Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Kẻ hung dữ hại người cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt. Nước bọt ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống chính mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người ta thuận theo sự mong ước tầm thường, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa.Kinh Bốn mươi hai chương
Nhà lợp không kín ắt bị mưa dột. Tâm không thường tu tập ắt bị tham dục xâm chiếm.Kinh Pháp cú (Kệ số 13)
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Xưa, vị lai, và nay, đâu có sự kiện này: Người hoàn toàn bị chê,người trọn vẹn được khen.Kinh Pháp cú (Kệ số 228)
Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú [妙法蓮華經文句] »» Bản Việt dịch quyển số 10 »»
» Tải tất cả bản dịch (file RTF)
» Hán văn » Phiên âm Hán Việt
» Càn Long (PDF, 1.32 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 1.62 MB) 
Kính mong quý độc giả xem kinh cùng góp sức hoàn thiện bằng cách gửi email về admin@pgvn.org
để báo cho chúng tôi biết những chỗ còn có lỗi.
KINH VĂN
Phẩm Phân biệt công đức, thứ mười bảy
Giải thích tên phẩm
Phật thuyết giảng về tuổi thọ [của Như Lai], các đệ tử trong hai đời [quá khứ và hiện tại][6] đều được lợi ích, cho nên nói là công đức. [Sức công đức ấy] sâu cạn chẳng đồng nhau, cho nên gọi là phẩm Phân biệt công đức. Kinh văn phần này là đoạn thứ hai nói về thụ ký, thuộc phần bản môn. Luận giải phân chia kinh văn trong phẩm này có sức công đức nương theo giáo pháp (pháp lực) và sức công đức tu tập giáo pháp (tu hành lực).
Sức công đức nương giáo pháp có 5 phần. Thứ nhất là [công đức người] chứng biết giáo pháp, thứ hai là [công đức người] tin tưởng giáo pháp, thứ ba là [công đức người] cúng dường giáo pháp, đều như nói trong phẩm này. Thứ tư là [công đức người] nghe giáo pháp, như trong phẩm Công đức tùy hỷ. Thứ năm là [công đức người] đọc, tụng, gìn giữ, giảng nói giáo pháp. [Công đức người] đọc tụng giáo pháp thì như trong phẩm Công đức pháp sư. [Công đức người] gìn giữ giáo pháp thì như xem trong 3 phẩm: Công đức pháp sư, Hạnh an vui và Khuyến khích thọ trì. [Công đức người] giảng nói giáo pháp thì như trong phẩm Thần lực Như Lai và phẩm Phó thác về sau.
Về sức công đức tu hành giáo pháp thì có sức tu khổ hạnh như trong phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của Bồ Tát Dược Vương, sức tu hành giáo hóa như trong phẩm Bồ Tát Diệu Âm, giúp đỡ cứu nạn như trong phẩm Bồ Tát Quán Thế Âm, phẩm Đà-la-ni, chỉ bày công đức như trong phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của vua Diệu Trang Nghiêm, hộ trì chánh pháp như trong phẩm Bồ Tát Phổ Hiền khuyến khích phát tâm.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, đại chúng trong Pháp hội được nghe Phật dạy về tuổi thọ của Như Lai dài lâu như vậy, liền có vô lượng vô biên a-tăng-kỳ chúng sanh được lợi ích lớn.
Khi ấy, đức Thế Tôn nói với Đại Bồ Tát Di-lặc: “Này A-dật-đa! Khi ta nói về tuổi thọ dài lâu của Như Lai, có những chúng sanh nghe rồi đạt được pháp nhẫn vô sinh nhiều như số cát của sáu trăm tám mươi muôn ức na-do-tha sông Hằng, lại có số Bồ Tát nhiều hơn gấp ngàn lần đạt được Văn trì đà-la-ni.[7]
“Lại có những Bồ Tát nhiều như số hạt bụi nhỏ của một thế giới đạt được Nhạo thuyết vô ngại biện tài.[8]
“Lại có những Bồ Tát nhiều như số hạt bụi nhỏ của một thế giới đạt được vô số trăm ngàn muôn ức Toàn Đà-la-ni.[9]
“Lại có những Bồ Tát nhiều như số hạt bụi nhỏ của thế giới đại thiên có thể chuyển bánh xe pháp bất thối; lại có những Bồ Tát nhiều như số hạt bụi nhỏ của thế giới trung thiên có thể chuyển bánh xe pháp thanh tịnh; lại có những Bồ Tát nhiều như số hạt bụi nhỏ của thế giới tiểu thiên trải qua tám lần tái sinh nữa sẽ đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
“Lại có những Bồ Tát nhiều như số hạt bụi nhỏ của bốn cõi tứ thiên hạ[10] trải qua bốn đời nữa sẽ đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; lại có những Bồ Tát nhiều như số hạt bụi nhỏ của ba cõi tứ thiên hạ trải qua ba đời nữa sẽ đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; lại có những Bồ Tát nhiều như số hạt bụi nhỏ của hai cõi tứ thiên hạ trải qua hai đời nữa sẽ đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; lại có số Bồ Tát nhiều như số hạt bụi nhỏ của một cõi tứ thiên hạ trải qua một đời nữa sẽ đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
“Lại có những chúng sinh nhiều như số hạt bụi nhỏ của tám thế giới đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”
Ngài Quang Trạch nói: [Đoạn kinh] thứ nhất là dựa theo cửa vào công đức, thụ ký người tu hành tinh tấn, tu nhân trong hiện tại. [Đoạn] thứ hai là dựa theo cửa vào trí tuệ, thụ ký người giảm trừ biến dịch sinh tử, trong tương lai đạt được quả vị. [Đoạn] thứ ba là nêu việc hàng ngoại phàm [nghe thuyết tuổi thọ của Như Lai] liền phát tâm.[11]
Nói chung các việc thụ ký đều tương quan giữa nhân và quả. Ba phần như trên đều tương thông với việc thụ ký.
Phần dưới nói về “chúng sinh nhiều như số hạt bụi nhỏ của tám thế giới đều phát tâm”, lẽ ra nên kể đầu tiên. Bởi vì hàng ngoại phàm[12] nghe kinh rồi phát tâm, trụ ở giai vị tam thập tâm;[13] từ giai vị tam thập tâm, được nghe kinh thì vượt qua nội phàm, chứng Sơ địa, được vô sanh nhẫn; hàng Bồ Tát Sơ địa nghe kinh liền tiến lên thể nhập Nhị địa, đạt được Văn trì đà-la-ni; hàng Nhị địa nghe kinh liền vào được Tam địa, gọi là được Nhạo thuyết vô ngại biện tài; hàng Tam địa nghe kinh liền vào Tứ địa, được vô số Toàn Đà-la-ni; hàng Tứ địa nghe kinh rồi liền vào Ngũ địa, kinh văn gọi là “chuyển bánh xe pháp bất thối”; hàng Ngũ địa nghe kinh rồi vào Lục địa, kinh văn gọi là “chuyển bánh xe pháp thanh tịnh”.
Từ câu “Bồ Tát nhiều như số hạt bụi nhỏ của thế giới tiểu thiên” trở đi là dựa theo chỗ giảm thiểu biến dịch sinh tử mà thụ ký. Hàng Bồ Tát Thất địa đã đoạn trừ vô minh hoặc. Mê hoặc có 9 phẩm, có thể tạo tác nhân duyên 9 lần tái sanh. Từ hàng Bồ Tát Thất địa trở lên, quả báo không có kỳ hạn, khó có thể xét biết, chỉ lấy việc đoạn trừ 9 phẩm phiền não mà nói. Số lượng phiền não có trăm ngàn muôn phẩm loại, nay chỉ dựa vào một loại 9 phẩm mà nêu ý nghĩa.
Hàng Bồ Tát Thất địa đoạn trừ được hai phẩm phiền não, một thượng, một hạ; cho đến Bồ Tát Thập địa, mỗi địa cũng đoạn trừ được hai phẩm, một thượng, một hạ. Chứng nhập Kim Cang tâm đoạn trừ một phẩm.[14]
Hàng Bồ Tát Lục địa sau khi nghe kinh chứng được Thất địa hạ nhẫn[15] thì đoạn trừ được một phẩm phiền não, còn lại 8 phẩm làm nhân tái sinh trong 8 đời nữa, cho nên kinh văn nói “trải qua tám lần tái sinh nữa sẽ đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”.
Hàng Bồ Tát Thất địa thượng nhẫn đoạn trừ thêm một phẩm phiền não, tức giảm trừ được 2 lần tái sinh, còn lại 7 phẩm làm nhân tái sinh trong 7 đời. Các phẩm phiền não theo đó đều phân ra có thượng và hạ, đoạn trừ mỗi phẩm thì giảm trừ được một lần tái sinh. Kinh văn giản lược không nói đủ, nên từ câu “trải qua tám lần sinh nữa…” liền nói thẳng đến “qua bốn đời nữa sẽ đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”, cho đến còn lại một đời tức là giai đoạn tâm Kim cang sẽ đoạn trừ hết.
Luận Pháp hoa[16] nói rằng: Kinh văn nói “được pháp nhẫn vô sinh” là nói vào Sơ địa, chứng trí tuệ. Nên biết rằng từ “còn tám lần sinh” cho đến “còn một lần sinh” rồi chứng đạo Bồ-đề là nói hàng phàm phu quyết định có thể chứng Sơ địa, tùy số lần sinh còn lại, tiến dần lên còn một lần sinh, ắt sẽ chứng Bồ-đề.
Bồ-đề ở đây là lìa khỏi sinh tử phần đoạn trong ba cõi, dần dần từng bậc thấy được chân như, tánh Phật. Như vậy gọi là đạt được Bồ-đề, không phải nói Bồ-đề rốt ráo trọn đủ. Nay theo luận giải thì trước sâu, sau cạn; theo ngài Quang Trạch thì trước cạn, sau sâu. Hai bên [giải thích] trái ngược nhau, biết ai phán xét?
Nói về pháp nhẫn vô sanh thì kinh luận giải thích không giống nhau. [Luận] Ca-chiên-diên Tử nêu ra 5 pháp thành tựu, được bất thối chuyển, tức là giai vị của Bồ Tát lục độ.[17] Hàng Tu-đà-hoàn, dù là chứng trí hay đã đoạn phiền não, đều là được pháp nhẫn vô sanh như hàng Bồ Tát, tức là giai vị chung cho cả ba thừa. Bồ Tát lên Sơ địa đạt được pháp nhẫn vô sanh, đó là giai vị của Bồ Tát Biệt giáo. Bồ Tát lên Sơ trụ đạt được pháp nhẫn vô sanh, đó là giai vị của Bồ Tát Viên giáo. Những cách giải thích này đều từ lời dạy của các bậc Thánh, không thể tùy tiện lẫn lộn.
Lại nữa, kinh Tịnh Danh nói gần đến địa vị Vô đẳng đẳng,[18] đạt được pháp nhẫn vô sanh. Kinh Nhân vương nói, [từ trước] cho đến giai vị Kim cang đảnh đều gọi là phục nhẫn, cũng gọi là tịch diệt nhẫn. Hết thảy đều là các giai vị khác nhau của Biệt giáo và Viên giáo. Những ý nghĩa bao quát không thể vận dụng một cách cứng nhắc. Ngài Quang Trạch cho rằng Bồ Tát đã phát tâm là thuộc nội phàm, giai vị tam thập tâm là đạt pháp nhẫn vô sanh, tức là Sơ địa. Như vậy đều là cách gọi tên của Biệt giáo, không phải cách hiểu của Thông giáo. Từ Sơ địa lên đến Lục địa đều là tu tập phúc đức,[19] kinh Đại Bát Niết-bàn cho là hữu vi, hữu lậu, gọi là hàng tăng Thanh văn. Đây tức là ý nghĩa của Thông giáo. Từ Thất địa trở lên [dần dần] đoạn trừ chín phầm [phiền não là] nhân tái sanh, nhưng dù là Tiểu thừa hay Đại thừa, người đã đạt đến những giai vị ấy thì ai cũng đoạn trừ được, nên chưa đủ để phân biệt xác định. Nếu nói rằng Thất địa đoạn trừ được vô minh hoặc, thì đó không phải ý của Thông giáo, cũng không phải của Biệt giáo, chỉ là Biệt giáo nối ý của Thông giáo mà thôi. Cách giải thích của ngài Quang Trạch không xác quyết rõ ràng, không phù hợp với kinh Pháp hoa này.
Ngài Thiên Thân cho rằng Bồ Tát đã phát tâm tức là đạt được pháp nhẫn vô sanh, từ giai vị còn tám lần tái sanh cho đến còn một lần tái sanh. Phàm phu quyết định đoạn trừ quả báo, dứt hết tái sanh, vào bậc Sơ địa, được pháp nhẫn vô sanh. Giải thích như vậy hoàn toàn theo nghĩa của Biệt giáo, cũng không phù hợp với kinh này.
Nay phân chia kinh văn thành ba phần. Thứ nhất là phần tựa chung của người chép kinh, thứ hai là phần phân biệt của Như Lai, thứ ba là nói việc đại chúng cúng dường.
Phần thứ nhất thì y theo kinh văn có thể hiểu được.
Phần [thứ hai] nói nghĩa phân biệt là lời Phật nhiệm mầu vi diệu, không thể dựa theo các giai vị quyền thừa để giải thích kinh. Cho nên, kinh văn phần trước đã nói nghĩa khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật, nay theo nghĩa bản môn nói việc đạo hạnh tăng trưởng, sinh tử giảm trừ, đều phải dựa theo các giai vị của Viên giáo để giải thích.
[Kinh văn nói] phần sau nói “chúng sinh nhiều như số hạt bụi nhỏ của tám thế giới đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”, đây là nói những người được sáu căn thanh tịnh, bắt đầu vào các giai vị Thập tín. Cho nên kinh Nhân vương nói: “Hàng Bồ Tát Thập thiện phát tâm Đại thừa, mãi mãi lìa xa biển khổ luân hồi trong ba cõi”, tức là ý nghĩa này.
[Kinh văn nói] “đạt được pháp nhẫn vô sinh” tức là vào giai vị Thập trụ. Cho nên kinh Hoa nghiêm nói: “Ban sơ ở Phát tâm trụ, một tâm phát khởi thì tất cả các tâm đều phát khởi. Đạt được thân Như Lai, một thân là vô lượng thân, Pháp thân nhiệm mầu thanh tịnh, tịch nhiên sâu lắng ứng hiện khắp thảy.” Tức là nói nghĩa này.
[Kinh văn nói] “đạt được Văn trì đà-la-ni” tức là vào các giai vị Thập hạnh; “đạt được Nhạo thuyết vô ngại biện tài” tức là vào các giai vị Thập hồi hướng.
[Kinh văn nói] đạt được “vô số trăm ngàn muôn ức Toàn Đà-la-ni” tức là vào Sơ địa; “có thể chuyển bánh xe pháp bất thối” tức là vào Nhị địa; “chuyển bánh xe pháp thanh tịnh” tức là vào Tam địa; còn phải “trải qua tám lần tái sinh nữa” tức là lên đến Tứ địa.
[Tiếp theo,] còn bảy lần tái sinh là vào Ngũ địa; còn sáu lần tái sinh là vào Lục địa; còn năm lần tái sinh là vào Thất địa.
[Kinh văn nói] “trải qua bốn đời nữa sẽ đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác” tức là vào Bát địa; “trải qua ba đời nữa” là vào Cửu địa; “trải qua hai đời nữa” là vào Thập địa; “trải qua một đời nữa” là vào giai vị Đẳng giác tâm Kim cang.
Nếu luận về nghĩa tăng trưởng đạo hạnh, giảm trừ sinh tử thì không phải như ngài Quang Trạch nói đoạn trừ sự tái sinh do nhân tái sinh, không phải như ngài Thiên Thân đoạn trừ sự tái sinh do quả báo sinh, chỉ dựa vào trí đức để luận việc tăng trưởng, dựa vào đoạn đức để luận việc giảm trừ, dựa vào Pháp thân để luận sự sinh khởi, dựa vào vô minh để luận sự diệt trừ.
Như thí dụ mặt trăng trong kinh Đại Bát Niết-bàn, từ ngày mùng một cho đến ngày rằm thì ánh sáng dần dần tăng thêm, từ ngày 16 cho đến ngày cuối tháng thì ánh sáng dần dần giảm bớt. Dựa theo thể tánh của cùng một mặt trăng [vốn không thay đổi] mà luận về sự tăng thêm hay giảm bớt [ánh sáng], đó là thí dụ cho việc dùng Pháp thân mà luận về trí đức, đoạn đức.
Hoặc có thể là một người trong một thời có tám lượt tăng tiến; hoặc có thể là một đời, hoặc tám đời, hoặc vô số đời; hoặc có thể là một niệm, hoặc tám niệm, hoặc vô số niệm; hoặc có thể là số đông người nhiều như số hạt bụi nhỏ cũng đều như vậy. Cho nên không thể hạn cuộc nơi nhân tái sinh hay quả báo tái sinh; không thể tách rời sự tăng tiến của trí đức và đoạn đức để giải thích.
Xét về bản môn [trong kinh này], số người chứng đạo nhiều gấp bội so với những kinh khác; không chỉ là số lượng nhiều, mà thời gian hun đúc tu tập cũng lâu dài hơn. Từ bản nguyên xa xưa, [đức Phật] thương xót thị hiện hình tích chỉ bày dẫn dắt ở khắp mọi nơi, trong khoảng thời gian ở giữa vẫn thường cùng [với các đệ tử] gặp lại nhau, rất nhiều người nhờ đó được thuần thục căn cơ, đến đời này [Phật lại] dùng năm tầng bậc giáo pháp[20] tuần tự điều phục; [cuối cùng] thâu tóm đúc kết quy về hội nơi Pháp hoa. Ví như nhà nông mùa xuân gieo trồng, mùa hạ cày xới chăm bón, mùa thu thu hoạch về, mùa đông cất chứa bảo quản; cùng một lúc thu hoạch trọn vẹn. [Cho nên] kể từ khi Phật thuyết kinh Pháp hoa trở về sau, số người chứng đạo chỉ còn [thưa thớt] như lúa thóc rơi vãi sau vụ mùa được nhặt mót mà thôi.
KINH VĂN
Khi đức Phật nói về việc các vị Đại Bồ Tát được những lợi ích pháp lớn lao như vậy, từ giữa không trung mưa xuống hoa mạn-đà-la và ma-ha mạn-đà-la để rải khắp trên vô lượng trăm nghìn muôn ức tòa sư tử của các đức Phật [phân thân đang ngồi] dưới các cội cây báu, cùng rải khắp trên tòa sư tử trong tháp bảy báu của đức Phật Thích-ca Mâu-ni và đức Như Lai Đa Bảo, vị Phật đã diệt độ từ rất lâu, và cũng rải lên tất cả các vị Đại Bồ Tát và bốn chúng đệ tử. Lại mưa xuống bột mịn hương chiên đàn, trầm thủy... Trên hư không tiếng trống trời tự vang lên[21] âm thanh vi diệu sâu xa. Lại mưa xuống hàng ngàn loại y phục cõi trời có treo đính các chuỗi anh lạc bằng chân châu, ma-ni châu, như ý châu, đầy khắp cả chín phương.[22] Các lò hương báu được xông đốt bằng loại hương quý vô giá tự nhiên hiện đến khắp nơi để cúng dường đại chúng trong Pháp hội.
Phía trên mỗi một đức Phật [phân thân] đều có các vị Bồ Tát cầm phướn lọng theo thứ lớp cao dần, [từ mặt đất] lên đến tận cõi trời Phạm thiên. Các vị Bồ Tát này đều dùng âm thanh vi diệu xướng lên vô số bài tụng để ngợi khen xưng tán chư Phật.
Phần thứ ba nêu việc đại chúng khi ấy cúng dường. [Đại chúng] nghe giáo pháp sâu xa, được lợi ích lớn lao, muốn báo đáp ơn Phật nên thiết lễ cúng dường, cũng là mượn việc này để bày tỏ sự nhận hiểu. Phần trước [Phật thuyết giảng] về tích môn, các Bồ Tát cũng đã tỏ ngộ, nhưng việc khai mở chỉ bày vào tri kiến Phật[23] vẫn chưa hoàn tất, cho nên chưa trình bày ra. Đến khi phần thuyết giảng về bản môn đã xong, Bồ Tát Di-lặc mới đứng đầu thay mặt đại chúng bày tỏ sự nhận hiểu.
[Kinh văn nói] “các vị Bồ Tát cầm phướn lọng theo thứ lớp cao dần, [từ mặt đất] lên đến tận cõi trời Phạm thiên”. “Phướn” là nêu ý nghĩa xoay chuyển; “lọng” là nêu ý nghĩa che chở; “mặt đất” là nghĩa khởi đầu; “cõi trời Phạm thiên” là nghĩa thanh tịnh. Trí đức, đoạn đức nhiều lượt xoay chuyển; từ bi nhiều lần che chở, cao thấp cạn sâu không sai thứ lớp, “lên đến tận cõi trời Phạm thiên” là nghĩa biểu trưng cho các vị Bồ Tát tăng tiến đạo hạnh, giảm trừ sinh tử đến gần bậc Diệu giác, đạt đến cùng cực của sự thanh tịnh.
Nếu theo sự giải thích của ngài Thiên Thân thì chỉ đạt được Sơ địa một lần, làm sao có thể tương hợp với phần kinh văn này?
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, Bồ Tát Di-lặc từ chỗ ngồi đứng dậy, vén áo trần vai bên phải, chắp tay hướng về đức Phật đọc kệ rằng:
“Phật thuyết pháp hy hữu,
Xưa nay chưa từng nghe.
Thế Tôn đại thần lực,
Tuổi thọ đến vô cùng.
Vô số chúng Phật tử,
Nghe Thế Tôn phân biệt,
Được nhiều lợi ích pháp,
Hoan hỷ khắp châu thân,
Đạt địa vị Bất thối,
Hoặc được đà-la-ni,
Hoặc Biện tài vô ngại,
Muôn ức Toàn tổng trì.
Hoặc số Bồ Tát nhiều,
Như bụi cõi đại thiên,
Mỗi vị đều chuyển được,
Bánh xe pháp bất thối.
Hoặc số Bồ Tát nhiều,
Như bụi cõi trung thiên,
Mỗi vị đều chuyển được,
Bánh xe pháp thanh tịnh.
Hoặc số Bồ Tát nhiều,
Như bụi cõi tiểu thiên,
Còn tái sinh tám đời,
Sẽ thành tựu quả Phật.
Hoặc số Bồ Tát nhiều,
Như bụi trong bốn cõi,
Hoặc ba cõi, hai cõi,
Một cõi tứ thiên hạ,
Đều tùy theo số cõi,
Sẽ tái sinh tương ứng,
Bốn, ba, hai, một đời,
Rồi thành tựu quả Phật.
Những chúng sanh như vậy,
Nghe Phật thọ lâu dài,
Được vô lượng quả báo,
Vô lậu và thanh tịnh.
Lại có chúng sanh nhiều,
Như bụi tám thế giới,
Nghe Phật nói tuổi thọ,
Đều phát tâm Vô thượng.
Đức Thế Tôn thuyết pháp,
Khó suy lường, nghĩ bàn,
Chúng sanh được lợi ích,
Như hư không vô biên.
Phần kệ tụng có 19 khổ kệ, chia ra làm 3 tổng đoạn.
Tổng đoạn thứ nhất gồm 2 khổ kệ đầu tiên, tụng ý nghĩa đại chúng lúc đó đạt được sự nhận hiểu.
Tổng đoạn thứ hai gồm 9 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa đức Như Lai thuyết phân biệt [công đức].
KINH VĂN
Chư thiên cõi Phật khác,
Nhiều như cát sông Hằng,
Đến rải hoa mạn-đà,
Cùng ma-ha mạn-đà.
Mưa chiên đàn, trầm thủy,
Chấp chới rơi khắp nơi,
Như chim trời bay liệng,
Cúng dường, xưng tán Phật.
Trống trời giữa không trung,
Tự vang âm vi diệu.
Ngàn muôn loại thiên y,
Xoay vòng rơi rơi xuống;
Lò hương báu hiện ra,
Xông ngát hương vô giá,
Đầy đủ khắp mọi nơi,
Cúng dường các đức Phật.
Có chúng Đại Bồ Tát,
Cầm lọng bảy báu che,
Cao đẹp muôn ức tầng,
Lên đến cõi Phạm thiên.
Trước mỗi một đức Phật,
Đều có treo phướn báu,
Ngâm muôn ngàn bài kệ,
Xưng tán chư Như Lai.
Tất cả việc như vậy,
Xưa nay chưa từng có,
Nghe Phật thọ vô cùng,
Hết thảy đều hoan hỷ.
Hồng danh Phật vang xa,
Lợi ích khắp mười phương,
Chúng sanh đủ căn lành,
Giúp vào tâm Vô thượng.
Tổng đoạn thứ ba gồm 8 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa đại chúng lúc đó cúng dường. [Kệ nói:] “Được vô lượng quả báo, vô lậu và thanh tịnh”, lấy nghĩa khác với hàng Nhị thừa có hạn lượng nên nói là “vô lượng”; do nhân nhiệm mầu chiêu cảm nên nói là “thanh tịnh”, cõi nước không có chướng ngại nên nói là “quả báo”, khác với hàng Nhị thừa không [chiêu cảm] quả báo [như vậy]. “Nghe Phật thọ lâu dài”, kinh văn nơi đây phân biệt xác định là vô lượng, làm sao có thể theo các vị cựu giải mà nói là có hạn lượng?
Các bậc thầy phương Nam cho rằng, kinh văn trường hàng từ sau bài kệ này trở đi là thuộc phần lưu thông, dẫn chứng trước đó trong phần thuyết giảng tích môn, phần nói về Bồ Tát Văn-thù trong hiện tại cũng là lưu thông.
Các bậc thầy phương Bắc thì cho rằng, bốn hạng đệ tử có niềm tin[24] hiện đang nghe kinh, do vậy xác định vẫn còn trong phần chánh thuyết.
Từ câu “Lại nữa, sau khi Như Lai diệt độ” trở đi mới là phần lưu thông mà theo cách phân chia của hai phía Nam, Bắc đều vận dụng được.
Nay tạm theo cách phân chia của các bậc thầy phương Nam. Từ sau bài kệ này, [phần kinh văn còn lại] có 11 phẩm rưỡi, chia làm hai tổng phần.
Thứ nhất là từ chỗ này trở đi đến hết phẩm Bồ Tát Thường Bất Khinh, nêu công đức sâu xa của việc truyền rộng kinh này, khuyến khích sự lưu thông.
Thứ hai là từ phẩm Thần lực Như Lai trở đi [đến hết kinh] gồm 8 phẩm, chia làm hai phần phó thác và lưu thông, mỗi phần đều có ba tổng đoạn.
[Phần phó thác,] tổng đoạn thứ nhất gồm nửa phẩm này cùng trọn phẩm Công đức tùy hỷ, nêu nhân công đức phẩm trước để khuyến khích lưu thông kinh này.
Tổng đoạn thứ hai gồm phẩm Công đức pháp sư nêu quả công đức của phẩm trước để khuyến khích lưu thông, phẩm Bồ Tát Thường Bất Khinh dẫn việc tin tưởng được phúc, hủy báng chịu tội, chứng minh và khuyến khích lưu thông kinh này.
Tổng đoạn thứ ba gồm phẩm Thần lực Như Lai và phẩm Phó thác về sau, nêu việc phó thác về sau lưu thông kinh này.
Từ phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của Bồ Tát Dược Vương trở đi gồm 5 phẩm dựa vào ý nghĩa giáo hóa chúng sanh mà khuyến khích lưu thông kinh này.
[Cuối cùng,] phẩm Bồ Tát Phổ Hiền khuyến khích phát tâm là dựa vào việc tự hành trì để khuyến khích lưu thông.
Về nghĩa sinh khởi, đó là nói trong hiện tại nghe kinh có sự nhận hiểu chân thật hoặc tương tự, sẽ được lợi ích như phần trước đã nói. Nếu [người đời sau] trực tiếp được nghe một câu kinh mà sinh tâm tùy hỷ, công đức so ra cũng bằng như bốn hạng đệ tử có niềm tin hiện tại đang nghe kinh.
Vì đời tương lai không có Phật, sợ người đời nghi ngờ [kinh này] ít phước đức, nên Phật thuyết 5 phẩm nói về công đức[25] [thọ trì kinh này] sau khi Phật nhập diệt.
Vì gieo nhân công đức vi diệu ẩn mật, không như được quả công đức hiển nhiên sáng tỏ, cho nên Phật thuyết phẩm Công đức pháp sư.
Tuy đã nêu nhân quả, cũng không bằng như sự dẫn chứng rõ ràng, cho nên Phật thuyết phẩm Bồ Tát Thường Bất Khinh.
Tuy đã nêu nhân thuở xưa, cũng không bằng như thị hiện thần biến trong hiện tại, cho nên Phật thuyết phẩm Thần lực Như Lai.
Tuy đã thị hiện thần lực, cũng không bằng như [được Phật] xoa đầu phó thác, cho nên Phật thuyết phẩm Phó thác về sau.
Tuy đã phó thác chung [giữa đại chúng], cũng không bằng chỉ bày phương thức cốt yếu, xả thân giữ đạo, cho nên Phật thuyết phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của Bồ Tát Dược Vương.
Tuy đã răn dạy người giáo hóa, cũng không bằng răn dạy người được giáo hóa, tùy nơi nghe pháp đều nên sanh tâm nhớ tưởng đến Phật, cho nên Phật thuyết hai phẩm Bồ Tát Diệu Âm và Bồ Tát Quán Thế Âm.
Nếu người mới phát tâm hoằng truyền kinh điển, vốn không có thần lực, phải nương vào sự gìn giữ từ bên trong, cho nên Phật thuyết phẩm Đà-la-ni.
Vì cũng cần sự giúp đỡ bảo vệ bên ngoài, cho nên Phật thuyết phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của vua Diệu Trang Nghiêm và phẩm Bồ Tát Phổ Hiền khuyến khích phát tâm.
Các phẩm [như vậy được sắp xếp] liên tục, tầng tầng lớp lớp nối liền nhau, đều là để khiến cho giáo pháp Đại thừa được hoằng truyền thông suốt.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Đại Bồ Tát Di-lặc: “Này A-dật-đa! Nếu có chúng sinh nào nghe nói về tuổi thọ của Phật dài lâu như vậy, chỉ cần khởi sinh dù chỉ một ý niệm tin hiểu thì công đức mà người ấy đạt được nhiều đến mức không có hạn lượng.
Sau phần kệ tụng, kinh văn trường hàng chia thành hai phần. Phần thứ nhất nói về bốn hạng đệ tử hiện tại có niềm tin; phần thứ hai nói về năm hạng người [tin nhận kinh này] sau khi Phật diệt độ.
Thế nào là bốn hạng đệ tử có niềm tin? [Trong số bốn hạng này,] xét khả năng giảng giải sơ lược kinh Pháp hoa này thì có ba hạng, khả năng giảng rộng thì có hai hạng, khả năng quán chiếu thành tựu chỉ có một hạng. Nhưng bốn hạng này đều có niềm tin [vào kinh này], cho nên gọi là bốn hạng đệ tử có niềm tin.
Về bốn hạng đệ tử có niềm tin, hạng thứ nhất là những người khởi sinh một niệm tin hiểu nhưng chưa có khả năng giảng giải; hạng thứ hai là những người có thêm khả năng giảng giải sơ lược; hạng thứ ba là những người có thêm khả năng vì người khác giảng rộng kinh này; hạng thứ tư là những người có niềm tin sâu xa, tu tập quán chiếu thành tựu.[26]
Phần đầu tiên nói về hạng thứ nhất có một niệm tin hiểu, gồm có kinh văn trường hàng và kệ tụng. Kinh văn trường hàng có ba phần. Thứ nhất nêu về hạng người này; thứ hai nêu công đức của họ; thứ ba, nêu giai vị và công hạnh không còn thối chuyển.
Bây giờ giải thích về “một niệm tin hiểu”. Đó là nói tùy theo chỗ được nghe kinh mà tức thời sáng tỏ thông suốt, tùy theo lời dạy [trong kinh] mà thể nhập không có chướng ngại. [Do đó] tin nhận rằng:
1. Hết thảy các pháp đều là Phật pháp.
2. Lại cũng tin rằng Phật pháp không ngăn cách với hết thảy các pháp, không đạt được Phật pháp thì không đạt được hết thảy các pháp.
3. Thấy được hết thảy các pháp thì cũng thấy được Phật pháp.
Mỗi một điều trên cũng là ba điều, ba điều cũng là một điều. Lại cũng có nghĩa [như kinh Duy-ma-cật nói] là “thực hành không phải đạo là thông đạt Phật đạo”, thực hành Phật đạo là thông đạt hết thảy các đạo; không đạt được Phật đạo với hết thảy các đạo mà thông đạt Phật đạo với hết thảy các đạo. Không có gì mà là có, nhưng có mà không có gì, cũng chẳng phải có chẳng phải không có. Giống như con đường chạy qua phía trước cửa nhà, thông suốt đến hết thảy các hướng đông, tây, nam, bắc, không có gì ngăn ngại. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, mỗi khi có chỗ tiếp đối [trần cảnh] cũng đều như vậy. Không nghi ngại nên gọi là tin, nhận biết rõ ràng nên gọi là hiểu, đó là tâm có “một niệm tin hiểu”.
Như có lúc ngồi suy ngẫm, tùy theo chỗ suy ngẫm đó bỗng nhiên tỏ ngộ thông suốt, việc thông đạt ba chân lý[27] cũng giống như vậy. Tin hiểu như vậy gọi là giai vị thiết luân.[28]
Lại có cách giải thích khác, cho rằng [tin hiểu] như vậy chưa đủ gọi là giai vị thiết luân, chỉ là hạng mới phát tâm trong các giai vị thập tín. Vì người như vậy chưa được sáu căn thanh tịnh, cho nên chưa phải chính thức vào giai vị thiết luân.
KINH VĂN
“Nếu có thiện nam, thiện nữ nào vì cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mà trong tám mươi muôn ức na-do-tha kiếp tu tập năm pháp ba-la-mật là Bố thí ba-la-mật, Trì giới ba-la-mật, Nhẫn nhục ba-la-mật, Tinh tấn ba-la-mật, Thiền định ba-la-mật, chỉ trừ Bát-nhã ba-la-mật, công đức của những người này so với công đức tin hiểu tuổi thọ của Phật không bằng được một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn muôn ức… cho đến dùng các phép tính toán, thí dụ cũng không thể so sánh biết được.
“Người có công đức tin hiểu như vậy mà thối tâm Bồ-đề là điều không thể có.”
Phần thứ hai là suy lường [công đức của hạng người này]. Trước tiên luận tổng quát là không có hạn lượng; tiếp theo là suy lường phân biệt nhiều ít. Phần này lại chia làm 2 đoạn.
Đoạn thứ nhất là nêu 5 pháp [ba-la-mật] qua bờ làm căn bản để suy lường. Bát-nhã tức là trí tuệ chân chánh hiện nay, cho nên nói trừ ra Bát-nhã ba-la-mật.
Hỏi: Nếu trừ ra Bát-nhã ba-la-mật thì năm pháp còn lại không thể gọi là ba-la-mật [qua bờ]?
Đáp: Tất cả đều vì cầu trí tuệ Phật, như hết sức thực hành bố thí và trì giới đến tận bờ mé, cũng có thể gọi là ba-la-mật [qua bờ]. Đây đều là nói theo ý có thứ lớp tuần tự.
Đoạn thứ hai từ câu “công đức của những người này” trở đi, nêu việc suy lường phân biệt nhiều ít.
Phần thứ ba từ câu “Người có công đức tin hiểu như vậy” trở đi nêu giai vị và công hạnh không còn thối chuyển. Sáu tâm ban đầu trong Thập trụ của Biệt giáo vẫn còn thối thất, đến tâm thứ bảy không còn thối thất. Trong Viên giáo thì ngay từ Sơ trụ[29] [của Thập trụ] đã không còn thối chuyển.
Được nghe phẩm Tuổi thọ của Như Lai nên có công đức từ bên ngoài giúp vào; trọn lòng tin theo, nhận hiểu [ý kinh] là được hun đúc từ bên trong, cho nên không còn thối chuyển. Đại phẩm [Bát-nhã] nói “có Bồ Tát thối chuyển, có Bồ Tát không thối chuyển”, lại “có ma chướng hoặc không có ma chướng”, đều là ý nghĩa này.
KINH VĂN
Khi ấy, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:
“Có người cầu trí Phật,
Trong số kiếp tám mươi
Muôn ức na-do-tha
Tu năm ba-la-mật.
Trong suốt những kiếp ấy,
Bố thí, cúng dường Phật,
Các đệ tử Duyên giác,
Cùng đại chúng Bồ Tát,
Những món ăn quý lạ,
Y phục, chỗ nằm ngồi,
Dựng tinh xá chiên đàn,
Có vườn rừng trang nghiêm.
Tu bố thí như vậy,
Mọi thứ đều vi diệu,
Đến hết số kiếp ấy,
Hồi hướng cầu quả Phật.
Lại nghiêm trì giới luật,
Thanh khiết không vấy bẩn,
Tâm cầu đạo Vô thượng,
Chư Phật đều ngợi khen.
Lại thực hành nhẫn nhục,
Tự điều phục, nhu hòa,
Gặp đủ điều xấu ác,
Tâm không hề xao động.
Bị những người học pháp,
Ôm lòng tăng thượng mạn,
Theo khinh chê, não loạn,
Vẫn có thể nhẫn chịu.[30]
Lại chuyên cần tinh tấn,
Giữ chí niệm kiên cố,
Trong vô số ức kiếp,
Một lòng không lười nghỉ.
Lại trong vô số kiếp,
Thường sống nơi thanh vắng,
Hoặc ngồi thiền, kinh hành,
Nhiếp tâm, trừ lúc ngủ.
Do nhân duyên như vậy,
Được các pháp thiền định,
Tám mươi muôn ức kiếp,
Tâm an trụ không loạn.
Dùng phước nhất tâm ấy,
Nguyện cầu đạo Vô thượng.
Ta đạt Nhất thiết trí,
Tận cùng các thiền định,
Thấy rõ người trải qua,
Trăm ngàn muôn ức kiếp,
Thực hành các công đức,
Như ta vừa nói trên;
So với nam hoặc nữ,
Nghe ta nói tuổi thọ,
Dù chỉ một niệm tin,
Phước đức hơn người kia.
Nếu người nào dứt sạch
Mọi nghi ngờ hối tiếc,
Tin sâu trong thoáng chốc,
Cũng được phước như vậy.
Với các vị Bồ Tát,
Vô số kiếp tu hành,
Nghe ta nói tuổi thọ,
Liền đủ sức tin nhận.
Các Bồ Tát như thế,
Cung kính nhận kinh này:
‘Nguyện chúng con đời sau,
Sống lâu độ chúng sanh;
Như Thế Tôn ngày nay,
Vua trong dòng họ Thích,
Sư tử chốn Đạo trường,
Thuyết pháp không sợ hãi.
Chúng con trong đời sau,
Được chúng sanh tôn kính,
Cũng ngồi nơi Đạo trường,
Nói tuổi thọ lâu dài.’
Nếu có người tin sâu,
Tâm thanh tịnh, chân thật,
Nghe nhiều, ghi nhớ hết,
Tùy nghĩa giảng lời Phật,
Với những người như thế,
Có thể không hoài nghi.”
Phần kệ tụng có 19 khổ rưỡi kệ, [cũng chia làm 3 đoạn].
Đoạn thứ nhất gồm 12 khổ kệ, trước tiên tụng về lại nghĩa suy lường phân biệt nhiều ít.
Đoạn thứ hai gồm 2 khổ kệ, tụng ngược[31] về nghĩa nêu hình tướng người ở trước.
Đoạn thứ ba gồm 5 khổ kệ, tụng lại về giai vị và công hạnh không thối chuyển.
Kệ nói “Vô số kiếp tu hành” nghĩa là đã từ lâu tu tập các pháp ba-la-mật. “Nguyện chúng con đời sau” tức là khởi tâm nguyện từ bi. Nhờ sự tu hành và phát nguyện từ lâu nên nghe kinh liền tin hiểu. Nay ở phần đầu phẩm này chỉ vừa mới được nghe kinh, có một niệm tin hiểu, công đức ấy lại ngang bằng với người tu hành đã lâu, lại còn hơn thế nữa.
KINH VĂN
“Lại nữa, này A-dật-đa! Nếu có người nghe nói tuổi thọ của Phật lâu dài, hiểu rõ được lời ấy, thì công đức người ấy đạt được không có giới hạn, có thể khởi sinh trí tuệ Vô thượng Như Lai. Huống chi là người có thể rộng nghe kinh này, hoặc bảo người khác nghe, hoặc tự mình thọ trì, hoặc bảo người khác thọ trì, hoặc tự mình sao chép, hoặc bảo người khác sao chép, hoặc dùng hoa, hương, chuỗi ngọc, cờ phướn, lọng che, dầu thơm, đèn bơ[32] để cúng dường kinh này, công đức của người ấy là vô lượng vô biên, có thể khởi sinh Nhất thiết chủng trí.[33]
Từ câu “Lại nữa, này A-dật-đa! Nếu có người nghe nói tuổi thọ của Phật lâu dài” trở đi là nói về hạng [đệ tử có niềm tin] thứ hai. Hạng đệ tử trước chỉ có khả năng tin hiểu nhưng không thể giảng thuyết. Thuyết giảng liên kết danh xưng số lượng cần phải biết dùng lời khéo léo tốt đẹp, nay hạng đệ tử này có đủ [khả năng ấy], cho nên nói là vì người khác giảng thuyết. Do sự vượt hơn mà gọi tên, cho nên gọi là hạng thứ hai. Do sức thuyết giảng nên có thể tự mình và giúp cho người khác đều được “khởi sinh trí tuệ Vô thượng Như Lai”. Kinh văn phần này trước tiên nêu tướng trạng, tiếp theo là suy lường công đức.
Từ câu “Huống chi là người có thể rộng nghe kinh này” trở đi là nói về hạng thứ ba, nghe nhiều hiểu rộng, có thể rộng vì người khác thuyết giảng, rộng tu cúng dường. Cúng dường là sự hỗ trợ từ bên ngoài, giúp cho trí tuệ bên trong nhanh chóng thể nhập nên “có thể khởi sinh Nhất thiết chủng trí”. Phần này trước tiên nêu tướng trạng của hạng người, tiếp theo nói việc suy lường [phân biệt công đức].
KINH VĂN
“Này A-dật-đa! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào nghe ta nói về tuổi thọ lâu dài, tin sâu nhận hiểu, người ấy sẽ thấy Phật vẫn thường thuyết pháp tại núi Kỳ-xà-quật, có các vị Đại Bồ Tát và chúng Thanh văn cung kính vây quanh, lại cũng thấy được khắp thế giới Ta-bà này mặt đất bằng lưu ly, bằng phẳng ngay ngắn, dùng vàng diêm-phù-đàn[34] giăng theo bên đường đi về tám hướng,[35] có cây báu thẳng hàng, có lầu gác, đài quán đều làm bằng các món báu, đại chúng Bồ Tát đều ở trong đó. Nếu người nào có thể thấy được như vậy, nên biết đó là tướng trạng của sự tin sâu nhận hiểu.”
Tiếp theo từ câu “Này A-dật-đa…” trở đi là nói về hạng đệ tử có niềm tin thứ tư, có đầy đủ [các phẩm tính] của ba hạng trước, cộng thêm tu tập quán hạnh. Nhập thiền định vận dụng trí tuệ, quán tưởng thành tựu thì hình tướng sinh khởi, có thể thấy được tướng mạo của hai cõi Hữu dư và Thật báo.
“Thấy Phật vẫn thường thuyết pháp tại núi Kỳ-xà-quật, có các vị Đại Bồ Tát và chúng Thanh văn cung kính vây quanh” là tướng trạng của cõi Phương tiện hữu dư.
“Lại cũng thấy được khắp thế giới Ta-bà này… đại chúng Bồ Tát đều ở trong đó” là tướng trạng cõi Thật báo.
Hai hạng đệ tử có niềm tin đầu tiên là ở giai vị Văn tuệ, hạng [thứ ba] nghe nhiều giảng rộng là giai vị Tư tuệ, hạng [thứ tư] tu quán hạnh quán tưởng thành tựu là giai vị Tu tuệ. [Cả bốn hạng đệ tử này, công hạnh] từ cạn đến sâu, thành tựu sáu căn thanh tịnh, tức là giai vị Thập tín.
KINH VĂN
“Lại nữa, sau khi Như Lai diệt độ, nếu người nào nghe kinh này mà không chê bai lại sinh lòng vui theo, nên biết đó cũng là tướng trạng của sự tin hiểu; huống chi là người tụng đọc, thọ trì, người ấy chính là đang cung kính đầu đội Như Lai.[36] Này A-dật-đa! Người thiện nam hay thiện nữ đó không cần phải vì ta mà dựng chùa tháp phụng thờ, cũng không cần xây dựng tăng phòng, dùng bốn sự thiết yếu[37] cúng dường chúng tăng. Vì sao vậy? Vì những thiện nam, thiện nữ ấy thọ trì, đọc tụng kinh này tức là đã dựng chùa tháp, đã xây dựng tăng phòng, cúng dường chúng tăng; tức là đã dựng tháp bằng bảy báu thờ xá-lợi Phật, bên dưới to rộng bên trên nhỏ dần, cao lên đến tận cõi Phạm thiên, có treo phướn lọng cùng những chuông báu nhỏ với hoa, hương, chuỗi ngọc, cùng các loại hương bột, hương thoa, hương đốt, dùng các loại trống, nhạc, ống tiêu, ống địch,[38] đàn không hầu, đủ các loại vũ khúc và âm thanh vi diệu để ngợi ca tán tụng; tức là đã trải qua vô lượng ngàn muôn ức kiếp làm việc cúng dường như vậy.
“Này A-dật-đa! Nếu sau khi ta diệt độ có người nào nghe kinh điển này rồi có khả năng thọ trì, hoặc tự mình sao chép, hoặc bảo người khác sao chép, đó là đã xây dựng tăng phòng, dùng chiên đàn đỏ dựng thành ba mươi hai tòa điện đường,[39] cao bằng tám cây đa-la,[40] tăng phòng rộng đẹp trang nghiêm, đủ chỗ cho trăm ngàn vị tỳ-kheo cùng ở trong đó,[41] lại có đủ vườn rừng, hồ tắm, đường đi kinh hành, hang ngồi thiền; có đủ y phục, thức ăn uống, giường đệm, thuốc men trị bệnh, đủ mọi tiện nghi; những tăng phòng, điện đường lầu gác giống như vậy, số lượng nhiều đến bao nhiêu ngàn muôn ức cho đến vô số lượng, đều giống như hiện nay đã dùng để cúng dường ta cùng với chư tỳ-kheo tăng.
“Do vậy nên ta nói rằng: ‘Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có người thọ trì, tụng đọc kinh này, vì người khác giảng nói, hoặc tự mình sao chép, hoặc bảo người khác sao chép, cúng dường kinh này, người ấy không cần phải dựng chùa tháp cũng như xây dựng tăng phòng, cúng dường chúng tăng.’
Từ câu “Lại nữa, sau khi Như Lai diệt độ” trở đi là nói về năm hạng người [tin nhận kinh này]. Kinh văn lại chia làm hai đoạn. Đoạn trước tiên nêu 5 hạng người, suy lường phân biệt so sánh công đức của 4 hạng sau. Đoạn sau nói về hạng người tùy hỷ, suy lường phân biệt công đức của hạng đầu tiên.
Hỏi: Tại sao lại như vậy ?
Đáp: Vì bốn hạng sau suy lường phân biệt sơ sài, còn hạng [tùy hỷ] đầu tiên nêu việc suy lường phân biệt mở rộng. Khi đã suy lường phân biệt mở rộng rồi, nêu sự so sánh hơn thế nữa thì có thể hiểu được ý nghĩa. Đức Phật không nói nhiều rườm rà mà khéo léo diễn đạt như vậy.
Năm hạng người đó, thứ nhất là trực tiếp khởi tâm tùy hỷ, thứ hai là thêm tự mình thọ trì đọc tụng, thứ ba là thêm khuyến khích người khác thọ trì đọc tụng, thứ tư là tu tập thêm sáu ba-la-mật, thứ năm là chuyên tu công hạnh sáu ba-la-mật. Năm hạng người này, nói chung đều thuộc hạng tự mình hành trì và giáo hóa người khác, như kinh văn phần sau nói có 50 người tuần tự truyền dạy cho nhau. Những ai tự hành trì đều gọi chung là đệ tử; những ai giáo hóa người khác đều gọi chung là pháp sư. Nếu xét riêng thì [trong đó có] 2 hạng chỉ tự mình hành trì, có 3 hạng đầy đủ luôn cả việc giáo hóa người khác. Dùng danh hiệu pháp sư chỉ để gọi 3 hạng sau, không phải cho cả 5 hạng. Việc tự hành trì có ở cả 5 hạng nên đều gọi chung là đệ tử. Hạng đầu tiên chỉ được nêu tướng trạng người mà thôi, việc suy lường phân biệt công đức nói ở phần sau.
Từ câu “huống chi là người” trở đi là nói hạng thứ hai, nêu rõ người có khả năng thọ trì đọc tụng. Việc nêu ra hạng người có thể hiểu được. Câu “người ấy chính là đang cung kính đầu đội Như Lai” không phải là suy lường công đức.
Người mới phát tâm, vì sợ sự khuấy động của ngoại duyên làm chướng ngại việc tu nghiệp chân chánh nên chỉ một lòng chuyên trì kinh này, đó tức là sự cúng dường bậc thượng. [Nếu có thể] bỏ sự tướng giữ theo lẽ thật thì lợi ích càng rộng lớn hơn.
Về sau khi trong tâm đã quán chiếu thành thục, dù tiếp xúc ngoại duyên cũng không gây chướng ngại nội tâm, mọi sự việc đều có thể giúp thêm cho việc tu đạo, như thêm dầu nhiều thì lửa cháy mạnh, như thuyền xuôi dòng nước lại thêm giương buồm. Nếu tăng thêm sức lực công phu tu tập thì thế lực chuyển hóa càng nhanh hơn. Ý chỉ của kinh văn chính là pháp thân xá-lợi nên không cần phải an trí sinh thân xá-lợi.[42] Nếu giảng giải kinh văn thì người giảng giải và kinh văn được giảng giải chính là tháp thờ, không cần đến tháp bằng hình tướng. Kinh văn có thể hàm chứa tăng theo đệ nhất nghĩa, không cần phải đợi nương theo tăng.
Hỏi: Nếu vậy thì trì kinh tức là giữ giới theo đệ nhất nghĩa, sao kinh văn còn nói “lại có thể trì giới thanh tịnh”?
Đáp: Đây là ý nói về hạng đầu tiên,[43] không nên dùng để chất vấn với các hạng sau đó. Nếu muốn giải thích thì trì kinh tức là thuận theo giới về mặt lý thể, cũng là tự nhiên giữ được các giới ba-la-di và tăng tàn.[44] Nay kinh văn nói “có thể trì giới thanh tịnh” là nói từ các giới ba-dật-đề trở đi,[45] trong mọi hành vi đều không có sự thiếu sót phạm vào. Hạng người thứ ba có khả năng giáo hóa người khác, chính là nói ý này.
[Kinh văn] trước tiên nêu ra hạng người này, sau đó từ câu “đã xây dựng tăng phòng” trở đi là [nêu các chi tiết] suy lường công đức.
KINH VĂN
“Huống chi là người có thể thọ trì kinh này, lại thêm thực hành các pháp bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định,[46] trí tuệ thì công đức của người này là thù thắng nhất, là vô lượng vô biên. Cũng giống như hư không về các phương đông, tây, nam, bắc, bốn phương phụ[47] và phương trên, phương dưới đều là vô lượng vô biên, công đức của người này cũng vô lượng vô biên như vậy, sẽ nhanh chóng đạt đến Nhất thiết chủng trí.
Từ câu “Huống chi là người có thể thọ trì kinh này, lại thêm…” trở đi là nói hạng người thứ tư. “Lại thêm thực hành các pháp” ba-la-mật là hạng người này vậy. Trước tiên nêu ra hạng người, sau đó từ câu “công đức của người này là thù thắng nhất” trở đi là suy lường công đức.
KINH VĂN
“Nếu có người tụng đọc, thọ trì kinh này, vì người khác giảng nói, hoặc tự mình sao chép, hoặc bảo người khác sao chép, lại còn có thể dựng tháp thờ, xây dựng tăng phòng, cúng dường, ngợi khen, xưng tán các vị Thanh văn, lại cũng dùng trăm ngàn muôn ức cách ngợi khen xưng tán để xưng tán công đức các vị Bồ Tát, lại vì người khác mà thuận theo đủ mọi nhân duyên, tùy nghĩa thích hợp để giảng giải kinh Pháp hoa này, lại có thể trì giới thanh tịnh, cùng người nhu hòa sống chung luôn nhẫn nhục không sân hận, chí niệm kiên cố, thường muốn ngồi thiền đạt định thâm sâu, tinh tấn dũng mãnh gồm thâu các pháp lành, căn tánh nhanh nhạy, trí tuệ sáng suốt, khéo giải đáp những câu hỏi khó; này A-dật-đa, sau khi ta diệt độ, những thiên nam, thiện nữ nào thọ trì, tụng đọc kinh điển này, lại có đủ những công đức lành như vậy, nên biết rằng những người ấy đã hướng đến đạo trường, ngồi dưới cội Bồ-đề, đến gần quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.[48]
“Này A-dật-đa! Những nơi nào mà các thiện nam hoặc thiện nữ ấy đã từng đi đứng nằm ngồi đều nên dựng tháp, hết thảy chư thiên và loài người đều nên cúng dường như cúng dường tháp Phật.”
Từ câu “Nếu có người tụng đọc” trở đi là nói hạng người thứ năm. Có thể chuyên tu công hạnh sáu ba-la-mật là hạng người này. [Kinh văn] trước tiên nêu hạng người, sau đó từ câu “này A-dật-đa, sau khi ta diệt độ” trở đi là suy lường công đức.
Tóm lại về năm hạng người này, ba hạng trước là thuộc giai vị Văn tuệ, [hạng thứ tư] thêm việc thực hành sáu ba-la-mật là giai vị Tư tuệ, [hạng thứ năm] chuyên tu công hạnh sáu ba-la-mật là giai vị Tu tuệ. Tất cả đều là còn ở trước các giai vị Thập tín.
Hoặc có người cho rằng hạng đầu tiên khởi tâm tùy hỷ là vào được giai vị Tín tâm, theo sự phân chia mỗi hạng là 2 tâm, 5 hạng là 10 tâm trong Thập tín tâm, tức là giai vị Thiết luân, đã được sáu căn thanh tịnh.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:
“Sau khi ta diệt độ,
Có thể trì kinh này,
Người ấy phước vô lượng,
Như trên đã nói rõ.
Như vậy là trọn đủ,
Hết thảy pháp cúng dường,
Như dựng tháp xá-lợi,
Dùng bảy báu trang nghiêm,
Hình dáng rất cao rộng,
Nhỏ dần đến Phạm thiên,
Ngàn muôn ức chuông báu,
Gió lay, ngân diệu âm.
Lại như vô lượng kiếp,
Cúng dường tháp báu ấy,
Dùng hoa, hương, chuỗi ngọc,
Áo trời cùng âm nhạc,
Đốt hương, dùng đèn bơ,
Thắp sáng chung quanh tháp.
Thời mạt pháp xấu ác,
Ai thọ trì kinh này,
Tức là đã cúng dường,
Đầy đủ như nói trên.
Nếu thọ trì kinh này,
Giống như Phật hiện còn,
Dùng chiên đàn Ngưu đầu,
Dựng tăng phòng cúng dường,
Đủ ba mươi hai tòa,
Cao tám cây đa-la,
Món ngon, y phục tốt,
Có đầy đủ giường nằm,
Tăng chúng trăm ngàn vị;
Có vườn rừng, ao tắm,
Đường kinh hành, hang thiền,
Mọi thứ đều tốt đẹp.
Nếu có lòng tin hiểu,
Thọ trì, tụng, sao chép,
Hoặc bảo người sao chép,
Cùng cúng dường kinh này,
Rải hoa thơm, bột hương,
Hoa tu-mạn, chiêm-bặc,
A-đề-mục-đa-ca,
Thường thắp đèn dầu thơm.
Người cúng dường như vậy,
Được công đức vô lượng,
Như hư không vô biên,
Phước đức ấy vô cùng.
Huống chi trì kinh này,
Lại bố thí, trì giới,
Nhẫn nhục, vui thiền định,
Không sân hận nói ác.
Cung kính nơi chùa tháp,
Khiêm hạ với tỳ-kheo,
Xa lìa tâm cao ngạo,
Thường suy xét trí tuệ,
Bị chất vấn không giận,
Giảng giải thuận ý người.
Nếu làm được như vậy,
Công đức thật vô lượng.
Nếu gặp bậc pháp sư,
Thành tựu công đức ấy,
Nên rải xuống hoa trời,
Áo trời che thân người,
Đầu, mặt cúi sát chân,
Đảnh lễ, tưởng như Phật,
Khi ấy nên nghĩ rằng:
‘Vị này không bao lâu,
Sẽ đến cội Bồ-đề,
Thành Phật, độ trời người.’
Nơi vị ấy cư trú,
Đi kinh hành, nằm, ngồi,
Nói ra một bài kệ…
Ở đó nên dựng tháp,
Trang nghiêm, thật tốt đẹp,
Dùng mọi thứ cúng dường.
Con Phật ở nơi nào,
Cũng như tự thân Phật,
Thường ở tại nơi ấy,
Kinh hành hoặc nằm, ngồi.”
Phần kệ tụng tiếp theo có 19 khổ rưỡi kệ [chia làm 4 đoạn].
Đoạn thứ nhất 5 khổ rưỡi kệ, tụng về hạng người thứ hai.
Đoạn thứ hai từ câu “Nếu thọ trì kinh này” trở đi gồm 3 khổ kệ, tụng về hạng người thứ ba.
Đoạn thứ ba từ câu “Nếu có lòng tin hiểu” trở đi gồm 4 khổ kệ, tụng về hạng người thứ tư.
Đoạn thứ tư từ câu “Cung kính nơi chùa tháp” trở đi gồm 7 khổ kệ, tụng về hạng người thứ năm. “Đảnh lễ, tưởng như Phật” là nói ban sơ nương tựa theo người có danh hiệu Như Lai. “Vị này không bao lâu, sẽ đến cội Bồ-đề” là nói đã đạt giai vị Thiết luân,[49] không bao lâu sẽ đạt đến giai vị Đồng luân,[50] có thể hiện tám tướng thành Phật.[51] Hướng đến đạo tràng là hành xứ, Tam-bồ-đề là cận xứ.
Hạng người thứ năm với hạng đệ tử thứ tư trong tứ tín đều cùng thuộc giai vị Tu tuệ. Nếu luận về thể nhập giai vị thì đều là giai vị sáu căn thanh tịnh, chỉ có sự khác biệt giữa hiện Phật tại thế và vị lai sau khi Phật nhập diệt mà thôi.[52] Đại lược là như vậy.
KINH VĂN
Phẩm Công đức tùy hỷ, thứ mười tám
Giải thích tên phẩm
Tùy là tùy thuận theo sự tướng và lý tánh, không phân hai, không khác biệt. Hỷ là vui cho mình, vui cho người khác. Khi được nghe giáo pháp sâu xa uyên áo, tùy thuận theo lý tánh thì được công đức chân thật, tùy thuận theo sự tướng thì được công đức quyền thừa. Vui cho chính mình là có trí tuệ, vui cho người khác là có từ bi. Hợp cả quyền thừa và chân thật, trí đức và đoạn đức mà thuyết giảng, cho nên gọi là phẩm Công đức tùy hỷ.
Lại nữa, thuận theo lý tánh nghe nói về bản địa sâu xa của Phật liền tin nhận sâu xa, thuận theo không trái nghịch, không mảy may nghi ngại. Thuận theo sự tướng là nghe nói về việc Phật ba đời làm lợi ích chúng sanh, xuyên suốt cả thời gian, bao quát mọi nơi trong không gian, cũng không mảy may nghi ngại. Ngay nơi sự tướng rộng khắp mà đạt được lý tánh sâu xa; ngay nơi lý tánh sâu xa mà đạt được sự tướng rộng khắp. Không phân hai mà là hai; không khác biệt mà khác biệt; tuy là hai, là khác biệt mà không phân hai, không khác biệt. Tin tưởng nhận hiểu như vậy gọi là tùy thuận.
Đức Như Lai ra đời hơn bốn mươi năm vẫn chưa hiển bày pháp chân thật. [Đối với] bảy hạng phương tiện,[53] [Phật] đều chưa nói ra lời chân thật rốt ráo. Nay mừng cho chính mình và người khác có thể dùng tâm phàm phu để rõ biết ngang bằng với Phật, có thể dùng nhục nhãn cha mẹ sinh ra mà nhìn thấy được đồng với Như Lai. Chỗ thấy biết như thế rốt ráo tận cùng pháp giới, rộng không bờ mé, không gì bằng được, không gì so sánh được, càng không có gì vượt hơn. Nay Phật nói ra điều này, ta được nghe điều này, cho nên gọi là phẩm Công đức tùy hỷ.
“Người thứ năm mươi” [trong ví dụ của Phật] là hàng ban sơ của hạng người thứ nhất.[54] Vì ban sơ nên [khi nghe kinh này] chỉ có một niệm nhận hiểu lý tánh, chỉ có một niệm mừng vui cho mình và cho người khác, chưa thực hành được gì, chưa tạo được ân đức gì cho người khác. Nhưng công đức mà người này đạt được, đức Như Lai đã khéo léo ví dụ so sánh còn hơn cả bậc vô học, “huống chi là người đầu tiên ở trong Pháp hội được nghe”, huống chi là những hạng người thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm; huống chi là những người được vào các giai vị Thập trụ, Thập hạnh cho đến tâm cuối cùng [trước khi thành Phật].[55] Ai được nghe công đức sâu xa vi diệu như thế mà không ngưỡng mộ? Đức Như Lai nói ra điều này để khiến cho chúng sanh sinh lòng ưa chuộng, cho nên gọi là phẩm Công đức tùy hỷ. Từ trước đến nay, đức Phật ngợi khen xưng tán công đức trì kinh, đại chúng đương thời đều cho rằng phải thể nhập giai vị Chân nhân[56] mới đạt được công đức như thế, cho nên đối với kẻ ban sơ vừa mới phát tâm liền khởi sinh ý tưởng xem nhẹ, cho là yếu kém. Bỗng dưng nghe rằng hạt mầm còn nằm sâu trong đất cứng có thể thành đại thụ đường kính trăm ôm, chim tần-già còn trong trứng đã sẵn có tiếng hót hay hơn hết thảy các loài chim; thật là một sự diệu kỳ hiếm có, mối nghi ngờ xem nhẹ [người sơ tâm trước đây] liền tự nhiên tan biến. Cho nên gọi là phẩm Công đức tùy hỷ.
Hàng ngoại đạo dù đạt được năm thần thông, có thể dời núi lấp biển nhưng không thể điều phục được các phiền não kiến ái,[57] không bằng người vừa được noãn pháp.[58] Bậc vô học trong hàng Nhị thừa đều đã dứt được nhân quả tương lai[59] nhưng vẫn bị trói buộc bởi Niết-bàn, không biết rằng cả nhân và quả [Nhị thừa] đều chỉ là quyền biến. Hàng Thông giáo tuy khéo tu nhân nhưng phát tâm không biết đến quả Phật rốt ráo,[60] nên chứng quả cũng chỉ trừ được bốn trụ địa phiền não.[61] Hàng Biệt giáo tuy có vượt hơn Nhị thừa, nhưng tu nhân có thiên lệch, lại còn vụng về, không được Phật khen ngợi.
Tất cả [những hạng như trên] đều không sánh bằng người vừa [nghe kinh này] mới phát tâm tùy hỷ. Nay đức Phật nêu ra chữ A đầu tiên để so sánh đến chữ Trà sau cùng,1 vượt trội hơn tất cả các giáo pháp khác. Cho nên gọi là phẩm Công đức tùy hỷ.
Hỏi: Như vậy so với phẩm Tùy hỷ trong Đại phẩm Bát-nhã2 thì thế nào?
Đáp: Ở đây nói về pháp, phẩm kia [trong Đại Bát-nhã] là nói về người; người và pháp cùng hỗ tương cho nhau.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, Đại Bồ Tát Di-lặc thưa hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn! Nếu như có thiện nam, thiện nữ nào nghe kinh Pháp hoa này sinh tâm tùy hỷ thì được bao nhiêu phước đức?”
Rồi Bồ Tát Di-lặc đọc kệ lặp lại rằng:
“Sau khi Phật diệt độ,
Có người nghe kinh này,
Nếu khởi tâm tùy hỷ,
Được phước đức bao nhiêu?”
Kinh văn phẩm này có phần hỏi và đáp, mỗi phần đều chia ra có kinh văn trường hàng và kệ tụng.
Phẩm trước suy lường về [công đức của] bốn hạng đệ tử, không nói đến hạng đầu tiên. Ngài Di-lặc nương theo cơ duyên ấy thưa hỏi ý nghĩa này, y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
Khi ấy, đức Phật bảo Đại Bồ Tát Di-lặc: “Này A-dật-đa! Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di hoặc người có trí khác, dù lớn hay nhỏ tuổi, nghe được kinh này rồi sinh tâm tùy hỷ, sau khi ra khỏi Pháp hội liền đi đến nơi khác, hoặc tăng phòng, hoặc chỗ thanh vắng, hoặc nơi thành ấp, đường sá, xóm làng, vườn ruộng, y theo những điều đã nghe mà tùy khả năng giảng nói lại cho cha mẹ, người thân thuộc, bạn hữu, tri thức… Những người được nghe sinh tâm tùy hỷ, tiếp tục nói lại với người khác; người khác nghe rồi cũng sinh tâm tùy hỷ, nói lại với người khác nữa… Cứ tiếp tục truyền đi như vậy cho đến người được nghe thứ năm mươi.”
Nội dung đức Phật giải đáp có hai phần. Phần đầu nói về người trong tâm tùy hỷ, phần thứ hai nêu thẳng về người bên ngoài nghe pháp.
Phần đầu nói về người tùy hỷ trong tâm lại chia làm 5 đoạn. Thứ nhất nói việc tuần tự dạy lại; thứ hai suy lường công đức căn bản; thứ ba thưa hỏi; thứ tư hồi đáp; thứ năm suy lường công đức đầy đủ.
Các bậc thầy phương Nam giảng rằng, 50 người [trong ví dụ] được chia làm 3 nhóm. Thứ nhất là tuần tự [dạy lại] dần lên cao, [người sau hơn người trước]; thứ hai là tuần tự [dạy lại] vẫn ngang bằng [như nhau]; thứ ba là tuần tự [dạy lại] dần xuống thấp, [người sau kém hơn người trước]. [Tuần tự dạy lại] dần lên cao thì rất khó, vẫn ngang bằng cũng ít gặp, đa phần là dần xuống thấp, ngày càng kém hơn. Suy lường [công đức của] người kém nhất để hình dung biết được các trường hợp ngang bằng hoặc cao hơn.[62]
Các bậc thầy phương Bắc giảng rằng, đầu tiên là bậc Diệu giác vì hàng Thập địa thuyết dạy; hàng Thập địa lại vì hàng Cửu địa mà thuyết… Cứ như thế dần dần thuyết dạy xuống cho đến hàng Thập tín. [Cho nên kinh văn] suy lường công đức của người sau cùng để hình dung [công đức] của bậc đầu tiên.
Nay cho rằng không phải như vậy. Đức Phật đã nói rất rõ ràng về người đầu tiên ở trong pháp hội được nghe, sau đó mới tiếp nối dần dần truyền dạy lại. Dần dần truyền dạy qua 50 người, mới suy lường công đức người sau cùng để so sánh hình dung công đức của người đầu tiên. [Cho nên,] nói về sau thì không phải hàng Thập tín là khởi đầu; nói về ban đầu thì không phải bậc Diệu giác là kết thúc; làm sao có thể vận dụng cách giảng giải ấy được? Cách giảng giải ấy rất sâu xa nhưng không tương hợp ý chỉ kinh này.
Nay xét theo hai cách. Thứ nhất, xét theo [50 người] đồng thời tu tập thì dựa vào bốn chúng trong các giáo pháp. Thứ hai, xét theo [50 người] tuần tự tăng tiến thì dựa vào cách đếm số trong Viên giáo.
[Theo cách thứ nhất,] Tạng giáo có bốn cửa vào,[63] mỗi một cửa vào đều có bốn chúng, lại mở rộng thêm hai chúng sa-di và sa-di-ni, hợp thành [sáu chúng biểu trưng cho] 6 người; [nhân với] bốn cửa vào là 24 người; [nhân cho hai nhóm] tín hành và pháp hành, thành 48 người, cộng thêm người đầu tiên và người cuối cùng là thành 50 người. Thông giáo, Biệt giáo cũng có bốn cửa vào nên cũng đều tính như vậy.
[Theo cách thứ hai,] dựa vào số đếm trong Viên giáo thì có số 7 nhỏ và số 7 lớn; số 7 lớn có 7 số 7 nhỏ, thành tổng số 49,[64] trong đó cả người dạy và người học đều có đủ hai phẩm đức tự thực hành và giáo hóa người khác. Riêng đến người sau cùng [thứ 50] chỉ là tự thân nhận hiểu, không có phẩm đức giáo hóa người khác. Cho nên [kinh văn] suy lường công đức người sau cùng này để hiển bày [công đức của những người] trước đó.
KINH VĂN
“Này A-dật-đa! Nay ta sẽ nói về công đức tùy hỷ của người thiện nam hoặc thiện nữ thứ năm mươi được nghe lại đó, ông nên lắng nghe thật kỹ.
“Nếu như trong bốn trăm muôn ức a-tăng-kỳ thế giới có sáu đường[65] chúng sinh, thuộc bốn cách sinh ra như noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh,[66] là những chúng sinh có hình sắc hay không có hình sắc, có tư tưởng hay không có tư tưởng, hoặc không phải có tư tưởng cũng không phải không có tư tưởng, hoặc những loài không chân, hoặc có hai chân, hoặc bốn chân, hoặc nhiều chân; trong số những chúng sinh như vậy, giả sử như có người vì cầu phước đức nên tùy theo chỗ mong muốn, những thứ tiện nghi đều chu cấp đầy đủ, mỗi một chúng sanh đều được tặng cho vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, các loại trân bảo quý báu cùng voi, ngựa, xe cộ, cung điện, lầu gác bằng bảy món báu, [nhiều đến mức] tràn ngập trong cõi Diêm-phù-đề.
“Người thí chủ lớn ấy, sau khi bố thí như vậy qua tám mươi năm rồi nghĩ rằng: ‘Ta đã bố thí cho những chúng sanh này đầy đủ mọi thứ tiện nghi, tùy theo sự mong muốn của họ, nhưng nay họ đều già yếu, tuổi quá tám mươi, da nhăn tóc bạc, không bao lâu sẽ chết, ta nên đem pháp Phật giảng dạy cho họ.’ Liền tập hợp những chúng sanh ấy lại, đem chánh pháp rộng truyền giáo hóa, tuần tự chỉ bày, dạy dỗ, khuyến khích sự lợi ích, hoan hỷ thành tựu,[67] giúp cho họ cùng lúc đều chứng đắc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán, dứt sạch lậu hoặc, được tự tại trong thiền định thâm sâu, đầy đủ tám pháp giải thoát.[68]
“Ý ông nghĩ sao, công đức người thí chủ lớn ấy đạt được có nhiều chăng?”
Bồ Tát Di-lặc thưa: “Bạch Thế Tôn! Người ấy được công đức rất nhiều, thật vô lượng vô biên. Nếu người thí chủ đó chỉ bố thí cho chúng sanh hết thảy mọi thứ tiện nghi thì công đức cũng đã là vô lượng, huống chi còn giúp cho họ chứng quả A-la-hán.”
Đức Phật bảo Bồ Tát Di-lặc: “Nay ta nói thật rõ ràng với ông, người ấy đem hết thảy mọi thứ tiện nghi bố thí cho chúng sanh sáu đường trong bốn trăm muôn ức a-tăng-kỳ thế giới, lại giúp họ đạt được quả A-la-hán như vậy, nhưng đạt được công đức không bằng người thứ năm mươi được nghe một bài kệ trong kinh Pháp hoa sinh tâm tùy hỷ, thậm chí không bằng một phần trăm, một phần ngàn hay một phần trăm ngàn muôn ức, cho đến tính toán, thí dụ cũng không thể biết được.
“Này A-dật-đa! Như công đức của người thứ năm mươi được nghe kinh Pháp hoa thông qua người khác rồi sinh tâm tùy hỷ mà còn được a-tăng-kỳ vô lượng vô biên, huống chi là người đầu tiên ở trong Pháp hội được nghe rồi sanh tâm tùy hỷ? Phước đức của người này còn nhiều hơn a-tăng-kỳ vô lượng vô biên, không thể so sánh được.
“Lại nữa, A-dật-đa! Nếu người vì kinh này mà tìm đến tăng phòng, hoặc ngồi hoặc đứng trong thoáng chốc để nghe rồi thọ nhận, nhờ công đức ấy nên khi tái sinh vào đời khác sẽ có được những thứ voi, ngựa, xe cộ tốt nhất, đi kiệu bằng trân bảo, đi xe thiên cung.[69]
“Nếu như có người đang ngồi ở nơi giảng pháp lại có người khác đến, liền khuyến khích ngồi lại nghe, hoặc chia sẻ chỗ ngồi nghe, nhờ công đức ấy khi tái sinh đời khác liền được chỗ ngồi của Đế thích hoặc Phạm vương, hoặc được chỗ ngồi của Chuyển luân Thánh vương.”
Trong phần suy lường phân biệt công đức, trước tiên nêu việc ban cho niềm vui thế gian để dứt trừ nỗi khổ vì quả báo, sau đó ban cho niềm vui Niết-bàn để dứt trừ nỗi khổ sinh tử. Phần này chính là lược nêu phước đức cõi Phạm thiên, nay sẽ giảng rộng.
Phước của người trong khắp cõi Diêm-phù-đề cũng không bằng phước của một người ở cõi Tây Cù-da-ni; phước của người trong khắp cõi Tây Cù-da-ni cũng không bằng phước của một người ở cõi Đông Phất-bà-đề; phước của người trong khắp ba cõi thiên hạ này cũng không bằng phước của một người ở cõi Bắc Uất-đan-việt; phước của người trong khắp bốn cõi thiên hạ cũng không bằng phước của một trong bốn vị Tứ thiên vương; phước của [bốn vị] Tứ thiên vương cũng không bằng phước của một vị Đế-thích, thậm chí lên đến cõi trời Tha hóa tự tại[70] cũng không bằng phước của một vị Phạm thiên.[71] Phước của Phạm thiên có định phúc và tán phúc.[72] Tán phúc là [nhờ làm những việc như] nơi không có tháp [thờ Phật] thì xây dựng tháp, tháp hư hoại thì tu sửa, giúp tăng chúng hòa hợp và thỉnh chuyển pháp luân, tăng chúng tan rã thì khiến cho hòa hợp. Đó là bốn việc tạo phước, sánh bằng [phước của] Phạm thiên, cho nên gọi là phước Phạm thiên.
Về phước bậc thánh, tức là nói vị A-la-hán trụ nơi thân sau cùng đạt được Niết-bàn hữu dư.
Lại có những người trong Ba thừa đã thể pháp,[73] cùng học pháp vô sinh, đoạn trừ hết phiền não, như đốt gỗ cháy thành than.
Lại có phước bậc thánh của hàng Bồ Tát[74] tự mình tu hành, giáo hóa chúng sanh, đều dùng những cách siêu việt ngôn ngữ để chỉ bày đạo, đoạn trừ phiền não, nhập Niết-bàn vô dư.
Lại có phước bậc thánh của hàng Bồ Tát từ khi mới phát tâm tuần tự giáo hóa chúng sanh cho đến nhập Đại Niết-bàn.
Dựa theo như trên để suy lường phân biệt thì phước Phạm thiên không bằng bậc thánh; phước bậc thánh không bằng bậc thánh thể pháp; phước bậc thánh thể pháp không bằng Tiểu Bồ Tát, phước của tiểu Bồ Tát không bằng Đại Bồ Tát; phước của Đại Bồ Tát không bằng phước của người ban sơ được nghe kinh Pháp hoa sinh tâm tùy hỷ.
Vì sao vậy? Vì [phước của những] vị kia không phải pháp Phật,[75] do vậy nên không chân thật, do vậy nên không viên mãn. Tuy [các vị ấy] trụ ở quả tột cùng cũng không bằng người sơ tâm với pháp Phật.
Ý nghĩa như vậy, theo tôi cho rằng đó là khuyên người nghe pháp.
KINH VĂN
“Này A-dật-đa! Nếu như có người nói với người khác: ‘Có kinh tên là Pháp hoa, chúng ta cùng đến nghe.’ Người kia nghe lời, thậm chí chỉ đến nghe trong thoáng chốc, người khuyến khích kia nhờ công đức ấy về sau được sinh ra cùng nơi với Bồ Tát đắc pháp đà-la-ni, được căn tánh nhanh nhạy, trí tuệ sáng suốt, trăm ngàn muôn đời không bị câm ngọng, không bị hôi miệng, lưỡi thường không bệnh, miệng cũng không bệnh; răng mọc thẳng, trắng đều không thưa, không ố vàng, không dính cáu bẩn cũng không rụng hoặc khuyết mích; môi không trề xệ, không co rút, không thô ráp, không mụn nhọt lở loét, không khuyết sứt, không méo lệch, không quá dày, quá lớn, cũng không đen sạm, không có những hình dạng xấu; mũi không thấp tẹt, không gãy khúc; sắc mặt không đen, khuôn mặt không hẹp dài, không hóm gãy, không có bất kỳ tướng trạng khó coi nào; môi, lưỡi, răng đều tốt đẹp, mũi cao, thẳng; khuôn mặt tròn đầy; chân mày cao, dài; trán rộng, ngay phẳng; hình tướng nhân dạng đầy đủ,[76] đời đời sinh ra được thấy Phật nghe pháp, tin nhận sự giáo hóa răn dạy.
“A-dật-đa! Ông hãy xem đó, chỉ khuyến khích một người đến nghe pháp mà được công đức như vậy, huống chi người một lòng lắng nghe thuyết giảng, tụng đọc, ở trong đại chúng vì người khác phân biệt giảng giải và tu tập y theo lời dạy trong kinh?”
Từ câu “về sau được sinh ra cùng nơi với Bồ Tát đắc pháp đà-la-ni” cho đến câu “hình tướng nhân dạng đầy đủ”, kể chung có 50 công đức. Lấy số công đức xem như số người cũng thành 50 người. Chỉ có điều kinh văn phần trước nêu số 50 là bàn về sự nhận hiểu bên trong, sinh tâm tùy hỷ; ở đây chỉ bàn về việc bên ngoài nên có sự khác nhau.
Lại nữa, kinh văn phần này cũng nói đến công đức của sáu căn. “Căn tánh nhanh nhạy, trí tuệ sáng suốt” là công đức của ý căn; “không bị câm ngọng” là công đức của lưỡi; “mũi không thấp tẹt, không gãy khúc” là công đức của mũi, “được thấy Phật” là công đức của mắt; “nghe pháp” là công đức của tai; những điều còn lại là công đức của thân.
Phần trước là công đức của giai vị Tương tự, phần này là công đức trước giai vị Tương tự.
Phần nói về việc nghe kinh, kinh văn có 4 ý. Thứ nhất nói về người tự đến nghe. Thứ hai nói về người chia sẻ chỗ ngồi [cho người khác nghe kinh]. Thứ ba nói về người khuyến khích người khác đến nghe kinh. Thứ tư nói về người có đủ việc nghe và tu hành theo kinh văn. Đại lược là như vậy.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:
“Nếu người trong Pháp hội,
Được nghe kinh điển này,
Dù chỉ một bài kệ,
Tùy hỷ, vì người nói.
Rồi nói lại người khác,
Đến người thứ năm mươi,
Phước đức người cuối này,
Ta sẽ phân biệt nói.
Như có thí chủ lớn,
Giúp vô số chúng sanh,
Đến năm tám mươi tuổi,
Thỏa mãn mọi ý muốn.
Khi thấy họ già yếu,
Tóc bạc, mặt nhăn nheo,
Răng rụng, thân khô gầy,
Nghĩ rằng họ sắp chết,
Nay ta nên giáo hóa,
Giúp họ chứng đạo quả.
Liền phương tiện thuyết dạy,
Pháp chân thật Niết-bàn.
‘Thế gian không bền chắc,
Như bọt nước, bóng nắng,
Các người thảy đều nên,
Gấp sinh tâm chán lìa.’
Những người kia nghe pháp,
Đều chứng A-la-hán,
Đầy đủ sáu thần thông,
Ba minh, tám giải thoát.
Người cuối thứ năm mươi,
Nghe kệ rồi tùy hỷ,
Phước hơn người bố thí,
Thật không thể thí dụ.
Người nghe qua nhiều người,
Còn được phước vô lượng,
Huống chi trong Pháp hội,
Ban đầu nghe, tùy hỷ.
Phần kệ tụng có 18 khổ kệ, chia làm 2 đoạn. Đoạn thứ nhất 9 khổ kệ tụng nghĩa tùy hỷ. Đoạn thứ hai từ câu “Nếu khuyến khích một người” trở đi, gồm 9 khổ kệ, tụng về việc nghe kinh tùy hỷ.
Trong đoạn thứ nhất chia làm 3 tiểu đoạn. Đầu tiên là một khổ rưỡi kệ, tụng về 50 người [tuần tự được nghe kinh]. Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Phước đức người cuối này” trở đi gồm 5 khổ rưỡi kệ, tụng nghĩa suy lường công đức căn bản. Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Người cuối thứ năm mươi” trở đi gồm 2 khổ kệ, tụng nghĩa suy lường công đức, lược bớt không tụng nghĩa phước đức rất nhiều.
KINH VĂN
Nếu khuyến khích một người,
Mời đến nghe Pháp hoa,
Rằng: ‘Kinh này sâu mầu,
Ngàn muôn kiếp khó gặp.’
Người kia liền đến nghe,
Dù chỉ trong thoáng chốc,
Người khuyên được phước báo,
Nay sẽ phân biệt nói.
Đời đời miệng không bệnh,
Răng không thưa, đen, vàng;
Môi không dày, trề, sứt,
Không có hình dạng xấu;
Lưỡi không khô, đen, ngắn;
Mũi cao, dài và thẳng;
Trán rộng, phẳng, ngay ngắn,
Diện mạo rất đoan nghiêm,
Khiến người khác ưa nhìn.
Miệng không có mùi hôi;
Hương thơm hoa sen xanh,
Thường tỏa ra từ miệng.
Nếu đi đến tăng phòng,
Vì muốn nghe Pháp hoa,
Nghe thoáng chốc, hoan hỷ,
Ta sẽ nói phước ấy.
Tái sinh cõi trời, người,
Được voi, ngựa, xe đẹp,
Đi kiệu bằng trân bảo,
Hoặc đi xe thiên cung.
Nếu ở nơi giảng pháp,
Khuyên người ngồi nghe kinh,
Nhờ phước ấy sẽ được,
Tòa Thích, Phạm, Chuyển luân.
Huống chi một lòng nghe,
Giảng giải rõ ý nghĩa,
Lại tu hành y theo,
Phước ấy không thể lường.
Đoạn thứ hai có 9 khổ kệ tụng về việc nghe kinh, chia làm 4 tiểu đoạn, có đôi chút xáo trộn thứ tự.
Tiểu đoạn thứ nhất có 5 khổ kệ, tụng trước[77] về nghĩa khuyên người nghe kinh.
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Nếu đi đến tăng phòng” trở đi gồm 2 khổ kệ, tụng ngược[78] về ý nghĩa tự đi đến nghe kinh.
Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Nếu ở nơi giảng pháp” trở đi gồm một khổ kệ, tụng về việc chia sẻ chỗ ngồi [nghe kinh].
Tiểu đoạn thứ tư từ câu “Huống chi một lòng nghe” trở đi gồm một khổ kệ, tụng về nghĩa tu hành theo kinh văn. Đại lược là như vậy.
KINH VĂN
Phẩm Công đức pháp sư, thứ mười chín
Giải thích tên phẩm
Ý nghĩa “pháp sư” thì [trong phẩm Pháp sư] ở trước đã nói. Về ý nghĩa “công đức”, phần trước đã nói công đức ban đầu của hạng người đầu tiên [nghe kinh tùy hỷ], nay nói về các hạng cao hơn trong 5 hạng,[79] tức là nói được sáu căn thanh tịnh.
1. Có hai loại trang nghiêm, bên trong và bên ngoài. Đạt được ý căn thanh tịnh gọi là trang nghiêm bên trong, được 5 căn khác thanh tịnh gọi là trang nghiêm bên ngoài.
Lại nữa, từ cõi địa ngục trở lên cho đến từ cõi Phật trở xuống, tất cả màu sắc hình tượng đều hiện ra trong thân, đó gọi là trang nghiêm bên trong. Từ cõi địa ngục trở lên cho đến từ cõi Phật trở xuống, tất cả màu sắc hình tượng đều có thể dùng phép Tam-muội Phổ hiện mà hóa hiện bên ngoài, đó gọi là trang nghiêm bên ngoài.
Thân căn đã được như vậy, năm căn khác cũng đều như vậy.
Việc đọc tụng đã [được công đức] như vậy, 4 loại khác cũng đều như vậy.[80]
Hạng đầu tiên [tùy hỷ] đã được như vậy, bốn hạng sau lại càng hơn thế nữa.
[Giai đoạn] tương tự đã được như vậy, [các giai đoạn] phần chứng và chân thật lại càng hơn gấp bội.[81]
2. Người tu hành được nghe dạy về lợi ích công đức này thì vui mừng không tự kiềm chế được, càng thêm chuyên cần cầu học không hề chán mệt, tăng thêm gấp bội niềm tin và sự tinh tấn.
3. Rõ biết rằng giáo pháp Đại thừa có sức mạnh lớn lao, trong tâm quyết định, dứt sạch mọi điều nghi hoặc.
4. [Công đức của] người chỉ mới vừa nhận hiểu tương tự ở bước đầu tiên đã vượt hơn xa quả vị tột cùng của hàng Nhị thừa gấp trăm ngàn vạn lần. [Đức Phật] chỉ rõ [công đức] của người sơ cơ bắt đầu để làm sáng tỏ [công đức] cuối cùng sẽ đạt được, khiến cho thấu hiểu rốt ráo Đệ nhất nghĩa đế, không thể nghĩ bàn.
Trong phẩm này nêu rõ đầy đủ 4 ý như trên,[82] cho nên gọi là phẩm Công đức pháp sư.
Về công đức của sáu căn, ngài Quang Trạch cho rằng, đem ba nghiệp [thân, khẩu, ý] phối hợp với mười nghiệp lành, mỗi nghiệp lành đều có đủ 10, tức là 100; hợp với bốn pháp tự thực hành, giáo hóa người khác, tùy hỷ và tán thán, tính chung thành 400; lại nhân lên với 5 loại pháp sư thành 2.000, nhân với ba phẩm tức là 6.000 công đức. Ở cõi [Ta-bà] này có ba căn được vận dụng yếu nên nói giảm đi còn 800 [công đức], ba căn được vận dụng mạnh nên nói tăng thêm là 1.200 công đức, hợp cả hai phần nói tăng và nói giảm thì cũng vẫn là 6.000 công đức.
Lại có người giải thích cùng con số như ngài Quang Trạch nhưng phân chia ba phẩm: phẩm hạ 800, phẩm trung 1.000, phẩm thượng 1.200.
Các vị thầy giải thích thiên lệch như vậy đều chưa tương hợp với ý nghĩa kinh này, lại cũng không phù hợp với các phần giáo pháp khác.
Đại phẩm Bát-nhã nói rằng: “Sắc thanh tịnh nên Bát-nhã thanh tịnh; Bát-nhã thanh tịnh nên sắc thanh tịnh. Sắc thanh tịnh nên năm căn thanh tịnh; Bát-nhã thanh tịnh nên ý căn thanh tịnh.” Nếu sáu căn bình đẳng như nhau, tại sao cho rằng có ba bậc thượng, trung, hạ; có sự vận dụng mạnh yếu khác nhau; một căn mạnh một căn không mạnh; một căn thanh tịnh một căn không thanh tịnh; một căn là phẩm thượng những căn khác không phải là phẩm thượng? Đại lược là như thế.
Kinh Chánh Pháp hoa nêu đầy đủ 6.000 công đức, không hề bàn đến thượng, trung, hạ. Đại lược là như vậy.
Luận Pháp hoa nói rằng: “Người phàm nhờ sức của kinh này nên đạt được chỗ vận dụng thù thắng của các căn. Tuy chưa vào Sơ địa mà có thể dùng nhục nhãn do cha mẹ sinh ra để nhìn thấy khắp trong ngoài thế giới đại thiên.”
Kinh Đại Bát Niết-bàn nói: “Mỗi một căn của Như Lai đều có thể nhìn thấy hình sắc, nghe âm thanh, ngửi mùi, nếm vị, xúc chạm, biết pháp.”[83]
Nay kinh này nói sáu căn thanh tịnh là tương đồng với Đại phẩm Bát-nhã; nói dùng công đức [thanh tịnh sáu căn] này để trang nghiêm sáu căn là tương đồng với Chánh Pháp hoa; nói mũi có thể thấy hình sắc, nghe âm thanh, xúc chạm rõ biết là tương đồng với kinh Đại Bát Niết-bàn; nói nhục nhãn của phàm phu [cũng có thể] có công dụng như thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn là tương đồng với luận [Pháp hoa]. Ý nghĩa của kinh văn như vậy, không thể dùng cách nhìn sai lệch mà gượng ép làm lệch ý kinh.
Bây giờ sẽ giải thích, con số của ngài Quang Trạch thì đủ, nhưng nói về các căn không y theo kinh văn. Nay dựa theo ba nghiệp trong phẩm Hạnh an vui thì có 10 việc thiện; mỗi việc thiện đều có 10 điều, tức là 100 điều thiện. Trong mỗi điều thiện lại có 10 như, tức là 1.000 điều thiện. [Đây là tự thực hành, cộng thêm] giáo hóa người khác là thành 2.000. Dựa theo [ba việc] vào nhà Như Lai, đắp y Như Lai, ngồi tòa Như Lai tức thành 6.000 [công đức].
[Lại nữa,] năm loại pháp sư đều có đầy đủ sáu căn thanh tịnh, mỗi căn đều có 1.000 công đức, [tức là 6.000 công đức].
Lại nữa, trong mỗi một tâm đều có 10 pháp giới, mỗi một pháp giới đều có 10 như thị, tức là 100; mỗi một căn đều thông tiếp với sáu trần, tức là 600. Dựa vào hai sự trang nghiêm là định và tuệ, tức thành 1.200. Mỗi căn đều vận dụng hai sự trang nghiêm là định tuệ, nên đều có 1.200 công đức, bình đẳng như nhau.
Nếu bàn về sáu căn thanh tịnh, đã thanh tịnh thì không nói đến nhiều hoặc ít công đức. Nếu nói trang nghiêm thì có thể đầy đủ, có thể thiếu sót, có thể bằng nhau; trang nghiêm bằng nhau thì mỗi căn đều có 6.000 công đức. Nếu nói 1.200 công đức là làm rõ việc có thể đầy đủ; nếu nói 800 công đức là làm rõ việc có thể thiếu sót.
Nếu nói thanh tịnh thì không có đầy đủ, không có thiếu sót, không có bằng nhau, sáu căn vận dụng qua lại, đều là tự tại, không thể nghĩ bàn. Nếu nhận thức thiên lệch sẽ lạc mất ý chỉ.
Về giai vị Tương tự, nếu dựa theo tứ luân thì đây là giai vị Thiết luân; nếu dựa theo [thang bậc] 52 giai vị thì là Thập tín tâm; nếu dựa theo kinh Nhân vương thì là Thập thiện đại tâm. Nay đối với nghĩa thường tinh tấn thì đây là [Tinh tấn tâm], tức là tâm thứ ba trong Thập tín. Tuy các kinh gọi tên khác nhau nhưng đều tương đồng với giai vị Tương tự của Viên giáo.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Đại Bồ Tát Thường Tinh Tấn: “Nếu có thiện nam hoặc thiện nữ nào thọ trì kinh Pháp hoa này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giảng giải, hoặc sao chép, người ấy sẽ được tám trăm công đức của mắt, một nghìn hai trăm công đức của tai, tám trăm công đức của mũi, một nghìn hai trăm công đức của lưỡi, tám trăm công đức của thân, một nghìn hai trăm công đức của ý;[84] dùng những công đức này trang nghiêm sáu căn, khiến cho tất cả đều thanh tịnh.”
Kinh văn phẩm này chia làm hai phần. Trước tiên là liệt kê tổng quát về sáu căn cùng với số lượng công đức đầy đủ và thiếu sót. Phần tiếp theo chia riêng sáu đoạn để giải thích [về mỗi căn]. Mỗi phần đều chia ra có kinh văn trường hàng và kệ tụng.
KINH VĂN
“Người thiện nam hoặc thiện nữ ấy, với mắt phàm tục do cha mẹ sinh ra, nhờ thanh tịnh nên thấy hết những gì trong thế giới đại thiên, cả trong lẫn ngoài, từ núi rừng, sông biển, xuống tới địa ngục A-tỳ, lên đến cõi trời Hữu đỉnh, cũng thấy hết thảy chúng sinh trong đó cùng với nhân duyên nghiệp quả, nơi sinh ra của họ, thấy biết tất cả.”
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng:
“Hãy lắng nghe công đức,
Của người giữa đại chúng,
Dùng tâm không sợ sệt,
Thuyết kinh Pháp hoa này.
Người ấy được tám trăm,
Công đức mắt thù thắng;
Nhờ sự trang nghiêm ấy,
Nên mắt rất thanh tịnh;
Mắt do cha mẹ sinh,
Thấy hết cõi đại thiên,
Trong ngoài núi Di-lâu,
Núi Tu-di, Thiết vi…
Cùng những núi rừng khác,
Biển lớn và sông ngòi,
Dưới đến ngục A-tỳ,
Trên thấu trời Hữu đỉnh,
Bao chúng sanh trong đó,
Hết thảy đều thấy rõ.
Tuy chưa được thiên nhãn,
Mắt phàm thấy như vậy.”
Phần giải thích nhãn căn nêu việc dùng nhục nhãn cha mẹ sinh ra mà có thể thấy được hơn cả thiên nhãn. Phạm vương nhờ phước báo nên có được thiên nhãn, ở tại thế giới của mình thì có thể nhìn thấy khắp cùng thế giới đại thiên. Nhưng bên ngoài thế giới đại thiên có phong luân gây chướng ngại tầm nhìn nên [thiên nhãn cũng] không thể thấy ra bên ngoài. Nếu [Phạm vương] ở thế giới khác thì cũng không thể nhìn thấy khắp thế giới đại thiên, vì không nằm trong sự thống lĩnh của mình.
Tiểu La-hán thấy được [khắp thế giới] tiểu thiên, Đại La-hán thấy được [khắp thế giới] đại thiên. Vị Duyên giác thấy được 100 cõi Phật, không bị phong luân làm chướng ngại, cũng không bị ngăn cách giữa thế giới của mình đang ở và các thế giới khác.
Nay kinh này nói về con mắt có thể thấy cả trong ngoài thế giới đại thiên, lẽ ra phải là thiên nhãn, sao lại gọi là nhục nhãn? Đây chính là giai vị Tương tự của Viên giáo, nhờ sức của kinh nên có được công dụng thù thắng của các căn, nhưng chưa phát khởi tánh thể chân thật nên không gọi là thiên nhãn, vẫn gọi là nhục nhãn. Cũng giống như phương tiện Tiểu thừa, chưa được thần thông thì không gọi là thiên nhãn. Vẫn còn mang thân phần đoạn nên gọi là do cha mẹ sinh ra.
Tuy gọi là nhục nhãn nhưng có đủ công dụng của năm loại mắt. Thấy khắp trong ngoài thế giới đại thiên là công dụng của thiên nhãn; thấy được tất cả chúng sanh cùng với nghiệp nhân duyên của họ là công dụng của pháp nhãn; mắt này hết sức thanh tịnh là công dụng của tuệ nhãn; cùng lúc thấy được khắp trong ngoài thế giới đại thiên, thấy cả nghiệp cảnh và tịnh cảnh, lại có thể điều phục trọn vẹn phiền não mê hoặc vi tế của pháp giới là công dụng của Phật nhãn.
Kinh Đại Bát Niết-bàn nói rằng: “Tuy có nhục nhãn nhưng gọi là Phật nhãn. Vì là Phật nhãn nên gọi là thanh tịnh. Vì đầy đủ năm loại mắt nên nói là trang nghiêm.”
Có thể đầy, có thể khuyết, gọi là công dụng thù thắng của các căn, gọi là căn tự tại, há có thể giải thích là chỉ tạo ra 800 hay 1.200 công đức thôi sao?
KINH VĂN
“Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu người thiện nam hoặc thiện nữ nào thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giảng giải, hoặc sao chép, sẽ được một ngàn hai trăm công đức của tai. Người ấy dùng tai thanh tịnh nghe được trong khắp thế giới đại thiên, dưới xuống đến địa ngục A-tỳ, trên lên tới cõi trời Hữu đỉnh, đủ mọi âm thanh, ngôn ngữ ở bên trong và bên ngoài, như tiếng voi, ngựa, trâu bò, tiếng xe cộ; tiếng kêu khóc, tiếng than thở; tiếng tù và, tiếng trống, chuông, chuông lắc;[85] tiếng cười nói, tiếng đàn ông, đàn bà, tiếng trẻ em trai gái; tiếng đúng pháp, tiếng không đúng pháp; tiếng khổ đau, tiếng ưa thích; tiếng phàm phu, tiếng bậc thánh; tiếng vui mừng, tiếng không vui; tiếng chư thiên, tiếng các loài rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già; tiếng lửa, tiếng nước, tiếng gió; tiếng địa ngục, tiếng súc sinh, tiếng ngạ quỷ; tiếng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát, Phật… Nói tóm lại là hết thảy mọi âm thanh bên trong và bên ngoài cõi thế giới đại thiên. Người ấy tuy chưa đạt được thiên nhĩ, nhưng với tai phàm tục do cha mẹ sinh ra, nhờ thanh tịnh nên nghe biết được hết thảy, phân biệt đủ mọi âm thanh như vậy mà nhĩ căn không bị hư hoại.”
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nên nói kệ rằng:
“Lỗ tai cha mẹ sinh,
Khi thanh tịnh vô nhiễm,
Có thể dùng lắng nghe,
Âm thanh khắp thế giới.
Tiếng voi, ngựa, trâu bò,
Chuông, linh, tù và, trống,
Đàn cầm, sắt, không hầu,
Tiếng tiêu hoặc tiếng địch,
Tiếng ca hát thanh tịnh,
Nghe mà không bám chấp;
Vô số loại ngôn ngữ,
Nghe rồi đều hiểu rõ;
Lại nghe tiếng chư thiên,
Tiếng xướng ca nhiệm mầu,
Tiếng kẻ nam người nữ,
Tiếng trẻ gái cùng trai;
Tiếng núi sâu, khe hiểm,
Tiếng ca-lăng-tần-già,
Các chim như mạng mạng…
Đều nghe được tiếng hót;
Tiếng khổ đau địa ngục,
Các âm thanh độc hại,
Tiếng ngạ quỷ đói khát,
Cầu xin được ăn uống,
Tiếng các a-tu-la,
Sống nơi vùng ven biển,
Lúc trò chuyện cùng nhau,
Phát ra âm thanh lớn.
Như vậy, người thuyết pháp,
Chỉ ở yên nơi này,
Nghe được âm thanh xa,
Nhĩ căn không tổn hại.
Trong mười phương thế giới,
Chim, thú kêu gọi nhau,
Người thuyết pháp ở đây,
Đều nghe rõ tất cả.
Từ trên cõi Phạm thiên,
Cõi Quang âm, Biến tịnh,
Cho đến trời Hữu đỉnh,
Những âm thanh ngôn ngữ,
Vị pháp sư ở đây,
Đều nghe được tất cả.
Hết thảy chúng tỳ-kheo,
Hoặc các tỳ-kheo-ni,
Khi tụng đọc kinh điển,
Giảng giải cùng người khác,
Vị pháp sư ở đây,
Đều nghe được tất cả.
Lại có các Bồ Tát,
Tụng kinh điển, giáo pháp,
Hoặc giảng cho người khác,
Hoặc biên soạn, giải nghĩa,
Những âm thanh như vậy,
Pháp sư đều nghe được.
Chư Phật bậc Đại thánh,
Khi giáo hóa chúng sanh,
Ở giữa các Đại hội,
Diễn giảng pháp nhiệm mầu;
Người trì kinh Pháp hoa,
Đều nghe được tất cả.
Những âm thanh trong, ngoài
Cõi thế giới đại thiên,
Trên từ trời Hữu đỉnh,
Xuống tận ngục A-tỳ,
Nghe hết mọi âm thanh,
Nhĩ căn không tổn hại,
Nhờ tai được nhạy bén,
Phân biệt nghe biết cả.
Người trì kinh Pháp hoa,
Tuy chưa được thiên nhĩ,
Chỉ dùng tai phàm tục,
Nhờ công đức được vậy.”
Phần nói về nhĩ căn, [kinh văn nói rằng] có thể nghe âm thanh của mười pháp giới ở khắp trong ngoài thế giới đại thiên.
Nghe được âm thanh trong sáu đường[86] tức là hai loại nhục nhĩ và thiên nhĩ. Nghe được âm thanh của hàng Nhị thừa tức là tuệ nhĩ. Nghe được âm thanh của Bồ Tát tức là pháp nhĩ. Nghe được âm thanh của Phật tức là Phật nhĩ.
Lại nữa, lỗ tai cha mẹ sinh ra là nhục nhĩ; có thể nghe cả trong ngoài tức là thiên nhĩ; tuy nghe mà không dính mắc tức là tuệ nhĩ; nghe không sai lầm tức là pháp nhĩ; cùng lúc có thể nghe bằng các căn khác[87] tức là Phật nhĩ.
Nếu dùng trường hợp của tai để nói về mắt thì mắt cũng giống như vậy. Nhìn thấy hai cõi trời, người là 2 loại [thiên nhãn và nhục nhãn]; nhìn thấy hàng Nhị thừa là tuệ nhãn; nhìn thấy hàng Bồ Tát là pháp nhãn; nhìn thấy Phật là Phật nhãn. Đại lược là như vậy.
KINH VĂN
“Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu người thiện nam hoặc thiện nữ nào thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giảng giải, hoặc sao chép, sẽ được tám trăm công đức của mũi. Người ấy dùng mũi thanh tịnh ngửi được đủ các loại mùi hương ở bên trên, bên dưới, bên trong và bên ngoài thế giới đại thiên, như hương các loại hoa tu-mạn-na, xà-đề, mạt-lợi, chiêm-bặc, ba-la-la, sen đỏ, sen xanh, sen trắng; hương hoa của cây, hương trái của cây, hương chiên-đàn, hương trầm thủy, hương đa-ma-la-bạt,[88] hương đa-già-la,[89] cùng ngàn muôn loại hương hòa hợp, hoặc hương bột, hương viên, hương thoa, người trì kinh Pháp hoa dù ở tại đây đều có thể phân biệt được. Lại có thể biết mùi hương khác biệt của các chúng sinh như mùi của voi, ngựa, trâu bò, dê..., hương đàn ông, đàn bà, trẻ em trai gái; hương cỏ cây rừng rậm, hoặc gần hoặc xa, tất cả các loại mùi hương đều ngửi biết, phân biệt không sai lầm.
“Người trì kinh này tuy ở tại đây cũng ngửi được các mùi hương trên cõi trời, như hương cây ba-lợi-chất-đa-la,[90] cây câu-bệ-đà-la,[91] cùng hương các loại hoa như mạn-đà-la, đại mạn-đà-la, mạn-thù-sa, đại mạn-thù-sa; hương chiên-đàn, trầm thủy, các thứ hương bột, các loại hương hoa trộn lẫn... những thứ hương cõi trời như thế hòa hợp tỏa ra, không loại nào không ngửi biết.
“Lại ngửi được mùi hương trên thân của chư thiên, như hương của Thích Đề Hoàn Nhân[92] khi ngự trên Thắng điện, hoặc khi đang vui chơi thụ hưởng năm món dục; hoặc khi ở trên Diệu pháp đường vì chư thiên cõi trời Đao-lợi thuyết pháp; hoặc khi dạo chơi trong các khu vườn trời; cùng với mùi hương trên thân của chư thiên nam nữ khác, đều có thể từ xa ngửi được.
“Như thế dần lên đến chư thiên cõi Phạm thế,[93] lên trên đến cõi trời Hữu đỉnh, cũng đều ngửi được mùi hương trên thân chư thiên, cùng với mùi hương mà chư thiên đốt lên. Lại cũng từ xa ngửi được mùi hương trên thân của các vị Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát, chư Phật, biết được chư vị đang ở đâu.
“Tuy ngửi được đủ các thứ hương như vậy nhưng mũi không tổn hại, không nhầm lẫn, nếu muốn vì người khác phân biệt nói ra thì đều ghi nhớ không sai lầm.”
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại những ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:
“Người có mũi thanh tịnh,
Ở trong thế giới này,
Mọi hương thơm, mùi hôi,
Hết thảy đều ngửi biết.
Hương tu-mạn, xà-đề,
Đa-ma-la, chiên-đàn,
Hương trầm thủy, hương quế,
Các loại hương hoa trái.
Ngửi được hương chúng sinh,
Như hương người nam, nữ.
Người thuyết pháp ở xa,
Ngửi hương, biết chỗ ở.
Đại thế Chuyển luân vương,
Tiểu Chuyển luân, thái tử,
Quần thần, các cung nhân,
Ngửi hương biết ở đâu.
Châu báu đeo trên thân,
Kho báu chôn trong đất,
Bảo nữ Chuyển luân vương,
Ngửi hương biết ở đâu.
Người khác làm đẹp thân,
Với y phục, chuỗi ngọc,
Các loại hương thoa thân,
Ngửi hương, biết thân người.
Chư thiên đi hoặc ngồi,
Vui chơi, hiện thần biến,
Người trì kinh Pháp hoa,
Ngửi hương đều biết được.
Hoa, trái, hạt các cây,
Hoặc hương từ tô du,[94]
Người trì kinh ở đây,
Đều biết được ở đâu.
Trong núi sâu hiểm trở,
Cây chiên-đàn nở hoa,
Có chúng sinh ở đó,
Ngửi hương đều biết được.
Núi Thiết vi, biển cả,
Chúng sinh trong lòng đất,
Người trì kinh ngửi hương,
Đều biết được ở đâu.
Nam, nữ a-tu-la,
Cùng quyến thuộc của họ,
Khi đánh nhau, vui chơi,
Ngửi hương đều biết được.
Nơi đồng hoang, hiểm trở,
Sư tử, voi, cọp, sói,
Trâu rừng, hoặc trâu nước...
Ngửi mùi biết ở đâu.
Nếu có người mang thai,
Chưa rõ trai hay gái,
Không giác quan, phi nhân…
Ngửi hương đều biết ngay.
Do năng lực ngửi hương,
Vừa mang thai đã biết,
Việc an ổn sinh con
Có thành tựu hay không.
Do năng lực ngửi hương,
Biết ý nghĩ trai, gái,
Tâm tham dục, sân, si,
Cũng biết người tu thiện.
Những kho tàng chôn giấu,
Chứa vàng bạc, châu báu,
Hoặc đồ chứa bằng đồng,
Ngửi hương đều biết được.
Hoặc các loại chuỗi ngọc,
Không ai biết giá bán,
Ngửi hương biết đắt, rẻ,
Từ đâu đến, ở đâu.
Các loài hoa cõi trời,
Mạn-đà, mạn-thù-sa,
Cây ba-lợi-chất-đa,
Ngửi hương đều rõ biết.
Những cung điện cõi trời,
Có hoa báu trang ngiêm,
Thượng, trung, hạ sai khác,
Ngửi hương đều rõ biết.
Vườn cõi trời, Thắng điện,
Đài quán, Diệu pháp đường,
Chư thiên vui trong đó,
Ngửi hương đều rõ biết.
Hoặc chư thiên nghe pháp,
Khi hưởng năm món dục,
Qua lại, đi, nằm, ngồi,
Ngửi hương đều rõ biết.
Y phục các thiên nữ,
Hương hoa đẹp trang nghiêm,
Khi dạo chơi loanh quanh,
Ngửi hương đều rõ biết.
Như thế dần trở lên,
Cho đến cõi Phạm thế,
Chư thiên xuất, nhập thiền,
Ngửi hương đều rõ biết.
Trời Quang âm, Biến tịnh,
Cho đến trời Hữu đỉnh,
Chư thiên sinh, diệt mất,
Ngửi hương đều rõ biết.
Như các vị tỳ-kheo…
Lúc tinh tấn tu tập,
Hoặc ngồi hoặc kinh hành,
Hoặc tụng đọc kinh điển;
Dưới cội cây trong rừng,
Chỉ chuyên tâm ngồi thiền;
Người trì kinh, ngửi hương,
Liền biết được nơi chốn.
Bồ Tát chí kiên cố,
Hoặc ngồi thiền, tụng kinh,
Hoặc vì người thuyết pháp,
Ngửi hương đều rõ biết.
Chư Phật khắp mười phương,
Được tất cả cung kính,
Thương chúng sinh thuyết pháp,
Ngửi hương đều rõ biết.
Chúng sinh ở trước Phật,
Nghe kinh đều hoan hỷ,
Y theo pháp tu hành,
Ngửi hương đều rõ biết.
Chưa được mũi sinh từ
Pháp Vô lậu Bồ-tát,
Người trì kinh đã được,
Năng lực mũi như vậy.”
Phần nói về tị căn cũng giống như vậy. Lỗ mũi do cha mẹ sinh ra tức là nhục tị. Ngửi được khắp bên trong và bên ngoài thế giới đại thiên tức là thiên tị. Ngửi mùi mà không uế nhiễm, không dính mắc tức là tuệ tị. Ngửi mùi mà phân biệt không sai lầm tức là pháp tị. Cùng lúc có thể ngửi bằng các căn khác tức là Phật tị.
Phần này nêu rõ công dụng hỗ tương [giữa các căn]. Dùng mũi ngửi có thể biết tốt xấu, phân biệt được sang hèn, nhìn thấy cả cung điện cõi trời trang nghiêm, tức là mũi có công dụng như mắt; đối với người đọc kinh, thuyết pháp, ngửi mùi hương có thể rõ biết, tức là mũi có công dụng như tai; ngửi mùi hương biết được các loại cây, hoa, trái, hạt, tô du… tức là mũi có công dụng như lưỡi. “Chư thiên xuất, nhập thiền, ngửi hương đều rõ biết”, thiền có 8 loại xúc chạm, “khi hưởng năm món dục”, cũng là xúc pháp, nên mũi có công dụng như thân. Dùng mũi ngửi biết được “tâm tham dục, sân, si; cũng biết người tu thiện”, tức là mũi có công dụng như ý. Tị căn tự tại có công dụng thù thắng như vậy. Dựa theo đó thì biết năm căn khác cũng đều như vậy.
KINH VĂN
“Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu người thiện nam hoặc thiện nữ nào thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giảng giải, hoặc sao chép, sẽ được một ngàn hai trăm công đức của lưỡi. [Thức ăn dù] tốt hay xấu, ngon hay không ngon, hoặc đắng chát, khi chạm đến lưỡi của người ấy đều hóa thành vị ngon thượng hạng, như cam lộ cõi trời, không món nào là không ngon ngọt. Nếu dùng lưỡi ấy giảng thuyết giữa đại chúng sẽ phát ra âm thanh sâu xa vi diệu đi vào lòng người, khiến người nghe đều được vui mừng thích thú.
“Lại có chư thiên nam nữ, các vị Đế thích, Phạm vương… nghe âm thanh sâu xa vi diệu ấy giảng giải luận bàn có trình tự thứ lớp, thảy đều đến nghe.
“Lại có các loài rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già cả nam lẫn nữ, vì nghe pháp nên đều tìm đến gần gũi cung kính cúng dường.
“Lại có các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, quốc vương, thái tử, quần thần, quyến thuộc, Tiểu Chuyển luân vương, Đại Chuyển luân vương với đủ bảy báu,[95] một nghìn người con cùng nội ngoại quyến thuộc, ngồi trên các cỗ xe báu[96] cùng đến nghe pháp. Đó là do Bồ Tát [trì kinh Pháp hoa] này giỏi việc thuyết pháp.
“Người ấy lại được hàng bà-la-môn, cư sĩ, nhân dân trong nước thường trọn đời theo hầu hạ cúng dường. Các vị Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát, chư Phật thường muốn gặp vị ấy. Người ấy ở phương nào thì chư Phật đều hướng về nơi đó thuyết pháp; người ấy có thể thọ trì tất cả pháp Phật, lại có thể tự mình nói ra pháp âm sâu xa vi diệu.”
Khi ấy, đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa trên liền nói kệ rằng:
“Lưỡi người này thanh tịnh,
Không phải nếm vị dở,
Dù ăn uống món gì,
Đều hóa thành cam lộ.
Dùng âm thanh sâu mầu,
Thuyết pháp giữa đại chúng,
Dùng nhân duyên thí dụ,
Dẫn dắt tâm chúng sinh.
Người nghe đều hoan hỷ,
Cúng dường các món ngon.
Chư thiên, rồng, dạ-xoa,
Các loài a-tu-la…
Đều khởi tâm cung kính,
Cùng đến nghe thuyết pháp.
Người thuyết pháp như vậy,
Nếu muốn cho diệu âm,
Vang khắp cùng thế giới,
Tùy ý làm được ngay.
Tiểu, Đại Chuyển luân vương,
Cùng nghìn con, quyến thuộc,
Tâm cung kính, chắp tay,
Tìm đến nghe thuyết pháp.
Chư thiên, rồng, dạ-xoa,
La-sát, tỳ-xá-xà,
Cũng dùng tâm hoan hỷ,
Thường vui thích cúng dường.
Phạm thiên vương, Ma vương,
Tự tại, Đại tự tại…
Các thiên chúng như vậy,
Thường đến chỗ người này.
Chư Phật cùng đệ tử,
Nghe người ấy thuyết pháp,
Thường nhớ nghĩ, hộ trì,
Hoặc vì người hiện thân.”
Phần nói về thiệt căn cũng giống như vậy. Lưỡi do cha mẹ sinh ra tức là nhục thiệt, có thể nói được các ngôn ngữ trong khắp mười pháp giới, dựa theo khả năng này thì phân biệt được năm loại lưỡi. Nếu có thể nói đủ các ngôn ngữ trong khắp mười pháp giới tức là thiên thiệt; không nói ra những lời gây tổn hại, hư hoại tức là tuệ thiệt; không nói những lời sai lầm tức là pháp thiệt; cùng lúc có thể dùng như các căn khác tức là Phật thiệt. Đại lược là như vậy.
Hỏi: Các vị đắng, chát, không tốt khi chạm đến lưỡi “đều hóa thành vị ngon thượng hạng”, tại sao các màu sắc khi mắt nhìn thấy lại không hóa thành những màu tốt đẹp?
Đáp: Các nhà cựu giải cho rằng so sánh như vậy không giống nhau. Mùi vị có tổn hại, có giúp ích; có tổn hại nên biến đổi khác đi, không tổn hại thì không biến đổi. Các màu sắc không làm tổn hại mắt, cho nên so sánh như vậy không giống nhau.
Nay không giải thích như vậy. Hết thảy màu sắc đều đồng như sắc Phật; hết thảy âm thanh đồng như âm thanh Phật, tất cả đều thanh tịnh bình đẳng như nhau thì ví dụ nêu ra đó không có gì chướng ngại. Rõ biết khắp thảy các pháp hình sắc, các pháp âm thanh mà không rối loạn, không sai lầm, dù phân biệt cũng không chướng ngại. Các căn đã được tự tại, há có thể giải thích theo cách cứng nhắc như trên được sao?
KINH VĂN
“Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu người thiện nam hoặc thiện nữ nào thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giảng giải, hoặc sao chép, sẽ được tám trăm công đức của thân, được thân thanh tịnh như lưu ly trong suốt, chúng sanh đều vui thích ngắm nhìn.
“Thân người ấy được thanh tịnh nên những việc như sinh ra, chết đi, cao thấp, tốt xấu, sinh về cõi lành, cõi xấu ác… của tất cả chúng sanh trong thế giới đại thiên, hết thảy đều [có hình ảnh] hiện ra trong thân [lưu ly trong suốt] ấy.
“Lại nữa, các núi như Thiết vi, Đại Thiết vi, Di-lâu, Đại Di-lâu… cùng những chúng sinh sống trong đó, hết thảy đều hiện ra trong thân ấy.
“Lại nữa, từ địa ngục A-tỳ ở bên dưới lên trên đến cõi trời Hữu đỉnh, hết thảy hình tượng cùng chúng sanh đều hiện ra trong thân ấy.
“Nếu có các vị Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát, chư Phật thuyết pháp, thì trong thân người ấy đều hiện đủ các hình sắc cảnh tượng.”
Khi ấy, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:
“Nếu trì kinh Pháp hoa,
Được thân rất thanh tịnh,
Như lưu ly trong suốt,
Chúng sinh đều thích nhìn.
Lại như đài gương sáng,
Phản chiếu mọi hình tượng,
Bồ Tát thân thanh tịnh,
Nhìn thấy khắp thế gian,
Nhưng chỉ riêng mình biết,
Người khác không thấy được.
Trong thế giới đại thiên,
Bao chúng sinh mê mờ,
Trời, người, a-tu-la,
Địa ngục, quỷ, súc sinh,
Những hình tượng như thế,
Đều hiện ra nơi thân.
Những cung điện chư thiên,
Lên đến cõi Hữu đỉnh,
Núi Thiết vi, Di-lâu,
Hoặc núi Đại Di-lâu,
Cùng các vùng biển lớn,
Đều hiện ra nơi thân.
Chư Phật cùng Thanh văn,
Đệ tử Phật, Bồ Tát,
Độc cư, hoặc thuyết pháp
Giữa đại chúng, đều hiện.
Chưa được thân vi diệu,
Từ pháp tánh vô lậu,
Thể thanh tịnh thân phàm,
Tất cả đều hiện rõ.”
Phần nói về thân căn cũng giống như vậy. Khắp thảy thế gian này đều hiện nhục thân trong thân để sử dụng. “Lên đến cõi Hữu đỉnh” là nói [chư thiên] cũng hiện thiên thân trong thân để sử dụng. Hàng Nhị thừa trong thân hiện tuệ thân để sử dụng. Bồ Tát trong thân hiện pháp thân để sử dụng. Chư Phật trong thân hiện Phật thân để sử dụng, cùng lúc hiện ra viên mãn, cùng lúc vận dụng thay thế các căn, cùng lúc không có sai lầm, cùng lúc không có dính mắc. Đại lược là như vậy.
KINH VĂN
“Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu người thiện nam hoặc thiện nữ nào thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giảng giải, hoặc sao chép, sẽ được một ngàn hai trăm công đức của ý. Với ý căn thanh tịnh này, dù chỉ nghe một bài kệ, một câu kinh cũng thấu hiểu thông suốt ý nghĩa vô lượng vô biên. Hiểu được ý nghĩa ấy rồi, có thể diễn giảng một bài kệ, một câu kinh đó trong một tháng, bốn tháng, thậm chí một năm; những pháp thuyết giảng đều thuận theo ý nghĩa, không trái với thật tướng.
“Nếu người ấy giảng giải kinh sách thế gian, nói về thuật xử thế hoặc nghề nghiệp sinh nhai… cũng đều phù hợp với chánh pháp.
“Tất cả những biến chuyển, động khởi, tạo tác, hý luận trong tâm của hết thảy chúng sanh sáu cõi trong thế giới đại thiên, người ấy đều rõ biết. Người ấy tuy chưa đạt được trí tuệ vô lậu nhưng nhờ ý căn thanh tịnh như vậy nên mọi tư tưởng suy lường, nói năng đều là pháp Phật, tất cả đều chân thật, cũng đều là những điều chư Phật trước đây đã thuyết dạy trong kinh điển.”
Khi ấy, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:
“Người này ý thanh tịnh,
Sáng suốt không uế nhiễm,
Dùng ý căn nhiệm mầu,
Hiểu pháp thượng, trung, hạ.
Dù nghe một bài kệ,
Thấu suốt vô lượng nghĩa,
Tuần tự thuyết giảng lại,
Một tháng đến một năm.
Hết thảy mọi chúng sanh,
Trong, ngoài thế giới này,
Chư thiên, người, loài rồng,
Dạ-xoa, các quỷ thần…
Đang ở trong sáu đường,
Niệm tưởng vừa sinh khởi,
Phước báo trì Pháp hoa,
Tức thời rõ biết hết.
Vô số Phật mười phương,
Tướng trăm phước trang nghiêm,[97]
Vì chúng sanh thuyết pháp,
Đều nghe được, thọ trì.
Suy xét vô lượng nghĩa,
Thuyết pháp cũng vô lượng,
Trước sau không sai sót,
Trì Pháp hoa được vậy.
Hiểu thấu mọi tướng pháp,
Tùy nghĩa biết trước sau,
Thông suốt mọi tên gọi,
Theo chỗ biết diễn giải.
Người ấy nói điều gì,
Đều là pháp Phật xưa,
Vì diễn giảng pháp ấy,
Giữa đại chúng không sợ.
Người trì kinh Pháp hoa,
Ý thanh tịnh như thế,
Tuy chưa được vô lậu,
Được tướng như vậy trước.
Người trì kinh an trụ,
Nơi địa vị hy hữu,
Được hết thảy chúng sanh,
Đều hoan hỷ yêu kính.
Nhờ trì kinh Pháp hoa,
Nên biết ngàn muôn cách,
Khéo léo chọn ngôn từ,
Để phân biệt thuyết pháp.
Phần nói về ý căn cũng giống như vậy. Người thế gian theo “nghề nghiệp sinh nhai… cũng đều phù hợp với chánh pháp” là nhân ý thanh tịnh; “biến chuyển, động khởi, tạo tác, hý luận trong tâm… đều rõ biết” là thiên ý thanh tịnh.
“Bốn tháng” tức là Tứ đế; “một năm” có 12 tháng, tức là nói 12 nhân duyên; “không trái với thật tướng” tức là tuệ ý thanh tịnh; “một tháng” tức là Nhất thừa, tức là Bồ Tát ý thanh tịnh; “tư tưởng suy lường… đều là những điều chư Phật trước đây đã thuyết dạy trong kinh điển” tức là Phật ý thanh tịnh, cùng lúc sáng suốt viên mãn, cùng lúc vận dụng qua lại trọn vẹn với các căn, cùng lúc không uế nhiễm, không sai lầm, công dụng các căn đều tự tại, có thể đầy, có thể khuyết, có thể bình đẳng, thanh tịnh. Đại lược là như vậy.
KINH VĂN
Phẩm Bồ Tát Thường Bất Khinh, thứ hai mươi.
Giải thích tên phẩm
[Bất khinh nghĩa là không khinh thường, xem nhẹ.] Trong tâm thường hiểu nên bất khinh; bên ngoài cung kính cảnh nên bất khinh; thân thực hành công hạnh bất khinh; miệng nói lời dạy người bất khinh; người đời gọi tên là Bất Khinh.
Về ý nghĩa “hiểu nên bất khinh”, luận Pháp hoa nói rằng: “Vị Bồ Tát này rõ biết chúng sanh đều có tánh Phật nên không dám khinh thường.”
Tánh Phật có 5 loại. Tánh Phật chánh nhân thông suốt từ bản nguyên xa xưa đến ngày nay; tánh Phật duyên nhân và tánh Phật liễu nhân là chủng tử vốn sẵn có, không phải ngày nay mới có. Tánh Phật quả và tánh Phật quả quả là [chúng sanh] nhất định đều sẽ được, quyết không hư dối. Đây gọi là “nhận hiểu nên bất khinh”.
Dùng sự nhận hiểu như trên mà ứng xử với người khác, [biết rằng] họ cũng đều [có đủ tánh Phật] như vậy. Đây gọi là bên ngoài “cung kính cảnh nên bất khinh”.
Vì cung kính người ngoài như vậy, cho nên gọi là “công hạnh bất khinh”. Nói rõ điều này cho người khác biết nên gọi là “dạy người bất khinh”.
Thuở xưa, những kẻ hủy báng dựa theo việc này để gọi tên người, ngày nay những vị chép kinh dựa theo việc này để gọi tên phẩm kinh.
Kinh Kiến thật Tam-muội[98] nói: “Đức Phật vì phụ vương mà nói: ‘Hết thảy đều là Phật.’ Vua hỏi: ‘Hết thảy chúng sanh tức là Phật sao?’ Đức Phật đáp: ‘Nếu đúng như thật nhìn thấy chúng sanh, ngay nơi đó tức là Phật.’”
Riêng tôi cho rằng, suy theo câu này thì nếu không đúng như thật nhìn thấy Phật, ngay nơi đó tức không phải là bậc thánh.
Ví như người mới học bắn tên, nhắm bắn vào đích thì đa phần bắn trật, ít khi trúng; nếu lấy mặt đất làm đích bắn thì không có mũi tên nào lại không trúng. [Cũng vậy,] nếu [lấy mục tiêu là] phân biệt hiền thánh thì phải rõ biết ai đúng, ai sai, [rất dễ nhầm lẫn]; nhưng nếu quán xét như thật thì ngay nơi đó [tất cả đều] là Phật.
Phần trước là giải thích theo nhân duyên, phần sau là giải thích theo Viên giáo. Đại lược là như vậy.
Phẩm này dẫn người làm chứng, chứng minh 5 hạng người [thọ trì kinh Pháp hoa] có công đức sâu dày, phước báo của sáu căn rất lớn. [Đức Phật dạy:] “Thuở xưa ta tùy hỷ [với kinh Pháp hoa], nên được phước báo hiện đời và đời sau.” Đó là để khuyến khích, thúc đẩy sự lưu thông kinh điển.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Bồ Tát Đắc Đại Thế:[99] “Ông nên biết rằng, nếu có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di nào thọ trì kinh Pháp hoa mà bị người khác dùng lời ác độc mắng chửi, hủy báng, thì kẻ đó sẽ bị tội báo nặng nề như đã nói ở trước, còn công đức của người trì kinh thì như ta vừa nói, sẽ được mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý thanh tịnh.”
Kinh văn phẩm này có cả trường hàng và kệ tụng. Phần kinh văn trường hàng chia làm 3 tổng đoạn. Tổng đoạn thứ nhất nêu hai ý, chỉ rõ cả tội và phước đã nói ở phẩm trước. Tổng đoạn thứ hai nêu hai ý, mở bày cả sự tin nhận và sự hủy báng trong phẩm này. Tổng đoạn thứ ba nêu hai ý, khuyên dạy cả hai hướng thuận và nghịch ở phẩm sau.
[Tổng đoạn thứ nhất] nêu hai ý chỉ rõ. Trước chỉ rõ tội báo, như đã nói trong phẩm Pháp sư. Tiếp theo chỉ rõ phước báo, như trong phẩm Công đức [pháp sư] đã nói. Phần này y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
“Này Đắc Đại Thế! Thuở xa xưa, cách đây vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn a-tăng-kỳ kiếp, có đức Phật hiệu là Oai Âm Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Kiếp đó tên Ly Suy, cõi nước tên Đại Thành, đức Phật Oai Âm Vương ở giữa cõi đời ấy vì hàng trời, người, a-tu-la thuyết pháp: Vì những người cầu Thanh văn nói pháp Tứ đế để thoát khỏi sinh già bệnh chết, đạt đến Niết-bàn; vì những người cầu Duyên giác nói pháp Thập nhị nhân duyên; vì các Bồ Tát gieo nhân Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên nói pháp sáu ba-la-mật để rốt ráo được trí tuệ Phật.
“Này Đắc Đại Thế! Đức Phật Oai Âm Vương sống thọ qua số kiếp bằng số cát của bốn mươi muôn ức na-do-tha con sông Hằng; Chánh pháp trụ thế số kiếp bằng số hạt bụi nhỏ của một cõi Diêm-phù-đề; Tượng pháp trụ thế số kiếp bằng số hạt bụi nhỏ của một cõi Tứ thiên hạ. Đức Phật ấy làm lợi ích cho hết thảy chúng sinh, rồi sau đó diệt độ. Sau khi Chánh pháp và Tượng pháp diệt hết, trong cõi nước đó lại có Phật ra đời, cũng hiệu là Oai Âm Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Lần lượt tiếp nối ra đời hai muôn ức đức Phật đều cùng một danh hiệu như vậy.
“Khi đức Phật Oai Âm Vương đầu tiên đã diệt độ,[100] chánh pháp diệt mất. Trong thời gian tượng pháp, các tỳ-kheo tăng thượng mạn có thế lực lớn. Bấy giờ, có vị tỳ-kheo Bồ Tát tên là Thường Bất Khinh.”
Tổng đoạn thứ hai [gồm 3 đoạn], nêu hai ý mở bày cả sự tin nhận và sự hủy báng. Phần này nêu nguồn gốc sự việc và kể lại chuyện tiền thân của Phật.[101]
[Đoạn thứ nhất] nêu nguồn gốc sự việc thì nêu rõ thời gian, danh hiệu, tên thời đại, tên nước, việc thuyết pháp v.v. Tất cả đều y theo kinh văn có thể hiểu được.
[Đoạn thứ hai] từ câu “Khi đức Phật Oai Âm Vương đầu tiên” trở đi, kể chuyện tiền thân Phật, lại chia làm 3 tiểu đoạn. Thứ nhất, nói rõ về thời gian. Thứ hai, từ câu “trong thời gian tượng pháp” trở đi, nêu cả hai danh xưng để gọi người. Những kẻ hủy báng thời ấy được gọi là tăng thượng mạn, người tin nhận được gọi là Thường Bất Khinh.
KINH VĂN
“Này Đắc Đại Thế! Do nhân duyên gì vị ấy có tên gọi là Thường Bất Khinh? Vì vị tỳ-kheo này mỗi khi gặp các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di đều lễ bái ngợi khen xưng tán rằng: ‘Tôi hết sức cung kính các ngài, không dám khinh thường. Vì sao vậy? Các ngài đều thực hành đạo Bồ Tát, đều sẽ thành Phật.’
“Nhưng vị tỳ-kheo này không chuyên tụng đọc kinh điển, chỉ thực hành việc lễ bái; thậm chí khi từ xa nhìn thấy bốn chúng cũng cố đến gần để lễ bái, ngợi khen xưng tán rằng: ‘Tôi không dám khinh thường, các ngài đều sẽ thành Phật.’
Đoạn thứ ba từ câu “Này Đắc Đại Thế! Do nhân duyên gì…” trở đi, nêu cả hai ý được và mất, lại chia thành 2 tiểu đoạn.
Tiểu đoạn thứ nhất nêu những chỗ được của người tin nhận. [Đó là] được tông chỉ rộng lớn của phần chính thuyết và được lợi ích vi diệu của phần lưu thông.
“Có tên gọi Thường Bất Khinh” là nhân nhất; “mỗi khi gặp các vị…” là lý nhất; “đều lễ bái ngợi khen xưng tán” là hành nhất; “và nói rằng” là giáo nhất. Đây chính là tứ nhất trong giáo pháp “khai quyền hiển thật”.[102]
Từ câu “thậm chí khi từ xa nhìn thấy” trở đi là căn bản lý nhất; “cũng cố đến gần lễ bái” là căn bản hành nhất; “và nói rằng” là căn bản giáo nhất; thiếu phần nhân nhất, nhưng nghĩa này có thể hiểu được. Đây chính là tứ nhất trong phần giáo pháp “khai cận hiển viễn”.[103]
Kinh văn nói “không chuyên tụng đọc kinh điển, chỉ thực hành việc lễ bái”, đây là địa vị của người ban sơ khởi tâm tùy hỷ. Tùy hỷ vì hết thảy các pháp đều có tính an vui, đều là một tướng thật. Tùy hỷ vì hết thảy mọi người đều có ba loại tánh Phật. “Tụng đọc kinh điển” là tánh Phật liễu nhân; “đều thực hành đạo Bồ Tát” là tánh Phật duyên nhân; “không dám khinh thường” lại “hết sức cung kính” là tánh Phật chánh nhân.
Cung kính người, cung kính pháp, không khởi tâm tranh giành, đó là ý nghĩa tùy hỷ. Không khinh thường, kính trọng sâu xa là ngồi tòa Như Lai; nhẫn nhục với sự đánh đập, mắng chửi là đắp y Như Lai; giữ tâm từ bi thường hành trì không bỏ tức là vào nhà Như Lai.
Lại nữa, “hết sức cung kính” là nghiệp của ý; nói “không dám khinh thường” là nghiệp của miệng; “cố đến gần lễ bái” là nghiệp của thân. Ba nghiệp này đều kết hợp với tâm từ bi, tức là hạnh an vui thệ nguyện. Ba nghiệp, bốn hạnh[104] như vậy, nếu không phải lợi ích nhiệm mầu của sự lưu thông [kinh điển] thì phải gọi là gì?
KINH VĂN
“Trong bốn chúng có những người giận dữ, khởi tâm không thanh tịnh, dùng lời độc ác mắng nhiếc rằng: ‘Tỳ-kheo ngu si này từ đâu đến? Tự nhiên lại nói “tôi không khinh thường các ông” rồi thụ ký chúng ta sẽ thành Phật. Chúng ta không cần sự thụ ký hư dối này.’
“Trải qua nhiều năm như vậy, vị ấy thường bị chửi mắng[105] vẫn không sân hận, luôn nói rằng: ‘Các ngài sẽ thành Phật.’ Khi nói như vậy, thường bị những người khác dùng gậy đuổi đánh, dùng ngói đá ném, vị ấy liền chạy tránh ra xa rồi dừng lại, vẫn lớn tiếng nói: ‘Tôi không dám khinh thường, các ngài đều sẽ thành Phật.’ Vì thường nói như vậy nên những tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di tăng thượng mạn đặt tên vị ấy là Thường Bất Khinh.
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Trong bốn chúng có những người…” trở đi, nêu những chỗ mất của người hủy báng. “Giận dữ, khởi tâm không thanh tịnh” là không thọ nhận tứ nhất. “Mắng nhiếc rằng: ‘Tỳ-kheo ngu si’” tức là nói không có trí tuệ. Trí tuệ rõ biết lý tánh, đã nói không có trí tuệ tức là không thọ nhận lý nhất. Mắng nhiếc tỳ-kheo là không thọ nhận nhân nhất. Hỏi “từ đâu đến” tức là không thọ nhận hành nhất. “Không cần sự thụ ký hư dối” là không thọ nhận giáo nhất. “Trải qua nhiều năm như vậy, vị ấy thường bị chửi mắng” là kết lại những người này không thọ nhận tứ nhất trong phần giáo pháp “khai quyền hiển thật”.
“Chạy tránh ra xa rồi dừng lại, vẫn lớn tiếng nói” cũng là nghĩa không thọ nhận. Đây là nói không thọ nhận tứ nhất của bản địa[106] trong giáo pháp “khai cận hiển viễn”.
“Thường nói như vậy” là kết ý người tin nhận vẫn tin sâu không dứt. Bốn chúng “đặt tên vị ấy là Thường Bất Khinh” là kết ý người hủy báng vẫn không ngừng hủy báng.
Hỏi: Đức Thích-ca ra đời còn do dự chưa thuyết dạy [về tánh Phật], Bồ Tát Thường Bất Khinh chỉ vừa mới gặp một lần đã hấp tấp nói ra điều đó là sao?
Đáp: Vì [thính chúng] vốn đã có chút ít căn lành, cho nên đức Thích-ca tạm dùng Tiểu thừa để dẫn dắt giúp đỡ. [Đối với thính chúng] vốn chưa có căn lành, Bồ Tát Thường Bất Khinh mới dùng thẳng Đại thừa để mạnh mẽ đối trị. Đại lược là như vậy.
KINH VĂN
“Khi vị tỳ-kheo ấy sắp qua đời, từ trên không trung được nghe đủ hai mươi ngàn muôn ức bài kệ trong kinh Pháp hoa mà Phật Oai Âm Vương đã thuyết giảng trước đây, có thể thọ trì được tất cả, liền đạt được nhãn căn thanh tịnh, nhĩ căn, tị căn, thiệt căn, thân căn, ý căn đều thanh tịnh như trước đã nói. Đạt được sáu căn thanh tịnh rồi, lại tăng thêm tuổi thọ đến hai trăm muôn ức na-do-tha tuổi, rộng vì người khác thuyết giảng kinh Pháp hoa này.
“Khi ấy, những người tăng thượng mạn trong bốn chúng: tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, trước đây khinh thường vị tỳ-kheo ấy, đã đặt tên là Bất Khinh, nay thấy vị ấy đạt được sức đại thần thông, sức biện tài nhạo thuyết, sức tịch tịnh an định, được nghe thuyết giảng liền tin phục theo học.
“Bồ Tát ấy giáo hóa ngàn muôn ức chúng sanh, khiến cho trụ trong đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Sau khi qua đời, [lại lần lượt tái sinh] được gặp hai ngàn ức vị Phật, đồng một danh hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh, ở trong pháp hội của chư Phật ấy thuyết giảng kinh Pháp hoa này.
“Do nhân duyên ấy, lại được gặp hai ngàn ức vị Phật, đồng một danh hiệu là Vân Tự Tại Đăng Vương, ở trong pháp hội của chư Phật ấy cũng thọ trì, tụng đọc, vì bốn chúng mà thuyết giảng kinh này, nên thường được nhãn căn, nhĩ căn, tị căn, thiệt căn, thân căn, ý căn thanh tịnh, thuyết pháp giữa bốn chúng với tâm không sợ sệt.
“Này Đắc Đại Thế! Đại Bồ Tát Thường Bất Khinh ấy, cúng dường biết bao nhiêu đức Phật như thế, cung kính, tôn trọng, ngợi khen xưng tán, gieo trồng các căn lành, về sau lại được gặp ngàn muôn ức đức Phật, lại cũng ở trong pháp hội của chư Phật ấy thuyết giảng kinh điển này, thành tựu công đức, liền được thành Phật.”
Tổng đoạn thứ ba từ câu “Khi vị tỳ-kheo ấy sắp qua đời” trở đi, [gồm 2 đoạn] nêu cả hai ý về quả báo của người tin nhận và kẻ hủy báng.
Đoạn thứ nhất chia làm 2 tiểu đoạn. Thứ nhất là nêu quả báo; thứ hai là tóm kết nêu việc xưa và nay.
Tiểu đoạn thứ nhất luận về người tin nhận, có 3 loại quả báo. Thứ nhất là ngay đời này được sáu căn thanh tịnh; thứ hai là tái sinh được gặp đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh; thứ ba là về sau còn được gặp 2.000 ức vị Phật.
“Sức đại thần thông” là thân nghiệp thanh tịnh; “sức biện tài nhạo thuyết” là khẩu nghiệp thanh tịnh; “sức tịch tịnh an định” là ý nghiệp thanh tịnh. Đại lược là như thế.
KINH VĂN
“Đắc Đại Thế! Ý ông nghĩ sao? Bồ Tát Thường Bất Khinh thuở ấy nào phải ai khác, chính là ta đó. Nếu như đời trước ta không thọ trì, tụng đọc kinh này, vì người khác giảng nói, thì không thể nhanh chóng thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ta ở đạo tràng của chư Phật trước đây thọ trì tụng đọc kinh này, vì người khác giảng nói, cho nên mới nhanh chóng thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”
Tiểu đoạn thứ hai tóm kết, có 2 phân đoạn.
Phân đoạn thứ nhất nêu việc tóm kết, y theo kinh văn hiểu được.
Phân đoạn thứ hai từ câu “Nếu như đời trước ta không...” trở đi, nêu việc tin nhận để khuyến khích thuận theo, y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
“Đắc Đại Thế! Bốn chúng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di thuở xưa, khởi ý sân hận mà khinh thường ta nên trong hai trăm ức kiếp thường không được gặp Phật, không được nghe pháp, không được gặp tăng, ngàn kiếp ở trong địa ngục A-tỳ chịu những khổ não lớn lao. Khi tội nghiệp đã hết, được gặp lại Bồ Tát Thường Bất Khinh, giáo hóa theo đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Đoạn thứ hai từ câu “Đắc Đại Thế! Bốn chúng tỳ-kheo...” trở đi nêu quả báo của kẻ hủy báng, chia ra làm 2 tiểu đoạn. Thứ nhất nêu việc chịu quả báo; thứ hai tóm kết, nêu việc xưa và nay.
Tiểu đoạn thứ nhất nêu việc kẻ hủy báng nhận cả 2 loại quả báo thiện và ác. Vì chê bai nên chịu quả báo rơi vào đường ác. Được nghe nói về tánh Phật nên nhờ sức của trống độc[107] mà nhận quả báo thiện.
KINH VĂN
“Đắc Đại Thế! Ý ông nghĩ sao? Bốn chúng thuở xưa khinh chê vị Bồ Tát ấy nào phải ai khác, chính là những người nay đang ở trong pháp hội này. Đó là nhóm ông Bạt-đà-la năm trăm Bồ Tát, nhóm ông Sư Tử Nguyệt năm trăm tỳ-kheo, nhóm ông Ni-tư-phật năm trăm ưu-bà-tắc,[108] đều được bất thối chuyển đối với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
“Đắc Đại Thế! Nên biết rằng kinh Pháp hoa này làm lợi ích lớn lao cho các vị Đại Bồ Tát, có thể giúp đạt đến quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Cho nên sau khi Như Lai diệt độ, các Đại Bồ Tát nên thường thọ trì, tụng, đọc, giảng nói, sao chép kinh này.”
Tiểu đoạn thứ hai tóm kết nêu việc xưa nay, lại chia thành 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất tóm kết nêu việc xưa nay. Phân đoạn thứ hai từ câu “Đắc Đại Thế! Nên biết rằng…” trở đi là nêu việc nghịch để làm rõ việc thuận theo, khuyên thọ trì [kinh điển] để ngăn chặn sự hủy báng. Kinh này có sức mạnh lớn lao nên chiêu cảm được quả lớn lao, quan trọng là phải chuyên cần tu tập 5 loại thực hành.[109]
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:
“Thuở quá khứ có Phật,
Hiệu là Oai Âm Vương.
Sức trí tuệ vô lượng,
Dẫn dắt mọi chúng sanh;
Chư thiên, người, rồng, thần,
Đều cùng nhau cúng dường.
Sau khi Phật diệt độ,
Lúc pháp Phật sắp diệt,
Có một vị Bồ Tát,
Hiệu là Thường Bất Khinh.
Khi ấy trong bốn chúng,
Đều bám chấp nơi pháp.
Bồ Tát Thường Bất Khinh,
Thường đi đến chỗ họ,
Nói lời cung kính rằng:
‘Tôi không dám khinh thường,
Các ngài đều tu đạo,
Tương lai sẽ thành Phật.’
Những người kia nghe vậy,
Đều khinh chê, mắng nhiếc;
Bồ Tát Thường Bất Khinh,
Nhẫn chịu được tất cả.
Khi tội nghiệp đã dứt,
Bồ Tát sắp mạng chung,
Được nghe kinh Pháp hoa,
Sáu căn liền thanh tịnh.
Liền được sức thần thông,
Tuổi thọ kéo dài thêm,
Lại vì những người khác,
Rộng thuyết kinh Pháp hoa.
Những người trước mê chấp,
Nay đều được Bồ Tát,
Giáo hóa cho thành tựu,
Trụ yên trong đạo Phật.
Bồ Tát viên tịch rồi,
Gặp vô số chư Phật;
Nhờ giảng nói Pháp hoa,
Được vô lượng phước báo;
Dần dần đủ công đức,
Nhanh chóng thành quả Phật.
Thường Bất Khinh thuở trước,
Chính là ta ngày nay.
Còn bốn chúng thuở ấy,
Người bám chấp, mê pháp,
Được nghe Bồ Tát nói:
‘Đều sẽ được thành Phật.’
Nhờ vào nhân duyên ấy,
Được gặp vô số Phật.
Là Bồ Tát hội này,
Có nhóm năm trăm người;
Cùng với trong bốn chúng,
Có cư sĩ nam, nữ,
Nay đang ở trước Phật,
Cung kính nghe thuyết pháp.
Ta từ những đời trước,
Khuyên dạy những người này:
Nghe, thọ kinh Pháp hoa,
Là pháp tu bậc nhất.
Mở bày, giáo hóa người,
Khiến trụ nơi Niết-bàn;
Đời đời nên thọ trì,
Kinh điển bậc nhất này.
Vì qua ngàn muôn ức,
Số kiếp không nghĩ bàn,
Mới có thể được nghe,
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa;
Lại qua ngàn muôn ức,
Số kiếp không nghĩ bàn,
Các đức Phật Thế Tôn,
Mới thuyết giảng kinh này.
Cho nên người tu học,
Sau khi Phật diệt độ,
Nếu được nghe kinh này,
Đừng sinh tâm nghi hoặc;
Mà nên trọn một lòng,
Truyền rộng kinh điển này;
Đời đời luôn gặp Phật,
Chóng thành đạo Vô thượng.
Phần kệ tụng này có 19 khổ rưỡi kệ, chia làm 2 đoạn.
Đoạn thứ nhất có 15 khổ rưỡi, chỉ tụng về nhân quả của người tin nhận và kẻ hủy báng.
Đoạn thứ hai có 4 khổ kệ, tụng nghĩa khuyến khích thọ trì [kinh này]. Y theo kinh văn có thể hiểu rõ, không cần phải phân chia chi tiết.
“Đều bám chấp nơi pháp” là nói pháp không thể chỉ bày, nếu cố chấp nói là “có” tức là bám chấp nơi pháp; thậm chí cố chấp cho là chẳng phải có chẳng phải không cũng gọi là bám chấp nơi pháp. Kinh Phật tạng nói: “Dùng vòng đao giết hại hết người trong cõi Diêm-phù-đề, tội ấy cũng còn nhỏ nếu so với người dùng tâm bám chấp sở đắc mà thuyết giảng pháp Đại thừa, tội này lớn hơn.”[110] Đại lược là như vậy.
Luận Đại trí độ nói: “Kẻ chấp có cùng người chấp không tranh luận nhau, hoặc thậm chí người chấp chẳng phải có chẳng phải không tranh luận với người chấp có chấp không. [Tất cả đều] như [buộc quấn bằng] da bò, dây cỏ râu rồng,[111] không tránh khỏi tai họa.”
Trung luận nói:
“Chư Phật thuyết pháp ‘không’,
Vì giáo hóa chấp ‘có’;
Nếu lại bám chấp ‘không’,
Chư Phật không giáo hóa.”[112]
Nếu nói nhất định rằng các pháp ‘chẳng phải có chẳng phải không’ thì gọi là luận giải ngu si.”
Nếu để mất đi ý chỉ của bốn pháp tất đàn thì dù tự mình thực hành hay giáo hóa người khác cũng đều là bám chấp pháp. Nếu đạt được ý chỉ của bốn pháp tất đàn thì dù đối với tự thân mình hay người khác đều không còn bám chấp.
KINH VĂN
Phẩm Thần lực Như Lai, thứ hai mươi mốt
Giải thích tên phẩm
[Về ý nghĩa] Như Lai, phần trước đã giải thích. Về thần lực, “thần” nghĩa là không thể đo lường, “lực” nghĩa là có tài năng công dụng. Không thể đo lường nên thể tánh tự nhiên thâm sâu; có tài năng công dụng nên sức chuyển biến lớn lao. Trong phẩm này, vì sự giao phó giáo pháp thâm sâu mà [đức Phật] hiện ra 10 loại thần lực lớn lao, cho nên gọi là phẩm Thần lực Như Lai.
Từ phẩm này về cuối có 8 phẩm, đều là để giao phó việc lưu thông kinh này. Phẩm này nêu việc Bồ Tát nhận lãnh sứ mệnh hoằng truyền kinh điển. Phẩm tiếp theo nói việc đức Như Lai xoa đầu giao phó về sau.
Kinh văn phẩm này có hai phần, trường hàng và kệ tụng. Phần trường hàng chia làm 3 tổng đoạn. Tổng đoạn thứ nhất nêu việc Bồ Tát nhận lãnh sứ mệnh. Tổng đoạn thứ hai nói việc đức Phật hiện thần lực. Tổng đoạn thứ ba tóm kết ý nghĩa cốt yếu, khuyến khích thọ trì kinh này.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, những vị Đại Bồ Tát đã từ lòng đất phóng vọt lên, nhiều như số hạt bụi nhỏ trong ngàn thế giới, đều ở trước Phật một lòng chắp tay chiêm ngưỡng tôn nhan, rồi cung kính thưa rằng: “Bạch Thế Tôn! Sau khi Phật diệt độ, chúng con ở những cõi nước mà phân thân của Thế Tôn đã diệt độ sẽ rộng thuyết kinh Pháp hoa này. Vì sao vậy? Vì chúng con tự mình cũng muốn có được giáo pháp Đại thừa chân thật thanh tịnh này để thọ trì, tụng đọc, giảng thuyết, sao chép mà cúng dường.”
Tổng đoạn thứ nhất [có 2 đoạn].
Đoạn thứ nhất là lời người chép kinh, mô tả oai nghi cung kính [của đại chúng].
Đoạn thứ hai nêu việc phát lời thệ nguyện hoằng truyền kinh điển, chia làm 3 tiểu đoạn.
Tiểu đoạn thứ nhất nêu thời gian, là nói sau khi Phật diệt độ.
Tiểu đoạn thứ hai nói về nơi chốn, là nói những cõi nước có phân thân của Phật.
Tiểu đoạn thứ ba nêu thệ nguyện, không chỉ là vâng lời Phật dạy làm lợi ích chúng sanh, mà cũng tự mình mong muốn có được giáo pháp thanh tịnh chân thật lớn lao này, tức là giúp phần lợi ích tốt đẹp cho cả đôi bên.
KINH VĂN
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trước vô số trăm ngàn muôn ức các vị Đại Bồ Tát từ lâu đã ở nơi cõi Ta-bà này như các vị Văn-thù-sư-lợi… cùng các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và phi nhân..., trước tất cả đại chúng như vậy hiện sức thần thông lớn, hiển bày tướng lưỡi rộng dài[113] lên đến tận cõi trời Phạm thế; mỗi một lỗ chân lông trên thân Phật đều phóng ra vô lượng vô số các đạo hào quang có màu sắc, soi chiếu khắp các thế giới mười phương. Chư Phật [phân thân] ngồi trên tòa sư tử dưới các cội cây báu cũng đều hiện tướng lưỡi rộng dài và phóng vô lượng hào quang như vậy.
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cùng chư Phật phân thân ngồi trên tòa sư tử dưới các cội cây báu hiện sức thần thông như vậy, trải qua thời gian đủ trăm ngàn năm rồi mới thu hồi tướng lưỡi rộng dài. Cùng lúc ấy, chư Phật đều hắng giọng và khảy móng tay, hai âm thanh ấy liền vang đến khắp các thế giới của chư Phật trong mười phương, các cõi đất đều chấn động theo sáu cách, hết thảy chúng sanh trong các thế giới ấy như trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và phi nhân… nhờ oai thần của Phật nên đều nhìn thấy được thế giới Ta-bà này với vô lượng vô biên ngàn muôn ức chư Phật ngồi trên tòa sư tử dưới các cội cây báu, lại cũng thấy đức Phật Thích-ca Mâu-ni và đức Như Lai Đa Bảo trong tháp báu cùng ngồi trên tòa sư tử; lại thấy có vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức Đại Bồ Tát cùng bốn chúng cung kính vây quanh đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Chúng sanh được thấy như vậy rồi, tất cả đều hết sức vui mừng, cho là việc chưa từng có.
Ngay lúc đó, chư thiên giữa không trung [ở những thế giới ấy] cất tiếng nói lớn rằng: “Cách đây vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ thế giới, có thế giới tên là Ta-bà, ở đó có đức Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni, hiện nay đang vì các Đại Bồ Tát mà thuyết giảng kinh Đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm. Các người nên phát tâm tùy hỷ sâu xa và cũng nên lễ bái, cúng dường đức Phật Thích-ca Mâu-ni.”
Những chúng sanh được nghe tiếng nói giữa không trung như vậy rồi, đều cung kính chắp tay hướng về thế giới Ta-bà, cùng niệm lớn: “Nam-mô Thích-ca Mâu-ni Phật! Nam-mô Thích-ca Mâu-ni Phật!” Rồi họ dùng đủ mọi loại hương, hoa, chuỗi ngọc, lọng che, cờ phướn cùng những thứ trang nghiêm trên thân, châu báu, vật quý đẹp, cùng nhau ở từ xa tung rải về thế giới Ta-bà. Những vật được tung rải từ khắp mười phương đó liền tụ lại như mây, hóa thành một tấm màn báu che trùm khắp không gian bên trên chư Phật. Bấy giờ, các thế giới trong mười phương liền trở nên thông suốt không ngăn ngại, giống như một cõi Phật.”
Tổng đoạn thứ hai từ câu “Khi ấy, đức Thế Tôn…” trở đi, [đức Phật] hiện ra mười thần lực. Phần này chia làm 2 đoạn. u Đoạn thứ nhất mô tả hội chúng đang ở trước Phật. Đoạn thứ hai nói việc chính thức hiện thần lực. “Như các vị Văn-thù-sư-lợi…” là nói chung về những vị được giáo hóa từ xa xưa. “Từ lâu đã ở nơi cõi Ta-bà này”, tức là các Bồ Tát ở phương dưới vốn đã được giáo hóa từ bản nguyên xa xưa. “Tất cả đại chúng như vậy” là chỉ chung những Bồ Tát từ các phương khác đến, cùng với những Bồ Tát đi theo chư Phật phân thân cùng đến.
Hỏi: Vì sao chỉ thấy các Bồ Tát ở phương dưới phát khởi thệ nguyện, không thấy các Bồ Tát như Văn-thù… phát nguyện?
Đáp: Kinh văn phần trước đã nói rằng: “Thế giới Ta-bà của ta đã sẵn có những Bồ Tát… …sẽ bảo vệ giữ gìn, tụng đọc, giảng rộng kinh này.” Tức là đã bao hàm ý nghĩa phát nguyện này rồi.
Đoạn thứ hai nêu mười thần lực như sau:
- Thứ nhất, “hiển bày tướng lưỡi rộng dài”. Sự giảng giải trong kinh Pháp hoa này là trừ bỏ ba thừa [phương tiện], hiển lộ Nhất thừa, [chỉ rõ việc chư Bồ Tát] trong giấu [hạnh Bồ Tát], ngoài hiện [tướng Thanh văn], bác bỏ [hình tích thị hiện thành đạo] gần đây để hiển lộ [bản nguyên chân thật đã thành đạo từ] xa xưa, nêu rõ lợi ích chúng sanh trong ba đời, tất cả đều chân thật không hư dối. Người thế gian có phước đức thì lưỡi thè ra chạm lên đến mũi. Đức Phật [thuyết giáo pháp] Tam tạng [thì hiện tướng] lưỡi chạm đến mép tóc, nay “lên đến tận cõi trời Phạm thế” là vượt ngoài các cõi phàm, thánh, đến tận đỉnh các cõi Tịnh thiên. Tướng này đã hết sức lạ thường nên lời [Phật sắp] nói ra càng thêm đáng tin nhận.
- Thứ hai, “mỗi một lỗ chân lông trên thân Phật đều phóng ra vô lượng vô số các đạo hào quang có màu sắc, soi chiếu khắp các thế giới mười phương”. Soi chiếu khắp mười phương, không nơi nào không sáng tỏ, tức là biểu thị cảnh giới trí tuệ đã rỗng rang cùng tột. Kinh văn phần trước nói hào quang từ tướng bạch hào [của Phật] vừa chiếu đến phương đông, biểu hiện cho bảy hạng phương tiện lần đầu tiên được gặp lý Nhất thừa. Nay [phần thuyết pháp] bản môn đã xong, nên phóng chiếu hết thảy hào quang, so chiếu hết thảy các cõi, có thể giúp cho chúng sanh từ hàng sơ tâm đến bậc Đẳng giác đều đạt đến trí tuệ Phật rốt ráo. Chư Phật phân thân lại cũng [hiện thần lực] giống như vậy.
- Thứ ba, “chư Phật đều hắng giọng” là tướng trạng chuẩn bị nói ra, cũng là biểu hiện của sự thông suốt. Hơn 40 năm ẩn kín sự chân thật, nay được mở bày ra trọn vẹn không còn gì giữ lại. Đây là lúc đại sự xuất thế của Như Lai đã được thông suốt, cho nên hắng giọng là muốn đem giáo pháp này giao phó cho các Bồ Tát, khiến cho dẫn dắt chúng sanh đời sau để được lợi ích. Sắp nói ra việc ấy cho nên hắng giọng. Hắng giọng có đủ 2 nghĩa. Thứ nhất là hắng giọng vì việc [giáo hóa] đã hoàn tất; thứ hai là hắng giọng để giao phó cho các Bồ Tát.
- Thứ tư, “khảy móng tay” tức là tùy hỷ. Tùy hỷ việc bảy hạng phương tiện đều được vào đạo viên mãn; tùy hỷ đạo viên mãn tăng trưởng trí tuệ, giảm trừ sinh tử; tùy hỷ các Bồ Tát giữ gìn giáo pháp Đại thừa chân thật thanh tịnh; tùy hỷ [chúng sanh] đời sau được [giáo pháp] quý báu không gì hơn. Một tiếng khảy móng tay này xuyên suốt ba đời, vang khắp mười phương.
- Thứ năm, “các cõi đất đều chấn động theo sáu cách”, biểu thị từ hàng sơ phát tâm đến tâm sau cùng trước khi thành đạo có sáu phen làm rúng động vô minh, nay nêu việc cũng rúng động sáu căn của hết thảy chúng sanh, khiến cho được thanh tịnh.
- Thứ sáu, [hết thảy chúng sanh] “nhờ oai thần của Phật nên đều nhìn thấy được” toàn bộ quang cảnh đại hội, biểu thị ý nghĩa đạo của chư Phật đều đồng như nhau, ngày nay ngày sau cũng đều như vậy. [Trong kinh văn] phần trước nói năm ngàn người bỏ đi, lại có ba lần Phật biến hiện di chuyển [người ngoài đại hội sang cõi khác,[114] đó là những người] đã để mất bản tâm, không thể được lợi ích trong hiện tại, nên [Phật vì họ] mà không diệt độ nhưng thị hiện diệt độ, khiến cho họ đi theo các Bồ Tát hoằng truyền kinh này mà được đạo, thể nhập trí tuệ Phật, cũng như trong pháp hội ngày nay không khác; lại cũng biểu thị trong tương lai sẽ có “cơ nhất”.[115]
- Thứ bảy, “chư thiên giữa không trung… cất tiếng nói lớn”, biểu thị trong tương lai sẽ có “giáo nhất”.[116]
- Thứ tám, [chúng sanh] đều niệm “Nam-mô”, có nghĩa là “quy mạng”, quay về nương tựa, làm đệ tử Phật, biểu thị trong tương lai sẽ có “nhân nhất”.[117]
- Thứ chín, “từ xa tung rải” các vật cúng dường, tất cả đều bay đến tụ lại như mây, biểu thị trong tương lai sẽ có “hành nhất”.[118]
- Thứ mười, “thế giới trong mười phương liền trở nên thông suốt không ngăn ngại, giống như một cõi Phật”, biểu thị “lý nhất”.[119]
Hỏi: Vì sao biết rằng mười tướng ấy biểu thị ý nghĩa trong hiện tại, lại cũng biểu thị ý nghĩa trong tương lai?
Đáp: Kinh văn nói: “Nếu ta vì sự giao phó ủy thác mà dùng sức thần thông như vậy trong vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp nói về công đức của kinh này, cũng không thể nói hết được.” Ý nghĩa biểu thị hiện tại và biểu thị tương lai là rất rõ ràng.
KINH VĂN
Khi ấy, đức Phật bảo đại chúng các vị Bồ Tát cùng đi với ngài Thượng Hạnh:[120] “Sức thần thông của chư Phật là như vậy, vô lượng vô biên, không thể suy lường, nhưng nếu ta vì sự giao phó ủy thác mà dùng sức thần thông như vậy trong vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp nói về công đức của kinh này, cũng không thể nói hết được.
“Nói tóm lại, hết thảy mọi pháp của Như Lai, hết thảy mọi sức thần thông tự tại của Như Lai, hết thảy mọi kho tàng tinh yếu kín đáo của Như Lai, hết thảy những việc hết sức sâu xa của Như Lai, đều đã được trình bày rõ ràng sáng tỏ trong kinh Pháp hoa này.”
Tổng đoạn thứ ba từ câu “Khi ấy, đức Phật bảo đại chúng các vị Bồ Tát cùng đi với ngài Thượng Hạnh” trở đi, tóm kết ý nghĩa cốt yếu, giao phó [việc lưu truyền kinh điển] về sau. Kinh văn chia làm 4 đoạn. Thứ nhất là xưng tán việc giao phó giáo pháp, thứ hai là tóm kết ý nghĩa cốt yếu của sự giao phó; thứ ba là khuyến khích khen ngợi [người nhận] giao phó giáo pháp; thứ tư là giải thích về sự giao phó giáo pháp.
Đoạn thứ nhất xưng tán, y theo kinh văn có thể hiểu được.
Đoạn thứ hai [từ câu “Nói tóm lại”] trở đi, tóm kết ý nghĩa cốt yếu gồm có bốn câu.
- Câu thứ nhất nói “hết thảy mọi pháp” tức là tất cả các pháp đều là Phật pháp. Câu này tóm kết nghĩa tất cả đều là diệu danh.
- Câu thứ hai nói “hết thảy mọi sức thần thông tự tại”, tức là [công năng] thông đạt không ngăn ngại, đầy đủ tám đức tự tại.[121] Câu này tóm kết về diệu dụng.
- Câu thứ ba nói “hết thảy mọi kho tàng tinh yếu kín đáo”, tức là khắp thảy mọi nơi đều là tướng chân thật. Câu này tóm kết về diệu thể.
- Câu thứ tư nói “hết thảy những việc hết sức sâu xa”, nhân quả tức là việc sâu xa. Câu này tóm kết về diệu tông.[122]
Tất cả đều được nêu ra, giảng rõ trong kinh này. Tổng kết trọn một bộ kinh chỉ có bốn điều này mà thôi, nay tóm kết chỗ then chốt cốt yếu mà trao cho [thính chúng].
KINH VĂN
“Cho nên, sau khi Như Lai diệt độ, các ông nên chuyên tâm thọ trì, tụng, đọc, giảng thuyết, sao chép, y theo lời dạy trong kinh để tu hành.
“Trong khắp cõi nước, nếu ở nơi nào có người tụng, đọc, giảng thuyết, sao chép, y theo kinh này tu hành, hoặc nơi nào có cất giữ kinh điển này, như ở giữa vườn, trong rừng, dưới gốc cây; hoặc trong tăng phòng, ở nhà cư sĩ hoặc điện thờ; hoặc giữa núi rừng hoang vắng, ở những nơi đó đều nên dựng tháp cúng dường.”
Đoạn thứ ba, từ câu “Cho nên, sau khi Như Lai diệt độ, các ông nên…” trở đi, khuyến khích và ngợi khen [những người nhận lãnh sự] giao phó lưu thông kinh điển. Phần này y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
“Vì sao vậy? Nên biết rằng nơi đó chính là đạo trường; là nơi chư Phật thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; là nơi chư Phật chuyển bánh xe pháp; là nơi chư Phật nhập Niết-bàn.”
Đoạn thứ tư từ câu “Vì sao vậy” trở đi, giải thích về ý nghĩa sự giao phó lưu thông kinh điển. Kinh văn phần trước nói nơi nào có quyển kinh này đều nên xây dựng tháp thờ. Trong kinh này thì những điều cốt yếu được thuyết dạy nằm ở bốn việc.
- Thứ nhất, “nơi đó chính là đạo trường” là giải thích phần trước nói “việc hết sức sâu xa”.
- Thứ hai, “nơi chư Phật thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác” tức là giải thích phần trước nói “kho tàng tinh yếu kín đáo”.
- Thứ ba, “nơi chư Phật chuyển bánh xe pháp” là giải thích phần trước nói “hết thảy mọi pháp”.
- Thứ tư, “nơi chư Phật nhập Niết-bàn” là giải thích phần trước nói “sức thần thông tự tại”.
Đây là bốn việc cốt yếu, thâu nhiếp toàn bộ kinh văn, vì thế “đều nên dựng tháp cúng dường”.
Những điều này được cho là cốt yếu, vì “thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác” tức là pháp thân; “chuyển bánh xe pháp” tức là Bát-nhã; “nhập Niết-bàn” là giải thoát. Ba pháp này hợp thành “kho tàng tinh yếu kín đáo”, có Phật trụ yên trong đó, tức là ý nghĩa của dựng tháp cúng dường.
Kinh A-hàm nói rằng: “Đức Phật ra đời, chỉ có bốn nơi nên xây dựng tháp. Đó là nơi Phật đản sanh, nơi Phật thành đạo, nơi Phật chuyển bánh xe pháp và nơi Phật nhập Niết-bàn. Phật ngồi đạo tràng chính là nơi pháp thân sinh ra. Những phần khác y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:
“Chư Phật, bậc cứu đời,
Trụ nơi đại thần thông,
Để làm vui chúng sanh,
Hiện vô lượng sức thần.
Tướng lưỡi đến Phạm thiên,
Thân tỏa muôn hào quang,
Vì người cầu đạo Phật,
Hiện việc hy hữu này.
Tiếng chư Phật hắng giọng,
Cùng tiếng khảy móng tay,
Vang khắp cõi mười phương,
Đất chấn động sáu cách.
Sau khi Phật diệt độ,
Có người trì kinh này,
Chư Phật đều hoan hỷ,
Hiện vô lượng sức thần.
Phần kệ tụng có 16 khổ kệ, chia làm 2 đoạn.
Đoạn thứ nhất gồm 4 khổ kệ đầu tiên, tụng lại về mười thần lực.
KINH VĂN
Vì phó thác kinh này,
Ngợi khen người thọ trì,
Trong suốt vô lượng kiếp,
Cũng không thể cùng tận.
Công đức người trì kinh,
Vô biên, không cùng tận,
Như hư không mười phương,
Không thể biết giới hạn.
Đoạn thứ hai có 12 khổ kệ, tụng về nghĩa tóm kết ý nghĩa cốt yếu, [chia làm 2 tiểu đoạn].
Tiểu đoạn thứ nhất từ câu “Vì phó thác kinh này” trở đi 2 khổ kệ, tụng tổng quát về 4 pháp.
KINH VĂN
Người thọ trì kinh này,
Là đã thấy được Phật,
Cũng thấy Phật Đa Bảo,
Cùng các Phật phân thân.
Lại thấy Phật hôm nay,
Giáo hóa các Bồ Tát.
Người thọ trì kinh này,
Ta và các phân thân,
Phật diệt độ Đa Bảo,
Tất cả đều hoan hỷ;
Người ấy gặp, cúng dường,
Mười phương Phật hiện tại,
Cùng quá khứ, tương lai,
Đều khiến cho hoan hỷ.
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Người thọ trì kinh này, là đã thấy được Phật”, tụng chi tiết 4 pháp, gồm 8 khổ rưỡi kệ. Một khổ rưỡi đầu tiên tụng nghĩa “hết thảy mọi pháp”. Người giữ gìn chánh pháp tức là giữ gìn thân Phật. Đại lược là như vậy.
Từ câu “Người thọ trì kinh này, ta và các phân thân” là tụng về thần lực; được thần lực khuyến khích, khiến chư Phật đều hoan hỷ.
KINH VĂN
Chư Phật ngồi đạo trường,
Đạt được pháp bí yếu;
Người thọ trì kinh này,
Không lâu cũng sẽ được.
Người thọ trì kinh này,
Đối với nghĩa các pháp,
Cùng danh tự, ngôn từ,
Vui thích giảng khôn cùng;
Như gió thổi không trung,
Không có gì ngăn ngại.
Sau khi Phật diệt độ,
Biết những kinh Phật thuyết,
Nhân duyên và trình tự,
Tùy nghĩa giảng đúng thật.
Như mặt trời, mặt trăng,
Xua tan đi bóng tối;
Người ấy sống giữa đời,
Trừ mê muội chúng sanh,
Dạy vô số Bồ Tát,
Rốt ráo đến Nhất thừa.
Từ câu “Chư Phật ngồi đạo trường” gồm một khổ kệ tụng về pháp bí yếu, y theo kinh văn có thể hiểu được.
Từ câu “Người thọ trì kinh này, đối với nghĩa các pháp” gồm 4 khổ kệ là tụng về “những việc hết sức sâu xa”. Thuyết pháp phá trừ mê ám, đưa vào Nhất thừa, đó là việc rất sâu xa của chư Phật.
KINH VĂN
Cho nên người có trí,
Nghe lợi ích, công đức,
Sau khi Phật diệt độ,
Nên thọ trì kinh này.
Người ấy với Phật đạo,
Quyết định không còn nghi.
Sau cùng một khổ rưỡi kệ là tụng tổng quát tóm kết ý nghĩa cốt yếu.
KINH VĂN
Phẩm Giao phó về sau, thứ hai mươi hai
Giải thích tên phẩm
“Giao” nghĩa là đức Phật dặn dò giao lại; “phó” nghĩa là phó thác cho [chư Bồ Tát] phải gắng sức lưu truyền. Đây là nói từ ý chỉ của Phật mà thành tên, nên gọi là phẩm Giao phó về sau.
Giao là nói sự cung kính đón nhận [việc Phật giao cho]; phó là vui mừng nhận lãnh không cho là khó nhọc. Đây là nói từ sự cung kính vâng theo của chư Bồ Tát mà thành tên, nên gọi là phẩm Giao phó về sau.
Giao là từ kim khẩu của đức Như Lai giao lại; phó là chư Bồ Tát đem lòng son sắt gánh vác nhận lãnh. Đây là đem cả hai việc giao phó và nhận lãnh hợp lại để nói, nên gọi là phẩm Giao phó về sau.
Vì vậy nên đức Như Lai đích thân từ pháp tòa đứng dậy, đưa tay xoa đầu, đem “pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác khó thành tựu này, nay giao phó về sau”; đại chúng cung kính cúi đầu chắp tay, đối với lời dạy của đức Thế Tôn “cung kính vâng theo tất cả”, cho nên gọi là phẩm Giao phó về sau.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, đức Phật Thích-ca Mâu-ni từ pháp tòa đứng dậy, hiện sức thần thông lớn, dùng tay phải đưa ra xoa đỉnh đầu vô số Đại Bồ Tát, dạy rằng: “Ta trải qua vô lượng trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp tu tập pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác khó thành tựu này, nay giao phó về sau cho các ông. Các ông nên một lòng truyền rộng pháp này, khiến cho càng tăng thêm lợi ích.”
Đức Phật xoa đỉnh đầu các vị Đại Bồ Tát như vậy ba lần rồi lại dạy rằng: “Ta trải qua vô lượng trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp tu tập pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác khó thành tựu này, nay giao phó về sau cho các ông. Các ông nên thọ trì, tụng đọc, truyền rộng pháp này, khiến cho khắp thảy chúng sanh đều được nghe biết.”
Kinh văn phẩm này chia làm 2 tổng đoạn. Tổng đoạn thứ nhất nói việc giao phó chánh pháp; tổng đoạn thứ hai nói việc đại chúng đương thời đều hoan hỷ.
Tổng đoạn thứ nhất chia làm 3 đoạn. Đoạn thứ nhất nêu việc đức Như Lai giao phó chánh pháp; đoạn thứ hai nói việc chư Bồ Tát nhận lãnh sự giao phó; đoạn thứ ba là việc đã hoàn tất nên nêu ý giải tán.
Đoạn thứ nhất có 3 tiểu đoạn. Thứ nhất nêu việc giao phó; thứ hai giải thích về việc giao phó; thứ ba răn dạy về việc giao phó.
Tiểu đoạn thứ nhất, nêu việc chính thức giao phó. Đức Phật dùng một cánh tay quyền trí thiện xảo đưa ra xoa trên đỉnh đầu thật trí của tất cả các vị Bồ Tát đầy khắp cả hư không trong ba ngàn ba trăm na-do-tha cõi nước.
Đức Như Lai giao phó chánh đạo để giáo hóa chúng sanh nên gọi là cánh tay quyền trí. Các Bồ Tát tự mình thực hành để thọ nhận chánh đạo nên gọi là đỉnh đầu thật trí. Phật đưa tay xoa đầu, tức là thân giao phó; quyền trí soi thật trí, tức là ý giao phó; Phật “dạy rằng” tức là khẩu giao phó.
Kinh văn phần này có đủ ý nghĩa của bốn tất đàn. “Ta trải qua vô lượng trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp tu tập pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác khó thành tựu này”, tức là nói đã được thọ học từ chư Phật trước đây, “nay giao phó về sau cho các ông”, các Bồ Tát thọ nhận tức là ba đời tiếp nối. Đây là nghĩa thế giới tất đàn. “Một lòng truyền rộng pháp này” tức là vị nhân tất đàn. “Khiến cho càng tăng thêm” tức là đối trị tất đàn. “Lợi ích” tức là đệ nhất nghĩa tất đàn.
KINH VĂN
“Vì sao vậy? Vì đức Như Lai có lòng đại từ bi, không hề tham tiếc keo lận, cũng không có sự sợ sệt, thường ban cho chúng sanh trí tuệ Phật, trí tuệ Như Lai, trí tuệ tự nhiên; Như Lai là vị thí chủ lớn của hết thảy chúng sanh. Các ông cũng nên học theo pháp của Như Lai, đừng sinh lòng tham tiếc keo lận.
“Trong đời tương lai, nếu có thiện nam, thiện nữ nào tin vào trí tuệ Như Lai, các ông nên vì người ấy diễn giảng kinh Pháp hoa này, khiến cho họ được nghe, vì muốn cho người ấy đạt được trí tuệ Phật. Nếu như có chúng sanh nào không tin nhận, các ông nên dùng những giáo pháp sâu xa khác của Như Lai để chỉ bày, dạy dỗ, khuyến khích sự lợi ích, hoan hỷ thành tựu.[123] Nếu các ông có thể làm được như vậy thì đó là đã báo đáp được ân đức của chư Phật.”
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Vì sao vậy” trở đi là giải thích về việc giao phó. “Có lòng đại từ bi” là nhà Như Lai; “không hề tham tiếc keo lận” là y Như Lai; “cũng không có sự sợ sệt” là tòa Như Lai; “trí tuệ Phật” là nhất thiết trí; “trí tuệ Như Lai” là đạo chủng trí; “trí tuệ tự nhiên” là nhất thiết chủng trí. Vào nhà Như Lai có thể ban cho chúng sanh ba loại trí tuệ, ngồi tòa Như Lai cũng vậy. “Là vị thí chủ lớn” như vậy nên không có tham tiếc keo lận, nên không có sự sợ sệt. “Các ông cũng nên học theo pháp của Như Lai”, đây là giải thích ý Phật để giao phó.
Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Trong đời tương lai” trở đi là răn nhắc để giao phó. Nếu người có căn tánh sâu vững, trí tuệ nhanh nhạy thì thuyết dạy thẳng vào trí tuệ Phật. Đối với người chưa tiếp nhận được thì dùng các pháp sâu xa khác mà tuần tự chỉ bày, dạy dỗ, khuyến khích sự lợi ích, hoan hỷ thành tựu. Trí tuệ Phật sâu xa mà không khác; [pháp của] sáu bậc phương tiện là khác mà không sâu xa; pháp tuần tự của Biệt giáo thì khác rồi đến sâu. “Các ông nên dùng những giáo pháp sâu xa khác”, là để trợ giúp làm sáng tỏ trí tuệ Phật, “đó là đã báo đáp được ân đức của chư Phật”. Đây gọi là răn nhắc để giao phó.
KINH VĂN
Bấy giờ, các vị Đại Bồ Tát nghe Phật dạy như vậy rồi, tất cả đều hết sức hoan hỷ, niềm vui lan khắp châu thân, càng thêm phần cung kính, cúi đầu chắp tay hướng về đức Phật, đồng thanh bạch rằng: “Như lời Thế Tôn đã dạy, chúng con xin cung kính vâng theo tất cả. Bạch Thế Tôn! Xin đừng lo ngại.”
Các vị Đại Bồ Tát ba lần như vậy đều đồng thanh bạch Phật: “Như lời Thế Tôn đã dạy, chúng con xin cung kính vâng theo tất cả. Bạch Thế Tôn! Xin đừng lo ngại.”
Đoạn thứ hai từ câu “Bấy giờ, các vị Đại Bồ Tát...” trở đi là nói việc các vị Bồ Tát nhận lãnh sự giao phó. “Tất cả đều hết sức hoan hỷ” là nhận lãnh bằng ý; “cúi đầu chắp tay” là nhận lãnh bằng thân; “đồng thanh bạch rằng” là nhận lãnh bằng khẩu, cũng bao hàm cả nhận lãnh bằng ý.
“Như lời Thế Tôn đã dạy” là nhận lãnh ý Phật nói “Như Lai là vị thí chủ lớn”, tức là nhà Như Lai;[124] “cung kính vâng theo tất cả” là nhận lãnh ý “không hề tham tiếc keo lận”, tức là y Như Lai; “xin đừng lo ngại” là nhận lãnh ý “không có sự sợ sệt”, tức là tòa Như Lai.
Phật đã 3 lần giao phó, các vị Bồ Tát cũng 3 lần nhận lãnh, tất cả đều y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
Khi ấy, đức Phật Thích-ca Mâu-ni muốn cho các vị Phật phân thân đến từ mười phương mỗi vị đều quay về cõi nước nên nói rằng: “Chư Phật mỗi vị xin tùy nơi an ổn quay về, tháp Phật Đa Bảo có thể trở lại như cũ.”
Đoạn thứ ba từ câu “Khi ấy, đức Phật Thích-ca Mâu-ni...” trở đi, việc đã hoàn tất nên nêu ý giải tán.
Phật Đa Bảo vì chứng minh kinh này mà đến, nay cả hai phần thuyết dạy về tích môn và bản môn đều đã xong, cho nên cung kính nêu việc quay về như cũ. Các vị phân thân Phật vì việc mở cửa tháp mà tập hợp đến, nay việc mở tháp đã xong nên khiến cho quay về. Tháp không thể mở ra lần nữa, cho nên các vị phân thân Phật đi rồi không còn hiện ra. Tháp này đến vì việc nghe pháp, cho nên tuy đóng cửa lại nhưng vẫn còn tại pháp hội.
Hỏi: Nếu tháp vì nghe pháp mà đến, lẽ ra không nên đóng cửa lại?
Đáp: Việc chứng minh phần chánh kinh đã xong cho nên đóng. Vì còn nghe tiếp phần lưu thông kinh, cho nên còn ở lại. Đại lược là như vậy.
KINH VĂN
Khi Phật nói ra lời ấy rồi, vô số chư Phật phân thân mười phương đang ngồi trên tòa sư tử dưới cội cây báu cùng với Phật Đa Bảo và đại chúng vô số a-tăng-kỳ Bồ Tát như Bồ Tát Thượng Hạnh…[125] bốn chúng và các vị Thanh văn như Xá-lợi-phất, cùng hết thảy chư thiên, loài người, a-tu-la… được nghe Phật thuyết dạy đều hết sức vui mừng.
Tổng đoạn thứ hai từ câu “Khi Phật nói ra lời ấy rồi” trở đi, nói việc đại chúng hoan hỷ. Chư Phật vì sự giáo hóa chúng sanh đã hoàn tất nên hoan hỷ. Các vị Bồ Tát vì sự tự thực hành đạt được chánh pháp nên hoan hỷ.
Lại nữa, người nói pháp thanh tịnh nên hoan hỷ, đó chính là đức Phật; nghe pháp thanh tịnh nên hoan hỷ, chính là kinh Diệu pháp Liên hoa này; nghe pháp có sự chứng đắc nên hoan hỷ, chính là chúng sanh trong hiện tại và đời tương lai được lợi ích. Cả ba việc đều trọn đủ nên hết sức hoan hỷ. Đại lược là như thế.
KINH VĂN
Phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của Bồ Tát Dược Vương, thứ hai mươi ba
Giải thích tên phẩm
Quán kinh nói: “[Bồ Tát Dược Vương] thuở xưa có tên gọi là Tinh Quang, theo Tôn giả Nhật Tạng nghe thuyết dạy về trí tuệ Phật, dùng loại thuốc quý trên Tuyết sơn để cúng dường chúng tăng, phát nguyện rằng: ‘Trong đời tương lai, nguyện cho con có thể trị được cả thân bệnh và tâm bệnh của chúng sanh.’ Khắp thế gian đều vui mừng xưng tên ngài là Dược Vương.”
Kinh văn phẩm này nêu việc Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến tức thời xả bỏ thân mạng, lại tự thiêu hai cánh tay, xem nhẹ mạng sống mà quý trọng chánh pháp; mạng sống mất đi, đạo pháp vẫn tồn tại.
Nêu ra việc xưa là để làm rõ việc ngày nay, cho nên gọi tên là phẩm “Hạnh nguyện thuở xưa…”. Nếu suy theo ý nghĩa này thì chuyện Tinh Quang [trong Quán kinh] có lẽ là sau Bồ Tát Hỷ Kiến, vì từ khi cúng dường thuốc men, phát khởi thệ nguyện [trị bệnh chúng sanh] đến nay mới có tên gọi là Bồ Tát Dược Vương. Đại lược là như vậy.
Kinh văn 5 phẩm từ đây về sau đều thuộc về phần lưu thông, giáo hóa chúng sanh. Phẩm này nói về bậc thầy giáo hóa chúng sanh, nguyện cho giáo pháp Đại thừa được hoằng truyền hết sức rộng rãi, phát khởi đại nguyện hết thảy chúng sanh đều được lợi ích lớn lao. Do [tâm nguyện ấy] mà vận dụng cạn kiệt sức thần, hết cả hình hài thân mạng, thành khẩn tha thiết, kiên trì chí nguyện, tiếp nối không dừng. Tiếp theo nói việc dạy đệ tử noi theo tông chỉ giáo pháp như thầy: Ta truyền pháp sáng tỏ cho các ông, các ông cũng truyền lại pháp sáng tỏ [cho đời sau]. Pháp sáng tỏ nối nhau không dứt, đó là chí nguyện của bậc thầy. Cho nên biết rằng phẩm này khuyến khích bậc thầy hoằng pháp.
Hai phẩm tiếp theo là phẩm Bồ Tát Diệu Âm và phẩm Bồ Tát Quán Thế Âm nêu việc các vị đại sĩ ở phương khác kính vâng lời Phật hoằng truyền kinh điển, sắc thân biến hiện khắp nơi, hình thể không nhất định, không thể dùng con mắt tầm thường[126] mà nhìn thấy, không thể dùng nhận thức phàm tục mà đo lường, nên đối với những chỗ được nghe chớ sinh ý tưởng khinh thường, nếu khinh thường thì pháp chẳng vào được trong tâm. Cho nên biết rằng các phẩm sau khuyến khích hàng đệ tử nhận lãnh pháp.
Có người nói, các phẩm trong phần trước nói việc chư Phật làm Phật sự, từ phẩm này về sau nói việc các Bồ Tát làm Phật sự. Đây chỉ là cách nhận hiểu phiến diện mà thôi, [vì xét kỹ] các phẩm trước cũng có Bồ Tát; các phẩm từ đây về sau cũng có chư Phật. Đại lược là như vậy.
Nay nói rõ, phẩm Phương tiện trừ bỏ ba thừa, hiển lộ Nhất thừa, nêu nhân viên mãn đã trọn vẹn. Phẩm Hạnh an vui nêu pháp nương theo thừa. Phẩm Tuổi thọ của Như Lai nêu quả của thừa đã rốt ráo. Từ phẩm này trở về sau nêu người nương theo thừa.
Cho nên, luận Thập nhị môn nói rằng: “Gọi là Đại thừa vì là chỗ nương theo của các bậc đại nhân như Văn-thù, Phổ Hiền...”[127] Phẩm Bồ Tát Dược Vương dùng sự khổ hạnh nương theo thừa, các phẩm Bồ Tát Diệu Âm và Bồ Tát Quán Thế Âm dùng pháp tam-muội để nương theo thừa, phẩm Đà-la-ni dùng pháp tổng trì để nương theo thừa, phẩm Diệu Trang Nghiêm dùng thệ nguyện để nương theo thừa, phẩm Phổ Hiền dùng thần thông để nương theo thừa. Giải thích như vậy thì phù hợp với ý nghĩa lưu thông, giáo hóa chúng sanh.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, Bồ Tát Tú Vương Hoa bạch Phật: “Thế Tôn! Bồ Tát Dược Vương đến thế giới Ta-bà như thế nào? Thế Tôn! Vị Bồ Tát Dược Vương này có bao nhiêu ngàn muôn ức na-do-tha khổ hạnh khó làm? Lành thay, Thế Tôn! Xin giảng nói một phần,[128] hàng chư thiên, rồng, thần, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và phi nhân, cùng các Bồ Tát từ phương khác đến và chúng Thanh văn ở đây nếu được nghe đều sẽ vui mừng.”
Kinh văn phẩm này có 4 phần. Thứ nhất là thưa hỏi, thứ hai là giải đáp, thứ ba là nêu lợi ích và thứ tư là đức Phật Đa Bảo khen ngợi sự tốt đẹp.
Phần thứ nhất nêu việc thưa hỏi, chia làm 3 tổng đoạn. Thứ nhất là hỏi chung về việc du hành giáo hóa, thứ hai là hỏi riêng về khổ hạnh, thứ ba là thỉnh cầu giải đáp, ý nghĩa y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
Khi ấy, đức Phật bảo Bồ Tát Tú Hoa Vương: “Vào thời quá khứ, cách đây số kiếp nhiều như số cát của vô số con sông Hằng, có đức Phật hiệu là Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật ấy có tám mươi ức vị Đại Bồ Tát và chúng đại Thanh văn nhiều bằng số cát của bảy mươi hai con sông Hằng. Đức Phật ấy sống thọ bốn mươi hai ngàn kiếp, các Bồ Tát cũng có tuổi thọ bằng như vậy. Cõi nước ấy không có nữ nhân, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la, cũng không có các nạn khổ; mặt đất bằng lưu ly, phẳng như lòng bàn tay, có cây báu trang nghiêm, màn báu che bên trên, có phướn bằng hoa báu rủ xuống, lò hương bằng bình báu ở khắp cả cõi nước; dùng bảy báu làm thành đài cao, cứ mỗi cây báu là một đài cao, cây và đài cách nhau khoảng một tầm bắn tên. Các vị Bồ Tát, Thanh văn ngồi dưới mỗi cây báu, trên mỗi đài báu có trăm ức chư thiên cúng dường bằng cách tấu nhạc trời, ca ngợi xưng tán Phật.”
Phần thứ hai nêu việc giải đáp, lại có hai tổng đoạn. Tổng đoạn thứ nhất chỉ đáp riêng về khổ hạnh, phần du hành giáo hóa thì chỉ đến tam-muội sắc thân, hoặc chỉ đến hai phẩm sau đó. Tổng đoạn thứ hai xưng tán ngợi khen kinh [Pháp hoa] này.
Tổng đoạn thứ nhất giải đáp về khổ hạnh, [chia làm 2 đoạn]. Đoạn thứ nhất kể lại nguồn gốc sự việc thuở xưa. Đoạn thứ hai kể rõ sự việc thuở xưa.
Đoạn thứ nhất chia làm 3 tiểu đoạn. Thứ nhất nêu thời gian, thứ hai kể [danh hiệu] Phật và đại chúng Thanh văn, thứ ba nói về cõi nước v.v. Tất cả đều y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
“Lúc ấy, đức Phật vì Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến cùng chúng Bồ Tát và chúng Thanh văn mà thuyết kinh Pháp hoa.”
Đoạn thứ hai kể rõ sự việc [khổ hạnh] thuở xưa, lại có 3 tiểu đoạn.
Tiểu đoạn thứ nhất kể việc Phật thuyết pháp; tiểu đoạn thứ hai, kể việc [Bồ Tát tu khổ hạnh rồi nghĩ] nên cúng dường; tiểu đoạn thứ ba là kết lại và nói sự tương hợp [giữa việc thuở xưa với ngày nay]. Thế nhưng Phật [thuyết pháp] vì tất cả chúng sanh, sao chỉ nói riêng Bồ Tát [Nhất Thiết Chúng Sanh] Hỷ Kiến? Việc này là vì phải nêu lên sự đối đáp cần thiết để giao phó lưu thông [kinh điển], cũng như với ngài Xá-lợi-phất ngày nay, [tuy đức Phật chỉ] ký thác một người nhưng là nói với tất cả.
KINH VĂN
“Vị Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến này ưa chuộng sự tu tập khổ hạnh, ở trong Phật pháp của đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức mà tinh tấn kinh hành, một lòng cầu quả Phật, trải qua mười hai ngàn năm thì đạt được pháp tam-muội Hiện nhất thiết sắc thân. Đạt được tam muội này rồi, trong tâm rất vui mừng, liền nghĩ rằng: ‘Ta được tam-muội Hiện nhất thiết sắc thân là nhờ sức nghe kinh Pháp hoa. Nay ta nên cúng dường đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức và kinh Pháp hoa.’
“Nghĩ rồi liền nhập pháp tam-muội ấy, hóa hiện giữa không trung mưa xuống hoa mạn-đà-la, hoa đại mạn-đà-la, bột chiên đàn kiên hắc[129] đầy khắp cả không trung, tụ lại như mây rồi rơi xuống; lại mưa xuống hương chiên đàn hải ngạn,[130] sáu thù[131] hương này có giá trị bằng cả thế giới Ta-bà, đều để cúng dường đức Phật.
“Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến cúng dường như vậy xong rồi, ra khỏi tam-muội lại tự nghĩ rằng: ‘Ta tuy đã dùng sức thần thông cúng dường đức Phật, nhưng không bằng lấy thân mình cúng dường.’
“Nghĩ rồi liền ăn vào các loại hương chiên đàn, huân lục,[132] đâu-lâu-bà,[133] tất-lực-ca,[134] trầm thủy, giao hương,[135] lại uống các loại dầu hương hoa như hoa chiêm bặc v.v. trải qua mười hai ngàn năm,[136] dùng dầu thơm thoa khắp trên thân, đến trước đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức, dùng y báu cõi trời tự quấn quanh thân, rưới lên các loại dầu thơm, rồi dùng sức thần thông tự đốt cháy thân mình, ánh sáng soi chiếu khắp các thế giới nhiều như số cát của tám mươi ức con sông Hằng. Chư Phật trong các thế giới ấy đồng thời khen ngợi rằng: ‘Lành thay, lành thay! Thiện nam tử, như vậy là thực sự tinh tấn, như vậy gọi là pháp chân thật cúng dường Như Lai. Nếu dùng hoa, hương, chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột, hương thoa, lụa trời, phướn lọng cùng hương chiên-đàn hải ngạn, những phẩm vật cúng dường như thế đều không thể sánh bằng; giả sử dùng cả thành ấp, đất nước, vợ con để cúng dường[137] cũng không thể sánh bằng. Này thiện nam tử! Đây gọi là bố thí bậc nhất, cao trổi nhất, đáng tôn trọng nhất trong các pháp bố thí, vì đã dùng pháp để cúng dường các đức Như Lai.’
“Sau khi khen ngợi như vậy rồi, các đức Phật đều an nhiên tịch lặng. Thân thể Bồ Tát tiếp tục cháy như vậy sau một ngàn hai trăm năm[138] mới hết.”
Tiểu đoạn thứ hai nói việc Bồ Tát tu khổ hạnh lại có 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất nêu việc khổ hạnh trong hiện tại, phân đoạn thứ hai nêu việc khổ hạnh trong tương lai.
Phân đoạn thứ nhất nói việc khổ hạnh trong hiện tại, chia ra làm 2 ý.
Ý thứ nhất kể việc [Bồ Tát] tu hành chứng đắc pháp [tam-muội]; ý thứ hai nói việc tự nghĩ nên báo ân.
Ý thứ hai nói việc muốn báo ân lại có 2 tiểu ý. Thứ nhất là dùng sức tam-muội; thứ hai là gắng sức dùng thân báo ân. Tiểu ý dùng thân báo ân lại có 3 điều. Thứ nhất là tự thiêu thân; thứ hai là được Phật ngợi khen xưng tán; thứ ba là nói về thời gian.
Nói về pháp cúng dường chân thật thì bên trong vận dụng trí tuệ quán sát nhân quả phiền não, tất cả đều dùng trí tuệ hiểu về tánh không để tẩy rửa sạch, cho nên gọi là pháp chân thật. Lại quán xét rằng dù là thân mình hay lửa đang cháy, dù người cúng dường hay thân là vật cúng dường cũng đều là tướng chân thật; ai là người thiêu, cái gì đốt cháy, người cúng dường, vật cúng dường, thảy đều không thể nắm bắt, cho nên gọi là pháp chân thật.
KINH VĂN
“Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến cúng dường theo pháp như vậy rồi, sau khi mạng chung lại tái sinh vào cõi nước có đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức, nơi nhà của đức vua Tịnh Đức, bỗng dưng hóa sinh trong tư thế ngồi kết già, liền vì vua cha mà nói kệ rằng:
‘Nay phụ vương nên biết,
Đường tu tập con đi,
Là được pháp Tam-muội
Hiện Nhất Thiết Sắc Thân;
Rồi tinh tấn, chuyên cần,
Buông bỏ thân luyến ái,
Cúng dường lên Thế Tôn,
Cầu trí tuệ Vô thượng.’
“Nói kệ như vậy rồi lại thưa với vua cha: ‘Hiện nay có đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức đang ở đời, trước đây con cúng dường Phật ấy nên đạt được pháp đà-la-ni Giải nhất thiết chúng sinh ngữ ngôn,[139] lại được nghe tám trăm ngàn muôn ức na-do-tha chân-ca-la tần-bà-la a-súc-bà[140] bài kệ trong kinh Pháp hoa. Thưa phụ vương! Con nay sẽ quay lại cúng dường đức Phật ấy.”
“Sau khi thưa cha như vậy rồi, Bồ Tát liền ngồi trên đài bảy báu, bay lên hư không, cao bằng bảy cây đa-la, rồi bay đến chỗ đức Phật, đầu và mặt cúi lễ sát chân Phật, chắp tay cung kính đọc kệ xưng tán Phật:
‘Tôn nhan rất diệu kỳ,
Hào quang chiếu mười phương,
Trước đây con cúng dường,
Nay lại được thân cận.’
“Bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến đọc kệ như vậy rồi liền bạch Phật: ‘Thế Tôn! Nay Thế Tôn vẫn còn ở đời!’
“Khi ấy, đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức bảo Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến: ‘Này thiện nam! Đã đến lúc ta nhập Niết-bàn, đến giờ diệt độ rồi. Ông nên sắp xếp chỗ giường nằm, trong đêm nay ta sẽ nhập Niết-bàn.’
“Đức Phật lại dạy Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến: ‘Này thiện nam! Nay ta đem Phật pháp giao phó lại cho ông và các đại đệ tử Bồ Tát, cùng với pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; lại cũng đem tất cả cây báu, đài báu cùng chư thiên theo hầu cận trong thế giới đại thiên bằng bảy báu này, tất cả đều giao phó lại cho ông. Sau khi ta diệt độ rồi, xá-lợi của ta cũng giao phó cho ông, nên lưu truyền mọi nơi, tổ chức cúng dường rộng khắp; nên xây lên hàng ngàn tháp để thờ kính.’
“Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức dạy Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến như vậy rồi, khoảng sau nửa đêm liền nhập Niết-bàn.
“Khi ấy, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến thấy Phật đã diệt độ rồi, trong lòng bi thương xúc động, buồn khổ lưu luyến, liền dùng chiên đàn hải ngạn dựng lên thành giàn, cúng dường thân Phật rồi đốt lửa để thiêu. Sau khi lửa tàn liền thu nhặt xá-lợi, đặt vào tám mươi bốn ngàn bình báu, lại dựng lên tám mươi bốn ngàn tháp thờ, cao đến cõi Phạm thiên,[141] có cột phướn trang nghiêm, treo cờ phướn, lọng che và nhiều chuông báu.
“Lúc bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến lại tự nghĩ: ‘Ta tuy đã cúng dường như thế này nhưng trong lòng vẫn thấy còn chưa đủ. Nay ta nên cúng dường xá-lợi Phật thêm nữa.’
“Nghĩ rồi liền bảo các vị đại đệ tử Bồ Tát cùng chư thiên, rồng, dạ-xoa… và hết thảy đại chúng: ‘Các ông hãy một lòng chú tâm, nay chúng ta nên cúng dường xá-lợi của đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức.’
“Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến nói như vậy rồi liền ở trước tám mươi bốn ngàn tháp thờ xá-lợi Phật tự đốt hai cánh tay có đủ trăm phước tướng trang nghiêm trong suốt bảy mươi hai ngàn năm để cúng dường, khiến cho vô số chúng cầu quả Thanh văn, vô số a-tăng-kỳ người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nhân đó đều được trụ nơi pháp tam-muội Hiện Nhất Thiết Sắc Thân.
“Khi ấy, các vị Bồ Tát, chư thiên, người cùng các loài a-tu-la… nhìn thấy Bồ Tát không còn cánh tay thì đau buồn sầu khổ, thương cảm than thở rằng: “Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến là vị thầy của chúng ta, giáo hóa chúng ta, mà nay thiêu cháy mất hai tay, trở thành người có thân thể bất toàn.”
“Lúc bấy giờ, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến ở giữa đại chúng lập thệ nguyện rằng: ‘Tôi xả bỏ hai cánh tay [đốt lên cúng dường xá-lợi Phật], quyết định rồi sẽ được thân sắc vàng của Phật. Nếu điều này là đúng thật không hư dối, nguyện cho hai tay của tôi trở lại như cũ.’ Vừa lập nguyện xong, hai cánh tay liền tự nhiên trở lại như cũ. Đó là do phước đức và trí tuệ trong sáng sâu dày của Bồ Tát mà thành. Ngay vào lúc ấy, khắp thế giới đại thiên mặt đất đều chấn động theo sáu cách, trời mưa xuống hoa báu, hết thảy chư thiên, nhân loại đều cho là việc chưa từng có.”
Phân đoạn thứ hai nói về khổ hạnh trong tương lai, từ câu “Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến cúng dường theo pháp như vậy rồi” trở đi. Phần này lại chia ra làm 5 ý. Thứ nhất là sanh vào nhà đức vua, thứ hai là tự nói việc trước đây của mình; thứ ba là tìm đến chỗ Phật; thứ tư là đức Như Lai giao phó dặn dò; thứ năm là vâng lời Phật nhận lãnh giữ gìn. Tất cả đều y theo kinh văn có thể hiểu được.
Phần nhận lãnh giữ gìn lại có 4 tiểu ý. Thứ nhất là xây dựng tháp, thứ hai là thiêu cánh tay cúng dường, thứ ba là được lợi ích, thứ tư là phước báo ngay trong hiện tại. Tất cả đều y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
Đức Phật bảo Bồ Tát Tú Vương Hoa: “Ý ông nghĩ sao? Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến đó nào phải ai xa lạ, nay chính là Bồ Tát Dược Vương. Bồ Tát xả thân bố thí như vậy đã nhiều đến vô lượng trăm ngàn muôn ức na-do-tha lần.
“Này Tú Vương Hoa! Nếu có người phát tâm cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có thể đốt một ngón tay, cho đến một ngón chân cúng dường tháp thờ Phật thì hơn cả việc cúng dường thành ấp đất nước, vợ con cùng núi rừng sông hồ, các món báu vật khắp các cõi nước trong thế giới đại thiên.
Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Đức Phật bảo Bồ Tát Tú Vương Hoa” trở đi, tóm kết và nêu sự tương hợp giữa việc thuở xưa với ngày nay, chia làm 2 phân đoạn. Thứ nhất là tóm kết nêu sự tương hợp; thứ hai là khuyến khích tu hành. Phần khuyến khích tu hành nói “có thể đốt một ngón tay” hơn cả việc xả bỏ tài vật ngoài thân, vì vật ngoài thân là nhẹ, trong thân là nặng, cho nên công đức và phước báu khác nhau. Kinh văn nói “vợ con” tức là ngoài thân, nói “thành ấp đất nước” là tài vật bên ngoài.
KINH VĂN
“Lại nếu như có người dùng bảy món báu đầy khắp thế giới đại thiên để cúng dường lên Phật cùng các vị Đại Bồ Tát, Duyên giác, A-la-hán thì công đức của người ấy không bằng thọ trì kinh Pháp hoa này, thậm chỉ chỉ một bài kệ bốn câu cũng được phước nhiều nhất.
Tổng đoạn thứ hai từ câu “Lại nếu như có người dùng bảy món báu” trở đi là tán thán kinh điển, chia làm 3 đoạn. Đoạn thứ nhất xưng tán người thọ trì kinh. Đoạn thứ hai xưng tán kinh điển là giáo pháp được thọ trì. Đoạn thứ ba nêu việc thọ trì kinh được phước đức sâu xa.
[Kinh văn nói] dùng bảy món báu cúng dường bốn bậc thánh[142] cũng không bằng thọ trì một bài kệ [trong kinh]. Vì pháp là thầy của bậc thánh, có thể sanh ra, có thể nuôi dưỡng, có thể thành tựu, có thể phát triển, không có gì hơn được pháp. Cho nên [so sánh] xem nhẹ người, xem trọng pháp.
KINH VĂN
“Này Tú Vương Hoa! Giống như trong tất cả những nơi có nước như sông ngòi, khe suối… thì biển là lớn nhất, kinh Pháp hoa này cũng vậy, là sâu xa quan trọng nhất trong tất cả những kinh Như Lai đã thuyết dạy.
“Lại giống như Thổ sơn, Hắc sơn, núi Thiết vi, núi Đại Thiết vi cùng mười ngọn núi báu, trong tất cả các loại núi thì núi Tu-di là cao hơn hết, kinh Pháp hoa này cũng vậy, là cao thượng hơn hết trong tất cả các kinh.”
Đoạn thứ hai từ câu “Này Tú Vương Hoa” trở đi là tán thán giáo pháp được thọ trì, chia làm 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất xưng tán tánh thể của pháp; tiểu đoạn thứ hai xưng tán công năng hoạt dụng của pháp.
“Trong tất cả những nơi có nước như sông ngòi, khe suối… thì biển là lớn nhất.” Kinh Vô lượng nghĩa dùng bốn nguồn nước để ví với giáo pháp.[143] Trong phẩm Thí dụ cỏ thuốc dùng một đám mây có thể mưa xuống làm thí dụ để giảng thuyết. Nay [kinh này] nói “trong tất cả những nơi có nước” là nói chung hết thảy các giáo pháp, lại nêu riêng 4 loại [sông, ngòi, khe, suối] là ví cho 4 vị của giáo pháp như sữa (nhũ), sữa đặc (lạc), bơ sống (sinh tô), bơ chín (thục tô). Giáo pháp kinh Pháp hoa này ví như biển lớn là vị đề-hồ. Thuyết giảng đến tận cùng bản địa là sâu, biến hiện khắp thảy mọi nơi là lớn, chỉ toàn nêu Phật pháp là vị mặn, không nói các pháp khác. Sâu xa nhất, lớn lao nhất là ý nghĩa như vậy.
Tên gọi mười ngọn núi báu, xem trong kinh Hoa Nghiêm và các kinh khác. Đại lược là như vậy. “Thổ sơn, Hắc sơn, núi Thiết vi” tất nhiên không phải núi báu. Mười ngọn núi báu, tuy là báu nhưng vẫn có một hai loài rồng, thần cư ngụ lẫn lộn. Riêng núi Tu-di được hình thành bằng bốn món báu, chỉ toàn là chư thiên cư ngụ. Đây là ví dụ các giáo pháp khác thuyết dạy nương theo Thập địa, bốn mươi tâm,[144] hoặc phàm hoặc hiền hoặc thánh; thuyết dạy chỗ nương theo thì hoặc tục, hoặc chân, hoặc trung. Như vậy đều là thấp hèn, so với kinh Pháp hoa này thuyết dạy các chân lý thường, lạc, ngã, tịnh, ví như bốn món báu hợp thành. Lấy “khai, thị, ngộ, nhập” làm chỗ nương theo, cho nên ý nghĩa này là cao thượng nhất.
KINH VĂN
“Giống như so với tất cả các ngôi sao, mặt trăng là sáng hơn hết, kinh Pháp hoa này cũng vậy, là soi chiếu sáng suốt hơn hết trong ngàn muôn ức loại kinh điển giáo pháp.
“Lại cũng như mặt trời có thể xua tan bóng tối, kinh Pháp hoa này cũng vậy, có thể phá trừ hết thảy bóng tối của tất cả những sự bất thiện.
Mặt trăng và sao đều là thuần âm, hiện ra vào ban đêm. Sao không có lúc đầy lúc khuyết, không sánh bằng mặt trăng. Các kinh khác dạy rằng trí quyền thừa không được tự tại; kinh này nêu rõ quyền tức là thật, thật tức là quyền, đủ hai tướng đầy khuyết chỉ ra không phân hai mà là hai. Thuyết về quyền trí như vậy vượt hơn các giáo pháp khác.
Mặt trời là thuần dương, duy nhất có khả năng phá trừ sự tối tăm. Các kinh khác nêu trí chân thật phá trừ nghi hoặc, vẫn không bằng được nghĩa ngay nơi thật đó là quyền, huống chi gồm cả nghĩa ngay nơi quyền đó là thật. Cho nên biết rằng kinh này nêu trí chân thật vượt hơn tất cả.
KINH VĂN
“Giống như ở giữa các vị tiểu vương thì Chuyển luân Thánh vương là bậc nhất, kinh Pháp hoa này cũng vậy, là tôn quý nhất trong tất cả các kinh.
“Giống như Đế thích là vua trong cõi trời Đao-lợi, kinh Pháp hoa này cũng vậy, là vua trong tất cả các kinh.
“Giống như Đại phạm Thiên vương là cha trong cõi trời Đao-lợi, kinh Pháp hoa này cũng vậy, là cha của hết thảy các bậc hiền thánh, hữu học, vô học cùng những người phát tâm Bồ Tát.
“Giống như trong tất cả phàm phu, các vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Duyên giác là bậc nhất, kinh Pháp hoa này cũng vậy, là bậc nhất trong tất cả những kinh điển Như Lai thuyết dạy, hoặc Bồ Tát thuyết dạy, hoặc Thanh văn thuyết dạy; người có thể thọ trì kinh Pháp hoa này cũng vậy, là bậc nhất trong tất cả chúng sanh.”
Hiệu lệnh của vị Luân vương chỉ dừng trong phạm vi bốn cõi thiên hạ. Lệnh của vị Đế thích có hiệu lực ngang cõi trời ba mươi ba. Lệnh của vị Phạm vương có uy lực bao trùm từ trên xuống dưới. Đây là để ví như các kinh khác thuyết dạy về tam đế, tam-muội, đều không thâu nhiếp lẫn nhau, không được tự tại. Chỗ thuyết dạy của kinh Pháp hoa này dùng thật tướng thể nhập chân thật, quyết định rõ ràng về pháp Thanh văn, là vua trong tất cả các kinh. Dùng thật tướng thể nhập thế tục thì hết thảy mọi sự mưu sinh hay xây dựng sự nghiệp đều không có sự mâu thuẫn trái nghịch. Dùng thật tướng thể nhập trung đạo thì hết thảy các pháp đều là Phật pháp. Kinh văn nói “kinh Pháp hoa này… là cha của hết thảy các bậc hiền thánh, hữu học, vô học cùng những người phát tâm Bồ Tát”, ý nghĩa là như vậy.
“Giống như trong tất cả phàm phu, các vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Duyên giác là bậc nhất.” Ở đây nói rõ sự thuận theo tự nhiên, không cần dụng công. Các kinh khác [thuyết dạy] phải nhờ vào sự dụng công mới thể nhập vào dòng thánh, như hàng tứ quả đều nhân nơi văn, tư, tu mới có thể giác ngộ. Kinh này nêu rõ Vô tác tứ đế, không xen lẫn phương tiện, tự nhiên chảy vào biển Nhất thiết trí, như “trâu trắng lớn có màu da thuần khiết, hình thể mập mạp xinh đẹp, gân cốt bắp thịt nở nang mạnh mẽ, bước đi ngay ngắn, lướt nhanh như gió”. Đại lược là như thế.
KINH VĂN
“Giống như trong tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác thì Bồ Tát là bậc nhất, kinh Pháp hoa này cũng vậy, là bậc nhất trong tất cả kinh điển, giáo pháp.
“Giống như Phật là vua trong các pháp, kinh Pháp hoa này cũng vậy, là vua trong tất cả các kinh.
“Trong tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác thì Bồ Tát là bậc nhất.” Đây là nêu rõ nhân [tu hành] bậc nhất. Các kinh khác nói nhân tu hành là bảy hạng phương tiện, kinh này nói nhân tu hành vượt ngoài mọi phương tiện, cho nên nói là nhân tu hành bậc nhất.
“Phật là vua trong các pháp”, đây là nêu về quả vị [bậc nhất]. Các kinh khác nêu quả vị gần, [chứng đắc] nơi đạo tràng tịch diệt. Kinh này nêu quả vị xa, chỉ đến bản địa [từ xa xưa] nên là bậc nhất.
KINH VĂN
“Này Tú Vương Hoa! Kinh này có thể cứu độ hết thảy chúng sanh; kinh này có thể khiến cho hết thảy chúng sanh xa lìa khổ não; kinh này có thể làm lợi ích lớn lao cho hết thảy chúng sanh; giúp chúng sanh thành tựu đầy đủ tâm nguyện của họ. Giống như hồ nước trong mát có thể thỏa mãn tất cả những người đang khát; như người đang rét lạnh gặp được lửa; như người lõa lồ gặp được y phục; như những người đi buôn xa gặp được trưởng đoàn; như con được gặp mẹ; như người qua sông gặp được con thuyền; như người bệnh gặp được thầy thuốc; như khi tối tăm gặp được ngọn đèn; như người nghèo gặp được của báu; như dân thường gặp được đức vua; như người đi buôn xa gặp được biển rộng;[145] như ngọn đuốc xua tan bóng tối; kinh Pháp hoa này cũng vậy, có thể giúp chúng sanh xa lìa tất cả khổ não, tất cả bệnh tật đau đớn, có thể tháo mở tất cả những trói buộc của sinh tử.
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Này Tú Vương Hoa! Kinh này có thể cứu độ” trở đi, xưng tán công năng hoạt dụng của pháp, chia làm 3 phân đoạn. Thứ nhất là tán thán công dụng dứt trừ khổ não. Thứ hai là nêu 12 việc, tán thán công dụng mang lại an vui. Cuối cùng là tóm kết, tất cả đều y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
“Nếu ai được nghe kinh Pháp hoa này rồi tự mình sao chép hoặc bảo người khác sao chép, người ấy đạt được công đức mà dù có dùng trí tuệ Phật để suy lường nhiều ít cũng không thể đạt đến giới hạn.
“Nếu có người sao chép kinh Pháp hoa này rồi dùng hoa, hương, chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột, hương thoa, phướn lọng, y phục, đủ mọi loại đèn như đèn bơ, đèn dầu, đèn thắp bằng dầu thơm, các loại dầu hoa chiêm-bặc, tu-mạn-na, ba-la-la, ba-lợi-sư-ca, na-bà-ma-lợi để cúng dường, thì công đức đạt được cũng không hạn lượng.
“Này Tú Vương Hoa! Nếu có người được nghe phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của Bồ Tát Dược Vương này, cũng đạt được vô lượng vô biên công đức.
“Nếu có người nữ được nghe phẩm kinh này rồi có thể thọ trì, thì sau khi đã hết thân nữ này, về sau không sinh làm thân nữ nữa.
“Năm trăm năm sau khi Như Lai diệt độ, nếu có người nữ được nghe kinh Pháp hoa này, theo đúng lời dạy tu hành, khi người ấy mạng chung sẽ được vãng sinh về thế giới An Lạc, trụ xứ của đức Phật A-di-đà với chúng Đại Bồ Tát vây quanh. Người ấy sinh ra ngồi trên tòa báu ở giữa hoa sen, [không còn thân nữ,] không còn bị tham dục gây phiền não, cũng không bị sân hận, ngu si gây phiền não, cũng không bị những cấu nhiễm như kiêu mạn, tật đố gây phiền não, được pháp thần thông của Bồ Tát, đạt được pháp nhẫn vô sinh. Đạt pháp nhẫn này rồi, nhãn căn được thanh tịnh; nhờ nhãn căn thanh tịnh nên thấy được các đức Phật Như Lai nhiều như số cát của bảy trăm mười hai ngàn ức na-do-tha con sông Hằng.
“Khi ấy, chư Phật đều từ xa cùng khen ngợi: ‘Lành thay, lành thay, thiện nam tử! Ông có thể ở trong pháp của đức Phật Thích-ca Mâu-ni mà thọ trì, tụng đọc, suy ngẫm kinh Pháp hoa này, vì người khác giảng nói, đạt được phước đức vô lượng vô biên, lửa không thể thiêu cháy, nước không thể cuốn trôi. Công đức của ông cho dù cả ngàn đức Phật cùng diễn nói cũng không nêu ra hết được. Nay ông có thể phá hết bọn giặc ma, trừ dứt quân sinh tử, những oán cừu thù địch khác cũng đều bị phá dẹp. Này thiện nam tử! Trăm ngàn đức Phật đều dùng sức thần thông để cùng che chở bảo vệ cho ông. Trong hàng trời, người ở khắp thế gian không ai được như ông. Trừ ra đức Như Lai, còn những hàng Thanh văn, Duyên giác cho đến hàng Bồ Tát đều không có trí tuệ thiền định sánh được như ông.’
“Này Tú Vương Hoa! Vị Bồ Tát [thọ trì kinh Pháp hoa] thành tựu được công đức, sức trí tuệ như vậy. Nếu có người được nghe phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của Bồ Tát Dược Vương này, có thể tùy hỷ khen ngợi xưng tán, người ấy ngay trong đời này thường tỏa ra hương thơm hoa sen xanh từ miệng, thường tỏa hương thơm chiên-đàn Ngưu đầu từ các lỗ chân lông trên thân, và đạt được những công đức như trên đã nói.
“Vì thế, này Tú Vương Hoa, nay ta đem phẩm kinh này giao phó lại cho ông. Trong khoảng năm trăm năm sau khi ta diệt độ, hãy lưu truyền rộng khắp trong cõi Diêm-phù-đề, đừng để dứt mất khiến cho những kẻ xấu ác trong bọn ma, dân ma, trời, rồng, dạ-xoa, cưu-bàn-trà… được thuận tiện phát triển.
“Này Tú Vương Hoa! Ông nên dùng sức thần thông để giữ gìn, bảo vệ kinh Pháp hoa này. Vì sao vậy? Vì kinh này là liều thuốc hay chữa bệnh cho người trong cõi Diêm-phù-đề. Nếu người có bệnh mà được nghe kinh này liền dứt bệnh, không già không chết.
“Này Tú Vương Hoa! Nếu ông gặp người thọ trì kinh này, nên dùng bột hương trầm ướp hoa sen xanh cung kính rải lên người ấy. Rải lên rồi liền khởi ý nghĩ rằng: ‘Người này không bao lâu nhất định sẽ trải cỏ ngồi nơi đạo trường, phá trừ quân ma, sẽ thổi tù và chánh pháp, đánh trống pháp lớn, đưa tất cả chúng sanh vượt thoát biển sinh già bệnh chết.’ Cho nên, người cầu đạo Phật gặp người thọ trì kinh điển nên sinh tâm cung kính như vậy.”
Đoạn thứ ba từ câu “Nếu ai được nghe kinh Pháp hoa này” trở đi, nêu rõ việc trì kinh được phước đức sâu xa, chia làm 2 tiểu đoạn. Thứ nhất, nêu phước đức của việc thọ trì toàn văn kinh. Thứ hai, nêu phước đức của việc thọ trì phẩm [Hạnh nguyện thuở xưa của Bồ Tát Dược Vương] này.
Kinh văn phần này có suy lường phúc đức, có giao phó [riêng phẩm kinh này và toàn bộ kinh], tất cả đều y theo kinh văn có thể hiểu được.
“Thường tỏa ra hương thơm hoa sen xanh từ miệng” là phước báo ngay trong hiện tại. Các việc khác đều là phước báo đời sau.
“Được nghe kinh này liền dứt bệnh, không già không chết.” Câu này nên quán xét để hiểu. Không già là lạc, không chết là thường; được nghe kinh này thì hiểu rõ về [ý nghĩa] thường, lạc, trong lòng thanh thản an nhiên không còn gì lo sợ nữa.
KINH VĂN
Khi Phật thuyết phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của Bồ Tát Dược Vương, có tám mươi bốn ngàn Bồ Tát đạt được pháp đà-la-ni Nhận hiểu tất cả ngôn ngữ của chúng sanh.
Đức Như Lai Đa Bảo trong tháp báu khen ngợi Bồ Tát Tú Vương Hoa rằng: “Lành thay, lành thay, Tú Vương Hoa! Ông đã thành tựu được công đức không thể nghĩ bàn, có thể thưa hỏi Phật Thích-ca Mâu-ni việc như vậy, làm lợi ích cho vô số hết thảy chúng sanh.”[146]
Phần thứ ba từ câu “Khi Phật thuyết phẩm…” trở đi, nêu việc thính chúng nghe kinh được lợi ích, y theo kinh văn có thể hiểu được.
Phần thứ tư từ “Đức Như Lai Đa Bảo…” nêu việc đức Phật Đa Bảo xưng tán điều tốt đẹp, y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
Phẩm Bồ Tát Diệu Âm, thứ hai mươi bốn
Giải thích tên phẩm
Nội dung kinh văn tự có phần giải thích. Thuở xưa [Bồ Tát] cúng dường Phật Vân Lôi Âm Vương trăm ngàn loại kỹ nhạc, ngày nay du hành giáo hóa đến cõi khác thì có âm nhạc tự nhiên xuất hiện theo. Thuở xưa cúng dường tám mươi bốn ngàn bình bát quý báu, ngày nay có tám mươi bốn ngàn vị Bồ Tát là pháp khí[147] quyến thuộc vây quanh. Thuở xưa đạt được pháp tam-muội Giải nhất thiết chúng sanh ngữ ngôn,[148] nay dùng [tam-muội Hiện Nhất Thiết Sắc Thân] biến hiện khắp nơi, dùng âm thanh vi diệu vang dội khắp mười phương để hoằng truyền giáo pháp này, cho nên gọi là phẩm Bồ Tát Diệu Âm.
Phẩm này nêu rõ việc Bồ Tát dùng năng lực khó nghĩ bàn để tùy theo hạng loại chúng sanh mà lưu thông kinh điển. Chúng sanh nhìn thấy hình tích mà không suy lường bản nguyên, chỉ bằng lòng với mùi vị mà không biết chọn lựa hình thể, cho nên phải ở nơi địa vị thấp hèn mà tự làm ngưng trệ dòng chảy [của diệu pháp]. Đây tức là ý thứ hai trong pháp môn giáo hóa chúng sanh.
Kinh văn phẩm này có 6 tổng đoạn. Thứ nhất [nêu việc Phật] phóng quang về phương đông để triệu tập; thứ hai, [Bồ Tát] vâng mệnh từ phương tây tìm đến; thứ ba, nêu việc [Bồ Tát Diệu Âm] hoằng truyền kinh điển này trong khắp mười phương; thứ tư, nêu việc ở hai cõi nước đều được lợi ích; thứ năm, [Bồ Tát Diệu Âm] quay về cõi nước của mình; thứ sáu, nêu việc người nghe phẩm kinh này được tiến bộ trên đường đạo.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, đức Phật Thích-ca Mâu-ni phóng chiếu hào quang từ tướng nhục kế của bậc đại nhân,[149] cùng phóng hào quang từ tướng bạch hào giữa hai chân mày, soi khắp các thế giới của chư Phật về phương đông nhiều như số cát của tám trăm muôn ức na-do-tha con sông Hằng. Qua khỏi số thế giới ấy có thế giới tên là Tịnh Quang Trang Nghiêm, ở đó có đức Phật hiệu là Tịnh Hoa Tú Vương Trí Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, đang thuyết pháp cho vô lượng vô biên các vị Đại Bồ Tát cung kính vây quanh. Hào quang từ tướng bạch hào giữa hai chân mày của Phật Thích-ca Mâu-ni soi chiếu khắp thế giới ấy.
Tổng đoạn thứ nhất, “tướng nhục kế của bậc đại nhân” là biển tướng tốt. Công đức của tất cả những sợi lông trên toàn thân [Phật] không bằng công đức của một vẻ đẹp [trong 80 vẻ đẹp]. Công đức của 80 vẻ đẹp không bằng công đức của một tướng tốt [trong 32 tướng]. Công đức của các tướng [trên thân Phật] tính từ phía dưới, càng lên trên thì càng thù thắng hơn, tất cả bên dưới đều không bằng công đức của tướng bạch hào.[150] Công đức của tướng bạch hào lại không bằng công đức của tướng nhục kế [trên đỉnh đầu Phật]. Cho nên gọi là tướng của bậc đại nhân. Duyên nghiệp của tướng này là nhờ sự hiếu thuận với các bậc sư trưởng [trong quá khứ] mà có, nay phóng hào quang để triệu tập đệ tử ngày xưa, sai khiến hoằng truyền kinh điển trung đạo làm lợi ích cho người có căn cơ Đại thừa.
Bạch hào khởi lên từ một đạo thanh tịnh, nay phóng ra hào quang để khiến cho truyền rộng giáo pháp này.
Hỏi: Mỗi một tướng tốt của Phật đều là biển pháp giới, vì sao lại nói có hơn kém?
Đáp: Vì các kinh khác có nêu ra nên mới nói như vậy mà thôi.
Hỏi: Đệ tử hữu duyên của Phật ở khắp cả mười phương, vì sao lại nói việc triệu tập từ phương đông sang thuyết giảng ở phương tây, không bàn đến tám phương khác sao?
Đáp: Điều này có ý nghĩa biểu trưng. Kinh Tịnh Danh nói: “Mặt trời, mặt trăng do ý nghĩa gì mà đi qua cõi Diêm-phù-đề? Là vì muốn dùng ánh sáng phá trừ tăm tối.” Phương đông là nơi ánh sáng khởi đầu, phương tây là nơi chấm dứt. Có khởi đầu, có kết thúc, chỉ có thể là bậc thánh mà thôi. Người chưa phát tâm thì khiến cho phát tâm, kẻ chưa đạt được rốt ráo thì khiến cho được rốt ráo. Một vị Bồ Tát đã như vậy thì các chúng khác cũng như vậy, một phương đã như vậy thì các phương khác cũng như vậy. Bậc thánh không dùng văn rườm rà, nêu một ý để bao quát hết thảy. Cho nên chỉ nói đến hai phương đông tây mà thôi.
KINH VĂN
Khi ấy, cõi thế giới Nhất Thiết Tịnh Quang Trang Nghiêm có một vị Bồ Tát hiệu là Diệu Âm,[151] từ lâu trồng sâu các gốc công đức, gần gũi cúng dường vô số trăm ngàn muôn ức đức Phật nên đã thành tựu trọn vẹn trí tuệ thâm sâu, đạt được các pháp tam-muội như Diệu tràng tướng, Pháp hoa, Tịnh đức, Tú vương hý, Vô duyên, Trí ấn, Giải nhất thiết chúng sanh ngữ ngôn, Tập nhất thiết công đức, Thanh tịnh, Thần thông du hý, Tuệ cự, Trang nghiêm vương, Tịnh quang minh, Tịnh tạng, Bất cộng, Nhật toàn…[152] Ngài được các pháp đại tam-muội như vậy, nhiều như số cát của trăm ngàn muôn ức con sông Hằng.
“Khi hào quang của đức Phật Thích-ca Mâu-ni chiếu đến thân của Bồ Tát Diệu Âm, ngài liền thưa với Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí: ‘Bạch Thế Tôn! Nay con sẽ đến thế giới Ta-bà để lễ bái, gần gũi cúng dường đức Phật Thích-ca Mâu-ni cùng gặp gỡ Pháp vương tử Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi, Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Dũng Thí, Bồ Tát Tú Vương Hoa, Bồ Tát Thượng Hạnh Ý, Bồ Tát Trang Nghiêm Vương, Bồ Tát Dược Thượng.’
“Bấy giờ, đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí bảo Bồ Tát Diệu Âm: ‘Ông đừng xem thường cõi nước ấy mà có ý cho là thấp kém. Thiện nam tử! Thế giới Ta-bà ấy cao thấp không bằng phẳng, đất đá núi đồi, đầy dẫy những thứ dơ nhớp xấu xa, thân Phật ở đó nhỏ bé, thân hình các Bồ Tát cũng nhỏ, còn thân ông cao bốn mươi hai ngàn do-tuần, thân ta cao sáu trăm tám mươi muôn do-tuần; thân ông đoan chính bậc nhất, hình sắc sáng suốt đẹp đẽ, cho nên khi đến đó đừng xem thường cõi nước ấy rồi đối với Phật, Bồ Tát hoặc cõi Phật ấy cho là thấp kém.’”
Tổng đoạn thứ hai nêu việc phát khởi đi đến [cõi Ta-bà], kinh văn có 2 đoạn. Thứ nhất là nói nhân duyên phát khởi đi đến; thứ hai là nói việc chính thức đi đến [cõi Ta-bà].
Đoạn thứ nhất nói nhân duyên tìm đến có 6 tiểu đoạn. Thứ nhất là lời dẫn của người chép kinh, nói về phước đức và trí tuệ của Bồ Tát Diệu Âm. Thứ hai, nêu việc [hào quang] chiếu đến [thân Bồ Tát]; thứ ba, nêu việc Bồ Tát từ biệt ra đi; thứ tư, nêu việc [đức Phật] răn nhắc; thứ năm, nói việc [Bồ Tát] kính nhận lời Phật dạy; thứ sáu, nói việc [Bồ Tát] hiện tướng đi đến [cõi Ta-bà].
Tiểu đoạn thứ nhất, lời dẫn [của người chép kinh] nói nguyên do được phước đức là nhờ trước đây được gặp nhiều đức Phật. “Thành tựu trọn vẹn trí tuệ thâm sâu” tức là trí tuệ trang nghiêm; đạt được 16 pháp tam-muội tức là phước đức trang nghiêm.
Tiểu đoạn thứ hai và thứ ba nói việc hào quang chiếu đến thân Bồ Tát, từ biệt Phật ra đi, đều y theo kinh văn có thể hiểu được.
Tiểu đoạn thứ tư nói lời Phật răn nhắc. Nhưng bậc pháp thân đại sĩ không cần răn nhắc vẫn tự thành tựu, do quyến thuộc đi cùng có thể có người còn chưa thông đạt, nên [đức Phật] mượn lời nói [răn nhắc Bồ Tát] để hướng đến những vị kia.
Phật thân tương xứng với lý, không thể thấy hình tướng bên ngoài thấp nhỏ mà quên đi sự tôn nghiêm. Đây là dựa vào tòa Như Lai để răn nhắc.
Bậc thầy và đệ tử đều trọn đủ trí đức và đoạn đức; thầy [là Phật Thích-ca] đã thực hiện quyền pháp, đệ tử [là các vị Bồ Tát] cũng phải ẩn giấu thật pháp. Đây là dựa vào y Như Lai để răn nhắc.
Cõi nước là y báo, đều do chánh báo chiêu cảm. Lòng từ của đức Như Lai phủ khắp thế giới đại thiên nên tùy nghi có lúc cần cao, có lúc phải thấp, không được nhìn thấy y báo [thấp kém] mà quên đi chánh báo [trang nghiêm]. Đây là dựa vào nhà Như Lai để răn nhắc.
Đức Phật ở cõi ấy hoằng truyền kinh điển cũng chỉ dạy ba ý như trên. Những lời răn nhắc đáng tôn kính ấy dựa theo việc đạo của chư Phật vốn đồng như nhau.
KINH VĂN
“Bồ Tát Diệu Âm bạch Phật: ‘Thế Tôn! Nay con đến thế giới Ta-bà đều là nhờ sức của Như Lai, nhờ thần thông du hý của Như Lai, nhờ công đức trí tuệ trang nghiêm của Như Lai.’
“Liền đó Bồ Tát Diệu Âm từ nơi tòa ngồi, không đứng lên, thân hình không dao động, nhập tam-muội rồi dùng sức tam-muội hóa ra tám mươi bốn ngàn đóa hoa sen báu ở núi Kỳ-xà-quật, cách Pháp tòa không xa, cuống hoa bằng vàng diêm-phù-đàn, cánh hoa bằng bạc trắng, đài hoa bằng ngọc chân-thúc-ca,[153] nhụy hoa bằng kim cương.”
Khi ấy, đức Phật Thích-ca Mâu-ni bảo ngài Văn-thù-sư-lợi: “Đó là Đại Bồ Tát Diệu Âm từ cõi Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí cùng với tám mươi bốn ngàn Bồ Tát vây quanh muốn đến thế giới Ta-bà để gần gũi cúng dường lễ bái ta, cũng là muốn cúng dường, nghe kinh Pháp hoa.”
Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật: “Thế Tôn! Vị Bồ Tát ấy đã trồng gốc lành gì, tu tập công đức gì mà có sức đại thần thông như vậy? Vị ấy tu hành pháp tam-muội gì? Nguyện đức Thế Tôn vì chúng con nói về tên gọi của pháp tam-muội ấy, để chúng con cũng chuyên cần tu tập theo. Tu tập pháp tam-muội ấy mới có thể thấy được hình tướng lớn nhỏ, oai nghi cử chỉ của Bồ Tát ấy. Kính nguyện đức Thế Tôn dùng sức thần thông, khi vị Bồ Tát kia đến khiến cho chúng con được nhìn thấy.”
Bấy giờ, đức Phật Thích-ca Mâu-ni bảo Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi: “Đức Như Lai Đa Bảo đã diệt độ từ lâu, nay sẽ vì các ông mà hiển bày hình tướng của Bồ Tát ấy.”
Khi ấy, đức Phật Đa Bảo bảo Bồ Tát Diệu Âm: “Thiện nam tử! Hãy đến đây, Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi muốn nhìn thấy thân ông.”
Tiểu đoạn thứ năm nêu việc Bồ Tát vâng lời dạy của Phật. “Nhờ sức của Như Lai” tức là sức của tòa Như Lai; “nhờ thần thông du hý của Như Lai” tức là nhờ sức của nhà Như Lai; “nhờ công đức trí tuệ trang nghiêm của Như Lai” tức là nhờ sức của y Như Lai. Đây là thọ nhận lời dạy quan trọng hoằng truyền kinh điển, là tông chỉ cốt yếu lợi lạc chúng sanh, cho nên mới không dao động ở hội này mà vẫn có thể du hành giáo hóa khắp mười phương.
Tiểu đoạn thứ sáu nêu việc hiện tướng đến [cõi Ta-bà], kinh văn có 6 phân đoạn. Thứ nhất là hóa hiện hoa sen đến trước; thứ hai là [Bồ Tát Văn-thù] thưa hỏi; thứ ba là [đức Phật Thích-ca Mâu-ni] giải đáp; thứ tư là thưa thỉnh; thứ năm là suy tìm công đức [ngày trước]; thứ sáu là [đức Phật Đa Bảo] bảo [Bồ Tát Diệu Âm] hiện đến. Tất cả đều y theo kinh văn có thể hiểu được.
Hỏi: Nếu Bồ Tát Văn-thù có giai vị thấp hơn, thì khi [Bồ Tát Diệu Âm] nói lời từ biệt [Phật] ra đi lẽ ra không nêu việc cầu được gặp [Văn-thù]. Nếu Bồ Tát Văn-thù có giai vị cao hơn, thì khi [Bồ Tát Diệu Âm] sắp đến lẽ nào lại không biết?
Đáp: Tuy đồng một giai vị nhưng có khởi đầu, khoảng giữa và sau cùng. Chỉ riêng một việc này không biết cũng không làm kém đi giai vị cao. Lại nữa, đại chúng thấy điềm lành nhưng không biết gì, vì giúp cho đại chúng được rõ biết nên mới thưa hỏi Phật.
KINH VĂN
Liền đó, Bồ Tát Diệu Âm biến mất ở cõi nước kia, cùng với tám mươi bốn ngàn Bồ Tát bắt đầu đến cõi Ta-bà. Những cõi nước ngài đi qua đều chấn động sáu cách, trời mưa xuống hoa sen bảy báu, trăm ngàn loại nhạc khí cõi trời không khua gõ mà tự vang lên. Bồ Tát Diệu Âm có đôi mắt như cánh hoa sen xanh lớn rộng, giả sử như hòa hợp vẻ đẹp của trăm ngàn muôn mặt trăng cũng không bằng diện mạo đoan chính của ngài; thân như vàng ròng với vô số trăm ngàn công đức trang nghiêm, oai đức chói ngời, hào quang rực sáng, đầy đủ các tướng tốt, như thân na-la-diên kiên cố. Bồ Tát Diệu Âm hiện vào đài bảy báu, bay lên hư không, cao khỏi mặt đất bảy cây đa-la, các vị Bồ Tát cung kính vây quanh, cùng bay đến núi Kỳ-xà-quật ở thế giới Ta-bà. Khi đến nơi, ngài xuống khỏi đài bảy báu, mang chuỗi ngọc trị giá trăm ngàn lượng vàng[154] đến chỗ đức Phật Thích-ca Mâu-ni, cúi đầu áp mặt lễ dưới chân Phật, dâng chuỗi ngọc lên rồi thưa với Phật: “Bạch Thế Tôn! Đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí gửi lời thăm hỏi vấn an Thế Tôn, ngài có được ít bệnh não, đứng ngồi nhẹ nhàng, đi lại an vui chăng? Bốn đại có điều hòa chăng? Việc đời có nhẫn chịu chăng? Chúng sanh có dễ hóa độ chăng? Không có nhiều chúng sanh tham dục, sân hận, ngu si, tật đố, keo lận, ngạo mạn chăng? Không có những chúng sanh bất hiếu với cha mẹ, bất kính với sa-môn, hoặc tà kiến, tâm bất thiện, không nhiếp phục năm căn[155] chăng? Bạch Thế Tôn! Chúng sanh cõi này có hàng phục được các ma oán chăng? Đức Như Lai Đa Bảo đã diệt độ từ lâu trong tháp bảy báu có hiện đến nghe pháp chăng? Lại cũng xin thưa hỏi vấn an đức Như Lai Đa Bảo, có an ổn, ít phiền não, nhẫn chịu ở lại lâu được chăng? Bạch Thế Tôn! Nay con muốn được nhìn thấy thân Phật Đa Bảo, kính nguyện đức Thế Tôn hiển bày cho con được thấy.”
Khi ấy, đức Phật Thích-ca Mâu-ni nói với Phật Đa Bảo: “Bồ Tát Diệu Âm này muốn được bái kiến.”
Bấy giờ, đức Phật Đa Bảo bảo Bồ Tát Diệu Âm: “Lành thay, lành thay! Ông có thể vì cúng dường đức Phật Thích-ca Mâu-ni, nghe kinh Pháp hoa và gặp gỡ các Bồ Tát như Văn-thù-sư-lợi… mà đến cõi này.”
Đoạn thứ hai từ câu “Liền đó, Bồ Tát Diệu Âm biến mất…” trở đi, nêu việc chính thức phát khởi đi đến [cõi Ta-bà]. Kinh văn chia làm 6 tiểu đoạn. Thứ nhất là cùng với quyến thuộc phát khởi ra đi trải qua các cõi nước; thứ hai, mô tả việc Bồ Tát vào đài báu bay lên; thứ ba, vấn an và truyền đạt lời [đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí]; thứ tư, thỉnh cầu được thấy Phật Đa Bảo; thứ năm, đức Thế Tôn chuyển lời [với Phật Đa Bảo]; thứ sáu, [Phật Đa Bảo] trong tháp khen ngợi việc tốt đẹp.
Tất cả các phần này đều y theo kinh văn có thể hiểu được, [không cần giải thích].
KINH VĂN
Khi ấy, Bồ Tát Hoa Đức bạch Phật: “Thế Tôn! Vị Bồ Tát Diệu Âm này đã trồng những căn lành gì, tu tập công đức gì mà có được sức thần thông như vậy?”
Đức Phật bảo Bồ Tát Hoa Đức: “Thời quá khứ có đức Phật hiệu là Vân Lôi Âm Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri… cõi nước tên là Hiện Nhất Thiết Thế Gian, kiếp tên là Hý Kiến.[156] Bồ Tát Diệu Âm trong mười hai ngàn năm đã dùng trăm ngàn loại kỹ nhạc để cúng dường lên đức Phật Vân Lôi Âm Vương, cùng dâng lên tám mươi bốn ngàn bình bát quý báu. Do phước báo từ nhân duyên ấy, nay được sanh vào cõi Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí, có sức thần thông như thế.
“Này Hoa Đức! Ý ông nghĩ sao? Thuở xưa ở chỗ đức Phật Vân Lôi Âm Vương, Bồ Tát Diệu Âm từng dùng kỹ nhạc cúng dường, dâng bình bát quý báu đó nào phải ai khác, chính là Đại Bồ Tát Diệu Âm ngày nay.”
Tổng đoạn thứ ba nói việc hoằng truyền kinh điển, chia ra thành hai đoạn. Đoạn thứ nhất thưa hỏi, đoạn thứ hai giải đáp.
Đoạn thứ nhất trước tiên thưa hỏi về căn lành, sau đó thưa hỏi về thần lực. Hỏi về căn lành tức là hỏi về thuở xưa, hỏi về thần lực là hỏi việc ngày nay.
Đoạn thứ hai, đức Phật giải đáp có 2 tiểu đoạn.
Tiểu đoạn thứ nhất nói việc ngày xưa cúng dường âm nhạc và bình bát báu, sau đó kết nối tương hợp việc xưa với ngày nay. Tất cả đều y theo kinh văn có thể hiểu được. Đây là giải đáp câu hỏi về căn lành.
KINH VĂN
“Này Hoa Đức! Bồ Tát Diệu Âm này từng gần gũi cúng dường vô số các đức Phật, từ lâu gieo trồng cội đức, lại được gặp vô số trăm ngàn muôn ức na-do-tha Phật nhiều như cát sông Hằng.
“Này Hoa Đức! Ông chỉ thấy được thân của Bồ Tát Diệu Âm tại đây thôi, nhưng Bồ Tát này còn thị hiện đủ thân hình ở khắp mọi nơi, vì chúng sanh thuyết giảng kinh điển này. Hoặc hiện thân Phạm vương, hoặc hiện thân Đế thích, hoặc thân Tự Tại Thiên, Đại Tự Tại Thiên, Thiên Đại Tướng Quân, Tỳ-sa-môn Thiên Vương, Chuyển Luân Thánh Vương; hoặc hiện thân các tiểu vương, trưởng giả, cư sĩ, tể quan, bà-la-môn, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, hoặc hiện thân phụ nữ là trưởng giả, cư sĩ, tể quan, bà-la-môn, hoặc hiện thân đồng nam, đồng nữ, hoặc hiện thân trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người, phi nhân... mà thuyết giảng kinh này. Tại những nơi như địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh cùng những nơi khó gặp Phật pháp,[157] Bồ Tát đều có thể cứu giúp; cho đến trong hậu cung của đức vua, Bồ Tát cũng hiện thành thân nữ để thuyết kinh này.
“Này Hoa Đức! Bồ Tát Diệu Âm thường cứu độ, giúp đỡ chúng sanh trong thế giới Ta-bà; Bồ Tát Diệu Âm hóa hiện đủ mọi hình tướng như vậy, vì chúng sanh thuyết giảng kinh Pháp hoa này trong cõi Ta-bà mà sức thần thông biến hóa, trí tuệ của Bồ Tát không hề suy giảm. Vị Bồ Tát này dùng bao nhiêu là môn trí tuệ để soi sáng thế giới Ta-bà, giúp cho mỗi một chúng sanh đều đạt được chỗ hiểu biết, lại ở nơi các thế giới nhiều như cát sông Hằng trong khắp mười phương cũng đều như vậy.
“Nếu có chúng sanh chỉ có thể hóa độ bằng hình tướng Thanh văn, Bồ Tát liền hiện thân Thanh Văn để thuyết pháp; nếu có chúng sanh chỉ có thể hóa độ bằng hình tướng Duyên giác, liền hiện thân Duyên giác để thuyết pháp; nếu có chúng sanh chỉ có thể hóa độ bằng hình tướng Bồ Tát, liền hiện thân Bồ Tát để thuyết pháp; nếu có chúng sanh chỉ có thể hóa độ bằng hình tướng Phật, liền hiện thân Phật để thuyết pháp. Bồ Tát tùy theo hình tướng thích hợp để hóa độ chúng sanh mà hiện ra đủ mọi hình tướng, cho đến những chúng sanh phải dùng sự diệt độ mới có thể hóa độ, liền thị hiện diệt độ.
“Này Hoa Đức! Sự thành tựu sức đại trí tuệ thần thông của Đại Bồ Tát Diệu Âm là như vậy.”
Lúc bấy giờ, Bồ Tát Hoa Đức bạch Phật: “Thế Tôn! Bồ Tát Diệu Âm này đã trồng sâu căn lành. Bạch Thế Tôn! Bồ Tát này đã an trụ pháp tam-muội gì mà có thể tùy nơi biến hiện độ thoát chúng sanh?”
Đức Phật bảo Bồ Tát Hoa Đức: “Thiện nam tử! Pháp tam-muội ấy có tên là Hiện Nhất Thiết Sắc Thân. Bồ Tát Diệu Âm an trụ trong pháp tam-muội ấy nên có thể làm lợi ích cho vô số chúng sanh như vậy.”
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Này Hoa Đức! Bồ Tát Diệu Âm…” trở đi là giải đáp câu hỏi về thần lực, nêu ra 34 thân phàm phu và 4 thân thánh nhân, kết thành mười pháp giới, sáu đường chúng sanh.
Từ câu “Lúc bấy giờ, Bồ Tát Hoa Đức bạch Phật…” trở đi là thưa hỏi [Bồ Tát Diệu Âm] ngày nay đang trụ ở pháp tam-muội nào mà có thể được lợi ích tự tại như vậy. Đức Phật giải đáp, y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
Khi Phật thuyết phẩm Bồ Tát Diệu Âm này, tám mươi bốn ngàn Bồ Tát cùng đi với Bồ Tát Diệu Âm đều đạt được pháp tam-muội Hiện Nhất Thiết Sắc Thân; vô số Bồ Tát ở thế giới Ta-bà này cũng đạt được pháp tam-muội ấy cùng pháp tổng trì.
Tổng đoạn thứ tư từ câu “Khi Phật thuyết phẩm Bồ Tát Diệu Âm này…” trở đi nêu lợi ích của cả hai cõi nước. Tam-muội và đà-la-ni[158] tuy cùng một thể mà hoạt dụng khác nhau. Hoạt dụng vắng lặng tịch tĩnh là tam-muội, hoạt dụng nắm giữ [không quên mất] là đà-la-ni. Lại nữa, dùng sắc thân biến hiện gọi là tam-muội; dùng âm thanh [ngôn ngữ] biện thuyết gọi là đà-la-ni. Trong phẩm trước nói [Bồ Tát Dược Vương] trước đã đạt được tam-muội Hiện nhất thiết sắc thân, khi tái sinh đời sau được đà-la-ni Giải nhất thiết chúng sanh ngữ ngôn. Âm thanh cũng thuộc về sắc pháp, cho nên nói cùng một thể mà hoạt dụng khác nhau. Lại nữa, lưỡi thanh tịnh gọi là đà-la-ni, các căn khác thanh tịnh gọi là tam-muội. Tất cả đều là pháp môn thanh tịnh sáu căn.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, Đại Bồ Tát Diệu Âm cúng dường Phật Thích-ca Mâu-ni cùng Phật Đa Bảo xong liền quay về cõi nước của mình. Các cõi nước ngài đi qua đều chấn động sáu cách, trời mưa xuống hoa sen báu, vang lên trăm ngàn muôn ức đủ loại âm nhạc. Khi về đến cõi thế giới kia rồi, ngài với tám mươi bốn ngàn Bồ Tát vây quanh cùng đến chỗ đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí, bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Con đến thế giới Ta-bà làm lợi ích chúng sanh, đã gặp đức Phật Thích-ca Mâu-ni, cũng thấy được tháp Phật Đa Bảo, lễ bái cúng dường, lại gặp gỡ Pháp vương tử Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi, Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Đắc Cần Tinh Tấn Lực, Bồ Tát Dũng Thí... và cũng khiến cho tám muôn bốn ngàn Bồ Tát này đều đạt được pháp tam-muội Hiện Nhất Thiết Sắc Thân.”
Khi đức Phật thuyết phẩm kinh Bồ Tát Diệu Âm[159] này, có bốn mươi hai ngàn vị thiên tử cõi trời đạt được pháp nhẫn vô sinh, Bồ Tát Hoa Đức đạt được pháp tam-muội Pháp hoa.”
Tổng đoạn thứ năm từ câu “Lúc bấy giờ, Đại Bồ Tát Diệu Âm cúng dường…” trở đi nêu việc [Bồ Tát Diệu Âm] trở về cõi nước cũ. Mặt đất chấn động, mưa hoa rơi xuống, đó là Bồ Tát đi qua còn có thể làm lợi ích bên đường đi, huống chi việc Phật phóng hào quang trước đó, soi chiếu đến trăm ngàn muôn ức na-do-tha cõi nước về phương đông, cũng đều nói đến lợi ích.
Tổng đoạn thứ sáu từ câu “Khi đức Phật thuyết…” trở đi nói việc khi nghe phẩm kinh này liền được tăng tiến trên đường đạo, y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
Phẩm Phổ môn - Bồ Tát Quán Thế Âm, thứ hai mươi lăm
Giải thích tên phẩm
Phẩm này là bản kinh đương thời được tôn quý nhất,[160] rất nhiều người giảng giải. Nay ở đây giải thích không giống như những vị khác. Riêng về phẩm này tôi có ghi chép 2 quyển giảng giải, nay lược lấy những điểm cốt yếu để giải thích tên phẩm này, có phần giải thích nghĩa tổng quát, có phần nói nghĩa chi tiết cụ thể. Giải thích nghĩa tổng quát thì nêu mười cặp theo nhau, giải thích chi tiết cụ thể thì giảng rõ năm chữ [trong tên phẩm].
Mười cặp theo nhau là từ cặp thứ nhất nêu người và pháp, cho đến cặp thứ mười nói trí đức và đoạn đức. Đại lược là như vậy.
- Thứ nhất, cặp người và pháp. Quán Thế Âm là nói về người, Phổ môn là nói về pháp. Người có nhiều loại… Pháp có nhiều loại…[161] Theo phần hỏi đáp ở trước là bàn về Bồ Tát Quán Thế Âm, tức là người; theo phần hỏi đáp ở sau là bàn về Phổ môn, tức là pháp. Người và pháp hợp lại nêu chung, cho nên gọi là phẩm Phổ môn Bồ Tát Quán Thế Âm.
- Thứ hai, [cặp bi và từ]. Quán Thế Âm là nói tâm đại bi cứu khổ. Theo phần hỏi đáp ở trước, có trăm ngàn khổ não đều được giải thoát. Phổ môn là nói tâm đại từ ban vui. Theo phần hỏi đáp ở sau thì tùy theo chỗ có thể hóa độ được chúng sanh mà vì họ thuyết pháp.
- Thứ ba, [cặp trí và phước]. Quán Thế Âm là nói trí tuệ trang nghiêm. Trí tuệ có khả năng đoạn trừ mê hoặc, như lúc sáng thì không có bóng tối. Phổ môn là nói phước đức trang nghiêm. Phước đức có thể làm thay đổi tuổi thọ, như hạt châu [như ý] làm mưa xuống các món báu.
- Thứ tư, [cặp pháp và ứng]. Quán Thế Âm là nói quán sát ngầm khế hợp nơi cảnh, tức là pháp thân. Phổ Môn là nói tùy nơi mà ứng hiện, tức là ứng thân.
- Thứ năm, [cặp thuốc và ngọc]. Quán Thế Âm là ví như cây thuốc chúa, bệnh tật khắp châu thân đều trừ dứt. Phổ môn ví như hạt ngọc như ý, [người có ngọc thì] tùy ý muốn gì cũng có.
- Thứ sáu, [cặp ngầm và hiển]. Quán Thế Âm là nói ngấm ngầm làm lợi ích [chúng sanh], không có chỗ thấy nghe nhưng ba món độc, bảy tai nạn đều được lìa thoát; hai sự mong cầu, hai tâm nguyện đều được thỏa mãn. Phổ môn là nói sự hiển lộ rõ rệt làm lợi ích, [chúng sanh được] tận mắt nhìn thấy dung nhan 33 bậc thánh, tai nghe 19 lời dạy đáng tôn kính.
- Thứ bảy, [cặp thật và quyền]. Quán Thế Âm là nói tùy theo tự ý soi chiếu trí chân thật. Phổ môn là nói tùy theo ý chúng sanh soi chiếu trí quyền biến.
- Thứ tám, [cặp bản và tích]. Quán Thế Âm là bản nguyên tột cùng không lay động. Phổ môn là hình tích tùy duyên mà biến hiện thích hợp.[162]
- Thứ chín, [cặp liễu và duyên]. Quán Thế Âm, từ căn bản là chủng tử liễu nhân [của tánh Phật]. Phổ môn, từ căn bản là chủng tử duyên nhân [của tánh Phật].
- Thứ mười, [cặp trí và đoạn]. Quán Thế Âm, rốt ráo là trí đức, như ánh sáng mặt trăng đêm 14 [giữa tháng]. Phổ môn, rốt ráo là đoạn đức, như mặt trăng vào đêm 29 [cuối tháng] ánh sáng đã gần dứt mất.
Hai lần hỏi đáp trong kinh văn hàm chứa vô lượng ý nghĩa, nay chỉ lược nêu 10 cặp theo nhau, khởi đầu từ người và pháp, cuối cùng là trí và đoạn, dùng để giải thích tên phẩm theo nghĩa chung. Ý nghĩa là như vậy.
Bàn về ý nghĩa chi tiết cụ thể thì giải thích năm chữ [trong tên phẩm].
● Thứ nhất là chữ “quán”. Quán có nhiều loại, là nói các loại quán chiếu phân tích chia chẻ, quán chiếu bản thể, quán chiếu trình tự và quán chiếu viên mãn.[163] Quán chiếu phân tích là diệt trừ hình sắc, thể nhập tánh không. Quán chiếu bản thể là thấy được sắc tức là không. Quán chiếu trình tự là tuần tự đi từ quán chiếu phân tích cho đến quán chiếu viên mãn. Quán chiếu viên mãn là thấy được quán chiếu phân tích là thật tướng, cho đến quán chiếu trình tự cũng là thật tướng.
Nay lược bớt ba loại quán, chỉ luận riêng về quán chiếu viên mãn. Kinh văn nói “phổ môn quán”, nếu không phải cửa vào viên mãn thì không gọi là “phổ”, tức là ý nghĩa này.
● Thứ hai là chữ “thế”. Nếu xét theo sự hành trì thì [phải luận về] thế trước, quán sau; xét theo lời nói thì quán trước, thế sau. Nay theo sự thuận tiện lời văn nên bàn về [quán trước] thế sau.
Thế cũng có nhiều loại, là nói có hữu vi thế, vô vi thế, nhị biên thế và bất tư nghị thế. Hữu vi thế tức là ba cõi thế gian. Vô vi thế tức là 2 cảnh giới Niết-bàn. Nhị biên thế tức là sanh tử và Niết-bàn. Bất tư nghị thế là cảnh giới thật tướng. Nay lược bỏ đi các loại khác, chỉ giữ lại bất tư nghị thế.
● Thứ ba là chữ “âm”, ở đây chỉ căn cơ. Căn cơ lại có nhiều loại, như căn cơ hàng trời người, căn cơ nhị thừa, căn cơ Bồ Tát, căn cơ Phật.
Căn cơ hàng trời người là “không làm các việc ác, vâng làm các việc lành”. Căn cơ nhị thừa là “chán sợ sanh tử, vui chuộng vô vi”. Căn cơ Bồ Tát là trước lo cho người, sau mới đến mình, từ bi, nhân hậu, khiêm nhường. Căn cơ Phật là trong hết thảy các pháp đều dùng phép quán bình đẳng thể nhập, hết thảy mọi việc đều không ngăn ngại người, chỉ một đường thoát khỏi sanh tử. Nay lược bỏ các căn cơ âm khác, chỉ dùng Phật âm cơ mà bày ra sự ứng hóa. Dùng nhân duyên căn cơ ứng hóa này nên gọi là Quán Thế Âm.
● [Thứ tư là] chữ “phổ”, có nghĩa là rộng khắp mọi nơi. Các pháp không hạn lượng, nếu không rộng khắp tức là thiên lệch; nếu rộng khắp mới là viên mãn. Cho nên, kinh Tư ích nói: “Hết thảy các pháp là tà vạy, hết thảy các pháp cũng là chân chánh.”
Nay lược nói mười pháp để nêu rõ nghĩa “phổ” là rộng khắp. Hiểu được ý nghĩa này rồi thì hết thảy các pháp không gì là không rộng khắp. Mười pháp này là: từ bi rộng khắp, hoằng thệ rộng khắp, tu hành rộng khắp, dứt trừ mê hoặc[164] rộng khắp, nhập pháp môn rộng khắp, thần thông rộng khắp, phương tiện rộng khắp, thuyết pháp rộng khắp, thành tựu chúng sanh rộng khắp, cúng dường chư Phật rộng khắp.
1. Từ bi rộng khắp: Khởi đầu từ hàng trời người [tu tập] cuối cùng cho đến hàng Bồ Tát, tất cả đều có từ bi, nhưng [trong đó] có rộng khắp hoặc không rộng khắp. Lòng từ phụ thuộc hai duyên sinh, pháp là đã thiên lệch từ nơi tánh thể, do trói buộc nơi duyên không thể mở rộng nên không gọi là rộng khắp. Lòng từ vô duyên đồng thể với thật tướng, lý đã viên mãn nên lòng từ ấy không đâu không biến hiện; như đá nam châm hút sắt, thuận theo tự nhiên mà tương ứng. Lòng từ bi như vậy thấm nhuần hết thảy muôn loài, cho nên gọi là từ bi rộng khắp.
2. Hoằng thệ rộng khắp: Hoằng là rộng lớn, thệ là thúc chế. Có sự thúc chế rộng lớn thiết yếu trong tâm nên nói là hoằng thệ. Hoằng thệ nương theo tứ đế mà sinh khởi. Nếu dựa vào tứ đế hữu tác, vô sanh, vô lượng, không thâu nhiếp được hết thảy các pháp thì không gọi là rộng khắp. Nếu dựa vào tứ đế vô tác mới gọi là hoằng thệ rộng khắp.
3. Tu hành rộng khắp: Ví như đức Phật [Thích-ca Mâu-ni], khi chưa gặp Phật Định Quang, trước đó mọi sự tu tập đều không tương hợp với lý. Từ sau khi [gặp Phật Định Quang] được thụ ký rồi thì ngay nơi mọi sự mọi việc đều là tánh lý. Dùng lý và trí trải qua các pháp tu hành thì không một công hạnh nào không rộng khắp.
4. Dứt trừ mê hoặc rộng khắp: Nếu dùng Nhất thiết trí và Đạo chủng trí để dứt trừ bốn trụ địa phiền não,[165] trần sa hoặc… cũng giống như cắt bỏ cành lá, không gọi là dứt trừ mê hoặc rộng khắp. Nếu dùng Nhất thiết chủng trí dứt trừ vô minh, cả năm trụ địa phiền não đều dứt sạch tận gốc rễ, đó gọi là dứt trừ mê hoặc rộng khắp.[166]
5. Nhập pháp môn rộng khắp: Các giai vị đạo tiền[167] gọi là tu phương tiện, sự thể nhập từ các giai vị đạo hậu gọi là nhập pháp môn. Nếu là hàng Nhị thừa nhất tâm nhập một pháp định; nhất tâm chỉ tạo tác được một, chẳng được nhiều, lại bị thiền định trói buộc, cho nên không gọi là rộng khắp. Nếu [tuần tự] trải qua các giai vị, mức độ cạn hay sâu đều sai khác, cũng không gọi là rộng khắp. Nếu nhập pháp tam-muội Vương, tất cả các tam-muội đều vào trong [pháp tam-muội] ấy, “không khởi diệt định mà hiện các oai nghi”,[168] cho nên gọi là pháp môn rộng khắp.
6. Thần thông rộng khắp: Các vị Đại A-la-hán có thiên nhãn nhìn thấy khắp thế giới đại thiên; hàng Duyên giác[169] thấy khắp hàng trăm cõi Phật, hàng Bồ Tát nhìn thấy khắp số thế giới nhiều như cát sông Hằng. Tất cả đều duyên nơi cảnh nhỏ hẹp [mà tu tập], phát khởi thần thông lại thiên lệch. Nếu duyên nơi thật tướng để tu tập thì một pháp phát khởi tất cả đều phát khởi. Thần thông tương tự [của người trì kinh này] như phần trước đã nói, huống chi là thần thông chân thật lại không rộng khắp hay sao?
7. Phương tiện rộng khắp: Có 2 loại. Phương tiện của các giai vị đạo tiền được thâu nhiếp trong sự tu hành. Phương tiện của các giai vị đạo hậu chia làm 2 loại. Thứ nhất là [phương tiện của] pháp thể, như trong phần Nhập pháp môn rộng khắp đã nói. Thứ hai là vận dụng [phương tiện] để giáo hóa, ngay sau đây sẽ nói. [Đó là dùng phương tiện] khế hợp căn cơ làm lợi ích chúng sanh, tương xứng thích nghi, đúng hợp cơ duyên, nhất thời biến hiện viên mãn khắp cùng; tuy cũng vận dụng đủ mọi cách làm nhưng trong phạm vi pháp tánh không hề có sự suy giảm. Đây gọi là phương tiện rộng khắp.
8. Thuyết pháp rộng khắp: Có thể dùng một âm thanh [thuyết pháp] mầu nhiệm xứng hợp với căn cơ [của tất cả chúng sanh] trong mười pháp giới, [chúng sanh] tùy loại thích hợp mà đều được giải thoát, giống như cây đàn của a-tu-la,[170] cho nên gọi là thuyết pháp rộng khắp.
9. Thành tựu chúng sanh rộng khắp: Hết thảy mọi sự nghiệp trong thế gian và xuất thế gian đều là chỗ làm của Bồ Tát, như đào giếng, đóng thuyền, Thần Nông nếm thuốc,[171] mây che mát, mặt trời chiếu sáng[172] làm lợi ích chúng sanh. Cho đến lợi ích hết thảy các bậc hiền thánh bằng việc tuần tự chỉ bày, dạy dỗ, khuyến khích sự lợi ích, hoan hỷ thành tựu, khiến cho thể nhập được đạo Vô thượng. Đây gọi là thành tựu chúng sanh rộng khắp.
10. Cúng dường chư Phật rộng khắp: Nếu cúng dường bằng các sự vật bên ngoài thì [có thể] dùng một nén hương, một đóa hoa, một bữa ăn cùng lúc cúng dường lên hết thảy chư Phật, không có trước, không có sau, trong một lúc đều bình đẳng cúng dường, cũng giống như trong một hạt bụi hiện ra vô số hạt bụi. Nếu thực hiện pháp quán nội tâm thì dùng trí tuệ viên mãn dẫn dắt mọi công hạnh. Trí tuệ viên mãn gọi là Phật, các công hạnh hỗ trợ thành tựu trí tuệ viên mãn, tức là cúng dường Phật. Nếu công hạnh hỗ trợ thành tựu những loại trí tuệ khác thì không gọi là cúng dường rộng khắp. Các công hạnh hỗ trợ thành tựu trí tuệ viên mãn mới gọi là cúng dường rộng khắp.
● [Thứ năm là chữ] “môn”, tức là cửa vào. Từ pháp giả nhập pháp không thì pháp không thông suốt mà pháp giả bị ngăn lấp; từ pháp không nhập pháp giả thì pháp giả thông suốt mà pháp không bị ngăn lấp. Sự thông suốt có thiên lệch thì không phải rộng khắp; vì bị ngăn lấp nên không phải cửa vào. Trung đạo thì chẳng phải không, chẳng phải giả, hoàn toàn thông suốt thật tướng. Đồng thời soi chiếu cả hai chân lý [không và giả][173] nên gọi là rộng khắp; hoàn toàn thông suốt nên gọi là cửa vào.
“Phổ môn” là cửa vào rộng khắp, có vô số ý nghĩa thông suốt viên mãn, nay chỉ lược nêu 10 ý nghĩa như trên thì có thể biết được [các ý nghĩa khác].
KINH VĂN
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý[174] từ chỗ ngồi đứng dậy, vén áo trần vai bên phải,[175] chắp tay cung kính hướng về đức Phật thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà Bồ Tát Quán Thế Âm[176] có danh hiệu ấy?”
Phẩm này vẫn thuộc phần biến hiện tam-muội rộng khắp, lưu thông [kinh điển để] giáo hóa chúng sanh. Kinh văn chia làm 3 tổng đoạn. Thứ nhất là thưa hỏi, thứ hai là giải đáp, thứ ba là nêu lợi ích khi được nghe phẩm kinh này.
Phần thưa hỏi và giải đáp lại có 2 lượt. Lượt thưa hỏi thứ nhất chia làm 2 đoạn.
Đoạn thứ nhất là phần mở đầu của người chép kinh, [“lúc ấy” là] nói về thời điểm, [có bốn ý nghĩa theo bốn tất đàn].
- Thứ nhất, thuyết giảng về Bồ Tát ở phương đông đã xong, nay là thời điểm thuyết giảng về Bồ Tát ở phương tây. Đây là nghĩa thế giới tất đàn.
- Thứ hai, thuyết giảng về việc khởi sinh việc lành ở phương đông đã xong, nay là thời điểm thuyết giảng về việc khởi sinh việc lành ở phương tây. Đây là nghĩa vị nhân tất đàn.
- Thứ ba, thuyết giảng về việc dứt trừ nghi hoặc ở phương đông đã xong, nay là thời điểm thuyết giảng về việc dứt trừ nghi hoặc ở phương tây. Đây là nghĩa đối trị tất đàn.
- Thứ tư, thuyết giảng về việc đạt đạo ở phương đông đã xong, nay là thời điểm thuyết giảng về việc đạt đạo ở phương tây. Đây là đệ nhất nghĩa tất đàn.[177]
[Về ý nghĩa danh xưng] Vô Tận Ý, kinh Đại phẩm Bát-nhã nói “nghĩa không thì vô tận”; kinh Đại tập nói “80 pháp môn vô tận”; kinh Tịnh Danh nói: “Vô tận là không phải tận cũng không phải vô tận, cho nên gọi là vô tận.” Nay gộp lại ý nghĩa cả ba kinh, dùng ba pháp quán và ba loại trí tuệ để giải thích ý nghĩa vô tận.
Thứ nhất, Ý tức là trí, Vô Tận là cảnh, trí khế hợp với cảnh. Thứ hai, chỉ riêng theo cảnh thì nói là Vô Tận; chỉ riêng theo trí thì nói là Ý. Thứ ba, cảnh và trí hợp lại để xưng tên nên gọi là Vô Tận Ý. [Theo cách giải thích] thứ nhất, ý là gốc của [các pháp] thế gian và xuất thế gian. [Theo cách giải thích] thứ hai, ý là trung đạo của pháp giới, cho nên nói rằng có thể quán chiếu tâm tánh gọi là thiền định bậc thượng. [Theo cách giải thích] thứ ba, là dựa theo ba pháp quán và ba loại trí tuệ để giải thích danh xưng.
[Đoạn thứ hai nói việc] nêu lên câu hỏi, kinh Đại Bát Niết-bàn nói rằng: “Đầy đủ hai phẩm tính trang nghiêm[178] thì có khả năng thưa hỏi, có khả năng giải đáp.” Ngài Vô Tận Ý trước tiên dùng trí tuệ trang nghiêm để thưa hỏi về trí tuệ trang nghiêm của Bồ Tát Quán Thế Âm, đức Phật dùng trí tuệ trang nghiêm để giải đáp về trí tuệ trang nghiêm của Bồ Tát Quán Thế Âm.
KINH VĂN
Đức Phật bảo Bồ Tát Vô Tận Ý: “Thiện nam tử! Nếu có vô số trăm ngàn muôn ức chúng sanh đang chịu các khổ não, nghe đến Bồ Tát Quán Thế Âm liền một lòng xưng niệm danh hiệu, Bồ Tát Quán Thế Âm lập tức quán chiếu âm thanh xưng niệm, khiến cho những chúng sanh ấy đều được giải thoát.
Phần giải đáp của đức Phật lại có 3 đoạn. Thứ nhất là giải đáp tổng quát, thứ hai là giải đáp chi tiết, thứ ba là giải đáp bằng cách khuyến khích thọ trì danh hiệu [Bồ Tát Quán Thế Âm].
[Đoạn thứ nhất] giải đáp tổng quát lại có 4 tiểu đoạn. Thứ nhất là nêu số người, thứ hai nói việc gặp khổ nạn, thứ ba nêu việc được nghe danh hiệu Bồ Tát rồi xưng niệm, thứ tư nói việc đều được giải thoát.
Trong phần này tự có [4 trường hợp]. Thứ nhất là nhiều nỗi khổ cùng làm khổ một người; thứ hai là nhiều người cùng chịu một nỗi khổ; thứ ba là một người [tuần tự] chịu nhiều nỗi khổ;[179] thứ tư là một người chịu ít nỗi khổ.
Kinh văn nói “có vô số trăm ngàn muôn ức chúng sanh” tức là nhiều người, “chịu các khổ não” tức là nhiều khổ. Nêu ra số nhiều để làm rõ số ít, vì nhiều khổ còn cứu được huống chi là ít khổ? Người gặp khổ là việc xấu ác, “một lòng xưng niệm danh hiệu” là việc hiền thiện. Thiện ác gặp nhau, đó là ý nghĩa cơ duyên; “đều được giải thoát” tức là cảm ứng. Đây là nhân duyên cơ cảm, nên gọi là Quán Thế Âm; lại cũng là nhân duyên người và pháp, cho đến nhân duyên trí tuệ và đoạn trừ [mê hoặc] gọi là Quán Thế Âm. Phần sau cũng hiểu theo giống như vậy nên kết lại việc giải thích danh xưng ở đây, không cần nói thêm rườm rà.
KINH VĂN
“Nếu có người trì niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, dù vào lửa dữ cũng không bị thiêu đốt; đó là do sức oai thần của Bồ Tát.
“Nếu bị nước lớn cuốn trôi, niệm danh hiệu Bồ Tát liền gặp chỗ nước cạn.
“Nếu có trăm ngàn muôn ức chúng sanh vì muốn tìm vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, các thứ bảo vật... nên đi vào biển lớn, gặp cơn mưa bão tối tăm[180] xô đẩy thuyền trôi dạt vào nước quỷ la-sát; dù chỉ một người trong số ấy xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì những người khác cũng đều thoát khỏi nạn quỷ la-sát.
“Do nhân duyên như vậy nên có danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm.
“Thiện nam tử! Nếu có người sắp bị giết hại, xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì dao gậy kẻ kia tự nhiên gãy nát, liền được giải thoát.
“Nếu trong thế giới đại thiên đầy dẫy dạ-xoa, la-sát muốn đến hại người, vừa nghe xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì những quỷ dữ đó không dám nhìn người bằng ánh mắt hung dữ, huống chi là làm hại?
“Nếu người bị gông cùm xiềng xích, dù có tội hay không có tội, xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì gông cùm xiềng xích tự nhiên gãy nát, liền được giải thoát.
“Nếu trong thế giới đại thiên đầy bọn giặc cướp, có một thương chủ[181] dẫn các thương nhân, mang nhiều hàng hóa quý báu đi qua đường hiểm. Một người trong số ấy nói rằng: ‘Này các vị, xin đừng lo sợ, chúng ta nên một lòng xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Vị Bồ Tát này thường mang an ổn đến cho chúng sanh, nếu ta xưng danh hiệu ngài sẽ được thoát nạn giặc cướp.’ Các thương nhân nghe vậy cùng nhau niệm lớn: ‘Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát.’ Nhờ niệm danh hiệu nên liền thoát nạn.
“Này Vô Tận Ý! Sức oai thần của Đại Bồ Tát Quán Thế Âm lớn lao như thế.”
[Đoạn thứ hai] giải đáp chi tiết có 3 tiểu đoạn. Thứ nhất là nêu cảm ứng với cơ duyên của khẩu; thứ hai là cảm ứng với cơ duyên của ý; thứ ba là cảm ứng với cơ duyên của thân.
[Tiểu đoạn thứ nhất,] cảm ứng với cơ duyên của khẩu lại có 2 phân đoạn. Thứ nhất là nêu rõ bảy loại khổ nạn,[182] thứ hai là tóm kết.
Nói về nạn lửa thiêu lại có 4 phần. Thứ nhất, “trì niệm danh hiệu” là việc hiền thiện; thứ hai, “vào lửa dữ” là việc xấu ác; thứ ba là nêu cảm ứng [“không bị thiêu đốt”]; thứ tư là kết lại [“do sức oai thần của Bồ Tát”].
Trong mỗi một nạn lại có ba tầng ý nghĩa. [Như đối với nạn lửa thiêu,] thứ nhất là lửa do quả báo, từ địa ngục trở lên cho đến cõi trời Sơ thiền trở xuống đều luận về cảm ứng với cơ duyên; thứ hai là lửa do ác nghiệp, từ địa ngục trở lên cho đến cõi trời Phi tưởng[183] trở xuống đều luận về cảm ứng với cơ duyên; thứ ba là lửa do phiền não, từ địa ngục trở lên cho đến bậc Đẳng giác trở xuống, đều luận về cảm ứng với cơ duyên.
Đối với bảy loại khổ nạn, ba món độc,[184] hai sự mong cầu[185] [theo sau] đều giải thích giống như vậy.
KINH VĂN
“Nếu có chúng sanh thường tham dâm dục, cung kính niệm danh Bồ Tát Quán Thế Âm liền xa lìa dâm dục; nếu nhiều sân hận, thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, liền xa lìa sân hận; nếu nhiều ngu si, thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, liền xa lìa ngu si.
“Này Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm có những oai thần lớn lao như vậy, làm lợi ích rất nhiều, do vậy chúng sanh nên thường xưng niệm.”
[Tiểu đoạn thứ hai, cảm ứng với cơ duyên của ý], ý nghĩa này đã rộng, có thể dùng ý để nhận hiểu rõ biết, không thể dùng văn ghi chép.
KINH VĂN
“Nếu có phụ nữ muốn sinh con trai, cúng dường lễ bái Bồ Tát Quán Thế Âm liền sinh con trai phước đức, trí tuệ; nếu muốn sinh con gái, liền sinh con gái xinh đẹp, nết na đoan chính, từng trồng sâu các gốc công đức, được mọi người yêu kính.
“Này Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm có sức thần như vậy; chúng sanh cung kính lễ bái, phước đức không hề luống mất.”
[Tiểu đoạn thứ ba,] cảm ứng với cơ duyên của thân lại có 2 phân đoạn. Thứ nhất nêu hai sự mong cầu, thứ hai là kết luận.
[Phân đoạn thứ nhất] nói về cầu con trai có nêu việc lập nguyện tu hành, tích tạo công đức. Nói về cầu con gái thì kinh văn lược bớt không nói việc tu hành. Phần nêu việc lễ bái giống nhau nên lược bớt, còn về ước nguyện, duyên nghiệp đều khác biệt nhau nên lại nêu ra lần nữa.
[Phân đoạn thứ hai] nêu kết luận thì y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
“Vì thế chúng sinh đều nên thọ trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm.
“Vô Tận Ý! Nếu có người thọ trì danh hiệu các Bồ Tát nhiều như số cát sáu mươi hai ức sông Hằng, lại trọn đời cúng dường thức ăn uống, y phục, giường nằm, thuốc men trị bệnh. Ý ông nghĩ sao, công đức của thiện nam hay thiện nữ ấy có nhiều chăng?”
Vô Tận Ý thưa: “Bạch Thế Tôn, rất nhiều.”
Phật dạy: “Nếu lại có người thọ trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, dù chỉ một lần cúng dường lễ bái, phước đức hai người ấy bằng nhau, không hề khác biệt, trong trăm ngàn muôn ức kiếp không thể cùng tận.
“Này Vô Tận Ý! Thọ trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm được lợi ích phước đức vô lượng vô biên như vậy.”
[Đoạn thứ ba] từ câu “Vì thế chúng sinh đều nên” trở đi là khuyến khích trì niệm danh hiệu [Bồ Tát], lại có 3 tiểu đoạn. Thứ nhất là khuyến khích trì niệm [danh hiệu Bồ Tát], thứ hai là suy lường [công đức trì niệm], thứ ba là kết lại ngợi khen xưng tán. Phần trước nói về danh hiệu thù thắng, phẩm đức tốt đẹp nhưng chưa nói đến thể chất hình dạng. Nếu muốn quy phục tôn sùng thì nên trì niệm danh hiệu, cho nên khuyến khích việc trì niệm.
Luận Nhập Đại thừa nói rằng: “Pháp thân chỉ có một nhưng sắc thân ứng hiện rất nhiều.” Xét như các ứng thân “Bồ Tát nhiều như số cát sáu mươi hai ức sông Hằng” cũng bằng như một pháp thân mà thôi. Đại sư Trí Giả nói: “Người [thành tựu] viên mãn chỉ có một, người thiên lệch ắt là nhiều.” Xét như các Bồ Tát thiên lệch thì “nhiều như số cát sáu mươi hai ức sông Hằng” cũng bằng với một Bồ Tát viên mãn.
KINH VĂN
Bồ Tát Vô Tận Ý bạch Phật: “Thế Tôn! Bồ Tát Quán Thế Âm đi khắp thế giới Ta-bà như thế nào? Vì chúng sanh thuyết pháp thế nào? Sử dụng sức phương tiện ra sao?”
Lượt thưa hỏi thứ hai lại chia làm 3 đoạn. “Đi khắp thế giới Ta-bà như thế nào” là thưa hỏi về thân. “Vì chúng sanh thuyết pháp thế nào” là thưa hỏi về khẩu. “Sử dụng sức phương tiện ra sao” là thưa hỏi về ý. Tam mật ấy[186] của bậc thánh là quyền hiện không hề mưu tính trước, chỉ tùy căn cơ mà ứng hiện thích hợp.
KINH VĂN
Phật bảo Bồ Tát Vô Tận Ý: “Thiện nam tử! Nếu có chúng sanh trong cõi nước phải dùng thân Phật mới có thể hóa độ, Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện thân Phật vì họ thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân Duyên giác mới có thể hóa độ, liền hiện thân Duyên giác vì họ thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân Thanh văn mới có thể hóa độ, liền hiện thân Thanh văn thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân Phạm vương mới có thể hóa độ, liền hiện thân Phạm vương thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân Đế-thích mới có thể hóa độ, liền hiện thân Đế-thích thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân Tự tại thiên mới có thể hóa độ, liền hiện thân Tự tại thiên thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân Đại tự tại thiên mới có thể hóa độ, liền hiện thân Đại tự tại thiên thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân Thiên đại tướng quân mới có thể hóa độ, liền hiện thân Thiên đại tướng quân thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân Tỳ-sa-môn mới có thể hóa độ, liền hiện thân Tỳ-sa-môn thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân tiểu vương mới có thể hóa độ, liền hiện thân tiểu vương thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân trưởng giả mới có thể hóa độ, liền hiện thân trưởng giả thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân cư sĩ mới có thể hóa độ, liền hiện thân cư sĩ thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân tể quan mới có thể hóa độ, liền hiện thân tể quan thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân bà-la-môn mới có thể hóa độ, liền hiện thân bà-la-môn thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di mới có thể hóa độ, liền hiện thân tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân phụ nữ là trưởng giả, cư sĩ, tể quan, bà-la-môn mới có thể hóa độ, liền hiện ra những thân phụ nữ như vậy thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân đồng nam, đồng nữ mới có thể hóa độ, liền hiện thân đồng nam, đồng nữ thuyết pháp.
“Nếu phải dùng những thân trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và phi nhân mới có thể hóa độ, liền hiện ra những thân như vậy thuyết pháp.
“Nếu phải dùng thân thần Chấp kim cang mới có thể hóa độ, liền hiện thân thần Chấp kim cang thuyết pháp.”
Phần đức Phật giải đáp chia làm 3 đoạn. Thứ nhất là giải đáp chi tiết; thứ hai là giải đáp tổng quát; thứ ba là khuyến khích sự cúng dường. “Nếu phải dùng” là giải đáp về sức phương tiện [của Bồ Tát], “liền hiện thân” là giải đáp câu hỏi “đi khắp như thế nào”; “thuyết pháp” là giải đáp sự thưa hỏi về khẩu. Tính chung có 33 thân [Bồ Tát ứng hiện], 19 cách thuyết pháp. Đại lược là như thế.
KINH VĂN
“Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm thành tựu những công đức như vậy, dùng đủ mọi hình tướng đi khắp các cõi nước mà độ thoát chúng sanh. Vì vậy các ông nên một lòng cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm.
“Đại Bồ Tát Quán Thế Âm này, trong lúc nguy cấp sợ sệt thường mang đến sự an ổn không sợ sệt cho chúng sanh, nên trong cõi Ta-bà đều gọi ngài là bậc Thí Vô Úy.”
Từ câu “Bồ Tát Quán Thế Âm thành tựu những công đức như vậy” trở đi là kết lại phần giải đáp chi tiết, mở ra phần giải đáp tổng quát. Giải đáp chi tiết thì kinh văn nói rộng mà ý nghĩa hẹp, giải đáp tổng quát thì kinh văn hẹp mà ý nghĩa rộng. Đại lược là như thế.
Từ câu “Vì vậy các ông nên” là khuyến khích sự cúng dường, chia làm 2 đoạn. u Thứ nhất nêu việc [Phật] khuyến khích, thứ hai nói việc [Bồ Tát Vô Tận Ý] kính nhận lời khuyên.
KINH VĂN
Bồ Tát Vô Tận Ý thưa với Phật: “Bạch Thế Tôn! Nay con xin cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm.”
Liền cởi chuỗi ngọc quý trị giá trăm ngàn lượng vàng dâng lên Bồ Tát Quán Thế Âm, thưa rằng: “Thưa ngài, xin nhận món pháp thí là chuỗi ngọc quý này.”
Bấy giờ, Bồ Tát Quán Thế Âm không nhận. Bồ Tát Vô Tận Ý lại thưa: “Thưa ngài! Xin thương chúng tôi mà nhận chuỗi ngọc này.”
Đức Phật bảo Bồ Tát Quán Thế Âm: “Nên thương Bồ Tát Vô Tận Ý và bốn chúng, cùng hàng trời, người, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già mà nhận chuỗi ngọc này.”
Ngay khi đó, Bồ Tát Quán Thế Âm vì thương Bồ Tát Vô Tận Ý và bốn chúng, cùng hàng trời, rồng, cho đến người, phi nhân... liền nhận chuỗi ngọc rồi chia làm hai phần, một phần dâng lên Phật Thích-ca Mâu-ni, một phần dâng lên tháp Phật Đa Bảo.
Đức Phật dạy: “Vô Tận Ý! Bồ Tát Quán Thế Âm có sức thần tự tại như vậy, đi khắp thế giới Ta-bà.”
[Đoạn thứ hai] nêu việc kính nhận lời khuyên lại có 6 tiểu đoạn. Thứ nhất kính vâng lời Phật [cúng dường]; thứ hai, [Bồ Tát] không thọ nhận; thứ ba, thưa thỉnh cúng dường lần nữa; thứ tư, đức Phật khuyến khích; thứ năm, [Bồ Tát] liền thọ nhận; thứ sáu, tóm kết. Tất cả đều y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
Bấy giờ, Bồ Tát Trì Địa[187] từ chỗ ngồi đứng dậy thưa với Phật: “Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sanh nào được nghe phẩm Bồ Tát Quán Thế Âm này, nói về công hạnh tự tại với sức thần thông thị hiện khắp mọi nơi, nên biết rằng công đức của người ấy thật không nhỏ.”
Khi Phật thuyết phẩm Phổ môn này, trong chúng hội có tám mươi bốn ngàn chúng sinh đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không gì so sánh được.
Từ câu “Bấy giờ, Bồ Tát Trì Địa” trở đi là nêu công đức của người được nghe phẩm kinh này. Đại lược là như vậy.
“Không gì so sánh được” là nói các tâm trong chín pháp giới không thể sánh đồng với thật lý.
1. Tâm của pháp giới Phật thì có thể sánh đồng với thật lý, cho nên không sánh đồng mà đồng.
2. Lại nữa, nói đến lý rốt ráo thì không thể sánh đồng, ban sơ nương theo lý rốt ráo mà phát tâm, có thể sánh đồng với lý cho nên nói là “không gì so sánh được”.
3. Lại nữa, tâm với lý đều không thể nắm bắt, vậy lấy vật gì so sánh với vật gì mà nói là “không thể so sánh”? Tâm với lý đều không thể giảng nói; không thể nói mà nói, nói tâm này sánh đồng với lý này, cho nên gọi là “không gì so sánh được”.
Ý thứ nhất là giải thích theo không gian, ý thứ hai là giải thích theo thời gian,[188] ý thứ ba là giải thích không theo thời gian cũng không theo không gian. Đại lược là như vậy.[189]
KINH VĂN
Phẩm Đà-la-ni, thứ hai mươi sáu
Giải thích tên phẩm
[Đà-la-ni,] Hán dịch là “tổng trì”. Tổng trì [nghĩa là gồm giữ,] tức là giữ cho việc xấu ác không khởi sinh, việc hiền thiện không mất đi. Đây là nghĩa thế giới tất đàn.[190] Lại cũng dịch là “năng già năng trì”, nghĩa là có thể nắm giữ điều thiện, có thể ngăn chặn điều ác. [Nắm giữ điều thiện nên] đây là nghĩa vị nhân tất đàn; [ngăn chặn điều ác nên] đây là nghĩa đối trị tất đàn. [Đà-la-ni] này cũng có thể ngăn chặn điều ác là [rơi vào nhị] biên, có thể nắm giữ điều thiện là [giữ theo] trung [đạo]. Đây là đệ nhất nghĩa tất đàn.
Kinh điển nói về [công năng] khai mở hoặc ngăn chặn [của đà-la-ni] không giống nhau. Hoặc nói [đà-la-ni] chuyên dùng để trị bệnh, như [kinh nói về] cư sĩ Na-đạt; hoặc chuyên dùng để hộ pháp, như kinh văn trong phẩm này; hoặc chuyên dùng để dứt trừ tội lỗi, như trong các kinh Phương đẳng; hoặc dùng chung để trị bệnh, dứt tội, hộ trì kinh điển, như kinh Thỉnh Quán Âm; hoặc nếu là đại minh chú, vô thượng minh chú, vô đẳng đẳng minh chú thì không thuộc về để trị bệnh, diệt tội hay hộ trì kinh điển.[191]
Nếu hiểu theo nghĩa chung thì nên bao gồm tất cả các công năng trên, nếu xét theo nghĩa riêng thì nhất thiết phải y theo ý nghĩa của mỗi kinh, không được trái với lời dạy trong kinh ấy. Đại lược là như vậy.
Hoặc có những bậc thầy giải thích rằng, [đà-la-ni hay] thần chú là danh hiệu của các vị vua quỷ thần. Xưng danh hiệu vua thì các thuộc hạ đều tôn kính chủ nhân nên không dám làm điều sai trái, do vậy có thể hàng phục hết thảy các loài quỷ mị. Đây là nghĩa thế giới tất đàn.
Hoặc có người giải thích rằng, thần chú như mật hiệu trong quân đội, khi kẻ hỏi người đáp tương hợp [đúng quy định] thì không bị tra xét. Nếu không tương hợp liền bị bắt lại trị tội. [Như trong kinh này nói] kẻ nào không thuận theo thần chú thì đầu vỡ làm bảy mảnh; nếu thuận theo thần chú thì không có lỗi lầm. Đây là nghĩa vị nhân tất đàn.[192]
Hoặc có người giải thích rằng, thần chú là âm thầm lặng lẽ dứt trừ việc xấu ác, khiến cho điều ác tự ngưng dứt. Ví như có người hèn kém từ nước này trốn sang nước khác, dối trá xưng là vương tử, được vua nước ấy gả công chúa cho. Người này tính nết khó khăn, nhiều sân hận. Có một người sáng suốt khôn ngoan đến từ nước cũ của người ấy, công chúa tìm gặp hỏi chuyện. Người khôn ngoan ấy bảo công chúa, khi phò mã nổi giận thì nên đọc bài kệ này:
Cô độc sang nước khác,
Dối gạt hết mọi người,
Thường ăn uống thô tháo,
Sao nhọc sức sân hận?
Khi [công chúa] đọc bài kệ này thì người chồng không giận dữ nữa, từ đó về sau cũng không còn sân hận. Công chúa và hết thảy mọi người chỉ nghe kệ như vậy nhưng không ai hiểu được ý nghĩa. Thần chú cũng giống như vậy, âm thầm lặng lẽ ngăn chặn điều xấu ác, người khác không biết được. Đây là nghĩa đối trị tất đàn.
Hoặc có người giải thích rằng, thần chú là mật ngữ của chư Phật, như đức vua bảo mang “tiên-đà-bà” đến, hết thảy các quan không ai hiểu ý, chỉ duy nhất vị quan có trí tuệ mới hiểu được.[193] Thần chú cũng giống như vậy, chỉ là một pháp nhưng có đủ các năng lực, [giúp cho] bệnh được khỏi, tội lỗi tiêu trừ, điều thiện sinh khởi, đạo lý được tương hợp. Đây là đệ nhất nghĩa tất đàn.
Vì những nghĩa trên nên giữ nguyên [Phạn] âm [là đà-la-ni]. Người dịch không chuyển dịch [sang Hán ngữ] là do ý này.
Hoằng truyền kinh điển trong đời xấu ác thường gặp nhiều khó khăn quấy nhiễu, nên dùng thần chú để hộ trì [người hoằng pháp,] khiến cho đạo pháp được lưu truyền thông suốt.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, Bồ Tát Dược Vương từ chỗ ngồi đứng dậy, vén áo trần vai bên phải, chắp tay hướng về đức Phật thưa hỏi: “Bạch Thế Tôn! Nếu có thiện nam, thiện nữ thọ trì kinh Pháp hoa, tụng đọc thông suốt hoặc sao chép quyển kinh, thì được bao nhiêu phước đức?”
Đức Phật bảo Bồ Tát Dược Vương: “Nếu có thiện nam, thiện nữ cúng dường chư Phật nhiều như số cát của tám trăm muôn ức na-do-tha sông Hằng, ý ông nghĩ sao, người ấy được phước đức nhiều chăng?”
Bồ Tát Dược Vương thưa: “Bạch Thế Tôn, rất nhiều.”
Phật dạy: “Nếu thiện nam, thiện nữ nào có thể thọ trì, thậm chí chỉ một bài kệ bốn câu trong kinh này, tụng đọc, giải nghĩa, y theo đó tu hành thì công đức cũng rất nhiều như thế.”[194]
Kinh văn phẩm này có 4 tổng đoạn. Thứ nhất là [Bồ Tát Dược Vương] thưa hỏi về công đức người thọ trì kinh [Pháp hoa] này; thứ hai là [đức Phật] đáp rằng công đức ấy rất nhiều; thứ ba là thưa thỉnh xin được dùng thần chú để giúp đỡ bảo vệ [người thọ trì kinh]; thứ tư là nêu việc nghe phẩm kinh này được lợi ích.
Tổng đoạn thứ nhất thưa hỏi, y theo kinh văn có thể hiểu được.
Tổng đoạn thứ hai [đức Phật] giải đáp, có sự suy lường so sánh, [Phật] hỏi lại có nhiều không, đáp rằng “rất nhiều”. Từ chỗ suy lường nói ra công đức, y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
Khi ấy, Bồ Tát Dược Vương bạch Phật: “Thế Tôn! Nay con sẽ nói cho người thuyết pháp một câu thần chú dùng để giữ gìn bảo vệ.” Nói rồi liền đọc thần chú:
“An nhĩ, mạn nhĩ, ma nễ, ma ma nễ, chỉ lệ, già lê đệ, xa mế, xa lý đa vĩ, chiên đế, mục đế, mục đa lý, ta lý, a vĩ ta lý, tang lý, ta lý, xoa dệ, a xoa duệ, a kỳ nị, chiên đế, xa lý, đà la ni, a lô già bà ta bá giá tỳ xoa nị, nễ tỳ thế, a tiện đa la nễ lý thế, a đản đa ba lệ thâu địa, âu cứu lệ, mâu cứu lệ, a la lệ, ba la lệ, thủ ca sai, a tam ma tam lý, Phật đà tỳ kiết lợi dật đế, đạt ma ba lợi sai đế, tăng già niết cù sa nễ, bà xá bà xá thâu địa, mạn đa la, mạn đa la xoa dạ đa, bưu lâu đa, bưu lâu đa kiêu xá lược, ác xoa la, ác xoa dã đa dã, a bà lô, a ma nhã na đa dạ.”
“Bạch Thế Tôn! Thần chú đà-la-ni[195] này do chư Phật nhiều như số cát của sáu mươi hai ức sông Hằng nói ra. Nếu ai xâm phạm, hủy báng vị pháp sư trì kinh Pháp hoa này tức là đã xâm phạm, hủy báng chư Phật.”
Lúc bấy giờ, đức Phật Thích-ca Mâu-ni khen ngợi Bồ Tát Dược Vương: “Lành thay, lành thay, Dược Vương! Ông vì thương xót ủng hộ vị pháp sư trì kinh Pháp hoa mà nói ra thần chú đà-la-ni này, có rất nhiều lợi ích cho chúng sanh.”
Tổng đoạn thứ ba thưa thỉnh xin nói ra thần chú có năm lượt. Thứ nhất là Bồ Tát Dược Vương; thứ hai là Bồ Tát Dõng Thí; thứ ba là [thiên vương] Tỳ-sa-môn; thứ tư là [thiên vương] Trì Quốc; thứ năm là mười nữ [la-sát].
Đoạn thứ nhất [nêu việc] Bồ Tát Dược Vương lại chia ra 4 tiểu đoạn. Thứ nhất là thưa thỉnh [xin nói]; thứ hai là nói ra [thần chú]; thứ ba là xưng tán ngợi khen; thứ tư là [đức Phật ngợi khen và] ấn chứng.
KINH VĂN
Khi ấy, Bồ Tát Dũng Thí thưa với Phật: “Bạch Thế Tôn! Con cũng vì ủng hộ người thọ trì kinh Pháp hoa, xin nói ra thần chú đà-la-ni. Nếu vị pháp sư kia có được thần chú đà-la-ni này thì cho dù các dạ-xoa,[196] la-sát,[197] phú-đan-na,[198] cát-già,[199] cưu-bàn-trà, ngạ quỷ…[200] rình rập tìm chỗ sơ hở [để hãm hại] cũng không được dễ dàng.” Nói rồi liền ở trước Phật đọc thần chú rằng:
“Toa lệ, ma ha toa lệ, úc chỉ, mục chỉ, a lệ, a la bà đệ, niết lệ đệ, niết lệ đa bà đệ, y trí ni, vi trí ni, chỉ trí ni, niết lệ trì ni, niết lê trì bà để.”
“Bạch Thế Tôn! Thần chú đà-la-ni này do chư Phật nhiều như cát sông Hằng nói ra, lại cũng đều tùy hỷ; nếu xâm phạm, hủy báng vị pháp sư trì kinh Pháp hoa này tức là đã xâm phạm, hủy báng chư Phật.”
Khi ấy, vị thiên vương hộ thế Tỳ-sa-môn[201] thưa với Phật: “Bạch Thế Tôn! Con cũng thương xót chúng sanh, ủng hộ vị pháp sư trì kinh Pháp hoa, xin đọc thần chú đà-la-ni.” Liền đọc thần chú rằng:
“A lê, na lê, nâu na lê, a na lô, na lý, câu na lý.”
“Bạch Thế Tôn! Tuy đã dùng thần chú này để ủng hộ vị pháp sư trì kinh Pháp hoa, con cũng tự mình sẽ ủng hộ vị ấy, khiến cho trong phạm vi một trăm do-tuần không xảy ra những điều suy kém hoạn nạn.”
Khi ấy, Thiên vương Trì quốc[202] ở giữa pháp hội, cùng với ngàn muôn ức na-do-tha chúng càn-thát-bà cung kính vây quanh, đều đến trước chỗ Phật chắp tay thưa rằng: “Bạch Thế Tôn! Con cũng có thần chú đà-la-ni để ủng hộ người thọ trì kinh Pháp hoa.” Liền đọc thần chú rằng:
“A già nễ, già nễ, cù lợi, càn đà lợi, chiên đà lợi, ma đặng kỳ, thường cầu lợi, phù lâu sa ni, át để.”
“Bạch Thế Tôn! Thần chú đà-la-ni này do bốn mươi hai ức đức Phật nói ra, nếu ai xâm phạm, hủy báng pháp sư trì kinh Pháp hoa, tức là đã xâm phạm, hủy báng chư Phật.”
Ba đoạn tiếp theo cũng phân chia theo cách giống như vậy, y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
Khi ấy có các nữ la-sát, thứ nhất tên Lam-bà, thứ hai tên Tỳ-lam-bà, thứ ba tên Khúc xỉ, thứ tư tên Hoa xỉ, thứ năm tên Hắc xỉ, thứ sáu tên Đa phát, thứ bảy tên Vô yếm túc, thứ tám tên Trì anh lạc, thứ chín tên Cao đế, thứ mười tên Đoạt nhất thiết chúng sanh tinh khí. Mười nữ la-sát này với quỷ Tử mẫu cùng các con và quyến thuộc cùng nhau đến chỗ Phật, đồng thanh bạch Phật: “Thế Tôn! Chúng con cũng muốn ủng hộ người thọ trì, tụng đọc kinh Pháp hoa, giúp họ dứt trừ những điều suy kém hoạn nạn, nếu có kẻ rình rập tìm chỗ kém cỏi của vị pháp sư ấy thì khiến cho không được dễ dàng.” Liền ở trước Phật nói thần chú rằng:
“Y đề lý, y đề dân, y đề lý, a đề lý, y đề lý, nê lý, nê lý, nê lý, nê lý, nê lý, lâu ê, lâu ê, lâu ê, lâu ê, đa ê, đa ê, đa ê, đâu ê, nâu ê.”
“Bạch Thế Tôn! Chúng con thà để cho kẻ khác trèo lên đầu mình, quyết không để cho làm hại pháp sư, cho dù đó là dạ-xoa, la-sát, ngạ quỷ, phú-đan-na, cát-già, tỳ-đà-la, kiền-đà, ô-ma-lặc-già, a-bạt-ma-la, dạ-xoa cát-già, nhân cát-già; hoặc [loài quỷ] gây bệnh nóng một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày cho đến bảy ngày, hoặc gây bệnh nóng thường xuyên; hoặc trong giấc mộng nhìn thấy những hình dạng nam, nữ, đồng nam, đồng nữ,[203] cũng không để cho làm hại.”
Các nữ la-sát liền ở trước Phật đọc kệ rằng:
“Trái nghịch thần chú này,
Nhiễu loạn người thuyết pháp:
Đầu vỡ thành bảy phần,
Như chồi cây a-lê.[204]
Như tội giết cha, mẹ,
Lại như tội ép dầu,[205]
Tội cân lường gian dối,
Tội Điều-đạt phá tăng.
Xúc phạm đến pháp sư,
Chịu tội giống như vậy.”[206]
Các nữ la-sát nói kệ rồi liền thưa với Phật: “Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng sẽ tự thân mình ủng hộ người thọ trì, tụng đọc, tu hành theo kinh này, khiến cho được an ổn, lìa xa những sự suy kém, hoạn nạn, tiêu trừ các loại thuốc độc.”
Đức Phật bảo các nữ la-sát: “Lành thay, lành thay! Các cô chỉ thường ủng hộ người thọ trì tên kinh Pháp hoa cũng đã được phước đức không thể suy lường, huống chi là ủng hộ người thực hiện đầy đủ việc thọ trì, cúng dường quyển kinh với hoa, hương, chuỗi ngọc, hương bột, hương thoa, hương đốt, phướn lọng, kỹ nhạc; thắp đủ các loại đèn như đèn bơ, đèn dầu, đèn dầu thơm, các loại đèn dầu hương hoa như hoa tô-ma-na, hoa chiêm-bặc, hoa bà-sư-ca, hoa ưu-bát-la… trăm ngàn cách cúng dường khác nhau như thế.
“Này Cao-đế! Cô và quyến thuộc nên ủng hộ vị pháp sư như vậy.”
Khi Phật thuyết phẩm Đà-la-ni này, có sáu mươi tám ngàn người đạt được pháp nhẫn vô sinh.
Đoạn thứ năm nói về mười nữ la-sát lại có 5 tiểu đoạn. Thứ nhất là kể tên; thứ hai là thưa thỉnh xin nói [ra thần chú]; thứ ba là xưng tán ngợi khen; thứ tư là lập thệ nguyện; thứ năm là [đức Phật] ấn chứng.
Dạ-xoa, Hán dịch là quỷ tiệp tật (nhanh lẹ); la-sát, Hán dịch là quỷ thực nhân (ăn thịt người). Hai bộ quỷ này thuộc sự thống lãnh của [thiên vương Tỳ-sa-môn] ở phương bắc.
Phú-đơn-na là loài quỷ gây bệnh nóng.
Cát-già là quỷ khởi thi,[207] ở trong loài người hoặc dạ-xoa đều có loại quỷ này.
Tỳ-đà-la là quỷ màu đỏ, kiền-đà-la[208] là quỷ màu vàng, ô-ma-lặc[209] là quỷ màu đen; a-bạt-ma-la là quỷ màu xanh. Cành cây ha-lê rơi xuống đất thì tự nhiên vỡ thành 7 mảnh.[210] Giết cha, giết mẹ, phá [hòa hợp] tăng là ba tội nghịch. Dầu mè ở Ấn Độ[211] được làm bằng cách giã nát hạt mè [rồi ủ lại] cho sinh ra các loài trùng nhỏ rồi mới ép tất cả [để lấy dầu]. Theo lệ làm như vậy thì được nhiều dầu và dầu béo hơn, thật là vô cùng tội lỗi. Về cân lường, bán ra thì cân non, mua vào thì cân già, đó là lừa dối [cũng đồng như] tội trộm cắp. Gần đây có người dùng đấu nhỏ đong lường bán ra, dùng đấu lớn đong lường mua vào, bị sét đánh chết mà trên lưng hiện ra dòng chữ răn đe. Tội ấy thật cũng không nhẹ.[212]
KINH VĂN
Phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của vua Diệu Trang Nghiêm
Giải thích tên phẩm
Nhân duyên sau đây lấy từ kinh khác.[213] Thuở xưa, khi giáo pháp của Phật đã đến thời suy mạt, có bốn vị tỳ-kheo đối với kinh Pháp hoa hết sức chân thành tôn trọng. Tuy thường suy ngẫm giáo pháp sâu kín này, nhưng vẫn chưa được thấm nhuần [pháp vị] cam lồ. [Do vậy mà] ngày đêm càng thêm chí thành, chẳng lúc nào quên bỏ.
Các vị thường [suy nghĩ] than thở rằng: “Hay là chúng ta không phải người thích hợp [với giáo pháp này]? Hay vùng đất này không phải nơi thích hợp [để tu tập]? Cõi thế gian này rối rắm hỗn loạn, [người tìm cầu] tĩnh lặng với [kẻ] tán loạn đối nghịch nhau. Nếu như muốn cầu tìm nơi vắng vẻ yên tĩnh còn phải chán bỏ xa lánh [thế gian], huống chi là muốn chú tâm hoàn toàn tu theo đạo pháp?”
Nghĩ vậy rồi, từ đó các vị gắn kết với núi rừng, lập chí hướng về trí tuệ Phật. Ẩn cư như vậy lâu ngày, cơm áo dần cạn kiệt. Mang thân hữu vi nên còn nhiều phiền toái, không lúc nào không bị thiếu thốn. Một bữa cơm không nuốt vào cũng chướng ngại đường dài muôn dặm;[214] mười ngày chỉ ăn chín bữa,[215] chí hướng cao vời cũng đành cùn nhụt. Than ôi! [Khó khăn] thật không sao nói hết.
[Khi ấy,] một vị trong nhóm nói rằng: “Chúng ta bốn người đều cùng quẫn, đến thân mạng này còn không giữ được thì chánh pháp biết gửi gắm vào đâu? Nay xin ba vị hãy đem thân mạng dành trọn cho việc phụng hành đạo pháp, đừng lo đến chuyện [áo cơm] sớm tối; riêng mình tôi nguyện xả bỏ thân này, quyết tâm cung cấp hết thảy mọi thứ cần dùng cho các vị.”
Nói như vậy rồi, liền chống tích trượng đi vào xóm làng [khất thực] để tiếp tục sự cung cấp, từ mùa xuân đến mùa đông, xoay vần mãi năm này sang năm khác, như tôi tớ phụng sự chủ nhân, ngọt bùi cay đắng đều không để tâm mừng giận.
Ba vị kia [nhờ vậy tu tập] được tiến triển thành tựu, công phu viên mãn, hoàn tất sự nghiệp tu tập, lợi ích một đời sánh bằng vô lượng đời sống khác. Chỉ riêng một vị này [tiếp tục] trải qua nhiều kiếp trong cõi người, thường xuyên tiếp cận với âm thanh, hình sắc, như món đồ gốm chưa nung qua lửa, thật khó giữ gìn [tâm chân chánh]. Một hôm tình cờ gặp đức vua ngự giá ra ngoài thành, [nhìn thấy] ngựa xe đông đảo, cờ xí rợp trời, bất chợt khởi tâm động niệm, ưa thích cảnh vinh hoa quyền quý. Do công đức tu tập đã tích tụ nên liền tùy theo ý niệm [ưa thích ấy] mà nhận quả báo, sinh ra trong hai cõi trời người đều thường được làm vua. Phước báo [của vị này] tuy lớn lao không thể suy lường nhưng vẫn là hữu hạn, [cũng có lúc cạn kiệt].
Ba vị đã chứng đạo liền họp lại bàn nhau rằng: “Chúng ta thoát cũi sổ lồng, [ra khỏi ràng buộc thế gian] là nhờ công đức của vị vua này. Nay ông ấy đam mê trong quả báo [tốt đẹp], càng tăng trưởng pháp hữu vi. Sau khi chết đi trong kiếp này thì không còn được trở lại làm vua nữa, sẽ đọa sâu trong hầm lửa, thật khó có thể cứu thoát. Cũng may là hiện nay ông ấy chưa rơi vào nạn khổ, chính là lúc có thể chỉ bày giáo hóa.”
Một vị đề nghị: “Vị vua này đắm say dục lạc lại thêm tà kiến, nếu không dùng đến lưỡi câu ái dục thì không cách nào có thể cứu vớt được. Nay một người [trong chúng ta] có thể sinh làm người vợ đoan chánh, hai người [còn lại] sinh làm hai đứa con thông minh. Lời của vợ con nói ra ắt là [vua] sẽ thuận nghe theo.”
Quả nhiên, việc thiết lập phương tiện giáo hóa thích hợp như vậy đã đạt được kết quả [giúp cho nhà vua] từ bỏ tà kiến. Người vợ khi ấy nay chính là Bồ Tát Diệu Âm. Hai người con thuở ấy nay là hai vị Bồ Tát, Dược Vương và Dược Thượng. Đức vua thuở xưa nay chính là Bồ Tát Hoa Đức.
Cho nên, [các phẩm trước nói việc] hào quang từ tướng bạch hào [của Thế Tôn] chiếu về hướng đông triệu vời, [Bồ Tát Diệu Âm] lên đài cao quý theo hướng tây tìm đến; [Bồ Tát Dược Vương] nói thần chú hộ trì kinh điển, khiến cho lưu thông [để chúng sanh] được lợi ích lớn lao. [Nay phẩm này] nói về nhân duyên đời trước của cả bốn vị thánh[216] nên gọi là phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của vua Diệu Trang Nghiêm.
Lại nữa, Diệu Trang Nghiêm là công đức của diệu pháp trang nghiêm các căn. Vị vua này thuở xưa có duyên với diệu pháp. Đạo huân tập đến khi thuần thục thì các căn được thanh tịnh. Trong kiếp sống ấy tuy chưa đạt được [như vậy], nhưng theo lý nhất định sẽ được; [do vậy mà có] điềm lành cảm thông, danh hiệu được hình thành từ sớm. Cũng giống như ngài Thiện Cát khi chưa [thực sự] đạt được [tam-muội] Vô tránh mà đã có hiệu là Không Sanh. Cho nên kinh văn phần sau nói “đạt được pháp tam-muội Nhất thiết tịnh công đức trang nghiêm”. Do ý nghĩa đó mà có danh hiệu là vua Diệu Trang Nghiêm.
Phẩm trước nói việc thần chú hộ trì kinh điển. Phẩm này nói việc người hộ trì kinh điển. Người hộ trì còn được như vậy, thần chú hộ trì lại càng tốt đẹp hơn, đều rộng khuyên việc lưu thông kinh điển.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo đại chúng: “Vào đời quá khứ, cách nay vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn a-tăng-kỳ kiếp, có Phật hiệu là Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri… cõi nước tên là Quang Minh Trang Nghiêm, kiếp tên là Hý Kiến.
Kinh văn phẩm này chia ra làm 6 tổng đoạn. Thứ nhất là nêu nguồn gốc sự việc; thứ hai là cùng lúc nêu cả người giáo hóa và người được giáo hóa; thứ ba là nói về phương tiện giáo hóa; thứ tư là người được giáo hóa được lợi ích; thứ năm là nêu sự tương hợp thuở xưa với ngày nay; thứ sáu là nói việc [những người] nghe phẩm kinh này được ngộ đạo.
Tổng đoạn thứ nhất nêu nguồn gốc sự việc, y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
Trong phạm vi giáo hóa của Phật có vị vua[217] tên là Diệu Trang Nghiêm, hoàng hậu là Tịnh Đức, hai người con trai là Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn.
“Hai người con trai này có sức thần thông lớn, có phước đức, trí tuệ, từ lâu đã theo con đường tu tập hạnh của hàng Bồ Tát như các pháp ba-la-mật: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, phương tiện, bốn tâm vô lượng từ, bi, hỷ, xả, cho đến ba mươi bảy phẩm trợ đạo, tất cả đều thông suốt sáng tỏ; lại đạt được các pháp tam-muội của Bồ Tát như tam-muội Tịnh, tam-muội Nhật tinh tú, Tịnh quang, Tịnh sắc, Tịnh chiếu minh, Trường trang nghiêm, Đại oai đức tạng... đối với các pháp tam-muội như vậy đều thấu đạt thông suốt.
Tổng đoạn thứ hai từ câu “Trong phạm vi giáo hóa của Phật…” trở đi cùng lúc nêu cả người giáo hóa và người được giáo hóa. Có ba người giáo hóa và một người được giáo hóa, đều được nêu tên trong phần này. Đặc biệt nêu rõ hai người con có đủ phước đức, trí tuệ, sáu ba-la-mật, bốn tâm vô lượng.[218] Các kinh khác gọi những pháp này là mười ba-la-mật, tức là các pháp môn phải tu tập đồng thời. 37 phẩm trợ đạo là các pháp môn tu tập tuần tự, được các kinh khác xem là các pháp tu chính, việc thực hành các công hạnh là phụ thêm. Nay kinh này cho rằng mười ba-la-mật là các pháp tu chính, nên gọi các pháp kia là trợ đạo.
Trong Thiền ba-la-mật có đầy đủ tam-muội, còn trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo thì mỗi phẩm cũng đều có một phần tam-muội, nêu thêm bảy pháp tam-muội nữa là để rộng bày pháp môn.
KINH VĂN
“Bấy giờ, đức Phật muốn dẫn dắt vua Diệu Trang Nghiêm cũng như thương xót nhớ nghĩ đến chúng sanh nên thuyết kinh Pháp hoa này.
Tổng đoạn thứ ba từ câu “Bấy giờ, đức Phật muốn dẫn dắt…” trở đi là nêu phương tiện giáo hóa. Kinh văn chia làm 3 đoạn. Thứ nhất là nói việc đã đến lúc thích hợp; thứ hai nêu việc bàn luận; thứ ba là thị hiện thần biến để giáo hóa.
Đoạn thứ nhất nói đã đến lúc thích hợp, là nói lúc đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí ra đời thường thuyết giảng chánh pháp. Đối với nhà vua thì duyên còn yếu ớt tức là chưa phải lúc thích hợp, còn nếu nói về việc thuyết giảng kinh Pháp hoa thì là lúc thích hợp. Kinh văn nói “đức Phật muốn dẫn dắt… …nên thuyết kinh Pháp hoa”, tức là ý nghĩa này.
KINH VĂN
“Khi ấy, hai hoàng tử là Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn cùng đi đến chỗ mẹ, chắp tay thưa rằng: ‘Xin mẹ hãy đến chỗ đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, chúng con cũng theo hầu, gần gũi, cúng dường, lễ bái. Vì sao vậy? Vị Phật này ở giữa hết thảy trời người mà thuyết giảng kinh Pháp hoa, nên đến nghe và thọ nhận.’
“Người mẹ bảo các con: ‘Cha con tin theo ngoại đạo, bám chấp sâu nơi pháp bà-la-môn, các con nên đến thưa cha xin người cùng đi.’
“Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn cùng chắp tay thưa mẹ: ‘Chúng con là đệ tử đấng Pháp vương, lại sinh vào nhà tà kiến.’[219]
“Người mẹ nói: ‘Các con nên nghĩ đến cha, hãy vì cha hiện các phép thần thông biến hóa; nếu nhìn thấy rồi tâm được thanh tịnh, biết đâu cha sẽ thuận theo các con cùng đến chỗ Phật.’
Đoạn thứ hai nói việc bàn luận [giữa mẹ con]. Trong kinh văn nêu việc con nói với mẹ là đã đến lúc thích hợp, mẹ dạy con nên giáo hóa cha; con than vãn việc sinh vào nhà tà kiến, mẹ mong con nên nghĩ thương [đến cha]. Tất cả đều y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
“Liền đó hai vị vương tử vì nghĩ thương đến cha liền nhảy vọt lên không trung, cao bảy cây đa-la, hiện đủ mọi phép thần thông biến hóa, ở giữa không trung đi đứng nằm ngồi, phía trên thân vọt ra nước, dưới thân tuôn ra lửa; hoặc trên thân tuôn lửa, dưới thân vọt nước; hoặc hiện thân to lớn choán đầy hư không, rồi hiện nhỏ lại; từ nhỏ lại hiện lớn; ở giữa không trung biến mất, hốt nhiên lại hiện ra trên mặt đất; đi vào lòng đất như lặn xuống nước, đi trên mặt nước như đi trên đất… Hiện đủ mọi phép thần thông biến hóa, khiến tâm vua cha trở nên thanh tịnh, tin hiểu.”
Đoạn thứ ba từ câu “Liền đó hai vị vương tử…” trở đi là thị hiện thần biến để giáo hóa. Việc thị hiện để giáo hóa có đủ 18 phép thần biến,[220] có thể giải thích đầy đủ.
KINH VĂN
“Khi ấy, vua cha nhìn thấy hai con có sức thần thông như vậy, trong lòng hết sức vui mừng, được việc chưa từng có, chắp tay hướng về hai con hỏi rằng: ‘Ai là thầy của các con, các con là đệ tử của ai?’
“Hai vị vương tử đáp: ‘Thưa phụ vương, đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, hiện nay đang ngồi trên pháp tòa dưới cội cây bồ-đề bằng bảy báu, ở giữa đại chúng hết thảy trời người trong thế gian mà rộng thuyết kinh Pháp hoa, đó chính là thầy của chúng con; chúng con là đệ tử của Phật.’
“Đức vua bảo hai con: ‘Nay ta cũng muốn gặp thầy các con, chúng ta có thể cùng đi đến đó.’”
Tổng đoạn thứ tư từ câu “Khi ấy, vua cha nhìn thấy hai con…” trở đi, nêu việc người được giáo hóa được lợi ích. Kinh văn chia làm 10 đoạn.
Đoạn thứ nhất, đức vua từng thấy các phép biến hóa của tà đạo, hoặc một phép, hoặc hai phép, vừa hẹp hòi vừa thô lậu, nay nhìn thấy các phép biến hóa của các con thì ngợi khen là chưa từng có, liền tin tưởng vào các con và kính phục thầy, nên hỏi xem thầy của các con là ai, vua cũng mong muốn được gặp.
KINH VĂN
“Liền khi ấy, hai vị vương tử từ không trung hạ xuống, đến chỗ mẹ chắp tay thưa rằng: ‘Nay cha con đã tin hiểu, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chúng con vì cha đã làm Phật sự, xin mẹ cho phép chúng con xuất gia theo Phật tu tập đạo pháp.’
“Bấy giờ, hai vị vương tử muốn lặp lại ý nghĩa trên nên đọc kệ thưa với mẹ:
‘Nguyện cho phép chúng con,
Xuất gia làm sa-môn,
Chư Phật rất khó gặp,
Chúng con theo học Phật.
Như gặp hoa ưu-đàm,
Gặp Phật khó như vậy,
Thoát nạn khổ cũng khó,
Nguyện cho con xuất gia.’
“Người mẹ liền nói: ‘Mẹ cho phép các con xuất gia. Vì sao vậy? Vì rất khó được gặp Phật.’”
Đoạn thứ hai, khi đức vua đã khởi lòng tin rồi, tám mươi bốn ngàn người trong cung vua cũng đều thuần thục. Hai vị vương tử [liền đến] báo tin vui và thưa với mẹ xin được xuất gia. Người mẹ liền cho phép.
KINH VĂN
“Liền đó, hai vị vương tử thưa với cha mẹ: ‘Lành thay, thưa cha mẹ! Xin cùng đến chỗ đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, gần gũi cúng dường. Vì sao vậy? Vì rất khó được gặp Phật, cũng như hoa ưu-đàm-bát-la, lại cũng như con rùa chột mắt [ở giữa biển nổi lên] gặp được khúc cây có lỗ bộng trôi ngang qua.[221] Chúng ta nhờ phước đức sâu dày từ nhiều đời trước mà sinh ra được gặp Phật pháp, cha mẹ nên thuận theo ý chúng con, cho phép được xuất gia. Vì sao vậy? Chư Phật rất khó gặp, lại cũng rất khó có cơ hội gặp Phật.’
“Khi ấy, trong hậu cung của vua Diệu Trang Nghiêm có tám mươi bốn ngàn người, tất cả đều có thể đủ sức thọ trì kinh Pháp hoa này.
“Bồ Tát Tịnh Nhãn từ lâu đã thông đạt đối với pháp tam-muội Pháp hoa.
“Bồ Tát Tịnh Tạng từ vô lượng trăm ngàn muôn ức kiếp đã thông đạt pháp tam-muội Ly Chư Ác Thú, vì muốn giúp cho hết thảy chúng sanh đều được lìa xa các đường ác.
“Phu nhân của vua đã đạt được pháp tam-muội Chư Phật Tập, có thể biết được kho tàng giáo pháp sâu kín của chư Phật.
“Hai vị vương tử dùng sức phương tiện như vậy, khéo léo hóa độ vua cha, khiến cho khởi tâm tin hiểu, ưa thích Phật pháp.”
Đoạn thứ ba từ câu “Liền đó, hai vị vương tử thưa với cha mẹ…” trở đi, hai vương tử lại thúc giục cha mẹ lần nữa, rằng nay chính là lúc thích hợp để [cúng dường Phật] và cho phép con xuất gia, vì rất khó được gặp Phật.
Đoạn thứ tư, công đức giáo hóa đã thành tựu, Phật ngợi khen công đức.
[Bồ Tát Tịnh Nhãn đạt được] pháp tam-muội Pháp hoa là thâu nhiếp hết thảy các pháp quy về một tướng thật như trước đã nói.
[Bồ Tát Tịnh Tạng đạt được] pháp tam-muội Ly chư ác thú. Có thuyết cho rằng ba đường ác [địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh] là ác thú, còn nói đầy đủ thì là cả 25 cảnh giới hiện hữu, đều trái nghịch pháp chân thật, sinh khởi pháp hư vọng nên đều là ác thú. Nay xa lìa hết các cảnh giới ấy, tức là 25 pháp tam-muội phá trừ 25 cảnh giới hiện hữu.
[Phu nhân của vua đạt được] pháp tam-muội Chư Phật Tập, tức là tạng giáo pháp sâu kín mà chư Phật hội tập trong đó, chỉ có riêng chư Phật, không có một hạng người nào khác.
KINH VĂN
“Liền đó, vua Diệu Trang Nghiêm dẫn theo quần thần, quyến thuộc; phu nhân Tịnh Đức dẫn theo các cung nữ trong hậu cung và quyến thuộc; hai vị vương tử dẫn theo bốn mươi hai ngàn người, tất cả cùng nhau đi đến chỗ đức Phật. Đến nơi, tất cả cùng cúi đầu áp mặt lễ kính dưới chân Phật, đi nhiễu quanh Phật ba vòng, rồi đứng sang một bên.
“Khi ấy, đức Phật vì vua mà thuyết pháp, tuần tự chỉ bày, dạy dỗ, khuyến khích lợi ích, khiến cho đạt được niềm vui chân thật.[222] Nhà vua hết sức hân hoan vui mừng.
“Lúc bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm cùng phu nhân liền cởi chuỗi ngọc chân châu giá trị trăm ngàn lượng vàng, tung rải lên để cúng dường Phật. Chuỗi ngọc được tung lên giữa không trung liền hóa thành một tòa đài báu có bốn cột, bên trong đài có giường báu lớn, trải bằng trăm ngàn muôn tấm vải cõi trời, bên trên có đức Phật ngồi kết già, phóng hào quang sáng chói. Khi ấy, vua Diệu Trang Nghiêm tự nghĩ: ‘Thân Phật thật hy hữu, đặc biệt lạ lùng đoan nghiêm, thành tựu hình sắc vi diệu bậc nhất.’”
Đoạn thứ năm từ câu “Liền đó, vua Diệu Trang Nghiêm dẫn theo…” kể việc mọi người cùng nhau đến chỗ Phật, được nghe pháp, cúng dường Phật, nhìn thấy điềm lành thảy đều hoan hỷ.
KINH VĂN
“Khi ấy, đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí nói với bốn chúng: ‘Mọi người nhìn thấy vua Diệu Trang Nghiêm đang chắp tay đứng trước ta đây chăng? Đức vua này sẽ làm tỳ-kheo trong giáo pháp của ta, tinh cần tu tập các pháp trợ đạo, rồi sẽ thành Phật hiệu là Sa-la Thụ Vương, ở cõi nước tên là Đại Quang, vào kiếp tên là Đại Cao Vương. Đức Phật Sa-la Thụ Vương có vô số chúng Bồ Tát cùng vô số Thanh văn. Cõi nước ấy bằng phẳng ngay ngắn… công đức như thế.’
“Khi ấy vua Diệu Trang Nghiêm liền đem việc nước giao cho người em, rồi cùng với phu nhân, hai vương tử và quyến thuộc xuất gia tu tập trong Phật pháp.
“Sau khi xuất gia, đức vua thường xuyên chuyên cần tinh tấn tu hành theo kinh Diệu Pháp Liên Hoa trong suốt tám mươi bốn ngàn năm. Trải qua thời gian đó rồi, đạt được pháp tam-muội Nhất thiết tịnh công đức trang nghiêm, liền bay lên không trung, cao bảy cây đa-la, rồi thưa với Phật: ‘Bạch Thế Tôn! Hai người con của con, vì làm Phật sự nên đã dùng thần thông biến hóa, chuyển hóa tâm tà kiến của con, khiến con được trụ yên trong pháp Phật, được gặp đức Thế Tôn. Hai người con ấy là bậc thiện tri thức, vì muốn khơi dậy căn lành đời trước, muốn làm lợi ích cho con nên mới sinh vào gia đình con.’
“Khi ấy, đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí bảo vua Diệu Trang Nghiêm: ‘Đúng vậy, đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Nếu có thiện nam, thiện nữ nào gieo trồng căn lành thì đời đời sẽ được gặp thiện tri thức. Thiện tri thức ấy có thể làm Phật sự, tuần tự chỉ bày, dạy dỗ, khuyến khích lợi ích, khiến cho đạt được niềm vui chân thật, giúp cho thể nhập Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
“Này Đại vương! Nên biết rằng thiện tri thức là nhân duyên lớn lao, là vì giáo hóa dẫn dắt khiến cho được gặp Phật, phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
“Đại vương! Ông có nhìn thấy hai người con này chăng? Hai người này vốn đã từng cúng dường chư Phật nhiều như số cát của sáu mươi lăm trăm ngàn muôn ức na-do-tha sông Hằng, gần gũi cung kính, ở nơi chư Phật ấy thọ trì kinh Pháp hoa, thương xót những chúng sanh tà kiến nên khiến cho trụ vào chánh kiến.’
“Lúc bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm liền từ không trung hạ xuống rồi bạch Phật: ‘Thế Tôn! Như Lai thật là hy hữu, do trí tuệ và công đức nên tướng nhục kế trên đỉnh đầu hào quang sáng tỏa; mắt đẹp dài rộng với màu xanh biếc; tướng bạch hào giữa hai chân mày sáng màu tươi mát;[223] răng đều khít bằng phẳng, thường trắng sáng; môi đỏ tươi như màu trái tần-bà…’[224]
“Khi ấy, vua Diệu Trang Nghiêm ngợi khen xưng tán vô số trăm ngàn muôn ức công đức của Phật như vậy, rồi ở trước đức Như Lai một lòng chắp tay bạch Phật: ‘Thế Tôn! Thật chưa từng có! Chánh pháp của Như Lai thành tựu đầy đủ công đức vi diệu không thể nghĩ bàn, dạy bảo việc thiện, răn ngừa việc bất thiện[225] khiến cho được an ổn tốt đẹp. Kể từ hôm nay con sẽ không còn trở lại chạy theo các tâm hành,[226] không khởi sinh các tâm xấu ác như tà kiến, kiêu căng, ngạo mạn, sân hận.’ Nhà vua nói như vậy rồi lễ Phật, lui ra.”[227]
Đoạn thứ sáu, từ câu “Khi ấy, đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí nói với bốn chúng…” nêu việc đức Phật thụ ký.
Đoạn thứ bảy nói việc [vua] xuất gia tu hành.
Đoạn thứ tám, đức vua ngợi khen xưng tán hai người con.
Đoạn thứ chín, đức Phật thuật lại công hạnh cao cả [thuở trước của hai vị vương tử].
Đoạn thứ mười, [vua Diệu Trang Nghiêm] xưng tán Phật và tự phát thệ nguyện.
Đức Phật ngợi khen rằng, bậc thiện tri thức rất quan trọng, có những ý nghĩa lớn lao. Thiện tri thức thường làm Phật sự, tức là hàng thiện tri thức hộ trì, giúp đỡ [người tu tập]. [Thiện tri thức thường] tuần tự chỉ bày, dạy dỗ, khuyến khích sự lợi ích, hoan hỷ thành tựu tức là bậc thiện tri thức giáo thọ. [Thiện tri thức] giáo hóa đạo pháp giúp cho được thấy Phật, tức là bậc thiện tri thức đồng hành. [Thiện tri thức] giúp cho thể nhập Bồ-đề tức là thật tướng, là thiện tri thức thật tế.
Kinh Tạp A-hàm nói “thiện tri thức giống như người vợ hiền thục chung thủy”, đây tức là ý nghĩa [thiện tri thức] hộ trì giúp đỡ [người tu tập]; lại nói “thiện tri thức như thân tộc, như tài sản”, tức là ý nghĩa [thiện tri thức] đồng hành; lại nói “thiện tri thức như vị thương chủ[228] dẫn đường”, tức là ý nghĩa [thiện tri thức] giáo thọ; lại nói “thiện tri thức như con nằm trong lòng cha”, tức là ý nghĩa [thiện tri thức] thật tế.
KINH VĂN
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni bảo đại chúng: “Các ông nghĩ sao? Vua Diệu Trang Nghiêm nào phải ai xa lạ, nay chính là Bồ Tát Hoa Đức. Phu nhân Tịnh Đức của vua, nay chính là Bồ Tát Quang Chiếu Trang Nghiêm Tướng đang ở trước Phật, thuở xưa vì thương xót vua Diệu Trang Nghiêm và quyến thuộc nên sinh ra ở đó. Còn hai vị vương tử, nay chính là Bồ Tát Dược Vương và Bồ Tát Dược Thượng.
“Hai vị Bồ Tát Dược Vương và Dược Thượng này đã thành tựu những công đức lớn lao như vậy, từng ở nơi vô số trăm ngàn muôn ức các đức Phật mà trồng sâu các gốc công đức, thành tựu những công đức hiền thiện không thể nghĩ bàn. Nếu có người biết đến danh hiệu của hai vị Bồ Tát này thì hết thảy chư thiên cùng nhân dân trong thế gian cũng nên lễ bái người ấy.”[229]
Tổng đoạn thứ năm từ câu “Đức Phật Thích-ca Mâu-ni bảo đại chúng…” trở đi là nêu sự tương hợp thuở xưa với ngày nay, chia làm 2 đoạn.
Đoạn thứ nhất kết lại, nêu sự tương hợp.
Đoạn thứ hai kết lại, khen ngợi xưng tán hai vị Bồ Tát.
KINH VĂN
Khi Phật thuyết phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của vua Diệu Trang Nghiêm, có tám mươi bốn ngàn người xa lìa phiền não cấu nhiễm, ở trong các pháp được pháp nhãn thanh tịnh.[230]
Tổng đoạn thứ sáu từ câu “Khi Phật thuyết phẩm Hạnh nguyện…” trở đi nêu việc những người nghe phẩm kinh này được đạo, y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
Phẩm Bồ Tát Phổ Hiền khuyến khích phát tâm, thứ hai mươi tám
Giải thích tên phẩm
Trong Đại luận và Quán kinh đều gọi [tên vị Bồ Tát này] là Biến Cát, trong kinh này gọi là Phổ Hiền. Những tên như vậy đều là dịch sang Hán ngữ. Âm tiếng Phạn là Bí-du-bạt-đà,[231] dịch nghĩa là Phổ Hiền.
Kinh Bi Hoa nói: “Con nguyện đến đời uế nhiễm xấu ác của thế giới sẽ thực hành Bồ Tát đạo khiến được thanh tịnh, việc tu tập thực hành việc trọng yếu sẽ hơn hẳn các vị Bồ Tát.”[232] Đức Phật Bảo Tạng [khi ấy] dạy rằng: “Do nhân duyên ấy, nay ta đổi tên cho ông là Phổ Hiền.”[233] Đây tức là hàm ý của ba tất đàn.[234]
Lại nếu giải thích [tên này] theo nhân duyên thì đây là do thực hành hạnh nguyện nên được gọi tên [như vậy], nguyên do [tu tập] từ bốn niệm xứ cho đến bốn căn lành nên gọi chung là Phổ Hiền. Nếu riêng dựa theo Thế đệ nhất pháp thì đã đến gần pháp chân thật, cận kề quả thánh nên gọi là “hiền”.
Như trên là nói theo Tạng giáo. Nay nói về chỗ cao tột của giai đoạn tu đạo chế phục [phiền não] thì nhân này biến hiện khắp nơi nên gọi là “phổ”; từ sau giai đoạn tu đạo dứt trừ [phiền não] thì gần gũi quả thánh cao tột nên gọi là “hiền”.
Nếu là hàng Thập tín thì chỉ mới khởi đầu giai đoạn tu tập điều phục [phiền não], chưa phải chỗ cao tột, chẳng biến hiện khắp nơi, chỉ mới gần được quả ban sơ của những quả thánh ban sơ; chẳng phải sau [giai đoạn dứt trừ phiền não], chẳng phải [gần quả thánh] cao tột. Cho đến hàng Thập địa cũng chưa phải biến hiện khắp nơi, chưa phải [gần quả thánh] cao tột, huống chi là các giai vị trước đó.
Nay bàn về quả vị Đẳng giác, ở cao tột trên các [giai vị thuộc giai đoạn] điều phục, sự tu tập điều phục [phiền não] biến hiện khắp nơi nên gọi là “phổ”; giai đoạn tu tập đoạn trừ phiền não vừa chấm dứt, không mấy ai sánh bằng, đã gần đạt đến chỗ rốt ráo cuối cùng nên gọi là “hiền”. Luận Đại Trí độ[235] dẫn ví dụ rằng “trăng đêm mười bốn cũng giống như trăng đêm rằm” là nêu rõ ý nghĩa [gần đạt đến] này. Đây là dựa theo các giai vị của Viên giáo để giải thích giai vị về sau là Phổ Hiền.
“Khuyến khích phát tâm” là cách nói để nêu sự mến mộ chánh pháp. [Các vị Bồ Tát] từ cõi nước xa xôi được nghe kinh này đầy đủ từ đầu đến cuối, vì muốn cho pháp tự thực hành và giáo hóa chúng sanh được lưu truyền mãi mãi không dứt cho nên mới từ các phương đông, tây[236] tìm đến [cõi Ta-bà] để khuyến khích phát tâm. Phần này có đủ ý nghĩa bốn tất đàn. Đại lược là như thế.
Kinh văn nói: “Con vì cúng dường kinh Pháp hoa nên sẽ tự hiện thân… …[người trì kinh] nếu được thấy thân con sẽ hết sức vui mừng…”, đây là nghĩa thế giới tất đàn.[237] “Được thấy thân con rồi lại càng thêm tinh tấn... liền đạt được các pháp tam-muội cùng đà-la-ni…”, đây là nghĩa vị nhân tất đàn. “Được thần chú đà-la-ni này thì không loài phi nhân nào có thể phá hoại, cũng không bị nữ sắc làm cho mê hoặc tán loạn…”, đây là nghĩa đối trị tất đàn. “Các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi nhỏ trong thế giới đại thiên được trọn đủ đạo Phổ Hiền”, đây là đệ nhất nghĩa tất đàn. Kinh văn như vậy tức là dùng nghĩa bốn tất đàn để khuyến khích phát tâm.
Trước đây có nêu việc phân chia phần lưu thông [trong kinh này] thành ba phần. Từ sau 19 khổ kệ [do Bồ Tát Di-lặc nói ra trong phẩm Phân biệt công đức] trở đi gồm ba phẩm rưỡi là nêu rõ năng lực lớn lao của kinh này để khuyến khích lưu thông. Từ phẩm Bồ Tát Dược Vương trở đi gồm năm phẩm là nêu năng lực truyền đạo, giáo hóa lớn lao của các vị Bồ Tát để khuyến khích lưu thông. Chỉ riêng một phẩm này là nêu nguyện lực lớn lao của Bồ Tát Phổ Hiền để khuyến khích lưu thông.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, Bồ Tát Phổ Hiền[238] dùng sức thần thông tự tại với oai đức danh tiếng,[239] cùng các vị Bồ Tát nhiều vô lượng vô biên không thể tính đếm,[240] từ phương đông hiện đến. Các cõi nước đi qua đều chấn động, trời mưa xuống hoa sen báu, vang lên vô số trăm ngàn muôn ức đủ loại âm nhạc.
Lại có vô số chư thiên, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, loài người, loài phi nhân, đại chúng vây quanh, mỗi vị đều hiện sức thần thông oai đức, cùng đến núi Kỳ-xà-quật nơi thế giới Ta-bà, cúi đầu áp mặt đảnh lễ đức Phật Thích-ca Mâu-ni, đi nhiễu quanh bên phải bảy vòng rồi thưa với Phật: “Bạch Thế Tôn! Con ở cõi nước của đức Phật Bảo Oai Đức Thượng Vương, xa nghe ở thế giới Ta-bà này có thuyết kinh Pháp hoa nên cùng với vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức chúng Bồ Tát đến đây để nghe và thọ nhận. Kính nguyện đức Thế Tôn vì chúng con mà thuyết dạy. Lại sau khi Như Lai đã diệt độ rồi, các thiện nam hoặc thiện nữ[241] làm thế nào để được kinh Pháp hoa này?”
Kinh văn phẩm này chia làm 4 tổng đoạn. Thứ nhất là nêu việc [Bồ Tát Phổ Hiền từ phương đông] xuất phát đi đến; thứ hai là nêu việc khuyến khích phát tâm; thứ ba là thuật rõ sự phát tâm; thứ tư là nêu lợi ích của sự phát tâm.
Tổng đoạn thứ nhất là lời người chép kinh, nêu việc [Bồ Tát Phổ Hiền] xuất phát đi đến, chia làm 3 đoạn. Thứ nhất là dâng lên cúng dường [chư Phật], thứ hai là giáo hóa [chúng sanh] cõi dưới, thứ ba nói việc tu tập cung kính.
[Đoạn thứ nhất,] nói tự tại là nghĩa lý nhất, nói thần thông là nghĩa hành nhất, nói oai đức là nghĩa nhân nhất, nói danh tiếng là nghĩa giáo nhất.
Lại nữa, tự tại là nghĩa thường, thần thông là nghĩa lạc, oai đức là nghĩa ngã, danh tiếng là nghĩa tịnh. Nói như vậy là ngay nơi một pháp đã trọn đủ bốn đức, không gì không đầy đủ, tức là nghĩa tự tại.
Do sức thanh tịnh nên “trời mưa xuống hoa sen báu”, do sức an vui nên “vang lên vô số trăm ngàn muôn ức đủ loại âm nhạc”, do thần thông nên “các cõi nước đi qua đều chấn động”.
Do sức tự tại nên tùy ý mà có mưa hoa, tùy chỗ đi qua mà có mưa hoa, tùy chỗ đi qua mà cõi nước chấn động, tùy chỗ đi qua mà âm nhạc tấu lên. Cũng giống như con rồng lớn bay đi không dừng mà quanh thân rồng có mây mưa lưu chuyển không cùng tận. Bồ Tát Phổ Hiền cùng các vị quyến thuộc lấy thân Bồ Tát vận dụng năng lực của bốn đức, đến để khuyến khích phát khởi bốn nghĩa nhất [như trên], sự việc là như vậy.
Đoạn thứ hai từ câu “Lại có vô số chư thiên, rồng, dạ-xoa…” trở đi, trải qua các nơi đều giáo hóa [khiến chúng sanh] được lợi ích. Tùy chỗ thích hợp với chúng sanh mà hóa hiện ra hình dạng tám bộ chúng. Ở đây chỉ lược nói vận dụng hai năng lực,[242] tùy chỗ có thể nhận lãnh [của chúng sanh], sự việc là như vậy.
Đoạn thứ ba nói việc tu tập cung kính, kinh văn nói “cúi đầu áp mặt”, “nhiễu quanh bên phải bảy vòng”, y theo đó có thể hiểu được.
Tổng đoạn thứ hai nói việc khuyến khích phát tâm, chia làm 2 đoạn. Thứ nhất là thưa hỏi, [thỉnh Phật nói ra] để khuyến khích phát tâm. Thứ hai là nêu thệ nguyện khuyến khích phát tâm.
[Đoạn thứ nhất có 2 tiểu đoạn,] thưa hỏi và giải đáp.
Tiểu đoạn thứ nhất là thưa hỏi, nêu việc từ xa được nghe hết kinh này, lòng luyến mộ không dứt đối với chánh pháp, nên từ xa tìm đến với ý nguyện khuyến khích phát tâm. Do vậy nên thưa thỉnh Phật thuyết lại phần chánh thuyết [của kinh] là để khuyến khích phát tâm tự hành trì; lại thưa thỉnh ý nghĩa lưu thông kinh điển để khuyến khích phát tâm giáo hóa chúng sanh. Đức Như Lai nếu chấp thuận cả hai điều thưa thỉnh đó thì sẽ diễn thuyết [kinh này] một lần nữa, quang minh tiếp nối quang minh, tỏa chiếu không cùng tận. Cho nên [ngài Phổ Hiền] mới thưa thỉnh cả hai điều.
KINH VĂN
Đức Phật bảo Bồ Tát Phổ Hiền: “Sau khi Như Lai diệt độ rồi, nếu thiện nam hoặc thiện nữ nào thành tựu bốn pháp thì sẽ được kinh Pháp hoa này. Thứ nhất là được chư Phật hộ niệm; thứ hai là gieo trồng các gốc công đức; thứ ba là nhập vào chánh định; thứ tư là phát tâm cứu độ tất cả chúng sanh. Sau khi Như Lai diệt độ rồi, thiện nam hoặc thiện nữ nào thành tựu bốn pháp như vậy, chắc chắn sẽ được kinh này.”
Tiểu đoạn thứ hai nêu việc đức Phật giải đáp, chia làm 3 phân đoạn. Trước tiên là giải đáp tổng quát, tiếp theo giải đáp chi tiết và cuối cùng tổng kết lại.
[Phân đoạn thứ nhất, giải đáp tổng quát là nêu chung 4 pháp.]
[Phân đoạn thứ hai] giải đáp chi tiết là kể ra đủ 4 pháp, y theo kinh văn có thể hiểu được. [Ngài Phổ Hiền] đã thưa thỉnh hai việc, đức Như Lai khéo léo giải đáp, chỉ lược nêu 4 pháp để bao trùm những pháp khác. Vì sao vậy? Vì 4 pháp này là cốt yếu, bao quát cả hai phần chánh thuyết và lưu thông [của kinh này].
Vì sao? Vì chư Phật tuy không có sự thiên lệch, nhưng nếu chúng sanh nào thường xa lìa việc xấu ác, làm theo việc hiền thiện, ngược đường mê quay về nẻo chánh, khai thông tri kiến quyền thừa, hiển lộ tri kiến Phật, ắt có thể xứng hợp với tâm bậc thánh, nên “được chư Phật hộ niệm”. Nếu tri kiến Phật đã khai mở, tức là trí tuệ Bát-nhã soi chiếu sáng suốt, đó là “gieo trồng các gốc công đức”. Đó cũng là “nhập vào chánh định”, không loạn, không [đắm nhiễm] mùi vị, không nắm bắt, không buông bỏ. Đó cũng là “phát tâm cứu độ tất cả chúng sanh”.
Nên biết, bốn điều này cùng với việc “khai quyền hiển thật” tuy tên gọi khác nhau nhưng bản thể tương đồng, không phân hai, không khác biệt.
Lại nữa, “được chư Phật hộ niệm” tức là khai mở tri kiến Phật; “gieo trồng các gốc công đức” là chỉ bày tri kiến Phật; “phát tâm cứu độ tất cả chúng sanh” là tỏ ngộ tri kiến Phật; “nhập vào chánh định” là thể nhập tri kiến Phật. Bốn pháp này đã thâu nhiếp hết những điểm cốt yếu của tích môn.
Lại nữa, hình tích ắt phải có bản nguyên. Từ bản nguyên khai mở, chỉ bày, tỏ ngộ, thể nhập cho nên trong hình tích mới có khai mở, chỉ bày, tỏ ngộ, thể nhập. Nay khai mở hình tích tức là hiển lộ bản nguyên. Bản nguyên với hình tích thật không phân hai, không khác biệt.
Dùng 4 pháp này để giải đáp việc thưa thỉnh [thuyết giảng lại] phần chánh thuyết [kinh này], ý nghĩa như vậy đã sáng tỏ. Lại cũng dùng 4 pháp này để giải đáp việc thưa hỏi về lưu thông [kinh Pháp hoa].
Phương thức lưu thông [như phần trước kinh văn đã giảng], dù là ba pháp hay bốn hạnh[243] [cũng đều tương hợp].
“Phát tâm cứu độ tất cả chúng sanh” là vào nhà Như Lai; “nhập vào chánh định”, “được chư Phật hộ niệm”, đó chính là đắp y Như Lai; “gieo trồng các gốc công đức” là ngồi tòa Như Lai. Đây là yếu chỉ trong việc truyền rộng kinh này, tức bốn pháp mà cũng là ba. “Phát tâm cứu độ tất cả chúng sanh” là hạnh thệ nguyện an vui; “nhập vào chánh định” là hạnh ý an vui, “gieo trồng các gốc công đức” là hạnh khẩu an vui, “được chư Phật hộ niệm” là hạnh thân an vui. Nên biết rằng bốn pháp nêu sau cũng tức là bốn điều đã giảng trước. Một phần giải đáp thỏa đáng cho cả hai điều thưa thỉnh, nêu ra bốn pháp cốt yếu nhất để bao trùm trọn vẹn bộ kinh. Đây chính là Pháp hoa được diễn giải lại, kinh này được tuyên thuyết lại. [Ngài Phổ Hiền] từ xa đến để khuyến khích phát tâm, ý nghĩa là như vậy.
[Phân đoạn thứ ba] tổng kết lại. “Sau khi Như Lai diệt độ… …chắc chắn sẽ được kinh này.” Các nhà cựu giải nói rằng: “Có thể thực hành bốn pháp này thì trong đời tương lai thường có được kinh này trong tay.” Nay tôi cho rằng không phải như vậy.
Kinh văn phần trước nói: “Nghĩa thật tướng các pháp, đã vì chúng giảng thuyết.”[244] Lại nói muốn làm cho tất cả chúng sanh đều được khai mở, chỉ bày, tỏ ngộ, thể nhập tri kiến Phật. Đó là bản thể chính của Pháp hoa. Có thể thực hành được bốn pháp [như Phật dạy] ắt đạt được sự sự thấu hiểu [bản thể] này, nên gọi sự thấu hiểu đó là kinh. Đây là tổng kết [trả lời cho] phần thưa thỉnh về chánh thuyết.
Nếu có thể vận dụng sự thấu hiểu này vào thực hành, truyền dạy cho người khác, người tin nhận sự thấu hiểu này sẽ thành người nương tựa [giáo pháp] ở bậc đầu tiên. Có thể đạt được thấu hiểu chân thật thì thành người nương tựa bậc thứ hai, thứ ba, thứ tư.[245] Đây là tổng kết [trả lời cho] phần thưa hỏi về việc lưu thông [kinh này].
Phải chăng vì không thấy được những ý nghĩa này nên [có người] mới tùy tiện đặt ra cách giải thích khác?
KINH VĂN
Khi ấy, Bồ Tát Phổ Hiền thưa với Phật: “Bạch Thế Tôn! Sau năm trăm năm nữa, vào đời xấu ác, như có người thọ trì kinh điển này, con sẽ bảo vệ, giúp đỡ, trừ bỏ những điều suy kém, hoạn nạn để người ấy được an ổn, khiến cho không ai có thể dễ dàng rình rập ám hại, cho dù đó là ma, con trai con gái của ma, hoặc dân ma, hoặc kẻ bị ma ám, hoặc dạ-xoa, la-sát, cưu-bàn-trà, tỳ-xá-xà, cát-già, phú-đan-na, vi-đà-la[246]… những loài quỷ hại người đều không thể dễ dàng gây hại.
“Trong khi người ấy đi, đứng, tụng đọc kinh này, con sẽ cưỡi voi chúa trắng sáu ngà cùng với chúng Đại Bồ Tát hiện đến nơi ấy rồi tự hiện thân để cúng dường, bảo vệ, giúp đỡ, trấn an khích lệ người ấy, cũng để cúng dường kinh Pháp hoa.
“Trong khi người ấy ngồi yên suy ngẫm kinh này, con cũng sẽ cưỡi voi chúa trắng sáu ngà hiện ra trước mặt, nếu người ấy có quên mất một câu kinh, một bài kệ trong kinh Pháp hoa này, con sẽ dạy cho, rồi cùng họ tụng đọc, khiến cho lại thông suốt.
“Khi ấy người thọ trì, tụng đọc kinh Pháp hoa, được thấy thân con, hết sức vui mừng, lại càng thêm tinh tấn. Nhờ gặp con rồi nên liền đạt được các pháp tam-muội cùng đà-la-ni có tên là Toàn đà-la-ni, Bá thiên vạn ức toàn đà-la-ni, Pháp âm phương tiện đà-la-ni,[247] đạt được những pháp đà-la-ni như vậy.”
Đoạn thứ hai nêu thệ nguyện khuyến khích phát tâm, từ câu “Khi ấy, Bồ Tát Phổ Hiền thưa với Phật…” trở đi. Kinh văn lại chia làm 2 tiểu đoạn. Thứ nhất là bảo vệ, giúp đỡ người [thọ trì giáo pháp]; thứ hai là bảo vệ hộ trì giáo pháp.
Tiểu đoạn thứ nhất nêu việc bảo vệ, giúp đỡ người [thọ trì giáo pháp] lại có 6 phân đoạn.
Phân đoạn thứ nhất là bên ngoài thì xua đuổi tai nạn. Trước tiên là xua đuổi chung tất cả mọi tai nạn của người ấy, cho nên nói “khiến cho không ai có thể dễ dàng rình rập ám hại”, chính là ý này. Tiếp theo nói việc xua đuổi cụ thể các loại tai nạn gây hại người ấy, nêu ra 12 loài không thể làm hại.
Phân đoạn thứ hai là bên trong thì chỉ dạy giáo pháp. Nói chung có ba lần chỉ dạy.
- Thứ nhất là “khi người ấy đi, đứng, tụng đọc kinh này”, Bồ Tát sẽ “sẽ cưỡi voi chúa trắng sáu ngà” đến để “trấn an khích lệ người ấy”.
- Thứ hai là “khi người ấy ngồi yên suy ngẫm kinh này”, Bồ Tát “cũng sẽ cưỡi voi chúa trắng sáu ngà hiện ra trước mặt” để chỉ dạy kinh này, khiến cho “đạt được các pháp tam-muội cùng đà-la-ni”. “Toàn đà-la-ni” là từ [quán] giả thể nhập [quán] không. “Bá thiên vạn ức toàn đà-la-ni” là chuyển từ [quán] không ra khỏi [quán] giả. “Pháp âm phương tiện đà-la-ni” là nói cả hai [giả và không] đều là đạo phương tiện, theo đó để thể nhập trung đạo mới là Đệ nhất nghĩa đế.
KINH VĂN
“Bạch Thế Tôn! Đời sau này, sau năm trăm năm,[248] trong đời xấu ác nếu trong hàng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di có người nào tìm cầu, hoặc thọ trì, hoặc tụng đọc, hoặc sao chép, rồi muốn tu tập theo kinh Pháp hoa này, thì nên một lòng tinh tấn trong suốt hai mươi mốt ngày. Sau hai mươi mốt ngày rồi, con sẽ cưỡi voi chúa trắng sáu ngà cùng với vô số Bồ Tát vây quanh, hiện ra trước mặt người ấy với thân hình mà hết thảy chúng sanh đều ưa thích muốn nhìn, vì người ấy thuyết pháp, tuần tự chỉ bày, dạy dỗ, khuyến khích lợi ích, khiến cho đạt được niềm vui chân thật, lại cũng trao cho người ấy chú đà-la-ni. Có được chú đà-la-ni này thì không loài phi nhân nào có thể phá hoại, cũng không bị nữ sắc làm cho mê hoặc tán loạn. Đích thân con cũng sẽ thường bảo vệ người ấy. Nguyện đức Thế Tôn nghe con nói ra chú đà-la-ni này.”
Liền đó, Bồ Tát Phổ Hiền ở trước Phật nói ra thần chú:
“A đàn địa, đàn đà bà địa, đàn đà bà đế, đàn đà cưu xá lệ, đàn đà tu đà lệ, tu đà lệ, tu đà la bà để, Phật đà ba chiên nễ, tát bà đà la ni a bà đa ni, tát bà bà sa a bà đa ni, tu a bà đa ni, tăng già bà lý xoa ni, tăng già niết dà đà ni, a tăng kỳ, tăng già ba già địa, đế lệ a nọa tăng già đâu lược a la đế bà la đế, tát bà tăng già tam ma địa già lan địa, tát bà đạt ma tu ba lợi sát đế, tát bà tát đỏa lâu đà kiêu xá lược a nâu già địa, tân a tỳ cát lợi địa đế.”
“Bạch Thế Tôn! Nếu có Bồ Tát nào được nghe đà-la-ni này, nên biết đó là sức thần thông của Bồ Tát Phổ Hiền; nếu kinh Pháp hoa lưu hành trong cõi Diêm-phù-đề, có người thọ trì thì nên nghĩ rằng: ‘Đều là do sức oai thần của Bồ Tát Phổ Hiền.’”
- Thứ ba, sau khi người ấy “một lòng tinh tấn trong suốt hai mươi mốt ngày” thì Bồ Tát lại cũng sẽ “cưỡi voi chúa trắng sáu ngà… vì người ấy thuyết pháp, tuần tự chỉ bày, dạy dỗ, khuyến khích lợi ích, khiến cho đạt được niềm vui chân thật, lại cũng trao cho người ấy chú đà-la-ni.” Phần này y theo kinh văn có thể hiểu được.
Phân đoạn thứ ba là dùng thần lực che chở. Nếu có người được nghe kinh, hoặc thọ trì kinh, không một trường hợp nào không phải do thần lực [của Bồ Tát Phổ Hiền]. Phần này y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
“Nếu có người thọ trì, tụng đọc, chân chánh nghĩ nhớ, hiểu rõ nghĩa lý, y theo kinh tu hành, nên biết là người ấy đang thực hành hạnh Phổ Hiền, ở nơi vô lượng vô biên chư Phật trồng sâu căn lành, được các đức Như Lai đưa tay xoa đầu khích lệ.”
Phân đoạn thứ tư là chỉ ra nhân duyên thù thắng. Nếu có thể làm [một trong] năm hạng pháp sư, tức là ở chỗ của ba đời chư Phật mà gieo trồng [căn lành], được thuần thục, được giải thoát. Người này cũng đồng như chư Phật trong đời tương lai được giải thoát, cho nên nói là giống như “đang thực hành hạnh Phổ Hiền”. Người này đã từng ở chỗ chư Phật trước đây gieo trồng việc lành, cho nên nói là “trồng sâu căn lành”. Người này ở chỗ đức Phật hiện nay đã được thuần thục, cho nên nói là “được các đức Như Lai đưa tay xoa đầu”.
KINH VĂN
“Nếu người nào chỉ sao chép kinh này, sau khi mạng chung sẽ sinh về cõi trời Đao-lợi, có tám mươi bốn ngàn thiên nữ tấu nhạc nghênh đón, đội mũ bảy báu, ở giữa các thiên nữ hầu hạ vui chơi thích thú, huống chi những người thọ trì, tụng đọc, chân chánh nghĩ nhớ, hiểu rõ nghĩa lý, y theo kinh tu hành.
“Nếu người nào thọ trì, tụng đọc, hiểu rõ nghĩa kinh, thì khi mạng chung được ngàn đức Phật đưa tay nâng đỡ, khiến cho không bị hoảng sợ, không đọa vào các đường ác, liền được vãng sinh đến chỗ của Bồ Tát Di-lặc ở cõi trời Đâu-suất. Bồ Tát Di-lặc có ba mươi hai tướng tốt,[249] có chúng Đại Bồ Tát cùng nhau vây quanh, có trăm nghìn muôn ức thiên nữ làm quyến thuộc, được sinh về đó có những công đức lợi ích như vậy.
Phân đoạn thứ năm là chỉ ra quả lành [sẽ được] gần đây. Chỉ có thể sao chép [kinh này] thì gần đây được sinh lên cõi trời Đao-lợi. Trọn đủ [công hạnh của] năm hạng pháp sư thì tiếp đến được sinh về cõi trời Đâu-suất, y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
“Cho nên, những người có trí nên một lòng tự mình sao chép, hoặc bảo người khác sao chép, thọ trì, tụng đọc, chân chánh nghĩ nhớ, y theo kinh này tu hành.”
Phân đoạn thứ sáu là tổng kết, từ câu “Cho nên, những người có trí…” trở đi, y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
“Bạch Thế Tôn! Nay con dùng sức thần thông để giữ gìn, bảo vệ kinh này, sau khi Như Lai đã diệt độ, ở trong cõi Diêm-phù-đề lưu hành rộng khắp, không để dứt mất.”
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Bạch Thế Tôn! Nay con dùng sức thần thông…” trở đi, nêu thệ nguyện bảo vệ hộ trì giáo pháp. Phần này y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
“Lúc bấy giờ, đức Phật Thích-ca Mâu-ni khen ngợi: “Lành thay, lành thay, Phổ Hiền! Ông có thể giúp sức giữ gìn kinh này, khiến cho nhiều chúng sanh được an vui lợi ích. Ông đã thành tựu công đức không thể nghĩ bàn, lòng từ bi sâu xa rộng lớn, từ xưa đến nay đã phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mới có thể phát nguyện thần thông như vậy, giữ gìn bảo vệ kinh này. Nay ta sẽ dùng sức thần thông để bảo vệ và giúp đỡ những người thường thọ trì danh hiệu Bồ Tát Phổ Hiền.”
Tổng đoạn thứ ba thuật lại việc phát nguyện, tức là đức Như Lai nêu những điều thù thắng để thành tựu những điểm kém hơn [trong phát nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền], giúp người tu hành thêm tăng tiến, dũng mãnh hăng hái trong việc rộng truyền [giáo pháp]. Tổng đoạn này chia làm 2 đoạn.
Đoạn thứ nhất [đức Phật] nhắc lại việc hộ trì bảo vệ giáo pháp, nói rằng: “Ông có thể… …khiến cho nhiều chúng sanh được an vui lợi ích… lòng từ bi sâu xa rộng lớn… từ xưa đến nay đã… giữ gìn bảo vệ kinh này. Nay ta sẽ dùng sức thần thông để bảo vệ và giúp đỡ…” Đức Phật còn hộ trì giáo pháp, huống chi là Bồ Tát Phổ Hiền? Phần này y theo kinh văn có thể hiểu được.
KINH VĂN
“Này Phổ Hiền! Nếu ai thọ trì, tụng đọc, chân chánh nghĩ nhớ, tu tập, sao chép kinh Pháp hoa này, nên biết là người ấy gặp Phật Thích-ca Mâu-ni, như được nghe kinh điển này từ miệng Phật nói ra; nên biết là người ấy cúng dường Phật Thích-ca Mâu-ni; nên biết là người ấy được Phật khen ngợi: ‘Lành thay’; nên biết là người ấy được Phật Thích-ca Mâu-ni đưa tay xoa đầu; nên biết là người ấy được Phật Thích-ca Mâu-ni dùng y của Phật che chở cho.”
Đoạn thứ hai từ câu “Này Phổ Hiền! Nếu ai thọ trì, tụng đọc…” trở đi, nhắc lại việc bảo vệ giúp đỡ người thọ trì giáo pháp. Tuy không nhắc lại theo đúng thứ tự nhưng vẫn đầy đủ các ý nghĩa,[250] [nên cũng chia làm 6 tiểu đoạn].
[Tiểu đoạn thứ nhất nhắc lại việc chỉ dạy giáo pháp, kinh văn nói] “Nên biết là người ấy gặp Phật Thích-ca Mâu-ni” là nhắc lại việc [ngài Phổ Hiền] hiện thân để chỉ bày giáo pháp. [Đây là hàm ý nói người thọ trì kinh] còn thấy được thân Phật là quả của muôn đức, huống chi thân cưỡi voi trắng sáu ngà còn trong vòng nhân [quả] của Bồ Tát Phổ Hiền? Người thọ trì kinh còn “được nghe kinh điển này từ miệng Phật nói ra”, huống chi là những lời dạy của Bồ Tát về những chỗ quên sót câu chữ trong kinh?
[Tiểu đoạn thứ hai nhắc lại việc dùng thần lực che chở.] Người thọ trì kinh còn “được Phật khen ngợi”, “dùng tay xoa đầu”, “dùng y của Phật che chở cho”, huống chi chỉ được Bồ Tát Phổ Hiền dùng đà-la-ni che chở thôi sao?
KINH VĂN
“Người như vậy không còn tham muốn bám chấp niềm vui thế tục, không ưa thích kinh sách hoặc kẻ sao chép kinh sách ngoại đạo,[251] cũng không thích gần gũi những kẻ ấy cùng những kẻ xấu ác, như người giết mổ gia súc, người nuôi gia súc như heo, dê, gà, chó… hoặc người săn bắt thú, người môi giới và mua bán nhan sắc phụ nữ…[252]
“Người như vậy tâm ý chân chất thẳng thắn, có sự nghĩ nhớ chân chánh, có sức phúc đức.
“Người như vậy không có phiền não do ba độc tham, sân, si; không có phiền não vì tật đố, ngã mạn, tà mạn,[253] tăng thượng mạn.[254]
“Người như vậy ít ham muốn, biết đủ, thường tu tập các hạnh Phổ Hiền.[255]
Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Người như vậy không còn tham muốn…” trở đi, nhắc lại về việc gieo nhân. Rộng nêu trong các nhân không có những điều lầm lỗi xấu ác. Người như vậy “ít ham muốn, biết đủ, thường tu tập các hạnh Phổ Hiền”, đây là nhắc lại các nhân thù thắng.
KINH VĂN
“Này Phổ Hiền! Năm trăm năm sau khi Như Lai diệt độ, nếu ai nhìn thấy người khác thọ trì, tụng đọc kinh Pháp hoa thì nên tự nghĩ rằng: ‘Người này không bao lâu sẽ đến Đạo trường, phá trừ chúng ma, thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chuyển bánh xe Pháp, đánh trống Pháp, đổ cơn mưa Pháp; sẽ ngồi trên Pháp tòa sư tử ở giữa đại chúng trời, người.’
“Phổ Hiền! Nếu người đời sau thọ trì, tụng đọc kinh Pháp hoa này, người ấy sẽ không còn tham muốn, bám chấp nơi y phục, tòa ngồi, thức ăn uống; những vật dụng cần thiết cho đời sống, chỗ mong cầu đều không thiếu thốn, ngay trong đời này cũng được phước báo [của việc thọ trì kinh này].”
Tiểu đoạn thứ tư từ câu “Này Phổ Hiền! Năm trăm năm sau khi Như Lai diệt độ…” trở đi, nhắc lại về những quả lành sẽ được gần đây. “Người này không bao lâu sẽ đến Đạo trường”, sẽ thành tựu quả Phật [là quả] rất lâu xa, đâu chỉ là những quả lành gần đây thôi sao? Lại “ngay trong đời này cũng được phước báo”, được nhiều quả lành, không chỉ là được sinh lên cõi trời.
KINH VĂN
“Nếu có kẻ khinh chê [người thọ trì kinh này], nói rằng: ‘Ông thật điên rồ, uổng công làm việc như vậy, rốt lại chẳng được gì.’ Người như vậy phải chịu tội báo, đời đời không có mắt.
“Nếu có người cúng dường, ngợi khen xưng tán [người thọ trì kinh này], ngay trong đời này sẽ được phước báo.
“Nếu có kẻ thấy người thọ trì kinh này mà nói ra những chỗ lỗi lầm sai trái của người ấy, dù đúng thật hoặc không đúng thật, thì trong đời này sẽ mắc bệnh bạch lại.[256] Nếu có người cười nhạo, đời đời sẽ bị răng thưa, răng sứt mẻ, môi xấu, mũi tẹt, chân tay cong vẹo, mắt lé, thân thể hôi hám, ung nhọt, ghẻ chốc chảy ra máu mủ, bụng trướng, khó thở, đủ các thứ bệnh nghiêm trọng.”
Tiểu đoạn thứ năm từ câu “Nếu có kẻ khinh chê…” trở đi, nhắc lại việc có thể xua đuổi tai nạn bên ngoài. Đức Phật mở rộng chỉ bày tội lỗi của người hủy báng, khiến cho rõ biết lỗi lầm để sửa đổi, không còn quấy nhiễu gây rối loạn [cho người thọ trì kinh]. Đây không chỉ là để người thọ trì kinh được dứt trừ tai nạn, mà cũng vì muốn cho kẻ hủy báng [hối cải lỗi lầm để] được sinh phước báu. Không có hủy báng, không có chướng nạn thì cả hai bên đều được an vui. Đó là lòng từ cứu độ rộng lớn không thiên lệch.
KINH VĂN
“Do vậy, này Phổ Hiền! Nếu thấy người thọ trì kinh điển này, nên đứng dậy nghênh đón từ xa, như cung kính Phật.”
Tiểu đoạn thứ sáu từ câu “Do vậy, này Phổ Hiền!...” trở đi, “nên đứng dậy nghênh đón từ xa, như cung kính Phật” là nhắc lại tổng kết về công đức của người phát khởi niềm tin.
KINH VĂN
Khi Phật thuyết phẩm Bồ Tát Phổ Hiền khuyến khích phát tâm này, có vô lượng vô biên Bồ Tát nhiều như cát sông Hằng đạt được Bá thiên vạn ức toàn đà-la-ni;[257] các Bồ Tát nhiều như số hạt bụi nhỏ trong thế giới đại thiên được trọn đủ đạo Phổ Hiền.
Đức Phật thuyết xong kinh này, các vị Bồ Tát như Bồ Tát Phổ Hiền…, các vị Thanh văn như Xá-lợi-phất… cùng chư thiên, rồng, người và phi nhân, hết thảy trong đại hội đều hết sức vui mừng, thọ trì lời Phật dạy, cùng đảnh lễ lui ra.
Tổng đoạn thứ 4 từ câu “Khi Phật thuyết phẩm Bồ Tát Phổ Hiền khuyến khích phát tâm này…” trở đi là nêu lợi ích của sự phát tâm, chia làm 2 đoạn.
Đoạn thứ nhất nêu việc nghe phẩm kinh này được lợi ích. Đạt được “toàn đà-la-ni” tức là giai vị Sơ địa; “được trọn đủ đạo Phổ Hiền” tức là giai vị Thập địa.
Đoạn thứ hai nêu việc nghe kinh [Pháp hoa] này được lợi ích. “Hết thảy trong đại hội đều hết sức vui mừng” chính là ý nghĩa [lợi ích] này. Vui mừng hoan hỷ thì như trước đã nói. Ở đây vì sao vẫn còn nhắc đến Thanh văn? Đó chỉ là do người chép kinh vẫn ghi lại theo giai vị trước đây của các vị này mà thôi. Lại nữa, người chép kinh gọi các vị này là Thanh văn Đại thừa: [Thanh nghĩa là] dùng âm thanh Phật đạo; [văn nghĩa là] khiến cho hết thảy chúng sanh đều được nghe. Ý nghĩa [Thanh văn] như vậy càng thêm sáng rõ.
___________________________
CHÚ THÍCH
[1] Văn Cú trích dẫn là “bất cửu ưng tử” (不久應死) nhưng thật ra kinh văn nói “tử thời dĩ chí” (死時已至), tuy cũng có nghĩa tương tự như không bao lâu sẽ chết.
[2] Văn Cú dùng “四依菩薩” (Bồ Tát tứ y) để chỉ tứ tín đệ tử (四信弟子), tức bốn hạng đệ tử có niềm tin vào kinh này. Chữ y có nghĩa là nương tựa, ở đây là nương tựa vào kinh này. Cho nên sau khi Phật diệt độ thì những vị này sẽ truyền rộng giáo pháp. Trong một phần sau, Văn Cú đề cập đến tứ y và gọi là sơ y nhân, đệ nhất y nhân cho đến đệ tứ y nhân. Do đó biết là chỉ bốn hạng đệ tử.
[3] Ưu-ba-cấp-đa (優波笈多) là Tổ thứ tư, được truyền pháp từ ngài Thương-na-hoà-tu (商那和修). Ngài Thương-na-hòa-tu được truyền pháp từ ngài A-nan (阿難). Ở đây nêu việc giáo hóa từ ngài Ưu-ba-cấp-đa để chứng minh việc giáo pháp tiếp tục được lưu truyền sau khi Phật thị hiện diệt độ.
[4] Thật báo độ (實報土), cũng gọi là Chân thật báo độ (真實報土), tức cảnh giới thường trụ của Báo thân Phật.
[5] Phương tiện hữu dư độ (方便有餘土), chỉ cảnh giới tịnh độ là nơi cư trú của các vị A-la-hán, Duyên giác và Bồ Tát từ Thập địa trở xuống. Các vị này đã dứt kiến hoặc, tư hoặc nhưng chưa trừ được vô minh hoặc nên gọi là hữu dư.
[6] Văn Cú nói “nhị thế” (二世) chỉ hai đời. Văn Cú ký giải thích rằng, ở đây chỉ đến chúng Bồ Tát từ lòng đất vọt lên là đệ tử trong đời quá khứ, thính chúng trên đỉnh Linh Thứu là đệ tử trong đời hiện tại.
[7] Văn trì đà-la-ni (聞持陀羅尼), là pháp tổng trì giúp hành giả khi đạt được có khả năng nghe và ghi nhớ không quên.
[8] Nhạo thuyết vô ngại biện tài (樂說無礙辯才), là một trong Tứ biện tài (四辯才) hay cũng gọi là Tứ vô ngại giải (四無礙解). Hành giả đạt được biện tài này có thể vui thích thuyết giảng giáo pháp không có gì ngăn ngại.
[9] Toàn Đà-la-ni (旋陀羅尼) là một trong ba pháp đà-la-ni sẽ được trình bày trong phẩm Bồ Tát Phổ Hiền khuyên phát tâm (thứ 28) của kinh Pháp hoa. Toàn Đà-la-ni có công năng chuyển hóa tâm bám chấp hình tướng của phàm phu để đạt đến nhận thức đúng thật về tánh không của tất cả các pháp, nên tương đương với quán Không trong Tam quán của tông Thiên Thai. Phẩm Phổ Hiền cũng nói đến pháp Bá thiên vạn ức Toàn đà-la-ni, nhưng ở đây kinh văn nói “Bá thiên vạn ức vô lượng Toàn đà-la-ni” nên không phải chỉ pháp đà-la-ni này.
[10] Tứ thiên hạ (四天下), mỗi thế giới có một cõi tứ thiên hạ, bao gồm 4 châu nằm về 4 hướng, như cõi Ta-bà có cõi tứ thiên hạ bao gồm Câu-lô châu, hay Uất-đan-việt châu nằm về phương bắc, Thiệm-bộ châu hay Diêm-phù-đề châu nằm về phương nam, Ngưu-hóa châu hay Cồ-da-ni châu nằm về phương tây, Thắng-thần châu hay Phất-bà-đề châu nằm về phương đông.
[11] Đây là nói về ba phần kinh văn mở đầu đức Phật nói về những chúng sanh được lợi ích sau khi nghe Phật thuyết dạy về tuổi thọ của Như Lai.
[12] Ngoại phàm: phàm phu và các giai vị sơ cơ, xem như chưa bước vào cảnh giới của các bậc thánh.
[13] Giai vị tam thập tâm: hành giả đã được sáu căn thanh tịnh nhưng chưa vào Sơ địa.
[14] Phần này liệt kê từ hàng Bồ Tát Thất địa trừ được 2 phẩm phiền não, cho đến Bát địa, Cửu địa, Thập địa cũng đều như vậy, nên trừ được cả thảy 8 phẩm, cho đến chứng nhập Kim cang tâm là tâm cuối cùng trước khi thành Phật thì đoạn trừ một phẩm cuối cùng. Đây là đang trình bày theo cách giải thích của ngài Quang Trạch.
[15] Ở đây, dựa vào khả năng đoạn trừ phiền não có 2 phẩm thượng, hạ như đã nói, Bồ Tát ở mỗi giai vị được phân ra thành hạ nhẫn và thượng nhẫn.
[16] Do phần dẫn ý tiếp theo nên biết là đang nói đến bộ Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Luận Ưu-ba-đề-xá (妙法蓮華經論優波提舍) của ngài Thiên Thân (Thế Thân).
[17] Chỉ giai vị của hàng Bồ Tát khi tu tập đồng thời 6 ba-la-mật cho trọn đủ công hạnh để bắt đầu tiến lên Sơ địa.
[18] Vô đẳng đẳng: chỉ quả vị Phật, vì không giai vị nào khác có thể sánh bằng nên gọi là vô đẳng đẳng.
[19] Nguyên tác là “phúc đức môn” (福德門), phân biệt với “trí tuệ môn” (智慧門), chỉ hai phương thức tu tập. Tu tập phúc đức tức là nhấn mạnh vào các ba-la-mật như bố thí, trì giới, nhẫn nhục… trong khi tu tập trí tuệ là nhấn mạnh Bát-nhã ba-la-mật. Bồ Tát phải tu tập song song cả phúc đức và trí tuệ, nhưng ở đây nói đến sự nhấn mạnh hơn trong mỗi giai đoạn.
[20] Nguyên tác dùng “ngũ vị” (五 味), tức năm vị khác nhau làm từ sữa, theo trình tự chế biến ngày càng tốt hơn, gồm: nhũ (sữa tươi), lạc (sữa nấu đặc, cũng gọi là cao sữa), sinh tô (váng sữa sống), thục tô (váng sữa chín) và đề-hồ, để chỉ năm tầng bậc giáo pháp được đức Phật tuần tự thuyết giảng, gồm: giáo pháp Hoa nghiêm, A-hàm, Phương đẳng, Bát-nhã và cuối cùng là Niết-bàn, Pháp hoa.
[21] Nguyên văn là “天鼓自鳴 - thiên cổ tự minh”, tức là trống của chư thiên, tự phát ra âm thanh mà không cần phải dùng dùi trống đánh vào.
[22] Chín phương, chỉ 4 phương chính là đông, tây, nam, bắc và 4 phương phụ ở giữa là đông nam, đông bắc, tây nam, tây bắc cùng với phương trên tức là hư không. Khi nói thập phương (mười phương) tức là có thêm phương dưới.
[23] Nguyên tác dùng “đại sự” (大事), theo ý nghĩa trong kinh này là chỉ “đại sự nhân duyên” đức Phật ra đời chính là vì chúng sanh “khai thị ngộ nhập Phật tri kiến”.
[24] Nguyên tác dùng “tứ tín đệ tử” (四信弟子), theo ý nghĩa trong kinh Pháp hoa này là chỉ bốn hạng đệ tử được phân chia theo mức độ niềm tin và sự nhận hiểu. Thứ nhất là hạng nghe hiểu, có niềm tin nhưng không thể vì người khác giảng nói; thứ hai là hạng tin nhận và có thể vì người khác giảng giải sơ lược; thứ ba là hạng có niềm tin và nghe nhiều hiểu rộng, có thể vì người khác giảng rộng; thứ tư là hạng tin sâu, hiểu rõ, có khả năng thuyết pháp rộng rãi, đầy đủ cả năng lực quán chiếu và thực hành.
[25] Tức là các phẩm Phân biệt công đức, Công đức tùy hỷ, Công đức pháp sư, Bồ Tát Thường Bất Khinh và Thần lực Như Lai. Các phẩm này đều thuyết dạy công đức của kinh này sau khi Phật diệt độ.
[26] Về bốn hạng đệ tử có niềm tin (四信弟子 - tứ tín đệ tử) này, trong phần sau được Văn Cú gọi là “四依 - tứ y” và phân biệt thành 4 hạng: sơ y nhân (初依人), đệ nhị y nhân (第二依人), đệ tam y nhân (第三依人) và đệ tứ y nhân (第四依人).
[27] Nguyên tác dùng “tam đế” (三諦), chỉ không đế (空諦), giả đế (假諦) và trung đế (中諦) là ba chân lý đạt được nhờ tu tập ba pháp quán: không quán, giả quán và trung quán.
[28] Nguyên tác dùng thiết luân vị (鐵輪位), tức các giai vị thuộc Thập tín (十信), cũng gọi là Tín vị (信位).
[29] Theo Văn Cú ký thì chỗ này lẽ ra là Sơ tín, giai vị đầu tiên của Thập tín, có thể do chép nhầm thành Sơ trụ.
[30] Nguyên tác là “諸有得法者, 懷於增上慢 - chư hữu đắc pháp giả, hoài ư tăng thượng mạn” (những người được pháp mà ôm lòng tăng thượng mạn). Bản Anh ngữ của H. Kern diễn đạt khác: “bear the contemptuous words of unbelievers who are rooted in pride” (nhẫn chịu lời khinh chê của những kẻ không có lòng tin và đắm chìm trong sự kiêu mạn). Do khác biệt này, chúng tôi cho rằng bản Hán thật ra muốn nói đến những người “có học pháp”, “được gặp giáo pháp” chứ không phải “đắc pháp” theo nghĩa đã chứng đắc pháp. Như vậy phù hợp hơn với ý nghĩa “tăng thượng mạn”.
[31] Văn Cú nói “tụng ngược” (truy tụng) là vì trong kinh văn trường hàng thì ý nghĩa này nằm trước, nay trong kệ tụng đặt ở sau.
[32] Đèn bơ: loại đèn dùng bơ làm từ sữa để thắp sáng.
[33] Nhất thiết chủng trí (一切種智): trí tuệ rõ biết rộng khắp, bao trùm tất cả, là danh xưng khác để chỉ trí tuệ Phật, cũng gọi là Nhất thiết trí (一切智).
[34] Vàng diêm-phù-đàn (jambūnada-suvarṇa) là loại vàng rất quý có màu vàng pha sắc đỏ, chỉ có ở khúc sông chảy ngang qua rừng cây diêm-phù, nên có tên gọi như vậy.
[35] Nguyên tác là “以界八道 - dĩ giới bát đạo”. Bát đạo là 8 con đường, trong mô tả thế giới ở đây là 8 con đường từ trung tâm đi về 8 hướng. Cách mô tả ở đây là rút ngắn, vì nói đủ là “為繩以界八道 - vi thằng dĩ giới bát đạo” (làm thành dây giăng theo bên đường), có nghĩa là những sợi dây bằng vàng để phân chia lộ giới.
[36] Nguyên tác Hán văn là “頂戴如來 - đỉnh đái Như Lai”. Bản Anh ngữ của H. Kern dịch từ Phạn ngữ có vẻ như đủ nghĩa hơn: “He who after collecting this Dharmaparyaya into a volume carries it on his shoulder carries the Tathâgata on his shoulder.” (Người nào thu thập quyển kinh này rồi mang vác trên vai tức là đang mang vác đức Như Lai trên vai.)
[37] Bốn sự thiết yếu, chỉ 4 vấn đề cần thiết cho sự tu tập của chư tăng, bao gồm thức ăn uống, y phục, chỗ nghỉ và thuốc men trị bệnh. Kinh văn chỉ nói ngắn gọn là “四事 - tứ sự” (bốn việc).
[38] Tiêu và địch đều là các loại ống sáo, ống tiêu là loại sáo thổi dọc, ống địch là loại sáo thổi ngang.
[39] Ở đây theo sát cách diễn đạt của Hán văn: “作諸殿堂三十有二 - tác chư điện đường tam thập hữu nhị”. Tuy nhiên, bản Anh ngữ dịch từ Phạn ngữ của H. Kern mô tả chỗ này là “with thirty-two pinnacles, eight stories” (với 32 ngọn tháp, 8 tầng). Trong sách Tây vực ký, khi mô tả về cách dựng chùa ở Ấn Độ, ngài Huyền Trang viết: “諸僧 伽 藍,頗極奇製。隅樓四起,重閣三層 - Chư tăng già lam phả cực kỳ chế, ngung lâu tứ khởi trùng các tam tằng” (Những ngôi chùa thì có cách xây dựng cực kỳ đặc biệt. Bốn góc chùa đều có lầu, xây cao lên ba tầng.) (Tây vực ký, quyển 2 - ĐCT, T51, 2087, tr. 876a, d. 29) Theo đây mà xét thì rất gần với cách mô tả trong bản Anh ngữ, có thể kinh văn muốn nói đến 32 tòa lầu cao được xây lên chung quanh ngôi chùa chứ không phải 32 tòa điện đường. Những tòa lầu này nhằm mục đích trang trí, tạo ra sự tôn nghiêm chứ không phải để cư trú hay sử dụng.
[40] Cây đa-la (多羅樹) là một loại cây lớn, mô tả ở đây chỉ muốn nói là rất cao, không phải nêu ra một chiều cao chính xác.
[41] Nguyên tác là “百千比丘於其中止 - bá thiên tỳ-kheo ư kỳ trung chỉ”, bản dịch của H. Kern chỉ nói là “fit for a thousand monks” (đủ chỗ cho 1.000 vị tăng).
[42] Sinh thân xá-lợi (生身舍利): tức xá lợi do nhục thân của đức Phật lưu lại sau khi diệt độ.
[43] Hạng đầu tiên trong 5 hạng người vừa nói trên, tức là hạng khởi tâm tùy hỷ.
[44] Nguyên tác dùng sơ thiên (初篇), nhị thiên (二篇). Theo cách phân chia ngũ thiên (五篇) của giới luật thì sơ thiên là các giới ba-la-di, nhị thiên là các giới tăng tàn. Đây là các giới rất nghiêm trọng, nên người đã nghe kinh tùy hỷ, phát triển tâm hiền thiện thì tự nhiên không thể phạm vào.
[45] Nguyên tác nói từ tam thiên (三篇) trở đi, tức là nói đủ tam thiên, tứ thiên và ngũ thiên. Tam thiên là các giới Ba-dật-đề, tứ thiên là các giới Ba-la-đề đề-xá-ni, ngũ thiên là các giới Đột-cát-la. Đây là các giới vi tế, nhỏ nhặt hơn, người thọ giới phải lưu tâm trong từng hành vi, cử chỉ mới có thể không phạm vào.
[46] Nguyên tác dùng “一心 - nhất tâm” để chỉ thiền định. Vì ở đây đang đề cập 6 pháp ba-la-mật nên chúng tôi vẫn dịch là thiền định để dễ nhận hiểu hơn.
[47] Tức là các phương đông nam, đông bắc, tây nam và tây bắc.
[48] Nguyên tác Hán văn là “已趣道場,近阿耨多羅三藐三菩提,坐道樹下 - dĩ thú đạo trường, cận A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, tọa đạo thụ hạ”, có vẻ như không hợp lý về trình tự khi đặt “ngồi dưới cội Bồ-đề” về cuối cùng. Bản Anh ngữ dịch từ Phạn ngữ của H. Kern là: “…must be considered to make for the terrace of enlightenment; … steps towards the foot of the tree of enlightenment in order to reach enlightenment” (… phải được xem như xây dựng nền tảng giác ngộ;… bước đến dưới cội cây giác ngộ để đạt đến sự giác ngộ). Chúng tôi cho rằng việc “ngồi dưới cội Bồ-đề” đặt ở trước là hợp lý hơn.
[49] Thiết luân (鐵輪): theo giáo lý tông Thiên Thai tức là hàng Thập tín.
[50] Đồng luân (銅輪): theo giáo lý tông Thiên Thai tức là hàng Thập trụ.
[51] Tám tướng thành Phật: tức là các tướng thị hiện của một vị Phật ra đời, bao gồm: giáng thần, nhập thai, đản sinh, xuất gia, hàng ma, thành đạo, thuyết pháp, nhập Niết-bàn.
[52] Văn Cú ký giải thích rằng bốn hạng đệ tử có niềm tin (tứ tín) trong thính chúng khi Phật thuyết giảng kinh này là tương đương với năm hạng người thọ trì kinh Pháp hoa sau khi Phật nhập diệt, chỉ thêm vào yếu tố “tự mình đọc tụng”, tức là hạng người thứ hai.
[53] Bảy hạng phương tiện: bao quát tất cả các giai vị tu tập chưa đạt được giải thoát rốt ráo, gồm: 1. Thanh văn của Tạng giáo, 2. Duyên giác của Tạng giáo, 3. Thanh văn của Thông giáo, 4. Duyên giác của Thông giáo, 5. Bồ Tát của Thông giáo, 6. Bồ Tát của Biệt giáo, 7. Bồ Tát của Viên giáo.
[54] Ở đây nhắc lại hạng thứ nhất trong năm hạng người ở cuối phẩm trước, tức là hạng chỉ vừa khởi tâm tùy hỷ.
[55] Nguyên tác là “hậu tâm” (後心), tức chỉ Kim cang hậu tâm, là tâm cuối cùng của vị Bồ Tát trước khi thành Phật.
[56] Chân nhân vị (真因位): chỉ 41 giai vị bao gồm Thập trụ, Thập hành, Thập hồi hướng, Thập địa và Đẳng giác, vì tương đối so với Chân quả (真果) là quả vị Diệu giác nên gọi là Chân nhân (真因).
[57] Nguyên tác là “bất phục kiến ái” (不伏見愛), chỉ việc không thể điều phục kiến phiền não và ái phiền não. Kiến phiền não chỉ các phiền não do mê muội không hiểu rõ lý tánh, như ngã kiến, tà kiến… Ái phiền não chỉ các phiền não do mê muội không hiểu đúng sự tướng, dẫn đến tham chấp, như tham dục, sân hận…
[58] Noãn pháp (煖法): địa vị đầu tiên trong bốn thiện căn, tương đương với ngôi vị thứ nhất trong Tứ gia hành là Noãn gia hành, có khả năng trừ diệt các kiến giải mê lầm, giống như lửa bốc cháy bắt đầu có hơi nóng, địa vị này bắt đầu có hơi nóng của Thánh trí nên gọi là noãn pháp.
[59] Nguyên tác dùng “tử quả” (子果), chỉ chủng tử làm khởi sinh quả báo trong tương lai. Bậc vô học đã dứt phiền não trong hiện tại, không còn chịu quả báo trong tương lai nên gọi là “vô quả tử” (無果子).
[60] Nguyên tác nói “phát tâm bất thức ngũ bá do-tuần” (發心不識五百由旬), lấy theo ý kinh Pháp hoa này nói ví dụ vượt qua 500 do-tuần mới đến nơi có châu báu, tức là quả Phật. Do vậy, phát tâm không biết đến 500 do-tuần có nghĩa là không biết đến quả Phật rốt ráo.
[61] Trong ngũ trụ địa hoặc (五住地惑) có Vô minh trụ địa hoặc (無明住地惑). Chỉ trừ được bốn trụ địa hoặc là gồm Nhất thiết kiến trụ địa hoặc (一切見住地惑), Dục ái trụ địa hoặc (欲愛住地惑), Sắc ái trụ địa hoặc (色愛住地惑), Hữu ái trụ địa hoặc (有愛住地惑), tức là chưa trừ được Vô minh trụ địa hoặc.
[62] Ở đây lập luận rằng người được nghe lại, được chỉ dạy lại thứ 50 là người kém nhất, vì theo khuynh hướng dần xuống thấp. Phật nói công đức của người kém nhất này để từ đó có thể hình dung biết được công đức những người khác còn hơn thế nữa.
[63] Nguyên tác dùng “tứ môn” (四門), bốn cửa vào, tức là bốn phương tiện nhập đạo khác nhau, chỉ không môn, hữu môn, diệc hữu diệc không môn và phi hữu phi không môn. Vì người vào đạo căn cơ khác nhau nên mỗi người thích hợp với một cửa vào khác nhau.
[64] Văn cú ký giải thích rằng đây là dựa theo cách tính số từ thời Hoàng Đế lập ra (此方數法黃帝所立). Tuy nhiên, cách tính ấy là thập phân, còn ở đây khác biệt là lấy số 7 làm căn bản.
[65] Nguyên tác dùng “六趣 - lục thú”, chỉ 6 cảnh giới của chúng sinh, bao gồm cõi trời, cõi người, cõi a-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh.
[66] Tức là chỉ chung tất cả những cách sinh ra của chúng sinh, trong đó thai sinh là sinh từ bào thai, noãn sinh là sinh từ trứng, thấp sinh là sinh từ nơi ẩm ướt và hóa sinh là sinh từ sự biến hóa.
[67] Nguyên tác là “示教利喜 - thị giáo lợi hỷ”, chỉ 4 giai đoạn tuần tự giáo hóa như đã giải thích ở trước.
[68] Tám pháp giải thoát bao gồm: 1. Nội hữu sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát: Ở trong sắc giới, quán nội sắc và ngoại sắc, nhằm trừ bỏ tâm ham thích sắc thể; 2. Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát: Không quán nội sắc, quán ngoại sắc, nhận ngoại sắc là ô nhiễm; 3. Tịnh thân tác chứng cụ túc tác giải thoát: Quán tưởng về thanh tịnh nhưng không chấp giữ; 4. Không vô biên xứ giải thoát: Vượt qua sắc thể, quán tưởng rằng hư không là vô biên; 5. Thức vô biên xứ giải thoát: Đạt đến ý niệm thức là vô biên; 6. Vô sở hữu xứ giải thoát: Đạt địa vị trong tâm không còn có vật gì; 7. Phi tưởng Phi phi tưởng xứ giải thoát: Đạt đến mức định Phi tưởng phi phi tưởng xứ; 8. Diệt tận định giải thoát: Đạt mức định Diệt thọ tưởng xứ.
[69] Nguyên tác là “乘天宮 - thừa thiên cung”, bởi vì cung điện của chư thiên do phước báu nên có thể di chuyển khắp nơi, đưa các vị đi giống như một cỗ xe. Trong Phạn ngữ dùng chữ vimāna mang cả hai nghĩa là “cung điện” hoặc “thiên xa” (cỗ xe trời), do vậy nên Hán ngữ nói là “thừa thiên cung”.
[70] Nguyên tác là “đệ lục thiên” (第六天), tức là chỉ cõi trời Tha hóa tự tại, là cõi trời cao nhất thuộc Dục giới.
[71] Nguyên tác dùng “nhất Phạm” (一梵), chỉ một vị thiên chúng ở cõi Phạm thiên, tức là cõi Sơ thiền thuộc Sắc giới, đã vượt trên Dục giới.
[72] Tức là định phúc (定福), phước đức nhờ tu thiền định và tán phúc (散福), phước đức nhờ làm những việc lợi ích thế gian.
[73] Thể pháp (體法), theo giáo lý tông Thiên Thai tức là thấu triệt được “đương thể tức không”, tức thời nhận biết tánh thể của tất cả các pháp vốn đều là không. Người tu tập trong ba thừa không nhất định phải trải qua các bước suy xét, phân tích, chia chẻ… mà vẫn có thể đạt đến sự trực tiếp nhận biết thấu suốt như vậy, gọi là thể pháp.
[74] Văn Cú dùng “薩埵” (tát-đóa) để thay cho Bồ-đề-tát-đóa (菩薩薩埵), tức là Bồ Tát.
[75] Pháp Phật ở đây được dùng với nghĩa là pháp rốt ráo đưa đến thành tựu quả Phật, những pháp khác đều có giới hạn quả vị, không rốt ráo thành Phật.
[76] Nguyên tác là “人相具足 - nhân tướng cụ túc” (tướng người đầy đủ), tức là chỉ việc sinh ra làm người với đầy đủ mọi giác quan bình thường, không có gì khiếm khuyết, bất thường.
[77] Ở đây so sánh với trong kinh văn trường hàng thì ý nghĩa này được trình bày sau.
[78] Nói “tụng ngược” (truy tụng) vì trong kinh văn trường hàng thì ý nghĩa này được trình bày trước.
[79] Phần trước đã giải thích, trong 5 hạng người nghe kinh Pháp hoa đời sau, gồm hạng thứ nhất là trực tiếp khởi tâm tùy hỷ, thứ hai là thêm tự mình thọ trì đọc tụng, thứ ba là thêm khuyến khích người khác thọ trì đọc tụng, thứ tư là tu tập thêm sáu ba-la-mật, thứ năm là chuyên tu công hạnh sáu ba-la-mật.
[80] Trong phẩm Pháp sư nói có 5 loại pháp sư. Thứ nhất là [pháp sư] thọ trì kinh; thứ hai là đọc kinh; thứ ba là tụng kinh; thứ tư là thuyết giảng kinh và thứ năm là sao chép kinh. Nếu theo đây thì có chút nhầm lẫn, vì đọc và tụng đã được phân thành 2 loại.
[81] Ở đây đề cập các giai đoạn thành tựu một quả vị. Trước tiên là hành giả đạt được sự tương tự, gần giống nhưng chưa phải thực chứng; tiếp theo là thể chứng được một phần, từng phần (phần chứng) nhưng chưa toàn triệt; cuối cùng là giai đoạn thực sự thành tựu trọn vẹn, gọi là chân thật.
[82] Bốn ý như trên được Văn cú ký giải thích là dựa theo Tứ tất đàn. Ý thứ nhất là thế giới tất đàn, ý thứ hai là vị nhân tất đàn, ý thứ ba là đối trị tất đàn và ý thứ tư là đệ nhất nghĩa tất đàn.
[83] Kinh Đại Bát Niết-bàn (大般涅槃經), quyển 23 (Bắc bản), ĐCT, T12, 374, tr.503a, d.4-5.
[84] Nguyên tác dùng “眼功德 - nhãn công đức”, “耳功德 - nhĩ công đức” v.v. Các bản dịch trước đây hiểu là “công đức nơi mắt, công đức nơi tai…”. Tham khảo giảng giải trong kinh Lăng nghiêm và các kinh luận khác nói về công đức của 6 căn thì đây là “công đức của mắt, công đức của tai…” do các căn này tạo ra, chứ không phải chỉ đến công đức ở những nơi đó. Ví dụ như nhãn căn thanh tịnh tạo ra được 800 công đức, vì mắt chỉ có thể nhìn được phía trước và hai bên; nhĩ căn thanh tịnh tạo ra được 1.200 công đức, vì tai có khả năng nghe khắp chung quanh. Những công đức này được tạo ra do nhãn căn, nhĩ căn… thanh tịnh, và sự thanh tịnh này có được nhờ đọc, tụng, giảng giải, sao chép kinh Pháp hoa. Đây là ý nghĩa của phẩm kinh này. Tham khảo bản Anh ngữ của H. Kern cũng dịch tương tự là “eight hundred good qualities of the eye” (800 công đức của mắt).
[85] Chuông lắc, cũng gọi là cái linh, chỉ loại chuông nhỏ có thanh kim loại treo bên trong, khi cầm lắc hay lúc treo có gió lay thì phát ra âm thanh.
[86] Tức là sáu cảnh giới tái sinh của chúng sinh, bao gồm cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, cõi người, cõi a-tu-la và cõi trời
[87] Văn cú nói là “hỗ văn” (互聞) chỉ việc nghe có sự hỗ dụng giữa các căn khác với tai, có thể dùng thay cho nhau.
[88] Đa-ma-la-bạt: một loại chiên đàn quý đã nói ở trước.
[89] Hương đa-già-la (H. 多伽羅香, S. tagara), loại hương thơm được chế từ cây đa-già-la.
[90] Cây ba-lợi-chất-đa-la (H. 波利質多羅樹, S. pārijātaka), cây lớn đặc biệt nằm ở thành Thiện Kiến trên cung trời Đao-lợi, cao 100 do-tuần, cành lá hoa trái đều có mùi thơm, tỏa khắp cung trời nên gọi là cây hương biến (香遍樹).
[91] Cây câu-bệ-đà-la (H. 拘鞞陀羅樹, S. kovidāra), loại cây rất cao lớn, hình dáng đẹp, cành lá sum suê tươi tốt không lúc nào đổi màu.
[92] Thích Đề Hoàn Nhân (S. Śakra Devānāmindra, H. 釋提桓因), vị thiên chủ cõi trời Đao-lợi, cũng gọi là Thiên Đế hay Thiên Đế Thích.
[93] Phạm thế (H. 梵世, S. brahmaloka), tức Phạm thế giới, chỉ cõi trời do Phạm thiên cai quản.
[94] Tô du (酥油) được chế biến từ sữa bò bằng cách lấy váng sữa, cô đặc lại, có thể dùng trị bệnh. Có 2 loại là sinh tô (生酥), tức bơ sống, và thục tô (熟酥), bơ chín.
[95] Bảy báu tự nhiên hiện ra do phước báu của vị Chuyển luân vương bao gồm: luân bảo (bánh xe báu, có thể đưa vua đi chinh phục khắp nơi); tượng bảo (voi quý); mã bảo (ngựa quý); châu bảo (các loại châu báu quý giá); nữ bảo (người con gái khéo hầu hạ, luôn rõ biết ý vua); chủ tạng bảo (vị quan giữ kho tài giỏi, rõ biết tất cả các kho tàng chôn giấu trong lòng đất); chủ binh thần bảo (vị tướng quân giỏi việc chinh phạt).
[96] Nguyên tác là “乘其宮殿 - thừa kỳ cung điện”, e rằng có sự nhầm lẫn giữa cung điện của chư thiên (vimāna), vốn được sử dụng như những cỗ xe, có thể đưa các vị đi khắp nơi tùy ý muốn. Cung điện của các vị Chuyển luân vương ở cõi Ta-bà không có chức năng này, nên họ phải đi trên các cỗ xe bình thường, không thể “thừa kỳ cung điện” giống như chư thiên “thừa thiên cung”, đã nói ở một phần trước.
[97] Tướng trăm phước trang nghiêm (H. 百福莊嚴相, S. śata-puṇya-vicitrita), chỉ 32 tướng tốt của Phật vì mỗi tướng đều do trăm phước trang nghiêm mà thành tựu.
[98] Kinh Kiến thật Tam-muội, tức Bồ Tát kiến thật Tam-muội kinh (菩薩見實三昧經), nay được tìm thấy là hội thứ 16: Bồ Tát kiến thật hội (菩薩見實會) trong kinh Đại Bảo Tích (大寶積經), quyển 61. (ĐCT, T11, 310)
[99] Bồ Tát Đắc Đại Thế (得大勢菩薩), tên Phạn ngữ là Mahā-sthāma-prāpta, danh xưng thường gặp hơn là Bồ Tát Đại Thế Chí (大勢至菩薩). Chánh Pháp hoa kinh gọi tên vị này là Bồ Tát Đức Đại Thế (德大勢菩薩).
[100] Tham khảo Chánh Pháp hoa Kinh, đoạn tương ứng nói rằng: “時此諸佛次第滅度,正法沒已像法次盡,彼世比丘,憍慢自大越背法詔。 - Thời thử chư Phật thứ đệ diệt độ, chánh pháp một dĩ tượng pháp thứ tận, bỉ thế tỳ-kheo, kiêu mạn tự đại việt bội pháp chiếu.” (ĐCT, T9, 263, tr.122c, d. 20 - 22) Nếu hiểu theo câu này thì việc các tỳ-kheo “kiêu mạn, tự đại” là xảy ra sau thời tượng pháp của vị Phật cuối cùng trong số hai muôn ức đức Phật có danh hiệu Oai Âm Vương. Điều này có vẻ như hợp lý hơn, vì nếu trong câu chuyện này, sự việc xảy ra sau khi đức Phật đầu tiên (tối sơ) diệt độ, thì không có lý do gì để phải đề cập đến tất cả những vị Phật tiếp theo trong số hai muôn ức vị Phật cùng một danh hiệu. Trong phần kệ trùng tụng tiếp theo không thấy nhắc đến chi tiết “hai muôn ức vị Phật”.
[101] Nguyên tác dùng “bản sự” (本事) để chỉ câu chuyện tiền thân của đức Phật Thích-ca Mâu-ni.
[102] Khai quyền hiển thật (開權顯實): tức là chỉ bày và phủ nhận các pháp quyền thừa trước đây để hiển lộ, làm rõ pháp chân thật rốt ráo. Do vậy chữ khai (開) vừa có nghĩa khai mở, chỉ bày, vừa có nghĩa khai trừ, trừ bỏ.
[103] Khai cận hiển viễn (開近顯遠): tức là chỉ bày và phủ nhận việc đức Phật vừa thành đạo gần đây để hiển lộ, làm rõ sự thật rốt ráo là đức Phật vốn đã thành Phật từ lâu xa về trước.
[104] Ba nghiệp là thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp vừa kể, khi kết hợp với tâm từ bi thì thành bốn hạnh an vui (tứ an lạc hạnh - 四安樂行) đã được kể trong phẩm Hạnh an vui, bao gồm: thân an lạc hạnh (身安樂行), khẩu an lạc hạnh (口安樂行), ý an lạc hạnh (意安樂行) và thệ nguyện an lạc hạnh (誓願安樂行).
[105] Có lẽ do ý nghĩa này, trong kinh Chánh Pháp hoa gọi tên vị này là Thường Bị Khinh Mạn (常被輕慢).
[106] Bản địa (本地): tức bản nguyên từ xa xưa. Ở đây nói giáo pháp “khai cận hiển viễn” tức là chỉ lời dạy của Phật nêu rõ việc đức Phật vốn đã thành Phật từ lâu xa về trước (hiển viễn), không phải mới gần đây nơi Bồ-đề Đạo tràng (khai cận).
[107] Độc cổ (毒鼓), trống có độc, ví dụ đã được dẫn một lần trong phần Giải thích phẩm Phương tiện, nêu việc mặt trống có tẩm độc khi đánh lên thì người nghe phải chết, nhưng trống ấy ví như Đại thừa nên cũng phá trừ hết vô minh, khiến người nghe về sau có thể khai mở tánh Phật.
[108] Kinh văn chỗ này chỉ nói đến Bồ Tát, tỳ-kheo và ưu-bà-tắc, không đề cập đến nữ giới trong khi phần trước đã nhiều lần đề cập đủ bốn chúng, tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di. Tham khảo kinh Chánh Pháp hoa thì đoạn tương đương là: “今此會中颰陀和等五百菩薩,師子月等五百比丘、比丘尼,今在佛前五百清信士、五百清信女等,皆不退轉,當成無上正真之道。 - Kim thử hội trung Bạt-đà-hòa đẳng ngũ bách Bồ Tát, Sư Tử Nguyệt đẳng ngũ bách tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni; kim tại Phật tiền ngũ bách thanh tín sĩ, ngũ bách thanh tín nữ đẳng, giai bất thối chuyển, đương thành Vô thượng Chánh chân chi đạo.” (ĐCT, T9, 263, tr.123b, d.22-25) (Nay trong hội này là nhóm Bạt-đà-hòa năm trăm Bồ Tát, nhóm Sư Tử Nguyệt năm trăm tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, và ở trước Phật có năm trăm cư sĩ nam, năm trăm cư sĩ nữ, đều đã được bất thối chuyển, sẽ thành tựu đạo Vô thượng Chánh chân.) Đoạn này có vẻ hợp lý hơn khi đề cập đầy đủ bốn chúng. Bản của H. Kern dịch từ Phạn ngữ sang Anh ngữ là: “They are, in this very assembly, the five hundred Bodhisattvas headed by Bhadrapāla, the five hundred nuns following Simhakandrā, the five hundred lay devotees following Sugataketanā, who all of them have been rendered inflexible in supreme, perfect enlightenment.” (Ngay trong pháp hội này, họ chính là năm trăm Bồ Tát do Bạt-đà-bà-la dẫn dắt, năm trăm tỳ-kheo-ni đi theo Sư Tử Nguyệt, năm trăm cư sĩ đi theo Thiện Thệ Tràng, tất cả đều đã được bất thối chuyển đối với đạo Giác ngộ Vô thượng.) Ở đây có đề cập đến tỳ-kheo-ni, và tên gọi Simhakandrā (Sư Tử Nguyệt) cũng có vẻ là một người phái nữ.
[109] Tương ứng với 5 loại pháp sư đã giảng nên đây là 5 pháp thực hành đối với kinh văn, bao gồm: thọ trì, tụng, đọc, giảng nói, sao chép.
[110] Chúng tôi chưa tìm ra đoạn trích dẫn này trong kinh Phật tạng (佛藏經 - ĐCT, T15, 653).
[111] Nguyên tác là “ngưu bì, long thằng” (牛皮龍繩) chỉ da bò và loại dây buộc làm bằng loại cỏ râu rồng. Da bò khô nếu khoác lên người thì ngày càng co rút lại, bó chặt rất khó cởi ra; cỏ râu rồng dùng làm dây trói, khi ngâm nước thì siết chặt lại, khiến người bị trói rất đau đớn. Hai ví dụ này để chỉ tình huống ngày càng bị trói buộc nhiều hơn, không thể thoát được nên không tránh được tai họa.
[112] Văn cú dẫn bốn câu kệ này là: “諸佛說空法, 本為化於有; 若有著空者, 諸佛所不化。” - Chư Phật thuyết ‘không’ pháp, bản vị hóa ư hữu; nhược hữu trước ‘không’ giả, chư Phật sở bất hóa.” Nguyên văn trong Trung luận, quyển 2 có khác biệt nhỏ về cách diễn đạt: “大聖說空法, 為離諸見故; 若復見有空, 諸佛所不化 - Đại thánh thuyết ‘không’ pháp, vị ly chư kiến cố; nhược phục kiến hữu ‘không’, chư Phật sở bất hóa.” (ĐCT, T30, 1564, tr.18c, d.16-17)
[113] Tướng lưỡi rộng dài, tức quảng trường thiệt tướng (H. 廣長舌相, S. prabhūta-jihvatā), là một trong 32 tướng tốt của Phật, do đã trải qua vô số kiếp chỉ nói lời chân thật. Vì thế, tướng này cũng là biểu hiện cho việc chư Phật không nói lời hư dối, chỉ nói ra những lời chân thật.
[114] Trong phẩm Hiện tháp báu, đức Phật ba lần hiện thần biến để mở rộng cõi Ta-bà cho đủ chỗ dung chứa, có nói “tất cả chư thiên và người bên ngoài đều di chuyển sang cõi khác”.
[115] Văn Cú dùng “cơ nhất” (機一), chỉ việc tất cả căn cơ đều chiêu cảm đến một quả duy nhất là quả Phật. Từ đây về sau tiếp tục nêu các phần giáo nhất, nhân nhất, hành nhất, lý nhất. Hầu hết các trường hợp giải thích của Văn Cú đều vận dụng tứ nhất theo hệ thống “giáo nhất, nhân nhất, hành nhất, lý nhất”, riêng ở đây thêm vào “cơ nhất”.
[116] Giáo nhất (教一): hết thảy giáo pháp đều thuyết dạy duy nhất một Phật thừa
[117] Nhân nhất (人一): hết thảy người tu tập đều là Bồ Tát, đều sẽ thành Phật.
[118] Hành nhất (行一): hết thảy pháp tu hành đều là công hạnh mầu nhiệm hướng đến quả Phật.
[119] Lý nhất (理一): người y pháp tu hành khai mở tri kiến Phật thấy được hết thảy tướng chân thật của các pháp chỉ có một lý thật.
[120] Nguyên văn kinh là “上行等菩薩大眾 - Thượng Hạnh đẳng Bồ Tát đại chúng”. Bồ Tát Thượng Hạnh là vị đạo sư thứ nhất đứng đầu trong số các vị Bồ Tát từ lòng đất phóng lên, do vậy có thể biết rằng ở đây đức Phật đang muốn nói với các vị Bồ Tát cùng đi trong nhóm này.
[121] Tám đức tự tại: đã có giải thích ở phẩm Tựa.
[122] Bốn câu được phân tích ở đây là nói về tứ diệu (四妙), bao gồm diệu danh (妙名), diệu dụng (妙用), diệu thể (妙體) và diệu tông (妙宗). Tên gọi tuy chỉ là giả tạm theo quy ước mà có, nhưng có thể dùng để chuyển tải, chỉ đến chân lý, gọi là diệu danh. Từ bản thể khởi lên công năng vi diệu, gọi là diệu dụng. Bản thể chân thật vốn không sinh diệt, gọi là diệu thể. Tông chỉ rốt ráo đưa đến giải thoát, gọi là diệu tông.
[123] Nguyên tác kinh văn dùng “thị giáo lợi hỷ”, tức là 4 giai đoạn giáo hóa như đã giải thích ở trước.
[124] Phần trước Văn Cú giải thích “’Có lòng đại từ bi’ là nhà Như Lai”, chỗ này đổi ý “đại từ bi” thành “đại thí chủ”.
[125] Có bản dịch trước đây hiểu lầm hai chữ “thượng hạnh” để chỉ phẩm hạnh của các vị Bồ Tát nên dịch là “vô số đại chúng Bồ-tát, bậc thượng hạnh thảy”. Tuy nhiên, đây là danh xưng của Bồ Tát Thượng Hạnh, vị đứng đầu trong số các Bồ Tát từ lòng đất vọt lên trước đó.
[126] Văn Cú dùng “牛羊眼” (ngưu dương nhãn), nghĩa đen là con mắt của loài trâu, dê, hàm ý để chỉ cách nhìn của người tầm thường, không có sự hiểu biết.
[127] Luận Thập nhị môn (十二門論). Văn Cú dẫn lược câu này theo ý chính, không theo nguyên tác, vì trong luận này tuy nói chung các vị Đại Bồ Tát nhưng không nêu tên Bồ Tát Phổ Hiền: “又觀世音, 得大勢, 文殊師利, 彌勒菩薩等, 是諸大士之所乘故, 故名為大。- Hựu Quán Thế Âm, Đắc Đại Thế, Văn-thù-sư-lợi, Di-lặc Bồ Tát đẳng… thị chư Đại sĩ chi sở thừa cố, cố danh vi đại.” (Lại nữa, các vị Bồ Tát Quán Thế Âm, Đắc Đại Thế, Văn-thù-sư-lợi, Di-lặc… các bậc Đại sĩ này đều nương theo, cho nên gọi là đại.) (ĐCT, T30, 568, tr.159c, d.18-19)
[128] Bản Đại Chánh tạng kết lại lời thưa hỏi của Bồ Tát Tú Vương Hoa ở chỗ này và xem phần tiếp theo là mô tả của người chép kinh. (ĐCT, T9, 262, tr.53a, d.8) Điều này không hợp lý, vì khi Bồ Tát thưa hỏi, đức Phật chưa giải đáp gì thì đại chúng không có lý do để hoan hỷ. Phần sau này chính là ý của Bồ Tát, rằng nếu được Phật giải đáp, đại chúng sẽ hoan hỷ. Tham khảo bản Anh dịch của H. Kern đoạn này nói là: “Let the Lord, the Tathâgata, &c., deign to tell us any part of the course of duty of the BodhisattvaMahâsattva Bhaishajyaraja, that by hearing it the gods, Nâgas, goblins, Gandharvas, demons, Garudas, Kinnaras, great serpents, men, and beings not human, as well as the Bodhisattvas Mahâsattvas from other worlds here present, and these great disciples here may be content, delighted, overjoyed.” Do vậy biết rằng cách đặt dấu câu của Đại Chánh tạng đã sai lầm.
[129] Chiên đàn kiên hắc (H. 堅黑栴檀, S. kālānusārin), một loại chiên đàn rất thơm và quý.
[130] Nguyên tác dùng “海此岸栴檀 - hải thử ngạn chiên đàn”, cũng tức là chiên đàn hải ngạn, là một loại chiên đàn cực kỳ quý giá.
[131] Thù (銖), đơn vị cân nặng ngày xưa; 6 thù bằng 1 chuy (錙), 8 thù bằng một chùy (錘), 24 thù bằng 1 lượng (两), 16 lượng bằng 1 cân (斤). Như vậy, phải 384 thù mới được 1 cân, và mỗi cân thời xưa chỉ khoảng 250 gram; 6 thù có trọng lượng khoảng hơn 9 gram.
[132] Huân lục (H. 熏陸, S. kunduru), một loại cây có nhựa, dùng làm hương đốt rất thơm, cũng gọi là nhũ hương hay nhũ đầu hương.
[133] Đâu-lâu-bà (H. 兜樓婆, S. turuṣka), một loại cỏ thơm, cũng gọi là mao hương hay bạch mao hương.
[134] Tất-lực-ca (H. 畢力迦, S. pṛkkā), một loại hương thơm, cũng gọi là xúc hương hay mục túc hương.
[135] Giao hương, tức bạch giao hương (H. 白膠香, S. sarja-rasa), là loại hương thơm chế bằng nhựa cây sa-la.
[136] Trong kinh Chánh Pháp hoa và bản dịch Anh ngữ của H. Kern đều nói là 12 năm. Kinh Chánh Pháp hoa, đoạn tương đương là: “斷絕五穀專食眾香,眾香華汁而以飲之,日使身中內外皆香,如是服香竟十二 年。” - Đoạn tuyệt ngũ cốc chuyên thực chúng hương, chúng hương hoa hiệp nhi dĩ ẩm chi, nhật sử thân trung nội ngoại giai hương, như thị phục hương cánh thập nhị niên.” (Dứt tuyệt các món ngũ cốc, chỉ ăn toàn các loại hương thơm, lại hợp các loại hương hoa để uống, khiến cho thân thể trong ngoài đều là mùi thơm, như vậy ăn uống các loại hương qua 12 năm.) (ĐCT, T9, 263, tr.125b, d.13-15) Bản Anh ngữ của H. Kern: “Bodhisattva Mahasattva Sarvasattvapriyadarśana passed twelve years in always and constantly eating those fragrant substances and drinking oil of Kampaka.” (Đại Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến trải qua 12 năm luôn luôn và liên tục ăn các loại hương thơm và uống dầu hương hoa chiêm-bặc.) Như vậy, kinh Chánh Pháp hoa mô tả nhấn mạnh là Bồ Tát không ăn vật thực khác, chỉ ăn toàn các loại hương thơm.
[137] Nguyên tác ở đây dùng chữ “布施 - bố thí” nhưng với ý nghĩa chỉ việc cúng dường Phật như đang đề cập trong ngữ cảnh. Nghĩa rộng của pháp bố thí bao gồm cả việc cúng dường chư Phật.
[138] Kinh Chánh Pháp hoa cũng dịch là 1.200 năm: “於時菩薩自然其身,千二百歲火 故不滅,- ư thời Bồ Tát tự nhiên kỳ thân, thiên nhị bách tuế hỏa cố bất diệt” (khi ấy Bồ Tát tự thiêu thân mình, qua 1.200 năm lửa vẫn chưa tắt). (ĐCT, T9, 263, tr.125b, d.25) Bản Anh ngữ của H. Kern dịch là 12 ngàn năm: “The body of Sarvasattvapriyadarsana continued blazing for twelve thousand years without ceasing to burn” (Thân thể của Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến tiếp tục cháy liên tục qua 12.000 năm.)
[139] Đà-la-ni Giải nhất thiết chúng sanh ngữ ngôn (解一切眾生語言陀羅尼), là pháp đà-la-ni hiểu rõ được tất cả các ngôn ngữ của chúng sanh.
[140] Các tên gọi na-do-tha, chân-ca-la, tần-bà-la, a-súc-bà đều là số đếm, chỉ những con số cực kỳ lớn, cũng giống như nói vô số, vô lượng…
[141] Nguyên tác nói “cao tam thế giới”, hàm ý là cao vượt qua ba thế giới. Kinh Chánh Pháp hoa nói là “高至梵天 - cao chí Phạm thiên”, phù hợp với cách diễn đạt trong nhiều phần trước. Bản Anh ngữ của H. Kern dịch là “reaching in height to the Brahma-world” (cao lên đến thế giới Phạm thiên).
[142] Văn Cú nói “tứ thánh” (四聖) để chỉ Phật, Bồ Tát, Duyên giác và A-la-hán.
[143] Kinh Đại thừa Vô lượng nghĩa nói: “Dù là nước giếng, nước ao, nước sông, nước biển... thảy đều rửa sạch được sự dơ nhớp. Pháp cũng như vậy, có thể rửa sạch được sự dơ nhớp phiền não của chúng sanh.” (ĐCT, T9, 276, tr.386b, d.6-7) (Bản Việt dịch của Nguyễn Minh Tiến, NXB Tôn giáo, Hà Nội, 2016)
[144] Văn Cú nói “tứ thập tâm” (四十心), được nói trong kinh Phạm võng, quyển thượng. Đây là các giai đoạn tu tiến từ thấp lên cao bao gồm: 10 tâm Phát thú, tức các tâm phát khởi thú hướng ban đầu: xả tâm, giới tâm, nhẫn tâm, tinh tấn tâm, định tâm, tuệ tâm, nguyện tâm, hộ tâm, hỷ tâm, đỉnh tâm; 10 tâm trưởng dưỡng, là các tâm tiếp tục tăng trưởng: từ tâm, bi tâm, hỷ tâm, xả tâm, thí tâm, hảo ngữ tâm, ích tâm, đồng tâm, định tâm, tuệ tâm; 10 tâm kim cương, là các tâm đã kiên cố: tín tâm, niệm tâm, hồi hướng tâm, đạt tâm, trực tâm, bất thối tâm, Đại thừa tâm, vô tướng tâm, tuệ tâm, bất hoại tâm; 10 tâm ở hàng Thập địa, cũng gọi là 10 địa: thể tính bình đẳng địa, thể tính thiện tuệ địa, thể tính quang minh địa, thể tính nhĩ diệm địa, thể tính tuệ chiếu địa, thể tính hoa quang địa, thể tính mãn túc địa, thể tính Phật hống địa, thể tính Hoa nghiêm địa, thể tính nhập Phật giới địa. (Phạm Võng Kinh - 梵網經, quyển 1, ĐCT, T24, 1484, tr.997c, d17 – tr.998a, d.2)
[145] Nguyên tác là “như cổ khách đắc hải”, có vẻ hơi tối nghĩa. Bản Anh dịch của H. Kern dịch câu này là “like the ocean for the rivers” (như những dòng sông gặp được biển).
[146] Đức Như Lai Đa Bảo ở trong tháp báu, vào lúc này không còn hiện thân nhìn thấy được, vì cuối phẩm Giao phó về sau thì tháp Phật tuy còn ở lại Pháp hội nhưng đã đóng lại.
[147] Văn Cú dùng “đạo khí” (道器), có nghĩa tương đương như pháp khí nhưng ít gặp hơn.
[148] Văn Cú nói là “Nhất thiết chúng sanh ngữ ngôn đà-la-ni” (一 切眾生語言陀羅尼) nhưng theo kinh văn thì vị Bồ Tát này đạt được pháp tam muội Giải nhất thiết chúng sanh ngữ ngôn tam-muội (解一切眾生語言三昧). Chúng tôi điều chỉnh đúng theo kinh văn.
[149] Tức nhục kế tướng (H. 肉髻相, S. uṣṇīṣa-śiraskatā), một trong 32 tướng tốt của đức Phật. Từ giữa đỉnh đầu có một phần xương thịt nhô cao lên, hình dạng giống như một búi tóc, nên gọi là “kế” (búi tóc).
[150] Tướng bạch hào: tức là sợi lông trắng xoắn lại nằm giữa hai chân mày của đức Phật, là nơi có thể phóng ra hào quang.
[151] Bồ Tát Diệu Âm (H. 妙音菩薩, S. Gadgadasvara).
[152] Kinh văn liệt kê 16 pháp tam-muội. Bản Anh ngữ kể ra 17 pháp, nhiều hơn một tam muội là Candrapradīpa, có thể dịch là tam-muội Nguyệt Đăng (月燈三昧), 16 pháp còn lại tương ứng nhau: tam-muội Diệu tràng tướng (Dhvajāgrakeyūra), tam-muội Pháp hoa (Saddharmapuṇḍarīka), tam-muội Tịnh đức (Vimaladatta), tam-muội Tú vương hý (Nakṣatrarājavikrīḍita), tam-muội Vô duyên (Anilambha), tam-muội Trí ấn (Jñānamudrā), tam-muội Giải nhất thiết chúng sanh ngữ ngôn (Sarvarutakauśalya), tam-muội Tập nhất thiết công đức (Sarvapuṇyasamuccaya), tam-muội Thanh tịnh (Prasādavatī), tam-muội Thần thông du hý (Ṛddhivikrīḍita), tam-muội Tuệ cự (Jñānolkā), tam-muội Trang nghiêm vương (Vyūharāja), tam-muội Tịnh quang minh (Vimalaprabhāsa), tam-muội Tịnh tạng (Vimalagarbha), tam-muội Bất cộng (Apkṛtsna), tam-muội Nhật toàn (Sūryāvarta).
[153] Nguyên tác là “甄叔迦寶 - chân-thúc-ca bảo”, chỉ một loại đá quý có màu rất đẹp, giống như hoa của cây chân-thúc-ca (kiṃśuka) nên được gọi tên theo đó.
[154] Nguyên tác nói “價直百千 - giá trị bá thiên” (giá trị trăm ngàn), không rõ nghĩa. Trong phẩm Bồ Tát Quán Thế Âm tiếp theo, ở một ngữ cảnh tương tự dùng “價直百千兩金 - giá trị bá thiên lượng kim” (ĐCT, T9, 262, tr.57b, d.25-26) nên có thể biết rằng ở đây kinh văn nói lược, thay vì nói đủ là “trăm ngàn lượng vàng”.
[155] Nguyên tác dùng “五情 - ngũ tình” để chỉ 5 căn: mắt, tai, mũi, lưỡi và thân, do 5 căn này làm khởi sinh tình thức nên gọi là ngũ tình.
[156] Nguyên tác là “憙見 - Hý Kiến”, chữ “憙 - hý” có nghĩa là vui sướng, hài lòng, mừng rỡ…, khác với chữ “喜 - hỷ”.
[157] Nguyên tác dùng “難處 - nan xứ”, tức bát nan xứ (八難處), chỉ những điều kiện khó gặp Phật pháp. Kinh Chánh Pháp hoa dịch là “及諸八難 - cập chư bát nan”. Tám nan xứ hay 8 điều kiện khó gặp Phật pháp bao gồm: 1. Địa ngục (地 獄; Phạn ngữ: naraka); 2. Súc sanh(畜生; Phạn ngữ: tiryañc); 3. Ngạ quỉ (餓鬼; Phạn ngữ: preta); 4. Trường thọ thiên (長壽天; Phạn ngữ: dỵrghyurdeva), là cõi trời thuộc Sắc giới với thọ mạng cao. Thọ mạng cao cũng là một chướng ngại vì nó làm mê hoặc người tu, làm cho dễ quên những nỗi khổ của sanh lão bệnh tử trong luân hồi; 5. Biên địa (邊地; Phạn ngữ: pratyantajanapda), là những vùng không nằm nơi trung tâm, chẳng hạn như biên giới, nơi hẻo lánh, không thuận tiện cho việc tu học Chánh pháp; 6. Căn khuyết (根缺; Phạn ngữ: indriyavaikalya), không có đủ giác quan hoặc các giác quan bị tật nguyền như mù, câm, điếc... 7. Tà kiến (雅見; Phạn ngữ: mithydarśana), những kiến giải sai lệch, bất thiện; 8. Như Lai bất xuất sanh (如來不出生; Phạn ngữ: tathgatnm anutpda), nghĩa là sanh sống trong thời gian không có Phật hoặc giáo pháp của Phật xuất hiện. Trong một số kinh luận giải thích khác biệt về hai nan xứ thứ 5 và thứ 7: biên địa được thay bằng châu Uất-đan-việt, vì cho rằng chúng sanh ở châu này hưởng nhiều sự sung sướng nên khó tu tập; tà kiến được thay bằng “thế trí biện thông”, vì cho rằng người học nhiều biết rộng sẽ khó khăn hơn trong việc tiếp nhận Chánh pháp.
[158] Kinh văn gọi là “tổng trì”, phần giảng giải này gọi là “đà-la-ni” vì cả hai cách gọi này có ý nghĩa như nhau.
[159] Kinh văn chỗ này nói là “Diệu Âm Bồ Tát lai vãng phẩm” (妙音菩薩來往品) nhưng trong tên phẩm kinh chính thức không có hai chữ “lai vãng”.
[160] Văn Cú nói là “đương đồ vương kinh” (當途王經). Chữ “đồ” là đường đi, chỉ sự lưu truyền ở đời, chữ “vương” là vua, chỉ sự tôn quý bậc nhất.
[161] Những chỗ này Văn Cú dùng chữ “vân vân” (云云), có thể là lược đi so với ghi chép trong 2 quyển giảng giải như đã nói trước.
[162] Văn Cú nói là “任方圓” (nhậm phương viên), nghĩa là tùy duyên mà có thể vuông, có thể tròn, ý nói biến đổi thích hợp tùy trường hợp.
[163] Tích quán (析觀) là quán chiếu phân tích chia chẻ đối tượng; thể quán (體觀) là quán chiếu sâu vào bản thể, thực chất; thứ đệ quán (次第觀) là quán chiếu theo trình tự; viên quán (圓觀) là quán chiếu trọn vẹn, viên mãn.
[164] Văn Cú dùng “ly hoặc” (離惑) ở đây, nhưng trong phần giảng rộng theo sau dùng “đoạn hoặc” (斷惑).
[165] Bốn trụ địa phiền não: tức chỉ kiến hoặc và tư hoặc, bao gồm Kiến nhất thiết trụ địa (tức là hết thảy kiến hoặc trong ba cõi), Dục ái trụ địa (tức là hết thảy tư hoặc trong Dục giới), Sắc ái trụ địa (tức là hết thảy tư hoặc trong Sắc giới), Hữu ái trụ địa (tức là hết thảy tư hoặc trong Vô sắc giới). Bốn yếu tố này là căn bản khởi sinh của tất cả phiền não nên gọi là trụ địa. Các yếu tố này được gọi chung là kiến tư hoặc. Giáo lý tông Thiên Thai xác định Tam hoặc bao gồm kiến tư hoặc, trần sa hoặc và vô minh hoặc. Vô minh hoặc cũng chính là trụ địa phiền não thứ năm trong ngũ trụ địa hoặc (五住地惑).
[166] Phần giải thích này dựa theo giáo nghĩa của tông Thiên Thai cho rằng Nhất thiết trí dứt trừ kiến tư hoặc, Đạo chủng trí dứt trừ trần sa hoặc, Nhất thiết chủng trí dứt trừ vô minh hoặc.
[167] Đạo tiền (道前): chí các giai vị trước khi chứng ngộ thực đạo, cũng gọi là Địa tiền. Đạo trung là giai đoạn tiếp tục tu tiến sau khi chứng ngộ thực đạo. Đạo hậu là giai vị đạt được chân như thanh tịnh vô cấu.
[168] Câu này trích từ phẩm Đệ tử trong kinh Duy-ma-cật. (不起滅定而現諸威儀 – Bất khởi diệt định nhi hiện chư oai nghi. (ĐCT, T14, 475, tr.539c, d.21-22) “Diệt định” trong câu này chỉ Diệt tận định, một pháp định rất sâu, hành giả khi nhập định dứt sạch mọi hoạt động tâm lý và an trú trong trạng thái vô tâm; “hiện các oai nghi” chỉ bốn oai nghi thường nhật tức là những việc đi, đứng, nằm, ngồi. Hàm ý câu này là người tu định vẫn hiện hình tướng đi đứng nằm ngồi như bình thường nhưng không hề ra khỏi thiền định.
[169] Văn Cú dùng Chi Phật (支佛), chỉ Bích-chi Phật, cũng tức là vị Duyên giác.
[170] Văn Cú dùng “tu-la cầm” (修羅琴), chỉ cây đàn của a-tu-la, có công năng đặc biệt là tự phát ra loại âm nhạc mà a-tu-la muốn nghe, không cần người khảy đàn, do vậy ở đây dùng so sánh với sự thuyết pháp của Bồ Tát có thể khiến cho mỗi chúng sanh tùy theo căn cơ mà đều được nghe đúng loại giáo pháp thích hợp với mình.
[171] Thần Nông nếm thuốc: truyền thuyết Trung Hoa cho rằng vua Thần Nông vì muốn tìm ra các loại thuốc trị bệnh cho dân nên đã tự mình nếm thử tất cả các loại cây cỏ trong tự nhiên để xác định mùi vị và dược tính cũng như phát hiện và chỉ cho dân biết những cây cỏ có độc. Tương truyền ông chết vì nếm phải một loại cỏ cực độc và không kịp dùng thuốc giải độc.
[172] Ở đây nêu ra những việc lợi ích do người làm như đào giếng giúp người có nước dùng, đóng thuyền giúp người qua sông; và những lợi ích từ tự nhiên như mây che tạo bóng mát, mặt trời chiếu sáng mỗi ngày. Tất cả những điều này được xác định “đều là chỗ làm của Bồ Tát”.
[173] Văn Cú dùng “nhị đế” (二帝) chỉ không đế (空帝) và giả đế (假帝), tức là 2 chân lý nhận ra được nhờ thực hành quán không (thấy được thực thể của hết thảy các pháp đều là không) và quán giả (thấy được hết thảy các pháp đều là giả hợp).
[174] Bồ Tát Vô Tận Ý (H. 無盡意, S. Akṣayamati), cũng được dịch là Vô Tận Tuệ (無盡慧) hay Vô Lượng Ý (無量意).
[175] Nguyên tác là “偏袒右肩 - thiên đản hữu kiên” (vạch trần vai bên phải). Đây là nghi thức bày tỏ sự tôn kính theo lễ nghi Ấn Độ thuở xưa.
[176] Bồ Tát Quán Thế Âm (H. 觀世音菩薩, S. Avalokiteśvara), dịch âm là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la (阿縛盧枳低濕伐羅), cũng dịch nghĩa thành các tên khác như Quang Thế Âm (光世音), Quán Tự Tại (觀自在), Quán Thế Tự Tại (觀世自在), Quán Thế Âm Tự Tại (觀世音自在), Hiện Âm Thanh (現音聲), Khuy Âm (闚音), thường gặp cách gọi tắt là Bồ Tát Quán Âm (觀音菩薩).
[177] Trong đoạn này Văn Cú dùng “kỳ nhất” (其一), “kỳ nhị” (其二), “kỳ tam” (其三), “kỳ tứ” (其四), dựa theo Văn Cú ký giải thích là chỉ đến bốn tất đàn.
[178] Hai sự trang nghiêm: chỉ định và tuệ, cũng được giải thích là phước đức và trí tuệ. Có đủ hai phẩm tính này gọi là “cụ nhị trang nghiêm” (具二莊嚴).
[179] Trường hợp thứ nhất là “多苦苦一人” (đa khổ khổ nhất nhân) có vẻ như tương tự với trường hợp thứ ba là “一人受多苦” (nhất nhân thụ đa khổ). Tuy nhiên, có thể hiểu trong trường hợp thứ nhất là nhiều nỗi khổ cùng dồn ép vào làm khổ một người; còn trường hợp thứ ba là một người tuần tự trải qua nhiều nỗi khổ, chịu nhiều nỗi khổ.
[180] Nguyên tác là “黑風 - hắc phong” (gió đen), chỉ cơn bão lớn kèm theo mây đen, mưa lớn, khiến trời đất tối đen không còn ánh sáng.
[181] Thương chủ: người cầm đầu, dẫn đầu một đoàn thương nhân cùng đi buôn đường xa.
[182] Bảy loại khổ nạn được nêu lần lượt trong phẩm kinh này là: nạn lửa thiêu, nạn nước trôi, nạn la-sát, nạn dao gậy đánh chém, nạn các loài quỷ dữ, nạn gông cùm và nạn giặc cướp.
[183] Văn Cú nói “Phi tưởng thiên” (非想天), tức là cách nói tắt để chỉ cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ (非想非非想處天). Đây là tầng trời cao nhất của cõi Vô sắc nên cũng là cao nhất trong ba cõi.
[184] Ba món độc: chỉ tham, sân và si. Trong phẩm kinh này nói người trì niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm có thể xa lìa được ba món độc này.
[185] Hai sự mong cầu: chỉ việc cầu sinh con trai và cầu sinh con gái. Phẩm kinh này nói rằng người trì niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm nếu có hai sự mong cầu này sẽ được thỏa mãn.
[186] Tam mật (三密): tức thân mật, khẩu mật và ý mật. Vì ba nghiệp thân, khẩu, ý của bậc thánh là ẩn mật sâu kín, phàm phu không thể nhận biết, suy lường nên gọi là tam mật.
[187] Bồ Tát Trì Địa (H. 持地菩薩, S. Dharaṇīndhara).
[188] Văn Cú dùng “hoành thích” (橫釋) để chỉ cách giải thích không theo trình tự thời gian, nghĩa là đồng thời xảy ra và “thụ thích” (豎釋) để chỉ cách giải thích theo trình tự thời gian, như đề cập đến lúc ban sơ phát tâm rồi tu tập dần lên…
[189] Phần giảng giải của Văn Cú không đề cập đến kệ tụng theo sau kinh văn trường hàng. Văn Cú ký giải thích rằng do bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập không có phần kệ tụng. Theo Tục tăng truyện thì phần kệ này về sau do ngài Xà-na-quật-đa dịch thêm vào, nhưng giảng giải của Văn Cú là dựa theo bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập nên cũng không có phần kệ tụng.
[190] Trong đoạn này Văn Cú dùng những chữ “kỳ nhất” (其一) cho đến “kỳ tứ” (其四). Văn Cú ký giải thích rằng đó là chỉ đến Tứ tất đàn. Phần nói “kỳ nhất” đề cập đến thiện và ác khác nhau, tức là nghĩa thế giới tất đàn.
[191] Ở đây hàm ý hướng đến giải thoát, chứng ngộ, chẳng hạn như đại minh chú trong Bát-nhã tâm kinh, không được thuyết dạy nhằm các mục đích trị bệnh, diệt tội…
[192] Đoạn này Văn Cú ký giải thích rằng, tuy có nói trị tội nhưng ý nghĩa thực sự là do cảm ứng tương ưng làm phát sinh điều thiện, nên thuộc về vị nhân tất đàn.
[193] Ví dụ này trích từ kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 9: “Thiện nam tử! Lời sâu kín của Như Lai rất sâu xa, khó hiểu. Ví như vị đại vương bảo quần thần: ‘Đem tiên-đà-bà đến đây.’ Chỉ một tiếng tiên-đà-bà mà có bốn nghĩa: một là muối, hai là cái bát, ba là nước, bốn là ngựa. Bốn món ấy đều gọi cùng một tên. Vị quan có trí tuệ khéo hiểu được tiếng ấy. Như khi vua tắm rửa, gọi tiên-đà-bà thì dâng nước. Như khi vua dùng cơm, gọi tiên-đà-bà thì dâng muối. Khi vua ăn xong muốn uống nước, gọi tiên-đà-bà thì dâng bát. Khi vua muốn dạo chơi, gọi tiên-đà-bà thì dâng ngựa. Như vậy, vị quan có trí tuệ khéo hiểu được bốn cách nói sâu kín của đại vương.” (ĐCT, T12, 374, tr.421a, d.29 – tr.421b, d.7 – Bản Việt dịch của Nguyễn Minh Tiến, NXB Liên Phật Hội, 2020)
[194] Theo nguyên tác Hán văn, ở đây đức Phật chỉ lặp lại “功德甚多 - công đức thậm đa” (công đức rất nhiều), nghĩa là cũng bằng như người cúng dường chư Phật. Đoạn tương đương trong kinh Chánh Pháp hoa nói là công đức của người thọ trì kinh nhiều hơn công đức của người cúng dường chư Phật: “勝於供養若干江沙諸佛世尊 - thắng ư cúng dường nhược can giang sa chư Phật Thế Tôn” (…hơn cả việc cúng dường chư Phật Thế Tôn nhiều như số cát của bao nhiêu là con sông). (ĐCT, T9, 263, tr.130a, d.8-9) và đức Phật giải thích: “法之供養,最為第一。- Pháp chi cúng dường, tối vi đệ nhất.” (Cúng dường pháp là hơn hết.) (ĐCT, T9, 263, tr.130a, d.9-10) Bản Anh ngữ dịch từ Phạn ngữ của H. Kern cũng nói là nhiều hơn: “… on that account produce far more pious merit.” (… trường hợp đó tạo ra công đức rất nhiều hơn.)
[195] Nguyên tác là “陀羅尼神咒 - đà-la-ni thần chú”, là cách dùng lặp nghĩa thường gặp. Riêng chữ đà-la-ni (H. 陀羅尼, S. dhāraṇī) cũng thường được hiểu như thần chú, chân ngôn và được dịch sang Hán ngữ là “tổng trì” (總持), chỉ khả năng tóm thâu, nắm giữ. Do vậy, riêng trong phẩm kinh này, cách dùng những chữ “chú”, “thần chú” hay “đà-la-ni” đều giống nhau, không khác biệt.
[196] Dạ-xoa (H. 夜叉, S. yakṣa), cũng phiên âm là dược-xoa, duyệt-xoa, dã-xoa, tên một loài quỷ, Hán dịch là quỷ khinh tiệp, có tốc độ di chuyển rất nhanh lẹ. Loài quỷ này được kể vào trong 8 bộ chúng.
[197] La-sát (H. 羅刹, S. rākṣasa), tên một loài quỷ, nữ la-sát gọi là la-xoa-tư (H. 羅叉私, S. rākṣasī), Hán dịch là quỷ tốc tật (rất nhanh) hoặc quỷ khả úy (đáng sợ). Loài quỷ này có thần thông, có thể bay đi trên không trung.
[198] Phú-đan-na (H. 富單那, S. pūtana): tên một loài quỷ, dịch nghĩa có nhiều tên như xú quỷ, xú ngạ quỷ, nhiệt bệnh quỷ, tai quái quỷ… là quyến thuộc của Trì quốc thiên, gìn giữ phương đông cõi Diêm-phù-đề.
[199] Cát-già (H. 吉遮, S. kṛtya), cũng phiên âm là cát-giá (吉蔗), cát-lật-giá (吉栗蔗), ngật-lật-trước (訖栗著), tên một loài quỷ, cũng gọi là quỷ khởi thi.
[200] Ngạ quỷ (H. 餓鬼, S. preta), tên phiên âm là bệ-lệ-đa (薜荔多), tức là loài quỷ đói, do nghiệp ác đã tạo nên phải thường xuyên chịu đói khát.
[201] Tỳ-sa-môn (H. 毘沙門, S. Vaiśravaṇa), Hán dịch là Đa văn thiên (多聞天) một trong 4 vị thiên vương thủ hộ thế giới Ta-bà, nên gọi là thiên vương hộ thế. Vị thiên vương này trụ ở phía bắc núi Tu-di, thủ hộ phương bắc cõi Diêm-phù-đề.
[202] Thiên vương Trì quốc (H. S. Dhṛta-rāṣṭra), một trong 4 vị thiên vương hộ thế, trụ ở lưng chừng núi Tu-di về phía đông, thủ hộ phương đông cõi Diêm-phù-đề.
[203] Nguyên tác đoạn này là “若男形, 若女形, 若童男形, 若童女形, 乃至夢中亦復莫惱 - nhược nam hình, nhược nữ hình, nhược đồng nam hình, nhược đồng nữ hình, nãi chí mộng trung diệc phục mạc não”. Bản Anh dịch của H. Kern diễn đạt ý này rõ ràng hơn: “Even if in his dreams he has visions of women, men, boys or girls, it shall be impossible that they hurt him.” (Ngay cả như trong giấc mộng pháp sư nhìn thấy hình ảnh đàn bà, đàn ông, trẻ trai, trẻ gái, thì những điều đó cũng không thể nào gây hại cho pháp sư.)
[204] Cây a-lê (H. 阿梨樹, S. lodh), tức là cây symplocos racemosa. Nguyên tác Hán văn là “如阿梨樹枝 - như a-lê thụ chi”. Bản Anh dịch của H. Kern dịch là “a sprout of symplocos racemosa” (chồi cây symplocos racemosa). Chồi non của loại cây này mọc chỉa lên, tỏa ra nhiều hướng, rất giống với hình ảnh vật gì bị vỡ ra thành nhiều phần.
[205] Nguyên tác dùng “壓油 - áp du”, nói đủ là áp du luân tội (壓油輪罪), nghĩa là tội của người làm nghề dùng bánh xe ép dầu.
[206] Đoạn kệ này so sánh việc phạm tội nhiễu hại người trì kinh Pháp hoa cũng giống như các tội kể trên, đều phải chịu quả báo nặng nề.
[207] Quỷ khởi thi: loài quỷ có năng lực do tụng chú, có thể sai khiến xác chết đứng dậy đi giết người khác.
[208] Kinh văn gọi là quỷ kiền-đà. Văn Cú có chua thêm 2 chữ “vị tường” (未詳) nghĩa là chưa rõ, hẳn muốn nói chưa biết rõ về loài quỷ này.
[209] Kinh văn gọi là quỷ ô-ma-lặc-già. Văn Cú cũng chú là chưa rõ về loài quỷ này.
[210] Giải thích này của Văn Cú có vẻ khiên cưỡng, kinh văn không nói việc “rơi xuống đất”. Theo bản Anh ngữ dịch từ Phạn ngữ của H. Kern thì cũng chỉ mô tả là “như chồi cây a-lê”, không có “rơi xuống đất”. Chồi cây a-lê (symplocos racemosa) khi mọc ra thì tự nhiên có hình dạng giống như vật bị chẻ ra làm 7 mảnh. Có thể đây là lý do kinh văn dùng làm ví dụ.
[211] Văn Cú dùng “ngoại quốc” (nước ngoài) để chỉ ở Ấn Độ.
[212] Văn Cú bỏ sót không nhắc đến phần thứ tư là nêu việc nghe phẩm kinh này được lợi ích, có lẽ vì đơn giản dễ hiểu, như các phần trước thường nói “như văn”, nghĩa là y theo kinh văn hiểu được.
[213] Văn Cú ký giải thích chỗ này nói là “vị kiểm” (未檢), nghĩa là chưa kiểm chứng được, ý nói chưa biết ở trong kinh nào.
[214] Văn Cú nói “一餐喀喀廢萬里之行” (nhất xan khách khách phế vạn lý chi hành). Văn cú ký giải thích rằng, “khách khách” mô tả tiếng nôn ọe, ở đây để chỉ việc bữa ăn không nuốt vào được, tức là đói thiếu, có thể làm trở ngại hành trình muôn dặm, chỉ con đường tu tập dài lâu. Văn Cú nói “phế” là bỏ đi, Văn Cú ký giải thích rõ hơn là “長途妨於萬里” (trường đồ phương ư vạn lý), đường dài bị chướng ngại đến muôn dặm.
[215] Văn cú nói “thập tuần cửu phạn khuất vân tiêu chi chí” (十旬九飯屈雲霄之志), Văn cú ký giải thích “thập nhật vi tuần đãn duy cửu phạn” (十日為旬但唯九飯). Như vậy, thập tuần là chỉ một tuần 10 ngày chứ không phải 10 tuần.
[216] Bốn vị thánh: tức là Bồ Tát Diệu Âm, Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Dược Thượng và Bồ Tát Hoa Đức.
[217] Nguyên tác Hán văn là “彼佛法中有王 - bỉ Phật pháp trung hữu vương”, nhưng theo nội dung thì lúc đó nhà vua chưa biết đến Phật pháp nên phải hiểu là “trong phạm vi giáo hóa của Phật”, bởi lúc đó ông vua này chưa vào trong Phật pháp.
[218] Văn cú dùng “tứ hoằng” (四弘) thường là chỉ tứ hoằng thệ nguyện (四弘誓願), nhưng trong kinh văn đoạn này không đề cập đến tứ hoằng thệ nguyện mà chỉ nói đến tứ vô lượng tâm: từ, bi, hỷ, xả. Do vậy có thể là Văn cú muốn dùng “tứ hoằng” với nghĩa bốn điều rộng lớn, chỉ bốn tâm vô lượng.
[219] Kinh Chánh Pháp hoa và bản Anh dịch của H. Kern diễn đạt đoạn này tương đồng nhau và có phần hơi khác hơn so với bản dịch này. Theo đó, hai vị vương tử đến xin phép mẹ để đi gặp Phật, người mẹ bảo phải xin phép cha và sợ rằng ông tin theo ngoại đạo nên sẽ không cho phép. Hai vương tử biện hộ: “Chúng con tuy sinh vào nhà tà kiến nhưng thật là đệ tử đấng Pháp vương.” H. Kern: “Though born in a family that adheres to a false doctrine, we feel as sons to the king of the law.” - Kinh Chánh Pháp hoa: “我等薄相所生邪見無義之家, 又我等身本是法王子 - Ngã đẳng bạc tướng sở sinh tà kiến vô nghĩa chi gia, hựu ngã đẳng thân bản thị Pháp vương tử.” (ĐCT, T9, 263, tr.131a, d.25-26)
[220] Dựa theo kinh văn ở đây, Chỉ quán phụ hành truyền hoằng quyết (止觀輔行傳弘決) quyển 10, phân chia 18 phép thần biến là như sau: 1. Hông bên phải ra nước, 2. hông bên trái ra lửa, 3. hông bên trái ra nước, 4. hông bên phải ra lửa, 5. trên thân ra nước, 6. dưới thân ra lửa, 7. dưới thân ra nước, 8. trên thân ra lửa, 9. đi trên nước như đi trên đất, 10. đi trên đất như đi trên nước, 11. ẩn trong hư không rồi hiện ở trên đất, 12. ẩn trên đất lại hiện trong hư không, 13. đi giữa hư không, 14. đứng giữa hư không, 15. ngồi giữa hư không, 16. nằm giữa hư không, 17. hiện thân to lớn đầy ắp hư không, 18. hiện thân lớn trở thành nhỏ. (ĐCT, T46, 1912, tr.442a, d.29 – tr.442b, d.6)
[221] Thí dụ này được sử dụng trong nhiều kinh luận khác, để nói về một điều rất khó xảy ra. Ví như có con rùa mù (hoặc chột mắt) dưới biển sâu, 100 năm mới nổi lên mặt biển một lần; lại có khúc cây khô có lỗ bộng, 100 năm mới trôi ngang qua chỗ con rùa mù một lần. Việc sinh ra đời được gặp Phật cũng khó khăn như con rùa nổi lên tình cờ gặp được khúc cây khô trôi ngang qua và chui được vào lỗ bộng.
[222] Nguyên tác kinh văn dùng “示教利喜 - thị giáo lợi hỷ”, là 4 giai đoạn tuần tự trong sự giáo hóa như đã giải thích ở trước.
[223] Nguyên tác dùng “如珂月 - như kha nguyệt”, kha chỉ sắc trắng của ngọc, nguyệt chỉ ánh trăng; kha nguyệt được dùng để chỉ màu trắng tươi mát.
[224] Tần-bà (H. 頻婆, S. bimbajā), tên một loại cây thân gỗ mọc cao, trái nhỏ, có màu đỏ tươi.
[225] Nguyên tác là “教誡所行 - giáo giới sở hành” (dạy bảo, răn ngừa mọi hành vi), ở đây hàm ý dạy cho biết những điều thiện nên làm và răn ngừa, ngăn cản những điều bất thiện không nên làm. Kinh Chánh Pháp hoa diễn đạt dài hơn nhưng do đó cũng rõ nghĩa hơn: “敷演道義, 施設法禁令無罪釁,長塗之難皆得無患 - phu diễn đạo nghĩa, thi thiết pháp cấm linh vô tội hấn, trường đồ chi nan giai đắc vô hoạn” (giảng bày đạo nghĩa, thiết lập cấm giới khiến cho không phạm vào tội lỗi, nhờ đó mà trên đường dài khó khăn không gặp hoạn nạn). (ĐCT, T9, 263, tr.132b, d. 14-15)
[226] Nguyên tác là “不復自隨心行 - bất phục tự tùy tâm hành”. Tâm hành chỉ cho những trạng thái thay đổi liên tục của tâm, thường là do ngoại cảnh chi phối, làm khởi sinh những cảm xúc buồn, vui, hờn giận, ưa thích, ghét bỏ… Câu này hàm ý sẽ không trở lại như trước đây, luôn hành xử theo các tâm hành sinh khởi, mà sẽ làm theo lời dạy của Phật về những việc nên làm và những việc không nên làm, như câu “giáo giới sở hành” vừa giải thích ở trước. Bản Anh ngữ của H. Kern diễn đạt ý này là “will no more be slaves to our own mind” (…sẽ không còn làm nô lệ cho tâm ý của chính mình nữa).
[227] Trong bản tiếng Anh dịch từ Phạn ngữ của H. Kern thì đoạn nói về việc vua Diệu Trang Nghiêm tung chuỗi ngọc lên không trung được đưa vào vị trí này, nghĩa là sau khi nhà vua đã có sự tu tập thành tựu, không phải vào lúc mới lần đầu tiên gặp Phật.
[228] Thương chủ: những người đi buôn đường xa ngày xưa thường cử một người đứng đầu thông thạo đường đi và có nhiều kinh nghiệm hơn để dẫn dắt cả đoàn.
[229] Bản Anh ngữ của H. Kern diễn đạt tương tự: “Those that shall cherish the name of these two good men shall all become worthy of receiving homage from the world, including the gods.” (Những ai trân quý danh hiệu của hai vị Bồ Tát này thì cũng xứng đáng nhận được sự lễ bái của thế gian, kể cả chư thiên.)
[230] Nguyên tác dùng “遠塵離垢 - viễn trần ly cấu”, tương đương với “viễn ly trần cấu” (遠離塵垢). Trần cấu chỉ chung tất cả phiền não, nói cụ thể ở đây là chỉ 88 phiền não (八 十八使 - bát thập bát sử) hay 88 kiến hoặc (見惑), tức là những phiền não khởi sinh do thấy biết sai lầm. Vì thế, cách diễn đạt “viễn trần ly cấu, đắc pháp nhãn tịnh” (遠塵離垢,得法眼淨) thường được dùng để chỉ giai đoạn chứng đắc sơ quả Tu-đà-hoàn trong 4 thánh quả Tiểu thừa, vì hành giả đã đoạn trừ phiền não kiến hoặc nên đạt được pháp nhãn thanh tịnh.
[231] Tên Phạn ngữ của Bồ Tát Phổ Hiền thường được biết là Samanatabhadra. Từ điển Phật Quang có ghi nhận một tên khác nữa là Viśvabhadra. Ở đây nói phiên âm là Bí-du-bạt-đà (邲輸颰陀) có vẻ gần với Viśvabhadra, vì Samanatabhadra thường được phiên âm là Tam-mạn-đa-bạt-đà-la (三曼多跋陀羅).
[232] Phần này lược trích từ kinh Bi Hoa, quyển 4, phần nói về các Bồ Tát được thụ ký. Đây là phát nguyện của Vương tử Mẫn-đồ (泯圖): “Thế Tôn! Sở nguyện của con là ở ngay nơi thế giới bất tịnh này để tu hành đạo Bồ Tát, lại còn tu sửa trang nghiêm cho mười ngàn thế giới bất tịnh, khiến cho đều được trang nghiêm thanh tịnh giống như thế giới Thanh Hương Quang Minh Vô Cấu. Con cũng sẽ giáo hóa vô số các vị Bồ Tát khiến cho đều được tâm thanh tịnh, không có mọi sự cấu uế, thảy đều hướng theo Đại thừa. Những Bồ Tát như thế đầy khắp trong cõi thế giới của con, sau đó con mới thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Thế Tôn! Nguyện khi con tu hành đạo Bồ Tát phải vượt trội hơn so với các vị Bồ Tát khác.” (Bản Việt dịch của Nguyễn Minh Tiến – ĐCT, T3, 157, tr.191c, d.3 - d.11)
[233] Kinh Bi Hoa, đã dẫn trên, tr.192b, d.13-14.
[234] Ba tất đàn ở đây chỉ đến thế giới tất đàn, vị nhân tất đàn và đối trị tất đàn.
[235] Văn Cú dùng tên gọi Thích luận để chỉ Đại trí độ luận, nói đủ là Đại trí độ luận thích (大智度論釋). Văn cú ký giải thích rằng luận này đã dẫn lại từ kinh Đại Bát Niết-bàn.
[236] Trong phẩm trước là Bồ Tát Diệu Âm từ phương tây, trong phẩm này là Bồ Tát Phổ Hiền từ phương tây.
[237] Trong đoạn này, Văn Cú theo lệ trước mà dùng “kỳ nhất, kỳ nhị…” để chỉ các ý nghĩa của bốn tất đàn. Chúng tôi chuyển dịch rõ theo các nghĩa đó.
[238] Bồ Tát Phổ Hiền (H. 普賢菩薩, S. Samantabhadra), nhân duyên tiền thân khi còn tu tập ở giai đoạn mới phát tâm được đề cập đến trong kinh Bi Hoa, là vị vương tử thứ tám của vua Bảo Hải, tên là Mẫn-đồ.
[239] Nguyên tác dùng “威德名聞 - oai đức danh văn” có phần khó hiểu khi đưa vào ngữ cảnh này. Kinh Chánh Pháp hoa và bản dịch Anh ngữ của H. Kern đều không có ý nghĩa tương đương.
[240] Nguyên tác dùng “不可稱數 - bất khả xưng số” (không thể dùng số đếm để nói lên), bản Anh ngữ dịch là “surpassing all calculation” (vượt khỏi mọi sự tính toán), đều để diễn đạt một số nhiều đến mức không thể tính đếm.
[241] Kinh Chánh Pháp hoa và bản dịch Anh ngữ của H. Kern đều chỉ đề cập đến người nữ, không nói đủ cả nam và nữ; cho đến phần trả lời của đức Phật cũng vậy. Điều này có vẻ không hợp lý.
[242] Phần trước nêu 4 năng lực là thần thông, tự tại, oai đức và danh tiếng. Ở đây chỉ nói 2 năng lực tức là thần thông và tự tại.
[243] Phẩm Pháp sư nêu 3 pháp người thuyết giảng kinh phải thực hiện là vào nhà Như Lai, đắp y Như Lai, ngồi tòa Như Lai. Phẩm Hạnh an vui nêu 4 hạnh là thân nghiệp an vui, khẩu nghiệp an vui, ý nghiệp an vui và thệ nguyện an vui. Ba pháp và bốn hạnh này đều tương quan chặt chẽ với nhau.
[244] Tức là phần kệ tụng trong phẩm Tựa.
[245] Văn Cú nói “sơ y nhân” (初依人) là người nương tựa đầu tiên, cho đến đệ nhị, đệ tam, đệ tứ y nhân. “Nương tựa” đây là nương tựa vào giáo pháp, tức là đã phát khởi lòng tin nương theo giáo pháp, trong phần giải thích phẩm Phân biệt công đức gọi là Tứ tín đệ tử, bao gồm 4 hạng: Thứ nhất là hạng nghe hiểu, có niềm tin nhưng không thể vì người khác giảng nói; thứ hai là hạng tin nhận và có thể vì người khác giảng giải sơ lược; thứ ba là hạng có niềm tin và nghe nhiều hiểu rộng, có thể vì người khác giảng rộng; thứ tư là hạng tin sâu, hiểu rõ, có khả năng thuyết pháp rộng rãi, đầy đủ cả năng lực quán chiếu và thực hành.
[246] Vi-đà-la (H. 韋陀羅, S. vetāla), Hán dịch là khởi thi quỷ (起屍鬼), tức loài quỷ có chú thuật làm cho xác chết đứng dậy để sai khiến.
[247] Ba pháp đà-la-ni này được tông Thiên thai xem như tương ứng với 3 pháp quán Không, Giả, Trung. Thứ nhất là Toàn đà-la-ni (旋陀羅尼). Toàn nghĩa là xoay chuyển, đạt được đà-la-ni này là xoay chuyển giả tướng sai biệt, thể nhập vào lý Không bình đẳng, tương đương với quán Không. Thứ hai là Bá thiên vạn ức đà-la-ni (百千萬億旋陀羅尼). Hành giả xoay chuyển cái Không bình đẳng mà thể nhập giả tướng của trăm nghìn muôn ức pháp sai biệt, tương đương với quán Giả, tức từ không vào giả. Thứ ba là Pháp âm phương tiện đà-la-ni (法音方便陀羅尼). Hành giả vận dụng Không và Giả làm phương tiện thể nhập Trung đạo tuyệt đối, tương đương với quán Trung, tức Trung đạo đệ nhất nghĩa đế.
[248] Nguyên tác dùng “後世後五百歲 - hậu thế hậu ngũ bá tuế” (đời sau này, sau năm trăm năm), vẫn là chỉ năm trăm năm sau khi Phật diệt độ. Kinh Chánh Pháp hoa diễn đạt chỗ này là “最後餘殘末俗五濁之世 - tối hậu dư tàn mạt tục ngũ trược chi thế”, tức là chỉ giai đoạn cuối cùng của đời ngũ trược sau khi Phật nhập diệt. Bản Anh dịch của H. Kern diễn đạt là “in the second half of the millennium” (nửa sau của thiên niên kỷ), cũng tức là 500 năm sau. Những con số này chỉ mang ý nghĩa tượng trưng để chỉ đến giai đoạn chánh pháp suy tàn về sau.
[249] Nguyên tác Hán văn là: “即往兜率天上彌勒菩薩所。彌勒菩薩有三十二相大菩薩眾所共圍繞 - …tức vãng Đâu-suất thiện thượng Di-lặc Bồ Tát sở. Di-lặc Bồ Tát hữu tam thập nhị tướng, Đại Bồ Tát sở cộng vi nhiễu…” Như vậy là nói “Bồ Tát Di-lặc có 32 tướng tốt”. Theo kinh Chánh Pháp hoa và bản Anh dịch của H. Kern thì đều nói là tự thân người này khi sinh về cõi trời Đâu-suất sẽ có đủ 32 tướng tốt. Kinh Chánh Pháp hoa: “生兜術天, 在彌勒佛所成菩薩身, 三十二相莊嚴其體 - sinh Đâu-thuật thiên, tại Di-lặc Phật sở, thành Bồ Tát thân, tam thập nhị tướng trang nghiêm kỳ thể” (… sinh về cõi trời Đâu-suất, chỗ đức Phật Di-lặc, thành tựu thân Bồ Tát có 32 tướng trang nghiêm thân thể) (ĐCT, T9, 263, tr.133c, d.3-4) Bản Anh dịch của H. Kern: “after disappearing from this world he shall enter the company of the Tushita-gods, where the Bodhisattva Mahâsattva Maitreya is residing, and where, marked by the thirty-two sublime characteristics…” (sau khi rời khỏi thế giới này người ấy sẽ sinh về cõi trời Đâu-suất, nơi Bồ Tát Di-lặc đang cư trú, và ở nơi đó, nổi bật với 32 tướng tốt…) Theo ngữ cảnh kinh văn thì có vẻ như ý nghĩa này thích hợp hơn, vì đang nói về công đức của người thọ trì kinh Pháp hoa, việc xen vào nói 32 tướng tốt của Bồ Tát Di-lặc dường như không phù hợp. Và do vậy, câu tiếp theo nói có “trăm ngàn muôn ức thiên nữ làm quyến thuộc” cũng không thích hợp khi dùng mô tả Bồ Tát Di-lặc. Nếu như đây là sự nhầm lẫn thì có thể do 4 chữ “彌勒菩薩 - Bồ Tát Di-lặc” lần thứ hai là bị thừa, dẫn đến đổi nghĩa toàn đoạn kinh.
[250] Phần này tuy nhắc lại đủ 6 ý nhưng thứ tự khác với phần trước, nên tiểu đoạn thứ nhất tương ứng với phân đoạn thứ hai, tiểu đoạn thứ hai tương ứng với phân đoạn thứ ba, tiểu đoạn thứ ba tương ứng với phân đoạn thứ tư, tiểu đoạn thứ tư tương ứng với phân đoạn thứ năm, tiểu đoạn thứ năm tương ứng với phân đoạn thứ nhất, tiểu đoạn thứ sáu tương ứng với phân đoạn thứ sáu.
[251] Nguyên tác dùng “手筆 - thủ bút” để chỉ việc dùng tay sao chép, ở đây là sao chép kinh sách ngoại đạo. Do đó câu tiếp theo dùng “其人 - kỳ nhân” là để chỉ người làm công việc sao chép này.
[252] Nguyên tác dùng “衒賣女色 - huyễn mại nữ sắc”. Chữ “huyễn” nghĩa là khoe khoang, phô bày… ở đây chỉ việc phô bày nhan sắc phụ nữ để dùng như một món hàng rao bán, trục lợi; ngày nay chính là nghề môi giới mại dâm.
[253] Tà mạn (H. 邪慢, S. mithyā-māna): trở nên kiêu căng ngạo mạn vì tự nghĩ mình là người có đức độ cao, trong khi thực sự không có, do hiểu biết tà vạy nên nhận thức sai lầm như vậy. Người tà mạn làm những việc xấu ác, sai trái nhưng tưởng rằng đó là việc cao quý nên sinh tâm kiêu mạn.
[254] Tăng thượng mạn (H. 增上慢, S. abhi-māna): tự cao, ngạo mạn vì tự cho rằng mình đã chứng thánh quả, có thành tựu tu tập, nhưng sự thật không đúng như vậy.
[255] Các hạnh Phổ Hiền: có 10 hạnh được nói trong kinh Hoa nghiêm (大方廣佛華嚴經 - Đại phương quảng Phật Hoa nghiêm kinh), quyển 40, bao gồm: 1. Lễ kính chư Phật; 2. Xưng tán Như lai; 3. Quảng tu cúng dường; 4. Sám hối nghiệp chướng; 5. Tùy hỉ công đức; 6. Thỉnh Phật chuyển pháp luân; 7. Thỉnh Phật trụ thế; 8. Thường tùy Phật học; 9. Hằng thuận chúng sinh; 10. Phổ giai hồi hướng. (ĐCT, T10, 293, tr.844b, d.24-28)
[256] Bệnh bạch lại (H. 白癩病, E. vitiligo): bệnh ngoài da do rối loạn sắc tố da, dẫn đến tạo ra nhiều vùng da có màu trắng bệch, cũng thường gọi là bạch biến hay lang ben.
[257] Đây là pháp đà-la-ni thứ hai vừa nói ở đầu phẩm này.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.108 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập