Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng

Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Xưa, vị lai, và nay, đâu có sự kiện này: Người hoàn toàn bị chê,người trọn vẹn được khen.Kinh Pháp cú (Kệ số 228)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Người ta thuận theo sự mong ước tầm thường, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa.Kinh Bốn mươi hai chương
Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận. Kinh Pháp cú
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó. Kinh Pháp cú
Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú [妙法蓮華經文句] »» Bản Việt dịch quyển số 4 »»

Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú [妙法蓮華經文句] »» Bản Việt dịch quyển số 4

» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 1.48 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 1.72 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Pháp Hoa Văn Cú

Kính mong quý độc giả xem kinh cùng góp sức hoàn thiện bằng cách gửi email về admin@pgvn.org
để báo cho chúng tôi biết những chỗ còn có lỗi.

Kinh này có 10 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 |
Việt dịch: Thích Như Điển và Nguyễn Minh Tiến

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Ba lần thuyết pháp

Từ câu “Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài Xá-lợi-phất: Ông đã ân cần thưa thỉnh ba lần, sao có thể không nói ra...” trở đi là nói rộng ý nghĩa khai thị trừ bỏ ba thừa, hiển bày Nhất thừa.

Nhìn chung phần này gồm 7 phẩm rưỡi, toàn văn chia làm ba [lần thuyết pháp].

Lần thứ nhất là vì hàng thượng căn thuyết giảng chánh pháp. Lần thứ hai là vì hạng trung căn thuyết giảng các thí dụ. Lần thứ ba là vì hạng hạ căn thuyết giảng các nhân duyên đời trước.

[Ba lần thuyết pháp này] cũng được gọi tên là lý, sự và hành. Theo như kinh Đại phẩm [Bát-nhã] cũng chia 3 hạng căn cơ. Đại lược là như thế.

Nay sử dụng 10 ý nghĩa để phân chia chọn lọc [giảng giải ý nghĩa trong ba phần thuyết pháp như nói trên].

Thứ nhất là luận việc thuyết pháp có chung, có riêng. Thứ hai là luận việc có Thanh văn hay không. Thứ ba là luận về nghi hoặc có sâu cạn. Thứ tư là luận việc có chuyển đổi căn cơ hay không. Thứ năm là luận về các căn cơ khác nhau có ngộ hay không ngộ. Thứ sáu là luận việc có nói ra chỗ nhận hiểu hay không. Thứ bảy là luận về việc được thụ ký hay không. Thứ tám là luận về sự ngộ đạo sâu cạn. Thứ chín là luận về lợi ích của quyền và thật. Thứ mười là luận về việc có đợi thời hay không.

1. Luận về chung và riêng

Lần thuyết giảng đầu tiên là riêng [cho hàng lợi căn], gọi là thuyết chánh pháp. Thuyết giảng chung [trong lần này] thì gồm đủ cả ba [căn cơ thượng, trung, hạ]. [Như kinh văn nói:] “...như hoa ưu-đàm-bát đúng thời chỉ nở một lần...”, đó là thuyết giảng thí dụ [cho hàng trung căn]. [Lại như trong phần kệ tụng nói:] “Nếu ta gặp chúng sinh, đều dạy bằng Phật đạo”, tức là thuyết giảng về nhân duyên [cho hàng hạ căn].

Lần thuyết giảng thứ hai thì riêng [cho hàng trung căn], là thuyết giảng thí dụ. Thuyết giảng chung [trong lần này] cũng hướng đến cả ba căn cơ. [Như kinh văn nói:] “Chẳng phải trước đây ta đã nói... ...đó đều là vì giáo hóa hàng Bồ Tát”,[1] tức là nói thí dụ thích hợp [cho hàng trung căn]. Lại nói: “[Phật dùng sức phương tiện,] đối với một Phật thừa mà phân biệt thuyết dạy thành ba thừa”, tức là thuyết chánh pháp [cho hàng thượng căn].

Kinh văn nói “...ở nơi hai vạn ức vị Phật, ...thường giáo hóa ông”,[2] đó tức là thuyết về nhân duyên. Nếu cho rằng câu kinh văn này thuộc về thuyết pháp [cho hàng thượng căn], thì có thể xem các câu kệ “Ông trưởng giả nghe rồi, hốt hoảng vào nhà cháy, tìm cách cứu các con” là thuyết về nhân duyên [cho hàng hạ căn].

Lần thuyết giảng thứ ba nói riêng [là cho hạng hạ căn], thuyết giảng các nhân duyên đời trước. Thuyết giảng chung [trong lần này] lại cũng hướng về cả [ba hạng căn cơ]. [Kinh văn nói] “...đến lúc nhập Niết-bàn, đại chúng lại thanh tịnh...”[3] [Phật liền nói pháp] khiến cho thể nhập vào trí tuệ Phật. Đây là thuyết pháp [cho hàng thượng căn]. Kinh văn nói: “Có một vị thầy dẫn đường...” tức là thuyết thí dụ [cho hàng trung căn].

Phân chia ba lần thuyết giảng như vậy là dựa theo [đủ các nghĩa] như “đa” (số đông), “chánh” (chân chánh), “lược” (tóm gọn), “bàng” (có liên quan). Vì muốn cho không lạm dụng quá nhiều danh xưng nên mỗi nơi đều chỉ nêu căn cứ một ý mà thôi.

Hỏi: Ba lần thuyết giảng là vì ba hạng căn cơ, nhưng mỗi một lần [tính cả thuyết riêng và thuyết chung] thì cũng đủ cho ba căn cơ, vậy lẽ ra chỉ một lần thuyết cũng đã là đủ [nghĩa cho] cả ba hạng căn cơ?

Đáp: Thuyết chánh pháp không phải chỉ phù hợp với hàng thượng căn và hàng thượng của trung căn, mà còn cho cả hàng trung căn, hạ căn. Vì theo các nghĩa “chân chánh”, “tóm lược” và “có liên quan” cho nên chỉ nói là phù hợp với bậc thượng căn. Hai lần thuyết giảng thí dụ và nhân duyên cũng đều như vậy.

2. Luận về Thanh văn

Ngài Quang Trạch cho rằng nhất định thật có việc tu hành [pháp] Thanh văn. Nếu nói rằng không thật có Thanh văn thì pháp quyền [của Phật] tương ứng với gì?

Ngài Khai Thiện thì giảng giải rằng không thật có việc tu hành [pháp] Thanh văn. Ngài dẫn kinh Thắng Man [nói rằng] hàng Tam thừa vừa tu tập lúc ban sơ đã [có người] chẳng ngu muội đối với pháp,[4] kẻ phàm phu đứng ngoài đã biết được Nhất thừa, thì làm sao có việc hàng Nhị thừa còn bám chấp các quả vị thấp.[5] Trong kinh nói rằng có [pháp Thanh văn] thì đó chỉ là quyền biến mà thôi.

Cả hai thuyết trên đều là bám chấp thiên lệch, trái ngược với kinh, làm mất đi ý nghĩa.

Nếu nói nhất định có [pháp Thanh văn], thì chẳng phải trong kinh [này] đã nói là không có đệ tử Thanh văn, chỉ giáo hóa các vị Bồ Tát?[6] Còn nếu nói nhất định không có [pháp Thanh văn] thì ai là người vào hóa thành? Lại cũng không có ba [thừa] để nhận hiểu thì pháp quyền biến để dẫn dắt ai?

Lại nếu nói rằng thật có [pháp Thanh văn], là đối tượng dẫn dắt của pháp quyền biến, thì lẽ ra cũng phải thật có [quả vị] Phật của Tạng giáo, và [Thanh văn] là chỗ dẫn dắt của đức Phật quyền biến thuộc Tạng giáo. Còn nếu nói thật không có [quả vị] Phật như thế, chỉ là Phật quyền biến, thì tại sao lại không chấp nhận là chỉ có Thanh văn quyền biến, không thật có [pháp] Thanh văn? [Lập luận theo] nghĩa này không hợp lý. [Lại nếu vì Thanh văn] thật có đoạn giới nội hoặc[7] mà cho đây là thật rồi có [Thanh văn] tương ứng quyền hiện, vậy thì làm gì có Phật đoạn giới nội hoặc để có Phật quyền biến tương ứng với Phật ấy?

Nay giải thích rõ rằng cả hai quan điểm có và không [như trên] đều không thể lệch lạc bám chấp theo.

[Xét trong kinh Pháp hoa này,] nếu nhìn từ trí tuệ chân thật của ông trưởng giả thì không hề có khách xa đến làm thuê. Còn nếu dựa theo căn tánh của đứa con lưu lạc cùng khổ thì tất nhiên tự cho mình là người đến làm thuê.[8]

Theo Pháp hoa huyền luận[9] thì có 4 loại Thanh văn. Một là Thanh văn quyết định,[10] hai là Thanh văn tăng thượng mạn,[11] ba là Thanh văn thối tâm Đại thừa[12] và bốn là Thanh văn ứng hóa. Hai loại đầu [căn cơ] chưa thuần thục, không được thụ ký, hai loại sau đều được thụ ký [sẽ thành Phật].

Nếu theo kinh [Pháp hoa] này thì có 5 loại Thanh văn. Loại thứ nhất là đã nhiều đời tu tập Tiểu thừa, đến đời này tâm đạo thuần thục, được nghe giáo pháp Tiểu thừa liền chứng quả. Theo như trong luận nói thì đây là hạng Thanh văn quyết định.

Loại thứ hai vốn là hàng Bồ Tát đã tu tập trải qua nhiều đời, nhưng giữa chừng mỏi mệt chán ghét sinh tử nên từ bỏ Đại thừa, tu theo Tiểu thừa.[13] Trong Đại phẩm [Bát-nhã] gọi đây là hạng có căn lành khác biệt. Đức Phật vì tạm thành tựu cho người [căn cơ] thấp nên nói giáo pháp bậc thấp, cũng đều dạy dứt trừ phiền não trói buộc, chứng đạt quả vị. Hạng người này thối tâm chưa lâu, chỉ mới tu tập theo Tiểu thừa gần đây, nên theo lẽ thì rất dễ giác ngộ. Nói theo như luận nói thì đây là hạng Thanh văn thối tâm Bồ-đề.

Hạng thứ ba là do có hai hạng Thanh văn nói trên nên chư Phật, Bồ Tát [thị hiện] ẩn giấu [thật tướng] bên trong, bên ngoài hiện [tướng Thanh văn] để thành tựu, dẫn dắt [hai hạng Thanh văn trên] đi vào Đại thừa. Theo như luận nói thì đây là hạng Thanh văn ứng hóa.

Hạng thứ tư là [sai lầm] cho rằng cả hai pháp quyền thật đều có thể giúp ra khỏi sinh tử, vì ưa thích Niết-bàn nên tu tập giới, định, tuệ, có được đôi chút trí tuệ quán chiếu nhưng chưa vào được Tương tợ vị, chỉ vừa có chút sở đắc mỏng manh mà cho rằng đã chứng quả. Đây gọi là chưa được mà nói đã được, chưa chứng mà nói đã chứng. Theo như luận nói thì đây là hạng Thanh văn tăng thượng mạn.

Hạng thứ năm là Thanh văn Đại thừa, dùng âm thanh của Phật đạo để khiến cho tất cả [chúng sanh] đều được nghe.

[Như vậy,] nếu xét theo hai loại Thanh văn quyết định và Thanh văn thối tâm Bồ-đề thì là thật có [pháp] Thanh văn.

Nếu xét theo lý Đại thừa thì không thể dứt trừ tất cả[14] để vĩnh viễn ở nơi “hóa thành” mà rốt cùng đều phải về “bảo sở” (nơi có nhiều châu báu). Lẽ thật đã như vậy tức là không có pháp quyền, cho nên thật không có Thanh văn.

Nếu [xét theo] hạng tăng thượng mạn thì chưa chứng nhập giai vị tức là chẳng phải thật, lại không phải ứng hóa cho nên chẳng phải quyền. Nếu hiểu được ý này thì dù có hay không cũng mặc nhiên không lưu tâm đến, đâu cần phải khổ nhọc tranh luận [cùng nhau].

Lại nữa, nếu chỉ căn cứ vào hạng Đại thừa Thanh văn mà luận có hoặc không, thì nếu do quyền biến ứng hóa tạo ra, bên ngoài thị hiện hình tích Tiểu thừa mà bên trong ẩn chứa tánh đức Đại thừa, như vậy ắt phải nói là không có Đại thừa Thanh văn.

Nếu xét theo nghĩa tự thực hành, hình tích phát lộ là hiển bày bản thể, như vậy ắt phải nói là thật có Thanh văn Đại thừa. Nay theo ý chính [của kinh văn] là khai thị trừ bỏ ba thừa, hiển bày Nhất thừa, thì nhất định sẽ làm cho hàng Thanh văn thối tâm Bồ-đề trở thành Thanh văn Đại thừa. Ý nghĩa tự thực hành đã lập rồi liền có thể ứng hóa thành Thanh văn. Nếu hiểu được ý này tức là đã đạt được [nghĩa] có hay không có [Thanh văn].

3. Luận về nghi hoặc có sâu, có cạn

Ngài Pháp Dao nói, những người thuộc thượng căn, trung căn hay hạ căn, sau khi chứng quả rồi vui thích với pháp quán vô sinh, [thấy rằng] lý của vô sinh là duy nhất. Đến khi ra khỏi giai đoạn quán chiếu, tùy giáo pháp tu tập[15] mà duyên theo, liền thấy khác biệt. Lại theo chỗ khác biệt tất nhiên ấy mà nghi hoặc lý vô sinh duy nhất, cho rằng giáo pháp đã là ba thì lý làm sao có thể là một? [Hoặc ngược lại] theo lý [vô sanh] duy nhất mà nghi hoặc ba giáo pháp, cho rằng lý đã là một thì giáo pháp làm sao có thể là ba? Phân vân do dự giữa lý và giáo, hoang mang nghi hoặc chuyện được và mất. Dùng lý mà nghi hoặc giáo thì có nghĩa được, dùng giáo mà nghi hoặc lý thì có nghĩa mất. Bậc thượng căn dùng lý nghi hoặc giáo, tình nhiều [hơn tưởng], vừa được nghe thuyết giảng chánh pháp thuận theo tình liền được giác ngộ. Kẻ hạ căn dùng giáo nghi hoặc lý, tình nhiều [hơn tưởng], khi nghe thuyết chánh pháp rằng không có ba thừa, trái ngược với suy tính hiện có, cho nên phải được nghe đến ba lần mới nhận hiểu. Hàng trung căn ở giữa hai phạm vi ấy, khi nghe thuyết chánh pháp chẳng ngộ, đến khi được nghe thuyết thí dụ liền hiểu rõ.

Nay cho rằng giải thích về ba căn cơ chưa hẳn đã là như vậy. Ba hạng căn cơ này do dự những lý nào, giáo nào? Nếu còn hoang mang nơi lý và giáo của Tiểu thừa thì tức là nghi hoặc chưa dứt, hẳn còn chưa phải là người chứng sơ quả đoạn trừ phiền não trói buộc. Nếu là hoang mang với lý và giáo của Đại thừa thì Đại thừa hiển nhiên là luôn luôn khác biệt, chưa từng lẫn lộn với Tiểu thừa, sao có thể nói là do dự [giữa hai bên]? Nếu là theo Tiểu thừa mà nghi hoặc Đại thừa hay theo Đại thừa mà nghi hoặc Tiểu thừa thì người này trước đó còn chưa bỏ được [pháp] phương tiện, sao có thể vui thích quán [vô sinh mà nói] xuất với nhập? Đó là sẵn có tâm do dự, vì đã do dự nên do nghi hoặc mà tâm bám chấp khởi động, chẳng phải ngày nay mới phát sinh. Còn nếu do tâm bám chấp khởi động mới sinh nghi hoặc, thì khi nghe thuyết giảng khai thị trừ bỏ ba thừa, hiển bày Nhất thừa lẽ ra phải nhận hiểu, làm gì lại có chuyện kinh sợ nghi hoặc. [Xét nghĩa] tới lui đều không có căn cứ, cho nên không dùng đến cách giải thích này.

Nay giải thích rằng, nói về căn cơ thì có lợi (nhanh nhạy) hay độn (chậm lụt), đều là luận theo căn tánh Đại thừa. Nói về nghi hoặc thì có sâu (nặng) hay cạn (nhẹ), đó là dựa theo sự nghi hoặc riêng mà nói. [Kết hợp cả hai thì] có 4 trường hợp. Một là nghi hoặc nhẹ, căn cơ lợi. Hai là nghi hoặc nặng, căn cơ lợi. Ba là nghi hoặc nhẹ, căn cơ độn. Bốn là nghi hoặc nặng, căn cơ độn.

Nếu nghi hoặc riêng là nhẹ và căn cơ lớn, rất nhanh nhạy thì vừa nghe [pháp lần đầu] liền ngộ. Nếu nghi hoặc nặng nhưng căn cơ nhanh nhạy thì sau khi nghe lại lần sau mới hiểu.

Nếu nghi hoặc nhẹ, căn cơ chậm lụt thì sau 3 lần nghe mới quyết định [tin hiểu].

Trường hợp thứ tư, [nghi hoặc nặng, căn cơ chậm lụt] thì dù đã được nghe [thuyết pháp] 3 lần vẫn không thể giác ngộ, chỉ là chúng kết duyên [trong pháp hội] mà thôi.

[Theo như trên] có thể xếp 2 trường hợp đầu với căn cơ nhanh nhạy cùng vào hàng thượng căn. Hoặc cũng có thể xếp 2 trường hợp giữa là trung căn và hạ căn. Đại lược là như vậy.

Lại nữa, sơ phẩm vô minh có 3 lớp, che lấp hàng sơ trụ trung đạo. Trong lần đầu thuyết chánh pháp, bậc thượng căn [nghe rồi] liền tức thời trừ sạch hết 3 lớp vô minh, khai mở tri kiến Phật, thể nhập địa vị Bồ Tát, được thụ ký quả vị Bồ-đề. Hạng trung căn thì trừ được 2 lớp vô minh, còn kẻ hạ căn chỉ trừ được 1 lớp.

Lần thứ hai [Phật] thuyết giảng thí dụ, hàng trung căn [tiếp tục] trừ sạch 2 lớp vô minh [còn lại], khai mở tri kiến Phật, thể nhập địa vị Bồ Tát, được thụ ký riêng. Kẻ hạ căn thì tiến bộ, trừ thêm được 1 lớp vô minh nữa.

Tiếp đến khi nghe [Phật] thuyết giảng nhân duyên, hàng hạ căn cũng trừ sạch được 3 lớp vô minh, khai mở tri kiến Phật, thể nhập địa vị Bồ Tát.

Cũng giống như [theo giáo pháp] Tiểu thừa, [người tu tập] chưa đầy đủ 16 tâm thì chưa được gọi là Sơ quả. Đầy đủ 16 tâm mới gọi là chứng quả Tu-đà-hoàn.[16]

4. Luận về căn cơ có chuyển đổi hay không

Các nhà cựu giải nói rằng, lần đầu Phật thuyết chánh pháp, hàng thượng căn nghe qua liền đạt ngộ, hàng trung căn nghe rồi chuyển đổi thành thượng căn, kẻ hạ căn thì chuyển lên trung căn. Lần thứ hai [Phật] thuyết giảng thí dụ thì hàng trung căn trước đây đã chuyển thành thượng căn nên nghe rồi liền có thể đạt ngộ, còn hàng hạ căn [trước đã chuyển thành trung căn, lần này] chuyển lên thành thượng căn. Tiếp theo Phật thuyết giảng nhân duyên thì hàng hạ căn lúc đó đã thành thượng căn, liền được đạt ngộ.

Nếu là chuyển hạ căn [dần lên] thành thượng căn như vậy, thì khi Phật thuyết giảng nhân duyên, tất cả đều đã là thượng căn thì cũng nhanh nhạy như nhau, sao có thể xem là căn tánh trì độn mà phải thuyết giảng nhân duyên [mới ngộ]? Nếu đã chuyển thành thượng căn, tức là đạt ngộ cũng giống như thượng căn, còn nếu chưa đạt ngộ [giống nhau] thì vẫn phải gọi là độn căn, tức là lập luận chuyển căn [lên như vậy] không hợp nghĩa.[17]

Cũng giống như ngài Xá-lợi-phất một lần nghe [pháp], ngài Mục-kiền-liên nghe lại [lần thứ hai], cả hai đều chứng đắc sơ quả. Nếu cả hai đều là lợi căn thì không có chỗ hơn kém nhau. Còn nếu gọi là lợi độn [khác nhau] thì ý nghĩa chuyển căn không hợp lý.

Nói chung hết thảy chúng sinh, tâm ý [căn cơ] không cố định, gặp duyên xấu thì chuyển lợi thành độn, gặp duyên tốt thì chuyển độn thành lợi. Như đời trước [có những người] được gặp Phật, nghe pháp thì có thể tự chuyển đổi từ hạ căn, trung căn lên bậc thượng căn, [ngày nay] thảy đều nghe pháp được giác ngộ. [Lại đối với những người đã] tự mình chuyển đổi từ hạ căn lên trung căn thì khi nghe [Phật] thuyết giảng thí dụ liền hiểu rõ. Những người hạ căn mà không chuyển đổi [lên] thì sau khi nghe [Phật thuyết giảng] đủ 3 lần mới hiểu. Việc chuyển căn như vậy không giống như cách giải thích của các vị cựu giải. Cũng giống như dùng 3 con dao để đốn cây, một là dao sắc bén, ví như hàng lợi căn, hai là dao ít sắc bén hơn, ví như hàng trung căn, và ba là dao cùn, ví như hàng độn căn. Tuy tên gọi có lợi độn [khác nhau], nhưng [kết quả] đốn cây vẫn như nhau không khác.[18]

Hỏi: [Người thuộc] ba căn cơ [khác nhau] khi đã vào địa vị Sơ trụ có còn phân biệt lợi độn hay không?

Đáp: Tu tập chân chánh thì tánh thể hiển bày, tất nhiên không còn khác biệt cao thấp.

Hỏi: Nếu đã như vậy thì những người từ hàng Sơ trụ trở lên nếu khởi duyên tu, có hơn kém nhau chăng?

Đáp: Những người này đồng một giai vị thì không còn có chỗ hơn kém nhau. Tu tập chân chánh, tánh thể dung hòa, làm sao lại khác biệt nhau được.

5. Luận về ngộ và không ngộ

Trong kinh điển đa phần [được người đọc giải thích][19] rằng Bồ Tát là hàng thượng căn, Duyên giác là trung căn, Thanh văn là hạ căn.

Nếu nói Bồ Tát là thượng căn thì lẽ ra khi Phật thuyết chánh pháp [lần đầu] tất cả [Bồ Tát] đều được giác ngộ. [Tương tự,] hàng Duyên giác [là trung căn] thì lẽ ra nghe thuyết giảng thí dụ tất cả [Duyên giác] cũng đều giác ngộ, hàng Thanh văn [là hạ căn] thì khi nghe thuyết giảng nhân duyên tất cả [Thanh văn] cũng đều giác ngộ.

Thế nhưng xem qua trong kinh văn có nêu ba hạng căn cơ cho đến sự giác ngộ [của mỗi hạng căn cơ] thì ý nghĩa chưa hẳn là như vậy. Trong kinh [Pháp hoa] này, chỉ thấy hàng Thanh văn trình bày sự nhận hiểu, không thấy nói đến Phật Bích-chi. Phật Bích-chi là hàng trung căn, khi đã gặp Phật ra đời thì nhập chung hàng Thanh văn. [Thính chúng đều] tùy theo căn cơ mà được giác ngộ, cho nên không nêu riêng hàng Duyên giác. Trong kệ thưa thỉnh của ngài Xá-lợi-phất nói: “Những người cầu Duyên giác: tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni...” Dựa theo câu này thì biết là hàng Duyên giác được kể chung vào trong bốn chúng.

Lại nữa, trong phẩm Pháp Sư nói: “Tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di [có những] người cầu [quả vị] Thanh văn, cầu [quả vị] Phật Bích-chi.” Vậy lẽ nào lại không có hàng Duyên giác được nhận hiểu [trong pháp hội]?

Các nhà cựu giải nói rằng Bồ Tát là hàng thượng căn, nhưng không nhất thiết đều do lợi căn nên gọi là thượng, mà là do tâm bám chấp dễ chuyển đổi. [Những vị này] vốn luôn ôm lòng mong cầu quả Phật, chỉ là do bám chấp quá lâu hơn 300 [kiếp] nên [thối tâm] cầu quả vị thấp,[20] lòng nghi như vậy dễ ngộ. [Cho nên] hàng Bồ Tát [có đủ] ba căn cơ, khi nghe Phật thuyết chánh pháp đều được giác ngộ. Hàng Bồ Tát thượng căn [ngộ đạo khi nghe Phật] thuyết giảng sơ lược. Hàng Bồ Tát trung căn [ngộ đạo khi nghe Phật] bắt đầu thuyết rộng. Hàng Bồ Tát hạ căn thì ngang bằng với ngài Xá-lợi-phất.

Nay giảng rõ về danh xưng Bồ Tát là nói chung, chỉ cần phát tâm Đại thừa[21] thì đều gọi là Bồ Tát, không nhất thiết phải toàn là những bậc lợi căn. [Như vậy thì] những vị ngang bằng như ngài Xá-lợi-phất mà còn chẳng có nhiều, làm sao có chuyện từ lần thuyết chánh pháp trở về trước mà tất cả đều được ngộ? Bởi vì nếu đã như vậy thì trong phần Lưu thông, phẩm Thọ Lượng vì sao lại nói các vị Bồ Tát liên tục chứng ngộ pháp nhẫn vô sinh và phát tâm Bồ-đề?

Các nhà cựu giải nói rằng, những vị chứng ngộ nói trong phẩm Thọ Lượng đều là pháp thân Bồ Tát đã đạt được trí tuệ tăng trưởng, dứt trừ dần biến dịch sinh tử.[22] Nay cho rằng không phải như thế. [Kinh văn trong phẩm này nói] người chứng được pháp nhẫn vô sinh nhiều bằng số cát của 680 vạn ức na-do-tha con sông Hằng. Những người ấy lần đầu tiên chứng được pháp nhẫn này, do vậy biết rằng trước [khi nghe pháp như trong phẩm] Thọ Lượng [nói] thì họ chưa phải hàng [Bồ Tát] pháp thân. Cho nên biết rằng, Bồ Tát được chứng ngộ không phải chỉ hạn cuộc ở lúc ban đầu của lần thuyết giảng chánh pháp đầu tiên.

Hỏi: Bồ Tát được chứng ngộ từ đầu cho đến cuối [pháp hội đều có], vậy lẽ ra hàng Nhị Thừa được chứng ngộ cũng có ở cuối [pháp hội]?

Đáp: Sau ba lần [thuyết giảng thì] đã định rõ quan hệ cha con,[23] nên tất cả [người chứng ngộ] đều gọi là Bồ Tát. Cho nên dù về sau mới được chứng ngộ thì cũng gọi là Bồ Tát chứng ngộ.

6. Luận về việc trình bày chỗ nhận hiểu

Nếu [người trong] ba thừa đều có chứng ngộ, vì sao chỉ thấy [trong kinh nói việc] Thanh văn trình bày chỗ nhận hiểu, còn hai thừa khác không thấy nói? Nay giảng rõ rằng, nếu không có Phật ra đời [mà được giác ngộ] thì gọi là Độc giác. Nếu nhờ nghe Phật thuyết pháp 12 nhân duyên [mà chứng ngộ] thì gọi là Duyên giác, đã tính chung vào trong số Thanh văn được nhận hiểu, cho nên không tách ra mà nói riêng, đại ý việc này có thể thấy được.

Các ngài Xá-lợi-phất, Ca-diếp... đều là căn tánh Trung thừa, cho nên nói Thanh văn trình chỗ nhận hiểu tức là bao gồm cả Duyên giác, chẳng cần phải nhọc sức tách ra nói riêng. Lại nữa, trong bốn chúng có những người phát tâm Duyên giác, những người này được giác ngộ tức không đồng nhất với Thanh văn. Trong phẩm Tin hiểu nói “bí mật sai khiến hai người...” đến cùng làm việc,[24] chính là nói ý nghĩa này.

Lại không nói việc Bồ Tát trình chỗ nhận hiểu, vì giáo pháp Thanh văn [trước đây] không nói việc [họ] có thể thành Phật. Nay kinh Pháp hoa này khai mở con đường quay lại Đại thừa, các vị [Thanh văn] tự nghĩ sợ rằng sự nhận hiểu của mình sai lầm, cho nên đối trước Phật mà nói ra [để được xác nhận]. Bồ Tát thì chẳng phải vậy, cho nên không có việc trình chỗ nhận hiểu.

Lại nữa, việc này có ba ý nghĩa. Thứ nhất là ý nguyện của Bồ Tát vốn cầu thành Phật, ví như có những sự bám chấp khác cũng không sâu nặng, nên cuối cùng cũng sẽ đạt được quả vị Phật, chẳng có mối lo không được thành Phật. Nay được nghe ba lần thuyết giảng [của Phật], cũng chính là phù hợp với pháp quán tuệ của mình, cho nên chẳng cần phải trình chỗ nhận hiểu.

Thứ hai, việc Bồ Tát chứng ngộ Đại thừa trong các kinh điển khắp nơi đều có nói, nhưng hàng Nhị thừa có thể thành Phật thì mới lần đầu tiên được nói ra trong kinh [Pháp hoa] này. [Có thể do] lấy ý chính mà lưu truyền nên lược bớt việc Bồ Tát trình bày chỗ nhận hiểu. [Cũng có thể] trong kinh văn Phạn ngữ thì có nhưng kinh văn Hán ngữ đã lược bớt không chép lại.

Thứ ba là giai vị Bồ Tát công hạnh cực kỳ sâu xa, các vị Bồ Tát nhỏ mới phát tâm không dám trình bày chỗ nhận hiểu. Nhưng sau khi Phật thuyết xong phẩm Thọ Lượng[25] thì Bồ Tát Di-lặc thay mặt cho tất cả Bồ Tát để trình bày chỗ nhận hiểu. Ban đầu là nói từ các vị [chứng] pháp nhẫn Vô sinh, đến cuối cùng là một vị Nhất sinh bổ xứ,[26] như vậy là đã đầy đủ việc trình bày chỗ nhận hiểu, đâu cần phải thắc mắc gì thêm. Đại lược là như vậy.

7. Luận về việc được thụ ký hay không

Nếu [như trên nói] tất cả [ba thừa] đều có trình bày chỗ nhận hiểu thì vì sao Thanh văn được thụ ký mà không thấy nói việc Duyên giác, Bồ Tát được thụ ký?

Việc này cũng có ba ý. Thứ nhất là trước đây [Phật dạy] hàng Nhị thừa nhập chánh vị[27] không thể phát tâm [Bồ-đề], nên không do đâu mà được thụ ký. Nay đã giác ngộ theo Đại thừa, vui mừng với quyết tâm khác nên [Phật] vì các vị mà thụ ký [cho biết tên] cõi Phật và kiếp sẽ thành Phật sau này. Hàng Bồ Tát phát tâm cầu thành Phật, tu hành thành tựu tự thấy là đủ, chẳng vui với sự mau chóng thành Phật, cũng chẳng gấp rút cầu thụ ký. Lại nữa, trong các giáo pháp [Phật thuyết giảng] trước đây, rất nhiều nơi nói việc Bồ Tát được thụ ký nên đó là chuyện thường, lại theo ý chính mà lưu truyền như đã giải thích ở trước. Đại lược là như thế.

Thứ hai, Bồ Tát cũng có vị được thụ ký riêng. [Như trường hợp của] Điều-đạt,[28] Long nữ, chẳng phải là được thụ ký đó sao? Lại nữa, Phẩm Pháp Sư nói rằng: “Những người cầu Thanh văn, người cầu Phật Bích-chi, người cầu Phật đạo, những người như vậy đều đến trước Phật nghe kinh Pháp hoa, ta đều thụ ký cho họ sẽ chứng đắc quả Phật.” Như vậy chẳng phải là tất cả [ba thừa] đều được thụ ký đó sao?

Thứ ba, hàng Nhị thừa từ xưa đến nay chưa từng được thụ ký với 8 tướng trạng,[29] cho nên [bây giờ] thụ ký [cho các vị về tên gọi] cõi Phật và thời đại sẽ thành Phật sau này, còn Bồ Tát vì trước đây đã từng được thụ ký rồi nên không nói lại. Việc thụ ký gần, như bậc Sơ trụ thì đã chứng đắc, nên chẳng phải chỗ mừng vui của hàng Bồ Tát. Chỗ mừng vui của Bồ Tát là được thụ ký xa, đến viên mãn cùng cực quả vị Diệu Giác, [tức là quả Phật]. Cho nên trong phẩm Thọ Lượng, khởi đầu là hạng mới phát tâm, cuối cùng là địa vị Nhất sinh [bổ xứ], do nhân vi diệu mà được quả trọn vẹn cùng cực tức thời viên mãn. Đó mới là riêng được thụ ký pháp thân, sao có thể nói là không được thụ ký?

Hỏi: Nếu hàng Tiểu thừa đã ngộ được [pháp] Đại thừa thì lẽ ra cũng được thụ ký pháp thân như nhau, vì sao lại thụ ký có 8 tướng trạng cụ thể?

Đáp: Nêu ra 8 tướng trạng [cụ thể] là ứng hợp thụ ký. Đã được ứng hợp thụ ký thì biết là đã có cội gốc, đó là muốn cho hết thảy chúng sinh được biết, được nghe cùng kết [pháp] duyên trong tương lai, cho nên ứng hợp mà thụ ký. Hơn nữa, hàng Nhị thừa [được ứng ký] này nếu được nghe phẩm Thọ Lượng liền giảm trừ biến dịch sinh tử,[30] được thụ ký pháp thân.

8. Luận về việc ngộ đạo sâu cạn

[Nói chung, thính chúng] đều cùng phá trừ vô minh, chứng nhập giai vị Sơ trụ, quán xét chi ly ắt càng soi rõ chỗ tối tăm. Lần đầu nghe [Phật thuyết giảng] chánh pháp mà [đã có người] thể nhập trí tuệ Phật, lần tiếp theo nghe [Phật thuyết giảng] thí dụ lẽ nào không sáng tỏ thêm. Lại được nghe [Phật thuyết giảng] nhân duyên thì càng tự tăng tiến. Tiếp đến nghe [Phật thuyết giảng] về thọ lượng [của Như Lai] thì [chỗ nhận hiểu] càng thêm sâu xa. Như người nghe pháp thì nghe lại lần sau phải [nhận hiểu] rõ ràng hơn lần trước. [Xét như vậy thì chỗ ngộ đạo] đơn giản hay phức tạp, sâu dày hay mỏng manh đều có thể rõ biết.

9. Luận về lợi ích của quyền thật

Có người nói tu hành pháp thật được lợi ích, pháp quyền chỉ [là phương tiện] có ý nghĩa dẫn dắt, không bàn đến lợi ích. Nay giảng rõ không phải như vậy. Nếu xét đến phẩm Thọ Lượng thì cả quyền và thật thảy đều được lợi ích, trí tuệ trung đạo tăng trưởng càng thêm cao vời, biến dịch sinh tử giảm trừ cho đến dứt sạch, tiến gần đến chỗ viên mãn, đạt đến bờ mé cùng cực [của đạo], chỉ còn duy nhất một lần tái sinh [là thành tựu quả Phật], lẽ nào không phải tu hành pháp quyền được lợi ích đó sao? Cho nên ban đầu [dùng pháp quyền] tạo ảnh hưởng cùng với tu hành thuần thục pháp thật, sau đó nói quả tột cùng thì đạo tự sáng tỏ. Kinh văn nói: “Việc làm ăn xuất nhập thu lợi tức ở khắp các nước.” Lợi ích ở khắp các nước chính là lợi ích của mình, tu hành pháp thật được lợi ích là nhờ có pháp quyền dẫn dắt. Công hạnh giáo hóa [người khác, lợi ích] lại về với chính mình, nên pháp quyền cũng được lợi ích. Cho nên [kinh Duy-ma-cật nói: “Phật dùng một âm thanh thuyết giảng giáo pháp, chúng sinh tùy loại đều hiểu rõ.”[31] Đâu cần phải chờ [đến khi được nghe phẩm] Thọ Lượng. Đại lược là như vậy. [Kinh văn] lại nói: “Chúng con cũng muốn tự mình đạt được chánh pháp lớn lao chân thật thanh tịnh này.”[32] Đó tức là tự làm lợi ích.

10. Luận việc có đợi thời hay không

Nếu như từ trước không ngộ đạo, phải chờ đến lúc thuyết giảng Pháp hoa mới ngộ, đó gọi là đợi thời điểm thích hợp. Với các giáo pháp được thuyết giảng trước Pháp hoa mà đã nhận hiểu được rồi thì gọi là không đợi thời.

Vì sao vậy? Phật thuyết pháp có hai loại là hiển và mật. Nếu theo hiển giáo mà luận thì trước khi thuyết Pháp hoa, Nhị thừa chưa ngộ đạo Đại thừa, phải đợi khi năm vị[33] điều hòa thuần thục mới nhận hiểu được nơi hội Pháp hoa. Cho nên [kinh văn] nói rằng: “[Sở dĩ chưa từng nói,] vì thời chưa thích hợp. Nay chính lúc hợp thời, quyết định thuyết Đại thừa.” Đó là nói việc đợi thời.

Nếu theo mật giáo mà luận thì không nhất thiết phải chờ đủ 5 vị tại hội Pháp hoa mới nhận hiểu được. Từ trước đã có người ngấm ngầm thể nhập được, cho nên nói là không đợi thời.

Đó là nói chung khái quát về việc đợi thời hay không đợi thời. Nếu [nói chi tiết] thì chia ra 3 lần thuyết giảng [chánh pháp, thí dụ, nhân duyên] cũng là đợi thời và không đợi thời. Hoặc chia ra tích môn và bản môn lại cũng là đợi thời và không đợi thời, dẫn đến việc ngộ nhập trước sau cũng tức là ý nghĩa này.

Hỏi: Có một loại căn tánh chẳng phải mật, chẳng phải hiển, hai thời [thuyết pháp] ấy đều không thâu nhiếp được, có phải là đã để mất thời, vĩnh viễn không được giác ngộ chăng?

Đáp: Theo những kinh khác thì có thể nói như vậy là để mất thời, nhưng theo kinh [Pháp hoa] này thì chẳng phải vậy. Người ấy tuy qua hai thời hiển, mật đều không được ngộ, có thể khởi sinh ý tưởng [rằng Phật đã] diệt độ mất rồi, nhưng rồi sinh ở cõi khác [ngoài ba cõi] lại được nghe kinh này, cho nên chẳng phải mất thời hẳn. Đó chỉ là đợi thời ở cõi khác mà thôi.

Hỏi: Năm ngàn người đứng lên rời khởi pháp hội hẳn là đã để mất thời?

Đáp: Những người ấy hẳn rồi cũng sẽ được lợi ích từ người hoằng truyền kinh này sau khi đức Như Lai diệt độ.

Hỏi: Ngài Xá-lợi-phất trong lần [thuyết chánh pháp] đầu tiên là vì cả ba căn cơ trong bốn chúng mà thưa thỉnh. Đến lần thuyết giảng thí dụ là vì hàng trung căn, hạ căn mà thưa thỉnh. Vậy sao lại nói rằng ba lần thuyết giảng của Phật đều là vì cả ba căn cơ?

Đáp: Nói như vậy không ổn. Thưa thỉnh là vì cả ba căn cơ mà thưa thỉnh, nên thuyết giảng cũng là vì cả ba căn cơ mà thuyết chung. Chỉ có điều là hàng thượng căn trí tuệ nhanh nhạy, vừa nghe chánh pháp liền được giác ngộ. Hàng trung căn ở hạng trung bình, đến khi nghe thuyết giảng thí dụ liền được giác ngộ. Kẻ hạ căn ở bậc thấp, khi nghe thuyết giảng đến lần thứ ba liền được giác ngộ. Ông nên dựa theo ý nghĩa, sao lại chấp theo câu chữ? Đại lược là như vậy.

Hỏi: Chuyện đời trước là những việc trong quá khứ, còn [thuyết giảng] thí dụ là việc hiện nay phải không?

Đáp: Kinh văn không có nói, nhưng suy theo ý nghĩa thì như vậy. Dẫn dắt ba thừa về Nhất thừa, ba thừa cùng hướng đến một thừa, một thừa đó tức là đương thời. Nêu sự việc để nói thí dụ, thí dụ ấy chính là hiện tại. Suy trước tính sau thì đúng như lời ông hỏi.

Hỏi: Các vị cựu giải nói rằng năm trược che chướng Đại thừa, đưa ra bốn trường hợp giải thích như trước đã nói.[34] Lại có người nói đoạn kiến với vô minh hợp chung thành chướng. Luận Pháp hoa nói: “Người không phiền não nhưng do tư hoặc[35] nên không biết có pháp thân thường trụ của Nhất thừa”, chính là nghĩa đó. Nếu kẻ phàm phu[36] chẳng chấp vào Niết-bàn nhưng chẳng được nghe pháp thì chỉ duy nhất có vô minh là chướng [đạo]. Nếu như vậy thì sau khi nghe ba lần thuyết giảng [chánh pháp, thí dụ, nhân duyên] mới phá được vô minh, hay là khi chưa nghe pháp đã phá được vô minh? Nếu nghe pháp rồi mới phá được vô minh, thì vô minh ấy [không ngăn trở gì sự nghe pháp nên] chẳng phải chướng. Còn nếu chưa nghe pháp mà có thể phá được vô minh thì chỉ là lo lắng thôi chứ thật không có chướng.[37] Ý nghĩa này phải hiểu thế nào?

Đáp: Đó là ý nghĩa người khác bày ra,[38] nay sẽ giúp họ khai thông. Ví như khi thắp đèn sáng lên thì bóng tối mất đi, không thể xác định cái gì trước, cái gì sau. Tuy không có trước sau, nhưng vẫn chắc chắn bóng tối là chướng ngại. Đại lược là như vậy.

Hỏi: Kinh Thắng Man nói: “Hàng Tam thừa tu tập lúc ban sơ nếu không ngu muội nơi pháp thì tự biết mình sẽ được giác ngộ.” Kinh Ưu-bà-tắc giới, phẩm 14 nói rằng: “Hàng Nhị thừa tự biết mình sẽ thành tựu quả Bồ-đề, chỉ tạm nhận quả vị Tiểu thừa.” Phẩm 13 lại nói: “Người biết thì dễ, người thực hành thì khó. Tuy rõ biết Nhất thừa mà chấp nhận quả A-la-hán.” Cả hai kinh trên đều nói [hàng Nhị thừa] có biết [việc chứng quả Bồ-đề],[39] nay kinh [Pháp hoa] này vì sao nói ba hạng căn cơ về sau vẫn không tự biết [mình có khả năng chứng quả Bồ-đề]. Ban sơ nghi hoặc, sau đó được ngộ, ý nghĩa này phải hiểu như thế nào?

● Đáp: Kinh này cũng vẫn nói [là hàng Nhị thừa] có biết đó thôi. Kinh văn nói: “Nếu có tỳ-kheo nào thật sự chứng quả A-la-hán mà không tin nhận pháp Nhất thừa thì thật vô lý, chỉ trừ phi sau Phật diệt độ, hiện tiền không có Phật. Vì sao vậy? Sau khi Phật diệt độ thì người có thể thọ trì, tụng đọc, giảng giải những kinh như thế này rất khó gặp được. Nhưng nếu gặp Phật ở cõi khác thì ở trong giáo pháp này liền được thấu triệt rõ ràng.” Nói chung, [câu kinh] này có ba ý. Trước tiên nói rõ là [hàng Nhị thừa] có biết [về việc thành tựu quả Phật]. Tiếp đến làm rõ chỗ không biết, cuối cùng quy kết về nghĩa có biết, chẳng phải là vĩnh viễn không biết. Lại nữa, ngài Xá-lợi-phất nói “... không biết nghĩa ấy hướng về đâu”, lại nói “nay bốn chúng đều sinh lòng nghi...”[40]

Lại nữa, vào thời đức Phật Đại Thông Trí Thắng, đa phần các vị Thanh văn đều sinh nghi hoặc. Các vị ấy được gặp Phật nghe pháp mà còn nghi ngờ không biết, huống chi [những vị không được gặp Phật nghe pháp thì làm sao biết được? Nếu bám chấp vào hai đoạn kinh văn trên thì sẽ thấy mâu thuẫn nhau, chỉ làm tăng thêm sự tranh luận, đối với việc tu đạo nào có ích gì? Người biện luận chỉ có khả năng luận bàn những việc khác, còn việc Thanh văn thành thánh có thể biết hay không biết, chỉ cảnh giới Phật mới rõ, không phải chỗ chúng ta có thể nhận hiểu.

Bây giờ hãy thử phân tích trong kinh nói “hàng Tam thừa tu tập lúc ban sơ”. Tu tập ban sơ có 2 trường hợp. Nếu là hạng “tu tập ban sơ” từ rất lâu xa [trong quá khứ], từng được nghe pháp Đại thừa, tất nhiên không ngu muội nơi pháp. Nếu là hạng “tu tập ban sơ” mà giữa chừng quên mất nên ngày nay học theo Tiểu thừa, chỉ mới bắt đầu tu tập [các pháp] niệm xứ thì tất nhiên không thể hiểu rõ ý nghĩa này. Nếu nhận hiểu được ý này thì [biết rằng] hạng quyền biến thị hiện “tu tập ban sơ” tức có khả năng rõ biết, còn hạng thực sự là tu tập ban sơ thì không có khả năng rõ biết.

Có người nói rằng: “Kẻ căn cơ nhanh nhạy thì có thể rõ biết, người căn cơ trì độn thì không thể rõ biết.” [Nói về căn cơ lợi độn như vậy] nên chia làm 4 trường hợp. Thứ nhất là quyền hiện lợi căn, độn căn, thị hiện cả hai đều không có khả năng biết. Thứ hai là quyền hiện lợi căn, độn căn, thị hiện cả hai đều không thể rõ biết. Thứ ba là quyền hiện lợi căn, độn căn, khi được nghe [pháp] liền có thể rõ biết, không được nghe thì không biết. Thứ tư là quyền hiện lợi căn, độn căn, cả hai đều không phải biết cũng chẳng phải không biết.

Nay không phán xét theo những lập luận như trên, chỉ nhận rằng những bậc quyền hiện thì nội tâm rõ biết từ lâu, còn hàng [Nhị thừa] thực sự thì do chưa thể nhập Đại thừa cho nên không rõ biết. Như vậy thì ý nghĩa tự hiển lộ.

Hỏi: Hàng Duyên giác sinh thời không có Phật, vì sao trong 3 lần thuyết giảng [của Phật] lại có hàng Duyên giác?

Đáp: Sách [Pháp hoa] luận thích nói về Duyên giác và Độc giác như sau: “Độc giác sinh vào thời không có Phật, Duyên giác phát nguyện sinh vào thời có Phật.” Kinh Hoa nghiêm nói: “Khi Bồ Tát giáng hạ từ cõi trời Đâu-suất, phóng hào quang chiếu khắp, [những người tu tập] đã giác ngộ liền xả thân [để tái sinh gặp Phật], [những người] chưa giác ngộ liền dời đi [cõi khác].” Kinh Đại Bát Niết-bàn nói: “[Bích-chi Phật xuất hiện ở thời không có Phật, như] sao chổi [hiện lúc không có mặt trời].”[41] Trung luận nói: “Phật Bích-chi ra đời, pháp Phật đã diệt mất, nên chính là người một mình tự giác ngộ.” Người phát nguyện sinh ra trong thời có Phật thì trước đã chứng được sơ quả, chưa hết 14 lần tái sinh, nếu được gặp Phật thì thành A-la-hán, nếu không được gặp Phật thì thành Độc giác. [Các vị trong pháp hội này] đã được gặp Phật, không xả bỏ thọ mạng, cũng không dời đi [nơi khác], vì đã phát nguyện được gặp Phật nên [ở trong hàng] Nhị quả, Tam quả cũng là lẽ thường.

Lại nữa, còn có các vị Bộ hành Duyên giác,[42] vào thời không có Phật thì thầy trò dạy dỗ cho nhau. Ở đây [cần phân biệt] có 2 hạng. Sau khi Phật nhập diệt rồi, đời sau đó không có chữ viết, chúng sinh căn cơ trì độn. Phật Bích-chi [ra đời] không thuyết pháp thì không phải hạng Bộ hành. Hạng Bộ hành có khả năng thuyết pháp. Lại cũng có hàng Duyên giác biến hóa, vì để thích hợp [với những chúng sanh] muốn thấy mà hiện thân Duyên giác. [Cho nên] ngày nay trong thính chúng của 3 lần Phật thuyết giảng có các vị Duyên giác thì ý nghĩa này có thể hiểu được.

Lần thứ nhất thuyết giảng chánh pháp

Lần đầu tiên Phật thuyết giảng chánh pháp, kinh văn chia ra 5 phần.

Phần thứ nhất, từ câu “Ông đã hết lòng thưa thỉnh ba lần, lẽ nào ta lại không nói” đến hết quyển [1].[43] Đây là phần thuyết giảng chánh pháp. Phần thứ hai là từ đầu quyển 2[44] cho đến hết phần kệ tụng.[45] Phần này là ngài Xá-lợi-phất trình bày trước Phật sự nhận hiểu của mình.

Phần thứ ba là từ câu “Hôm nay ta sẽ nói rõ giữa đại chúng này, có chư thiên, loài người người...” trở đi, cho đến hết câu “kinh Đại thừa này, tên là Diệu Pháp Liên Hoa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm.” Đây là phần đức Phật thuyết về sự thành tựu [giáo hóa của ngài].

Phần thứ tư là từ câu “Xá-lợi-phất! Trong tương lai...” cho đến hết câu “Chính ông thành Phật ấy, nên hãy tự mừng vui.” Phần này là [Phật] thụ ký [cho ngài Xá-lợi-phất].

Phần thứ năm là từ câu “Khi ấy, bốn chúng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni...” cho đến hết câu “Cùng công đức gặp Phật, đều hồi hướng Phật đạo.” Phần này là nói việc bốn chúng đều hoan hỷ.

I. Thuyết giảng chánh pháp

A. Văn trường hàng


Phần thứ nhất gồm có văn trường hàng và kệ tụng.

Phần văn trường hàng lại chia làm ba. Một là Phật hứa khả [sẽ thuyết giảng], hai là [đại chúng] thọ nhận chỉ ý [của Phật], ba là nội dung thuyết giảng chính.

Phần hứa khả lại cũng chia làm ba. Một là hứa chấp thuận [việc thuyết giảng], hai là răn dạy [việc nghe pháp] và ba là chọn lọc [thính chúng].

KINH VĂN

Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài Xá-lợi-phất: “Ông đã hết lòng thưa thỉnh ba lần, lẽ nào ta lại không nói. Nay ông hãy chú ý lắng nghe, khéo suy xét kỹ và ghi nhớ, ta sẽ vì các ông mà phân biệt giảng nói.”

Khi đức Phật vừa nói ra lời này, trong chúng hội liền có 5.000 tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di cùng đứng dậy khỏi tòa ngồi, lễ Phật rồi lui ra. Vì sao vậy? Những người ấy gốc tội sâu nặng, lại là hàng tăng thượng mạn, chưa chứng nói là chứng, chưa đắc nói là đắc, có những lỗi lầm như vậy nên không ở lại. Đức Thế Tôn lặng thinh không ngăn cản.

Bấy giờ, đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Trong hội chúng này nay không còn cành lá, chỉ thuần hạt chắc. Này Xá-lợi-phất, những kẻ tăng thượng mạn ấy lui ra cũng tốt. Nay ông hãy khéo lắng nghe, ta sẽ vì các ông thuyết giảng.”

Ngài Xá-lợi-phất thưa: “Xin vâng, Thế Tôn! Chúng con nguyện vui thích muốn nghe.”

[Đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất] “Ông đã hết lòng thưa thỉnh ba lần”, tức là thuận hứa [việc thuyết pháp]. Lại nói, “Nay ông hãy chú ý lắng nghe, khéo suy xét kỹ và ghi nhớ”, tức là răn dạy [việc nghe pháp]. Lắng nghe là văn tuệ, khéo suy xét kỹ là tư tuệ và ghi nhớ là tu tuệ.

Kinh Đại Bát Niết-bàn [quyển 23] nói rõ có 4 pháp lành vì là nhân để đạt được Đại Niết-bàn. Pháp thứ nhất là [gần gũi] bậc thiện tri thức, tức là đức Như Lai. Ba pháp còn lại có thể hiểu được.[46]

Từ câu “Khi đức Phật vừa nói ra lời này” là chọn lọc thính chúng. [Do có] 5.000 người [không thích hợp] trong pháp hội cho nên đức Như Lai 3 lần ngăn việc thưa thỉnh, cho đến lúc này mới hứa khả [việc thuyết giảng]. Do oai thần [của Phật] khiến [những người này phải] lui ra, cho nên gọi là chọn lọc thính chúng.

[Những người này chất chứa] nhiều 5 thứ uế trược che chướng là “tội nặng”, bám chấp Tiểu thừa, khuất lấp Đại thừa là “gốc sâu”, cho nên kinh văn nói là “gốc tội sâu nặng”. Lại “chưa chứng nói là chứng, chưa đắc nói là đắc” nên gọi là “tăng thượng mạn”, đó là chưa chứng đắc ba quả [Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm], chưa chứng bậc Vô học [A-la-hán]. Vì có những lỗi lầm như vậy nên nói là rơi vào ba loại: chướng, chấp, mạn, [đức Phật để họ lui ra] mà không ngăn cản.

[Những người này] chỉ mới vừa nghe khai thị trừ bỏ ba thừa, hiển bày Nhất thừa, giảng giải còn sơ lược, ý nghĩa còn ẩn tàng nên chưa sinh tâm hủy báng. [Về sau] nói đủ nhân duyên [thí dụ] hạt châu [trong chéo áo thì việc] họ lui ra là hữu ích hơn, vì nếu nghe giảng rộng việc trừ bỏ ba thừa, hiển bày Nhất thừa, trái nghịch với thức tình [hiện tại ắt họ sẽ] khởi tâm hủy báng, nên nếu ở lại thì sẽ bị tổn hại. Do vậy mà [đức Phật] không ngăn cản [việc họ lui ra].

[Phật dạy rằng] “trong hội chúng này của ta nay không còn cành lá”. Cành lá tức là nhỏ yếu, không thể dùng làm vật dụng. Những người [lui ra đều là kẻ] bám chấp phương tiện của phương tiện, không phải khí dụng của Đại thừa. Đại Phẩm Bát-nhã nói: “Bám lấy cành lá mà bỏ gốc rễ, người như vậy là không khôn ngoan.” Chính là nói ý nghĩa này.

[Phật nói những người này] “lui ra cũng tốt”, vì họ bám lấy Tiểu thừa tự che chướng mình, lại còn làm ngăn trở ánh sáng Đại thừa đến với những người khác. Nay họ lui ra thì khỏi mắc tội hủy báng chánh pháp, lại không có lỗi chướng ngại người khác, cho nên nói là “cũng tốt”.

Phần trước vì hạng “cành lá” chưa lui ra nên đức Như Lai ba lần ngăn [việc thưa thỉnh. Nay trong chúng hội chỉ còn] “hạt chắc” mong mỏi được nghe, nên ngài Xá-lợi-phất lại thưa thỉnh lần thứ tư. Thầy trò xét kỹ căn cơ, chẳng phải chỉ là do đệ tử cố thỉnh.

● Hỏi: Đức Phật có tâm đại từ bi, sao chẳng dùng thần lực khiến cho [những người này] ở lại [trong chúng hội] mà không nghe biết, như [hàng Nhị thừa] câm điếc trong pháp hội Hoa nghiêm? Sao không dùng [phương tiện] “trống độc”[47] như [trường hợp hai vị tỳ-kheo] Hỷ Căn và Thắng Ý?[48]

● Đáp: Mỗi việc đều có nguyên do [khác nhau]. Pháp hội Hoa nghiêm cho đến gần cuối mới khai trừ pháp tiệm nhưng chưa phá chấp Tiểu thừa, cho nên [vẫn để cho] ngồi trong pháp hội mà [tạo sự] ngăn cách. Nay thì các pháp Phật thuyết sẽ lưu truyền dài lâu nên phải nói toàn lẽ chân thật. Chính vì [Phật] muốn diệt hóa [thành], phá am cỏ,[49] nên mới khiến cho [những người này lui ra] để chọn lọc. Nếu [biết rằng] dù ở hay đi thì [những người này] cũng đều hủy báng [chánh pháp], ắt sẽ gượng ép mà thuyết pháp như tỳ-kheo Hỷ Căn. Nhưng nay [Phật đã dạy rằng họ] lui ra là tốt, sao bỗng dưng muốn cho ở lại? [Những người này] ở lại ắt gây tổn hại, sao bỗng dưng muốn [Phật] đừng khiến họ lui ra? Tỳ-kheo Hỷ Căn do lòng từ nên gượng ép thuyết pháp [với Thắng Ý], Còn đức Như Lai do lòng bi mẫn nên khiến [những người này phải] lui ra.

Hỏi: Năm ngàn người này ở lại trong pháp hội chẳng được lợi ích, nhưng lui ra thì lại có ích lợi gì?

Đáp: Những người này không phải chúng đương cơ,[50] mà chỉ là trong số chúng kết duyên. Như trên đã nói, vào thời đức Phật Đại Thông Trí Thắng cũng có vô số chúng sinh khởi tâm nghi hoặc, [sau đó] đời đời vẫn cùng sinh ra với vị thầy của mình, đến nay đều đã được độ thoát. Những người [lui ra ngày nay] cũng vậy.

Vào lúc Phật thuyết kinh Đại Bát Niết-bàn có tới 15.000 ức người đối với kinh ấy không sinh lòng tin. Những người ấy trong tương lai lại cũng sẽ có lòng tin. Theo đó thì sự ích lợi đến cũng không lâu.

Trong kinh Kim Quang Minh nói thuở ấy trong cõi Diêm-phù-đề có hai hạng người, cũng theo ý của thí dụ này.

Câu “nay ông hãy chú ý lắng nghe, khéo suy xét kỹ và ghi nhớ”[51] là kết lại phần hứa khả.

Phần [đại chúng] thọ nhận chỉ ý [của Phật thì rõ ràng] như kinh văn [có thể hiểu được].

KINH VĂN

Đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Pháp vi diệu này, chư Phật Như Lai đúng thời mới thuyết, như hoa ưu-đàm-bát đúng thời chỉ nở một lần. Này Xá-lợi-phất! Các ông nên tin lời Phật thuyết dạy, không hề hư dối. Xá-lợi-phất! Chư Phật tùy chỗ thích hợp mà thuyết pháp, ý nghĩa khó nhận hiểu.”

Từ câu “pháp vi diệu này” trở đi là nội dung chính của phần thuyết giảng rộng. Kinh văn chia làm hai phần.

Phần thứ nhất gồm bốn lượt nói về chư Phật,[52] tức là giảng rộng về quyền thật của chư Phật ở phần trước.

Phần thứ hai nói về Phật Thích-ca, tức là giảng rộng về quyền thật của Phật Thích-ca đã nói ở trước.

Phần trước kinh văn chỉ có ít câu, đó là sơ lược về văn; nói chung về chư Phật, đó là sơ lược về người; chỉ nói trừ ba thừa, hiển bày một thừa, đó là sơ lược về nghĩa. Trong phần này kinh văn nhiều đoạn nhiều câu, đó là mở rộng về văn; 5 lần nói về Phật,[53] đó là mở rộng về người; giảng giải thành 6 ý nghĩa, đó là giảng rộng về nghĩa.

Sáu ý nghĩa đó bao gồm: Thứ nhất, xưng tán chánh pháp [của Phật] là ít có. Thứ hai, [Phật] giảng thuyết không hư dối. Thứ ba, trừ bỏ pháp phương tiện. Thứ tư, chỉ bày pháp chân thật. Thứ năm, nêu 5 sự uế trược để giải thích về pháp quyền biến phương tiện. Thứ sáu, chọn trừ hư ngụy, nêu cao chân thật.

Xưng tán pháp thì làm sinh khởi sự tôn trọng. Giảng thuyết không hư dối thì ngăn chặn sự chê bai phỉ báng [của kẻ khác]. Khai mở phương tiện khiến [người nghe] không bám chấp Tiểu thừa. Chỉ bày lẽ chân thật khiến [người nghe] tỏ ngộ Đại thừa. Nêu 5 sự uế trược để chỉ rõ [nguyên do] buộc phải [phương tiện] bày ra ba thừa. Chọn lựa trừ bỏ hết thảy [các đối tượng] hư ngụy ắt còn lại chân thật.

Trong 5 phần [của lần thuyết giảng chánh pháp đầu tiên] này, mỗi phần đều có đủ 6 nghĩa [như trên] nhưng [lấy ý] trước sau bổ sung cho nhau nên không [cần] nêu ra đầy đủ. Đó là vì đức Như Lai khéo thuyết giảng, khiến cho [có những chỗ] lược bớt mà không thiếu sót, hoặc nói đến tột nghĩa nhưng câu văn vẫn không rườm rà. Lại nữa, 6 nghĩa này ở các phần trước và sau đều không có. Đại lược là như vậy.

PHẦN THỨ NHẤT

Phần thứ nhất có bốn lượt nói về chư Phật, chia làm hai ý. Trước tiên nói chung về chư Phật, sau đó [ba lượt] kể ra ba đời. Phần nói chung lẽ ra đủ 6 nghĩa, nay chỉ thấy có 4. Một là xưng tán chánh pháp, hai là [giảng thuyết] không hư dối, ba là trừ bỏ phương tiện, bốn là chỉ bày lẽ chân thật. Còn thiếu 2 nghĩa là chỉ về kinh văn phần sau.

Trong ý nghĩa xưng tán chánh pháp lại cùng lúc xưng tán cả pháp và thí dụ. Kinh văn nói “đúng thời mới thuyết”, là nói chư Phật đều xuất thế ở đời xấu ác có 5 sự uế trược, cho nên trước tiên đều phải tạm bày ra ba thừa, giống như đức Thế Tôn bây giờ. Sau hơn 40 năm mới bắt đầu hiển bày sự chân thật. Thời gian lâu xa hiếm có, cho nên nói là “đúng thời mới thuyết”. Thời gian rất lâu [Phật] không thuyết giảng [lẽ thật] là vì [biết rằng] người nghe chưa tin nhận nổi. Lúc chưa đúng thời, 5.000 người [trong hội] chưa lui ra. Nay lòng người đã có thể tin nhận, đã đúng thời [thuyết giảng], 5.000 người [không thích hợp] đã lui ra, nên [Phật] quyết định thuyết giảng pháp Đại thừa. Cho nên nói rằng “đúng thời mới thuyết”.

Hoa ưu-đàm (uḍumbara - 優曇), Hán dịch là hoa linh thụy (靈瑞), [nghĩa là loài hoa linh ứng báo điềm lành]. Loài hoa này 3.000 năm mới nở một lần, khi hoa nở thì nhất định có Kim luân Thánh vương[54] ra đời. [Nêu ví dụ hoa ưu-đàm là] biểu ý sau khi ba thừa đã được điều phục thuần thục mới thuyết giảng diệu pháp và thụ ký cho thành bậc Pháp Vương. Lại [có nghĩa là] sau khi đã vượt qua các vị của sữa đặc, sinh tô, thục tô rồi mới thuyết giảng vị đề-hồ[55]... [Lại nữa, tên linh thụy giải thích] theo quán tâm thì quán tâm tức trung [đạo], đó gọi là thy (điềm lành); pháp quán này thông suốt hết thảy các pháp, đạt đến thật tướng, đó gọi là linh (linh ứng). Đại lược là như vậy.

[Kinh văn nói] “các ông nên tin lời Phật” là khuyên thính chúng hãy tin tưởng vào pháp [Phật thuyết] không hề hư dối. Giáo lý này cực kỳ sâu xa, khác biệt với giáo lý [Phật dạy] trước đây; những lời này cực kỳ mầu nhiệm, khác với những lời [Phật nói] trước đây; pháp hành này cực kỳ rộng khắp, khác với pháp hành trước đây; người [trong pháp hội] này cực kỳ thù thắng, hơn hẳn người [nghe pháp] kém cỏi trước đây. Vì [Phật] quay lại chỉ ra 4 điều tạm bày trước đây[56] là thô sơ, kém cỏi, so với ngày nay tất cả đều là vi diệu, nhiệm mầu, sợ rằng chúng sinh khởi tâm hủy báng, nên mới khuyến khích [thính chúng] phải khởi lòng tin, tin vào người không hư dối [là đức Phật] sẽ thuyết giảng pháp không hư dối.

[Từ câu] “tùy chỗ thích hợp mà thuyết pháp”[57] trở đi là phần trừ bỏ phương tiện, chia ra ba ý là trừ bỏ, giải thích và kết luận. Trước tiên nêu rõ việc Phật tùy theo ba loại căn cơ mà [tạm] thuyết các phương tiện thích hợp, cho nên nói là “tùy chỗ thích hợp”, nhưng hàm ý của Phật ở nơi lẽ chân thật, chỉ là chúng sinh không thể hiểu ra, cho nên [kinh văn] nói “ý nghĩa khó nhận hiểu”.

KINH VĂN

“Vì sao vậy? Ta dùng vô số phương tiện, đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để giảng thuyết các pháp. Pháp ấy không thể suy lường phân biệt mà hiểu được, chỉ có chư Phật mới đủ khả năng thấu hiểu. Vì sao vậy? Chư Phật Thế Tôn chỉ vì duy nhất một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời.

[Từ câu] “Vì sao vậy?” là [bắt đầu nội dung] giải thích. Việc nêu lên pháp quyền biến của đức Phật hiện nay có thể giải thích cho phương tiện của hết thảy chư Phật. Vì trí tuệ khéo léo của chư Phật đồng như nhau, nên mượn [việc của đức Phật] ở đây mà giải thích về [chư Phật] ở những nơi khác.

[Kinh văn nói] “Ta dùng vô số phương tiện” để so sánh chư Phật tạm bày các pháp quyền biến cũng giống như vậy. Lại nói: “Pháp ấy không thể do suy lường phân biệt mà hiểu được.” Câu này có thể hiểu theo hai cách. Hoặc xem là kết lại phần trừ bỏ pháp quyền, hoặc xem là bắt đầu nội dung chính hiển bày lẽ thật.

Nếu nói kết lại phần trừ bỏ pháp quyền thì đó là ý Phật khó rõ biết, chỉ Phật với Phật mới có khả năng hiểu rõ. Người vâng thọ giáo pháp thấy có ba [thừa], chư Phật rõ biết là chỉ có một [Phật thừa] duy nhất mà thôi.

Nếu nói bắt đầu nội dung chính hiển bày lẽ thật, tức là câu này thuộc về đoạn văn sau. Đoạn văn này lại chia làm 5 ý. Thứ nhất là nêu pháp và người [thuyết pháp] thù thắng. Thứ hai là nêu ý xuất thế. Thứ ba là nêu lại [ý trước]. Thứ tư là phần giải thích chính. Thứ năm là phần kết lại, nêu pháp và người.

[Ý thứ nhất], nêu ra pháp vô phân biệt, chỉ có Phật mới rõ biết. Phật dùng trí vô phân biệt để hiểu rõ pháp vô phân biệt, đó chính là hiển bày pháp thật.

Từ câu “Vì sao vậy?” [lần thứ hai trong đoạn này] trở đi là ý thứ hai, nêu nghĩa xuất thế. Ở đây lại chia ra hai ý. Đầu tiên nêu tổng quát, tiếp theo phân tích từ ngữ.

Nêu tổng quát là nói hết thảy chư Phật đều giác ngộ tướng như thật, đều theo đạo chân thật này mà ứng hiện ra đời, chỉ để giúp cho chúng sinh đạt được thật tướng. Chỉ vì duy nhất một việc này mà [chư Phật] xuất hiện ở đời, không còn việc gì khác. Trừ ra thật tướng của các pháp, còn lại tất cả các pháp khác đều là việc của ma.

Phân tích từ ngữ là để giải thích, [như nói “một đại sự nhân duyên”].

Một là một thật tướng. Vì chẳng phải 5, chẳng phải 3, chẳng phải 7, chẳng phải 9, cho nên nói là một.

Đi là nói tánh của mt rộng lớn bao trùm, trùm khắp cả 5 [pháp], 3 [pháp], 7 [pháp], 9 [pháp], cho nên nói là lớn.

S là sự việc, là nói về oai nghi hình thức của chư Phật ra đời, cho nên gọi là sự.

Nhân duyên [là nguyên nhân và điều kiện], nghĩa là nói chúng sinh có căn cơ [riêng], do căn cơ ấy [thích hợp], chiêu cảm đến Phật nên gọi là nhân, Phật nương theo cơ [cảm] ấy mà ứng hiện [ra đời] nên gọi là duyên.

[“Một đại sự nhân duyên” này] là ý nguyện chính yếu [của chư Phật] khi xuất thế, nhưng nay có mở bày ba thừa chỉ là phương tiện giả lập để dẫn dắt mà thôi. Cũng như có người muốn nhận lấy thì trước tiên nên đưa cho họ, [sau đó mới có thể dẫn dắt]. Tuy [Phật] thuyết dạy đủ mọi đường hướng, nhưng kỳ thật chỉ là một [Phật] thừa, chính là ý nghĩa này.

KINH VĂN

“Xá-lợi-phất! Thế nào là chư Phật Thế Tôn chỉ vì duy nhất một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời?

Từ câu “Xá-lợi-phất! Thế nào là...” trở đi là ý thứ ba, [nêu lại ý trước]. Vì [đức Phật] sắp nêu ra [giảng giải] phân biệt, nên nêu lại đề mục [đã nói] trước để bắt đầu sự giải thích. Lại nữa, đại sự [xuất thế] này là việc chư Phật xem trọng [nên nêu lại], như trong [Pháp hoa] luận thích nói rằng “Phụ vương muốn được nghe tên Thái tử nhiều lần, [nên người hầu cận] lặp đi lặp lại không biết bao nhiêu lần [mà vua nghe] không chán”. Đại lược là như vậy.

KINH VĂN

Chư Phật Thế Tôn vì muốn giúp chúng sinh khai mở tri kiến Phật để được thanh tịnh nên xuất hiện ở đời; muốn chỉ bày cho chúng sinh thấy được tri kiến Phật nên xuất hiện ở đời; muốn khiến cho chúng sinh tỏ ngộ tri kiến Phật nên xuất hiện ở đời; muốn giúp cho chúng sinh thể nhập đạo tri kiến Phật nên xuất hiện ở đời.

Từ câu “chư Phật Thế Tôn” trở đi là ý thứ tư, vào phần giải thích chính. Trước tiên [ở đây] sẽ nêu ra giải thích của các bậc thầy khác.

Các nhà cựu giải nêu ra bốn điều nhất, đó là quả nhất (果一), nhân nhất (人一), giáo nhất (教一) và nhân nhất (因一).

Về quả nhất, hai câu đầu là dựa vào người nói (thuyết giảng),[58] hai câu sau là dựa vào người nghe (tiếp nhận).[59]

Về người thuyết giảng, một lần nói qua khai mở pháp tu nhân, thuyết giảng sơ lược về lý của quả, nên trước tiên khai mở tri kiến Phật. Rốt sau đạt quả là giảng rộng hiển bày lý của quả, chỉ bày tri kiến Phật.

Về người tiếp nhận, trước đã sơ lược khai mở pháp tu nhân, nên nhờ đó mới được nhận hiểu, [ngộ tri kiến Phật]. Sau đạt quả thì hiểu rộng vào sâu lý thú, [nhập tri kiến Phật].

Nay không vận dụng cách giải thích này. Vì sao? Kinh văn trong cả bốn câu đều nói [ý nghĩa] là “vì chúng sanh”,[60] tức ý chính là chúng sinh đương cơ được lợi ích, không liên quan đến người giáo hóa, nên phải hiểu [4 câu đều] là nói đối tượng giáo hóa được khai ngộ, sao lại phân chia ra hai câu [nói riêng về] người giáo hóa khai thị? Lại nữa, ngay nơi lúc thuyết pháp tu nhân, khai thị [trừ bỏ] ba thừa, hiển bày Nhất thừa, sao có thể tách ra 2 câu nói về việc đạt quả? Nhân duyên còn chưa hội đủ để thành quả, sao có thể nói trước? Nếu là như vậy thì lúc vừa khởi sinh 6 điềm lành, Phật còn chưa xuất định nên xem là thuyết sơ lược; lúc 5.000 người [không hợp căn cơ] chưa lui ra khỏi pháp hội nên xem là thuyết rộng. Nếu hai điều ấy đã không hợp lý thì sao có thể nói về việc đạt quả như trên? [Các Bồ Tát] phương dưới còn chưa xuất hiện,[61] phân thân [của Phật] còn chưa hội lại, sao có thể lấy hai câu nói về pháp tu nhân mà cho là đạt quả?

Kế tiếp [là cách giải thích của ngài] Quang Trạch, cho rằng câu đầu tiên hàm nghĩa “khai nhập, khai xuất”. [Khai nhập là nói] trước đây dùng phương tiện thuyết giảng ba thừa để [giúp chúng sanh] trừ 5 sự uế trược. [Khai xuất] là mở ra chỉ bày giáo pháp giác ngộ Đại thừa, [giúp chúng sanh] rõ biết đạo lý. Trước đây tuy [đức Phật] vì chúng sinh [tạm] khai mở thuyết giảng giáo lý này nhưng không nói rõ nguyên do, đến nay lại chỉ bày việc so sánh giáo lý này giúp sinh ra văn tuệ (trí tuệ từ nghe biết). Tuy nghe biết nhưng chưa ngộ hiểu được nguyên do, nên sau đó [Phật] lại phân biệt giảng rộng để khai mở tư tuệ (trí tuệ từ việc tư duy, suy xét). Sau khi đã đủ lòng tin, nhận hiểu được ý nghĩa, [Phật liền] làm cho phát tâm học tri kiến Phật, khiến đạt được tu tuệ (trí tuệ từ sự tu tập), thể nhập đạo lý, tri kiến Phật.

Nay cũng không vận dụng cách giải thích này. Thuyết này đã lập luận giống như trước đây, gọi đoạn này là “quả nhất”,[62] thì lẽ ra cả bốn câu [trong đoạn] nên được hiểu cùng theo nghĩa quả, vì sao lại dùng nghĩa tam tuệ[63] để giải thích kinh văn? Như vậy thì nhân với quả mâu thuẫn, trước với sau trái nghịch.

Lại nữa, tam tuệ có nhiều loại khác nhau. Kinh này chính thức phá bỏ Nhị thừa, chắc chắn không thể dùng loại tam tuệ của Tạng giáo. Phương tiện của Bồ Tát cũng đồng với Nhị thừa, thảy đều là ý nghĩa theo Thông giáo, cũng không thể dùng được. Còn nếu là Tam tuệ của Biệt giáo thì là pháp Bồ Tát, chẳng phải pháp Phật. Nếu cho là tam tuệ của Viên giáo thì tam tuệ Viên giáo là chưa khai mở tri kiến Phật, không giải thích rõ được nghĩa kinh. Nếu là tam tuệ của các tông phái khác thì lại càng xa rời ý nghĩa hơn nữa. [Lại nữa,] nếu cho là tam tuệ của Viên giáo thì ý nghĩa “quả nhất” không thành tựu. [Cho nên] tất cả [những nghĩa trên] đều không thể vận dụng. Đại lược là như vậy.

Tiếp theo, các luận sư phái Địa luận[64] nói rằng: “[Những người từng phát tâm Bồ-đề trước chư Phật nhiều như] số cát của 5 con sông Hằng [thì mới có thể] hiểu được 8 phần trong 16 phần ý nghĩa [của kinh điển Đại thừa],[65] tức là địa vị tam thập tâm [trước khi vào sơ địa][66] được xem là “khai mở [tri kiến Phật]”. Từ sơ địa đến lục địa, dứt hết kiến hoặc và tư hoặc, sự nhận hiểu chuyển thành sáng tỏ rõ ràng, đó là “chỉ bày [tri kiến Phật]”. Từ thất địa đến bát địa, [đối với] các pháp không và hữu đều quán chiếu không ngăn ngại, đó là “tỏ ngộ [tri kiến Phật]”. Đạt đến thập địa được xem là “thể nhập tri kiến Phật”. [Các vị này lại] dẫn kinh nói rằng thập địa gọi là nhãn kiến. [Lập luận này] nay cũng không dùng đến.

Vì sao vậy? Kinh [Pháp hoa] này giảng rõ việc khai mở chỗ thấy biết (tri kiến) của Phật. Phật dùng nhất thiết chủng trí để biết (tri), dùng Phật nhãn để thấy (kiến), [cho nên] khai mở được [Nhất thiết chủng] trí và [Phật] nhãn mới gọi là tri kiến Phật. Làm sao có thể lấy trường hợp [người từng phát tâm trước chư Phật nhiều như] số cát 5 con sông Hằng, chỉ hiểu được 8 phần [trong 16 phần ý nghĩa của kinh điển Đại thừa], hãy còn chưa vào được sơ địa mà gọi là khai mở [tri kiến Phật]? Như chỗ khai mở của lập luận này thì không phải là khai mở Phật nhãn; chỗ rõ biết [của lập luận] này cũng không phải chỗ rõ biết của Nhất thiết chủng trí. Vì không phù hợp với [ý nghĩa] kinh này nên không vận dụng. Đại lược là như vậy.

Có người giải thích rằng: Câu đầu tiên là nêu về lý, 3 câu sau là lược giải. [Lập luận này cho rằng] 8 nỗi khổ, 5 sự uế trược che chướng quả vị hiện tại nên gọi là “đóng”; nay giáo pháp [Pháp hoa] này dứt trừ 5 sự uế trược, làm hiển lộ tri kiến của quả Phật nên gọi là khai mở. Cấu uế dứt trừ, thật lý hiển bày nên gọi là thanh tịnh. Ba câu theo sau là nói văn, tư, tu [tam tuệ]. Sự phản biện đối với lập luận này cũng giống như với lập luận trước.

Có người nói rằng: Biệt giáo trong ba thừa là “khai mở [tri kiến Phật]”, Thông giáo trong ba thừa là “chỉ bày tri kiến Phật”. Nêu hạn chế [của Nhị thừa], xưng dương [hàng Bồ Tát][67] là “tỏ ngộ [tri kiến Phật]”. [Đến Phật thuyết] Pháp hoa là “thể nhập tri kiến Phật]”.

Lại có người giải thích rằng: Thông giáo trong ba thừa là “khai mở tri kiến Phật”, nêu hạn chế [của Nhị thừa], xưng dương [hàng Bồ Tát] là “chỉ bày tri kiến Phật”, [Phật thuyết kinh] Vô Lượng Nghĩa là “tỏ ngộ tri kiến Phật”, [thuyết kinh] Pháp hoa là “thể nhập tri kiến Phật”.

Hai cách giải thích trên cắt riêng ba câu hướng về các kinh khác, xén một câu đưa về Pháp hoa. Cắt xén, làm sai lệch [ý nghĩa kinh văn], gây tổn hại, lừa dối [người đời sau], lỗi này thật quá lớn.

Có người nói rằng: [Đạt được địa vị] tam thập tâm là “khai mở tri kiến Phật]”. Từ sơ địa đến lục địa là “chỉ bày tri kiến Phật”. Từ thất địa đến cửu địa là “tỏ ngộ tri kiến Phật”. Lên đến thập địa là “thể nhập tri kiến Phật”. Người này dựa theo Thông giáo nhưng lại gán ghép với Biệt giáo nên mới nói ra lời như vậy, chưa thấy được rằng sự kỳ đặc khác thường của Pháp hoa có lẽ nào còn đợi xưng tán sao?

Có người dẫn kinh Hoa nghiêm, kinh [Bồ Tát] Anh lạc, kinh Nhân vương, Nhiếp Đại thừa quyển 17, [Thập] Địa kinh luận quyển 5, nói rằng hết thảy phàm phu đều có đủ 52 giai vị, nên trước khi vào sơ địa [của Thập địa] có 40 tâm, sao không nêu ra? Người này dẫn sai kinh Hoa nghiêm, vì kinh Hoa nghiêm không giảng về Thập tín. Lại ví như các kinh đều nêu rõ trước khi lên đến Thập địa có đủ giai vị 40 tâm, thì cũng đều chẳng phải chỗ rốt ráo của đạo, vì sao lại dùng 40 tâm ấy để giải thích việc khai mở tri kiến Phật? [Cho nên] đều là những cách nói lan man không đúng.

Có người dẫn [Pháp hoa luận] thích nói rằng bốn trí[68] tổng, biệt đều cùng lúc đạt được. Không nên dùng lập luận này để giải thích [ý nghĩa] “khai, thị, ngộ, nhập”, vì khai, thị, ngộ, nhập dường như có sâu, cạn. Lại nữa, bốn trí ở địa vị cao, [còn ý nghĩa] khai và thị lại thông từ cạn đến sâu, không nên so sánh. [Lập luận của] người này chỉ thấy chỗ cùng lúc [đạt được] bốn trí của [Pháp hoa] luận thích mà không thấy chỗ cùng lúc của “khai, thị” [trong kinh Pháp hoa].

Có người giải thích rằng: Chẳng không chẳng có là “khai mở [tri kiến Phật]”, có thể không có thể có là “chỉ bày [tri kiến Phật]”; [thấy được] không và có chẳng phải hai, chẳng khác nhau là “tỏ ngộ [tri kiến Phật]”; rõ biết chỗ không và có chẳng phải khác mà khác là “thể nhập [tri kiến Phật]”. [Lập luận của] người này dựa theo Nhị đế[69] để giải thích, vốn còn chưa vượt ra khỏi hàng Nhị thừa, nói gì đến chuyện phù hợp ý nghĩa với kinh Pháp hoa.

Có người nói: Đạt được lý Tam đế[70] là “khai mở [tri kiến Phật]”; phân biệt sáng tỏ Tam đế là “chỉ bày [tri kiến Phật]”; không thấy Tam đế có đồng có khác, đó là “tỏ ngộ [tri kiến Phật]”; tùy thuận nhân duyên xuôi theo dòng [Thánh đạo], đó là “thể nhập [tri kiến Phật]”. [Lập luận của] người này dựa theo phần ngoại vi của Tam đế để hiểu nghĩa, vốn còn chưa vượt khỏi pháp của hàng Bồ Tát, nói gì đến pháp Phật.

Có người giải rằng: [Về ý nghĩa] tri kiến Phật thì tướng chung của Nhất thiết trí là “tri”, tướng riêng của Nhất thiết trí là “kiến”. Điều này cũng không đúng. [Pháp hoa] luận thích nêu rõ rằng Nhất thiết trí là trí của hàng Thanh văn, Đạo chủng trí là trí của hàng Bồ Tát, Nhất thiết chủng trí là trí của Phật. Cách lập luận này là chọn riêng Nhất thiết chủng trí, không phải ba trí cùng trong một tâm. Sao lại có thể đem chỗ hiểu biết của hàng Nhị thừa tách rời với chỗ thấy biết của Phật để giải thích về chỗ thấy biết rốt ráo viên mãn của Phật?

Lại có người giải thích: [Khởi sinh] tận trí,[71] hết thảy phiền não trở nên thanh tịnh gọi là “tri”; [chứng đắc] vô sinh trí,[72] hết thảy nhân quả khổ não trói buộc rốt cùng đều không còn sinh khởi gọi là “kiến”. [Lập luận của] người này lấy giáo nghĩa về danh hiệu Phật của Thông giáo để giải thích nghĩa rốt ráo của Phật, hết thảy đều không phù hợp.

Như trên, các vị thầy đều nhọc công vô ích trích dẫn đủ điều trong kinh văn, [nhưng] tất cả đều không thấy được ý nghĩa chính của kinh Pháp hoa.

Luận Pháp hoa [huyền nghĩa] giải thích [bốn câu kinh này] như sau:[73] Thứ nhất là nghĩa vô thượng, ngoài Nhất thiết chủng trí thì không còn chuyện gì khác nữa. Như kinh văn nói khai mở tri kiến Phật, vì muốn cho chúng sinh được thanh tịnh nên [chư Phật] xuất hiện ở đời. Thứ hai là tương đồng, [hết thảy] hàng Thanh văn với Phật Bích-chi, pháp thân, Phật tánh đều bình đẳng như nhau. Như kinh văn nói, muốn chỉ bày cho chúng sinh về tri kiến Phật nên [chư Phật] xuất hiện ở đời, bởi vì Pháp thân Phật tánh [của chúng sanh] rốt cùng [bình đẳng như nhau] không có khác biệt. Thứ ba là nghĩa không biết, là nói hàng Nhị thừa không biết được rằng cứu cánh duy nhất rốt ráo chỉ có một Phật thừa. Như kinh văn nói, vì muốn [cho chúng sanh] tỏ ngộ tri kiến Phật, nên [chư Phật] xuất hiện ở đời. Thứ tư là vì muốn cho [chúng sanh] chứng đắc địa vị bất thối chuyển nên [chư Phật] thị hiện, [chỉ bày cho chúng sanh] vô số trí nghiệp. Như kinh văn nói, muốn cho chúng sinh thể nhập được tri kiến Phật.

Luận này giải thích [bốn câu kinh văn] tuần tự. Trước tiên khai mở Phật tri kiến (khai) là vô thượng. Tiếp đến chỉ bày cho thấy (thị) ba thừa đều có pháp thân Phật tánh bình đẳng như nhau. [Chúng sanh] tuy đã biết rõ trí tuệ Phật là vô thượng, nhưng chỉ sợ rằng [trí tuệ ấy] riêng Phật mới có, cho nên phần tiếp theo nêu rõ cả ba thừa đều có. Tuy ba thừa đều sẵn có [trí tuệ Phật], nhưng hàng Nhị thừa không biết điều đó, nên [Phật phải] chỉ bày cho rõ biết, tỏ ngộ (ngộ). Tuy đã rõ biết [có trí tuệ Phật] rồi nhưng chưa đạt địa vị không thối chuyển. Cho nên [câu] thứ tư [là nghĩa] khiến cho đạt địa vị không thối chuyển (nhập).

Thứ hai nói về [ý nghĩa đối với] hàng Bồ Tát. [Nghĩa] khai mở [tri kiến Phật] (khai) cũng giống như trước đã nói. Nghĩa chỉ bày là nói các vị Bồ Tát còn có nghi ngờ, [Phật] chỉ bày (thị) cho rõ biết để theo đó như thật tu hành. Nghĩa nhận hiểu, tỏ ngộ (ngộ) là đối với người chưa phát tâm Bồ-đề liền khiến cho phát tâm. Nghĩa thể nhập (nhập) là đối với người đã phát tâm Bồ-đề rồi liền khiến cho thể nhập vào chánh pháp.

Thứ ba nói về [ý nghĩa đối với] phàm phu. [Nghĩa] khai mở [tri kiến Phật] (khai) cũng giống như trước đã nói. Nghĩa chỉ bày (thị) là chỉ bày cho biết [phàm phu cũng sẵn] có pháp thân Phật tánh. Nghĩa nhận hiểu, tỏ ngộ (ngộ) là khiến cho ngoại đạo và chúng sinh đều nhận hiểu, giác ngộ. Nghĩa thể nhập (nhập) là khiến cho thể nhập vào Đại Bồ-đề.

Các vị thầy ngày nay đưa ra 4 cách giải thích, cũng không trái ngược với luận. Luận giải thích từng câu một, nay thì mỗi câu đưa ra 4 cách giải thích. Luận nêu rõ việc chứng đạt địa vị không thối chuyển, nay giải thích theo 4 giai vị. Luận nêu rõ biết Như Lai có thể chứng thật nghĩa, nay giải thích thành 4 trí. Luận nêu nghĩa tương đồng [bình đẳng], nay giải thích theo quán tâm. Luận nêu việc không rõ biết chỗ rốt ráo, nay giải thích thành 4 môn. Đại lược là như vậy.

Nay giải thích vô lượng pháp, hiển thật đều là “nhất”. Như trong [Pháp hoa] huyền nghĩa nêu 10 điều kỳ diệu (thập diệu), chính là 10 mục nhất (thập nhất). Nên thuận theo các nhà cựu giải thì tạm xem là 4 loại nhất. Nếu là vô lượng nhất thì [bất kỳ] một sắc, một hương nào cũng đều là Trung đạo. Ý nghĩa này có thể rõ biết.

Nếu nêu 10 mục nhất (thập nhất) thì trong kinh văn đều có đủ, tuy chẳng theo thứ tự nhưng 10 nghĩa vẫn đủ không thiếu. [Kinh văn nói:] “Vì sao vậy? Ta dùng vô số phương tiện, đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để giảng thuyết các pháp.” Đây là câu kinh [nói việc tạm] bày ra quyền thừa phương tiện. Từ câu “pháp ấy không thể do suy lường phân biệt mà hiểu được” là hiển bày “lý nhất”. Câu “chỉ có chư Phật mới đủ khả năng thấu hiểu” là hiển bày “trí nhất”. Câu “chỉ vì duy nhất một đại sự” cần phân biệt kỹ, nói “một” đó là lý, “đại” tức là trí, “sự” tức là hành. Do nơi lý phát khởi được trí, do nơi trí dẫn dắt hành. Suy theo nghĩa này thì hiểu đây là hiển bày “hành nhất”. [Về nghĩa] tri kiến, trí tuệ hiểu rõ lý [là tri], mắt nhìn thấy rõ pháp thật [là kiến]. Rõ pháp thật vô vi tức không còn phân biệt, do vô vi mà có sự sai biệt. Dựa theo nghĩa tri kiến này mà luận giải về “khai, thị, ngộ, nhập”, dùng chỗ giản lược để suy rộng ra thì ắt có 40 giai vị. Đây là hiển bày “vị nhất”.

Lại [có thể] lấy phần kết bốn câu để nêu rõ nghĩa “nhất”. [Kinh nói] “một” tức là pháp thân, “đại” tức là Bát-nhã, “sự” tức là giải thoát. Tạng bí mật này tức là hiển bày “tam pháp nhất”. “Xuất hiện ở đời” là hiển bày “cảm ứng nhất”. “Chỉ giáo hóa toàn là Bồ Tát” là hiển bày “quyến thuộc nhất”. “Hết thảy việc làm” là hiển bày “thần thông nhất”. “Mục đích duy nhất là dùng tri kiến Phật để chỉ bày khai ngộ chúng sanh”, đó là hiển bày “lợi ích nhất”. “Chỉ dùng một Phật thừa vì chúng sinh thuyết pháp”, đây là hiển bày “thuyết pháp nhất”.[74]

[Như vậy,] kinh văn hoàn toàn phù hợp, tạo niềm tin cho ý nghĩa [Thập nhất] nói trên.[75] Nếu như giản lược thuận theo các nhà cựu giải thì nói 4 mục nhất (Tứ nhất). Tuy vẫn cùng số mục nhưng ý nghĩa [xưa và nay] khác nhau.

Các nhà cựu giải nói “quả nhất” (果一), ngày nay nói “lý nhất” (理一), là y theo nghĩa kinh và văn kinh. Y theo nghĩa kinh, vì nếu không có “lý nhất” thì mọi việc [nói ra] đều điên đảo, ắt là ma thuyết, chẳng phải kinh Phật, cho nên cần có “lý nhất”. Y theo văn kinh là trong kinh nói “tri kiến Phật”, nay hiểu là chỗ thấy, chỗ biết [của tự thân mỗi người]. Chỗ thấy ấy chính là lẽ chân thật, chỗ biết ấy là cảnh ngoài. Cảnh chân thật tức là lý thật tướng, cho nên gọi là “lý nhất”.

Các nhà cựu giải nói “nhân nhất” (因一), ngày nay nói “hành nhất” (行一). Chữ nhân (因) có những nghĩa khác nhau, còn dùng chữ “hành nhất” thì bao quát, thâu nhiếp [nghĩa] nhân quả, cho nên nói “hành nhất”.

Về “nhân nhất” (人一) và “giáo nhất” (教一) thì cựu giải với ngày nay đều hiểu và dùng chữ giống nhau.

Nay tạm theo chỗ nói giản lược, dùng “tứ nhất” [như trên] để giải thích kinh văn.

Trước hết giải thích về “lý nhất”, lại có bốn ý. Thứ nhất là giải thích theo “tứ vị”, thứ hai là theo “tứ trí”, thứ ba là theo “tứ môn” và thứ tư là theo “quán tâm”.

Giải thích theo tứ vị

Thứ nhất, giải thích theo “tứ vị”. Cảnh chân thật thì không thể thấy biết, phải dựa vào con mắt trí tuệ mới có thể thấy biết. Bốn loại mắt[76] với hai trí [quyền và thật] đều không thể thấy biết, chỉ có Phật nhãn với Nhất thiết chủng trí mới có thể thấy biết [chân thật]. Kinh văn nói: “Vì muốn giúp cho chúng sinh khai mở tri kiến Phật”, [đó là nói] không bàn đến quả Phật, [dù là chúng sinh vẫn có thể] tự thấy biết. Nếu nói nghiêng về quả Phật tức là bỏ mất chúng sinh, nếu chỉ nói về chúng sinh tức là không có tri kiến Phật, cho nên không thể bám chấp thiên lệch. Người tu hành thuộc Tạng giáo, Thông giáo và Biệt giáo chỉ là chúng sinh, chưa có Phật nhãn, Phật trí, nên không thể thấy biết thật tướng. Bốn địa vị[77] thuộc Viên giáo cũng vẫn còn là chúng sinh. Lại nữa, được một phần Phật nhãn, Phật trí tức là thành nghĩa chúng sinh, mà nghĩa tri kiến cũng thành. Cho nên dựa theo bốn địa vị này để giải thích “lý nhất”.

Cũng như điềm lành trời mưa xuống bốn loại hoa, đó là biểu hiện muôn điều lành đều quy về [thành tựu] 4 địa vị (Tứ vị), nương vào hoa là 4 địa vị này để hướng đến quả là địa vị Phật. Cho nên dựa theo 4 địa vị để hiển bày làm rõ lý.

[Về nghĩa] “khai mở [tri kiến Phật]”, chính là nói hàng Thập trụ, ban sơ phá trừ vô minh, khai mở Như Lai tạng, thấy được lý thật tướng. Nhưng vì sao tánh đức của lý chân thật lại bị nhiễm trước bởi [kiến hoặc, tư hoặc của] Thông giáo và [vô minh hoặc] của Biệt giáo? Điều này khó có thể rõ biết. Hàng sơ tâm có thể thành tựu đầy đủ đức tin (viên tín), có thể thọ học đầy đủ (viên thọ), có thể điều phục trọn vẹn (viên phục), nhưng chưa thể đoạn trừ [mê hoặc nhiễm ô] thì không gọi là “khai mở [tri kiến Phật]”. Trong tâm [nỗ lực] tăng thêm quán hạnh, bên ngoài nhờ mưa pháp giúp sức thêm, phá trừ được những kiến hoặc, tư hoặc và vô minh hoặc ẩn tàng, hiển xuất tánh chân thật tu tập, tri kiến sáng rõ mở bày phát triển, như mặt trời mọc lên bóng tối tiêu trừ, mắt có thể nhìn rõ, cho nên gọi là “khai mở [tri kiến Phật]”.

Nương vào sự tu tập để phá trừ mê hoặc nên gọi là làm cho thanh tịnh. Kinh Nhân vương[78] nói rằng: “Nhập vào lý Bát-nhã gọi là trụ.” Trụ nơi Thập trụ là giai vị [biểu trưng bằng] hoa nhỏ màu trắng.[79]

[Về nghĩa] “chỉ bày [tri kiến Phật]”, chính là nói khi đã dứt trừ chướng hoặc, chân thể của tri kiến liền hiển lộ. Thể ấy gồm đủ muôn đức. Hết thảy tánh đức trong pháp giới đều hiển thị phân biệt sáng tỏ nên gọi là “chỉ bày”. Đây tức là Thập hạnh, là giai vị [biểu trưng bằng] hoa lớn màu trắng.[80]

[Về nghĩa] “tỏ ngộ [tri kiến Phật]”, chính là nói khi chướng hoặc dứt trừ, chân thể đã hiển lộ, muôn hạnh trong pháp giới đều sáng tỏ, sự lý dung thông, rốt ráo chỉ có một đường [thẳng lên quả Phật]. Các vị thầy dạy Nhiếp Đại thừa luận nói: “Trí tuệ đúng như lý, trí tuệ đúng như xứng lượng.” Nay [đạt đến chỗ] lý và lượng không còn phân biệt, cho nên gọi là tỏ ngộ. Đây tức là Thập hồi hướng, là giai vị [biểu trưng bằng] hoa nhỏ màu đỏ.[81]

[Về nghĩa] “thể nhập [tri kiến Phật]”, chính là nói khi sự và lý đã dung thông, được tự tại không ngăn ngại, tùy thuận nhân duyên, tự tại xuôi dòng [Thánh đạo], từ sơ phát tâm đến địa vị Diệu giác,[82] thể nhập vào biển Nhất thiết trí.[83] Như Nhiếp Đại thừa luận nói: “Đúng như lý, đúng như xứng lượng, thông đạt không ngăn ngại.”[84] Sự thấy biết đúng như lượng có thể duy trì muôn tánh đức, sự thấy biết đúng như lý có thể ngăn ngừa mê hoặc. Đây tức là Thập địa, là giai vị [biểu trưng bằng] hoa lớn màu đỏ.[85]

Tuy nhiên, với địa vị nhiệm mầu của đạo viên mãn thì trong một địa vị đã hàm chứa đầy đủ công đức của 41 địa vị. Chỉ riêng một pháp “khai” tức gồm đủ cả “thị, ngộ, nhập”, bình đẳng như nhau, rốt cùng chẳng phải [khởi lên từ một] tâm nào khác, chỉ thấy biết đúng như lẽ thật, không có tướng phân biệt cạn sâu, [chỉ vì] muốn hiển bày tri kiến đúng như xứng lượng mà [tạm] phân biệt thành bốn địa vị. [Thật ra thì lúc] phát tâm và [khi thành tựu] rốt ráo, [hai tâm ấy] không hề khác biệt. Nhưng trong hai tâm ấy thì tâm lúc mới phát tâm [được xem] là khó. Khi đã nói về việc khó dễ, tức là rõ biết có sơ tâm với tâm thành tựu rốt ráo, nên cần có sự chỉ bày nhắc nhở sâu cạn khác nhau, cũng giống như mặt trăng trước sau vẫn luôn tròn đầy nhưng vào ngày đầu tháng với giữa tháng có sự sai biệt. Chỗ thấy biết của 4 địa vị đều soi chiếu sáng tỏ thật tướng nhưng giảng thuyết về khai, nhập... nên thành khác biệt. Đại lược là như vậy.

Giải thích theo tứ trí

Thứ hai là [giải thích] dựa theo tứ trí. Nay [luận này] sẽ dùng tứ trí của Viên giáo để đối chiếu với tứ vị, không giống như cách giải thích của Thông giáo trong [giáo lý] Bát-nhã.

[Trí] thứ nhất là Đạo tuệ, thấy được thật tánh của đạo. Từ trong thật tánh ấy khai mở tri kiến Phật, [đây là nghĩa “khai mở tri kiến Phật”].

[Trí] thứ hai là Đạo chủng tuệ, rõ biết các tướng giải hoặc khác nhau của đạo trong 10 pháp giới. Mỗi [sự rõ biết] như vậy đều chỉ bày tri kiến Phật, [đây là nghĩa “chỉ bày tri kiến Phật”].

[Trí] thứ ba là Nhất thiết trí, rõ biết hết thảy các pháp đều cùng một tướng tịch diệt, tịch diệt tức là nhận hiểu tri kiến Phật, [đây là nghĩa “tỏ ngộ tri kiến Phật”].

[Trí] thứ tư là Nhất thiết chủng trí, rõ biết hết thảy các pháp đều cùng một tướng tịch diệt, cho đến đủ mọi tướng mạo của các hành đều nhận biết rõ, tức là thể nhập vào tri kiến Phật, [đây là nghĩa “thể nhập tri kiến Phật”].

Lại nữa, Đạo tuệ [rõ biết] đúng như lý nên gọi là “khai”, Đạo chủng tuệ đúng như xứng lượng nên gọi là “thị”, Nhất thiết trí thì lý và lượng không phân biệt thành hai nên gọi là “ngộ”, Nhất thiết chủng trí thì lý và lượng cùng soi chiếu nên gọi là “nhập”.

Đây là nói dựa theo lẽ thật vốn không có sâu cạn, do phân biệt thành sâu cạn.

Giải thích theo tứ môn

Thứ ba là [giải thích dựa theo] tứ môn[86] của Viên giáo. Nhìn chung có bốn trường hợp. Đối với cửa pháp không, một pháp không thì hết thảy các pháp đều không, tức là nghĩa khai mở tri kiến Phật. Đối với cửa pháp có, một pháp có thì hết thảy các pháp đều có, tức là nghĩa chỉ bày tri kiến Phật. Đối với cửa pháp cũng không cũng có thì hết thảy các pháp vừa là không vừa là có, tức là nghĩa tỏ ngộ tri kiến Phật. Đối với cửa pháp chẳng phải không chẳng phải có thì hết thảy các pháp đều chẳng phải không chẳng phải có, tức là nghĩa thể nhập tri kiến Phật. [Đối với] chủ thể [quán chiếu] thông suốt thành bốn, đối tượng [quán chiếu] tức chỉ là một. [Cho nên,] khai, thị, ngộ, nhập là cửa ngõ [quán chiếu] thông suốt; chỗ biết, chỗ thấy là lý của đối tượng [quán chiếu].

Giải thích theo quán tâm

Thứ tư là [giải thích] theo quán tâm. Quán nơi tâm tánh thì lý tam đế[87] không thể nghĩ bàn. Pháp quán này sáng suốt thanh tịnh nên gọi là “khai”. Tuy là không thể nghĩ bàn nhưng có thể phân biệt rõ không, giả và trung đế. Sáng tỏ rõ ràng không ngăn lấp nên gọi là “thị”. Các tâm không, giả và trung tuy 3 mà 1, tuy 1 mà 3, gọi là “ngộ”. Các tâm không, giả, trung chẳng phải không, giả, trung mà đồng soi chiếu không, giả, trung, gọi là “nhập”. Đây gọi là 3 pháp quán trong 1 tâm [đồng nhất] nhưng phân chia thành khai, thị, ngộ, nhập khác nhau.

Sở dĩ dùng 4 cách giải thích [như trên] là vì thấy được lý thật nhờ chứng địa vị, thiết lập địa vị nhờ phát khởi trí tuệ, phát khởi trí tuệ nhờ nơi pháp môn, thông suốt pháp môn nhờ nơi quán chiếu. [Cho nên,] có quán chiếu ắt pháp môn được thông suốt; pháp môn thông suốt nên trí tuệ thành tựu; trí tuệ thành tựu nên địa vị được thiết lập, địa vị thiết lập nên thấy được lý thật; thấy được lý thật nên gọi đó là “lý nhất”.

KINH VĂN

Xá-lợi-phất, đó là chư Phật chỉ vì duy nhất một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời.

Từ câu “Xá-lợi-phất, đó là chư Phật chỉ vì duy nhất một đại sự...” trở đi là kết lại ý nghĩa “lý nhất”. Trước đây [Phật] dùng phương tiện thuyết giáo, cũng luận ý nghĩa “khai, thị, ngộ, nhập” nhưng chẳng phải tri kiến Phật, cho nên gọi là quyền. Bây giờ [thuyết giảng Pháp hoa] nêu rõ tri kiến Phật nên là thật. Thật ấy tức là “lý nhất”.

KINH VĂN

Đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Chư Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ Tát, hết thảy việc làm thường chỉ vì một mục đích duy nhất là dùng tri kiến Phật để chỉ bày, khai ngộ chúng sinh. Xá-lợi-phất! Như Lai chỉ dùng một Phật thừa vì chúng sinh thuyết pháp, không có thừa nào khác như Nhị thừa, Tam thừa.

Từ câu “Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: Chư Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ Tát...” chính là nêu nghĩa “nhân nhất” (人一). Nói chung, trước đây Phật dùng phương tiện nói là giáo hóa [người trong] Tam thừa, nhưng nói theo lẽ thật thì chỉ giáo hóa các Bồ Tát. Như đứa con lưu lạc cùng khốn tự cho mình là kẻ hèn hạ bên ngoài, nhưng dưới mắt nhìn của vị trưởng giả thì đó thật là con mình. Đây là nghĩa “nhân nhất”.

Từ câu “hết thảy mọi việc làm thường chỉ vì một mục đích duy nhất”, ngài Quang Trạch gọi là “giáo nhất”, nay nói là “hạnh nhất”. Hết thảy các hạnh của ba thừa nên gọi là “hết thảy”, lại vì trọn vẹn nên gọi là “hết thảy”, tức là [hết thảy chỉ vì] một mục đích. Hết thảy các hạnh ấy hướng về đâu? Duy chỉ hướng về tri kiến Phật, tức là ý nghĩa “hành nhất”. Cũng có thể xem đây là “giáo nhất”, nếu như lấy giáo làm nghĩa chính: Hết thảy việc làm [của Phật] đều vì sự giáo hóa. Như vậy nói là “giáo nhất” cũng phù hợp. Nhưng nếu lấy nghĩa người làm mà nói thì mỗi một việc làm đều là hành. Nay dùng theo nghĩa thích hợp này nên gọi là “hành nhất”.

Tuy nhiên, cả 4 câu đều có 2 nghĩa. Như về “lý nhất”, nếu theo chủ thể thấy biết thì nghĩa “vị nhất” là thích hợp, nhưng nếu theo đối tượng được thấy biết thì nghĩa “lý nhất” là thích hợp. Còn như về “nhân nhất”, nếu nói theo sự giáo hóa thì nghĩa “giáo nhất” là thích hợp, còn lấy ý Bồ Tát thì nghĩa “nhân nhất” là thích hợp. Lại nói về “giáo nhất”, nếu lấy theo ý dùng một Phật thừa vì chúng sinh thuyết pháp thì nghĩa “giáo nhất” là thích hợp, nhưng nếu theo ý thừa là vận hành thì nghĩa “hành nhất” là thích hợp. Ý nghĩa bốn câu đều tương thông, chỉ là chọn nghĩa phù hợp để giải thích mà thôi.

Từ câu “chỉ dùng một Phật thừa”, ngài Quang Trạch cho là “nhân nhất”, nay gọi là “giáo nhất”. Giáo pháp trọn vẹn thẳng tắt gọi là Phật thừa, cho nên trong phẩm Tựa nói “thuyết kinh Đại thừa” tức là ý nghĩa của giáo pháp. Từ Biệt giáo trở đi, tất cả [thuyết giáo] đều gọi là thuyết hữu dư, tức là chẳng phải nghĩa rốt ráo, chẳng phải Nhất thừa của Phật.

Ngài Quang Trạch giải thích: “[Kinh nói] không có Nhị [thừa] là nói Duyên giác, Thanh văn; không có Tam [thừa] là nói hàng Bồ Tát công hạnh thiên lệch.”

Lại có người nói: “Không có Bồ Tát, Duyên giác nghĩa là không có Nhị thừa, không có Thanh văn nghĩa là không có Tam thừa.” Nếu giải thích như vậy thì chỉ là không có các thừa của Tạng giáo, vẫn còn lại các thừa của Thông giáo, nào có liên quan gì đến một Phật thừa.

Có người nói: “Không có Duyên giác, nghĩa là không có Nhị thừa, không có Thanh văn nghĩa là không có Tam thừa, vẫn còn có Bồ Tát Đại thừa.” Nếu vậy thì chỉ là nói trong Tạng giáo không có hai thừa, không phải là không có Bồ Tát. Như vậy vẫn còn là hữu dư, nào có liên quan gì đến Phật thừa? [Hơn nữa] trong kinh luận đâu có chỗ nào nói Thanh văn là Tam thừa? Đã không có điều này thì những điều nói trên trước sau đều sai lệch.

Lại nếu theo cách giải thích rằng không có Nhị thừa là nói không có Duyên giác, không có Tam thừa là nói không có Bồ Tát, vậy thì Thanh văn là thứ nhất nên chẳng phải là không. Nếu như vậy thì hết sức điên đảo rối loạn.

Nay [cho rằng, kinh văn] nói “chỉ dùng một Phật thừa” là hoàn toàn nói về Phật pháp theo Viên giáo thừa, ngoài ra “không có thừa nào khác”, không có thuyết phương tiện hữu dư của Biệt giáo. Không có Nhị thừa là nói không có Nhị thừa được nói trong thời Bát-nhã. Không có Tam thừa là không có hàng Tam thừa đối với thời Phương đẳng mà nói. Cả Nhị thừa và Tam thừa ấy còn không có, huống chi là ba thừa trong Tạng giáo?

KINH VĂN

Xá-lợi-phất! Pháp của hết thảy chư Phật mười phương cũng đều như vậy. Xá-lợi-phất! Chư Phật trong quá khứ dùng vô lượng vô số phương tiện, đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để vì chúng sinh thuyết giảng các pháp; các pháp ấy đều là một Phật thừa. Những chúng sinh được nghe pháp từ chư Phật, rốt ráo đều đạt được Nhất thiết chủng trí.

Từ câu “Xá-lợi-phất! Pháp của hết thảy chư Phật mười phương cũng đều như vậy” là phần tổng kết thứ năm. Phần này nói về chư Phật ba đời đều nêu rõ giáo nhất, hành nhất, sau đó lại tổng luận về nhân nhất, lý nhất. Nếu ngay nơi phần này tự nêu nghĩa “tứ nhất” thì cũng có thể được, nhưng không bằng phần tổng văn đã làm rõ.

Kinh Bồ Tát Anh Lạc, quyển 13,[88] nói đến 9 đời chư Phật. [Đó là chư Phật] quá khứ có ba đời, [cộng với] hiện tại và vị lai cũng [đều có ba đời] như vậy.

Ba đời chư Phật vị lai gồm có, [chư Phật] vị lai quá khứ, là các vị Cổ Phật [trong quá khứ] vì lòng từ bi nhập vào vị lai, hóa hiện đủ mọi hình thức để hóa độ chúng sinh; [chư Phật] vị lai hiện tại, là các vị hiện tại được thụ ký về sau [sẽ thành Phật]; [chư Phật] vị lai vị lai, là các vị lần lượt được đức Phật hiện tại thụ ký [sẽ thành Phật trong] đời vị lai.

[Ba đời chư Phật] quá khứ cũng dựa theo đây thì có thể biết được. Đại lược là như thế.

[Ba đời chư Phật hiện tại gồm có,] chư Phật hiện tại là chư Phật hiện đang giáo hóa; [chư Phật] hiện tại vị lai, là chư vị [nhất sanh] bổ xứ [sẽ thành Phật] tiếp theo; [chư Phật] hiện tại quá khứ, là chư vị Cổ Phật [trong quá khứ] thương xót [chúng sinh mà thị hiện] hình tích [trong hiện tại].

Từ câu “chư Phật trong quá khứ” trở đi, phần này nên hiểu đủ sáu nghĩa, [nhưng ở đây] chỉ nêu ra hai [nghĩa]. Thứ nhất là trừ bỏ phương tiện, thứ hai là hiển bày chân thật. Hai [câu] chỉ ý trên, hai câu chỉ ý dưới.

Câu “dùng vô lượng vô số phương tiện” là nêu ý tạm bày quyền thừa. Câu “các pháp ấy đều là một Phật thừa” là hiển bày chân thật. Cứ theo cách giải thích ở phần trên thì “một Phật thừa” tức là “giáo nhất”.

Câu “nghe pháp từ chư Phật” tuy chỉ nói việc nghe pháp nhưng hàm ý chúng sinh [là người nghe] nên có nghĩa “nhân nhất”.

Trong câu “rốt ráo đều đạt được Nhất thiết chủng trí”, [xét về] đối tượng rõ biết của chủng trí ấy tức là “lý nhất”, về chủ thể rõ biết tức là “hành nhất”. Tuy không theo đúng thứ tự nhưng [trong phần này] có đủ “tứ nhất”.

KINH VĂN

“Này Xá-lợi-phất! Chư Phật trong tương lai ra đời, lại cũng sẽ dùng vô lượng vô số phương tiện, đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để vì chúng sinh thuyết giảng các pháp, các pháp ấy đều là một Phật thừa. Những chúng sinh được nghe pháp từ chư Phật, rốt ráo đều đạt được Nhất thiết chủng trí.

“Xá-lợi-phất! Chư Phật Thế Tôn hiện tại trong vô lượng trăm ngàn muôn ức cõi Phật mang lại rất nhiều lợi ích an lạc cho chúng sinh, chư Phật ấy lại cũng dùng vô lượng vô số phương tiện, đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để vì chúng sinh thuyết giảng các pháp, các pháp ấy đều là một Phật thừa. Những chúng sinh được nghe pháp từ chư Phật, rốt ráo đều đạt được Nhất thiết chủng trí.

“Xá-lợi-phất! [Tất cả] chư Phật ấy cũng chỉ giáo hóa Bồ Tát, muốn dùng tri kiến Phật để chỉ bày chúng sinh, muốn dùng tri kiến Phật để khai ngộ chúng sinh, muốn giúp cho chúng sinh thể nhập tri kiến Phật.”

Từ câu nói về “chư Phật trong tương lai” lại cũng có hai nghĩa, xét cả hai ý trên dưới thì cũng đầy đủ sáu nghĩa. Đại lược là như vậy.

Từ phần nói về chư Phật hiện tại, chính là nói chư Phật đang giáo hóa. Trước hết giảng ý nghĩa Phật ra đời. Như trong phần nói về chư Phật, [kinh văn nói] “chỉ vì duy nhất một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời”, đó cũng là nói [chư Phật] chỉ vì làm lợi lạc an vui cho chúng sinh mà xuất hiện ra đời.

Tiếp theo là ý trừ bỏ pháp quyền thừa, tiếp sau nữa là hiển bày pháp chân thật, lại cũng đầy đủ nghĩa “tứ nhất”.[89]

PHẦN THỨ HAI

KINH VĂN

“Xá-lợi-phất! Ta nay cũng như vậy, biết rõ chúng sinh có đủ mọi ham muốn, bám chấp sâu nặng trong tâm, nên tùy theo bản tánh của chúng sinh mà dùng đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, sức phương tiện để thuyết giảng pháp. Xá-lợi-phất, như vậy đều là vì để giúp chúng sinh đạt một Phật thừa, được Nhất thiết chủng trí.

Xá-lợi-phất! Trong khắp thế giới mười phương vốn không có hai thừa, huống gì lại có ba? Xá-lợi-phất, chư Phật thị hiện ở đời xấu ác có năm sự uế trược, đó là kiếp trược, phiền não trược, chúng sinh trược, kiến trược, mạng trược. Như vậy, này Xá-lợi-phất, vào thời kiếp trược hỗn loạn, chúng sinh cấu nhiễm nặng nề, nhiều tham lam, ganh ghét, tạo thành các gốc rễ bất thiện, nên chư Phật dùng sức phương tiện, đối với một Phật thừa mà phân biệt thuyết dạy thành ba thừa.”

Phần này giảng rộng về [nghĩa quyền thật của] đức Phật Thích-ca. Trong sáu ý nghĩa[90] [thì phần này] không có nghĩa “xưng tán chánh pháp là ít có”.

Trước tiên trừ bỏ quyền thừa, thứ hai là hiển bày chân thật, thứ ba là nêu lên 5 sự uế trược để giải thích nghĩa phương tiện, thứ tư là chọn trừ hư ngụy, củng cố niềm tin vào lẽ chân thật duy nhất, thứ năm là [xác định lời Phật] không hư dối.[91]

[Kinh văn nói] “Ta nay cũng lại như vậy”, “ta” ở đây là đức Phật Thích-ca. Hiện tại trước nêu ba thừa, sau nói chỉ có một, cũng giống như trên, bốn lượt đã nêu về chư Phật chẳng khác, cho nên nói là “cũng lại như vậy”.

[Kinh nói] “biết rõ chúng sinh có đủ mọi ham muốn”, tức là nói căn, tánh và dục vọng của chúng sinh trong 5 thừa.[92] [Tập khí từ] quá khứ gọi là [dục] căn, [phát khởi trong] hiện tại gọi là dục vọng ham muốn, [tiềm tàng cho đến] tương lai gọi là [dục] tánh. [Sự ham muốn] bám chấp từ sâu thẳm trong tâm nên gọi là [dục] căn.

[Kinh nói] “phương tiện” có nghĩa là tùy chỗ thích hợp mà quyền biến mở bày ba thừa. Kinh nói “như vậy đều là vì để giúp chúng sinh đạt một Phật thừa, được Nhất thiết chủng trí”, tức là hiển bày lẽ chân thật.

Phật thừa là nghĩa “giáo nhất”, nhất thiết [chủng trí] là “hành nhất”, đối tượng rõ biết của chủng trí là “lý nhất”.

Từ câu “trong khắp thế giới mười phương vốn không có hai thừa, huống gì lại có ba” [trở đi] là ý thứ ba, nêu lên năm sự uế trược để giải thích việc trừ bỏ quyền thừa [đã nêu trên]. Vì sắp nêu ra sự uế trược nên trước tiên làm rõ chủ ý [trừ bỏ quyền thừa].

Phần trên đã nói việc chư Phật trừ bỏ quyền thừa, hiển bày [thừa] chân thật, nhưng chưa nêu rõ việc [trước đó tạm] ẩn chân thật, thi hành quyền biến. Pháp [chân thật] ấy thanh tịnh vắng lặng, thuần nhất như hư không, vốn đã không có 2 hoặc 3 [thừa] quyền biến kèm theo, huống chi lại có 3 hay 5 thừa quyền biến riêng biệt? Chỉ vì có 5 sự uế trược che chướng nặng nề nên pháp chân thật ấy không thể nêu cao, phải mở bày 5 hoặc 3 thừa quyền biến riêng biệt, lại cũng mở bày 2 hay 3 thừa quyền biến kèm theo.[93] Cho nên nói rằng từ nơi chỉ một Phật thừa mà phân biệt nói thành ba [thừa]. Trong chỗ phân biệt nói ra đó, hoặc nói ba thừa kèm theo Nhị thừa, tam thừa, hoặc nói ba thừa chia riêng ngũ thừa, tam thừa.

PHẦN THỨ BA

Nói về 5 sự uế trược, phần này có 4 ý khác biệt. Thứ nhất là nêu số lượng, thứ hai là kể tên, thứ ba là nêu tự thể và hình tướng, thứ tư là giải thích và kết lại.

Phần nêu số lượng và kể tên [5 sự uế trược] thì [ý nghĩa đã rõ ràng] như trong kinh văn. [Kinh văn nói] “như vậy” là [sẽ lần lượt] nêu bản chất, hình tướng [của 5 sự uế trược như vậy].

Kiếp trược không có tự thể riêng biệt. Kiếp (kalpa) là [đơn vị] chỉ thời gian rất dài, sát-na là [đơn vị] chỉ thời gian rất ngắn. Dựa vào 4 sự uế trược kia nên lập ra tên gọi giả tạm này. Kinh văn nói “vào thời kiếp trược hỗn loạn”, tức là ý nghĩa này.

Chúng sinh trược cũng không có tự thể riêng biệt. Dựa trên quả báo [uế trược] của hết thảy tà kiến và kiêu mạn mà lập ra tên gọi giả tạm này. Kinh văn nói “chúng sinh cấu nhiễm nặng nề”, tức là ý nghĩa này.

Phiền não trược chỉ cho 5 độn sử,[94] lấy đó làm tự thể. Kiến trược chỉ cho 5 lợi sử,[95] lấy đó làm tự thể. Mạng trược chỉ cho [trạng thái chúng sanh] liên tục duy trì hình sắc [thân thể] và tâm thức không đứt đoạn, lấy đó làm tự thể. Đại lược là như vậy.

Về hình tướng, [kinh văn nói về] thời điểm 4 sự uế trược tăng lên quá nhiều và kết tụ lại. Sân hận tăng lên quá nhiều thì nạn đao binh sinh khởi, tham dục tăng lên quá nhiều thì nạn đói kém sinh khởi, ngu si tăng lên quá nhiều thì nạn dịch bệnh sinh khởi. Ba nạn [như trên] sinh khởi thì phiền não càng tăng lên gấp bội, những kiến chấp sai lầm càng phát triển cực kỳ mạnh mẽ. Hình sắc và tâm thức [chúng sinh trở nên] thô kệch xấu ác nên gọi là uế trược. Tuổi thọ [chúng sanh] giảm đi, những sự uế trược càng tụ lại nhiều, như nước chảy xiết tối tăm mù mịt, sóng gió cuồn cuộn dâng trào, các loài cá, rồng trôi giạt không chút yên ổn, do thời [kiếp tận] hóa thành như thế. Như vào thời kiếp sơ, [chư thiên] cõi trời Quang Âm rơi xuống cõi đất [ở thế giới này], đất liền hóa thành có dục. Như [chư thiên] cõi trời Đao Lợi khi vào vườn thô nhám, [ở trong] vườn ấy liền sinh tâm [muốn] đấu tranh.[96] Như trên là tướng của kiếp trược.

Về phiền não trược, tham dục như biển lớn, dù [bao nhiêu dòng] chảy vào cũng chưa bao giờ đầy; sân hận như rắn độc nhiễu hại người trong khắp thế gian; ngu si u ám tối tăm đen kịt còn hơn nhựa sơn, hơn màu mực; kiêu mạn cao ngạo nhìn [người khác đều] thấp hèn kém cỏi, lấn lướt khinh thường vô chừng vô độ; lưới nghi không có lòng tin, không thể nghe ai tỏ bày sự thật. Đó là tướng của phiền não trược.

Về kiến trược, [nhận thức sai lầm], vốn không thật có [tự ngã] con người mà cho là có, vốn có đạo [chân thật] mà cho là không, cho đến 16 loại tri kiến, 62 kiến chấp [sai lầm], [hết thảy] như lưới giăng, như rừng rậm, trói buộc chằng chịt không thể ra khỏi. Đó là tướng của kiến trược.

Về chúng sinh trược, bám chấp ôm giữ hình sắc với tâm thức này mà lập nên một chủ tể [tự ngã], như keo như nhựa, không một vật gì không dính mắc bám víu, luân chuyển lưu lạc trong 6 đường, thọ sinh khắp chốn, khi nghèo khi giàu, lúc sống lâu, lúc chết yểu... Đó là tướng của chúng sinh trược.

Về mạng trược, [mạng sống chúng sinh mong manh,] sáng sinh ra, tối chết đi, ngày vừa hiện, đêm đã mất, như con sóng chuyển, như cụm khói xoay, chẳng hề dừng trụ dù trong chớp mắt. Đó là tướng của mạng trược.

Tướng của uế trược rất nhiều, không thể nói hết. Nếu theo thứ tự [sinh khởi trước sau] thì phiền não trược và kiến trược là căn bản. Từ nơi 2 sự uế trược này mà chúng sinh hình thành [nên có chúng sinh trược]. Từ chúng sinh [đã hình thành mới] có sự liên tục duy trì mạng sống [mà thành mạng trược]. Bốn sự uế trược này trải qua thời gian gọi là kiếp trược. Lược nói đơn giản là như thế.

Hỏi: Nếu như 5 sự uế trược [ở cõi này] che chướng nặng nề thì tại sao trong hội Hoa nghiêm có những người chưa trừ bỏ uế trược mà vẫn nghe pháp được là thế nào?

Đáp: Ở đây cần phân biệt có 4 trường hợp. Thứ nhất là hàng căn cơ Đại thừa nhanh nhạy nhưng [uế trược] che chướng nặng nề. Vì căn cơ nhanh nhạy nên dù chướng nặng cũng không thể chướng. Đó là những người ở cõi này này trong hội Hoa nghiêm lần đầu tiên được nghe giáo pháp Đại thừa.

Trường hợp thứ hai là căn cơ nhanh nhạy, che chướng nhẹ. Trường hợp thứ ba là căn cơ chậm lụt, che chướng nhẹ. Đó là những người từ các cõi Tịnh độ phương khác [đến đây] nghe giáo pháp Đại thừa.

Trường hợp thứ tư là căn cơ trì độn và [uế trược] che chướng nặng nề. Đó là như nhóm các vị Xá-lợi-phất... [sau khi] dứt trừ uế trược rồi mới nghe được giáo pháp Đại thừa.

Hỏi: Năm sự uế trược này có che chướng [giáo pháp] Tiểu thừa chăng?

Đáp: Điều này cũng áp dụng với Tiểu thừa, nên phân biệt bốn trường hợp. Thứ nhất là căn cơ Tiểu thừa nhanh nhạy, [uế trược] chướng nhẹ nên không thể che chướng, như trường hợp ngài Xá-lợi-phất. Thứ hai là căn cơ nhanh nhạy, [uế trược] chướng nặng cũng không thể che chướng, như trường hợp của Ương-quật-ma-la. Thứ ba là căn cơ trì độn, [uế trược] che chướng nhẹ, [việc nghe pháp] cũng không bị chướng, như trường hợp của ngài Bàn-đặc. Thứ tư là căn cơ trì độn lại thêm [uế trược] che chướng nặng nề, không thể nghe giáo pháp Tiểu thừa, là trường hợp của những người không được hóa độ.

Hỏi: Có những người không ở hội Hoa nghiêm, chẳng ở nơi thuyết giáo pháp A-hàm[97] mà vẫn được nghe giáo pháp Đại thừa và Tiểu thừa, như vậy là thế nào?

Đáp: Việc này cũng phải [nói] từ trong giáo pháp của bốn giáo [Tạng, Thông, Biệt, Viên], mỗi giáo đều phân biệt có bốn cửa vào đạo.[98] Đối với người căn cơ nhanh nhạy, [uế trược] che chướng nhẹ, khi nghe [giảng rằng hết thảy các pháp] “chẳng phải không, chẳng phải có” liền vào được đạo. Đối với người căn cơ nhanh nhạy, che chướng nặng thì khi nghe [giảng rằng hết thảy các pháp] “cũng là không, cũng là có” liền vào được đạo. Đối với người căn cơ trì độn, che chướng nhẹ thì khi nghe [giảng rằng hết thảy các pháp] đều là không liền vào được đạo. Đối với người căn cơ trì độn, che chướng nặng thì khi nghe [giảng rằng hết thảy các pháp] đều có liền vào được đạo.

Bốn cửa vào đạo của hai giáo [Tạng, Thông] dựa theo Tiểu thừa để phân biệt, bốn cửa vào đạo của hai giáo [Biệt, Viên] dựa theo Đại thừa để phân biệt. [Cứ theo đó] suy xét thật kỹ thì có thể hiểu rõ được. Đại lược là như vậy.

Hỏi: Cũng là năm uế trược ấy, vì sao che chướng Đại thừa mà không che chướng Tiểu thừa?[99]

Đáp: Chúng sinh uế trược nặng nề, sai lầm chấp kể năm ấm [trong thân này] là thường còn, là vui thú, là có tự ngã, là thanh tịnh (thường, lạc, ngã, tịnh),[100] nếu nghe [giáo pháp Đại thừa] thường, [lạc,] ngã, [tịnh] liền lập tức bám chấp cho rằng chỗ sai [của mình] là đúng. Như [trong kinh Đại Bát Niết-bàn nêu ví dụ][101] người thầy thuốc cũ ngu si không biết chỗ tốt, xấu của sữa, không biết nguyên nhân, nguồn gốc sinh khởi bệnh, không biết lúc nên dùng, lúc không nên dùng.[102] Vì không có sự hiểu biết rõ ràng cho nên [5 sự uế] trược che chướng Đại thừa. Kinh văn nói rằng “Nếu Ta xưng tán Phật thừa thì chúng sinh phải chìm đắm trong khổ não”, chính là ý nghĩa này.

[Những chúng sinh si mê như vậy,] nếu nghe [thuyết giảng về] vô thường, khổ, không, [vô ngã] liền [sinh tâm] chán bỏ sinh tử, vui thích Niết-bàn. [Do giáo pháp Tiểu thừa] phá trừ được sự bám chấp tà vạy sai lầm [của chúng sanh] nên 5 sự uế trược không che chướng [giáo pháp] Tiểu thừa. Kinh văn nói “Lúc ta vừa nghĩ như thế thì mười phương chư Phật đều thị hiện Phạm âm để an ủi khích lệ ta”,[103] chính là ý nghĩa này.

Nếu dựa theo 5 sự uế trược để luận về tứ tất đàn thì kiếp [trược và] mạng [trược] tương ứng với thế giới [tất đàn]; chúng sinh [trược và] kiến [trược] tương ứng với vị nhân [tất đàn]; phiền não [trược] tương ứng với đối trị [tất đàn]. Dùng 3 loại tất đàn này để dứt trừ 5 sự uế trược [tương ứng], sau đó mới thuyết giảng Đại thừa đệ nhất nghĩa tất đàn.

Nếu luận về nhân quả thì [trong 5 sự uế trược] có 2 nhân, 3 quả.[104] [Luận về nhân pháp thì] một loại thuộc về nhân, bốn loại thuộc về pháp.[105]

[Luận về thời pháp thì] bốn loại thuộc về pháp, một loại thuộc về thời;[106] [Luận về tam chướng[107] thì có] hai [uế trược] thuộc về báo chướng,[108] hai [uế trược] thuộc phiền não chướng,[109] riêng nghiệp chướng nằm trong các chướng ấy.[110]

[Luận về tam giả[111] thì] chúng sinh trược là nhân thành giả, mạng trược là tương tục giả, [các uế trược còn lại là] tương đãi giả,[112] có thể suy ra biết được.

[Luận về tam giả quán[113] thì] chúng sinh trược là thọ giả, bốn uế trược còn lại là pháp giả, riêng danh giả bao trùm cả hai nhóm này.

[Luận về phàm thánh thì] phiền não trược và kiến trược chỉ có ở phàm phu, ba uế trược còn lại có đủ ở cả phàm lẫn thánh.

[Luận về lâu dài hay ngắn ngủi thì] mạng trược là ngắn ngủi, kiếp trược là lâu dài, ba uế trược còn lại có cả lâu dài và ngắn ngủi.

[Luận về đơn nhất hay kèm theo thì] kiếp trược thuần về thời gian, mạng trược luận thời gian phải kèm theo [ấm] pháp [của thân], [ba trược còn lại không thuộc thân, cũng không kèm theo, chỉ thuộc về pháp].[114]

[Luận về trong ngoài thì] kiếp trược bao quát trong ngoài, mạng trược chỉ ở trong [thân].

[Luận về kiếp trược thì] ba tiểu [tai kiếp] gây hại con người, không hại đến vật chất thế giới,[115] ba đại [tai kiếp] hủy hoại vật chất thế giới, không hại người.[116]

Tiểu tai kiếp chỉ ở nơi con người, đại tai kiếp bao trùm đến cả Sắc giới.

[Luận về năm đường ba cõi thì] mạng trược trùm khắp năm đường, ba cõi.[117]

[Luận về chung hay riêng thì] kiếp trược là uế trược chung, còn bốn loại uế trược còn lại, mỗi loại đều riêng.[118]

[Lại nữa,] tiểu kiếp là kiếp trược, đại kiếp thì có uế trược và không uế trược.

[Về tiểu kiếp và đại kiếp,] con người từ [tuổi thọ trung bình là 10 tuổi tăng dần đến] 80.000 [tuổi, lại giảm dần] đến 10 tuổi là một tiểu kiếp. [20 tiểu kiếp là một trung kiếp.] Qua 80 lần [trung kiếp] là một đại kiếp.[119]

● Hỏi: Đã giảng nói về năm sự uế trược, còn thế nào là năm sự thanh tịnh?

● Đáp: Điều này dựa theo chuẩn mực tà hay chánh, có ba độc [tham sân si hay không mà phân biệt]. Tà tức là năm uế trược, chánh tức là thanh tịnh.

Các cõi Tịnh độ phương khác không có tà, không có ba độc, tất nhiên sự che chương của năm uế trược không có, ý nghĩa này có thể rõ được. Đại lược là như thế.

PHẦN THỨ TƯ

KINH VĂN

“Xá-lợi-phất! Nếu các đệ tử của ta có người tự cho mình là A-la-hán, Phật Bích-chi mà không nghe không biết việc chư Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ Tát, những người ấy không phải đệ tử Phật, cũng không phải A-la-hán, không phải Phật Bích-chi.”

Từ câu “Nếu các đệ tử của ta có người tự cho là...” trở đi là phần thứ tư, giản trừ những điều hư ngụy và củng cố niềm tin vào pháp chân thật. [Kinh nói,] nếu là đệ tử Phật ắt tự mình có thể tin nhận, hiểu rõ. Nếu không tin nhận hiểu rõ thì không phải là đệ tử chân thật của Phật, cũng không phải là A-la-hán. [Đây là ý] thúc giục đại chúng khi ấy phải tin nhận, hiểu rõ.

Phần văn này chia làm 2 đoạn. Phần thứ nhất là chọn lọc phân biệt giữa chân thật với hư ngụy. Phần thứ hai là khai mở ngoại lệ và giải thích nghi ngờ.

[Phần thứ nhất] chọn lọc phân biệt lại chia 2 ý. Trước tiên nói rằng [những ai] không nghe không biết [pháp này] thì không phải đệ tử chân thật. Tiếp theo nói rằng nếu nghe mà không tin nhận thì thành hạng tăng thượng mạn.

Giống như [việc học] ở đời, đệ tử phải thuận theo tri thức của thầy để tiếp nối tông phái, truyền lại đời sau. Nếu [khi theo học mà] không nghe không biết thì chẳng có tri thức gì để có thể thuận theo, sao có thể gọi là đệ tử?

Đức Như Lai trước đây thuyết giảng về 5 sự uế trược, mở bày ba thừa, chúng đệ tử nghe theo [tu tập] nên đạt được Niết-bàn. Có nghe có biết [như vậy] nên gọi là đệ tử [Phật]. Ngày nay 5 sự uế trược đã dứt trừ, [Phật mới] vì đệ tử mà thuyết giảng Nhất thừa, vậy [đệ tử Phật lại] có ý gì mà không nghe, không biết?

Không nghe là ý nói không nghe [nghĩa] “giáo nhất”, không biết là ý nói không biết [nghĩa] “hành nhất”, không phải chân thật tức là không phải “lý nhất”, không phải đệ tử tức là không phải “nhân nhất”.

KINH VĂN

“Lại nữa, Xá-lợi-phất, những tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni ấy tự cho mình đã chứng quả A-la-hán, cho đó là thân sau cùng, đã được Niết-bàn rốt ráo, không có chí hướng cầu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nên biết rằng hạng người ấy đều là tăng thượng mạn. Vì sao vậy? Nếu có tỳ-kheo nào thật sự chứng quả A-la-hán mà không tin nhận pháp Nhất thừa thì thật vô lý, trừ phi sau Phật diệt độ, hiện tiền không có Phật.”

Tiếp theo, từ câu “Lại nữa, Xá-lợi-phất...” trở đi, là ý thứ hai, nêu việc [những ai] không tin [vào pháp này] đều là hạng tăng thượng mạn. Đây là ý thúc giục [đại chúng] khiến cho tin tưởng. Vì sao những người này tự cho là đã được thân sau cùng? Vẫn còn đến vô số thân, thật chẳng phải thân sau cùng. Những người ấy tự cho là [đã đạt đến] cứu cánh rốt ráo, giống như [người đi đường trong thí dụ phần sau,] còn cách đến 200 do-tuần thì thật chưa phải đến đích. Chưa chứng đắc mà nói đã chứng đắc, chẳng phải là tăng thượng mạn đó sao? Bậc A-la-hán chân thật đã trừ uế trược, căn cơ nhanh nhạy, rõ biết [pháp mình đã chứng] chưa phải rốt ráo; tin pháp chân thật, biết rằng chưa phải thân sau cùng nên không khởi tâm cao ngạo khinh mạn.

Rõ biết chỗ chưa phải cứu cánh nên tin vào pháp cứu cánh. Đó là tin vào “lý nhất”; không phải tăng thượng mạn tức là “hành nhất”; tin nghĩa là tin vào giáo pháp, đó là “giáo nhất”; [đúng thật] là đệ tử Phật, tức là “nhân nhất”.

Từ câu “trừ phi sau Phật diệt độ...” trở đi là phần thứ hai, khai mở ngoại lệ và giải thích chỗ nghi ngờ.

Trước tiên là khai mở ngoại lệ, nghĩa là [trong trường hợp] sau khi Phật diệt độ [thì những người như trên] không thành tăng thượng mạn.

KINH VĂN

“Vì sao vậy? Sau khi Phật diệt độ thì người có thể thọ trì, tụng đọc, giảng giải những kinh như thế này rất khó gặp được. Nhưng nếu gặp Phật ở cõi khác thì ở trong giáo pháp này liền được thấu triệt rõ ràng.”

Tiếp theo từ câu “Vì sao vậy? Sau khi Phật diệt độ...” trở đi là giải thích việc [vào lúc ấy] hiếm có người tốt, kinh điển này thì sâu xa khó thấu hiểu, [nên dù không hiểu được] cũng không thành tăng thượng mạn. Nếu khi Phật còn tại thế, chính thức thuyết giảng kinh này mà không tin tưởng, không thọ nhận thì chẳng phải bậc A-la-hán chân thật, thành hạng tăng thượng mạn.

Nếu sau khi Phật diệt độ rồi mới chứng quả A-la-hán, dù thiên lệch bám chấp những kinh điển quyền thừa, không tin nhận giáo pháp viên mãn rốt ráo, [người như vậy vẫn được Phật] cho là không phải tăng thượng mạn.

Lại nữa, tuy Phật đã nhập diệt nhưng kinh điển này vẫn còn tồn tại, nếu không tin tưởng, không thọ nhận thì có phải là tăng thượng mạn chăng? [Trường hợp này vẫn] được cho là ngoại lệ. [Vì] sau khi Phật diệt độ rồi, tuy vẫn còn kinh điển này nhưng rất khó gặp người có khả năng giảng giải ý nghĩa kinh văn, do vậy nên tuy chứng quả A-la-hán vẫn không tin tưởng, không thấu hiểu [được ý nghĩa kinh điển này. Trường hợp này cũng] được cho là không phải tăng thượng mạn.

Tiếp theo là giải thích các mối nghi.

● [Hi:] Nếu như sau khi Phật diệt độ rồi, khó gặp được người giảng giải [ý nghĩa] kinh điển này, có phải những bậc chứng quả A-la-hán đều sẽ nhập Niết-bàn vĩnh viễn hay chăng?

● [Đáp:] Người như vậy tuy có khởi sinh ý tưởng diệt độ, nhưng sau khi xả bỏ thân này rồi liền sinh vào cõi nước khác nằm ngoài ba cõi,[120] được gặp Phật ở đó, được nghe kinh điển này, liền chứng ngộ thấu triệt.

● [Hỏi:] Trong [Đại Trí độ] luận thích, quyển 93, phẩm Tất định[121] nói rằng: “Thân đời trước [do nhân duyên mà có] của các vị A-la-hán ắt phải mất đi,[122] vậy thì [vị ấy] trụ nơi nào mà [tu học] được trọn đủ Phật đạo?”

● [Đáp:] “Các vị A-la-hán nhân duyên lậu hoặc trong ba cõi đã dứt hết, không còn tái sinh trong ba cõi. Vượt ngoài ba cõi có cõi Phật thanh tịnh, [thậm chí] không có danh xưng phiền não [huống gì là thật có]. [Vị A-la-hán sinh về] cõi Phật ấy, được nghe kinh Pháp hoa liền trọn đủ Phật đạo.”

[Sau đó luận này] dẫn kinh Pháp hoa rằng: “Có vị A-la-hán, nếu không được nghe kinh Pháp hoa, tự cho là mình đã được diệt độ, ta ở cõi nước bên ngoài ba cõi[123] sẽ vì vị ấy mà thuyết giảng việc này: Ông sẽ thành Phật.”

Luận đã dẫn kinh để chứng minh, nay giải thích kinh sẽ dẫn luận để giảng giải.

Ngài Nam Nhạc [Tuệ Tư] nói rằng: “Phật ở ngoài ba cõi, đó là nói bốn chỗ nương theo.”[124] Vị A-la-hán gặp [Phật] nghe kinh liền rõ biết thấu triệt. Lại nữa, vị A-la-hán tu pháp định niệm Phật [có thể] gặp chư Phật mười phương, [chư Phật] liền vì vị ấy thuyết giảng kinh này nên cũng được rõ biết thấu triệt. Lại nữa, kẻ phàm phu tu hành, chí thành sám hối[125] liền gặp được chư Phật mười phương, [chư Phật] liền vì vị ấy thuyết giảng [kinh này] nên cũng được rõ biết thấu triệt.

Ngài Pháp Dao nói: Nếu thật A-la-hán ắt phải tự rõ biết [giáo nghĩa] Pháp hoa, chí nguyện cầu Đại thừa. Người căn cơ nhanh nhạy ắt tự rõ biết. Những người căn cơ trung bình và thuộc bậc thấp thì phải được nghe [thuyết giảng] mới rõ biết, cho nên gọi là “nghe biết”, làm sao lại có người sau khi Phật diệt độ không nghe kinh Pháp hoa, hoặc nghe mà không tin, đến khi gặp Phật ở ngoài ba cõi mới nhận hiểu rõ? Kẻ phàm phu ở đời mạt pháp mà còn có thể tin nhận, huống chi là bậc thánh [A-la-hán]? [Cho nên], câu “trừ phi sau Phật diệt độ...” là chỉ những kẻ phàm phu [đời sau].

Có người nói: Phàm phu chưa chứng pháp tướng, chỗ thấy không sáng tỏ, tâm bám chấp không kiên cố, cho nên dễ tin. Vị A-la-hán đã chứng pháp tướng, chỗ thấy sáng tỏ rõ ràng, tâm bám chấp kiên cố, bỗng dưng nghe thuyết giảng pháp khác [với chỗ mình đã biết] nên chưa thể tin nhận ngay. Do đó nói [A-la-hán] không tin cũng là nghĩa tất nhiên. Cho nên ngài Xá-lợi-phất [thoạt nghe pháp Nhất thừa liền] nghĩ: “Chẳng phải là ma giả làm Phật để não loạn tâm ta đây sao?” Nếu theo nghĩa này thì [kinh văn thật] chỉ đến A-la-hán, không phải chỉ phàm phu. Đại lược là như vậy. Cách giải thích như vậy hoàn toàn khác biệt, nay không dùng nghĩa này.

PHẦN THỨ NĂM

KINH VĂN

Xá-lợi-phất! Các ông nên hết lòng tin hiểu, thọ trì lời Phật dạy. Lời của chư Phật Như Lai không hư dối, thật không có thừa nào khác, chỉ duy nhất một Phật thừa.

Từ câu “Xá Lợi Phất! Các ông nên hết lòng...” trở đi là phần thứ năm, nêu rõ [lời Phật dạy] không hề hư dối, ngăn dứt việc khởi tâm hủy báng. Phần này chia làm 3 ý. Thứ nhất, khuyến khích [đại chúng] tin vào sự thuyết giảng chân thật của đức Phật Thích-ca, cho nên nói rằng: “Các ông nên hết lòng tin hiểu, thọ trì lời Phật dạy.” Thứ hai là khuyến khích [đại chúng] tin tưởng vào chư Phật, cho nên nói: “Lời của chư Phật Như Lai không hư dối.” Đạo của chư Phật thảy đều tương đồng như nhau, [điều này khiến cho đại chúng] càng tăng thêm sự tin tưởng thọ nhận. Sau cùng là kết lại thành nghĩa không hư dối, cho nên nói rằng: “Không có thừa nào khác, chỉ duy nhất một Phật thừa.”

B. Kệ tụng

Tổng phần kệ tụng này gồm 121 khổ kệ, chia làm 2 phần. Phần đầu tiên có 4 khổ kệ và 1 câu, tụng lại ý nghĩa [đức Phật] hứa khả sẽ giải đáp [đã nói trong phần văn trường hàng] bên trên. Phần sau có 116 khổ kệ và 3 câu, tụng lại nội dung [đức Phật] chính thức giải đáp trong phần trên.

KINH VĂN

Bấy giờ, Thế Tôn muốn nhắc lại ý nghĩa trên liền nói kệ rằng:

Tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
Ôm lòng tăng thượng mạn,
Ưu-bà-tắc ngã mạn,
Ưu-bà-di bất tín.
Bốn chúng thuộc hạng này,
Số nhiều đến năm ngàn,
Không tự thấy lỗi mình,
Giới luật có thiếu sót,
Ôm tiếc lỗi của mình.
Do oai đức của Phật,
Nên những người kém cỏi,
Hạng trí nhỏ rời đi,
Vì phước đức mỏng manh,
Không đủ sức tiếp nhận.
Hội chúng sạch cành lá,
Chỉ còn quả hạt chắc,
Xá-lợi-phất, lắng nghe.

Phần hứa khả việc giải đáp [trong văn trường hàng] bên trên có 3 ý: một là [Phật hứa] chấp thuận [thuyết giảng], hai là răn dạy [thính chúng], ba là chọn lọc [thính chúng]. Nay trong phần kệ tụng không tụng lại ý chấp thuận [của Phật], chỉ tụng lại [hai ý ] chọn lọc và răn dạy.

Ý nghĩa chọn lọc thính chúng [được tụng trước,] lại chia làm 2. Trước tiên là 3 khổ rưỡi kệ (14 câu), tụng lại việc 5.000 người lui ra [khỏi Pháp hội]. Tiếp theo là 2 câu, tụng lại ý nghĩa đại chúng đã thanh tịnh và 1 câu tụng ý nghĩa răn dạy phải lắng nghe.

Những hạng người tăng thượng mạn, ngã mạn và bất tín[126] thì trong bốn chúng đều có. Nhưng riêng trong hai chúng xuất gia [là tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni] thì có nhiều người tu tập chứng đắc thiền định lại sai lầm cho rằng mình chứng đắc thánh quả, thành tăng thượng mạn; ở trong thế tục thì cao ngạo, thường khởi tâm ngã mạn. Nữ giới thì trí tuệ cạn cợt, thường khởi sinh nhiều sự sai lệch hẹp hòi.

[Kệ tụng nói] “không tự thấy lỗi mình”, đó là nói do 3 lỗi trên che lấp tự tâm [nên thường] che giấu lỗi lầm, phô trương nết tốt,[127] không thể tự phản tỉnh. Người như vậy là không có đức hổ thẹn.[128] Nếu tự thấy được lỗi mình thì đó là vị tăng biết xấu hổ.

[Kệ tụng nói] “giới luật có thiếu sót”. Trong việc nghiêm trì luật nghi có mắc lỗi, đó gọi là thiếu; trong tu đạo tập định đều mắc lỗi, đó gọi là sót. Do “sót đạo thiếu định” nên bên trong thường khởi lên ý niệm xấu, như viên ngọc quý ẩn chứa tỳ vết. Do chẳng có luật nghi nên bên ngoài [biểu lộ thành] hành vi, lời nói loạn động, như viên ngọc quý lộ ra tỳ vết.

[Kệ tụng nói] “quý tiếc lỗi của mình”. Che giấu tội lỗi không ray rứt nên gọi là quý tiếc [tội lỗi].

[Lại nói] “hạng trí nhỏ rời đi”. Hạng trí nhỏ là nói kẻ không đạt được cả trí hữu học và trí vô học [trong Phật pháp], chỉ có trí nhỏ hẹp của thế gian, nên sai lầm cho các pháp hữu lậu là vô lậu. [Thế gian nhỏ hẹp, mà những kẻ che giấu tội lỗi như thế này còn] nhỏ hẹp hơn trong thế gian, cho nên nói là trí nhỏ hẹp.

[Kệ tụng nói] “những người thấp hèn kém cỏi trong chúng hội”. Vì không có sự trau giồi của thiền định vô lậu nên kém cỏi, thấp hèn. Vì không có trí tuệ như lý nên vô dụng, như vỏ trấu. Đây là nói 5.000 người rời khỏi Pháp hội đó chỉ tu tập thiền định thế gian, nên thấp hèn, kém cỏi, chỉ nhận hiểu giáo pháp qua văn tự nên vô dụng, như vỏ trấu. Rườm rà văn tự mà bỏ mất đi nghĩa lý chân thật, giống như vỏ trấu không có hạt gạo bên trong. Lại nữa, thấp hèn kém cỏi là nói kẻ không có căn cơ Đại thừa. Cành, lá là ví cho việc những kẻ ấy không phải hạng pháp khí, không có chỗ dùng [trong Đại thừa] cho nên loại bỏ ra.

[Kệ tụng nói] “Xá-lợi-phất, lắng nghe”, tức là tụng lại ý nghĩa hứa khả giảng thuyết bên trên và răn dạy [thính chúng] lắng nghe.

Cấu trúc phân chia phần kệ giải đáp

Từ câu “Pháp chư Phật chứng đắc...” trở đi có 116 khổ kệ và 3 câu, tụng lại [nội dung] giải đáp chính [trong văn trường hàng] ở trước.

Nội dung này lại được chia làm hai tổng phần. Tổng phần thứ nhất từ câu “pháp chư Phật chứng đắc” trở đi, có 73 khổ kệ và 1 câu, tụng lại [ý nghĩa] bốn lượt nói về chư Phật ở trước. Tổng phần thứ hai từ câu “Nay ta cũng như vậy” trở đi, có 43 khổ rưỡi kệ, tụng lại [ý nghĩa] nói về đức Phật Thích-ca ở trước.

Tổng phần thứ nhất [gồm bốn lượt nói về chư Phật] lại chia làm bốn phần. Thứ nhất, từ câu “Pháp chư Phật chứng đắc” trở đi, gồm 34 khổ kệ và 3 câu, tụng lại [ý nghĩa] phần nói về chư Phật ở trên. Thứ hai, từ câu “Vô số kiếp quá khứ” trở đi, gồm 27 khổ rưỡi kệ, tụng lại [ý nghĩa] nói về chư Phật quá khứ. Thứ ba, từ câu “Các vị Phật tương lai” trở đi, gồm 6 khổ rưỡi kệ, tụng lại [ý nghĩa] về chư Phật vị lai. Thứ tư, từ “Hàng trời người cúng dường” trở đi, gồm 4 khổ rưỡi kệ, tụng lại [ý nghĩa] về chư Phật trong hiện tại.

Phần thứ nhất, tụng lại [ý nghĩa] về chư Phật, so với văn trường hàng có ba điểm khác biệt. Thứ nhất là bên có bên không bổ sung cho nhau, thứ hai là thứ tự trước sau khác biệt, thứ ba là khai kết và phân hợp khác nhau.

[Điểm khác biệt thứ nhất], phần văn trường hàng [trong 6 nghĩa] thì có nghĩa “xưng tán chánh pháp là hy hữu” nhưng không có nghĩa nói về 5 sự uế trược. Phần kệ tụng lại có nói về 5 sự uế trược nhưng không có nghĩa xưng tán chánh pháp.

[Điểm khác biệt thứ hai], trong văn trường hàng trước tiên xưng tán chánh pháp, sau nêu việc [lời Phật dạy] không hư dối, trừ bỏ pháp quyền, hiển bày pháp thật. Nay phần kệ tụng thì trước tiên nêu việc trừ bỏ pháp quyền, hiển bày pháp thật, sau đó mới nêu việc [lời Phật dạy] không hư dối.

[Điểm khác biệt thứ ba], phần văn trường hàng kết hợp trình bày chung hai ý khuyến khích tin nhận và [khẳng định lời Phật dạy] không hư dối. Nay trong phần kệ tụng thì phân chia tách biệt ý nghĩa khuyến khích tin nhận với ý nghĩa [lời Phật dạy] không hư dối.

Nay theo ý riêng tôi cho rằng trong văn trường hàng nêu pháp phương tiện của đức Phật Thích-ca để giải thích thành pháp quyền thừa của chư Phật, trong phần kệ tụng lại nêu pháp chân thật của đức Phật Thích-ca để giải thích thành sự hiển bày chỉ có một Phật thừa của chư Phật.

Như vậy là có 4 điểm khác biệt.

Trong phần thứ nhất này lại chia làm 5 tổng đoạn.

- Tổng đoạn thứ nhất từ câu “Pháp chư Phật chứng đắc” trở đi, gồm 5 khổ kệ và 3 câu, tụng về [ý nghĩa] chư Phật thi hành pháp quyền.

- Tổng đoạn thứ hai từ câu “Ta bày phương tiện này” trở đi, có 13 khổ kệ, tụng về [ý nghĩa] chư Phật hiển bày pháp thật.

- Tổng đoạn thứ ba là từ câu “Nếu người tin theo Phật” trở đi, gồm 4 khổ rưỡi kệ, tụng về [ý nghĩa] chư Phật khuyến khích tin nhận.

- Tổng đoạn thứ tư từ câu “Nếu ta gặp chúng sanh” trở đi, có 9 khổ rưỡi kệ, tụng về [ý nghĩa] năm sự uế trược.

- Tổng đoạn thứ năm là từ câu “Ta có sức phương tiện” trở đi, có 2 khổ kệ, tụng lại [ý nghĩa lời Phật dạy] không hư dối đã nói trong văn trường hàng.

KINH VĂN

Pháp chư Phật chứng đắc,
Vô số lực, phương tiện,
Vì chúng sinh thuyết dạy,
Chúng sinh tâm khởi niệm,
Cùng đủ mọi việc làm,
Có bao nhiêu tham muốn,
Nghiệp đời trước thiện ác,
Phật đều rõ biết hết.
Dùng nhân duyên, thí dụ,
Sức phương tiện, ngôn từ,
Khiến cho đều hoan hỷ.
Hoặc thuyết giảng Khế kinh,
Hay Già-đà, Bản sự,
Bản sinh, Vị tằng hữu,
Lại thuyết kinh Nhân duyên,
Thí dụ cùng Kỳ-dạ,
Kinh Ưu-ba-đề-xá.
Kẻ ngu, ưa pháp nhỏ,
Bám chấp chốn sinh tử,
Gặp vô số chư Phật,
Vẫn không tu đạo mầu,
Nên bị khổ giày vò,
Vì họ, thuyết Niết-bàn.

Tổng đoạn thứ nhất nói về việc chư Phật mở bày pháp quyền. Tổng đoạn này chia thành hai đoạn. Trước là bốn khổ kệ với một câu, tụng về [ý nghĩa] chính thi hành pháp quyền. Kế đến là một khổ rưỡi kệ tụng ý nghĩa tóm kết về việc thi hành pháp quyền.

Đoạn thứ nhất, câu [đầu tiên] “pháp chư Phật chứng đắc” là nói việc tu tập đạo, chứng đắc các pháp quyền. Từ câu [tiếp theo] “vô số lực, phương tiện”[129] trở đi, tụng lại ý nghĩa “dùng vô số phương tiện, đủ loại nhân duyên để diễn nói thuyết các pháp” trong phần văn trường hàng. Từ câu “chúng sinh tâm khởi niệm”,[130] tụng lại ý nghĩa tùy nghi thuyết pháp trong văn trường hàng. Trong phần kệ tụng này nói rộng ra các hình tướng của sự tùy nghi, tức là chiếu theo căn cơ trong chín pháp giới mà thuyết giảng [thích hợp] cho bảy [thừa] phương tiện.[131] Chỉ nói tổng quát chín và bảy như vậy, không thể xác định cụ thể, cho nên nói là “có bao nhiêu”. Tùy sự thích hợp với chỗ tham muốn [của chúng sanh] mà vận dụng tương ứng thế giới tất đàn. Tùy theo sự thích hợp với [căn] tánh [của chúng sanh] mà vận dụng tương ứng vị nhân tất đàn. Tùy theo sự thích hợp với nghiệp ác [của chúng sanh] mà vận dụng tương ứng đối trị tất đàn.

[Trong tâm chúng sanh] khởi lên sự mong muốn khát khao gọi là “niệm”. Pháp môn [nhiều loại] khác nhau gọi là “đủ mọi”, [khuynh hướng] được huân tập từ trong quá khứ gọi là “tánh”, hiện tại được thỏa mãn vui thích gọi là “tham muốn”. Hoặc cũng có thể nói tập hợp các tham muốn mà thành tánh, thành tánh rồi lại sinh ra các tập hợp tham muốn. Đại lược là như vậy.

[Kệ tụng nói] “Nghiệp đời trước thiện ác” là nói [chúng sinh trong] bảy [thừa] phương tiện mãi mãi tiếp nối làm các việc thiện ác. Đại lược là như vậy.

Phật dùng trí quyền biến soi chiếu [rõ biết] “căn tánh”, “tham muốn” [của chúng sanh] trong các [thừa] phương tiện, sau đó mới dùng những thí dụ nhân duyên, tùy chỗ thích hợp [với từng chúng sanh] mà thuyết giảng 9 bộ kinh,1 [hoặc là] 12 bộ nếu nói theo Pháp hoa huyền nghĩa.

Đoạn thứ hai từ câu “Kẻ ngu ưa pháp nhỏ” [là nói kẻ căn cơ trì độn ưa thích pháp Tiểu thừa], gồm một khổ rưỡi kệ, tóm kết lại ý nghĩa của việc thi hành pháp quyền biến. [Những người] kiếp trước căn trì độn, kiếp này không có cơ duyên, [dù gặp vô số Phật cũng] không đủ sức nghe giáo pháp Đại thừa, cho nên nói rằng “vẫn không tu đạo mầu”. Kiếp trước tham chấp, che chướng nặng nề, kiếp này chịu nhiều khổ não vây bức, chỉ có thể nghe được pháp Tiểu thừa, cho nên nói rằng: “Vì những chúng sinh này mà thuyết giảng Niết-bàn của Tiểu thừa.”

KINH VĂN

Ta bày phương tiện này,
Giúp nhập trí tuệ Phật,
Chưa từng nói các ông,
Rồi sẽ thành Phật đạo.
Sở dĩ chưa từng nói,
Vì thời chưa thích hợp,
Nay chính lúc hợp thời,
Quyết định thuyết Đại thừa.
Chín bộ kinh đã thuyết,
Là tùy thuận chúng sinh,
Nhập Đại thừa là gốc,
Cho nên thuyết kinh này.

Tổng đoạn thứ hai từ câu “Ta bày phương tiện này” trở đi gồm 13 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa chư Phật hiển bày lẽ thật. Tổng đoạn này chia ra làm bốn đoạn.

Đoạn thứ nhất gồm 3 khổ kệ, tụng ý nghĩa “lý nhất”. “Giúp nhập trí tuệ Phật” là tụng lại ý nghĩa “một đại sự nhân duyên” trong phần văn trường hàng bên trên. “Quyết định thuyết Đại thừa” là tụng tổng quát về ý nghĩa “khai thị ngộ nhập” (khai mở, chỉ bày, tỏ ngộ, thể nhập) tri kiến Phật. “Nhập Đại thừa là gốc” là tụng lại ý nghĩa “nhập Phật tri kiến” (thể nhập tri kiến Phật) trong phần văn trường hàng.

KINH VĂN

Có Phật tử tâm tịnh,
Nhu hòa lại sáng suốt,
Nơi vô số chư Phật,
Đã tu sâu đạo mầu.
Vì những Phật tử ấy,
Thuyết kinh Đại thừa này,
Thụ ký những người ấy,
Tương lai thành quả Phật.
Người tâm thành niệm Phật,
Giữ giới hạnh thanh tịnh,
Vừa nghe được thành Phật,
Hoan hỷ khắp toàn thân.
Phật rõ biết tâm hạnh,
Vì họ thuyết Đại thừa.
Thanh văn hay Bồ Tát,
Nghe ta thuyết kinh này,
Dù chỉ một bài kệ,
Chắc chắn đều thành Phật.

Đoạn thứ hai bắt đầu từ câu “có Phật tử tâm tịnh” trở đi, gồm 4 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa “chư Phật Như Lai chỉ giáo hóa toàn là Bồ Tát”, để làm sáng tỏ ý nghĩa “nhân nhất”. Văn trường hàng trên đã trực tiếp nói về nghĩa “giáo hóa toàn là Bồ Tát”, trong phần kệ tụng này lại nói rộng ra, những người [trong pháp] phương tiện [cuối cùng] tất cả đều thành người [trong pháp] chân thật.

“Có Phật tử tâm tịnh” tức là nói những người [phương tiện] thuộc Biệt giáo. [Kinh văn nói] “vì những Phật tử ấy, thuyết kinh Đại thừa này”, các vị được thụ ký nên tâm vui mừng hoan hỷ, tức là trở thành người chân thật thuộc Viên giáo. [Kinh văn nói] “Thanh văn hay Bồ Tát”, Thanh văn ở đây là bao gồm luôn cả Duyên giác. Nếu Bồ Tát gồm đủ sáu pháp ba-la-mật, cùng với các vị Bồ Tát Thông giáo đều chắc chắn sẽ thành Phật, không có gì để nghi ngờ. Có nghĩa là trong bảy thừa phương tiện,[132] tất cả đều là con Phật, [đều sẽ thành Phật]. Đây tức là tụng về ý nghĩa “nhân nhất”.

KINH VĂN

Cõi Phật trong mười phương,
Chỉ có pháp Nhất thừa,
Không hai cũng không ba,
Trừ Phật phương tiện thuyết,
Chỉ là tên giả tạm,
Để dẫn dắt chúng sinh,
Thuyết dạy trí tuệ Phật.
Chư Phật hiện ở đời,
Chỉ có một sự thật,
Ngoài ra đều không thật.
Rốt không dùng Tiểu thừa,
Để cứu độ chúng sinh.
Phật trụ nơi Đại thừa,
Dùng pháp đã chứng đắc,
Định, tuệ, lực trang nghiêm,
Để cứu độ chúng sinh.
Phật chứng đạo Vô thượng,
Pháp bình đẳng Đại thừa,
Nếu dùng pháp Tiểu thừa,
Dù giáo hóa một người,
Ắt tâm Phật tham tiếc,
Việc ấy không thể có.

Đoạn thứ ba từ câu “Cõi Phật trong mười phương” trở đi, gồm 1 khổ kệ và 3 câu, tụng lại ý nghĩa trong văn trường hàng nói về việc đức Như Lai chỉ dùng một Phật thừa để thuyết pháp cho chúng sinh, chẳng có thừa nào khác như Nhị thừa hoặc tam thừa. Nếu mười phương chư Phật đều chỉ thuyết cùng một pháp này, tức là ý nghĩa “giáo nhất”. [Kinh văn nói] “tên giả tạm”, “dẫn dắt chúng sanh”, tức là nói phương tiện để giáo hóa. Tên gọi giáo pháp ba thừa là giả tạm, hiển bày trí tuệ Phật chỉ có một thừa, kinh văn nói rất rõ ràng. Không có thừa nào khác, là nói không có [hàng Bồ Tát] Viên nhập Biệt[133] trong Biệt giáo. Không có hai thừa, là nói không có [hàng Bồ Tát] Bán và Mãn đối đãi nhau[134] trong Thông giáo. Không có ba thừa, là nói không có ba thừa trong Tạng giáo. Những sự phân chia hai thừa, ba thừa như vậy đều chỉ là tên gọi giả tạm, dùng để dẫn dắt chúng sinh, nay [nói rõ] chỉ có duy nhất một Phật thừa viên mãn rốt ráo.

Đoạn thứ tư từ câu “Chư Phật hiện ở đời, chỉ có một sự thật” trở đi là bắt đầu ý thứ tư, gồm 3 khổ kệ và 3 câu, tụng lại ý nghĩa “mọi việc làm của chư Phật đều chỉ vì một việc”1 trong phần văn trường hàng, tức là nói “hành nhất”, vì “việc làm” tức là hành. “Rốt không dùng Tiểu thừa, để cứu độ chúng sanh”, tức là tụng lại ý nghĩa “chỉ vì duy nhất một đại sự” trong văn trường hàng. “Phật trụ nơi Đại thừa, dùng pháp đã chứng đắc, định, tuệ, lực trang nghiêm, để cứu độ chúng sanh”, đây là tụng lại ý nghĩa “chỉ dùng tri kiến Phật để khai ngộ chúng sanh” trong văn trường hàng. Một khổ kệ sau cùng giải thích ý nghĩa không dùng Tiểu thừa để hóa độ chúng sinh.

KINH VĂN

Nếu người tin theo Phật,
Như Lai không dối gạt,
Không tham tiếc, ganh ghét,
Dứt các pháp xấu ác.
Nên trong khắp mười phương,
Riêng Phật không sợ hãi.
Phật thân tướng trang nghiêm,
Hào quang chiếu thế gian,
Vô số chúng tôn kính,
Vì chúng thuyết tướng thật.
Xá-lợi-phất nên biết,
Phật xưa đã thệ nguyện,
Độ hết thảy chúng sinh,
Được như Phật không khác.
Như thệ nguyện từ trước,
Nay thành tựu viên mãn,
Giáo hóa khắp chúng sinh,
Khiến đều vào Phật đạo.

Tổng đoạn thứ ba từ câu “Nếu người tin theo Phật” trở đi gồm 4 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa khuyến tín trong phần văn trường hàng bên trên. Văn trường hàng nói “các ông nên tin lời Phật dạy”, phần tụng lại ý nghĩa này chia làm 2 đoạn.

Đoạn thứ nhất có 2 khổ kệ rưỡi nêu quả của việc khuyến tín. Đoạn thứ hai từ câu “Xá-lợi-phất...” trở đi gồm 2 khổ kệ nêu nhân khuyến tín.

Trong phân đoạn nêu quả khuyến tín này thì một khổ kệ rưỡi là nêu về nội tâm [của Phật]. “Nếu người tin theo Phật, Như Lai không dối gạt” là nêu rõ tâm Phật thanh tịnh. Vô minh, tham tiếc, các việc xấu ác đã dứt trừ, từ trong tâm thanh tịnh mà thuyết giảng nên lời nói đáng tin cậy.

Từ câu “Phật thân tướng trang nghiêm” trở đi gồm 1 khổ kệ, nêu rõ về hình sắc bên ngoài [của Phật, có] thân tướng rực rỡ huy hoàng, sáng tỏ đoan nghiêm.

[Như vậy,] trong nội tâm không có sự tối tăm mê hoặc, bên ngoài có hào quang sáng tỏ, nên miệng không nói ra lời hư dối, là chỗ tôn kính của đại chúng, nói pháp Đại thừa ắt có thể tin nhận thọ trì.

Đoạn thứ hai từ câu “Xá-lợi-phất nên biết, Phật xưa đã thệ nguyện” trở đi gồm 2 khổ kệ, nêu nhân khuyến tín, chia làm 2 ý. Ý thứ nhất từ câu “Xá-lợi-phất nên biết...” trở đi gồm 1 khổ kệ, nêu thệ nguyện thuở xưa. Ý thứ hai từ câu “như thệ nguyện từ trước” trở đi gồm 1 khổ kệ, nói rõ việc thệ nguyện thành tựu viên mãn.

Nói “thệ nguyện thuở xưa” không chỉ là thệ nguyện [chứng đạo] Bồ-đề, mà còn là thệ nguyện [giáo hóa] hết thảy chúng sinh được thể nhập trí tuệ Phật. Nay ứng với thệ nguyện ấy nên [Phật] thuyết pháp [Đại thừa], do vậy cũng là điều đáng tin cậy.

Ngày nay [Phật] đã trọn thành quả vị Bồ-đề, chúng sinh cũng được thể nhập [trí tuệ Phật], đại chúng đều đã tự chứng biết trí tuệ Phật, cũng là chứng tỏ thệ nguyện của Phật [thuở xưa] không hề hư dối. Kết lại [ý nghĩa này] tức là nêu nhân khuyến tín.

Hỏi: Thệ nguyện thuở xưa [của Phật] là rộng khắp, nay chúng sinh vẫn còn rất nhiều người [chưa chứng quả], sao có thể nói là nguyện ấy đã [thành tựu] viên mãn?

Đáp: Chư Phật ba đời đều làm lợi ích cho muôn loài [chúng sanh], nay chỉ nêu rõ việc hiện tại [đại chúng được thụ ký] để luận về thệ nguyện viên mãn.[135]

KINH VĂN

Nếu ta gặp chúng sinh,
Đều dạy bằng Phật đạo,
Kẻ thác loạn ngu si,
Mê hoặc chẳng nghe lời.
Ta biết chúng sinh ấy,
Chưa từng tu gốc thiện,
Bám chấp nặng năm dục,
Si mê, ái luyến khổ.
Do nhân duyên các dục,
Đọa vào ba đường ác,
Luân hồi trong sáu nẻo,
Chịu đủ các khổ độc.
Thọ thân từ bào thai,
Đời đời thêm nghiệp khổ.
Người thiếu phước, đức mỏng,
Bị các khổ bức bách,
Vào sâu rừng tà kiến,
Chấp có hoặc chấp không,
Cùng các loại kiến chấp,
Đủ số sáu mươi hai.
Chấp sâu pháp hư dối,
Bám chặt không thể buông,
Ngã mạn, tự cao ngạo,
Dua nịnh, không chân thật,
Trong ngàn muôn ức kiếp,
Chẳng nghe danh xưng Phật,
Cũng chẳng nghe chánh pháp,
Người như vậy khó độ.
Cho nên, Xá-lợi-phất!
Ta bày ra phương tiện,
Thuyết dạy đường dứt khổ,
Bảo đó là Niết-bàn.
Tuy nói là Niết-bàn,
Nhưng chưa thật diệt độ,
Các pháp từ xưa nay,
Tướng thường tự tịch diệt.
Phật tử tu hành đạo,
Tương lai sẽ thành Phật.

© Tổng đoạn thứ tư từ câu “Nếu ta gặp chúng sanh” trở đi có 9 khổ rưỡi kệ, nêu ra 5 sự uế ngũ trược. Phần văn trường hàng ở trên nói rõ 5 sự uế trược sau phần nói về đức Phật Thích-ca. Trong phần kệ tụng này thì nêu ra ở cuối phần nói chung về chư Phật. Trong phần nói về Phật Thích-ca cũng nhắc lại nữa. Đây là nói rõ việc tất cả chư Phật đều thị hiện ở đời có 5 sự uế trược, đều [thuyết dạy] trước là ba [thừa], sau [dẫn về] Nhất [thừa].

Tổng đoạn này được chia làm 4 đoạn. Đoạn thứ nhất có 1 khổ kệ, nói tổng quát về 5 sự uế trược che chướng [việc tu tập] Đại [thừa]. Đoạn thứ hai gồm 6 khổ kệ nêu riêng việc 5 sự uế trược che chướng [tu tập] Tam [thừa]. Đoạn thứ ba gồm 1 khổ kệ nêu ý nghĩa vì sự che chướng của 5 sự uế trược nên phương tiện thuyết dạy Tiểu thừa. Đoạn thứ tư gồm 1 khổ rưỡi kệ giảng rõ ý nghĩa vì Đại [thừa] mà [phương tiện] thuyết dạy Tiểu [thừa], dùng Tiểu thừa đối trị 5 sự uế trược nên thệ nguyện Đại thừa được khởi phát mạnh mẽ.

Đoạn thứ nhất, kệ nói “Nếu ta gặp chúng sanh”, trong kinh A-hàm quyển 12 nói rằng, vào thuở kiếp sơ [chư thiên] từ cõi trời Quang Âm sinh xuống thế gian này, chưa có tôn ti trật tự, không phân biệt nam nữ, số đông hỗn tạp cùng sinh sống ở đời nên gọi là chúng sinh, đó là dựa vào việc thuở ban sơ mà gọi tên. Nếu [theo ý nghĩa] do tập hợp 5 ấm mà có sự hiện hữu, giả tạm gọi tên là chúng sinh thì đó là dựa vào mỗi một lần thọ báo. Nếu [theo ý nghĩa luân hồi] thọ sinh ở khắp nơi nên gọi là chúng sinh thì đó là dựa vào việc nghiệp lực [xô đẩy] lưu chuyển trong 5 đường.

Kinh Chánh pháp niệm[136] nói có 10 loại chúng sinh, đó là nói [bao gồm trong các tính chất của cuộc sinh tử] dài, ngắn, vuông, tròn, tam giác, xanh, vàng, đỏ, trắng, tím.[137]

Thế nào gọi là chúng sinh sinh tử dài?

Nơi cảnh giới địa ngục thì thân chịu khổ không thể nghĩ bàn mà tâm vẫn nhớ nghĩ vô lượng vô số điều xấu ác. Trong cảnh giới súc sinh thì [các loài] luân phiên ăn nuốt thân xác của nhau, tâm niệm thì luân phiên bức bách gây khổ cho nhau. Trong cảnh giới [ngạ] quỷ thì thân thể như ngọn núi bị thiêu đốt, trong tâm cũng sùng sục như nước đang sôi, tà kiến nung đốt hừng hực thúc đẩy si mê hung ác. Trong cảnh giới làm người thì thân, miệng, ý thường làm những việc không mang lại lợi ích nên tự chuốc lấy khó nhọc khổ não; thân, miệng, ý thường nghĩ nhớ đến những việc không lợi ích nên tự thôi thúc trói buộc. Trong cảnh giới các cõi trời thì chìm đắm trong [sự khoái lạc với] 6 trần cảnh,[138] buông thả phóng túng trong sự vui chơi đùa cợt, không được nghe chánh pháp, ngăn lấp cội nguồn [tạo tác] phước đức. [Chúng sinh trong các cảnh giới như trên đều mê muội tiếp tục tạo nghiệp, tiếp tục lưu chuyển luân hồi nên] đó gọi là chúng sinh [phải chịu] sinh tử lâu dài.

Thế nào là chúng sinh sinh tử ngắn?

Trong cảnh giới địa ngục, [trong khi thân chịu khổ mà] tâm có thể giữ một niệm tịch tĩnh nhớ nghĩ đến giới luật. Trong cảnh giới súc sinh [các loài ăn nuốt thân xác lẫn nhau mà] có thể giữ một niệm an tĩnh nương theo Tam bảo. Trong cảnh giới ngạ quỷ [thân như ngọn núi bị thiêu đốt mà] có thể giữ một niệm tĩnh lặng làm cho các căn tĩnh lặng. Trong cảnh giới làm người thường tu sáu pháp ba-la-mật, hiếu dưỡng cha mẹ, kính tin Tam bảo, dùng việc thiện lành để làm cho tốt đẹp thân, miệng, ý. Trong cảnh giới các cõi trời thì buông bỏ những khoái lạc cõi trời, ưa thích giữ giới, ưa thích thiền định, [nhận sự] giáo hóa tụng đọc [kinh điển], giữ hạnh thanh tịnh, không nói nhiều. [Chúng sinh ở trong luân hồi mà có thể tu tập được như vậy] gọi là chỉ chịu sinh tử trong thời gian ngắn [vì sẽ được thoát ra].

Thế nào là chúng sinh sinh tử [theo hình] vuông?

Như [chúng sanh] ở cõi Uất-đan-việt, đối với tất cả muôn vật đều không xem là của mình, khi xả bỏ thân mạng liền được sinh lên cõi trời. Từ cõi trời ấy [sau khi xả thân] lại sinh lên cõi trời cao hơn. Chỉ theo một hướng đi lên cảnh giới tốt đẹp hơn. Đó gọi là sinh tử [theo hình] hình vuông [vì cảnh giới đã qua rồi thì không trở lại].

Sao gọi là chúng sinh sinh tử [theo hình] tròn?

Đó là nói [những chúng sanh] chỉ ở mãi trong ba đường bốn cõi, xoay vòng lưu chuyển như lửa quyện với khói, [tiếp nối không dứt].

Thế nào là chúng sinh sinh tử [theo hình] tam giác?

Đó là nói [nghiệp lực chúng sinh có ba khía cạnh,] nghiệp thiện, nghiệp bất thiện và nghiệp vô ký.

Thế nào gọi là chúng sinh sinh tử có màu xanh?

Đó là thường vào trong địa ngục tối tăm, thường hoảng hốt sợ hãi.

Thế nào là chúng sinh sinh tử có màu vàng?

Đó là nói ngạ quỷ đói khát gầy gò vàng héo.

Thế nào là chúng sinh sinh tử có màu đỏ?

Đó là nói các loài súc sinh luân phiên ăn thịt lẫn nhau máu chảy đỏ rực.

Thế nào là chúng sinh sinh tử có màu trắng?

Đó là nói nghiệp thiện đường lành trong cõi người, cõi trời. Như chư thiên vào lúc sắp chết, có chư thiên khác nói: Ông hãy sinh vào cõi người. Hoặc như con người vào lúc sắp chết, có bậc tri thức bảo: Ông hãy sinh lên cõi trời. Nên biết hai chỗ [sinh về] đó là sinh tử có màu trắng.

● [Hi:] Lại [cũng trong kinh Chánh pháp niệm] quyển thứ 5 nói rằng, tâm vẽ ra cảnh địa ngục màu đen, cảnh ngạ quỷ màu [xám như] chim câu, cảnh súc sinh màu vàng, cõi người màu đỏ, cõi trời màu trắng, như vậy là ý nghĩa gì?

Đáp: Phần trên là nói về quả báo của năm cảnh giới,[139] còn ở đây nói về sự tạo nghiệp trong năm cảnh giới, cho nên không giống nhau. Đại lược là như thế.

Những chúng sinh như vậy nếu được cùng với Phật gặp nhau, chúng sinh ấy dùng sự khổ não để tự làm khổ mình, chư Phật thì dùng lòng đại bi để cứu giúp muôn loài. Lòng bi [của Phật] đối lại với khổ não [của chúng sanh], cho nên nói là “gặp nhau”.

Lại nữa, chỗ như của Phật và chỗ như của chúng sinh chỉ là một chỗ như, không phải hai. Vì tánh tự nhiên[140] tương quan như vậy cho nên nói là “gặp nhau”.

Tâm đại bi thường thương xót lân mẫn chúng sinh, nếu dùng [các giáo pháp] nhân thừa (cõi người), thiên thừa (cõi trời) để giáo hóa chúng sinh thì sẽ rơi vào chỗ hôn ám mê hoặc, chỉ [giúp] thoát được những cảnh sinh tử màu xanh (địa ngục), màu vàng (ngạ quỷ), màu đỏ (súc sinh), hoặc hình vuông, tròn, tam giác v.v. đó không phải là “dạy bằng Phật đạo”.

Nếu [Phật] gặp chúng sinh lại dạy cho tu tập Tiểu thừa, ắt là Phật rơi vào chỗ tham tiếc [pháp]. Đây là việc không thể có, [vì pháp Tiểu thừa ấy] chỉ giúp thoát ra khỏi 25 cảnh giới hiện hữu.[141]

Nếu [Phật] gặp chúng sinh lại dạy cho theo Thông giáo, Biệt giáo, Phật liền rơi vào chỗ thiên lệch hẹp hòi, đánh mất tri kiến Phật.

Nay khiến cho hết thảy chúng sinh đều đạt được tướng thật và trí tuệ nhiệm mầu, thấu rõ được tất cả [các pháp] đều là Phật pháp, không có gì không phải chánh đạo. Đây chính là “dạy bằng Phật đạo” cho tất cả chúng sinh.

Nỗi khổ sinh tử được dứt trừ vĩnh viễn, Phật vẫn thường thuyết dạy như vậy, chỉ vì chúng sinh căn tánh trì độn, tội chướng nặng nề nên không thể được như lời nguyện [của Phật].

Vào thời quá khứ có một vị Phật hiệu là Trụ Vô Trụ, phát nguyện rằng tất cả chúng sinh trong cõi Phật của mình sẽ đồng thời thành Phật trong cùng một ngày, rồi ngay trong ngày [phát nguyện] ấy, Phật diệt độ.

Lại nữa, vào thuở trước Hiền kiếp này có vị Phật hiệu là Bình Đẳng, lại cũng phát nguyện rằng tất cả chúng sinh trong cõi Phật của mình cũng như trong khắp mười phương đều sẽ thành Phật trong cùng một ngày, rồi cũng ngay trong ngày [phát nguyện] đó, Phật diệt độ.

Ngày nay có Phật, lại cũng có chúng sinh, như vậy là vì sao ư? Phật dạy: “Thôi, thôi! Việc [chư Phật phát nguyện như] ta nói trước đây chỉ là nói [những chúng sinh được] thân người mà thôi.” Lẽ nào có việc phát nguyện làm cho [chúng sinh trong] 5 cảnh giới cùng thành Phật trong một ngày được sao? Phật đã dạy, không thể dùng thân không phải [pháp] khí để thành tựu đạo Vô thượng. [Cho nên] điều quan trọng trước tiên là phải giáo hóa [chúng sinh trong] ba đường [ác][142] làm cho được [sinh vào] cõi trời, cõi người, sau đó mới có thể [độ thoát tất cả chúng sanh] như nguyện được. Ba cảnh giới xấu ác chẳng phải đường lành, làm sao có thể thành Phật được? Cũng như người tìm cầu kho báu, không thể tìm cầu ở giữa hư không.

Đoạn thứ hai từ câu “Ta biết chúng sinh ấy” trở đi, gồm 6 khổ kệ, nói riêng về 5 sự uế trược, có thể chia ra 5 tiểu đoạn.

Tiểu đoạn thứ nhất gồm 2 khổ kệ, nói về chúng sinh trược. [Lời kệ nói “chưa từng tu gốc thiện”,] gốc thiện là nói chân như thật tướng. Vì không y theo gốc thiện này cho nên không dám [tin nhận] Đại thừa. “Bám chấp nặng năm dục” tức là nói cội nguồn sinh ra những việc xấu ác. [“Si mê, ái luyến khổ” là như trong kinh Duy-ma-cật có nói:] “Từ nơi si mê và ái luyến mà bệnh ta sinh ra.”

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Thọ thân từ bào thai” trở đi, gồm 1 khổ kệ, riêng nói về mạng trược. Giải thích theo quán tâm thì khi tâm khởi lên một niệm tức là đã tạo nghiệp trong tương lai. Nghiệp đó [thành] thai, [thai ấy tạo] nghiệp, [luân chuyển đến] vô cùng, đời đời kiếp kiếp không gián đoạn. Không gián đoạn tức là thường tăng trưởng, cũng tức là “thêm nghiệp khổ”. Nói “thọ thân từ bào thai”, thai đó chính là 5 ấm. Năm ấm [hình thành gọi] là một đời. Tuổi thọ kéo dài, đó là các ấm đi vào trong đời, từ ban sơ lúc thai vừa tượng hình cho đến khi già chết cũng gọi là đời đời tăng thêm, đó là mạng trược.

Kinh Thụ ấm thân[143] nói rằng, kẻ phàm phu thọ thân [trong bào thai], tuần đầu tiên chưa có sự thay đổi gì; tuần thứ hai [bào thai] hình thành như một váng sữa mỏng; [khi thai được] 3 tuần thì hình dạng như váng sữa dày; 4 tuần như khối sữa đặc; 5 tuần thai đã thành phôi; 6 tuần như cục thịt tròn; 7 tuần thì chớm mọc ra 5 bọc, đó là đầu và tứ chi; 8 tuần thì 5 bọc ấy đã hình thành rõ đầu và hai tay, hai chân; 9 tuần lại tiếp tục hình thành 24 bọc nữa, 4 bọc sẽ là mắt, tai, mũi, lưỡi, còn 20 bọc sẽ là các ngón tay, ngón chân; 10 tuần dần hiện rõ hình dáng của bụng, lại dần dần phân biệt các phần da, xương và các bộ phận khác, lại sinh ra 700 dây gân, 7.000 mạch máu. Tùy sự hình thành tướng trạng khác nhau mà có những loại gió khác nhau thổi vào, như tướng trắng thì có gió trắng, cho đến các loại gió khác cũng đều như vậy. Gió thơm thổi vào thì [bào thai] được an ổn, [hình thể sinh ra được] đoan chính, xinh đẹp; gió hôi thối thổi vào thì [bào thai] không được an ổn, [hình thể sinh ra] xấu xí, lệch lạc. Sau khi ra khỏi bào thai, ăn các loại ngũ cốc thì trong thân sinh ra 80.000 loại trùng.[144]

Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Vào sâu rừng tà kiến” trở đi, gồm 1 khổ kệ nói về kiến trược. Năm kiến chấp sai lầm[145] đan xen nhau, phát triển thêm như rừng cây rậm rạp. Nếu rơi vào chấp có là thường kiến, chấp không là đoạn kiến. Do 2 kiến chấp sai lầm này mà sinh ra 62 [tà kiến].

Hoặc cũng giải thích rằng, ngoại đạo bám chấp bản ngã [trong tương quan với năm ấm] theo 4 luận đề. [Thứ nhất, cho rằng] sắc tức là ngã; [thứ hai, cho rằng] lìa khỏi sắc là ngã; [thứ ba, cho rằng] sắc là lớn, ngã là nhỏ nên ngã ở bên trong sắc; [thứ tư, cho rằng] ngã là lớn, sắc là nhỏ nên sắc ở bên trong ngã. [Bốn luận đề sai lầm này lại áp dụng cho] bốn ấm còn lại [là thọ, tưởng, hành và thức] cũng đều như vậy, tạo thành 20 kiến chấp sai lầm. Trong cả ba đời [là quá khứ, hiện tại và vị lai đều sai lầm như vậy] nên hợp thành 60 tà kiến, cộng với hai kiến chấp căn bản [là thường kiến và đoạn kiến vừa kể trên] thành 62 [tà kiến]. Hoặc [cũng có thể giải thích] như trong Đại phẩm [Bát-nhã].

Tiểu đoạn thứ tư từ câu “Chấp sâu pháp hư dối” trở đi, gồm 1 khổ kệ, nói về phiền não trược, [ý nghĩa có thể hiểu được] y như kinh văn [nên không cần giải thích].

Tiểu đoạn thứ năm từ câu “Trong ngàn muôn ức kiếp” trở đi, gồm 1 khổ kệ, nói về kiếp trược. [Kệ nói] trong suốt thời gian dài không gặp Phật, không gặp chánh pháp, đó chính là kiếp trược. Lại nữa, bốn sự uế trược nói trên cùng hợp lại trong thời gian này cho nên gọi là kiếp trược.

[Kệ nói] “Người như vậy khó độ” là vì sự che chướng của 5 sự uế trược nên không tin nhận Nhất thừa, ắt không thể hóa độ được.

Giải thích theo quán tâm thì trong mỗi một niệm đều là những tư tưởng xấu ác, vĩnh viễn không có chánh quán tự giác, đó chính là không gặp Phật. Trong tâm không có 8 điều chân chánh,1 tức là không nghe pháp. Tâm như vậy thật khó độ.

Đoạn thứ ba từ câu “Cho nên, Xá-lợi-phất” trở đi, gồm 1 khổ kệ, nói việc [Phật] quyền biến vì [chúng sanh] mà thuyết dạy Tiểu thừa, ý nghĩa có thể hiểu được theo như kinh văn.

Đoạn thứ tư từ câu “Tuy nói là Niết-bàn” trở đi gồm 1 khổ rưỡi kệ, nói việc rốt cùng khiến cho [hết thảy chúng sanh] đều thể nhập Đại thừa. Dù có phá trừ hết hư vọng trong ba cõi, nếu diệt hết hình sắc lại bám chấp lẽ không thì cũng không phải là tịch diệt chân thật. Nếu thấu hiểu được bản chất của vô minh vốn thường tịch tịnh, đó mới là tịch diệt chân thật. Nhưng lẽ không tuy vốn thường tịch tịnh, nếu không tu hành theo chánh đạo thì cũng không do đâu mà khế nhập, thể hội được. Cho nên [lời kệ] nói rằng: “Phật tử tu hành đạo, tương lai sẽ thành Phật.”

KINH VĂN

Ta dùng sức phương tiện,
Mở bày pháp ba thừa.
Hết thảy các đức Phật,
Đều thuyết đạo Nhất thừa.
Nay đại chúng ở đây,
Nên dứt trừ nghi hoặc,
Chư Phật dạy không khác,
Duy Nhất thừa, không hai.

Tổng đoạn thứ năm từ câu “Ta dùng sức phương tiện” trở đi, gồm 2 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa “lời Phật không hư dối” [trong phần văn trường hàng] ở trên. [Kinh văn trường hàng] nói rằng: “Các ông nên hết lòng tin hiểu, thọ trì lời Phật dạy. Lời của chư Phật Như Lai không hư dối.”

Phần kệ khuyến tín thì trước đã nói đủ, đến đây tụng lại ý nghĩa không hư dối. Hai câu kệ đầu tiên nói rõ ý nghĩa đức Phật Thích-ca trước [dùng phương tiện tạm] bày ra ba thừa. Hai câu kệ tiếp sau nói rõ việc chư Phật về sau đều hiển bày lẽ thật, là để hỗ tương [làm rõ thêm việc trong] hiện tại. Một khổ kệ sau chính là nêu rõ ý nghĩa không hư dối. Trước nêu pháp quyền biến, sau hiển bày pháp chân thật, đều là những lời thành thật, không hư dối, [nên khuyên đại chúng] chớ sinh nghi.

KINH VĂN

Vô số kiếp quá khứ,
Vô lượng Phật diệt độ,
Trăm ngàn muôn ức vị,
Số không thể tính đếm.
Các đức Phật như vậy,
Dùng nhân duyên, thí dụ,
Vô số sức phương tiện,
Giảng thuyết các tướng pháp.

Phần thứ hai từ câu “Vô số kiếp quá khứ” trở đi, gồm 27 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa nói về chư Phật quá khứ trong văn trường hàng ở trên. Phần này chia làm 2 tổng đoạn. © Tổng đoạn thứ nhất gồm 2 khổ kệ đầu tiên tụng ý nghĩa [chư Phật] tạm bày ba thừa, y như kinh văn có thể hiểu được [không cần giảng giải].

KINH VĂN

Những bậc Thế Tôn ấy,
Đều thuyết pháp Nhất thừa,
Giáo hóa vô số chúng,
Khiến được vào Phật đạo.
Lại các bậc Đại thánh,
Rõ biết khắp thế gian,
Chư thiên cùng nhân loại,
Nhiều tham muốn sâu xa,
Nên dùng phương tiện khác,
Giúp hiển bày nghĩa thật.

Tổng đoạn thứ hai từ câu “Những bậc Thế Tôn ấy” trở đi có 25 khổ rưỡi kệ, tụng ý nghĩa hiển bày [lẽ thật] Nhất thừa. Phần văn trường hàng ở trên khi hiển bày lẽ thật cũng nêu cả nghĩa “tứ nhất” (4 nghĩa nhất). Trong phần kệ tụng này cũng có đủ [tứ nhất], lại chia làm 2 đoạn.

Đoạn thứ nhất 1 khổ kệ, tụng sơ lược 3 nghĩa nhất. “Đều thuyết pháp Nhất thừa” là nghĩa giáo nhất. “Giáo hóa vô số chúng” là nghĩa nhân nhất. “Khiến được vào Phật đạo” là nghĩa lý nhất, cũng bao gồm được cả nghĩa hành nhất.

Đoạn thứ hai từ câu “Lại các bậc Đại Thánh” trở đi, gồm 24 khổ rưỡi kệ, dựa theo 5 thừa[146] để nói rộng ý nghĩa hiển bày lẽ thật Nhất thừa. Đoạn này chia làm 2 tiểu đoạn.

Tiểu đoạn thứ nhất có 1 khổ rưỡi kệ, nói tổng quát về năm thừa để hiển bày lẽ thật Nhất thừa. “Chư thiên cùng nhân loại” là nêu lên các thừa để làm rõ nghĩa nhân nhất. “Nên dùng phương tiện khác” là nêu các hành để làm rõ nghĩa hành nhất, cũng bao gồm được cả nghĩa giáo nhất. “Giúp hiển bày nghĩa thật” tức là nghĩa lý nhất.

Từ chỗ nói “phương tiện khác” trở đi, nói chánh nhân Phật tánh tức là đệ nhất nghĩa lý. Nếu nhìn từ chánh pháp viên mãn nhiệm mầu thì đây tức là phương tiện của thật tướng, không thể gọi là khác. Nếu nhìn từ ý nghĩa phân biệt 7 phương tiện thì [các pháp này] “giúp hiển bày nghĩa thật” nên gọi là “phương tiện khác”.

KINH VĂN

Nếu có những chúng sinh,
Gặp Phật trong quá khứ,
Hoặc nghe pháp, bố thí,
Hoặc trì giới, nhẫn nhục,
Tinh tấn, thiền, trí tuệ...
Tu các pháp phúc, tuệ.
Phật dạy: Những người ấy,
Đều đã thành Phật đạo.

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Nếu có những chúng sanh” trở đi, gồm 23 khổ kệ, riêng dựa theo 5 thừa để hiển bày lẽ chân thật. Tiểu đoạn này lại phân chia thành 3 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất gồm 2 khổ kệ nói việc khai mở Bồ Tát thừa. Phân đoạn thứ hai gồm 1 khổ kệ nói việc khai mở hai thừa [Thanh văn và Duyên giác]. Phân đoạn thứ ba gồm 20 khổ kệ nói việc khai mở nhân thừa và thiên thừa.

Phân đoạn thứ nhất gồm 2 khổ kệ, từ câu “Nếu có những chúng sanh” trở đi, khai mở Bồ Tát thừa. Nếu giải thích theo 5 thừa thì đây chính là nói 6 ba-la-mật với Bồ Tát thừa. Nếu giải thích theo [nghĩa phân biệt] 7 hạng phương tiện thì phần này gồm cả Bồ Tát thừa của Thông giáo và Biệt giáo. Vì sao vậy? Vì giáo pháp Đại thừa của Tạng giáo, Thông giáo và Biệt giáo đều [dạy] thực hành 6 ba-la-mật, chỉ khác nhau ở sự vận dụng tâm. Dùng tâm hữu tướng thực hành 6 ba-la-mật tức là Bồ Tát Tạng giáo, [dùng tâm] vô tướng tức là Bồ Tát Thông giáo, dùng tâm chẳng phải tướng chẳng phải vô tướng mà theo thứ lớp thực hành 6 ba-la-mật tức là Bồ Tát Biệt giáo. Nay [trong kệ này] chỉ nói 6 ba-la-mật nên chưa biết phải xác định thuộc hàng [Bồ Tát] nào. Xét lại ở câu trước nói “dùng phương tiện khác” không chỉ nói riêng 6 ba-la-mật của Bồ Tát, nên biết rằng [nói đến] phương tiện của Bồ Tát trong cả Tạng giáo, Thông giáo và Biệt giáo. [Nói việc] thuở xưa từng nghe pháp nên đều đã thành tựu nghĩa giáo nhất, từng tu hành 6 ba-la-mật nên đều đã thành tựu nghĩa “hành nhất”. [Kệ nói] “những người như vậy” là nghĩa “nhân nhất”. “Đều đã thành Phật đạo”, nghĩa là đều đã thành tựu nghĩa “lý nhất”.

KINH VĂN

Chư Phật diệt độ rồi,
Ai khéo điều phục tâm,
Hết thảy những người ấy,
Đều đã thành phật đạo.
Chư Phật diệt độ rồi,
Ai cúng dường xá-lợi,
Dựng muôn ức ngọn tháp,
Bằng vàng, bạc, pha lê,
Xa cừ cùng mã não,
Hồng ngọc, châu lưu ly,
Cao rộng, sạch, trang nghiêm,
Trang hoàng nơi các tháp.
Hoặc dùng đá xây miếu,
Với chiên-đàn, trầm hương,
Gỗ mật, các loại khác,
Hay gạch, ngói, bùn đất...
Hoặc giữa nơi đồng trống,
Đắp gò cao thờ Phật,
Thậm chí trẻ chơi đùa,
Vun cát làm tháp Phật...
Những trường hợp như thế,
Đều đã thành Phật đạo.

Phân đoạn thứ hai từ câu “Chư Phật diệt độ rồi, ai khéo điều phục tâm” trở đi, gồm 1 khổ kệ, nói rõ việc hàng Thanh văn, Duyên giác thảy đều thể nhập Nhất thừa. Làm sao biết được như vậy? Bởi vì trong kinh Đại phẩm [Bát-nhã] khen ngợi bậc A-la-hán tâm đã được điều phục nhu nhuyễn. Lại nữa, kinh Tịnh Danh nói: “Nếu trụ nơi tâm được điều phục, đó là pháp Thanh văn.”[147] Do vậy nên biết câu này [nói về hàng Thanh văn, Duyên giác]. [Kể chuyện] thuở xưa khéo điều phục tâm đều là thành tựu nghĩa “hành nhất”. Nói “những người ấy” là nghĩa “nhân nhất”. Nói “thành Phật đạo” là nghĩa “lý nhất”.

Phân đoạn thứ ba từ câu “Ai cúng dường xá-lợi” trở đi, gồm 20 khổ kệ, mở nói về nhân thừa và thiên thừa. [Tuy nội dung] không nói rõ ràng là nhân thừa và thiên thừa, chỉ nêu việc tạo tượng, xây tháp với tâm chuyên nhất cho đến tâm tán loạn, cho nên biết rằng đó là [nói về] nghiệp trong hai cõi trời, người.

Các bậc thầy phái Địa luận giải thích rằng: “Đồng tử là chỉ địa vị Đồng chân trụ,[148] không còn tâm tham muốn của hàng phàm phu và Nhị thừa. ‘Vun cát thành tháp’ thì cát là nói sự không bám chấp, tháp là nói các công hạnh lành tích tập, hàm chứa trong đó tâm chánh giác.” Các vị thầy ấy cho rằng giải nghĩa như vậy phù hợp lý vô sinh nên đó chính là nghĩa sâu xa [của kinh văn]. Nay cho rằng [giải nghĩa như vậy] là trái ngược với kinh văn, làm cho ý nghĩa trở thành hẹp hòi. Vì sao vậy? Vì Bồ Tát đã lên hàng Thập địa[149] thì tất nhiên sẽ thành Phật, cũng như loài a-tu-la [có khả năng] vượt qua biển lớn thì chẳng có gì lạ. Nay lại đem những việc [kinh văn nói] trẻ con nghịch cát, kẻ loạn tâm xưng tán Phật [mà cho là] chỉ đến việc dứt sạch mọi bám chấp vi tế [của hàng Bồ Tát Thập địa, chẳng biết rằng] như kẻ phàm phu mà vượt qua biển lớn mới thật là không thể nghĩ bàn. [Kinh văn] Phật dạy rõ ràng, bao quát cả 5 thừa, [kẻ làm được] một chút việc lành nhỏ nhoi cũng [đều được lợi lạc] không bỏ sót, nay sao lại bỏ đi ý nghĩa rộng lớn trùm khắp mà suy tắt đến nghĩa vô sinh. Nếu như giải thích theo cách đó thì cho đến hàng Nhị thừa cũng chẳng lọt vào huống hồ là phàm phu. Luận giải như vậy tuy là sâu xa nhưng chỉ hẹp theo một hướng, nếu nói rộng ra thì trái ngược với kinh văn.

Hỏi: Hàng trời, người [thuở ấy] nếu như chỉ làm được chút ít việc lành, lẽ ra vẫn còn ở trong vòng nghiệp báo, vì sao nói là đều đã thành Phật?

Đáp: Chỗ này nên hiểu rõ về ý nghĩa ba loại Phật tánh.[150] Kinh Đại Bát Niết-bàn nói rằng: “Có Phật tánh, người có căn lành thì có, hạng nhất-xiển-đề thì không.” Như vậy tức là hàng trời, người tuy làm việc lành ít oi như cúi đầu, chắp tay [xưng tán Phật], nhưng cũng giống như nhiều sọt đất nhỏ đắp mãi cũng thành núi đất cao, việc nhỏ nhoi góp lại thành lớn.[151] Thuở trước chưa trừ bỏ pháp phương tiện nên [người làm việc lành ít] phải ở trong vòng nghiệp báo, nay [Phật] trừ bỏ pháp phương tiện, tức là [những ai có] duyên nhân Phật tánh đều sẽ hướng đến quả vị Bồ-đề, thành tựu ý nghĩa hiển bày lẽ thật.

Phân đoạn thứ ba [gồm 20 khổ kệ] này lại có thể chia làm hai ý. Ý thứ nhất gồm 19 khổ kệ lược nói về những việc thiện nhỏ của hàng trời, người giúp thành tựu nhân duyên chủng tử để làm sáng tỏ ý nghĩa hiển bày lẽ thật. Ý thứ hai gồm 1 khổ kệ, lược nói liễu nhân chủng tử[152] để làm sáng tỏ ý nghĩa hiển bày lẽ thật, xem theo kinh văn có thể hiểu được, [không cần giảng giải].

Ý thứ nhất có 19 khổ kệ, chia ra thành 10 tiểu ý.

Tiểu ý thứ nhất gồm 3 khổ rưỡi kệ đầu tiên lược nói việc xây tháp để làm rõ nghĩa thiên thừa. Lúc tạo nhân thì chí thành dốc hết tài lực, buông xả tiền tài châu báu [không tham tiếc]; khi nhận quả thì thuận hợp tự nhiên mà thọ hưởng khoái lạc, nên [biết đó] là nói về thiên thừa.[153]

Gỗ mật là tên một loại gỗ ở Trường An, cũng dùng để tạc tượng.

Kinh Kim Quang Minh nói: “Lấy xá-lợi Phật chỉ nhỏ như hạt cải, hạt lúa đặt trong tháp nhỏ để thờ thì tự nhiên được quả báo [sinh về] cõi trời Đao-lợi.”1 Tức là ý nghĩa [nói ở phần] này.

Tiểu ý thứ hai gồm 1 khổ kệ, từ câu “Thậm chí trẻ chơi đùa”. Trẻ con chơi đùa nghịch cát, vun lại thành tháp, tức là nói về nghiệp thuộc cõi người. Lúc tạo nhân thì thản nhiên vô tư làm việc lành; khi nhận quả thì khởi ý mong cầu được sự vui thích, nên [biết] đây là [nói về] nghiệp [sinh trong] cõi người.

KINH VĂN

Có người vì kính Phật,
Nên vẽ hình, tạc tượng,
Chạm khắc các tướng Phật,
Đều đã thành Phật đạo.
Hoặc dùng bảy món báu,
Hợp kim, đồng đỏ, trắng...
Hoặc chì, thiết... các loại,
Sắt, thép, gỗ, đất bùn...
Hoặc keo, nhựa sơn, vải...
Trang hoàng nên tượng Phật.
Những người làm như vậy,
Đều đã thành Phật đạo.
Hoặc vẽ hình tượng Phật,
Đủ phước tướng trang nghiêm,
Tự làm, sai người làm,
Đều đã thành Phật đạo.

Tiểu ý ba từ câu “Có người vì kính Phật” trở đi là ý thứ ba gồm 4 khổ kệ, lược nói việc thành tâm tạo tượng, nêu rõ nghiệp [sinh về] cõi trời. Kinh Ưu-bà-tắc giới không cho phép dùng loại keo giao [nấu từ da trâu bò], nếu dùng phạm vào tội để mất chánh niệm. Nhưng việc kinh này bảo dùng keo giao, các bậc thầy ngày trước giải thích rằng đó là loại keo lấy từ nhựa cây. Ngài Quang Trạch nói, cũng có những nơi cho phép dùng keo giao nấu từ da trâu bò, nếu từ những con vật khác thì không được. Có người nói, dùng nước nhựa đậu nành có thể thay thế keo giao mà trong sạch, còn keo giao nấu từ da trâu bò thật không sạch sẽ, [nếu dùng thì] ngày sau phải chịu quả báo bất tịnh.

Như tiền không thanh tịnh cũng không được dùng để làm tượng [Phật]. Chỉ nên dùng tiền trong sạch đúng pháp để làm tượng. Không được dùng loại đất nhão màu vàng có lẫn tạp vật nhơ nhớp. Giới Kinh cũng không cho phép tạo tượng [Phật] bán thân, nếu làm thì phạm tội để mất chánh niệm. Nếu không dựng lên hình tướng tốt đẹp thì [chúng sinh phải] đọa lạc mãi trong sinh tử, nhưng việc tạo tượng [Phật] ở mỗi nơi đều phải có sự suy tính [thích hợp]. Nếu tượng Phật chính giữa điện thờ thì phải [tạc tượng] ngồi. [Miêu tả] Phật nghỉ ngơi thì có thể [tạc tượng] ngồi hoặc nằm. [Miêu tả] Phật hành động thì nên [tạc tượng] đứng. Đệ tử Phật khi ở trước điện thờ, tháp thờ có tượng Phật đứng thì không được phép ngồi, vì những chỗ ấy được xem là thuộc về Phật. Tại nhà cư sĩ hoặc ở những nơi khác có thờ tượng Phật ngồi thì không được phép đứng lâu, nếu xin phép rồi thì có thể ngồi. Phía trước tượng Phật đứng không được phép ngồi. Đại lược là như vậy.

KINH VĂN

Thậm chí trẻ chơi đùa,
Dùng cỏ, cây, ngọn bút,
Hoặc móng tay, ngón tay...
Vẽ thành hình tượng Phật.
Những đứa trẻ như thế,
Dần dần thêm công đức,
Trọn đủ tâm đại bi,
Đều đã thành Phật đạo.
Chỉ giáo hóa Bồ Tát,
Độ thoát vô số chúng.

Tiểu ý thứ tư từ câu “Thậm chí trẻ chơi đùa” trở đi gồm 1 khổ kệ, nêu rõ nghiệp [sinh trong] cõi người.

Tiểu ý thứ năm từ câu “Những đứa trẻ như thế” trở đi là ý thứ năm, gồm 1 khổ rưỡi kệ, tóm kết thành tựu ý nghĩa hiển bày chân thật. Tất cả “đều đã thành” là ý nghĩa nhân nhất. “Dần dần thêm công đức, trọn đủ tâm đại bi” là thành tựu ý nghĩa hành nhất. “Phật đạo” là thành tựu ý nghĩa lý nhất, nhưng [kinh văn nói] “đã thành Phật” lại cũng có thể hiểu là [trọn đủ] tứ nhất. Thường “chỉ giáo hóa Bồ Tát” tức là nghĩa giáo nhất. Đại lược là như vậy.

KINH VĂN

Nếu người nơi tháp miếu,
Tượng báu hay hình Phật,
Dùng hoa, hương, phướn, lọng...
Tâm cung kính cúng dường.
Hoặc sai người tấu nhạc,
Đánh trống, thổi tù và...
Tiêu, sáo, đàn không hầu,
Đàn tỳ bà, chập chõa,
Bao âm thanh tuyệt diệu,
Đều dâng lên cúng dường.
Hoặc dùng tâm hoan hỷ,
Xưng tán công đức Phật,
Dù một lời nhỏ nhặt,
Đều đã thành phật đạo.
Nếu người tâm tán loạn,
Dùng chỉ một bông hoa,
Cúng dường tranh vẽ Phật.
Dần gặp vô số Phật.
Nếu có người lễ bái,
Hoặc là chỉ chắp tay,
Thậm chí đưa tay lên,
Hay cúi nhẹ đầu xuống.

Tiểu ý thứ sáu từ câu “Nếu người nơi tháp miếu” trở đi gồm 3 khổ rưỡi kệ lược nói việc dùng các trần cảnh [như hình sắc, âm thanh...] cúng dường [chư Phật] để nêu rõ nghiệp [lành được sinh] cõi trời. Đồng bạt (銅鈸) là cái chập chõa bằng đồng, [dùng làm nhạc khí]. Người Trường An gọi là cái mâm đồng nhỏ để hứng sương đêm (lộ bàn - 露盤) là đồng bạt. Vì kinh này được phiên dịch ở Trường An nên dùng luôn tên đồng bạt để chỉ cái chập chõa bằng đồng.

Tiểu ý thứ bảy từ câu “Nếu người tâm tán loạn” trở đi, gồm 1 khổ kệ, lược nói việc dùng tâm tán loạn mà cúng dường các trần cảnh [như hình sắc, âm thanh...] lên chư Phật, nêu rõ nghiệp [lành sinh trong] cõi người.

Tiểu ý thứ tám từ câu “Nếu có người lễ bái” trở đi, gồm 1 khổ kệ, lược nói về thân nghiệp cúng dường [chư Phật] để nêu rõ nghiệp lành [được sinh vào] hai cõi trời, người.

“Lễ bái” là nói chung, [có hai hình thức.] Năm vóc đều sát đất1 gọi là thượng lễ, tức là nghiệp lành [được sinh về] cõi trời; chắp tay, cúi đầu gọi là trung lễ, là nghiệp lành [được sinh trong] cõi người.

KINH VĂN

Cúng dường hình tượng Phật,
Dần gặp vô số Phật.
Tự thành đạo Vô thượng,
Độ vô số chúng sinh,
Nhập Niết-bàn Vô dư,
Như củi hết lửa tắt.
Nếu người tâm tán loạn,
Vào tháp miếu thờ Phật,
Niệm một tiếng nam-mô,
Đều đã thành Phật đạo.

Tiểu ý thứ chín từ câu “Cúng dường hình tượng Phật” trở đi, gồm 1 khổ rưỡi kệ, nêu nội dung tóm kết lại, không chỉ riêng hiển bày lẽ thật “tự thành đạo Vô thượng” mà cũng có thể hiểu theo nghĩa trừ bỏ quyền thừa như “củi hết [lửa tắt]”, “nhập Niết-bàn Vô dư”. Đại lược là như thế.

Tiểu ý thứ mười từ câu “Nếu người tâm tán loạn” trở đi, gồm 1 khổ kệ lược nói về khẩu nghiệp [cúng dường Phật], xét theo ước lệ như phần trên thì lẽ ra nói đủ về nghiệp lành [sinh vào hai cõi] trời, người, nay [trong đoạn kệ này] chỉ nêu nghiệp sinh trong cõi người. Đại lược là như vậy.

Chữ “nam-mô” có nghĩa rất rộng. Hoặc hiểu là “cứu độ chúng con”. Nghĩa này có thể áp dụng cho chúng sinh, còn nếu là lời Phật đáp lại chư Phật thì không thích hợp. Trong kinh Ngũ giới giải thích “nam-mô” là kinh sợ, nghĩa này có thể áp dụng với chư Phật. [Chư Phật nhìn] cuộc sinh tử là hiểm nạn [của chúng sanh], thật đáng kinh sợ, dùng pháp Đại thừa cứu vớt không thể được, nay cũng làm giống như chư Phật, [tạm] dùng Tiểu thừa để [dẫn dắt] cứu độ. Cho nên ý nghĩa “kinh sợ” này có thể vận dụng với chư Phật.[154]

Kinh văn nói: “Vui xưng Nam-mô Phật.”[155] Vui đây có nghĩa là vui được cứu thoát [sinh tử], không còn gì phải nghi ngại. Kinh Ngũ giới cũng giải thích “nam-mô” có nghĩa là “quy mạng”, chính là nghĩa áp dụng cho chúng sinh. Khi Điều-đạt[156] sắp chết, niệm được chữ nam-mô nhưng chưa kịp niệm chữ Phật thì đã bị đọa vào địa ngục. Đức Phật thụ ký cho ông sau này khi ra khỏi địa ngục rồi sẽ thành Phật Bích-chi, có danh hiệu là Phật Nam-mô.

Ở Ấn Độ[157] thờ tượng Phạm thiên,[158] dùng vàng làm đầu tượng. Kẻ trộm lẻn đến trộm đầu [tượng vàng] nhưng không thể nào lấy được, nhân đó niệm Nam-mô Phật liền gỡ lấy được đầu tượng vàng. Hôm sau, mọi người ở đó cùng họp lại nói rằng: “[Chúng ta thờ Phạm thiên] nhưng chẳng có chư thiên nào ở đây cả. Nếu có thì làm sao tượng Phạm thiên lại đến nỗi bị mất đầu?” Phạm thiên liền giáng xuống [nhập vào] một người, nói rằng: “[Không phải là không có chư thiên ở đây, nhưng vì] khi kẻ trộm đến lấy đầu tượng đã niệm Nam-mô Phật, khiến chư thiên đều kinh sợ hoảng loạn, cho nên kẻ trộm mới thừa dịp mà lấy được đầu tượng.” Mọi người liền nói: “Như vậy hẳn là Phạm thiên không bằng Phật. Nếu đã không bằng Phật, nay vì sao chúng ta không thờ Phật [mà phải thờ Phạm thiên?]”

Kẻ trộm niệm Nam-mô Phật mà còn lấy được đầu của tượng Phạm thiên, huống chi những người hiền lương mà niệm Nam-mô Phật, ắt là thần thánh trong khắp mười phương đều không thể sánh bằng. Chỉ cần nỗ lực tinh tấn, không biếng nhác [thì sẽ được thành tựu].

Kinh [Tỳ-kheo] Na-tiên nói rằng: “Người sắp chết niệm Nam-mô Phật thì không bị đọa vào địa ngục. Vì sao vậy? Cũng giống như người lấy viên đá nhỏ để trên mặt nước, viên đá chắc chắn phải chìm, nhưng nếu đem cả trăm viên đá xếp lên thuyền thì thuyền cũng không chìm. Nếu [người làm ác], sau khi chết phải đọa ngay vào địa ngục, cũng như viên đá đặt trên mặt nước [phải bị chìm]. Nếu khi sắp chết niệm Nam-mô Phật, nhờ sức Phật nên không phải đọa địa ngục, giống như sức của thuyền giúp đá [trên thuyền] chẳng bị chìm.” Đại lược là như vậy.

Thai kinh[159] và kinh Báo Ân[160] nói rằng, trong đại pháp hội [của Phật Di-lặc] lần thứ ba tại vườn Hoa Lâm,[161] có 92 ức người từng ở trong giáo pháp của đức Phật Thích-ca còn lưu lại. [Cho nên nói rằng,] người nào niệm một tiếng Nam-mô Phật thì đều được gặp Phật Di-lặc.

KINH VĂN

Nơi chư Phật quá khứ,
Hoặc còn, hoặc diệt độ,
Nếu được nghe pháp này,
Đều đã thành Phật đạo.
Các vị Phật tương lai,
Số nhiều đến vô lượng,
Tất cả chư Phật ấy,
Cũng phương tiện thuyết pháp.
Hết thảy các đức Phật,
Dùng vô số phương tiện,
Độ thoát muôn chúng sinh,
Vào trí Phật vô lậu,
Người đã được nghe pháp,
Không ai không thành Phật.
Chư Phật từng thệ nguyện,
Đạo Phật tu, Phật chứng,
Cũng làm cho chúng sinh,
Đều tu chứng đạo ấy.
Chư Phật đời vị lai,
Tuy thuyết trăm ngàn ức,
Đến vô số pháp môn,
Thật chỉ là Nhất thừa.
Chư Phật đủ phước trí,
Biết pháp không tự tánh,
Hạt giống Phật duyên khởi,
Cho nên thuyết Nhất thừa.
Pháp trụ nơi pháp vị,
Tướng thế gian thường trụ,
Nơi đạo trường rõ biết,
Đạo sư thuyết phương tiện.

Ý thứ hai từ câu “Nơi chư Phật quá khứ” trở đi gồm 1 khổ kệ, nói rõ về liễu nhân chủng tử.[162] Xét theo ước lệ như phần trên thì [lẽ ra phải gồm đủ] cả [những ý nghĩa như] hữu tướng, vô tướng, phi hữu tướng phi vô tướng, tâm chuyên nhất hay tâm tán loạn v.v. vì đều là những chủng tử [Phật tánh] trong 5 thừa, nay đều trừ bỏ tất cả [pháp phương tiện] mà đưa vào một thừa chân thật. Đại lược là như vậy. Tâm chuyên nhất lắng nghe một câu [kinh] là nghiệp lành [sinh về] cõi trời; tâm tán loạn được nghe một câu [kinh] là nghiệp lành [sinh vào] cõi người. Đại lược là như vậy.

● Hỏi: [Kinh văn có] ý gì mà lược nói các pháp môn của chư Phật quá khứ để giảng rộng 5 thừa [phương tiện]?

● Đáp: Ba đời chư Phật tất cả đều có bày ra [các pháp] quyền thừa [phương tiện], nhưng pháp vị lai thì chưa đến, pháp hiện tại chỉ mới khởi đầu, [nếu đưa ra để] chứng minh nghĩa chân thật thì yếu ớt [không đủ thuyết phục]. Các pháp phương tiện trong quá khứ đã lâu rồi, những người được giáo hóa đều đã thành tựu tứ nhất, thêm nữa nêu việc [chư Phật] khắp mười phương đều bày ra pháp quyền biến phương tiện để hiển lộ pháp chân thật, nên việc chứng minh ý nghĩa được mạnh mẽ thuyết phục. Ngàn vạn[163] lời hư dối cũng không bằng một sự chứng nghiệm rõ biết chân thật. Cho nên nêu việc [thực tế] của chư Phật trong quá khứ để nói rộng [pháp phương tiện trong] 5 thừa.

Phần thứ ba từ câu “Các vị Phật tương lai” trở đi gồm 6 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa phần nói về các đức Phật tương lai trong văn trường hàng ở trên. Phần này chia làm hai tổng đoạn.

© Tổng đoạn thứ nhất một khổ rưỡi đầu tiên tụng ý nghĩa trừ bỏ ba thừa [phương tiện].

© Tổng đoạn thứ hai [từ câu “Độ thoát muôn chúng sanh”] gồm 5 khổ kệ tụng ý nghĩa hiển bày Nhất thừa [chân thật]. [Tổng đoạn này chia làm 4 đoạn.]

Đoạn thứ nhất từ câu “Độ thoát muôn chúng sanh” trở đi 1 khổ kệ, tụng ý nghĩa nhân nhất.

Đoạn thứ hai từ câu “Chư Phật từng thệ nguyện” trở đi 1 khổ kệ, tụng ý nghĩa hành nhất. Đạo mà chư Phật tu hành, thệ nguyện làm cho tất cả chúng sinh đều chứng đắc đạo ấy, lẽ nào lại không phải là hành nhất?

Đoạn thứ ba từ câu “Chư Phật đời vị lai” trở đi 2 khổ kệ, tụng ý nghĩa giáo nhất. Rõ biết các pháp thường không có tự tánh, thật tướng cũng thường trụ nơi không tự tánh, cho đến không có tánh vô nhân[164] và trạng thái vô tánh đó lại cũng không có tánh. Đó gọi là vô tánh.

“Giống Phật từ duyên khởi”, là nói trung đạo không có tánh, đó chính là chủng tử Phật.[165] [Chúng sanh] mê muội không biết lẽ này, đó là do duyên nơi vô minh nên [nghiệp] chúng sinh sinh khởi. [Các bậc giác ngộ] hiểu rõ lẽ này, đó là do duyên nơi thực hành giáo pháp nên chánh giác sinh khởi. Muốn cho hạt giống Phật sinh khởi thì phải thuyết dạy pháp Nhất thừa. Đây là tụng ý nghĩa giáo nhất. Lại nữa, không có tự tánh chính là chánh nhân Phật tánh. Nói “Giống Phật từ duyên khởi” tức là duyên [nhân] và liễu [nhân Phật tánh].[166] Dùng duyên [nhân] trợ giúp liễu [nhân] nên chủng tử chánh nhân được sinh khởi. Một [duyên] sinh khởi thì tất cả đều sinh khởi, ba tánh như vậy gọi là Nhất thừa.

Đoạn thứ tư từ câu “Pháp trụ nơi pháp vị” trở đi gồm 1 khổ kệ, tụng ý nghĩa lý nhất. Chúng sinh, chánh giác cùng một lẽ như, không hai không khác, đều không ra ngoài lẽ như. Tất cả đều như pháp, lấy đó làm [pháp] vị.

“Tướng thế gian thường trụ” là chánh giác xuất thế lấy như làm vị, cũng lấy như làm tướng, vị và tướng ấy thường trụ. Chúng sinh thế gian cũng lấy như làm vị, lại cũng lấy như làm tướng nên có lẽ nào lại không thường trụ? Tướng thế gian [như vậy] đã là thường trụ, lẽ nào không phải là lý nhất?

Lại nói về nghĩa thế gian, đó tức là nói các ấm, nhập và giới. Nói “thường trụ” tức là chánh nhân [Phật tánh]. Nhưng chánh nhân [Phật tánh] này chẳng phải 6 pháp,1 mà duyên nhân với liễu nhân [Phật tánh] không lìa 6 pháp. Chánh nhân là thường nên duyên [nhân], liễu [nhân] cũng thường. Cho nên nói “tướng thế gian thường trụ”.

“Nơi đạo tràng rõ biết” là nêu quả thật để giải thích việc tạm bày phương tiện quyền biến và hiển bày lẽ chân thật. [Chư Phật từ] nơi đạo tràng đã thấu suốt, rõ biết sáng tỏ thật lý từ lâu, chỉ vì chúng sinh bị che chướng nặng nề nên tạm bày phương tiện thuyết thành ba thừa. Đại lược là như vậy.

KINH VĂN

Hàng trời người cúng dường,
Mười phương Phật hiện tại,
Số nhiều như cát sông,
Xuất hiện nơi thế gian,
Vì giúp chúng an ổn,
Cũng thuyết pháp như vậy.
Biết tịch diệt hơn hết,
Nhưng dùng sức phương tiện,
Tuy chỉ bày mọi đường,
Thật chỉ vì Phật thừa.
Rõ biết mọi tánh hạnh,
Tâm niệm của chúng sinh,
Và tập khí quá khứ,
Tham muốn, sức tinh tấn,
Cùng căn tánh lợi, độn.
Nên dùng mọi nhân duyên,
Nhiều thí dụ, ngôn từ,
Phương tiện thuyết ứng hợp.

Phần thứ tư từ câu “Hàng trời người cúng dường” trở đi có 4 khổ rưỡi kệ, tụng lại phần văn trường hàng nói về chư Phật trong hiện tại. Trong văn trường hàng thì phần này có 4 ý, phần kệ này [chia làm 3 tổng đoạn] chỉ tụng lại 3 ý, không tụng phần tóm kết sau cùng.

Tổng đoạn thứ nhất, nêu ý thứ nhất gồm 1 khổ rưỡi kệ, nêu ý nghĩa của sự giáo hóa, chính là vì sự an ổn của chúng sinh.

Tổng đoạn thứ hai, nêu ý thứ hai từ câu “Biết tịch diệt hơn hết” trở đi, gồm 1 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa hiển bày lẽ chân thật trong văn trường hàng ở trên. “Biết tịch diệt hơn hết” là nói nghĩa lý nhất. “Thật chỉ vì Phật thừa” là nói nghĩa giáo nhất, hoặc cũng có thể hiểu là nói nghĩa hành nhất.

Tổng đoạn thứ ba, nêu ý thứ ba, từ câu “Rõ biết mọi tánh hạnh, tâm niệm của chúng sinh...” gồm 2 khổ kệ, tụng về ý nghĩa tạm bày phương tiện quyền biến [của chư Phật], y theo văn kinh [có thể hiểu được].

Tổng phần thứ hai từ câu “Nay ta cũng như vậy” trở đi có 43 khổ rưỡi kệ, tụng lại phần nói về Phật Thích-ca trong văn trường hàng ở trên. [Trong nội dung giảng rộng 6 ý nghĩa thì] phần văn trường hàng không nói đến nghĩa xưng tán pháp [Phật] là hy hữu, còn trong phần kệ tụng này nêu đủ 6 nghĩa.[167] Nhưng theo các nhà cựu giải thì phần nói về Phật Thích-ca là dẫn trước [phẩm] Thí dụ, tức là nói phần văn trước dẫn khởi cho ý nghĩa văn sau. có sự tương quan và phát triển.

[Quả thật là,] đọc nhiều sớ giải thì hoa mắt, nghe nhiều diễn giảng thì loạn tâm, nên kẻ si mê chậm lụt ắt phải hoang mang nghi hoặc. Theo ý riêng tôi thì trước tiên nên xem hết toàn văn từ đầu đến cuối, sau đó mới tự mình soi xét suy ngẫm. [Theo đó thì] phần kệ nói về Phật Thích-ca có 2 ý. Một là tụng lại [nghĩa] bên trên, hai là dẫn khởi cho văn phía dưới. [Như phần giảng trước thì] bậc thượng căn đã tỏ ngộ, hạng trung căn còn chưa hiểu rõ, cho nên phải nêu thí dụ để làm rõ pháp đã nói. Các thí dụ đều chẳng phải vô cớ nói ra, mà là có căn do từ phần trước được tiếp nối, cho nên nói là dẫn khởi.

Theo cựu giải thì [trong kinh văn] có 5 thí dụ. Một là thí dụ có ông trưởng giả; thứ hai là thí dụ [ông trưởng giả] nghĩ cách cứu giúp [những đứa con]; thứ ba là thí dụ quyền lập phương tiện; thứ tư là thí dụ [giáo pháp] bình đẳng; thứ năm là thí dụ [giáo pháp] không hư vọng.

Nhưng xét thí dụ nêu ra đầu tiên là nói tổng quát, không chỉ nói riêng ông trưởng giả. [Thí dụ] nghĩ cách cứu con thì chưa đủ nghĩa. Do [không nói] thí dụ thấy lửa [đang cháy nhà], nên [cách phân chia giải thích như trên] không dùng đến.

Ngài Pháp Dao nói: Trong phẩm Phương tiện, từ câu “Chư Phật tùy chỗ thích hợp mà thuyết pháp” cho đến hết phần văn trường hàng chính là hiển bày Nhất thừa chân thật.

Nói chung phần này có thể chia thành 4 ý. Thứ nhất là trừ bỏ bốn [nghĩa giáo, lý, hành, nhân] của ba thừa đã thuyết trước đây, nay thuyết giảng thành tứ nhất.[168] Thứ hai là [nói nghĩa] do 5 sự uế trược [che chướng chúng sanh] cho nên không thể giảng nói Nhất thừa. Thứ ba là từ câu “Nếu các đệ tử của ta tự cho mình là A-la-hán...” trở đi, nêu rõ những trường hợp không hiểu đúng pháp. Thứ tư là từ câu “Xá-lợi-phất! Các ông nên hết lòng tin hiểu...” trở đi, nêu rõ nghĩa [lời Phật dạy] không hư dối, từ ban sơ đến rốt cùng, tuy lời [Phật] nói có khác biệt nhưng nếu theo ý nghĩa mà tìm cầu thì tất cả đều chân thật.

Phần sau [trong phẩm Thí Dụ] nói việc trong nhà lửa là dùng thí dụ để nêu 3 ý trong phẩm Phương tiện này. Từ câu “Như trong nước có ông đại trưởng giả”[169] trở đi cho đến hết câu “nguyện đến lúc ban cho”[170] là thí dụ nêu ý thứ nhất, nói về nghĩa 5 uế trược [che chướng]. Từ câu [“Xá-lợi-phất! Lúc bấy giờ ông trưởng giả] ban cho mỗi đứa con một cỗ xe lớn”[171] cho đến hết câu “được điều chưa từng có”[172] là thí dụ nêu ý thứ hai, nói về nghĩa [pháp Phật] là chân thật. Từ câu “ông trưởng giả ấy bình đẳng ban cho các con...”[173] đến hết câu “có phải là hư dối chăng?”[174] là thí dụ nêu ý thứ ba, nói về nghĩa [pháp Phật] không hư dối.

Ngài Huyền Sướng[175] nói có 6 thí dụ. Thứ nhất là nêu việc trong nhà [đang cháy], thí dụ tướng trạng các tai ách [của chúng sanh]. Thứ hai là nêu việc [ông trưởng giả] tỉnh giác rõ biết [nhà đang cháy], thí dụ duy nhất chỉ có Phật khởi ý niệm Nhất thừa. Thứ ba là [nêu việc các con không nghe lời], thí dụ chúng sinh không [đủ sức] thọ nhận [giáo pháp Nhất thừa], nên [Phật] phải vì [chúng sanh] nói ra những việc đáng kinh sợ [trong chốn sinh tử]. Thứ tư là [nêu việc trưởng giả hứa cho ba loại xe đẹp], thí dụ Phật phương tiện nói ba thừa là an vui. Thứ năm là [nêu việc các con ra khỏi nhà lửa an toàn, được trưởng giả ban cho cùng một loại xe báu], thí dụ việc Phật [trừ bỏ ba thừa,] thuyết giảng giáo pháp Nhất thừa. Thứ sáu là tổng kết [các ý nghĩa trên] để chỉ rõ pháp Phật không hư dối.

Ngài Long Sư[176] cũng nói có 6 thí dụ. Thứ nhất là nêu việc cha con ông trưởng giả trong căn nhà [đang cháy], thí dụ như đức Phật tôn quý nhất trong 3 cõi, giáo hóa chúng sinh. Thứ hai là ông trưởng giả thấy biết lửa [đang cháy nhà], thí dụ như Phật dùng Phật nhãn thấy rõ chúng sinh [khổ đau] trong 6 đường. Thứ ba là ông trưởng giả [nghĩ cách] cứu [các con ra khỏi nhà] lửa cháy, thí dụ như đức Phật [sau khi thành đạo] trong 21 ngày [suy nghĩ] muốn hóa độ chúng sinh nhưng không thể vận dụng Đại thừa. Thứ tư nêu việc ông trưởng giả dùng phương tiện dẫn dụ [các con] bằng 3 loại xe, thí dụ như đức Phật phương tiện tạm thuyết giáo pháp ba thừa. Thứ năm nêu việc ông trưởng giả ban cho [tất cả các con cùng] một loại một xe lớn, thí dụ như Phật việc thuyết kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Thứ sáu [nêu việc ông trưởng giả dẫn dụ cứu thoát các con] thí dụ như Phật thuyết pháp không hư dối.

[Phần kệ tụng ở đây dẫn khởi] thí dụ căn nhà bốc cháy [trong phẩm Thí Dụ ở phần sau, có 10 nghĩa dẫn khởi cho] 10 thí dụ.

Thứ nhất, từ câu “Nay ta cũng như vậy” trở đi gồm 2 khổ kệ, tụng lại tổng quát cả hai ý nghĩa về quyền và thật trong phần văn trường hàng ở trên và nêu ý nghĩa dẫn khởi chung cho các thí dụ [trong phẩm Thí Dụ].

Thứ hai, từ câu “Xá-lợi-phất nên biết” trở đi gồm 4 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa về 5 sự uế trược trong văn trường hàng phần trên, là ý nghĩa dẫn khởi cho thí dụ thấy lửa [cháy nhà].

Thứ ba là từ câu “Ban sơ ngồi đạo trường”, gồm 6 khổ rưỡi kệ, nêu rõ nghĩa không thể dùng Đại thừa để giáo hóa chúng sinh [nhiều tham đắm, si mê]. Đây là ý nghĩa dẫn khởi cho thí dụ [ông trưởng giả muốn] cứu các con [ra khỏi nhà đang cháy] mà không thể được.

Thứ tư, từ câu “Liền nhớ Phật quá khứ” trở đi gồm 11 khổ kệ, nêu rõ ý nghĩa [vận dụng] ba thừa có thể giáo hóa được [chúng sanh], đồng thời là ý nghĩa dẫn khởi cho thí dụ [ông trưởng giả] cứu được các con thoát [ra khỏi căn nhà đang cháy].

Thứ năm, từ câu “Xá-lợi-phất nên biết! Ta thấy những Phật tử...” gồm 1 khổ kệ, nêu rõ sự phát khởi căn cơ Đại thừa, cũng là ý nghĩa dẫn khởi cho thí dụ [ông trưởng giả] nhìn thấy các con đã thoát nạn.

Thứ sáu, từ câu “Đều khởi tâm cung kính” trở đi gồm 1 khổ kệ, nêu rõ ý nghĩa [người đã nghe giáo pháp] ba thừa tìm cầu quả vị, cũng là ý nghĩa dẫn khởi cho thí dụ các con [của ông trưởng giả] đòi hỏi [cha ban] cho xe.

Thứ bảy, từ câu “Ta liền suy nghĩ rằng” trở đi gồm 2 khổ kệ thêm một câu, nêu rõ sự hoan hỷ của Như Lai, là ý nghĩa dẫn khởi cho thí dụ ông trưởng giả hoan hỷ [thấy các con thoát nạn].

Thứ tám, từ câu “Nay giữa chúng Bồ Tát” trở đi gồm 3 câu, nêu rõ việc [Phật vì đại chúng] thuyết giảng Đại thừa, là ý nghĩa dẫn khởi cho thí dụ [ông trưởng giả] cho các con [cùng một loại] xe lớn.

Thứ chín, từ câu “Bồ Tát nghe pháp này” trở đi gồm 1 khổ kệ,[177] nêu rõ việc chúng sinh hoan hỷ [được nghe pháp], là ý nghĩa dẫn khởi cho thí dụ các con [của ông trưởng giả] đều vui mừng [vì được xe lớn].

Thứ mười, từ câu “Các ông chớ hoài nghi” trở đi, gồm 1 khổ rưỡi kệ, nêu rõ ý nghĩa lời Phật dạy không hư dối, là ý nghĩa dẫn khởi thí dụ ông trưởng giả không dối gạt [các con].

Có người bàn luận rằng, nếu phân chia theo câu thì có 19 câu,[178] nhưng nếu phân chia theo ý nghĩa thì có 6 nghĩa. Thứ nhất là nêu nghĩa tổng quát; thứ hai là [trưởng giả] thấy lửa [cháy nhà, ví như đức Phật nhìn thấy chúng sinh chịu hiểm nạn trong 6 đường]; thứ ba là [Phật biết dùng] Nhất thừa không thể giáo hóa [chúng sinh, giống như ông trưởng giả không thể bảo các con ra khỏi nhà lửa]; thứ tư là [Phật biết dùng] ba thừa [phương tiện] có thể giáo hóa [chúng sinh, giống như ông trưởng giả dùng 3 loại xe dẫn dụ được các con ra khỏi nhà lửa]; thứ năm là [Phật] trở lại thuyết pháp Nhất thừa, [giống như ông trưởng giả dùng duy nhất một loại xe lớn ban cho các con]; và thứ sáu là lời Phật dạy không hư dối, [giống như ông trưởng giả không dối gạt các con]. Tất cả các phần khác đều có thể thu vào trong sáu ý nghĩa này.

Lại nếu xét theo 10 [ý nghĩa dẫn khởi đến 10] thí dụ [như vừa nói trước] thì có nhiều điểm sai biệt giữa phần nói pháp [trong phẩm này] và phần thí dụ [ở phẩm sau].

Trong phần nói pháp [thì nghĩa] tìm cầu quả vị đặt trước, đức Phật hoan hỷ nói sau, nhưng trong phần thí dụ thì nói ông trưởng giả vui mừng trước, các con đòi cho xe nói sau. [Như vậy,] tuy muốn nối kết hai phần thông nhau nhưng cuối cùng lại thành ra cách biệt rất xa.

Lại nữa, [xét trong hai phần] thì ý nghĩa lớn nhỏ trái ngược nhau. Trong phần nói pháp thì [Phật] thấy căn cơ Đại thừa phát khởi nên hoan hỷ, còn trong phần thí dụ thì ông trưởng giả chỉ do duyên nhỏ [là thấy các con] thoát nạn mà vui mừng.

Phần nói pháp làm rõ nhân Đại [thừa], phần thí dụ chỉ nêu quả nhỏ nhoi. Phần nói pháp nêu sự che chướng Đại [thừa] sắp bị phá đổ, phần thí dụ chỉ nói tai nạn nhỏ nhoi vừa thoát ra được. [Như vậy,] ý nghĩa và tác động [của các vấn đề] đều trái nghịch nhau.

Lại [xét nghĩa] có và không cũng khác biệt nhau. Trong phần nói pháp trình bày những bậc thượng căn dễ dàng giác ngộ nên không có việc [tương đương với các con trưởng giả] đòi xe, trong phần thí dụ thì nói hạng trung căn do mê hoặc nên mới có thí dụ [các con trưởng giả] đòi xe. Nếu dẫn sự cung kính [của hàng Phật tử] mà cho là [tương đương với] việc đòi xe thì hoàn toàn khác biệt, không phù hợp với ý của kinh văn.

Nay không nói đến 4 lỗi như trên,[179] nhưng xét theo chỗ có và không thì trong phần văn trường hàng có 5 nghĩa: thứ nhất là trừ bỏ ba thừa, thứ hai là hiển bày Nhất thừa, thứ ba là nêu 5 sự uế trược [che chướng], thứ tư là [phân biệt] chân ngụy và thứ năm là [xác quyết lời Phật dạy] không hư dối. Trong phần kệ tụng cũng có 5 nghĩa, chỉ khác là trong văn trường hàng có [nghĩa phân biệt] chân ngụy, trong kệ tụng thì không có; trong kệ tụng có nghĩa xưng tán pháp, trong văn trường hàng thì không có. Đó là xen lẫn hỗ tương cho nhau để trình bày [đầy đủ nghĩa].

Xét về thứ tự thì trong văn trường hàng trước nói việc trừ bỏ ba thừa, sau mới nói hiển bày Nhất thừa, trong phần kệ thì trước nói hiển bày Nhất thừa, sau mới nói trừ bỏ ba thừa.

Xét về nghĩa khai hợp, [thứ nhất] là khai mở ba thừa, kết lại hiển bày Nhất thừa, [nghĩa này] dẫn khởi cho thí dụ tổng quát [trong phẩm Thí Dụ]. Thứ hai là trong phần kệ [chỉ có nghĩa] kết lại mà không nói nghĩa khai mở. Kế tiếp là phần văn nói nghĩa lìa 5 sự uế trược, dẫn khởi cho 4 thí dụ trong phần sau, nói nghĩa khai mở mà không kết lại. Nghĩa không hư dối là dẫn khởi cho thí dụ không hư dối. Nghĩa chẳng hợp chẳng khai là làm rõ chỗ nắm giữ hay buông bỏ. Kinh văn có 4 đoạn là dẫn khởi cho 6 thí dụ [trong phần sau], nói nghĩa chấp giữ không buông. Phần xưng tán pháp không thuộc về 6 thí dụ nên nói nghĩa buông mà không giữ.

Luận về nghĩa chung hay riêng thì phần đầu nói trừ bỏ ba thừa, hiển bày Nhất thừa là nói chung việc Đức Thích-ca chỉ giáo hóa bằng 1 pháp môn. Từ phần nói về 5 sự uế trược trở đi thì đều là thí dụ nói riêng [từng ý nghĩa].

Kế đến [luận về] bản tích, phần tổng quát nêu giáo pháp của Phật bao gồm cả hai nghĩa bản, tích. Từ phần nói về năm sự uế trược trở đi là nói riêng từng nghĩa bản, tích. Riêng phần nói về 5 sự uế trược chính là nêu rõ [nghĩa Phật] trụ nơi pháp thân là bản, nhìn thấy chúng sinh khổ đau mà khởi tâm đại bi. Từ phần nói nghĩa không thể dùng Nhất thừa giáo hóa [chúng sanh] là nói [Phật] thương xót biểu hiện hình tích. Đại lược là như vậy.

Nay cho rằng ý chính của tích môn là trừ bỏ ba thừa, hiển bày Nhất thừa. Phần trước thuyết pháp chỉ thẳng, bậc thượng căn liền tỏ ngộ, hàng trung căn và hạ căn thì chưa hiểu, nên sau đó [Phật] vì họ mà nói các thí dụ. Từ thí dụ ba [xe như ba thừa] và một [xe như Nhất thừa] khiến cho [thính chúng] được hiểu rõ.

Phần trước thuyết chánh pháp đã có đủ nói lược và nói rộng về nghĩa trừ bỏ ba thừa, hiển bày Nhất thừa, phần sau thuyết thí dụ cũng đủ nghĩa nói lược và nói rộng việc [ông trưởng giả] hứa hẹn 3 [loại xe] rồi ban cho chỉ 1 [loại xe lớn]. [Lần thứ ba] thuyết nhân duyên cũng dẫn dắt từ ba thừa về Nhất thừa.

Nếu theo những cách giải thích [như trên để hiểu] phần thí dụ có 3 ý, 6 ý hay 10 ý[180] thì không phù hợp với nghĩa 3 lần [thuyết pháp][181] trong kinh văn, cũng sai lệch với chỗ tin hiểu của 4 vị [Đại Thanh văn[182] trong phẩm Tin hiểu], do vậy ở đây không dùng đến.

Nay giảng rõ trong tổng phần thứ hai này nói về đức Phật Thích-ca, chia làm 2 phần.

- Phần thứ nhất từ câu “Nay ta cũng như vậy” trở đi gồm 2 khổ kệ, lược tụng lại ý nghĩa về quyền và thật trong phần kinh văn trường hàng, làm nghĩa dẫn khởi cho thí dụ tổng quát [trong phẩm Thí Dụ].

- Phần thứ hai từ câu “Xá-lợi-phất nên biết, ta dùng Phật nhãn quán” trở đi gồm có 41 khổ rưỡi kệ, tụng rộng về 6 nghĩa trong văn trường hàng ở trước, làm nghĩa dẫn khởi cho các thí dụ riêng biệt [trong phẩm Thí Dụ].

Lược nói trong phần thứ nhất có 6 ý, có thể là dẫn khởi cho 6 ý nghĩa trong phần thí dụ tổng quát [của phẩm Thí Dụ].

KINH VĂN

Nay ta cũng như vậy,
Vì giúp chúng an ổn,
Dùng đủ mọi pháp môn,
Để chỉ bày Phật đạo.
Ta dùng sức trí tuệ,
Biết lòng dục chúng sinh,
Phương tiện giảng các pháp,
Khiến cho đều hoan hỷ.

Phần thứ nhất, kệ nói “Nay ta cũng như vậy”, “ta” ở đây là đức Phật Thích-ca, tức là bậc chủ trì giáo hóa, là dẫn khởi cho phần thí dụ “có ông đại trưởng giả” [trong phẩm Thí Dụ].

[Lời kệ nói “vì giúp chúng an ổn”,] “an ổn” ở đây là Đại Niết-bàn, là trụ xứ thường an vui. Trụ xứ này yên tĩnh vắng lặng, không bị che chướng bởi năm sự uế trược cho nên gọi là an ổn. An ổn là trái ngược với không an ổn. Không an ổn tức là chốn sinh tử trong ba cõi, nơi [chư Phật] thi hành giáo hóa. Vì có 5 sự uế trược che chướng nên nói là không an ổn, tức là dẫn khởi cho thí dụ căn nhà đang cháy [trong phẩm Thí Dụ]. “Chúng” là nói chúng sinh được giáo hóa trong 5 đường,[183] là dẫn khởi cho thí dụ 500 người [trong phẩm Thí Dụ].

Lại nữa, an ổn là pháp an ổn, đối lại với pháp không an ổn. Pháp không an ổn là 5 uế trược, là dẫn khởi cho thí dụ lửa bốc lên cháy [nhà trong phẩm Thí Dụ].

Lời kệ nói “Dùng đủ mọi pháp môn” tức là trái với không có đủ loại, là dẫn khởi cho thí dụ [căn nhà] chỉ có 1 cửa [trong phẩm Thí Dụ].

Kệ nói “Biết lòng dục chúng sanh” tức là [biết] căn tánh của chúng sinh trong 5 đường có 3 ba thừa sai biệt, là dẫn khởi cho thí dụ 30 người con [trong phẩm Thí Dụ]. [Từ câu này] về trước là nói lược ý nghĩa, [từ câu này] trở đi là dẫn khởi cho thí dụ tổng quát [trong phẩm Thí Dụ].

[Như vậy là] trước sau có sự hỗ tương thừa tiếp, ý nghĩa kinh văn mạch lạc đầy đủ. Trong phần thí dụ lại còn dẫn [kinh văn] ở trước để chứng minh ý nghĩa về sau. Đại lược là như vậy.

KINH VĂN

Xá-lợi-phất nên biết!
Ta dùng Phật nhãn quán,
Thấy chúng sinh sáu đường,
Nghèo khốn, không phước trí,
Vào đường hiểm sinh tử,
Khổ triền miên không dứt,
Bám chấp năm món dục,
Như bò thích đuôi bò,
Tham ái tự che lấp,
Mê tối chẳng thấy gì.
Không cầu oai lực Phật,
Dứt trừ các pháp khổ,
Vào sâu rừng tà kiến,
Muốn dùng khổ dứt khổ.
Vì những chúng sinh ấy,
Ta khởi tâm đại bi.

Phần [thứ hai] tụng rộng 6 ý nghĩa [trong văn trường hàng], có thể chia làm 4 tổng đoạn, là nghĩa dẫn khởi cho các thí dụ riêng biệt [trong phẩm Thí Dụ].

- Tổng đoạn thứ nhất là từ câu “Xá-lợi-phất nên biết, ta dùng Phật nhãn quán” trở đi gồm 4 khổ kệ,[184] tụng rộng ý nghĩa về 5 sự uế trược trong văn trường hàng và dẫn khởi cho thí dụ [ông trưởng giả] nhìn thấy lửa [cháy nhà] trong phần sau.

- Tổng đoạn thứ hai là từ câu “ban sơ ngồi đạo tràng” trở đi, gồm 17 khổ rưỡi kệ, tụng rộng ý nghĩa từ nơi Nhất thừa mở bày ra ba thừa trong văn trường hàng ở trên, làm nghĩa dẫn khởi cho thí dụ [ông trưởng giả] không dùng sức mạnh mà bày ra việc hứa hẹn cho [xe nhỏ đồ chơi trong phẩm Thí Dụ].

- Tổng đoạn thứ ba là từ câu “Xá-lợi-phất nên biết, ta thấy những Phật tử” trở đi gồm 6 khổ kệ,[185] tụng rộng ý nghĩa hiển bày chân thật trong văn trường hàng ở trên, là ý nghĩa dẫn khởi thí dụ [ông trưởng giả] ban cho [các con cùng một loại] xe lớn [trong phẩm Thí Dụ].

- Tổng đoạn thứ tư là từ câu “Như nghi thức thuyết pháp, của ba đời chư Phật” trở đi gồm 5 khổ rưỡi kệ, tụng rộng ý nghĩa xưng tán chánh pháp hy hữu trong phần văn trường hàng. Tiếp theo có 2 khổ rưỡi kệ tụng lại ý nghĩa không hư dối. Kế tiếp nữa là 6 khổ kệ tụng lại ý nghĩa khuyến khích tin nhận. Cả 3 ý này hợp lại làm nghĩa dẫn khởi cho thí dụ [ông trưởng giả] không dối gạt [các con trong phẩm Thí Dụ].

Đại lược là như vậy, dưới đây sẽ phân chia chi tiết hơn.

Tổng đoạn thứ nhất tụng về 5 sự uế trược chia thành 3 đoạn.

Đoạn thứ nhất có nửa khổ kệ và 1 chữ [thấy], nêu rõ chỗ quán sát, nhìn thấy của Phật nhãn, làm nghĩa dẫn khởi cho thí dụ ông trưởng giả thấy được [lửa bốc lên cháy nhà trong phẩm Thí Dụ].

Đoạn thứ hai từ [4 chữ] “chúng sinh sáu đường” trở đi gồm 4 chữ và 2 khổ kệ thêm 3 câu, nêu rõ chỗ thấy [của Phật] về 5 sự uế trược, làm nghĩa dẫn khởi cho thí dụ [ông trưởng giả] thấy lửa [bốc lên cháy nhà trong phẩm Thí Dụ].

Đoạn thứ ba từ câu “vì những chúng sinh ấy” trở đi có nửa khổ kệ, nêu rõ việc [đức Phật] khởi tâm đại bi, làm ý nghĩa dẫn khởi cho thí dụ ông trưởng giả kinh sợ trong nhà lửa [vì lo cho các con].

Tổng đoạn thứ hai từ câu “Ban sơ ngồi đạo trường” trở đi, nếu dùng nghĩa mở bày ba thừa thì lại chia thành 2 đoạn.

Đoạn thứ nhất có 6 khổ rưỡi kệ, [Phật] suy nghĩ việc dùng Đại thừa giáo hóa [chúng sanh] không thể được, làm nghĩa dẫn khởi cho thí dụ [ông trưởng giả] tuy tự thân có sức mạnh nhưng không dùng đến.

Đoạn thứ hai từ câu “Liền nhớ Phật quá khứ” trở đi có 11 khổ kệ, [Phật] suy nghĩ giống như chư Phật quá khứ, nên dùng ba thừa để giáo hóa [chúng sanh], làm nghĩa dẫn khởi cho thí dụ [ông trưởng giả] bày ra 3 xe hứa cho [các con].

Tổng đoạn thứ ba tụng lại ý nghĩa hiển bày lẽ thật [trong văn trường hàng], lại chia thành 4 đoạn.

Đoạn thứ nhất từ câu “Xá-lợi-phất nên biết, ta thấy những Phật tử” trở đi, gồm 2 khổ kệ, nêu rõ việc phát khởi căn cơ Đại thừa, làm nghĩa dẫn khởi cho thí dụ [các con ông trưởng giả] xin được ban cho xe [như đã hứa].

Đoạn thứ hai từ câu “Ta liền suy nghĩ rằng” trở đi gồm 2 khổ kệ và 1 câu, nêu rõ việc Phật hoan hỷ, làm nghĩa dẫn khởi cho thí dụ [ông trưởng giả] thấy các con thoát nạn [trong lòng vui mừng].

Đoạn thứ ba từ câu “nay giữa chúng Bồ Tát” trở đi gồm 3 câu kệ, chính thức hiển bày pháp chân thật, làm nghĩa dẫn khởi cho thí dụ [ông trưởng giả] ban cho [các con] cùng một loại xe lớn.

Đoạn thứ tư từ câu “Bồ Tát nghe pháp này” trở đi gồm 1 khổ kệ nêu rõ việc [hàng Bồ Tát] thọ nhận [chánh pháp] tu hành tỏ ngộ và thể nhập [tri kiến Phật], làm nghĩa dẫn khởi cho thí dụ các con [của ông trưởng giả mỗi người] đều được một cỗ xe lớn nên hoan hỷ.

Phần tụng lại ý nghĩa [lời Phật] không hư dối trong văn trường hàng, làm nghĩa dẫn khởi cho thí dụ [ông trưởng giả] không dối gạt [các con]. [Phần này chỉ có một ý,] không bàn việc phân chia.

Lại nữa, nếu phân chia các phần lớn tức là dẫn khởi cho 3 thí dụ [ở phần sau].

Trước hết từ câu “Nay ta cũng như vậy, vì giúp chúng an ổn” trở đi gồm 2 khổ kệ, [nói nghĩa] hợp lại không lìa bỏ, làm nghĩa dẫn khởi cho thí dụ tổng quát.

Thứ hai là từ câu “Xá-lợi-phất nên biết, ta dùng Phật nhãn quán” trở đi [gồm 3 khổ rưỡi kệ, nói nghĩa nên] lìa bỏ không hợp lại, làm nghĩa dẫn khởi cho các thí dụ riêng biệt [trong phẩm Thí Dụ].

Thứ ba là [từ câu “vì những chúng sinh ấy” gồm nửa khổ kệ nói nghĩa] không hư dối, không lìa bỏ cũng không hợp lại, làm nghĩa dẫn khởi cho thí dụ [ông trưởng giả không dối gạt các con trong phẩm Thí Dụ].

[Như vậy,] nếu nương theo nghĩa phần trên làm chỗ dẫn khởi cho phần dưới, kệ tụng có đủ hai phần nói lược và nói rộng thì ý nghĩa thông suốt cả ba vòng thuyết pháp cũng như trong phẩm Tin hiểu, văn và nghĩa đều không khiếm khuyết.

Nếu riêng theo phần tụng rộng thì có thể chia ra 4 ý, tụng lại 4 nghĩa trong văn trường hàng ở trước, làm nghĩa dẫn khởi cho 4 thí dụ [trong phẩm Thí Dụ], như vậy cũng thông suốt cả 3 vòng thuyết pháp cùng ý nghĩa trong phẩm Tin hiểu, văn và nghĩa đều không khiếm khuyết.

Nếu lại phân chia phần tụng về 5 sự uế trược thành 3 ý, phần tụng nghĩa phương tiện thành 2 ý, phần tụng hiển bày chân thật thành 4 ý, [phần tụng nghĩa] không hư dối chỉ 1 ý, tất cả hợp thành 10 ý, làm nghĩa dẫn khởi cho 10 thí dụ trong phẩm Thí Dụ thì 10 ý này chỉ phù hợp với 2 vòng thuyết chánh pháp và thuyết thí dụ, còn so với nghĩa trong phẩm Tin hiểu cùng việc thuyết nhân duyên thì văn lại khiếm khuyết.

Cho nên, việc phân chia thành 3 phần với các ý như trên là nương theo phần trước làm dẫn khởi cho phần sau, hoàn toàn không phải là tùy tiện không thú hướng.

[Thứ nhất là] phần kệ tụng nói lược thì trước có 1 khổ kệ, tụng lại nghĩa hiển bày chân thật, sau cũng 1 khổ kệ tụng lại nghĩa khai mở quyền biến, [đều là nghĩa trong văn trường hàng bên trên]. Phần kinh văn này tuy ngắn nhưng nêu đầy đủ nghĩa tứ nhất.[186]

“Nay ta cũng như vậy”, là giống như chư Phật ở điểm này, đều dùng một [Phật thừa] chân thật để giáo hóa chúng sinh. Câu này tụng lại tổng quát về nghĩa hiển bày chân thật.

[“Vì giúp chúng an ổn”,] nói an ổn thì [chỉ có] tạng bí mật Niết-bàn là nơi an ổn. Chư Phật tự mình an trụ trong đó, lại cũng giúp cho chúng sinh được thể nhập vào tạng bí mật ấy.

Nói chỗ “an ổn” tức là tụng nghĩa lý nhất. Nói đến “chúng” tức là tụng nghĩa nhân nhất. “Dùng đủ mọi pháp môn, để chỉ bày Phật đạo” tức là tụng nghĩa hành nhất. “Chỉ bày” tức là nghĩa giáo nhất.

“Ta dùng sức trí tuệ” tức là nói trí tuệ quyền biến phương tiện. “Biết lòng dục chúng sanh” là soi chiếu thấu rõ căn cơ Tiểu thừa. “Phương tiện giảng các pháp” là tạm bày các pháp quyền biến phương tiện. “Khiến cho đều hoan hỷ” là [chỉ bày dẫn dắt] tùy căn cơ thích hợp.

Hai khổ kệ này tuy nói lược nhưng thu tóm được một đường hướng giáo hóa chung của chư Phật, từ mở bày quyền biến cho đến hiển bày chân thật, thấu suốt ngọn nguồn rõ thông kết quả, hết thảy không có gì là không bao quát. Cho nên nói rằng phần lược tụng này là dẫn khởi cho thí dụ tổng quát [trong phẩm Thí Dụ].

n Thứ hai là từ câu “Xá-lợi-phất nên biết, ta dùng Phật nhãn quán” trở đi, gồm 41 khổ rưỡi kệ, rộng tụng 6 nghĩa[187] trong văn trường hàng ở trước. Các nhà cựu giải cho rằng 7 khổ kệ sau cùng [trong đoạn này] là thuộc phần lưu thông. Nay không dùng cách giải thích đó mà xem đây là phần xưng tán chánh pháp để khuyến khích lòng tin.

- Tổng đoạn thứ nhất có 4 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa về 5 sự uế trược và [quyền biến] khai mở ba thừa trong văn trường hàng.

- Tổng đoạn thứ hai tiếp theo có 17 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa [Phật] bày ra các phương tiện giáo hóa trong văn trường hàng.

- Tổng đoạn thứ ba có tiếp theo có 6 khổ kệ tụng lại ý nghĩa hiển bày lẽ thật trong văn trường hàng.

- Tổng đoạn thứ tư có 5 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa xưng tán chánh pháp hy hữu trong văn trường hàng. Tuy trong phần nói về Phật Thích-ca không có nghĩa này, nhưng đây là chỉ đến phần nói về chư Phật.

- Tổng đoạn thứ năm gồm 2 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa không hư dối trong văn trường hàng.

- Tổng đoạn thứ sáu gồm 6 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa khuyến khích lòng tin trong văn trường hàng.[188]

[Nay bắt đầu nói về] 4 khổ kệ đầu tiên, tụng lại ý nghĩa về 5 sự uế trược. Phần văn trường hàng ở trên có 4 phần: nêu số, kể tên, hiện thể và kết thích; nay trong phần kệ chỉ có 3 phần là nêu số, kể tên và hiện thể. Văn trường hàng nói vì 5 sự uế trược [che chướng] nên phải thuyết ba thừa, nay trong kệ tụng nói vì 5 sự uế trược nên [Phật] xuất thế. [Phật] xuất thế vốn là để thuyết giảng Đại thừa, nhưng do [chúng sinh bị] che chướng không thể tiếp nhận được nên trước tiên phải [tạm] thuyết Tiểu thừa.

Tổng đoạn này lại chia làm 3 đoạn.

- Đoạn thứ nhất có 11 chữ,[189] nêu rõ việc Phật có [Phật nhãn] có năng lực nhìn thấy.

- Đoạn thứ thứ hai từ “chúng sinh sáu đường” trở đi gồm 4 chữ và 2 khổ kệ cộng thêm 3 câu, nêu rõ 5 sự uế trược Phật nhìn thấy.

- Đoạn thứ thứ 3 từ “vì những chúng sinh ấy” trở đi gồm nửa khổ kệ, nêu rõ việc [Phật] khởi tâm đại bi để ứng cứu [chúng sanh].

Đoạn thứ nhất có 11 chữ, [trong đó nói] “ta dùng Phật nhãn quán thấy”, [tương ứng với] kinh văn [trong phẩm Thí Dụ] ở phần sau nói “ông trưởng giả đứng bên ngoài cửa”. Đây là nêu văn phần sau để chứng minh phần trước, nên biết rằng Phật an trụ nơi pháp thân, dùng Phật nhãn thường vắng lặng để soi chiếu khắp thảy căn cơ [chúng sanh]. Nếu thấy [chúng sanh] căn tánh lanh lợi, uế trược [che chướng] nhẹ thì hiện hình tượng Phật Lô-xá-na[190] để thuyết pháp Nhất thừa. Nếu thấy [chúng sanh] căn tánh ngu độn, uế trược [che chướng] nặng nề thì cởi bỏ chuỗi anh lạc, dùng hình tượng vị tỳ-kheo già,[191] kinh sợ [trước nỗi khổ của chúng sanh] mà đi vào trong nhà lửa [ba cõi], dùng phương tiện khai mở ba thừa. Tùy thời quán chiếu xem xét rõ biết căn cơ, cho nên nói “ta dùng Phật nhãn quán thấy”.

[Hi:] Nếu quán các pháp hình sắc thì nên dùng thiên nhãn, nếu để phân biệt căn cơ thì nên dùng pháp nhãn, vì sao lại nói dùng Phật nhãn để thấy?

[Đáp:] Vì Phật nhãn trọn vẹn thông suốt, nên nêu chỗ thù thắng nhất thì đã bao gồm hết những điều kém hơn. Lại nữa, hết thảy các loại nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn khi ở nơi Phật thì đều gọi chung là Phật nhãn. Đại lược là như vậy.

Đoạn thứ hai từ “sáu đường chúng sanh” trở đi, có 4 chữ và 2 khổ kệ cộng thêm 3 câu, nêu rõ chỗ thấy [của Phật] về năm sự uế trược. Câu “sáu đường chúng sinh, nghèo khốn, không phước trí”[192] là nói về chúng sinh trược. “vào đường hiểm sinh tử, khổ triền miên không dứt” là nói về mạng trược. Từ câu “bám chấp năm món dục” trở đi gồm 1 khổ kệ là nói về phiền não trược. “Không cầu oai lực Phật, dứt trừ các pháp khổ” là nói về kiếp trược. “Vào sâu rừng tà kiến, muốn dùng khổ dứt khổ” là nói về kiến trược.

[Do tà kiến nên muốn dùng khổ để dứt khổ,] như có người nói, [đó là] dùng 5 loại sức nóng tự nung đốt thân thể để mong thoát khổ,[193] nhưng ngược lại [đã không thoát khổ] còn bị khổ báo. Hoặc nói rằng các tà kiến đều dẫn đến cảm thọ, cảm thọ tức là khổ. Thực hành nhân khổ [như vậy] mà mong muốn được dứt khổ, làm sao có thể được?

Kinh Phổ Diệu nói: “Nói về nguyên do sinh vào 5 đường thì giữ theo 5 giới sinh vào cõi người, thực hành 10 nghiệp lành sinh lên cõi trời, tham lam keo kiệt đọa vào cảnh giới ngạ quỷ, hung hăng đấu đá thì đọa làm súc sinh, tạo 10 nghiệp ác thì đọa vào địa ngục. Nếu không phải sinh trong 5 đường, không có 5 ấm, 6 pháp suy hao,[194] đó tức là Niết-bàn.”[195] Chẳng ở trong sinh tử cũng chẳng trụ nơi Niết-bàn, ngay đó liền quyết định thọ nhận Bồ-đề.

Luận A-tỳ-đàm Tỳ-bà-sa, quyển 7 nói: Người đọa vào địa ngục, khi vừa mới sinh ra liền nghĩ rằng: “Trước đây ta nghe các vị sa-môn nói rằng, tham dục là lỗi xấu ác phải sinh vào địa ngục rất đáng sợ. Ta ngày trước không dứt trừ được tham dục nên nay phải chịu sự khổ não kinh khủng này.” Ở đây nêu rõ tham dục là nguyên nhân sinh vào địa ngục.

Lại nói rằng, trong 5 đường, mỗi nơi đều tự có pháp riêng. Như ở địa ngục thì hình sắc vừa dứt đoạn liền lập tức tiếp nối trở lại.[196] Trong loài súc sinh có những loài có thể bay trên không trung.[197] Trong cảnh giới ngạ quỷ, vào những khi [có người cúng thí] thì có thể đến trong cõi người [để thọ nhận]. Trong cõi người có những người dũng mãnh tài ba, có sức nhớ nghĩ, có hạnh thanh tịnh. Dũng mãnh tài ba là nói người chưa nhìn thấy quả [lành] mà vẫn có thể rộng tu nhân [hiền thiện]. Có sức nhớ nghĩ là những việc đã làm từ rất lâu xa có thể nhớ lại. Có hạnh thanh tịnh là có khả năng đạt các quả vị giải thoát, Thanh văn, Duyên giác, Sơ quả Bồ Tát.[198] Trong cõi trời thì [chư thiên] có khả năng tự nhiên có được những thứ cần dùng tùy ý muốn. Đại lược là như vậy.

Trong địa ngục [có những chúng sanh] thành tựu nghiệp phiền não cho đến nghiệp thiện của cõi trời Tha hóa Tự tại, nhưng các nghiệp ấy không tức thời hiện hành. Nơi cõi trời Tha hóa Tự tại [cũng có chư thiên] tạo tác các nghiệp phiền não cho đến nghiệp bất thiện cõi địa ngục, nhưng các nghiệp ấy không tức thời hiện hành. Chỉ nêu cõi trên cao nhất và cõi bên dưới thấp nhất, những cõi khác ở khoảng giữa do đó có thể suy ra biết được.

Địa ngục là tên gọi ở Trung Hoa, người Ấn Độ gọi là nê-lê (niraya), Hán dịch là vô hữu (無有), vì ở cảnh giới này không có sự hoan hỷ, không có mùi vị, không có mừng vui, không có lợi ích... cho nên gọi là vô hữu (không có); hoặc cũng nói là thấp hèn, cũng nói là đọa lạc, vì [khi vào địa ngục thì] thân trung ấm bị treo ngược, các căn đều bị hủy hoại. Hoặc nói “không” có nghĩa là không có nơi nào [trong địa ngục mà tội nhân] được ân xá, tha thứ. Do ngục tốt biến hóa làm cho thấy như không phải chúng sinh [hữu tình].[199] Thoạt tiên tội nhân bị trói dẫn đến chỗ Diêm vương thì vẫn còn là chúng sinh, đến khi chịu khổ [trong địa ngục] thì không còn tính là chúng sinh. Ban đầu vừa giải đến như vậy còn có thể nói năng biện bạch, đến khi thọ khổ [trong địa ngục] thì cho đến tiếng kêu đau đớn cũng không còn có thể phân biệt.[200]

Loài súc sinh, do hình thể không ngay, dáng đi không ngay nên gọi là súc sinh.[201] Lại nữa súc sinh còn gọi là biến hữu (có khắp), là nói có khắp trong năm đường. Trên các cõi Tứ vương thiên và cõi trời Tam thập tam đều có [súc sanh], nhưng các loài voi ngựa để cưỡi trên cõi trời đều là do phước nghiệp hóa sinh, cho nên không tính đó là chúng sinh. Lại nữa, súc sinh còn gọi là tối tăm mù mịt. Tối tăm mù mịt nghĩa là do nhiều phần vô minh, cho nên gọi là súc sinh.

[Chúng sinh vào thời] kiếp sơ đều có thể hiểu rõ [và dùng] ngôn ngữ của bậc thánh, dần dần về sau do ăn uống mà thay đổi khác đi. Do tâm siểm nịnh gian trá nên tiếng nói biến đổi [như tiếng người], hoặc không biết nói [như các loài súc sanh].

Loài quỷ, tiếng Phạn gọi là xà-lê-đa (preta), người nhà Tần gọi là “tổ phụ”, vì chúng sinh thuở ban sơ sinh vào cảnh giới quỷ nên gọi [quỷ] là tổ phụ,[202] loài quỷ sinh ra về sau [do đó] cũng gọi là tổ phụ.

Lại nữa, [chúng sanh] do keo kiệt tham lam nên bị đọa vào cảnh giới này, là nơi phải chịu nhiều sự đói khát, cho nên gọi là ngạ quỷ (quỷ đói). Lại cũng chịu sự sai khiến của chư thiên, thường hy vọng mong mỏi có được đồ ăn thức uống, cho nên gọi là ngạ quỷ.

Loài người, tiếng Phạn gọi là ma-nô-xà (manuṣya), Hán dịch là ý (意). Thuở xưa vua Đỉnh Sinh ban đầu dạy dỗ [con người] rằng mỗi khi làm việc gì [trước tiên] phải suy xét kỹ, phải trù lượng trước, phải thường nhớ nghĩ đến. [Con người] vâng theo lời dạy của vua nên mỗi khi làm việc gì đều có suy xét, trù lượng, nhớ nghĩ, do vậy nên con người, được gọi là “ý”.

Lại nữa, con người có thể ngăn dứt ý niệm, có thể tu theo chánh đạo đạt được các quả vị Thanh văn, Duyên giác...[203]

Lại nữa, người là “kiêu mạn”, vì trong năm đường [thì con người] nhiều kiêu mạn hơn cả cho nên gọi là cõi người.

Loài a-tu-la (asura), Hán dịch là phi thiên (chẳng phải trời), vì chữ “tu-la” có nghĩa là trời, chữ “a” là chẳng phải, không phải. Loài này chẳng phải chư thiên nên gọi là a-tu-la.

Lại nữa, tu-la là đoan chánh. Loài này không đoan chánh cho nên gọi là a-tu-la.

Lại nữa, tu-la là rượu, a là không. Loài này không uống rượu nên gọi là a-tu-la.

Thiên (trời) có nghĩa là thiên nhiên, tự nhiên thù thắng. Vì chư thiên có được khoái lạc thù thắng, thân hình thù thắng nên gọi là thắng. Tất cả mọi việc của chư thiên đều thù thắng, vượt hơn các cảnh giới khác [trong năm đường]. Lại thường dùng ánh sáng để tự chiếu sáng nên gọi là thiên.

Lại nữa, thiên là thiên nhiên, tự nhiên. Kinh A-hàm nói rằng: “Chúng sinh chỉ là tên gọi giả tạm, các cảnh giới là pháp. Năm đường chúng sinh cùng với pháp giới hòa hợp. Nếu chúng sinh làm việc xấu ác, tâm liền đi theo cảnh giới xấu ác. Nếu làm việc hiền thiện, tâm liền đi theo cảnh giới hiền thiện. Làm việc thù thắng thì tâm liền đi theo cảnh giới thù thắng, làm việc thấp hèn thì tâm đi theo cảnh giới thấp hèn. Cho nên vị tỳ-kheo phải học làm theo đủ mọi việc hiền thiện.”

Phần trên là dựa theo nhân duyên để giải thích về “chúng sinh sáu đường”.[204] Phần sau có vẻ như dùng nghĩa quán tâm để giải thích về sáu đường.

Đoạn thứ ba từ câu “vì những chúng sinh ấy” trở đi, nửa khổ kệ, nêu rõ việc [đức Phật] khởi tâm đại bi.

“Vì những chúng sinh ấy, ta khởi tâm đại bi”, đó là trước đã nêu khả năng nhìn thấy [của Phật nhãn], tiếp theo lại nói rõ những gì [đức Phật] nhìn thấy [trong sáu đường], đến đây thì do tâm đại bi [hun đúc nhiều đời nên] phải vào trong ba cõi thiết lập phương tiện dẫn dắt chúng sinh hướng theo trí tuệ Phật.[205]

__________________________________


CHÚ THÍCH

[1] Nguyên cả câu kinh văn được trích dẫn là: “我先不言:諸佛世尊以種種因緣、譬喻言辭方便說法,皆為阿耨多羅三藐三菩提耶?是諸所說,皆為化菩薩故 - Ngã tiên bất ngôn: ‘Chư Phật Thế Tôn dĩ chủng chủng nhân duyên, thí dụ ngôn từ phương tiện thuyết pháp, giai vi A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề da?’ Thị chư sở thuyết, giai vi hóa Bồ Tát cố.” (Chẳng phải trước đây ta đã từng nói rằng: “Các đức Phật Thế Tôn dùng đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, phương tiện để thuyết pháp, đều là vì dẫn dắt đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác” đó sao? Cho nên, hết thảy những điều thuyết dạy đó đều là vì giáo hóa hàng Bồ Tát.)

[2] Nguyên cả câu kinh được trích dẫn là: “我昔曾於二萬億佛所,為無上道故,常教化汝 - Ngã tích tằng ư nhị vạn ức Phật sở, vị Vô thượng đạo cố, thường giáo hóa nhữ.” (Trước đây ta từng ở nơi hai vạn ức vị Phật, vì thuyết dạy đạo Vô thượng nên thường giáo hóa ông)

[3] Nguyên cả câu kinh được trích dẫn là: “若如來自知涅槃時到眾又清淨, 信解堅固, 了達空法, 深入禪定, 便集諸菩薩及聲聞眾為說是經, 世間無有二乘而得滅度, 唯一佛乘得滅度耳。 - Nhược Như Lai tự tri Niết-bàn thời đáo, chúng hựu thanh tịnh, tín giải kiên cố, liễu đạt không pháp, thâm nhập thiền định, tiện tập chư Bồ Tát cập Thanh văn chúng vị thuyết thị kinh, thế gian vô hữu nhị thừa nhi đắc diệt độ, duy nhất Phật thừa đắc diệt độ nhĩ.” (Nếu đức Như Lai tự biết đã đến lúc nhập Niết-bàn, đại chúng lại thanh tịnh, có sự tin hiểu vững chắc, rõ biết thấu triệt pháp không, thể nhập sâu vào thiền định, ngài liền triệu tập các vị Bồ Tát và chúng Thanh văn để thuyết giảng kinh này, nói rõ trong thế gian không có 2 thừa được diệt độ, chỉ duy nhất 1 Phật thừa được diệt độ mà thôi.)

[4] Kinh Thắng Man, tên đầy đủ là Thắng Man Sư Tử Hống Nhất Thừa Đại Phương Tiện Phương Quảng Kinh (勝鬘師子吼一乘大方便方廣經). Câu trích dẫn trong kinh Thắng Man là: “三乘初 業, 不愚於法, 於彼義當覺當得 - “Tam thừa sơ nghiệp, bất ngu ư pháp ư bỉ nghĩa đương giác đương đắc.” (Hàng Tam thừa tu tập lúc ban sơ nếu không ngu muội nơi pháp thì đối với ý nghĩa [rốt ráo] này ắt sẽ hiểu rõ, đạt được.) (ĐCT, T12, 353, tr.222a d.29 - tr.222b d.1)

[5] Nguyên tác dùng “小果 - tiểu quả”, chỉ các quả vị mà hàng Nhị thừa chứng đắc. Theo nghĩa đen thường dịch là “quả nhỏ”. Chúng tôi cho rằng trong sự so sánh các quả vị trên đường tu tập hướng đến giác ngộ thì đây là những quả vị còn thấp, ở bên dưới. Như vậy sẽ phù hợp hơn là cách so sánh lớn hay nhỏ. Trong Hán ngữ thì chữ “小 - tiểu” có thể được hiểu theo cả hai cách.

[6] Tức là dẫn ý câu kinh: “是諸所說,皆為化菩薩故 - Thị chư sở thuyết giai vi hóa Bồ Tát cố - Những điều đã thuyết giảng đều là vì giáo hóa các Bồ Tát.”

[7] Giới nội hoặc (界內惑) là thuật ngữ đặc biệt của tông Thiên Thai, dùng để chỉ kiến tư hoặc (見思惑), tức là kiến hoặc và tư hoặc.

[8] Câu giải thích này hàm ý rằng, nếu nhìn từ trí tuệ chân thật của Phật thì không thật có hàng Thanh văn, chỉ là quyền biến, nhưng dựa theo căn tánh của chính hàng Thanh văn thì tất nhiên họ luôn nghĩ mình là Thanh văn, nghĩa là thật có.

[9] Nguyên tác chỉ nói Pháp hoa luận (法華論), nhưng phần trích dẫn này đúng là được tìm thấy trong Pháp hoa huyền luận (法華玄論) (ĐCT, T34, 1720) Đoạn trích nằm ở trang 422a, d.14 - 15: “晚見論明四種聲聞。一 決定聲聞。二增上慢聲聞。三退菩提心聲聞。四應化聲聞 - Vãn kiến luận minh tứ chủng Thanh văn. Nhất quyết định Thanh văn, nhị tăng thượng mạn Thanh văn, tam thối bồ-đề tâm Thanh văn, tứ ứng hoá Thanh văn.”

[10] Quyết định Thanh văn: ý nói hạng Thanh văn quá bám chấp, tin chắc vào giáo pháp Thanh văn đang tu tập, khó có cơ hội chuyển sang Đại thừa.

[11] Tăng thượng mạn Thanh văn: hạng Thanh văn khởi tâm kiêu mạn, thật chưa chứng thánh quả mà nói rằng đã chứng.

[12] Nguyên tác Văn Cú chỉ nói “退大 - thối đại”, dựa theo nguyên tác luận văn nói là “退菩提心 - thối Bồ-đề tâm” nên biết rằng ở đây muốn nói thối tâm Đại thừa.

[13] Theo Đại thừa thì Bồ Tát phải tu tập qua vô số kiếp trong sinh tử nên các vị này sinh tâm mỏi mệt, lại chán ghét sinh tử nên chọn theo Tiểu thừa vì cho rằng như vậy có thể dứt được sinh tử sớm hơn.

[14] Nguyên tác dùng “灰斷 - hôi đoạn”, chỉ việc từ đốt thân thành tro (hôi) và dứt trừ hoàn toàn tâm thức (đoạn) để đi vào Niết-bàn tịch diệt vĩnh viễn. Đây chỉ là suy nghĩ sai lầm của hàng Tiểu thừa vì thật ra theo lý Đại thừa thì không thể làm được như vậy.

[15] Nguyên tác dùng tam giáo (三教), ở đây chỉ giáo pháp của Tiểu thừa (hay Thanh văn thừa), Trung thừa (hay Duyên giác thừa, Bích-chi Phật thừa) và Đại thừa (Bồ Tát thừa) tương ứng với ba căn cơ khác biệt vừa đề cập trên.

[16] Nguyên tác dùng “十六心 - thập lục tâm”, tức chỉ 16 tâm bao gồm: 1. Khổ pháp nhẫn, 2. Khổ pháp trí, 3. Khổ loại nhẫn, 4. Khổ loại trí, 5. Tập pháp nhẫn, 6. Tập pháp trí, 7. Tập loại nhẫn, 8. Tập loại trí, 9. Diệt pháp nhẫn, 10. Diệt pháp trí, 11. Diệt loại nhẫn, 12. Diệt loại trí, 13. Đạo pháp nhẫn, 14. Đạo pháp trí, 15. Đạo loại nhẫn, 16. Đạo loại trí. 15 tâm đầu thuộc về hướng Tu-đà-hoàn, nghĩa là còn chưa chứng quả, đến tâm thứ 16 mới thuộc về quả Tu-đà-hoàn. Do vậy nên kinh văn ở đây nói đầy đủ 16 tâm mới gọi là chứng quả Tu-đà-hoàn.

[17] Đoạn này chỉ rõ tính chất không hợp lý của các nhà cựu giải. Nếu cho rằng sau lần thuyết chánh pháp đầu tiên, hàng trung căn đã chuyển thành thượng căn, vậy lẽ ra lần thuyết pháp thứ hai cũng phải giống lần trước, vì vẫn là thuyết cho hàng thượng căn, vì sao Phật phải chuyển sang thuyết về thí dụ? Tương tự, lần thứ ba nói theo lập luận này thì cũng là thuyết cho hàng thượng căn (từ hạ căn chuyển lên sau hai lần thuyết pháp), vậy lẽ ra vẫn là giống như lần đầu, vì sao Phật phải chuyển sang thuyết về nhân duyên? Do Phật thay đổi nội dung thuyết pháp cho thích hợp, nên biết rằng người nghe pháp vẫn là các hạng căn cơ khác nhau, ý nghĩa chuyển căn như trên không hợp lý.

[18] Nguyên tác dùng “木斷之處 - mộc đoạn chi xứ” (chỗ cây bị đốn), ý nói kết quả của việc đốn cây. Ví dụ này so sánh sự giác ngộ nhanh chậm của ba căn cơ với việc đốn cây dùng dao sắc hay dao cùn, tuy có nhanh chậm khác nhau nhưng cuối cùng vẫn đốn ngã được cây, cũng như ba căn cơ cuối cùng đều giác ngộ.

[19] Nguyên tác chỉ nói “經中多明 - kinh trung đa minh” rất tối nghĩa, vì dễ hiểu nhầm là trong kinh nói, nhưng ý nghĩa ở đây không phải vậy, mà là muốn nói sự nhận hiểu, giải thích sai của người đọc kinh. Bởi kinh văn thật sự không có phân chia căn cơ như nói ở đây, chỉ do người đọc nhận hiểu sai.

[20] Nguyên tác dùng “近果 - cận quả” (quả vị gần), chỉ những quả vị thấp của Tiểu thừa vì gần gũi, dễ chứng đắc hơn quả Phật.

[21] Tức là phát tâm Bồ-đề.

[22] Nguyên tác dùng “增道損生 - tăng đạo tổn sinh”, tức là tăng trưởng trí tuệ quán chiếu trung đạo, dần dần dứt trừ biến dịch sinh tử.

[23] Đây là nói theo ví dụ ông trưởng giả và người cùng tử trong kinh Pháp hoa, nên “định rõ cha con” có nghĩa là người cùng tử đã biết được thân phận thật của mình. Đến đây tất cả người chứng ngộ đều biết và tin rằng mình có khả năng thành Phật, cho nên đều gọi là Bồ Tát.

[24] Văn Cú trích dẫn chỗ này là “密遣二人追捉將還 - mật khiển nhị nhân truy bức tương hoàn“ không đúng với kinh văn, vì bị nhầm lẫn giữa 2 phần kinh văn tương tự. Đoạn trước kinh văn nói “sai người đuổi theo bắt lại” là “即勅使者, 追捉將來 - tức sắc sứ giả truy tróc tương lai”, và đoạn bí mật sai 2 người đến làm việc cùng đứa con là “密遣二人,形色憔悴 - mật khiển nhị nhân hình sắc tiều tụy...” Xét theo văn cảnh thì có lẽ Văn Cú đang muốn sử dụng đoạn sau này.

[25] Tức là nói ở đầu phẩm Phân biệt Công đức.

[26] Nguyên tác nói “餘有一生在 - dư hữu nhất sinh tại” (còn lại một đời), tức là nói đến giai vị Nhất sinh bổ xứ của ngài Di-lặc, chỉ còn một đời nữa là thành Phật.

[27] Theo giáo pháp Tiểu thừa, nhập chánh vị tức là chứng đắc từ Sơ quả Tu-đà-hoàn.

[28] Tức Đề-bà-đạt-đa.

[29] Nguyên tác dùng “八相記 - bát tướng ký”, chỉ 8 tướng trạng được Phật nêu ra khi thụ ký. Trong Đại thừa trang nghiêm kinh luận nói có 6 tướng trạng là: 1. tên cõi nước; 2. tên thời đại (kiếp danh), 3. danh hiệu Phật; 4. thời gian sẽ thành Phật, 5. đại chúng, quyến thuộc; 6. thời gian Chánh pháp tồn tại. Khi nói 8 tướng trạng là mở rộng thêm về thời gian tồn tại của 2 thời kỳ Tượng pháp và Mạt pháp.

[30] Nguyên tác dùng “損生 - tổn sinh” là cách nói vắn tắt của “增道損生 - tăng đạo tổn sinh”, tức là tăng trưởng trí tuệ trung đạo, giảm trừ biến dịch sinh tử.

[31] Đây là trích dẫn từ kinh Duy-ma-cật: “佛以一音演說法,眾生各各隨所解 - Phật dĩ nhất âm diễn thuyết pháp, chúng sinh các các tùy sở giải.” (ĐCT, T14, 475, tr.538a, d.4.) Văn Cú trích dẫn câu này nhưng không nêu nguồn trích dẫn và có khác đi một chút: “一音演說法眾生隨類各得解 - nhất âm diễn thuyết pháp, chúng sinh tùy loại các đắc giải.”

[32] Đây là câu kinh trích từ phẩm Như Lai Thần Lực (thứ 21) của kinh Pháp hoa. Nguyên văn là: “我等亦自欲得是真淨大法 - Ngã đẳng diệc tự dục đắc thị chân tịnh đại pháp” (ĐCT, T9, 262, tr.51c, d.12-13). Văn Cú trích lại có sai lệch vài chữ nhưng không khác nghĩa: “我自欲得此真淨大法 - Ngã tự dục đắc thử chân tịnh đại pháp.”

[33] Ngũ vị (五味), năm vị, là khái niệm so sánh được dùng để chỉ các giáo pháp khác nhau do Phật thuyết dạy, tương đương với năm thời thuyết giáo. Có một số quan điểm khác nhau, ở đây theo tông Thiên Thai thì năm vị là năm vị của sữa, gồm sữa tươi (nhũ), sữa đặc (lạc), váng sữa sống (sinh tô), váng sữa chín (thục tô) và đề hồ. Giáo pháp Hoa nghiêm được ví như vị sữa tươi, giáo pháp A-hàm ví như vị sữa đặc, giáo pháp Phương đẳng ví như vị sinh tô, giáo pháp Bát-nhã ví như vị thục tô và cuối cùng mới đến giáo pháp Niết-bàn, Pháp hoa được ví như vị đề hồ cao tột nhất.

[34] Văn Cú Ký giải thích rằng: “言如前者, 指上玄文 - Ngôn như tiền giả chỉ thượng huyền văn.” (Nói như trước [đã nói] tức là chỉ đoạn đã nói trước của Pháp hoa huyền luận.)

[35] Văn Cú nói là “有染慢 - hữu nhiễm mạn”. Văn Cú Ký giải thích là: “有染慢者有修惑也 - Hữu nhiễm mạn giả, hữu tu hoặc giả.” Tu hoặc (修惑) cũng chính là tư hoặc (思惑), chỉ những phiền não câu sinh của tất cả chúng sinh, vừa sinh ra đã sẵn có. Vì chỉ có thể dứt trừ bằng cách tu tập đạo pháp cho nên gọi là tu hoặc. Tư hoặc là cách dùng được nhiều người biết đến hơn.

[36] Văn Cú dùng “博地 - bác địa”, chỉ địa vị phàm phu, vì kẻ phàm phu chiếm số đông, có ở khắp nơi nên gọi là “博 - bác”. Thuật ngữ này thường được dùng nhiều hơn là “薄地 - bạc địa”, với nghĩa địa vị thấp kém, hạ liệt, vì không có tu tập chứng đắc.

[37] Văn Cú Ký giải thích chỗ này là: “聞法時無明已去, 復不名障 - văn pháp thời vô minh dĩ khứ, phục bất danh chướng.” (Vào lúc nghe thuyết pháp thì vô minh đã mất nên cũng không gọi là chướng.)

[38] Văn Cú Ký nói thuyết này là của các vị thầy thuộc Tam luận tông (三論宗). Đây là tông phái Phật giáo dựa trên 3 bộ luận chính là Trung Luận, Thập Nhị Môn Luận và Bách Luận.

[39] Từ đoạn này trở đi, Văn Cú chỉ nói tri (biết, hoặc có khả năng biết) và bất tri (không biết, hoặc không có khả năng biết), nhưng phải ngầm hiểu là chỉ cho việc biết hay không biết tánh Phật, tức là tiềm năng thành Phật sẵn có trong mỗi chúng sinh.

[40] Đoạn này Nguyên tác Văn Cú chép: “今於佛前皆墮疑惑, 我今不知是義所趣。- Kim ư Phật tiền giai đọa nghi hoặc, ngã kim bất tri thị nghĩa sở thú.” Đây chỉ là dẫn theo ý kinh, vì không đúng nguyên văn. Đoạn kinh được dẫn lời ngài Xá-lợi-phất có thể là đoạn này: “我等... ...而今不知是義所趣... ...今者四眾咸皆有疑。“ - Ngã đẳng... ...nhi kim bất tri thị nghĩa sở thú... ...kim giả tứ chúng hàm giai hữu nghi.”

[41] Văn Cú chỉ nói “大經云彗星。- Đại kinh vân tuệ tinh.“ (Đại kinh nói: Sao chổi.) Để dịch câu này, chúng tôi đã dựa vào ý nghĩa trong kinh Đại Bát Niết-bàn.

[42] Bộ hành Duyên giác (部行緣覺), cũng gọi là Bộ hành Độc giác (部行 獨覺), chỉ những vị Phật Bích-chi tuy tự mình quán chiếu tu tập nhưng thường nhóm họp nhiều người để cùng tu, nên gọi là “bộ hành” (thực hành chung cả nhóm người), khác với vị Lân giác Duyên giác (麟角緣覺) chỉ sống đơn độc, ví như con lân chỉ có một sừng.

[43] Tức là đến hết câu kệ: “心生大歡喜,自知當作佛。 - Tâm sinh đại hoan hỷ, tự tri đương tác Phật.” (Tâm sinh niềm hoan hỷ lớn lao, tự biết mình rồi sẽ thành Phật.)

[44] Cũng tức là đầu phẩm Thí Dụ. “譬喻品第三 - Thí Dụ phẩm - đệ tam”.

[45] Tức là đến hết câu kệ: “轉無上法輪,教化諸菩薩。 Chuyển Vô thượng pháp luân, giáo hóa chư Bồ Tát.”

[46] Đây là trích dẫn từ kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 23, phẩm Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương Bồ Tát, các bản sớ giải thường gọi tắt là Đức Vương Phẩm. Nguyên văn đoạn trích này là: “若離四法得涅槃者無有是處。何等為四。一者親近善友。二者專心聽法。三者繫念思惟。四者如法修行。 - Nhược ly tứ pháp đắc Niết-bàn giả vô hữu thị xứ. Hà đẳng vi tứ? Nhất giả thân cận thiện hữu. Nhị giả chuyên tâm thính pháp. Tam giả hệ niệm tư duy. Tứ giả như pháp tu hành.” (Không thể nào có việc lìa khỏi bốn pháp này mà được Niết-bàn. Đó là bốn pháp nào? Thứ nhất là gần gũi bạn lành, thứ hai là chuyên tâm nghe pháp, thứ ba là chú tâm suy ngẫm, thứ tư là y theo pháp tu hành.) (ĐCT, T12, 375, tr.754b, d.16-18.) Đoạn này theo ý Văn Cú là ba pháp sau rất rõ ràng, người đọc có thể tự hiểu được.

[47] Độc cổ (毒鼓), trống có độc, dẫn từ ví dụ trong kinh điển. Có người dùng chất độc đặc biệt tẩm vào mặt trống, khi đánh lên thì khắp xa gần, ai nghe tiếng trống cũng đều bị chết. Kinh văn giải thích: “Trống là pháp thân bình đẳng, chất độc là vô duyên từ bi, người đánh trống là chúng phát khởi, người nghe tiếng trống là chúng đương cơ, nghe rồi chết là phá trừ hết vô minh.” Đây là ví dụ để nói lên công năng phá trừ vô minh của “tiếng trống” chánh pháp.

[48] Trường hợp của hai vị tỳ-kheo này, Pháp hoa luận thích nói như sau: “Tỳ-kheo Thắng Ý bám chấp Tiểu thừa, tỳ-kheo Hỷ Căn đã ngộ Đại thừa, liền vì tỳ-kheo Thắng Ý mà thuyết giảng. Thắng Ý nghe pháp Đại thừa liền phỉ báng, do vậy phải đọa vào địa ngục, nhưng nhờ được nghe pháp Đại thừa nên về sau khi hết thời gian chịu khổ trong địa ngục liền được giải thoát. Ở đây so sánh để thắc mắc vì sao đức Phật không đối với những hạng “cành lá” trong hội Pháp hoa cũng giống như tỳ kheo Thắng Ý, dù họ có bị đọa ngày nay nhưng về sau sẽ được giải thoát.

[49] Nguyên tác là “滅化破庵 - diệt hóa phá am“. “Diệt hóa” là diệt mất hóa thành, tức dứt bỏ phương tiện. “Phá am” cũng có nghĩa là dứt bỏ phương tiện, dựa theo ý nghĩa ví dụ người con trở về, cho đến khi được giao phó mọi việc nhà nhưng vẫn ra ngủ nghỉ nơi am cỏ. Khi phá am đưa con vào nhà tức là chính thức giao phó gia nghiệp, hiển bày pháp Nhất thừa.

[50] Xem lại phần phân biệt bốn chúng ở trước, bao gồm: chúng phát khởi, chúng đương cơ, chúng ảnh hưởng và chúng kết duyên.

[51] Văn Cú dẫn câu này là “汝今善聽 - nhữ kim thiện thính”, không đúng kinh văn.

[52] Nguyên tác Văn Cú dùng “四佛 - tứ Phật” nhưng xét theo nội dung có nghĩa là “bốn lượt nói về chư Phật”. Thứ nhất nêu về chư Phật nói chung, thứ hai nói về chư Phật quá khứ, thứ ba nói về chư Phật vị lai, thứ tư nói về chư Phật trong hiện tại.

[53] Nguyên tác dùng “五佛 - ngũ Phật” ý nghĩa như trên, chỉ bốn lần nói về chư Phật và lần thứ năm là nói cụ thể về Phật Thích-ca.

[54] Kim luân là một trong bốn vị Chuyển luân Thánh vương, tùy theo phước báo khác nhau mà phân ra thành Kim luân vương, Ngân luân vương, Đồng luân vương và Thiết luân vương. Kim luân vương là vị Chuyển luân Thánh vương có phước báo cao nhất, khi ra đời sẽ cai quản khắp bốn cõi thiên hạ.

[55] Đây là nói theo ví dụ về “ngũ vị” để so sánh với 5 thời thuyết giáo. Theo tông Thiên Thai thì vị sữa tươi (nhũ) là thời Hoa nghiêm, vị sữa đặc (lạc) là thời A-hàm, vị váng sữa sống (sinh tô) là thời Phương đẳng, vị váng sữa chín (thục tô) là thời Bát-nhã và vị đề-hồ tối thượng là thời Niết-bàn, Pháp hoa.

[56] Nguyên tác dùng “客作四種 - khách tác tứ chủng”. “Khách tác” là nói những việc làm tạm thời, vì phương tiện mà bày ra, không phải pháp lâu dài. “Tứ chủng” (bốn loại) là chỉ bốn nội dung vừa nói trên: lý (giáo lý), ngôn (lời nói), hành (pháp hành), nhân (người nghe pháp).

[57] Văn Cú trích câu này là “隨宜所說 - tùy nghi sở thuyết”, chúng tôi điều chỉnh lại cho đúng theo kinh văn để người đọc tiện theo dõi.

[58] Tức là nói nghĩa đức Phật vì chúng sinh khai Phật tri kiến (khai mở tri kiến Phật) và thị Phật tri kiến (chỉ bày tri kiến Phật).

[59] Tức là nói nghĩa đức Phật muốn làm cho chúng sinh ngộ Phật tri kiến (thấy hiểu nhận biết được tri kiến Phật) và nhập Phật tri kiến (thể nhập tri kiến Phật).

[60] Tức là 4 câu lần lượt nói vì giúp chúng sinh khai, thị, ngộ, nhập Phật tri kiến.

[61] Tức là nói việc trong phẩm Tùng địa dũng xuất.

[62] Tức là ý nghĩa “bốn điều nhất” theo các nhà cựu giải như đã nói ở trước: quả nhất (果一), nhân nhất (人一), giáo nhất (教一) và nhân nhất (因一).

[63] Tức ba loại trí tuệ: văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ như vừa vận dụng giải thích ở trên.

[64] Địa luận tông (地論宗) là tông phái lập thuyết dựa trên Thập địa kinh luận (十地經論), cũng thuộc Đại thừa.

[65] Lập luận này dựa theo kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 6, phẩm Như Lai tánh, phần ba. Tham khảo ý nghĩa chi tiết trong ĐCT, T12, 374, từ trang 398c, d.9 đến trang 399a, d.5. Nội dung ý kinh phần này đề cập đến 9 hạng người, từ hạng thứ nhất là những người từng phát tâm Bồ-đề trước chư Phật nhiều như số cát sông Hy-liên (熙連河), hạng thứ hai là những người từng phát tâm Bồ-đề trước chư Phật nhiều như số cát 1 con sông Hằng, cho đến hạng thứ chín là những người từng phát tâm Bồ-đề trước chư Phật nhiều như số cát 8 con sông Hằng. Hạng người thứ nhất nhờ công đức tu tập đó nên không phỉ báng kinh điển Đại thừa nhưng chưa thể khởi tâm tin nhận ưa thích; hạng người thứ hai có thể tin nhận ưa thích nhưng chưa thể thọ trì đọc tụng, hạng người thứ ba có thể thọ trì đọc tụng, giảng nói với người khác; hạng người thứ tư có thể giảng nói với người khác nhưng chưa hiểu nghĩa kinh, hạng người thứ năm có thể hiểu được 1 phần trong 6 phần ý nghĩa của kinh; hạng người thứ sáu có thể hiểu được 8 phần trong 16 phần ý nghĩa của kinh điển Đại thừa, chính là hạng người được đề cập ở đây. Cho đến hạng người thứ chín mới có thể hiểu rõ được hoàn toàn ý nghĩa kinh điển Đại thừa. Câu trích dẫn trên đề cập đến hạng người thứ sáu, từng phát tâm Bồ-đề trước chư Phật nhiều như số cát của 5 con sông Hằng.

[66] Tam thập tâm (三十心), chỉ 30 giai vị trước khi tiến lên thập địa (十地), bao gồm thập trụ (十住), thập hạnh (十行) và thập hồi hướng (十迴向). Pháp hoa nghĩa sớ giải thích rằng đây là địa vị đã đạt sáu căn thanh tịnh nhưng chưa vào sơ địa.

[67] Nguyên tác dùng “ức dương” (抑揚). Pháp hoa văn cú ký, quyển 4, giải thích rằng: 言抑揚者, 以淨名中抑挫聲聞褒揚菩薩 – Ngôn ức dương giả, dĩ Tịnh Danh trung ức tỏa Thanh văn bao dương Bồ Tát. (Nói ức dương, đó là chỉ việc trong kinh Tịnh Danh nói chỗ hạn chế của hàng Thanh văn mà ngợi khen xưng tán hàng Bồ Tát.) (ĐCT, T34, 1719, tr.234a, d.10-11)

[68] Bốn trí là gồm Đại viên cảnh trí (大圓境智), Bình đẳng tánh trí (平等性智), Diệu quán sát trí (妙觀察智) và Thành sở tác trí (成所作智).

[69] Nhị đế ở đây chỉ Không đế và Giả đế theo giáo lý tông Thiên Thai.

[70] Tam đế gồm Không đế, Giả đế và Trung đế, là giáo lý đặc thù của tông Thiên Thai.

[71] Nguyên tác dùng tận trí (盡智), chuyển dịch từ Phạn ngữ Kṣaya-jñāna, chỉ trí tuệ được sinh khởi ở quả vị vô học, đoạn trừ hết thảy phiền não, tự biết mình đã thành tựu sự tu tập Tứ đế: biết khổ, dứt tập, chứng diệt, tu đạo.

[72] Vô sinh trí (無生智), chuyển dịch từ Phạn ngữ anutpādajñāna, chỉ trí tuệ rõ biết hết thảy các pháp đều không thực sự có sinh có diệt, nhờ đó dứt trừ hết thảy phiền não, xa lìa sinh diệt.

[73] Nguyên tác chỉ nói là Pháp hoa luận (法華論), chỉ đến sách Pháp hoa huyền luận (法華玄論). Phần trích dẫn này là ở trang 403c, bắt đầu từ d.5. (ĐCT, T34, 1720)

[74] Phần trước có đề cập đến thuyết cho rằng Thập diệu chính là Thập nhất. Ở đây dẫn kinh văn để lần lượt chứng minh sự tương đồng. Thập diệu trong kinh Pháp hoa theo giải thích của tông Thiên Thai bao gồm: cảnh diệu, trí diệu, hạnh diệu, vị diệu, tam pháp diệu, cảm ứng diệu, thần thông diệu, thuyết pháp diệu, quyến thuộc diệu và lợi ích diệu. Thập diệu này được chuyển sang thành Thập nhất với cùng tên gọi, như tam pháp nhất, cảm ứng nhất, quyến thuộc nhất v.v.

[75] Nguyên tác dùng “信如符契 - tín như phù khế”, chỉ niềm tin được xác lập do sự phù hợp hoàn toàn. Khế là một phương thức tạo niềm tin thời xưa bằng cách viết nội dung giao ước trên một tờ giấy rồi xé làm đôi, mỗi người giữ một mảnh. Khi hai mảnh giấy ghép lại với nhau hoàn toàn trùng khớp thì đôi bên đều tin chắc rằng đó là nội dung đã giao ước cùng nhau. Hiện nay ta vẫn còn dùng từ “khế ước” là xuất phát từ nghĩa này.

[76] Tứ nhãn (四眼), bốn loại mắt, tức là nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn và pháp nhãn. Nhục nhãn là mắt thường của tất cả chúng sinh. Ba loại thiên nhãn, tuệ nhãn và pháp nhãn đều do tu tập mà đạt được.

[77] Tức là Noãn vị, Đảnh vị, Nhẫn vị và Thế đệ nhất pháp vị.

[78] Kinh Nhân vương, tức Phật thuyết Nhân vương Bát-nhã Ba-la-mật kinh (佛說仁王般若波羅蜜經) (ĐCT, T8, 245) Câu kinh được trích dẫn là: “入理般若名為住,住生德行名為地 – Nhập lý Bát-nhã danh vi trụ, trụ sinh đức hạnh danh vi địa” (tr.827b, d.25).

[79] Tức là hoa mạn-thù-sa (mañjūṣaka).

[80] Tức là hoa ma-ha mạn-thù-sa (mahā-mañjūṣaka).

[81] Tức là hoa mạn-đà-la (māndāra).

[82] Nguyên tác nói “從阿到茶 - tùng a đáo trà”, từ A đến Trà, tức là từ chữ A đến chữ Trà (trong Phạn ngữ). Chữ A là chữ đầu tiên trong bảng mẫu tự Phạn ngữ và chữ Trà là chữ cuối cùng. Diệu Pháp Liên Hoa kinh huyền nghĩa giải thích: “圓教菩薩從初 發心得諸法實相具一切佛法故名阿字,至妙覺地,窮一切法底故名茶字 – Viên giáo Bồ Tát tùng sơ phát tâm đắc chư pháp thật tướng, cụ nhất thiết Phật pháp cố danh A tự, chí Diệu giác địa, cùng nhất thiết pháp để cố danh Trà tự.” (ĐCT, T33, 1716, tr.735a, d.21-23)

[83] Nguyên tác là “入薩婆若海 - nhập Tát-bà-nhã hải”. Tát-bà-nhã là phiên âm từ Phạn ngữ sarvajña, dịch nghĩa là Nhất thiết trí, chỉ trí tuệ của Phật rõ biết tất cả.

[84] Câu trích dẫn trong Nhiếp Đại thừa luận là: “法界者。如理如量通三無性以為其體。 - Pháp giới giả, như lý như lượng thông tam vô tánh dĩ vi kỳ thể.” (ĐCT, T31, 1595, tr.173b, d.10-11) Ở đây Văn Cú trích dẫn lại là “如理如量通達自在 – Như lý như lượng thông đạt tự tại.”

[85] Tức là hoa ma-ha mạn-đà-la (mahā-māndāra).

[86] Tứ môn: chỉ không môn (cửa pháp không), hữu môn (cửa pháp có), diệc không diệc hữu môn (cửa pháp cũng không cũng có), phi không phi hữu môn (cửa pháp chẳng phải không chẳng phải có).

[87] Tam đế: tức Không đế, Giả đế và Trung đế.

[88] Tức Bồ Tát Anh Lạc kinh (菩薩瓔珞經), ĐCT, T16, 656, tr.109b, bắt đầu từ d.28. Nội dung giải thích tiếp theo cũng lấy từ kinh này.

[89] Trong nguyên tác đến đây là hết phần Thượng, bắt đầu phần hạ của quyển 4.

[90] Sáu ý nghĩa đã trình bày ở phần trước: Sáu ý nghĩa đó bao gồm: Thứ nhất, xưng tán chánh pháp là ít có. Thứ hai, Phật giảng thuyết không hư dối. Thứ ba, khai mở phương tiện. Thứ tư, chỉ bày lẽ chân thật. Thứ năm, nêu năm sự uế trược để giải thích về quyền. Thứ sáu, chọn trừ hư ngụy, nêu cao chân thật.

[91] Ở đây trình bày lại năm trong số sáu nghĩa đã nêu nhưng không theo thứ tự như trước.

[92] Chỉ tất cả chúng sinh còn mê lầm hoặc chưa hoàn toàn giác ngộ, bao gồm: nhân thừa, thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ Tát thừa.

[93] Về đoạn này, Văn Cú Ký giải thích là “今一實中尚無般若帶二方等帶三況有鹿苑單三單五 – kim nhất thật trung thượng vô Bát-nhã đái nhị, Phương đẳng đái tam, huống hữu Lộc uyển đơn tam đơn ngũ.” Theo đây có thể biết rằng “đái nhị” và “đái tam” chỉ Nhị thừa và Tam thừa được đức Phật quyền thuyết trong thời Bát-nhã, “đơn tam” và “đơn ngũ” chỉ các thừa quyền thuyết trong thời Lộc uyển. Giáo pháp thuyết giảng trong thời Lộc uyển được xem là sơ cơ nhất trong các thời thuyết giáo của Phật, trong đó đề cập đến Ngũ thừa gồm nhân thừa, thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ Tát thừa. “Tam” chỉ Tam thừa gồm Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ Tát thừa. “Nhị” chỉ Nhị thừa gồm Thanh văn và Duyên giác gọi chung là Tiểu thừa và Bồ Tát là Đại thừa.

[94] Ngũ độn sử (五鈍使), tức 5 độn sử, gồm tham, sân, si, mạn và nghi. Năm loại này là những phiền não thuộc loại thô, ảnh hưởng đến phàm phu hoặc người tu tập còn sơ cơ nên gọi là độn sử. Sử (使) có nghĩa là sai sử, vì những phiền não này thường xuyên thôi thúc, sai sử chúng sinh tạo tác các nghiệp bất thiện nên gọi là sử.

[95] Ngũ lợi sử (五利使), tức 5 lợi sử, gồm 5 loại kiến chấp sai lầm là thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến và giới cấm thủ kiến. Năm loại này là những phiền não thuộc loại vi tế, ảnh hưởng đến ngay cả những người đã tu tập lâu năm nên gọi là lợi sử. Cả hai loại ngũ độn sử và ngũ lợi sử được gọi chung là thập sử.

[96] Vườn thô nhám, Hán ngữ là “thô sáp viên - 麁澁園”, là một trong 4 khu vườn bên ngoài thành của Đế thích ở cung trời Đao-lợi. Chư thiên cõi trời này đều là những vị tu tập thiện pháp, tâm tánh từ hòa, nên trước khi đi chiến đấu với a-tu-la phải vào khu vườn này, để tâm từ hòa lắng xuống, tâm chiến đấu nổi lên mạnh mẽ, mới có thể ra trận đánh nhau. Văn Cú dẫn việc này để chứng minh rằng do nghiệp xấu ác của chúng sinh mà tự nhiên sinh ra các tai kiếp.

[97] Nguyên tác nói “不在華嚴不在三藏 – bất tại Hoa nghiêm bất tại Tam tạng”. Thời Hoa nghiêm Phật giảng thuyết giáo pháp Đại thừa. Tam tạng tức chỉ thời A-hàm, thuyết giảng giáo pháp Tiểu thừa.

[98] Tức là giáo lý tứ môn (4 cửa vào), bao gồm: không môn (cửa không), hữu môn (cửa có), diệc không diệc hữu môn (cửa cũng không cũng có) và phi không phi hữu môn (cửa chẳng phải không chẳng phải có).

[99] Câu hỏi này dựa theo ý kinh, Phật nói do chúng sinh chướng nặng không thể thuyết dạy Đại thừa, phải phương tiện thuyết dạy Tiểu thừa. Vì không thể thuyết Đại thừa mà có thể thuyết Tiểu thừa nên ở đây cho là “không che chướng Tiểu thừa”.

[100] Nguyên tác dùng tứ đức (四德), tức chỉ bốn phẩm đức thường, lạc, ngã, tịnh.

[101] Ví dụ được dẫn ở đây trích từ kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 2. (ĐCT, T12, 374, tr.378a, d.17)

[102] Nguyên tác dùng “開遮 - khai già”, trong ngữ cảnh này nói về việc dùng thuốc nên khai là mở ra, nghĩa là nên dùng, già là ngăn chặn, nghĩa là không nên dùng.

[103] Trong câu kinh này nói lúc đức Phật khởi lên suy nghĩ phải dùng phương tiện nói pháp Tiểu thừa để dẫn dắt chúng sinh.

[104] Như phần trên đã giải thích, phiền não trược và kiến trược là nhân, vì từ đó mới hình thành ba uế trược còn lại.

[105] Ở đây, chúng sinh trược là thuộc về nhân, tức là chủ thể, kiến trược, phiền não trược, mạng trược và kiếp trược đều thuộc về pháp, tức là đối tượng.

[106] Ở đây, phiền não trược, kiến trược, chúng sinh trược và mạng trược đều thuộc về pháp, kiếp trược thuộc về thời.

[107] Tam chướng, tức ba loại che chướng gồm phiền não chướng, nghiệp chướng và báo chướng.

[108] Hai uế trược thuộc về báo chướng là chúng sinh trược và mạng trược.

[109] Hai uế trược thuộc về phiền não chướng là kiến trược và phiền não trược.

[110] Nguyên tác nói “業在其間 - nghiệp tại kỳ gian”. Văn Cú Ký giải thích rằng: Phiền não tạo thành nghiệp, nghiệp chiêu cảm quả báo. Do vậy nói nghiệp [chướng] nằm [trong các chướng] ấy.

[111] Tam giả (ba điều không thật), ở đây chỉ nhân thành giả (các pháp do nhân duyên mà thành nên không thật có), tương tục giả (các pháp liên tục sinh diệt, tiếp nối nhau nên không thật có), tương đãi giả (các pháp tồn tại trong sự tương quan, đối đãi với nhau nên không thật có).

[112] Văn Cú Ký giải thích rằng, kiếp trược là “trường đoản tương đãi” (dài ngắn đối đãi nhau), phiền não trược là “vi thuận đẳng tương đãi” (thuận nghịch đối đãi nhau) và kiến trược là “hữu vô tương đãi” (có và không đối đãi nhau).

[113] Tam giả quán (三假觀), gồm pháp giả hư thật quán (法假虛實觀), thọ giả hư thật quán (受假虛實觀) và danh giả hư thật quán (名假虛實觀).

[114] Văn Cú nói quá ngắn gọn, cũng không nói đến “ba trược còn lại”, đoạn này dựa theo Văn Cú Ký để hiểu nghĩa.

[115] Nguyên tác nói “三小 - tam tiểu”, chỉ tam tiểu tai kiếp, tức là các nạn đao binh, dịch bệnh và nạn đói. Do nghiệp của chúng sinh chiêu cảm các tai kiếp này nên thuộc về kiếp trược.

[116] Nguyên tác nói “三大害物不害人 - tam đại hại vật bất hại nhân”. Tam đại là tam đại tai kiếp, bao gồm hỏa tai, thủy tai và phong tai. Ba đại tai kiếp này xảy ra khi thế giới đi vào giai đoạn hoại diệt trong bốn giai đoạn là “thành, trụ, hoại, không”, cho nên sau ba đại tai kiếp này thì thế giới bị hủy diệt hoàn toàn, không còn gì nữa, sau đó mới đi vào giai đoạn kiếp sơ để dần hình thành trở lại. Ý nghĩa câu này là khi đại tai kiếp xảy ra thì hết thảy chúng sinh đã bị các tiểu tai kiếp hủy hoại rồi, nên các đại tai kiếp chỉ còn hủy hoại thế giới mà thôi.

[117] Chỗ này Văn Cú Ký lập luận rằng lẽ ra cũng phải nói cả bốn trược còn lại cũng trùm khắp năm đường ba cõi. “言命通者, 亦應云餘四通於三界五道 – Ngôn mạng thông giả, diệc ưng vân dư tứ thông ư tam giới ngũ đạo.”

[118] Chung có nghĩa là ảnh hưởng chung đến tất cả chúng sinh, riêng có nghĩa là ảnh hưởng tùy theo nghiệp lực riêng biệt của mỗi người.

[119] Đây là kiểu nói vắn tắt tiêu biểu của Văn Cú. Nguyên tác chỉ nói “從八萬至十歲為小劫, 八十反為大劫也 - Tùng bát vạn chí thập tuế vi tiểu kiếp, bát thập phản vi đại kiếp dã.” Thật ra, nhờ vào ý nghĩa được trình bày trong nhiều kinh luận khác nên chúng ta hiểu được ý nghĩa đầy đủ của câu này là: Từ lúc tuổi thọ trung bình của con người là 10 tuổi, cứ mỗi 100 năm sẽ tăng thêm 1 tuổi, tăng dần cho đến 84.000 tuổi thì gọi là 1 kiếp tăng, từ đó cứ mỗi 100 năm lại giảm đi 1 tuổi, giảm đến còn 10 tuổi thì gọi là 1 kiếp giảm. Trọn một vòng tăng giảm như vậy gọi là 1 tiểu kiếp, 20 tiểu kiếp thành 1 trung kiếp, 80 trung kiếp thành một đại kiếp.

[120] Bậc chứng quả A-la-hán đã dứt sạch mọi nhân duyên lậu hoặc nên không còn tái sinh trong ba cõi. Tuy nhiên, kinh điển Đại thừa đề cập đến các cõi Tịnh độ nằm ngoài ba cõi, không có cả tên gọi phiền não. Các vị A-la-hán có phát tâm Đại thừa sinh vào thời không có Phật có thể được sinh về các cõi này và được gặp chư Phật ở đó, được nghe kinh điển Đại thừa.

[121] Nguyên tác gọi là “Thích luận”, thật ra là chỉ cho Đại Trí độ luận (大智度論), thích Tất định phẩm (釋 畢定品) thứ 83 (第八十三), nằm trong quyển 93. (ĐCT, T25, 1509) Câu hỏi trích dẫn này và phần giải thích nằm ở trang 714a, từ d.9 đến d.15.

[122] Văn Cú trích dẫn không đầy đủ nên câu văn tối nghĩa: “羅漢受先世身身必應滅 - La-hán thọ tiên thế thân thân tất ưng diệt”. Nguyên văn trong Đại Trí độ luận là: “阿羅漢先世因緣所受身必應當滅 – A-la-hán tiên thế nhân duyên sở thọ thân tất ưng đương diệt.”

[123] Nguyên tác dùng “餘國 - dư quốc” để chỉ các cõi Phật nằm ngoài ba cõi.

[124] Câu trích dẫn này nằm trong Chỉ quán phụ hạnh truyện hoằng quyết (止觀輔行傳弘決), quyển 3. (ĐCT, T46, 1912, tr.251b, d.7-8) Nguyên tác dùng “tứ y”, có lẽ chỉ thân độ tứ y (身土四依), tức bốn pháp nương theo thân Phật (佛身之四依 - Phật thân chi tứ y), bao gồm: sắc thân y sắc tướng độ (色身依色相土), sắc thân y pháp tánh độ (色身依法性土), pháp thân y pháp tánh độ (法身依法性土) và pháp thân y sắc tướng độ (法身依色相土). Nếu hiểu theo nghĩa thường gặp như “y pháp bất y nhân” v.v. thì không hợp với ngữ cảnh giảng giải này.

[125] Nguyên tác dùng “苦到懺悔 - khổ đáo sám hối”, nghĩa là nỗ lực khó nhọc hết sức. Trong việc sám hối thì có nghĩa là chí tâm, chí thành.

[126] Câu này nêu ba lỗi (三失 tam thất) rõ rệt. Tăng thượng mạn là lỗi vọng xưng chứng thánh, tu tập có chỗ sở đắc nhưng chưa phải thánh quả mà sai lầm cho là đã chứng. Ngã mạn là tự cho mình tài giỏi, cao quý hơn người, xem thường kẻ khác. Bất tín là được nghe chánh pháp mà không khởi lòng tin, thường sinh nghi ngờ.

[127] Nguyên tác dùng “藏玼揚德 - tàng tỳ dương đức”, nghĩa là che giấu lỗi lầm của mình mà chỉ khoe khoang, phô trương những điều tốt đẹp.

[128] Nguyên tác dùng chữ “慚 - tàm”, thường đi đôi với “愧 - quý”. Tàm là hổ thẹn, nghĩa là tự thấy hổ thẹn với những điều xấu ác mình đã phạm vào. Quý là xấu hổ, nghĩa là thấy xấu hổ khi có người khác biết việc xấu ác mình đã làm. Hai đức tàm và quý hổ tương cho nhau giúp người tu tập quyết tâm tránh xa mọi điều xấu ác.

[129] Kinh văn câu này là “無量方便力 - vô lượng lực phương tiện”, Văn Cú trích dẫn thành “無量方便力 - vô lượng phương tiện lực”. Chúng tôi điều chỉnh lại theo kinh văn. Kinh văn đề cập đến các lực (thập lực) và phương tiện của chư Phật, trong khi Văn Cú dẫn lại sẽ mang nghĩa “sức phương tiện”, hoàn toàn khác nhau.

[130] Kinh văn là “眾生心所念 – chúng sinh tâm sở niệm”, Văn Cú trích dẫn là “眾生心所念 - chúng sinh tâm niệm”.

[131] Nguyên tác dùng “thất phương tiện”, theo giáo lý Thiên Thai tông là chỉ bảy thừa phương tiện. Chúng sinh tùy theo công phu tu tập đã có mà thuộc về một trong bảy thừa này, bao gồm: 1. Nhân thừa, 2. Thiên thừa, 3. Thanh văn thừa, 4. Duyên giác thừa, 5. Bồ tát thừa của Tạng giáo, 6. Bồ tát thừa của Thông giáo, và 7. Bồ tát thừa của Biệt giáo.

[132] Bảy thừa phương tiện đã nói rõ ở trước, bao gồm: 1. Nhân thừa, 2. Thiên thừa, 3. Thanh văn thừa, 4. Duyên giác thừa, 5. Bồ tát thừa của Tạng giáo, 6. Bồ tát thừa của Thông giáo, và 7. Bồ tát thừa của Biệt giáo.

[133] Nguyên tác dùng “Viên nhập Biệt” (圓入別), cũng gọi là Viên tiếp Biệt (圓接別), chỉ hàng Bồ Tát ở Biệt giáo nhưng đã thấu suốt giáo pháp, có thể tiếp nhập vào Viên giáo.

[134] Nguyên tác dùng “Bán, Mãn tương đối” (半滿相對), đó là nói dựa theo giáo nghĩa rốt ráo viên mãn thì Bồ Tát Thông giáo và Biệt giáo được gọi là “bán trung mãn” (半中滿), còn Bồ Tát Viên giáo được gọi là “mãn trung mãn” (滿中滿). Ở đây muốn nói rằng ngay cả Thông giáo rốt ráo đã là giả lập thì các khái niệm bán, mãn đối đãi nhau cũng không còn nữa.

[135] Câu trả lời này hàm ý những chúng sinh chưa giác ngộ rồi sẽ tiếp tục được chư Phật trong tương lai giáo hóa, cho nên ở đây chỉ nêu rõ việc hiện tại để nói lên sự viên mãn thệ nguyện độ sinh của Phật.

[136] Tức là Chánh pháp niệm xứ kinh (正法念處經), 70 quyển, do ngài Cù-đàm Bát-nhã-lưu-chi Hán dịch. (ĐCT, T17, 721)

[137] Ở đây nêu màu tím (紫 - tử) nhưng phần sau không thấy giải thích.

[138] Ở đây chỉ các cõi trời thuộc Dục giới nên mới có đủ sáu trần cảnh: hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, sự xúc chạm của thân và ý nghĩ tưởng các pháp.

[139] Năm cảnh giới được đề cập ở đây là cõi trời, cõi người, địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh.

[140] Nguyên tác dùng thiên tánh (天性), nghĩa đen là “tánh trời”, hiểu theo ý nghĩa trong Phật pháp thì ở đây chỉ bản tánh tự nhiên.

[141] Nhị thập ngũ hữu (二 十五 有): cách phân chia ba cõi chúng sinh luân hồi thành hai mươi lăm cảnh giới, vì thế cũng đồng nghĩa với những danh từ như Tam giới, Ba cõi, Tam hữu, chư hữu. Trong Tam giới (Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới) có tất cả 25 cảnh giới, mỗi cảnh giới đều có chúng sinh hữu tình, cho nên gọi là nhị thập ngũ hữu. Trong Dục giới có 14, trong Sắc giới có 7, trong Vô sắc giới có 4; phân chia cụ thể như sau: Tứ ác đạo (四惡道) gồm: 1. Địa ngục, 2. Súc-sinh, 3. Ngạ-quỷ, 4. A-tu-la; Tứ châu (四洲) hay Tứ thiên hạ gồm: 1. Phất-vu-đãi, 2. Cồ-da-ni, 3. Uất-đan-việt, 4. Diêm-phù-đề; Lục dục thiên (六欲天) gồm: 1. Tứ thiên vương xứ, 2. Tam thập tam thiên xứ, 3. Diệm-ma thiên, 4. Đâu-suất thiên, 5. Hóa lạc thiên, 6. Tha hóa tự tại thiên. Mười bốn cảnh này thuộc về Dục giới. Tứ thiền thiên (四禪天) gồm: 1. Sơ thiền, 2. Nhị thiền, 3. Tam thiền, 4. Tứ thiền; Tịnh cư thiên (淨居天) gồm: 1. Đại phạm vương, 2. Vô tưởng thiên, 3. Tịnh cư A-na-hàm. Bảy cảnh này thuộc về Sắc giới. Tứ không xứ thiên (四空處天) gồm: 1. Thức xứ, 2. Không xứ, 3. Bất dụng xứ (Vô sở hữu xứ) 4. Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Bốn cảnh này thuộc về Vô sắc giới.

[142] Tức là các cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh.

[143] Nguyên tác chép là Thụ ấm thân kinh (受陰身經), hiện nay chúng tôi không tìm thấy tên kinh này. Pháp hoa văn cú ký cho rằng đây có thể là tên khác của Nhập thai kinh (入胎經). Các bản mục lục như Chúng kinh mục lục, Khai Nguyên Thích giáo lục, Lịch đại Tam bảo kỷ v.v. đều có ghi nhận tên chính thức của kinh này là Tu-đa-la nhập thai kinh (須多羅入胎經). Hiện không tìm thấy các kinh này trong Đại Chánh tạng nên không rõ nội dung.

[144] Tất cả những mô tả ở đây chỉ có tính chất biểu trưng, không phải những mô tả chính xác, cả về hình thể cũng như số lượng.

[145] Năm kiến chấp sai lầm, tức ngũ kiến (五見), bao gồm: 1. Ngã kiến (我見), tức quan niệm chấp chặt về sự tồn tại của bản ngã; 2. Biên kiến (邊見), tức quan niệm bám chấp thiên lệch, cực đoan, hoặc rơi vào thường kiến, hoặc rơi vào đoạn kiến; 3. Tà kiến (邪見), tức quan niệm, kiến giải sai lầm, nhất là về hiểu sai về nhân quả; 4. Kiến thủ kiến (見取見), tức là định kiến, thành kiến, là sự chấp chặt quan niệm sai lầm rồi vận dụng vào các quan niệm khác, tiếp tục dẫn đến sai lầm; 5. Giới cấm thủ kiến (戒禁取見), tức quan niệm sai lầm về việc giữ giới luật, không hiểu đúng mục đích của sự trì giới, hoặc chấp nhận những giới luật sai lầm của ngoại đạo.

[146] Năm thừa, chỉ hàng phàm phu chưa chứng quả gồm chư thiên các cõi trời (thiên thừa) và loài người (nhân thừa), cùng ba tầng bậc tu chứng là Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ Tát thừa. Như vậy, năm thừa thật ra là chỉ tất cả chư thiên và loài người, những chúng sinh có khả năng tu tập và chứng đắc quả Phật.

[147] Văn Cú trích dẫn kinh Tịnh Danh, tức kinh Duy-ma-cật sở thuyết, nhưng chỗ này chép là: “住調伏心是賢聖行 - trụ điều phục tâm thị hiền thánh hạnh” (Xem ĐCT, T34, 1718, trang 56c, d.24-25.) Trong thực tế, nội dung chính xác trong kinh Duy-ma-cật sở thuyết là: “若住調伏心是聲聞法 - nhược trụ điều phục tâm thị Thanh văn pháp” (Xem ĐCT, T14, 475, trang 545b, d.25-26.) Do vậy, chúng tôi điều chỉnh phần Việt dịch theo đúng kinh văn.

[148] Văn Cú trích câu này là “童子是童真地 - Đồng tử thị Đồng chân địa”, nhưng thật ra không có Đồng chân địa trong Thập địa (十地) của hàng Bồ Tát mà chỉ có Đồng chân trụ (童真住 - kumārabhūta) xếp thứ 8 trong Thập trụ (十住). Do vậy chúng tôi có điều chỉnh lại cho thích hợp.

[149] Văn Cú nói “登地自應成佛 - đăng địa tự ưng thành Phật”, chỉ hàng Bồ Tát đã lên đến Thập địa. Đây có thể là do tiếp tục hiểu địa vị Đồng chân là thuộc Thập địa thay vì đúng ra là ở Thập trụ. Xét theo 52 giai vị được trình bày trong kinh Thủ-lăng-nghiêm thì khác biệt này khá xa vì tiến trình từ thấp lên cao là: Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng giác, Diệu giác. Như vậy, Thập địa đã cận kề quả Phật, trong khi Thập trụ còn cách rất xa.

[150] Ba loại Phật tánh (tam Phật tánh): tức chánh nhân Phật tánh, liễu nhân Phật tánh và duyên nhân Phật tánh. Đây là cách giải thích do Đại sư Trí Khải nêu ra, căn cứ vào ý nghĩa trong kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 28.

[151] Nguyên tác dùng “為山始簣, 合抱初毫 - vi sơn thủy quỹ, hợp bão sơ hào”, nghĩa đen là “ngọn núi ban đầu chỉ là sọt đất, đống lớn ban sơ chỉ là sợi lông”.

[152] Nhân duyên chủng tử và liễu nhân chủng tử là nói các chủng tử Phật tánh theo nghĩa đã nêu trước.

[153] Thiên thừa, hàm nghĩa các pháp tu, việc lành dẫn đến được tái sinh về các cõi trời hưởng phước lạc.

[154] Toàn bộ đoạn văn này tuy Văn Cú nói là dẫn kinh Ngũ giới nhưng thật ra là trích dẫn lại nguyên văn trong Phiên dịch danh nghĩa tập (翻譯名義集), quyển 4. (ĐCT, T54, 2131, tr.1125c)

[155] Kinh văn trong đoạn kệ đang dẫn ở đây nói “一稱南無佛 - nhất xưng Nam-mô Phật.” Văn Cú nói “喜稱南無佛- hỷ xưng Nam-mô Phật” là một câu kệ ở phần sau. (Xem trang 9c, d.29, kinh văn đã dẫn.)

[156] Tức Đề-bà-đạt-đa.

[157] Nguyên tác nói “外國 - ngoại quốc” (nước ngoài), ở đây là người Trung Hoa dùng chỉ Ấn Độ.

[158] Nguyên tác chỉ nói “事天像 - sự thiên tượng” (thờ tượng trời), thật ra là chỉ việc thờ Phạm thiên, được tin là đấng sáng tạo và làm chủ thế giới.

[159] Thai kinh (胎經), tức Xử thai kinh (處胎經). Nội dung ở đây thật ra có thể được trích dẫn lại từ Chư kinh yếu tập (諸經要集) hoặc Pháp uyển châu lâm (法苑珠林). Cả hai sách này đều chép lại nội dung bài kệ giống nhau như sau: “又處胎經。佛告彌勒偈云。汝所三會人,是吾先所化, 九十六億人,受吾五戒者, 次是三歸人,九十二億者, 一稱南無佛,皆得成佛道 - Hựu Xử thai kinh, Phật cáo Di-lặc kệ vân: Nhữ sở tam hội nhân,thị ngô tiên sở hóa, cửu thập lục ức nhân, thụ ngô ngũ giới giả, thứ thị tam quy nhân, cửu thập nhị ức giả, nhất xưng Nam-mô Phật, giai đắc thành Phật đạo.” (Xem Chư kinh yếu tập, quyển 1, ĐCT, T54, 2123, tr.5c, bắt đầu từ d.5 và Pháp uyển châu lâm, quyển 16, ĐCT, T53, 2122, tr.402b, bắt đầu từ d.4.

[160] Có thể là Đại phương tiện Báo ân kinh (大方便報恩經), 7 quyển. Tuy nhiên, chúng tôi không tìm thấy nội dung trích dẫn ở đây nên có thể Văn Cú chỉ dẫn lại từ nguồn đã nói trên.

[161] Nguyên tác là Hoa Lâm viên (華林園), theo kinh Di-lặc hạ sinh thành Phật thì là khu vườn có cây Long Hoa, nơi Bồ Tát Di-lặc sẽ đản sinh, thành Phật và giáo hóa chúng sinh.

[162] Liễu nhân chủng tử: tức là chủng tử của liễu nhân Phật tánh, theo nghĩa trong kinh Đại Bát Niết-bàn đã dẫn ở trước, phân biệt với chánh nhân và duyên nhân.

[163] Nguyên tác dùng chữ “俱胝 - câu-chi”, Phạn ngữ là koṭi, chỉ số lượng một trăm ngàn (100.000), nhưng thường được dùng với ý nghĩa biểu trưng cho số lượng rất nhiều, không nhất thiết chính xác.

[164] Tánh vô nhân (無因性), tức là nói tánh không có nguyên nhân, tự nhiên sinh.

[165] Câu này nguyên tác Đại Chánh tạng chép là: “佛種從緣起者。中道無。性即是佛種。 - Phật chủng tùng duyên khởi. Trung đạo vô. Tánh tức thị Phật chủng.” Do dấu chấm đặt không đúng nên kinh văn trở thành tối nghĩa. Đúng ra phải chép là: “Phật chủng tùng duyên khởi, trung đạo vô tánh tức thị Phật chủng.” Chúng tôi chuyển dịch theo ý nghĩa này.

[166] Đoạn này sử dụng ý nghĩa ba loại tánh Phật được nói trong kinh Đại Bát Niết-bàn như đã dẫn ở trước: chánh nhân Phật tánh, liễu nhân Phật tánh và duyên nhân Phật tánh.

[167] Sáu ý nghĩa giảng rộng này đã được nêu ra trong phần giảng giải ở trước, bao gồm: Thứ nhất, xưng tán chánh pháp [của Phật] là ít có. Thứ hai, [Phật] giảng thuyết không hư dối. Thứ ba, trừ bỏ pháp phương tiện. Thứ tư, chỉ bày pháp chân thật. Thứ năm, nêu năm sự uế trược để giải thích về pháp quyền biến phương tiện. Thứ sáu, chọn trừ hư ngụy, nêu cao chân thật.

[168] Tức là các nghĩa giáo nhất, lý nhất, hành nhất và nhân nhất.

[169] Văn Cú nói là “從譬如下 - tùng thí như hạ”. Tuy nhiên, đây là câu kệ mở đầu phần trùng tụng phía sau, ở trang 13c, d.19, kinh văn đã dẫn. Và như vậy không thể nói “竟願時賜與 - cánh nguyện thời tứ dữ” (nguyện đến lúc ban cho), bởi vì câu này nằm trong phần văn trường hàng phía trước chứ không phải sau câu kệ vừa nói. Do vậy, theo ý nghĩa đang nói thì đây phải là câu kinh văn trường hàng mở đầu thí dụ về ông trưởng giả.

[170] Kinh Pháp hoa đã dẫn, trang 12c, d.17: “願時賜與 - nguyện thời tứ dữ”.

[171] Kinh Pháp hoa đã dẫn, trang 12c, d.18: “舍利弗!爾時長者各賜諸子等一大車 - Xá-lợi-phất! Nhĩ thời trưởng giả các tứ chư tử đẳng nhất đại xa”.

[172] Kinh Pháp hoa đã dẫn, trang 13a, dòng thứ nhất: “諸子各乘大車,得未曾有 - chư tử các thừa đại xa, đắc vị tằng hữu”.

[173] Kinh Pháp hoa đã dẫn, trang 13a, d.2: “是長者等與諸子 - thị trưởng giả đẳng dữ chư tử...” Văn Cú trích lại nhầm một chữ, đổi chữ dữ - 與 trong kinh văn thành chữ tứ - 賜.

[174] Kinh Pháp hoa đã dẫn, trang 13a, d.3: “寧有虛妄不?- ninh hữu hư vọng phủ?”

[175] Huyền Sướng (玄暢), sinh năm 416, viên tịch năm 484. Ngài họ Triệu, là người Kim Thành, Hà Tây. Ngài xuất gia ở Lương Châu, hiệu là Tuệ Trí, về sau đến Bình Thành theo học với ngài Huyền Cao mới đổi hiệu là Huyền Sướng.

[176] Chưa biết rõ về vị này, chỉ biết là đệ tử của ngài Tuệ Viễn (334-416).

[177] Nếu đúng như Văn Cú chép ở đây gồm 1 khổ kệ (4 câu) thì còn có 22 câu không thấy kể vào. Đó là từ câu “Như nghi thức thuyết pháp...” cho đến câu “Hiếm hơn hoa ưu-đàm”, trước khi đến câu “Các ông chớ hoài nghi” của phần thứ mười. Tuy nhiên, theo ý nghĩa được giải thích ở đây là “chúng sinh hoan hỷ” thì e rằng Văn Cú đã chép nhầm, không phải 1 khổ kệ mà phải là 6 khổ rưỡi, tức 26 câu.

[178] Nguyên tác dùng “十九句 - thập cửu cú“ không hẳn là chỉ 19 câu văn. Đây là dẫn theo cách phân chia các ý trong phần kinh văn này của ngài Quang Trạch.

[179] Bốn lỗi như trên là nói bốn sự khác biệt vừa nêu, bao gồm các ý nghĩa khác biệt là: 1. Tiền hậu (trước-sau), 2. Đại tiểu (lớn-nhỏ, Đại thừa-Tiểu thừa), 3. Nhân quả (nguyên nhân-kết quả) và 4. Hữu vô (có-không).

[180] Tức là chỉ cho những cách hiểu của các vị Pháp Dao, Huyền Sướng, Long Sư, Quang Trạch vừa trình bày ở phần trên.

[181] Ở đây dùng lại ý nghĩa “ba lần thuyết pháp” đã giảng ở trước. Lần thứ nhất là thuyết chánh pháp cho hàng thượng căn, lần thứ hai là thuyết thí dụ cho hàng trung căn và lần thứ ba là thuyết nhân duyên cho hàng hạ căn.

[182] Nguyên tác dùng “四人信解 - tứ nhân tín giải” (chỗ tin hiểu của bốn người), tức là chỉ bốn vị Đại Thanh văn gồm Tu-bồ-đề, Ca-chiên-diên, Ca-diếp và Mục-kiền-liên. Trong phẩm Tin hiểu, bốn vị này sau khi nghe Phật thụ ký cho ngài Xá-lợi-phất thuộc hàng Thanh văn thì vui mừng bày tỏ sự tin hiểu của mình trước đức Phật.

[183] Năm đường: tức cõi trời, cõi người, cõi địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh. Theo khái niệm này thì loài a-tu-la được xem là hiện hữu trong cả năm đường. Nếu tách riêng a-tu-la thì gọi là sáu đường (lục đạo).

[184] Văn Cú nói là bắt đầu từ câu “ngã dĩ Phật nhãn quán” (ta dùng Phật nhãn quán), nhưng như vậy không đúng với cách tính 4 khổ kệ cho đoạn này, mà phải gồm cả câu trước đó là “Xá-lợi-phất đương tri”.

[185] Giống như trước, Văn Cú nói bắt đầu từ câu “Ngã kiến Phật tử đẳng” (ta thấy những Phật tử) nhưng thật ra phải bắt đầu từ câu “Xá-lợi-phất đương tri” mới đúng là 6 khổ kệ.

[186] Tứ nhất: bao gồm lý nhất, nhân nhất, giáo nhất và hành nhất.

[187] Sáu nghĩa đã nói ở trước, bao gồm: 1. Xưng tán chánh pháp là ít có. 2. Phật giảng thuyết không hư dối. 3. Khai mở phương tiện. 4. Hiển bày lẽ chân thật. 5. Nêu năm sự uế trược để giải thích về quyền. 6. Chọn trừ hư ngụy, nêu cao chân thật.

[188] Ở đây phân chia lại khác với bên trên, thay vì 4 tổng đoạn thì chia tổng đoạn thứ tư thành 3 tổng đoạn, do đó thành 6 tổng đoạn.

[189] Tức là 2 câu và 1 chữ: “舍利弗當知, 我以佛眼觀,見 - Xá-lợi-phất đương tri, ngã dĩ Phật nhãn quán, kiến...”

[190] Lô-xá-na Phật (盧舍那佛), tức Tì-lô-giá-na Phật (毗盧遮那佛), phiên âm từ Phạn ngữ Vairocana, dịch nghĩa là “光明遍照 - quang minh biến chiếu” để chỉ trí tuệ Phật có thể soi chiếu cùng khắp, cũng được hiểu là Pháp thân Phật.

[191] Văn Cú dùng “老比丘像 - lão tỳ-kheo tượng“ (hình tượng vị tỳ-kheo già) là cách nói ngắn gọn, chỉ việc đức Phật thị hiện thân người bình thường, giáo hóa cho đến lúc già yếu rồi nhập Niết-bàn, không khác người bình thường.

[192] Văn Cú nói phần này là “半行 - bán hàng” (nửa khổ kệ) nhưng không đúng, vì theo cấu trúc đã phân chia ở trước thì chỗ này chỉ là 4 chữ và một câu.

[193] Đây là nói quan điểm của hạng ngoại đạo khổ hạnh gọi là Ngũ nhiệt chích thân ngoại đạo. Cách tu tập của họ là phơi mình dưới nắng nóng và đồng thời đốt lửa ở bốn phía chung quanh, cho nên gọi là “ngũ nhiệt”. Hạng ngoại đạo này tin rằng chịu đựng sự khổ hạnh như thế sẽ giúp họ thoát khổ ở thế gian.

[194] Nguyên tác dùng “六衰 - lục suy” (sáu pháp suy hao), chỉ sáu căn của chúng sinh khi chạy theo sáu trần cảnh thôi thúc chúng sinh tạo các nghiệp thiện ác khiến cho khả năng giác ngộ ngày càng suy hao.

[195] Văn Cú trích dẫn câu này là: “無五趣 五陰六衰 則是泥洹 - vô ngũ thú, ngũ ấm, lục suy tắc thị Niết-bàn“. Như vậy không đầy đủ và cũng không chính xác, vì nguyên văn trong kinh Phổ Diệu là: “不慕五趣, 以無五陰, 三毒, 六衰則是泥洹 - Bất mộ ngũ thú, dĩ vô ngũ ấm, tam độc, lục suy tắc thị Niết-bàn.” (Không tham luyến năm đường, do không có năm ấm, không có ba độc [tham, sân, si], không có sáu pháp suy hao, đó chính là Niết-bàn.) (ĐCT, T3, 186, tr.507c, d.24-25) Chúng tôi chuyển dịch theo đúng nội dung kinh văn.

[196] Đây là nói chúng sinh trong cõi địa ngục do nghiệp lực nên khi bị hành hình đến nỗi thân thể bị thiêu cháy hay băm nát nhưng cũng không mất hẳn mà lập tức sinh ra tiếp nối trở lại như cũ để tiếp tục thọ hình.

[197] Tức là nói các loài chim, rồng v.v.

[198] Nguyên tác nói “能得解脫達分得正決定 - năng đắc giải thoát đạt phân đắc chánh quyết định”. Văn Cú Ký giải thích: “涅槃名解脫。所修善根不住生死名之為達。聲聞三生支佛百劫解脫之分, 名解脫分。得正決定者, 初果也。 - Niết-bàn danh giải thoát. Sở tu thiện căn bất trụ sinh tử danh chi vi đạt. Thanh văn tam sinh, Chi Phật bách kiếp giải thoát chi phần, danh giải thoát phần. Đắc chánh quyết định giả, sơ quả dã.” (ĐCT, T34, 1719, tr.250b, d.27-29.) Theo sự giải thích này thì biết Văn Cú muốn đề cập đến việc giữ hạnh thanh tịnh (không dâm dục) là nhân dẫn đến các quả giải thoát trong cả ba thừa.

[199] Nguyên tác nói “phi chúng sinh số”. Kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển, nói: “穀米草木無命無我, 非眾生數。 - Cốc mễ thảo mộc vô mạng vô ngã, phi chúng sinh số.” (Lúa gạo cỏ cây không có sinh mạng, không có ngã, không được tính như chúng sinh.) Ở đây hàm nghĩa không phải chúng sinh hữu tình.

[200] Đoạn này Văn Cú nói rất rất sơ lược và khó hiểu: “初皆正語, 若受苦痛聲不復可分別。- sơ giai chánh ngữ, nhược thọ khổ thống thanh bất phục khả phân biệt.” Văn Cú Ký giải thích là: “初皆正語等者, 初至地獄如本有語, 後時但作波波等聲, 不復可辯。 - Sơ giai chánh ngữ đẳng giả, sơ chí địa ngục như bản hữu ngữ, hậu thời đãn tác ba ba đẳng thanh, bất phục khả biện.” (Ban đầu còn có thể nói năng, là khi mới đến địa ngục còn nói năng được bằng ngôn ngữ vốn có, về sau [khi bị hành hình] chỉ còn phát ra những tiếng lắp bắp lập cập, không thể phân biệt được.) (ĐCT, T34, 1719, tr.250c, d.16-17.)

[201] Văn Cú nói là “形傍行傍故名畜生 - hình bàng hành bàng cố danh súc sanh”, do đó chúng tôi chuyển dịch như trên. Tuy nhiên, theo từ điển Phật Quang thì chữ bàng (傍) dùng để chỉ loài súc sinh là bàng sinh (傍生), do mang nghĩa là nằm về một bên, không ngay chánh, và bàng sinh có nghĩa không thuộc về hai đường chánh là cõi trời và cõi người (非人天之正道- phi nhân thiên chi chánh đạo).

[202] Giải thích này của Văn Cú có lẽ dựa theo niềm tin của Ấn giáo chứ không phải Phật giáo. Truyền thuyết Ấn Độ tin rằng vào thuở ban sơ khai sinh thế giới thì loài quỷ có trước tiên, cho nên gọi là tổ phụ.

[203] Nguyên tác dùng “能修道得達分 - năng tu đạo đắc đạt phần”, theo ý nghĩa đã được giải thích ở trước.

[204] Phần trước thường dùng năm đường, tức không tính đến loài a-tu-la. Ở đây nói sáu đường (lục thú) nên gồm đủ cõi trời, cõi người, a-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh.

[205] Nguyên tác Văn Cú đến đây hết quyển 4, bắt đầu quyển 5.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 10 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.108 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập