thành. Từ „rõ biết đến Niết Bàn“ trở đi; phần thứ 2 gồm 5 hàng; tụng phần thứ hai gặp diệt hóa đến bảo sở. Câu văn trên gặp nhau hai (lần); nay tụng lại cũng 2. „Cùng với Đại Chúng“ trở đi; phần thứ 2 gồm 3 hàng rưỡi; tụng phần thứ 2 gặp diệt hóa, dẫn hướng đến bảo sở. Trong câu kệ gặp liền hóa, tức là có 3 đức bí mật với nghĩa chứa trong ấy. Ngươi chứng tất cả trí tức là Niết Bàn. Đầy đủ 32 tướng tức là pháp thân. Lại là chơn thật diệt tức là giải thoát. Ba pháp chẳng dọc chẳng ngang tức là thấy được Phật tánh.
„Chư Phật là Đạo Sư“ trở đi gồm 1 hàng, tụng về việc theo việc gặp nhau. Giải thích về phẩm thọ ký cho 500 Đệ Tử
Phẩm nầy ghi đủ là 1.200, mà chỉ có 500 là gì ?
500 đây được ghi lại giống tên nhau. 500 ấy nói rõ là sự nhận lãnh, dùng cho tiêu đề của phẩm ấy vậy. Phẩm nầy là nhơn duyên nói trong đoạn thứ 2. Tựu chung được thọ ký có hai. 1.222 ngàn. Một ngàn hai lại thêm 2 nữa. Một là thọ mãn nguyện; hai là thọ 1.200. Mãn nguyện lại có 2. Một lời tựa mặc nhiên lãnh giải. Hai là Như Lai thuật lại việc thọ ký. Ai được việc nầy trước liền được hoan hỷ. Kế đó thì yên lặng nhận lãnh. Hoan hỷ lại có 2. Một là được giải rõ lý do. Hai là được biết rồi hoan hỷ. Được lý do rõ rồi lại có 4. Đầu tiên dụ cho việc nghe pháp; hai lần đầy đủ, khai 3 hiển một. Hai là thọ ký cho Thân Tử cùng với 5 Đại Đệ Tử. Ba là nghe việc kết duyên ở đời trước. Bốn là lại khai mở chư Phật Như Lai tam đạt. Vô ngại quán việc kia lâu dài giống như ngày nay, tức là đại tự tại thần thông lực. Gạc ra sự khác biệt của Nhị Thừa, dừng lại nơi 8 vạn. Nếu từ Phật mà nghe được trí huệ nầy tức là lãnh phương tiện ở trong nhà lửa hiển thật phương tiện, tùy nghi mà nói. Tức là lãnh 2 nơi để khai quyền. Chư Đại Đệ Tử tức là lãnh khai quyền. Thọ Bồ Đề ký tức là lãnh khai thật. Túc thế nhơn duyên tức là lãnh hiển thật. Thần thông lực tức là lãnh khai quyền.
Từ „được việc chưa từng có“ trở đi. Điều nầy đã được hiểu rõ nên hoan hỷ. Trước là làm sáng tỏ sự hiểu biết bên trong nên hoan hỷ. Kế đến là làm rõ biết ngoại hình nên sinh tâm cung kính. Do vì xưa chưa từng nghe về khai, quyền, hiển, thật mà nay lại được nghe; cho nên nói là được điều chưa từng có.
Trừ Niết Bàn phải đoạn ái và biệt hoặc; cho nên nói là tâm tịnh. Khai Phật tri kiến cho nên gọi là dũng xuất. Được hiểu rõ là do Phật; cho nên khởi tâm cung kính. Nếu là Ước (giáo) nói về Bổn, Tích thì rất vui vẻ về việc thực hành. Từ „mà tạo sự suy nghĩ như thế nầy“ trở đi; chánh thức làm rõ sự làm thinh nhận lãnh. Đầu tiên làm rõ chỗ làm thinh lãnh nhận và kế tiếp là làm rõ chỗ yêu cầu phát nguyện theo Tích (Môn) để được thọ ký. Bên trên cả hai lần đều được ngộ. Tất cả đều phát ra lời nói hiểu biết việc nầy, sao lại làm thinh ?
Như bên trên vì kẻ hạ căn chưa ngộ được; công việc cần đủ rõ rệt; nên nói là khuyến động. Nay kẻ hạ căn đã ngộ rồi, không có chỗ khuyến động; cho nên làm thinh chẳng nói. Lại nữa như bên trên hay lãnh nhận, chẳng nói lời cầu xin phát về Tích (Môn); tức là chẳng ngờ vực. Nay lại vừa lãnh nhận, vừa phát nguyện. Vừa lãnh hội cho nên nhớ nghĩ. Để cho việc không nghi ngờ; cho nên yên lặng. Yên lặng là xin vâng lời vậy. Lại nữa làm thinh nhận lãnh ấy là sự nhận lãnh lớn. Như Tịnh Danh (Duy Ma Cật) yên lặng chính là thật nhập vào cửa bất nhị. Lại còn quyền, thật bất khả tư nghì. Chẳng có lời, chẳng có sự nhớ nghĩ mà nói mà nghĩ. Chẳng nói mà nói; cho nên từ trước đến nay có miệng mà làm thinh lãnh hội. Lại chẳng nhớ nghĩ mà nhớ nghĩ. Nay tức là mặc nhiên lãnh nhận. Như bên trên với ý gì mà chẳng cầu phát Tích vậy ?
Vì kẻ hạ căn chưa ngộ; cho nên chẳng cầu phát Tích. Nay người hạ căn đã nhận lãnh rồi; quyền, hóa tất cả các việc đều đầy đủ. Nếu kẻ hạ căn phát Tích, tức là rõ biết trung, thượng đều lại là quyền. Nếu Ước (giáo) nói về Thượng và Trung ấy tức là đối với Hạ chẳng tiện vậy. Đức Thế Tôn thật là đặc biệt; cho nên khó có; lãnh nhận thật trí; tùy thuận thế gian; tùy theo từng loại mà thuyết pháp; tức là nhận lãnh quyền, trí vậy. Đây chính là căn tánh của 7 loại phương tiện. Điều nhận lãnh nầy ở trong phẩm Phương Tiện có ý nói về quyền, hiển và thật. Mong chúng sanh ra khỏi những nơi nghèo khổ đắm trước. Tức là ở trong nhà lửa nhận lãnh khai, quyền, hiện, thật. Chúng ta đối với công đức của Phật, lời nói chẳng thể giải bày hết được. Như sự nhận lãnh trong phẩm Dược Thảo dụ, Đức Như Lai có vô lượng công đức, các ngươi chẳng thể so sánh được. Liền nói rằng: Chẳng thể tuyên nói, lại chỗ nhớ nghĩ nầy cũng chẳng thể sánh bằng.
Từ „chỗ Phật mới có thể rõ“ trở đi; tức là yên lặng cầu phát Tích và thỉnh được thọ ký. Chúng ta ở đây Thông (giáo) cho rằng nhớ nghĩ, thỉnh cầu phát ra của những người thuộc Tích (Môn). Tâm sâu xa là gốc; nay hiện làm là Tích. Ấy là bổn nguyện. Đại từ thệ nguyện vậy và đại bi để hóa độ bên dưới cho nên nói là ta vì lời thệ. Bên trên cầu làm Phật cho nên nói là ta có lời nguyện. Thỉnh như bên trên, tức là cầu mong được thọ ký. Thỉnh như bên dưới tức là cầu phát Tích (Môn).
Lại nữa từ „tâm sâu xa ấy, làm rõ 3 đời nầy, giúp Phật tuyên dương giáo hóa. Từ bổn nguyên ấy, tức là cùng thọ ký vậy. Phật bảo“: trở đi; Phần thứ 2 Phật thuật lại việc thọ ký. Có kệ tụng Trường Hàng. Trường Hàng ấy có hai. Một là thuật lại Bản Tích và hai là cùng với sự thọ ký. Đầu tiên có 3. Một là nói về Đức Thích Ca ở đời thực hành cái nhơn phát Tích. Hai là theo Ước giáo, trong quá khứ Đức Phật ở đời đã thực hành nguyên nhơn để hiển bổn. Ba là cả 3 đời chư Phật đều tu nhơn và hạnh đầy đủ. Cuối cùng việc Đức Phật Thích Ca chỗ hạnh và nhơn phát tích ấy lại có 3. Một là đưa ra chỉ bày cho người nầy. Hai là chương nói tổng quát về Bản Tích. Ba là giải thích riêng biệt về Bản Tích. Tức là dùng lời nói tiêu biểu nói: Các ngươi chẳng thấy chăng? Có 2 ý. Một là thấy Tích nầy cho là nhỏ chăng? Hai là thấy Bổn nầy có công đức chăng? Mọi người hay thấy Tích là Thanh Văn; mà chẳng thể rõ Bản là Bồ Đề; cho nên nói có thấy chăng. Ta thường gọi điều nầy là mục tiêu, là Tích nầy. Tích vì đó mà nói pháp rằng: trong đó con người là tối vi đệ nhứt. Nếu chẳng có pháp thân diệu bổn, thì chẳng thể dùng sự rủ lòng nơi đệ nhất thắng Tích. Từ xưa đến nay hằng nói: Ở nơi Tích nói pháp đệ nhất. Nay tức chẳng phải như vậy. Đối với pháp vô thượng, dài lâu được đệ nhất. Điều nầy đưa Tích ra dùng để hiển Bản vậy. Lại cũng thường tán thán mục tiêu bên dưới là bản địa nầy. Phước huệ vạn hạnh pháp môn; nên nói đủ loại. Bản địa ấy lại có đủ loại pháp môn. Như vậy sao Bản ấy hay chia làm Nhị Thừa ? Đây chính là đưa Bản ra để làm rõ chỗ Tích vậy. Phần tinh cầu hộ trì tiếp theo có giải thích riêng; giúp tuyên dương giáo pháp của ta; tức là trong Tích ấy có trợ giúp một phân nửa pháp được viên mãn. Tích ấy là hạ căn Thanh Văn; tức là hộ trì trợ tuyên giáo pháp đã thành lạc. Tích ấy tại Phương Đẳng chỉ bày thọ Đạn Ha, tức là hộ trì trợ duyên pháp Sanh Tô. Tích lãnh Bát Nhã tức là hộ trì trợ duyên pháp Thục tô. Tích ở Pháp Hoa được ngộ tức là hộ trì trợ duyên pháp Đề Hồ.
Tổng quát như trên, ta thường hay xưng tán các loại công đức; tức là ở ý nầy. Đầy đủ quyền thật công đức, mà Tích ấy khởi lên 5 vị, giúp Phật để điều phục thuần thục, thực hành chúng sanh, há chẳng phải là siêng năng với ý trợ ngôn chăng ? Biệt (giáo) giải thích về Bản Tích công đức; hay nơi tứ chúng mà chỉ dạy, phân biệt về nửa chữ giáo. Giải thích đầy đủ trợ tuyên đủ chữ Bát Nhã giáo vậy. Mà làm lợi ích lớn, giúp Phật làm nhiêu ích cho chúng sanh cho đầy nửa chữ kia. Đồng phạm hạnh là Tích, chỗ hóa độ cho đệ tử đầy đủ của phân nửa kia.
Từ „Như Lai từ bỏ“ trở đi; Biệt (giáo) thuật về Bản Địa Công Đức. Từ bỏ nghĩa là sau khi giáng trần với trí tuệ vi diệu. Vô năng tri nghĩa là 7 loại phương tiện
Từ „các ngươi chớ nghĩ rằng giúp đỡ giáo pháp của ta“ trở đi; phần thứ 2, kể từ trong quá khứ, Phật đã hiển bản hạnh nầy. Chẳng phải trực tiếp giúp ta trợ ngôn một nửa pháp đầy đủ còn lại, mà từ xa xưa ở nơi Phật, lại cũng đã trợ tuyên giáo pháp cho nửa phần đầy đủ còn lại. Giữ cho đến ngày nay trợ tuyên là Phát Tích; giữ trong quá khứ trợ tuyên là hiển tích. Hiển Bổn có hai. Một là Viễn bổn và hai là Cận bổn. Viễn bổn mù tịt xa tít vì lòng tin thật khó. Cho nên lược mà chẳng thuật lại. Thường hay đưa ra Cận bổn của 90 ức. Có túc mệnh trí thì có thể rõ được Cận bổn. Cho nên đưa Cận ra để làm chứng cho Viễn. Tựu chung có câu văn 90 ức, đều làm rõ việc giúp Phật tuyên dương ngũ vị giáo lý ấy để làm điều phục chúng sanh. Hộ trì trợ duyên tức là phỏng theo trợ tuyên nửa chữ của pháp Lạc vị vậy. Chánh pháp của Phật tức là phỏng theo sự trợ tuyên pháp Phương Đẳng Sanh Tô Vị. Lại nữa đối với không pháp rõ ràng; tức là phỏng theo trợ tuyên pháp Thục Tô Vị. Lại nữa như nay Phật chuyển pháp luân nói Bát Nhã làm sáng tỏ Lục Ba La Mật, hỗ tương thâu nhiếp, trở lại chuyển vô ngại. Nơi 90 ức Phật trợ tuyên dương như bây giờ chẳng khác. Phật kia người đời tất cả đều nghĩ thật là Thanh Văn. Lúc ấy lại chưa Phát Tích. Nghĩa là bị thêm lệnh để chuyển Bát Nhã, chẳng nói là Đại Bồ Tát. Hóa ra vô lượng chúng sanh làm cho đứng nơi Tam Bồ Đề. Tức là trợ tuyên Đề Hồ pháp vị vậy. Tại câu văn có thể hiểu v.v...
„Lại có 7 vị Phật“ trở đi; phần thứ 3 Ước (giáo) nói về 3 đời chư Phật đã tu nhơn như câu văn. Đây cũng lại là thí dụ trước, trợ tuyên nửa phần pháp còn lại đầy đủ của ngũ vị, làm lợi ích cho lớn, nhỏ vậy. Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú
Hết quyển thứ 7 (Phần dưới)
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.142.245.44 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.