Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn

Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay. Kinh Bốn mươi hai chương
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú [妙法蓮華經文句] »» Bản Việt dịch quyển số 6 »»

Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú [妙法蓮華經文句] »» Bản Việt dịch quyển số 6

» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 1.47 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 1.86 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Pháp Hoa Văn Cú

Kính mong quý độc giả xem kinh cùng góp sức hoàn thiện bằng cách gửi email về admin@pgvn.org
để báo cho chúng tôi biết những chỗ còn có lỗi.

Kinh này có 10 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 |
Việt dịch: Thích Như Điển và Nguyễn Minh Tiến

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

KỆ TỤNG

Phần kệ tiếp theo có 165 khổ kệ, chia làm 2 nhóm. Nhóm kệ thứ nhất có 100 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa trong kinh văn trường hàng ở trước. Nhóm kệ thứ hai có 65 khổ kệ, nêu rõ phương pháp lưu thông, truyền rộng kinh này.

KINH VĂN

[Khi ấy,] đức Phật muốn lặp lại những ý nghĩa trên nên đọc kệ rằng:

Tụng lại kinh văn trường hàng

Kinh văn trường hàng ở trước có 2 tổng phần: trước nêu thí dụ, sau nói ý nghĩa tương hợp với thí dụ. Trong nhóm kệ thứ nhất này cũng chia 2 tổng phần như vậy. Tổng phần thứ nhất có 65 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa nêu thí dụ. Tổng phần thứ hai có 34 khổ rưỡi kệ, tụng ý nghĩa tương hợp với thí dụ.

Tổng phần thứ nhất lại chia ra làm 2 phần. Phần đầu tiên có 33 khổ kệ, tụng lại [ý nghĩa] các thí dụ khái quát. Phần thứ hai có 32 khổ rưỡi kệ, tụng lại [ý nghĩa] các thí dụ cụ thể.

Phần đầu tiên tụng lại ý nghĩa thí dụ khái quát có 6 ý nghĩa gồm trong 4 tổng đoạn, vì có 2 ý nghĩa được gộp chung vào, như phần tụng về ruộng vườn nhà cửa [trong thí dụ] thì gồm cả ý “chỉ có một cửa”, phần tụng về [ý nghĩa] có 500 người [trong nhà ông trưởng giả] thì gồm cả ý “có 30 người con”.

KINH VĂN

Ví như ông trưởng giả,
Có một căn nhà lớn.
Nhà cũ kỹ đã lâu,
Lại thêm rất xấu tệ.
Sảnh đường cao sắp đổ,
Cột trụ mục rệu rã,
Xà, rường đều nghiêng lệch,
Nền móng lún sụp cả.
Tường vách nứt nghiêng đổ,
Vôi vữa tróc rơi xuống.
Mái lợp rớt ngổn ngang.
Các xà nhà lệch khớp,
Đầy chướng ngại quanh co,
Ô uế ngập bốn bề.
Hiện có năm trăm người,
Đang sống trong nhà ấy.

Tổng đoạn thứ nhất chỉ có một câu đầu tiên, nói “ông trưởng giả” tức là tụng lại phần trước nói địa vị, danh hiệu, trong đó gồm cả [các ý nghĩa] về danh tiếng, công hạnh và xưng tán đức độ. [Xưng danh trưởng giả là] đã có phẩm đức của bậc trưởng thượng, nên biết là danh tiếng và công hạnh đều lan rộng, [được người] trong khắp đất nước, đô thành đều tôn sùng, cũng biết được là niên kỷ bên trong và phẩm đức bên ngoài của vị ấy đều cao. Nói “bên trong” là tương hợp với “Thế Tôn”,[1] tức là địa vị và danh hiệu [Phật], tự biết có đầy đủ trí đức và đoạn đức, từ bi cùng muôn đức.

Tổng đoạn thứ hai từ câu “Có một căn nhà lớn” trở đi, gồm 3 khổ kệ và một câu, tụng lại thí dụ thứ hai “căn nhà rộng lớn” ở trước. Tổng đoạn này chia thành 2 đoạn.

Đoạn thứ nhất là câu “có một căn nhà lớn”, tụng lại [ý nghĩa] về căn nhà rộng lớn.

Đoạn thứ hai gồm 3 khổ kệ, từ câu “Nhà cũ kỹ đã lâu” trở đi nói rộng về hình thể thực trạng căn nhà. Đoạn này nói về tướng bị thiêu đốt cho nên biết là nói về hình thể thực trạng căn nhà. Ba cõi không có thời điểm khởi đầu, đó là “đã lâu”, không phải ngày nay mới tạo ra, đó là “cũ kỹ”. Vô thường là hèn kém nên gọi là “xấu tệ”.

Cũng có người nói, [trong thân người] đầu như điện thờ, bụng như sảnh lớn, lưng là khung nhà, niệm niệm tiếp nối vô thường nên nói là như “sảnh đường cao sắp đổ”.

Lại có người nói, sắc giới là “sảnh đường”, Dục giới là “căn nhà”, [chúng sinh trong đó] không tránh được sự đọa lạc nên gọi là “sắp đổ”. [Trong căn nhà ba cõi đó,] sự duy trì mạng sống là “cột trụ”, hành nghiệp trong quá khứ [của chúng sanh] là “nền móng”.

Lại có người nói, hai chân là “cột trụ”, [thân người] chịu ba tướng[2] biến chuyển nên gọi là “mục, rệu rã”. Ý thức là giềng mối ràng buộc nên gọi là “xà, rường”, bị các nỗi khổ làm cho hư hoại nên nói là “nghiêng lệch”.

Lại có người nói, [trong thân người] xương sống như “xà, rường”, [cả bộ khung] xương[3] là “nền móng”, đến lúc suy yếu già nua là “lún sụp”.

Nói về “tường vách”, có người cho rằng bốn đại[4] là “tường vách”, da bọc [ngoài thân] là “vôi vữa”, đi đứng nằm ngồi[5] không còn ngay ngắn vững chãi, đó là “rơi ngổn ngang”. Sự nhận biết của năm giác quan không còn thông suốt, không tương ưng giữa chủ thể nhận biết với trần cảnh là “lệch khớp”.

Cũng có người nói rằng, tường vách đến lúc nghiêng đổ cũng giống như da thịt [về già] nứt nẻ nhăn nheo. Hình sắc tươi đẹp thời trai trẻ giống như vôi vữa lúc mới tô [lên tường]; hình sắc héo khô tiều tụy lúc về già như [vôi vữa] về sau “tróc rơi xuống”. Râu tóc lúc già suy ắt đều rơi rụng hết, như “mái lợp rớt ngổn ngang”. Gân cốt khi già yếu không giữ được các khớp xương, giống như “xà nhà lệch khớp”.

“Khắp nơi đầy chướng ngại.” Ấn sư[6] nói rằng: “36 món [trong thân thể][7] đều chướng ngại lẫn nhau, cho nên nói là “đầy chướng ngại”. Ruột dài uốn khúc [trong khoang bụng] nên gọi là “quanh co”. Không chỉ chịu sự thay đổi biến chuyển bởi vô thường, mà còn có những khổ não nhơ nhớp, cho nên nói là “ô uế ngập bốn bề”.

Nay [không theo những cách giải thích trên mà] cho rằng, “đầy chướng ngại” là 6 thức, “quanh co” là 6 căn; 6 thức duyên theo 6 căn, [từ đó bám víu] nắm giữ cảnh trần, [tạo thành sự] ngăn trở khó khăn nên nói là “quanh co”. Sáu trần làm uế nhiễm cả 6 căn nên nói là “ô uế ngập bốn bề”. [Đó là] theo hai [ý nghĩa] nhân duyên và quán tâm mà giải thích. Đại lược là như vậy.

Tổng đoạn thứ ba gồm nửa khổ kệ, từ câu “hiện có năm trăm người”, tụng lại [ý nghĩa] trong thí dụ ở trước nói có 500 người, tức là bao quát hết căn tánh ba thừa [của chúng sanh] trong 5 đường.[8] Ý nghĩa này cũng bao gồm luôn cả thí dụ 30 người con.

KINH VĂN

Cú,[9] diều hâu, kên kên,
Quạ, khách, cưu,[10] bồ câu…
Rắn hổ mang, bọ cạp,
Rết độc, sâu do diên,[11]
Tắc kè, trùng nhiều chân...[12]
Vượn, chồn cáo, chuột nhắt,
Với các loại trùng độc,
Cùng dọc ngang ruổi chạy.
Nước tiểu, phân hôi thối,
Nhơ nhớp chảy lan tràn.
Giòi, bọ hung lúc nhúc,
Trên những ô uế đó.
Lũ cáo, sói, chồn hoang,
Liếm láp rồi giẫm đạp,
Cắn xé những xác chết,
Làm vung vãi xương thịt...
Do vậy bầy chó hoang,
Cùng xúm lại tranh nhau.
Chúng đói, gầy, sợ sệt,
Khắp chốn tìm thức ăn,
Cấu xé giành giật nhau,
Gầm rú, sủa, tru tréo.
Căn nhà ấy biến dạng,
Đáng sợ đến như thế.

Tổng đoạn thứ tư từ câu “kên kên, cú, diều hâu…” trở đi, gồm 29 khổ kệ, tụng lại [ý nghĩa] thí dụ thứ năm trong [các thí dụ khái quát] ở phần trước nói “lửa bốc lên cháy nhà”. Tổng đoạn này có 4 đoạn.

Đoạn thứ nhất gồm 22 khổ kệ, mô tả những việc trên mặt đất, thí dụ cho lửa bốc lên [thiêu đốt] cõi Dục.

Đoạn thứ hai có 3 khổ rưỡi kệ, mô tả những việc trong hang hốc [dưới mặt đất], thí dụ cho lửa bốc lên [thiêu đốt] cõi Sắc.

Đoạn thứ ba có 2 khổ rưỡi kệ, mô tả những việc trên không trung, thí dụ cho lửa bốc lên [thiêu đốt] cõi Vô sắc.

Đoạn thứ tư gồm 1 khổ kệ, tổng kết nêu ra việc có nhiều hiểm nạn chứ không phải chỉ có một.

Trong đoạn thứ nhất nói lửa thiêu đốt cõi Dục lại có 4 tiểu đoạn.

Tiểu đoạn thứ nhất gồm 17 khổ rưỡi kệ, mô tả các loài bị lửa thiêu đốt, thí dụ cho [chúng sinh bị] thập sử[13] [thiêu đốt].

Tiểu đoạn thứ hai có 1 khổ kệ,[14] nêu ra nguyên do lửa bốc lên, thí dụ cho nguyên do khởi sinh 5 sự uế trược.

Tiểu đoạn thứ ba gồm 2 khổ kệ, mô tả sức lửa bốc lên [hừng hực], thí dụ cho 5 sự uế trược đã khởi sinh.

Tiểu đoạn thứ tư gồm 1 khổ rưỡi kệ, mô tả tướng trạng [những thứ] bị lửa thiêu đốt, thí dụ cho việc [chúng sanh] phải nhận chịu 8 nỗi khổ trong 5 sự uế trược.

Tiểu đoạn thứ nhất, trong 17 khổ rưỡi kệ lại có 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất gồm 16 khổ kệ nêu rõ những thứ bị thiêu đốt. Phân đoạn thứ hai gồm 1 khổ rưỡi kệ là tổng kết.

Phân đoạn thứ nhất nói những thứ bị thiêu đốt, bao gồm 2 ý.

Ý thứ nhất gồm 6 khổ kệ, mô tả những loài cầm thú bị lửa thiêu, thí dụ cho chúng sinh bị 5 độn sử [thiêu đốt].

Ý thứ hai gồm 10 khổ kệ, mô tả quỷ thần bị lửa thiêu, thí dụ cho chúng sinh bị 5 lợi sử [thiêu đốt].

Ý thứ nhất ví 5 độn sử lại chia làm 2 tiểu ý. Tiểu ý thứ nhất gồm 5 khổ rưỡi kệ nêu rõ 5 độn sử. Tiểu ý thứ 2 có nửa khổ kệ là tóm kết.

Tiểu ý thứ nhất nói về 5 độn sử lại phân ra 5 điều.

1. Nửa khổ kệ đầu tiên thí dụ cho mạn sử (kiêu mạn). Chúng sinh tự đề cao mình mà khinh mạn, xem thường người khác, nên ví như tính chất của loài chim bay cao, nhìn xuống tất cả đều thấp [hơn mình], nên 8 loài chim thí dụ cho 8 loại kiêu mạn. Trong kinh Văn Thù vấn nêu 8 sự kiêu mạn, nay vận dụng [ý nghĩa đó] kết hợp với 8 loài chim [trong kệ tụng này].

Một là kiêu căng vì sức đang trẻ khỏe, mạnh mẽ hơn người khác (thịnh tráng kiêu) ví như chim cú mèo. Hai là kiêu căng vì dòng tộc, chủng tánh [tốt đẹp hơn người khác (tánh kiêu), ví như chim cú vọ hung bạo. Ba là kiêu căng vì giàu có hơn người (phú kiêu), ví như loài diều hâu. Bốn là kiêu căng vì có thể tự do làm theo ý mình (tự tại kiêu), ví như loài chim thứu (kên kên). Năm là kiêu căng vì tuổi thọ hơn người, được sống lâu (thọ mạng kiêu), ví như loài chim quạ. Sáu là kiêu căng vì thông minh hơn người (thông minh kiêu), ví như loài chim khách. Bảy là kiêu căng vì làm được việc tốt lành, hiền thiện (hành thiện kiêu), ví như loài chim tu hú. Tám là kiêu căng vì có sắc đẹp hơn người (sắc kiêu), ví như loài chim bồ câu.

[Lại nữa,] nhục mạ người khác là kiêu mạn, tự quý trọng mình cũng là kiêu mạn. Tự luyến ái mình là tham ái, luyến ái người khác là dâm dật. Tự ôm lòng oán hận là khuể, nổi giận với người khác là sân. Tự mê hoặc mình là ngu, làm cho người khác mê hoặc là si. [Nói về các kết sử thì] đại lược là như vậy.

2. Nửa khổ kệ tiếp theo, từ câu “rắn hổ mang, bọ cạp…” trở đi là thí dụ cho sân sử. [Thí dụ về] sân hận có 3 loại. Rắn hổ mang kịch độc, không cần tiếp xúc mà phun nọc độc, ví cho sự phi lý khởi sinh sân hận. Bọ cạp vừa chạm vào là chích ngay, ví cho sự bám chấp nơi lý lẽ mà khởi sinh sân hận. Rết độc ví cho sự khởi sinh sân hận do hý luận. Người đời nói loài rết có màu đỏ nơi vòng cổ, nếu vòng cổ không có màu đỏ thì là loài sâu do diên.[15]

3. Hai khổ kệ tiếp theo, từ câu “tắc kè, loài trăm chân” trở đi là thí dụ cho si sử (si mê). Si mê [hay vô minh] có hai loại là vô minh tự khởi riêng biệt (độc đầu vô minh) và vô minh khởi lên tương ưng [với phiền não] (tương ưng vô minh). Tắc kè, các loài nhiều chân... đều ngu ngơ khờ khạo, nên ví cho độc đầu vô minh. Vượn, chồn, cáo, chuột nhắt... ví cho tương ưng vô minh.

Từ câu “với các loại trùng độc...” trở đi là nói từ nơi si mê, hay vô minh căn bản, mà khởi sinh đầy đủ tất cả các loại kiết sử trói buộc, nêu rõ sự tương duyên giữa các sử. Hoặc duyên theo ba cõi [nên nói là] như “dọc ngang”, hoặc khởi sinh nhanh chóng [nên nói là] rồi “ruổi chạy”.

Từ câu “nước tiểu, phân hôi thối...” trở đi là một khổ kệ, nêu chỗ trần cảnh bám chấp của tâm si mê, tất cả đều là vô thường, khổ, vô ngã và bất tịnh. Do si mê không rõ biết, ở trong đó mà cho là thường, vui, hữu ngã, trong sạch[16] rồi bám chấp, cho nên nói rằng: “Giòi, bọ hung lúc nhúc, trên những ô uế đó.”

4. Hai khổ kệ tiếp theo, từ câu “lũ cáo, sói, chồn hoang...” trở đi thí dụ cho tham sử. Tham có 2 loại, một là có sức mạnh, hai là chẳng có sức mạnh. Có sức mạnh là dùng uy thế để cướp lấy như cáo, sói... Không có sức mạnh là chỉ có thể đi theo người khác để van nài xin lấy những thứ xấu tệ, như loài chồn hoang...

Từ câu “liếm láp rồi giẫm đạp...” là mô tả sự tham chấp bám giữ cảnh trần, dẫn đến đưa vật [bên ngoài] vào tự thân mình, nên nói là “liếm láp”, không giữ theo đạo lý nên nói là “giẫm đạp”. Tâm tham lam chấp giữ cảnh trần, như chấp giữ một thành phố, hoặc giữ một quốc gia... đều có biên giới [rộng hẹp] nên gọi là “cắn xé”.

Lại [có người] nói rằng, tâm tham chấp giữ trần cảnh có [hai loại]: có dùng đến và không dùng đến. [Tham chấp rồi] có dùng đến là “liếm láp”, tham chấp nhưng không dùng đến là “giẫm đạp”. Lại [có người nói, tham chấp] ít là “liếm láp”, [tham chấp] nhiều là “giẫm đạp”.

“Làm vung vãi xương thịt...” là nói [chúng sanh] tích tụ mãi [sự tham muốn] 5 cảnh trần,[17] không có chỗ biết đủ mà dừng lại.

“Do vậy bầy chó hoang, cùng xúm lại tranh giành” là nói tham lam có sức mạnh. Tranh giành mà không cần đến sức mạnh là nói lũ giặc vua quan [dùng quyền thế].

“Chúng đói, gầy, sợ sệt...”, thường không biết đủ là “đói”, mong cầu không được là “gầy”, mưu tìm đủ mọi thứ là “lang thang”. Người tham muốn quá nhiều thì tuy giàu mà nghèo, [vì luôn thấy thiếu thốn].

Tâm luyến ái mà tham muốn, đó là tham 5 cảnh trần như “thịt”. Tâm thấy biết mà tham muốn, đó là tham đạo lý như “xương”. Tìm cầu sự hiểu biết nên ngày càng nhiều kiến giải, đó là nhiều “xương”, lũ chó thèm xương liền “xúm lại tranh giành”. Kiến giải đầy trong tâm nhưng chưa có được món ăn chánh pháp nên gọi là “đói”. Chưa có khả năng hàng phục, dứt trừ các kiến chấp nên gọi là “gầy”. Cầu tìm kiến giải khắp nơi nên gọi là “sợ sệt”. Lại có người cho rằng, đây là nói người tham lam trong tâm luôn mong ngóng tìm cầu.

5. Hai câu kệ tiếp theo: “Cắn xé,[18] giành giật nhau, gầm rú, sủa, tru tréo” là thí dụ cho nghi sử. Do dự giữa hai bên nên gọi là nghi, chưa quyết định được sự đúng sai [giữa đôi bên] nên đấu tranh giằng co. Tâm ý nghĩ rằng đúng thì “cắn”, [là cắn chặt, giữ lấy]; tâm ý cho là sai thì “xé”, [là xé nát, phá bỏ]. “Gầm rú, sủa, tru tréo” là nói việc phát ra đủ lời tranh luận để giành giật lẽ đúng sai.

Tiểu ý thứ hai gồm hai câu “Căn nhà ấy biến dạng, đáng sợ đến như thế”, tóm kết lại phần nói về 5 độn sử ở trên.

KINH VĂN

Nên khắp nơi đều có,
Lũ yêu ma quỷ quái,
Quỷ dạ-xoa ác độc,
Ăn nuốt xương thịt người.
Đủ các loài trùng độc,
Lũ chim, thú hung ác,
Ấp trứng hoặc sinh con,
Tự che giấu, bảo vệ,
Bầy dạ-xoa đua nhau,
Giành giật để ăn nuốt.
Ăn đã no nê rồi,
Tâm hung ác càng mạnh,
Chúng đánh nhau gào thét,
Nghe đáng sợ vô cùng.
Loài quỷ cưu-bàn-trà,
Ngồi xổm trên gò đất,
Hoặc có lúc lơ lửng,
Cách đất một, hai thước,
Bay qua rồi bay lại,
Tha hồ đùa bỡn nhau.
Nắm chặt hai chân chó,
Đánh cho kêu thất thanh,
Rồi đá bồi vào cổ,
Chó sợ, quỷ tự vui.
Lại có nhóm quỷ khác,
Thân thể rất cao lớn,
Đen đúa, gầy, trần truồng,
Thường ở trong nhà này,
Phát tiếng lớn, hung hãn,
Kêu la mong được ăn.
Lại có những con quỷ,
Cổ nhỏ như kim khâu.
Còn có những con quỷ,
Đầu giống như đầu trâu,
Hoặc ăn nuốt thịt người,
Hoặc ăn cả thịt chó.
Đầu tóc như cỏ rối,
Hung hiểm, ác, nguy hại,
Vì đói khát bức bách,
Kêu thét chạy khắp nơi.
Bọn dạ-xoa, ngạ quỷ,
Loài chim, thú hung dữ,
Khắp bốn phía, đói khát,
Rình rập ngoài song cửa.
Những hiểm nạn như thế,
Thật đáng sợ vô cùng.
Nhà cũ, mục nát ấy,
Thuộc sở hữu một người.
Người vừa mới ra ngoài,
Chỉ trong một chốc lát,
Thì từ phía sau nhà,
Bỗng nhiên lửa cháy lên.
Rồi đồng loạt bốn phía,
Lửa bốc cao hừng hực.
Rồi xà ngang cột dọc,
Nổ lớn, xé tung ra,
Gãy đổ cùng rơi rụng,
Tường vách nghiêng đổ xuống.
Các quỷ thần trong nhà,
Đều lớn tiếng kêu la,
Lũ kên kên, diều hâu...
Với quỷ cưu-bàn-trà...
Đều kinh hoàng, hốt hoảng,
Không thể tự thoát ra.

Ý thứ hai gồm 10 khổ kệ, bắt đầu từ câu “nên khắp nơi đều có...” là nêu rõ 5 lợi sử. Phần này có 2 tiểu ý.

Tiểu ý thứ nhất có nửa khổ kệ, nêu khái quát về các lợi sử. Các lợi sử duyên theo khắp cùng từ 5 ấm cho đến 4 thánh đế, cho nên nói rằng “khắp nơi đều có”. Quỷ thần thì thông suốt, có trí khôn, khác với cầm thú vốn không có, cho nên ví quỷ thần với các lợi sử; ví những loài trùng, thú với các độn sử.

Tiểu ý thứ hai gồm 9 khổ rưỡi kệ, nêu ra 5 điều cụ thể về 5 lợi sử.[19]

1. Ba khổ kệ đầu tiên nói về quỷ dạ-xoa, tức là quỷ tiệp tật,[20] ví cho tà kiến[21] sai trái, bác bỏ cho rằng không có nhân quả. Thân người là quả báo lành, ví cho nhân quả xuất thế, không xen tạp với phiền não, [cho nên] bác bỏ lý nhân quả này ví như ăn thịt người. Các loài trùng độc là quả báo xấu ác, ví cho nhân quả trong thế gian, vốn xen tạp với phiền não, cho nên bác bỏ lý nhân quả này ví như ăn nuốt các loài trùng độc.

“Ấp trứng hoặc sinh con” là nói các pháp trong thế gian đều tùy theo nhân của mỗi loại mà sinh ra quả cùng loại. “Tự che giấu, bảo vệ” là nghĩa trong nhân có quả, gọi là “che giấu”, [đã có] nhân tất nhiên phải thành quả, không thể mất đi nên gọi là “bảo vệ”. Lại nữa, thịt người là hiền thiện, trùng độc là xấu ác, tâm tà kiến bác bỏ cho rằng không có nhân quả thiện ác, về sự tướng cũng giống như “ăn nuốt” [các loại thịt người, trùng độc].

[Lại nữa,] “ấp trứng, sinh con” là nói chung các việc thiện ác đều có chỗ hoạt dụng của nhân quả hỗ tương sinh khởi. “Ăn đã no nê rồi” là nói kiến chấp trong tâm đã hình thành. “Tâm hung ác càng mạnh” là nói kiến chấp tăng thêm, mở rộng. “Đánh nhau gào thét” là khi trong tâm [kiến chấp] đã hình thành sẽ biểu lộ ra bên ngoài thành lời nói, dạy bảo [người khác], truyền rộng pháp không nhân không quả, có thể khiến người nghe phải đọa vào ba đường ác, cho nên nói là “đáng sợ vô cùng”.

2. Tiếp theo 2 khổ rưỡi kệ, bắt đầu từ “loài quỷ cưu-bàn-trà” trở đi là ví cho giới cấm thủ kiến.[22] Cưu-bàn-trà là loài quỷ vượt hơn [các quỷ khác],[23] như nghiệp thiện hữu lậu [sinh ra] cũng vượt hơn các loài sâu bọ. “Ngồi xổm trên gò đất” là nói tu tập giữ theo 10 giới lành có thể tái sinh lên sáu tầng trời [thuộc Dục giới].[24] Sáu tầng trời là những nơi cao trong Dục giới, về sự tướng cũng giống như ngồi xổm trên gò đất cao. Lại nữa, hàng ngoại đạo giữ giới, có thể tu tập thiền định, ban sơ chứng được phép định Dục giới, hoặc sẽ được các phép định trong tương lai. Các phép định tương lai vẫn chưa thoát ra khỏi Dục giới. Lên đỉnh cao nhất của Dục giới[25] giống như ngồi xổm trên gò đất cao. “Hoặc có lúc lơ lửng, cách đất một, hai thước”, là nói được phép định Sắc giới như “cách đất một thước”, được phép định Vô sắc giới như “cách đất hai thước”. Được sinh lên cảnh giới cao hơn là “bay qua”, sa đọa xuống cảnh giới thấp hơn là “bay lại”. Các kiến chấp sinh khởi che lấp là “tha hồ đùa bỡn nhau”.

“Nắm chặt hai chân chó”, có người giải thích, hủy báng cho rằng không có nhân khổ giống như “nắm chặt hai chân chó”, bác bỏ cho rằng không có quả khổ giống như “bẻ tréo chân lên cổ”. Do tập nhân đã tạo từ xưa [nay phải] nhận quả, ví như tiếng kêu của chó. Do kiến chấp lanh lợi mà bác bỏ lý lẽ rằng không có tập nhân [đã tạo] thì không có quả khổ, đó là “đánh cho kêu thất thanh”.

Giải thích theo quán tâm thì tu lục hành quán[26] chế phục tâm tham. Tâm tham không hành hoạt tựa như bị chặt đứt nên “kêu không thành tiếng”. Chó ví như tham dục, hai chân [chó] ví như các tư tưởng thô và tế.[27] Những tư tưởng ấy loanh quanh qua lại vẫn thường ở trong cảnh giới của tham. [Pháp quán] đếm hơi thở giúp tâm dừng lại là nghĩa trói buộc, vì có thể nắm giữ, kiểm soát tư tưởng. “Đánh” là nói khi những tư tưởng tham lam quá mạnh, hướng đến cảnh giới bất tịnh, [hành giả] tu pháp quán bất tịnh có thể chế phục được những tư tưởng tham lam ấy. Tư tưởng tham lam đã bị chế phục ví như con chó bị “đánh kêu không thành tiếng”.

Lại có người nói rằng, tu pháp quán bất tịnh ví như đánh con chó [tham dục]. Có thể khởi sinh thiền định ví như [chó] bị “đánh kêu không thành tiếng”. “Rồi đá bồi vào cổ” là ví như con chó tuy đã bị đánh nhưng còn cựa quậy chưa chịu nằm yên, nên cuối cùng phải “đá bồi vào cổ”. Tâm tham lam tuy đã rõ biết là bất tịnh nên dừng lại, nhưng tâm ấy chưa thật lắng sâu tịch tĩnh, nên phải dùng thêm “cú đá” là pháp quán vô thường. Khi [dùng pháp quán vô thường] “đá bồi” vào “cổ chấp thường” ắt tâm phải sinh sợ sệt, khiến cho những tư tưởng tham lam không thể khởi lên.

Lại có người nói rằng, một lần chế phục tâm ví như đánh chó nằm trên đất, thường buộc [tâm] nơi duyên ví như “đá bồi vào cổ” khiến cho không thể “đứng dậy” được. “Chó sợ, quỷ tự vui” là nói dùng pháp tu quán vô thường để giác ngộ tâm tham lam ví như làm chó sợ. Nhân nơi pháp tu ấy mà nếm được mùi vị thiền nên gọi là “tự vui”.

3. Từ câu “thân thể rất cao lớn” trở đi gồm 1 khổ rưỡi kệ, ví cho thân kiến.[28] Về thời gian thì trong cả ba đời đều bám chấp có ngã nên gọi là “cao”, về không gian thì đối với cả 5 ấm đều chấp là ngã nên gọi là “lớn”. Chấp kể rằng tự ngã không trói buộc nên không tu các pháp lành, tức là không biết hổ thẹn[29] cho nên nói là “trần truồng”. Muốn làm đẹp mình bằng những việc xấu ác nên nói là “đen đúa”. Không có vốn liếng công đức nên nói là “gầy”. Do chấp ngã mà không thể thoát ra ngoài ba cõi nên nói là “thường ở trong nhà này”. Từ trong tâm chấp ngã nên phát ra thành lời truyền rộng, giảng thuyết tướng trạng hữu ngã, nên nói là “phát tiếng lớn hung hãn”. Mê muội sai lầm mong nhờ thuyết hữu ngã mà chứng đắc đạo quả, nên nói là “kêu la mong được ăn”.

4. Từ câu “Lại có những con quỷ” trở đi gồm nửa khổ kệ ví cho kiến thủ kiến.[30] Cổ họng rất nhỏ nên mạng sống lâm nguy nhưng vẫn cố giữ lấy thọ mạng, không quán tưởng vô thường mà cho là [đã được] Niết-bàn, cho nên nói là “cổ nhỏ như kim khâu”.

5. Từ câu “Lại có những con quỷ, đầu giống như đầu trâu” trở đi gồm 2 khổ kệ ví cho biên kiến.[31] Truy tìm bản ngã, cho đó là đoạn diệt, hoặc cho đó là thường hằng, hai bên đoạn thường ví như đầu trâu có 2 sừng. Hoặc cho thân này là ngã, hoặc cho ngã là thân này, dựa vào chấp ngã đó mà khởi sinh biên kiến, ví như đầu trâu có 2 sừng.

Do lỗi chấp thường hay chấp đoạn, có thể dứt mất căn lành xuất thế ví như “hoặc ăn nuốt thịt người”, có thể dứt mất căn lành ở thế gian, ví như “hoặc ăn cả thịt chó”. Có lúc chấp thường, có lúc lại chấp đoạn, trước sau xoay chuyển nên nói là “đầu tóc như cỏ rối”. Chấp thường tức phá trừ chấp đoạn, chấp đoạn tức phá trừ chấp thường, nên nói là “hung hiểm, ác, nguy hại”. Không có món ăn thức uống là trí tuệ và định lực để tự nuôi sống nên nói là “đói khát bức bách”.

Phân đoạn thứ hai từ câu “Bọn dạ-xoa, ngạ quỷ” trở đi gồm 1 khổ rưỡi kệ, nói tóm lại về hình tướng phiền não ở cõi Dục, cũng là tóm kết các tướng lanh lợi hay trì độn[32] của chúng sinh. Hết thảy đều là những tâm hữu lậu, chẳng bao giờ có hương vị đạo pháp trong đó, cho nên nói là “đói khát bức bách”.

“Rình rập ngoài song cửa” là nói nghĩa dùng pháp quán tà vạy sai trái để quán lẽ không, khởi tâm ngưỡng mộ đạo vị. Tuy có quán sát nhưng bị trì trệ do bám chấp nơi tâm nên đa phần không thể hội được lẽ chân chánh, giống như nhìn không gian qua song cửa sổ, không thể được thông thoáng không ngăn ngại.

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Nhà cũ, mục nát ấy, thuộc sở hữu một người” trở đi, gồm 1 khổ kệ,[33] nêu nguyên do sơ hở để xảy ra lửa cháy [nhà]. Ba cõi là nơi đức Phật ứng hóa, từ khi phát tâm đến nay thệ nguyện độ thoát [chúng sinh trong đó], cho nên nói rằng “thuộc sở hữu một người”. Nếu ông trưởng giả ở nhà, có thể thận trọng giữ gìn việc củi lửa, nhưng vì sau khi ông ra khỏi nhà, các con ông không hiểu biết nên mới để xảy ra nạn lửa bốc cháy. Xét trong [Phật pháp] thì nguyên do này hoàn toàn tương hợp với việc vào thời đức Như Lai Đại Thông Trí Thắng thường giáo hóa giúp chúng sinh chế phục được 5 sự uế trược. [Khi nhân duyên] chiêu cảm ứng đã dứt, đức Như Lai xả bỏ ứng thân, nên sau đó [thế gian] mới khởi lên 5 sự uế trược. Phật tùy nhân duyên mà [hóa thân] nơi quốc độ khác, chẳng phải bỏ đi vĩnh viễn, cho nên nói là “vừa mới ra ngoài chỉ trong một chốc lát”.

Lại có người nói rằng, do đã chứng đắc vô sinh rồi, không còn phải tái sinh trong ba cõi, cho nên nói là “ra ngoài”; không bao lâu hẳn sẽ quay lại, cho nên nói là “vừa mới”. Trong phẩm Thọ Lượng nói “nhiều lần thị hiện Niết-bàn”, chính là ý nói ra khỏi căn nhà [ba cõi].

Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Thì từ phía sau nhà” trở đi gồm 2 khổ kệ, nêu rõ về thế lửa bốc lên. Nói “bốn phía” là chỉ nơi chốn, [hàm ý chỉ 4 phương diện là] thân, thọ, tâm và pháp.[34] [Cả bốn phương diện này] đều cùng lúc khởi sinh 4 điên đảo, 5 sự uế trược, 8 nỗi khổ, cho nên gọi là “đồng loạt”. [Thế lửa ấy] dần tăng không ngừng là “hừng hực”, [khi cái chết đến thì] mạng sống mất đi là “nổ lớn”, phong [đại dao động như] dao[35] cắt xẻ nát thân thể, đó là “xé tung ra”.

Lại có người nói rằng, âm thanh [của chúng sinh khi cái chết đến phải] chịu đựng khổ não đau đớn kêu khóc rên rỉ [vang rền khắp nơi] nên gọi là “nổ lớn”, các căn bị phá nát hủy hoại gọi là “xé tung ra”, hơi thở dứt mất, xương cốt rã rời, gân mạch đứt đoạn gọi là “gãy đổ cùng rơi rụng”, bốn đại tan rã gọi là “tường vách nghiêng đổ xuống”.

Tiểu đoạn thứ tư từ câu “Các quỷ thần trong nhà” trở đi gồm 1 khổ rưỡi kệ, nêu hình tướng những gì bị lửa thiêu đốt. Có người nói rằng, người thân thuộc là quỷ thần, [khi cái chết đến] thì than khóc là “kêu la”.

Nay lấy theo nghĩa 5 lợi sử ở trước để ví cho quỷ thần. Người [bị chi phối bởi 5] lợi sử thì chấp thường hoặc chấp đoạn. Người chấp thường cho rằng các pháp nhất định là không, vì từ chỗ có rồi cuối cùng cũng trở về không, cho nên cái không ấy là thường hằng. Người chấp đoạn thì cho rằng các pháp nhất định là đoạn diệt, một khi đã chết là dứt mất không còn tiếp tục trở lại. [Cả hai hạng người này] đều lớn tiếng cho rằng thuyết nhất định [thường hay đoạn] của mình là chuyện đã rõ ràng, cho nên nói là “đều lớn tiếng kêu la”. Nếu là [người bị chi phối bởi] 5 độn sử và giới cấm thủ kiến[36] thì vốn không chấp đoạn, nay [khi cái chết đến] thấy lẽ vô thường chỉ sinh tâm nghi sợ, không biết phương cách nào để thoát ra nên nói là “đều kinh hoàng, hốt hoảng, không thể tự thoát ra”.

KINH VĂN

Những thú dữ, trùng độc...
Chui trốn vào hang hốc...
Lũ quỷ tỳ-xá-xà,
Cũng đang trong nhà ấy,
Vì phúc đức mỏng manh,
Bị sức lửa bức bách,
Quay sang giết hại nhau,
Rồi uống máu, ăn thịt.
Lúc ấy loài chồn hoang,
Hết thảy đều chết trước.
Những thú lớn hung dữ,
Liền tranh nhau ăn thịt,
Mùi hôi thối, khét nghẹt...
Bao phủ khắp bốn bề.

Đoạn thứ hai từ câu “Những thú dữ, trùng độc…” trở đi, gồm 3 khổ rưỡi kệ, nêu những việc trong hang hốc [dưới mặt đất], ví như lửa bốc lên [thiêu đốt] trong cõi Sắc. Các bộ phái giải thích rằng tâm sân hận hiện hữu trong cả ba cõi, chính là ví theo kinh văn đoạn này. Đoạn thứ hai này chia làm 4 tiểu đoạn.

Tiểu đoạn đầu tiên gồm 1 khổ kệ, nêu rõ những loài bị lửa thiêu đốt. Trạng thái định của tứ thiền ví như hang trống, tuy không rộng rãi thông suốt bằng như cửa ra ngoài nhà, nhưng cũng giúp cho tránh ngọn lửa dữ, ví như khi nhập vào thiền định cũng tránh được những sự thô trược xấu ác của cõi Dục. Những chúng sinh [bị chi phối bởi] 5 lợi sử cũng đạt được thiền định, nên nói “lũ quỷ tỳ-xá-xà, cũng đang trong nhà ấy”.

Tiểu đoạn thứ hai là câu “vì phúc đức mỏng manh”, nêu nguyên do khiến lửa bốc cháy, [ví như chúng sanh] do ít phước đức nên gần việc xấu ác, thường gặp khổ não.

Tiểu đoạn thứ ba là câu “bị sức lửa bức bách” nêu thế lửa bốc lên. Tuy ở trong hang hốc không bị lửa cháy tới nhưng vẫn có sự nóng bức, [như người nhập vào các trạng thái định] tứ thiền tuy không còn những xấu ác của cõi Dục nhưng vẫn còn sự khổ não vi tế của luyến ái, cho nên nói là “bị sức lửa bức bách”.

Tiểu đoạn thứ tư từ câu “Quay sang giết hại nhau” trở đi, gồm 2 khổ kệ, nêu tướng trạng những thứ bị thiêu đốt, là tướng tranh đoạt lẫn nhau giữa lợi với độn, vì những chúng sinh chưa dứt các lợi sử và độn sử tuy chứng được thiền định giống nhau nhưng chỗ bám chấp của mỗi người đều khác nhau. Vì khác nhau nên tranh nhau chuyện đúng sai, ví như “quay sang giết hại nhau”. Khi ở trong thiền mà khởi lên các kiến chấp ắt không thể khởi sinh định và tuệ vô lậu. Chỉ bám chấp nơi sự tịch lặng nên ví như “uống máu”, lại bám chấp 5 chi[37] nên ví như “ăn thịt”. Chồn hoang là [ví với] tâm tham ở cõi Dục, do pháp định vị lai dứt trừ hết sạch nên nói “hết thảy đều chết trước”, lại cũng gọi là “ăn thịt”. Tâm tham thiền định là “thú lớn hung dữ”, có thể ăn nuốt tâm tham ở cõi Dục. [Lại nữa,] 4 điên đảo và 8 nỗi khổ trong cõi Dục như ngọn lửa cháy mạnh, 4 điên đảo với khổ ấy ở cõi Sắc như “mùi hôi thối”. Cũng có thể hiểu rằng đó là các yếu tố thân, thọ, tâm, pháp cùng 4 đại, da thịt... cho nên nói rằng “bao phủ khắp bốn bề”.

Đoạn thứ ba từ câu “Những rết độc, trùng độc…” trở đi gồm 2 khổ rưỡi kệ, nêu những việc xảy ra trong không trung, ví như lửa bốc lên [thiêu đốt] trong cõi Vô sắc. Phần này chia thành 2 tiểu đoạn.

Tiểu đoạn đầu tiên gồm 1 khổ kệ nêu rõ những loài bị thiêu đốt.

Tiểu đoạn thứ hai gồm 1 khổ rưỡi kệ, nêu rõ tướng trạng bị thiêu đốt. [Như người] chán bỏ trạng thái định trong cõi Sắc nên ra khỏi định, hướng đến [tu tập] định trong cõi Vô sắc, chán bỏ cảnh giới hình sắc thô trược [nên tu tập] pháp quán vô sắc, ví như những loài rắn độc bị lửa đốt nóng bò ra khỏi hang. Như vậy tức là tâm sân hận hiện hữu trong cả ba cõi,[38] nhưng khi đạt được trạng thái định trong cõi Vô sắc thì tất nhiên diệt trừ được hết các duyên [ở hai cõi] thấp hơn, cho nên nói rằng “nhân đó bắt lấy ăn”. [Tuy vậy, lên đến] cõi trời Phi tưởng [phi phi tưởng][39] là cõi trời cao nhất vẫn chưa tránh khỏi được những nỗi khổ vì điên đảo, nên ví như “lửa bốc cháy trên đầu”.

Cõi trời Phi tưởng [phi phi tưởng] cũng có đủ 8 nỗi khổ như lửa thiêu đốt. Trong tâm khởi sinh các niệm khác, đó là khổ vì sinh. Các niệm nối nhau tương tục không dừng, đó là khổ vì già. Tâm hành rối loạn ngăn trở việc nhập định, đó là khổ vì bệnh. Tâm an định thối thất, đó là thì khổ vì chết. Cầu định không đạt định, đó là khổ vì mong cầu không được. Cầu định không đạt định ắt là có sự chướng, đó là khổ vì không mong muốn mà phải phải gặp. Trong tâm [vẫn còn] 4 ấm,[40] đó là khổ vì các ấm bùng phát mạnh mẽ.

Không thể tức thời dứt trừ các hạt giống [khổ đau] ở cõi trời Hữu đảnh[41] nên nói là “lửa bốc cháy trên đầu”. Không đạt được vô lậu cho nên nói là “đói khát lại nóng bức”. Vì còn trong luân hồi như vậy nên nói là “hoảng hốt chạy khắp nơi”.

Đoạn thứ tư từ câu “Căn nhà ấy như vậy…” trở đi gồm 1 khổ kệ, nêu tóm kết về nhiều khổ nạn trong ba cõi, không chỉ là một nạn.

Đến đây là hết phần kệ tụng về các thí dụ khái quát.

KINH VĂN

Ông trưởng giả chủ nhà,
Còn đang đứng ngoài cửa,
Nghe có người nói rằng:
“Những đứa con của ông,
Lúc trước cùng đi chơi,
Vào cả trong nhà này.
Chúng nhỏ dại, không biết,
Ham chơi đùa trong ấy.”
Ông trưởng giả nghe rồi,
Hốt hoảng vào nhà cháy.

Từ câu “Ông trưởng giả chủ nhà, còn đang đứng ngoài cửa…” [trở đi] là phần thứ hai, gồm 32 khổ rưỡi kệ, tụng lại về các thí dụ cụ thể. Phần về thí dụ cụ thể [trong văn trường hàng ở trước] có 4 thí dụ, nay trong kệ tụng chỉ [có 3 tổng đoạn] tụng lại 3 thí dụ.

Tổng đoạn thứ nhất gồm 2 khổ rưỡi kệ, tụng lại thí dụ “ông trưởng giả thấy lửa bốc lên”. Tổng đoạn thứ hai có 13 khổ kệ, tụng lại thí dụ [ông trưởng giả] “bỏ ý dùng sức mạnh, chuyển sang phương tiện”.[42] Tổng đoạn thứ ba có 17 khổ kệ, tụng lại thí dụ [ông trưởng giả] “cho các con cùng một loại xe lớn”.

Tổng đoạn thứ nhất gồm 2 khổ rưỡi kệ, tụng việc “thấy lửa”, [trong văn trường hàng ở trước] có 3 ý: thứ nhất nói về người thấy, thứ hai nói về những gì được nhìn thấy và thứ ba nói việc khởi lên sự kinh sợ. Tổng đoạn này [chia làm 3 đoạn] tụng lại đầy đủ [3 ý đó].

Đoạn thứ nhất từ câu “Ông trưởng giả chủ nhà…” trở đi, có 3 câu, nói về người thấy. Trong văn trường hàng ở trước nói là “thấy”, nay trong kệ tụng nói là “nghe”, đó là dùng nghe để thay cho thấy. Nghe tức là [phải nghe] từ người khác. “Còn đang đứng ngoài cửa” là tụng lại ý nghĩa câu kinh ở trước: “Nay ta tuy có thể xuyên qua cửa đang cháy mà thoát ra ngoài an ổn.” Nói “đứng” là nghĩa [chư Phật] trụ nơi pháp thân vẫn thường giữ tâm đại bi, vì muốn cứu độ chúng sinh nên không ở trên tòa Niết-bàn.[43]

Các nhà cựu giải nói rằng, [những lời ông trưởng giả nghe về các con ở trong nhà đang cháy là ý nghĩa] mười phương chư Phật nói với Phật Thích-ca: “Những chúng sanh[44] có cơ duyên với ngài đang ở trong ba cõi, sắp dứt mất căn lành.” Lại có người nói rằng, cơ duyên của chúng sinh chiêu cảm đến [tâm] Phật là nghĩa “người khác”.

Nay giải thích rằng, pháp là thầy của Phật, tức là nói pháp tam-muội. Pháp tam-muội này là thầy, tức là nghĩa “người khác”. [Đức Phật] nhập tam-muội liền có thể thấy được cơ duyên [của chúng sanh], đó là tam-muội giúp cho Phật thấy được, cho nên nói “nghe có người nói rằng”. Lại cũng giải thích rằng, tâm đại bi là nghĩa của “người khác”. Đại lược là như vậy.

Đoạn thứ hai từ câu “Những đứa con của ông” trở đi gồm 5 câu kệ, tụng lại [ý nghĩa] về ngọn lửa được nhìn thấy.

Hỏi: Những người con vốn chưa ra khỏi nhà, sao có thể nói là nhân lúc vui chơi mà vào trong nhà?

Đáp: Nếu từng phát tâm [tu tập xuất thế], đó gọi là ra khỏi ba cõi, nhưng có sự thối thất nên lại gọi là vào trong ba cõi. Giống như người bước chân muốn ra khỏi nhà, vừa đến bên cửa lại quay trở vào, đó cũng gọi là đi ra rồi lại trở vào. Lại nữa, lý tánh vốn thanh tịnh, không phải là pháp trong ba cõi, chỉ nhân nơi vô minh mà khởi lên hý luận,1 liền có sinh tử. Do vậy nên nói rằng nhân trước đó đi chơi mà vào [trong căn nhà ba cõi].

Pháp thiện Đại thừa chưa [hiểu biết] sáng tỏ nên nói là “nhỏ dại”; vì vô minh che lấp nên nói là “không biết”.

Đoạn thứ ba gồm hai câu: “Ông trưởng giả nghe rồi, hốt hoảng vào nhà cháy.” Đoạn này tụng lại ý nghĩa kinh văn phần trước nói “ông trưởng giả thấy lửa… …hết sức kinh hãi” là nghĩa [đức Phật nhân đó] mà khởi tâm đại bi.

KINH VĂN

Tìm cách cứu các con,
Khỏi nạn lửa thiêu chết.
Nói cho các con biết,
Những nguy hiểm, tai nạn,
Nào quỷ dữ, trùng độc...
Ngọn lửa đang lan khắp...
Bao nỗi khổ tuần tự,
Tiếp nối nhau không dứt.
Rắn hổ mang, bọ cạp...
Cùng lũ quỷ dạ-xoa,
Với quỷ cưu-bàn-trà,
Chồn, cáo và chó hoang,
Kên kên, cú, diều hâu,
Cùng những loài rết độc,
Chúng đang cơn đói khát,
Thật rất đáng kinh sợ.
Nơi đây đầy khổ nạn,
Lại thêm lửa bốc cao.
Các con chưa hiểu biết,
Nên tuy nghe cha dạy,
Vẫn tiếp tục ham chơi,
Đùa giỡn mãi không thôi.

Tổng đoạn thứ hai từ câu “Tìm cách cứu các con” trở đi có 13 khổ kệ, tụng [lại ý nghĩa ông trưởng giả] từ bỏ ý định [đặt các con lên] bàn, ghế… [để đưa ra ngoài], quay sang dùng xe [đẹp để dẫn dụ]. Tổng đoạn này chia làm 2 đoạn.

Đoạn thứ nhất có 5 khổ rưỡi kệ, [từ câu “Tìm cách cứu các con” trở đi], tụng lại ý nghĩa phần trước nói [ông tưởng giả] không cứu được con. Trong kinh văn trường hàng, phần khai mở thí dụ có [2 pháp] khuyến tấn và răn dạy ngăn ngừa, nhưng phần [so sánh ý nghĩa] chỉ nói tương hợp với pháp khuyến tấn, nay trong kệ tụng ở đây chỉ có nghĩa ngăn ngừa. Trong văn trường hàng nêu nghĩa ngăn ngừa có 3 ý, trong kệ tụng ở đây cũng có đủ 3 ý [trong 3 tiểu đoạn].

Tiểu đoạn thứ nhất gồm 4 khổ rưỡi kệ, [từ câu “Tìm cách cứu các con” trở đi], tụng lại ý nghĩa phần kinh văn trường hàng ở trước, [ông trưởng giả nghĩ rằng:] “Nay ta nên vì chúng nói ra những việc đáng kinh sợ…” và cho rằng như vậy là thích hợp.

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Các con chưa hiểu biết” trở đi gồm 3 câu, tụng [lại ý nghĩa các con] không nghe lời cha dạy, vẫn đùa giỡn không ngừng.

Tiểu đoạn thứ ba chỉ có một câu, [“Đùa giỡn mãi không thôi” là] tụng lại ý nghĩa [Phật muốn] dừng việc hóa độ.

[Kinh văn nói] “tìm cách” có nghĩa là [Phật] suy tính đến việc dùng Đại thừa giáo hóa là thích hợp. “Nói cho các con biết” tức là nghĩa nói rõ các khổ nạn nguy hại để dạy dỗ, ngăn ngừa. Câu cuối cùng nói “đùa giỡn mãi không thôi” là tụng lại ý nghĩa trong kinh văn trường hàng nói những người con chỉ “giương mắt nhìn cha mà thôi”, tức là nghĩa bỏ mặc, không lưu tâm đến lời cha khó nhọc răn dạy.

KINH VĂN

Bấy giờ ông trưởng giả,
Liền tự suy nghĩ rằng:
“Các con ta thế này,
Khiến ta thêm buồn khổ.
Nay trong căn nhà này,
Chẳng có gì đáng vui.
Vậy mà các con ta,
Mãi đắm say vui đùa,
Không nghe lời ta dạy,
Nên sắp bị lửa thiêu.”
Ông liền suy nghĩ kỹ,
Bày ra các phương tiện,
Rồi bảo các con rằng:
“Cha có đủ mọi loại,
Đồ chơi rất quý báu,
Như xe đẹp và quý,
Gồm xe dê, xe nai,
Và cả xe trâu lớn.
Nay sẵn có ngoài cửa,
Các con hãy mau ra.
Cha đã vì các con,
Làm ra những xe này.
Các con tùy sở thích,
Cứ tha hồ vui chơi.”
Các con nghe cha nói,
Về những loại xe ấy.
Liền tức thời đua nhau,
Nhanh chóng chạy ra ngoài.
Đến được chỗ đất trống,
Lìa xa mọi nạn khổ.

Đoạn thứ hai từ câu “Bấy giờ ông trưởng giả…” trở đi gồm 7 khổ rưỡi kệ, tụng [lại ý nghĩa kinh văn trường hàng ở trước nói] về việc [ông trưởng giả] dùng [3 loại] xe [đẹp để dẫn dụ các con]. Trong kinh văn trường hàng phần này có 4 ý. Thứ nhất là [ông trưởng giả] suy tính việc dùng 3 loại xe [để dẫn dụ] là thích hợp. Thứ hai là [ông trưởng giả] biết rõ tâm ham muốn trước đây của các con. Thứ ba là [ông trưởng giả] khen ngợi ba loại xe [đẹp và] hiếm có. Thứ tư là [việc dùng xe dẫn dụ] thích hợp với mong muốn của các con. Nay trong phần kệ tụng này [gồm 3 tiểu đoạn] chỉ có 3 ý, lược bớt không có [ý thứ hai là] “biết rõ tâm ham muốn trước đây của các con”.

Tiểu đoạn thứ nhất gồm 3 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa suy tính [dẫn dụ là] thích hợp.

Tiểu đoạn thứ hai gồm 3 khổ kệ, từ câu “Rồi bảo các con rằng” trở đi, nói việc [ông trưởng giả] khuyến khích, khen ngợi 3 loại xe là hiếm có. [Phần kinh văn trường hàng] ở trước nói rõ 3 nghĩa khuyến [chuyển] (giáo hóa bằng sự khuyên bảo), thị [chuyển] (giáo hóa bằng sự chỉ bày) và chứng [chuyển] (giáo hóa bằng sự chứng thực), nay trong kệ tụng phần này cũng đủ 3 nghĩa và lặp lại phần khuyến [chuyển] nên thành 4 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất gồm 1 khổ kệ, tụng về nghĩa khuyến [chuyển].

Phân đoạn thứ hai gồm 3 câu, từ câu “Gồm xe dê, xe nai…” trở đi, tụng về nghĩa thị [chuyển].

Phân đoạn thứ ba gồm 1 câu “Các con hãy mau ra” là lặp lại nghĩa khuyến [chuyển].

Phân đoạn thứ tư gồm 1 khổ kệ, từ câu “Cha đã vì các con” trở đi, tụng về nghĩa chứng [chuyển].

Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Các con nghe cha nói” trở đi gồm 1 khổ rưỡi kệ, tụng [lại ý nghĩa] thích hợp với mong muốn của các con. Phần này cả 6 câu đều tụng lại ý nghĩa trong văn trường hàng ở trước. “Nhanh chóng chạy ra ngoài” là tụng lại ý nghĩa thấy được 4 chân đế, “đến được chỗ đất trống” là tụng lại ý nghĩa đạt đến quả vị vô học.

KINH VĂN

Trưởng giả thấy các con,
Ra khỏi căn nhà cháy,
An ổn ngã tư đường.
Liền ngồi tòa sư tử,
Tự nói lời vui mừng:
“Ta nay mừng lắm thay!
Những đứa con của ta,
Sinh dưỡng rất khó khăn,
Vì tuổi nhỏ dại khờ,
Nên vào nhà nguy hiểm,
Có rất nhiều trùng độc,
Cùng yêu quái đáng sợ.
Lửa dữ cháy phừng phừng,
Bốn bề cùng nổi dậy.
Nhưng những đứa con này,
Vẫn mê mải ham chơi.
Ta đã cứu chúng ra,
Thoát khỏi được tai nạn.
Nên bảo cùng mọi người,
Ta nay rất mừng vui.”

Tổng đoạn thứ ba từ câu “Trưởng giả thấy các con, ra khỏi căn nhà cháy” trở đi, gồm 17 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa thí dụ thứ ba trong kinh văn trường hàng ở trước là “ban cho các con cùng một loại xe lớn”. Kinh văn trường hàng phần này có 4 ý. Thứ nhất là ý [các con] thoát nạn, thứ hai là [các con] xin ban cho xe, thứ ba là [ông trưởng giả] ban cho [các con] cùng một loại xe lớn, thứ tư là [các con] được xe rồi đều vui mừng. Nay trong phần kệ tụng này [chia thành 4 đoạn] cũng có 4 ý. Đoạn thứ nhất gồm 5 khổ kệ, tụng [ý nghĩa các con] thoát nạn [nên ông trưởng giả] vui mừng. Đoạn thứ hai gồm 3 khổ kệ, tụng [lại ý nghĩa] các con xin ban cho xe. Đoạn thứ ba gồm 7 khổ rưỡi kệ, tụng [lại ý nghĩa] ban cho [các con] cùng một loại xe [lớn]. Đoạn thứ tư gồm 1 khổ rưỡi kệ, tụng [lại ý nghĩa các con] được xe đều vui mừng.

Đoạn thứ nhất gồm 5 khổ kệ tụng ý nghĩa các con thoát nạn, chia thành 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn đầu tiên gồm 1 khổ kệ tụng về ý nghĩa thoát nạn. Tiểu đoạn thứ hai gồm 4 khổ kệ, từ câu “Tự nói lời vui mừng” trở đi, tụng về ý nghĩa [ông trưởng giả] vui mừng.

Tiểu đoạn đầu tiên, câu “Liền ngồi tòa sư tử” có 2 cách giải thích. Thứ nhất là nói những người con lên ngồi [tòa sư tử], nghĩa là được ra khỏi ba cõi nên không còn lo sợ. Thứ hai là nói ông trưởng giả lên tòa [sư tử] ngồi, nghĩa là ông trưởng giả thấy các con đã thoát nạn nên không còn lo sợ. Ban sơ ông ở ngoài cửa, trong lòng lo lắng nên nói là “đứng”, nay [các con ông] đều thoát ra ngoài cửa, không còn lo lắng nên nói là “ngồi”. Cho nên trong phẩm Phương tiện nói: “Phật hoan hỷ không ngại.” Phần nói về “các con thoát nạn” đến đây là dứt.

Tiểu đoạn thứ hai gồm 4 khổ kệ, từ câu “Tự nói lời vui mừng” trở đi, tụng ý nghĩa ông trưởng giả vui mừng [vì các con thoát nạn], y theo kinh văn có thể hiểu được [không cần giảng giải].

KINH VĂN

Lúc bấy giờ các con,
Thấy cha đã yên ngồi,
Liền kéo nhau đến đó.
Thưa cùng cha thế này:
“Xin ban cho chúng con,
Ba loại xe quý đẹp,
Như trước đây đã hứa:
‘Nếu các con ra ngoài,
Cha sẽ cho ba xe,
Tùy ý các con muốn.’
Nay đã đúng lúc rồi,
Xin cha thương ban cho.”
Ông trưởng giả rất giàu,
Có nhiều kho tàng lớn,
Vàng bạc cùng lưu ly,
Xa cừ và mã não.
Nên dùng các vật báu,
Làm thành cỗ xe lớn.
Trang hoàng thật xinh đẹp.
Quanh xe có lan can,
Bốn phía treo chuông nhỏ.
Dây bằng vàng quấn quanh,
Kết ngọc trai thành lưới,
Giăng phủ bên trên xe.
Dùng hoa vàng, chuỗi ngọc,
Buông rủ khắp bốn bên.
Dùng tơ lụa đủ màu,
Bao bọc vòng quanh xe,
Dùng lụa, bông mềm mại,
Để trải làm nệm xe.
Dùng vải mịn tốt nhất,
Giá trị đến nghìn muôn,
Trắng đẹp, sạch, thuần khiết,
Bao phủ trên mặt nệm.
Lại dùng trâu trắng lớn,
Mập mạp và khỏe mạnh,
Hình dáng rất xinh đẹp,
Để kéo xe quý ấy.
Có nhiều người đi theo,
Để hầu hạ, bảo vệ.
Dùng xe tốt đẹp ấy,
Ban đều cho các con.
Những người con khi ấy,
Rất vui mừng phấn chấn,
Ngồi trên cỗ xe quý,
Dạo chơi khắp bốn phương,
Cùng chơi đùa vui thích,
Tự do không ngăn ngại.

Đoạn thứ hai gồm 3 khổ kệ, từ câu “Lúc bấy giờ các con, thấy cha đã yên ngồi” trở đi, tụng [lại ý] thứ hai [của thí dụ thứ ba trong phần kinh văn trường hàng ở trước] về việc các con xin ban cho xe, có thể y theo kinh văn mà hiểu được, [không cần giảng giải].

Đoạn thứ ba gồm 7 khổ rưỡi kệ, từ câu “Ông trưởng giả rất giàu” trở đi, tụng lại ý thứ ba [trong kinh văn trường hàng] là “ban cho các con cùng một loại xe lớn”. Kinh văn trường hàng phần này có [6 ý, gồm] 2 ý nêu ra, 2 ý giảng rộng và 2 ý giải thích, phần so sánh theo sau chỉ tương hợp với 5 ý, nay trong kệ tụng thì đoạn này chia làm 3 tiểu đoạn, chỉ nói 4 ý, [lược bỏ] không tụng 1 ý nói rộng về tâm tánh bình đẳng và 1 ý giải thích về tâm tánh bình đẳng.

Tiểu đoạn đầu tiên gồm 1 khổ kệ [nêu ý thứ nhất], tụng vượt sang ý nghĩa của thí dụ thứ tư [trong kinh văn trường hàng] giải thích về nghĩa “xe lớn”. Nhà hưng thịnh đầy đủ gọi là “kho”, đất dồi dào phong phú gọi là “chứa”. [Hoặc cũng nói rằng] thực hành đầy đủ tất cả các pháp gọi là “chứa”; mắt, tai… 6 căn đầy đủ tất cả pháp gọi là “kho”. Đại lược là như vậy.

Tiểu đoạn thứ hai gồm 6 khổ kệ, từ câu “Nên dùng các vật báu” trở đi, [nêu ý thứ hai] tụng lại ý thứ ba [của thí dụ thứ ba] trong kinh văn trường hàng nói về các xe đều rộng lớn.

Tiểu đoạn thứ ba gồm 2 câu kệ, tụng lại 2 ý nêu vấn đề [trong kinh văn trường hàng]. Câu “Dùng xe tốt đẹp ấy” là ý thứ ba, tụng lại ý thứ hai ở trước nói về xe lớn. Câu “Ban đều cho các con” là ý thứ tư, tụng lại ý thứ nhất ở trước nói về tâm tánh bình đẳng.

Đoạn thứ tư gồm 1 khổ rưỡi kệ, từ câu “Những người con khi ấy, rất vui mừng phấn chấn” trở đi, tụng [lại ý nghĩa các con] được xe vui mừng. “Dạo chơi khắp bốn phương” là nghĩa nương theo trí tuệ trung đạo, nhất thời dạo qua 4 pháp của 4 giáo,[45] 4 đế của 4 giáo;[46] theo trình tự thời gian[47] thì tuần tự vượt qua 41 giai vị, rốt ráo đạt được các phẩm đức thường, lạc, ngã, tịnh. Cho nên nói rằng: “Cùng chơi đùa vui thích, tự do không ngăn ngại.”

KINH VĂN

Phật bảo Xá-lợi-phất:
Ta cũng giống như vậy.
Tôn quý giữa chư thánh.
Cha lành khắp thế gian,
Nên hết thảy chúng sinh,
Đều là con Như Lai.
Mãi đắm vui thế gian,
Không có tâm trí tuệ.
Ba cõi không an ổn,
Như căn nhà đang cháy,
Ngập tràn các nỗi khổ,
Thật đáng sợ vô cùng.
Thường chịu khổ sinh, già,
Bệnh, chết và âu lo...
Những thứ lửa như vậy,
Thiêu đốt mãi không dừng.

Tổng phần thứ hai gồm 34 khổ rưỡi kệ, từ câu “Phật bảo Xá-lợi-phất: Ta cũng giống như vậy” trở đi, tụng [lại ý nghĩa so sánh] tương hợp các thí dụ, chia ra làm 2 phần.

Phần thứ nhất gồm 4 khổ kệ, tụng về ý nghĩa tương hợp với các thí dụ khái quát, nhưng [chia làm 4 tổng đoạn] chỉ nêu 4 ý để bao gồm cả 6 thí dụ [trong kinh văn trường hàng].

Tổng đoạn thứ nhất gồm 1 khổ kệ, từ câu “Phật bảo Xá-lợi-phất: Ta cũng giống như vậy.” Tổng đoạn này tụng ý nghĩa tương hợp với thí dụ ông trưởng giả. Nửa khổ kệ đầu tụng ý nghĩa tương hợp về địa vị và danh hiệu. Nửa khổ kệ sau tụng ý nghĩa tương hợp về danh tiếng và công hạnh, gồm luôn ý nghĩa xưng tán phẩm đức. [Kệ nói Phật là bậc] “Tôn quý giữa chư thánh”, tức là nói giữa 7 hạng [hiền thánh] phương tiện;[48] nói “Cha lành khắp thế gian”, tức là nói khắp cả chúng sinh trong 9 pháp giới.[49]

Tổng đoạn thứ hai gồm 1 khổ kệ. Hai câu “Nên hết thảy chúng sinh, đều là con Như Lai” là tụng ý nghĩa tương hợp với 5 đường, bao gồm cả ý nghĩa 30 người con [trong thí dụ ở trước]. Nói theo duyên nhân thì 30 người con ấy là con; nói theo chánh nhân thì tất cả chúng sinh là con.1

Tổng đoạn thứ ba gồm hai câu kệ “Ba cõi không an ổn, như căn nhà đang cháy” là tụng nghĩa tương hợp [với thí dụ] về nhà cửa [của ông trưởng giả], cũng bao gồm cả ý nghĩa [nhà ấy] chỉ có một cửa ra.

Tổng đoạn thứ tư gồm 1 khổ rưỡi kệ, từ câu “Ngập tràn các nỗi khổ” trở đi, tụng ý nghĩa tương hợp với [thí dụ] lửa bốc cháy [sau nhà].

Đến đây là hết phần tụng nghĩa tương hợp với các thí dụ khái quát.

KINH VĂN

Như Lai đã lìa xa,
Nhà cháy là ba cõi,
Sống thanh nhàn, tịch lặng,
Trong rừng vắng an ổn.
Nay khắp ba cõi này,
Đều thuộc về Như Lai,
Nên chúng sinh trong đó,
Đều là con Như Lai.
Mà nay ba cõi ấy,
Đẫy dẫy các khổ nạn,
Chỉ riêng đức Như Lai,
Có khả năng cứu giúp.

Phần thứ hai gồm 30 khổ rưỡi kệ, từ câu “Như Lai đã xa lìa, nhà cháy là ba cõi” trở đi, tụng [lại ý nghĩa tương hợp] với các thí dụ. Phần trước tụng nêu thí dụ [khái quát] không có ý “không hư dối”, phần này tụng nghĩa tương hợp thì có ý này. [Phần này chia làm 4 tổng đoạn.]

Tổng đoạn thứ nhất gồm 3 khổ kệ, tụng ý nghĩa [đức Phật] thấy chúng sinh [đắm chìm chịu khổ trong] sinh, già, [bệnh, chết…] là tương hợp với thí dụ [ông trưởng giả] thấy lửa [bốc cháy]. Kinh văn trường hàng ở trước nói về thí dụ [ông trưởng giả] thấy lửa gồm có 3 ý, nay trong kệ tụng cũng [có 3 đoạn] tương hợp với 3 ý.

Đoạn thứ nhất gồm 1 khổ kệ đầu tiên tụng lại [ý nghĩa trong kinh văn] phần trước nói đức Như Lai có khả năng nhìn thấy. Đó là do trụ yên nơi thanh nhàn tịch lặng nên có thể nhìn thấy các con [là chúng sanh] ở trong [cõi đời có] 5 sự uế trược, tức là tương hợp với [ý nghĩa] “nghe có người nói rằng”.

Đoạn thứ hai gồm 1 khổ rưỡi kệ, từ câu “nay khắp ba cõi này” trở đi, tụng lại [ý nghĩa trong kinh văn trường hàng] ở trước nói [đức Phật] nhìn thấy tất cả chúng sinh vì bị ngọn lửa sinh, già, bệnh, chết thiêu đốt, tức là tương hợp với thí dụ thứ hai nói về việc nhìn thấy những gì bị lửa thiêu.

Đoạn thứ ba gồm nửa khổ kệ “Chỉ riêng đức Như Lai, có khả năng cứu giúp”, tụng lại ý nghĩa trong kinh văn trường hàng ở trước nói “đức Phật nhìn thấy vậy liền khởi lên ý nghĩ”, tức là tương hợp với ý nghĩa [ông trưởng giả] “hốt hoảng vào nhà cháy”.

KINH VĂN

Nhưng dù đã dạy bảo,
Chúng sinh không tin nhận.
Vì đối với các dục,
Quá đắm nhiễm, tham chấp.
Nên Phật dùng phương tiện,
Vì họ nói ba thừa.
Để giúp cho chúng sinh,
Biết khổ trong ba cõi.
Mở bày và giảng giải,
Con đường xuất thế gian.
Những chúng sinh được nghe,
Nếu có tâm quyết định,
Liền đầy đủ ba minh,
Cùng với sáu thần thông.
Hoặc đạt quả Duyên giác,
Hoặc Bồ Tát bất thối.

Tổng đoạn thứ hai gồm 4 khổ kệ, từ câu “Nhưng dù đã dạy bảo” trở đi, tụng về ý nghĩa [ông trưởng giả] từ bỏ [ý định] dùng sức mạnh, quay sang dùng phương tiện xe đẹp để dẫn dụ. Tổng đoạn này chia làm 2 đoạn.

Đoạn thứ nhất gồm 1 khổ kệ, tụng về việc [ông trưởng giả] từ bỏ ý định dùng sức mạnh. Kinh văn phần trước nêu thí dụ này có 3 ý: [đức Phật] dự tính [dùng Đại thừa giáo hóa] là thích hợp, [đức Phật nhận thấy chúng sanh] không đủ căn cơ, [đức Phật] tạm dừng việc giáo hó [bằng Đại thừa]. Nay trong phần kệ tụng này cũng đủ 3 ý, nhưng chỉ nêu một cách tổng quát sơ lược.

Câu “nhưng dù đã dạy bảo” tụng ý nghĩa “dự tính [dùng Đại thừa] là thích hợp”, câu “chúng sinh không tin nhận”, tụng ý nghĩa “không có căn cơ”. Hai câu sau [“vì đối với các dục, quá đắm nhiễm, tham chấp”] tụng ý nghĩa “tạm dừng việc giáo hóa”.

Hoặc cũng có thể hiểu rằng 2 câu sau này tụng ý nghĩa [chúng sanh] không có căn cơ. “Quá đắm nhiễm, tham chấp” là tụng lại ý nghĩa trong kinh văn phần trước nói về [chúng sanh] vẫn chưa thoát khỏi sinh, già, bịnh, chết, sầu đau, khổ não v.v.

Đoạn thứ hai gồm 3 khổ kệ, từ câu “Nên Phật dùng phương tiện” trở đi, tụng ý nghĩa tương hợp với thí dụ dùng xe [đẹp dẫn dụ] có thể cứu được các con. Trong kinh văn trường hàng ở trước có 4 ý, nay trong kệ tụng phần này [có 3 tiểu đoạn] chỉ nói 3 ý và cũng tương hợp với 3 ý, lược bớt không tương hợp với ý “biết rõ lòng ham muốn của các con trước đây”.

Tiểu đoạn thứ nhất có một câu “nên Phật dùng phương tiện”, tụng lại ý nghĩa phần kinh văn trường hàng trước nói [Phật suy nghĩ] “nếu ta chỉ dùng sức thần thông và sức trí tuệ, không dùng phương tiện”.

Tiểu đoạn thứ hai có 5 câu, từ câu “vì họ nói ba thừa” trở đi, tụng ý nghĩa tương hợp với ý thứ ba trong kinh văn trường hàng ở trước “khen ngợi ba loại xe là hiếm có”.

Tiểu đoạn thứ ba gồm một khổ rưỡi kệ, từ câu “những chúng sinh được nghe”,[50] tụng nghĩa tương hợp với ý thứ tư trong kinh văn trường hàng ở trước, “hợp với lòng mong muốn của các con”.

Phần trước nêu nghĩa tương hợp với ba thừa, mỗi thừa đều có 4 câu, nay ở phần này chỉ tụng nghĩa khái quát.

“Nếu có tâm quyết định” là nói các giai vị từ Khổ pháp nhẫn[51] trở lên đều là [có tâm] quyết định chân thật. Câu kệ này tụng hàm nghĩa tổng quát về nỗ lực tu tập đạt đến các giai vị trong ba thừa.

Trong một khổ kệ tiếp theo, bắt đầu từ câu “Liền đầy đủ ba minh”, mỗi câu đều tụng về các giai vị trong ba thừa cố gắng thoát ra [ngoài ba cõi].

KINH VĂN

Nghe đây, Xá-lợi-phất!
Ta chỉ vì chúng sinh,
Mà dùng thí dụ này,
Để thuyết một Phật thừa.
Các ông nếu có thể,
Tin nhận những lời này,
Thì tất cả đều sẽ,
Được thành tựu Phật đạo.
Phật thừa này vi diệu,
Vốn thanh tịnh bậc nhất,
Đối với khắp thế gian,
Không có gì hơn được.
Chư Phật đều hoan hỷ.
Và hết thảy chúng sinh,
Nên ngợi khen xưng tán,
Cùng cúng dường lễ bái.
Gồm vô số muôn ngàn,
Các pháp lực, giải thoát,
Thiền định và trí tuệ,
Cùng những pháp Phật khác.
Đạt được Phật thừa này,
Sẽ giúp cho các ông,
Ngày đêm vô số kiếp,
Thường được vui rong chơi.
Với các vị Bồ Tát,
Cùng đại chúng Thanh văn,
Nương theo thừa báu này,
Liền thẳng đến Đạo trường.
Vì nhân duyên như vậy,
Nên tìm khắp mười phương,
Không có thừa nào khác,
Trừ phương tiện của Phật.

Tổng đoạn thứ ba gồm 8 khổ kệ, từ “Nghe đây, Xá-lợi-phất! Ta chỉ vì chúng sanh” trở đi, tụng ý nghĩa tương hợp với thí dụ thứ ba trong kinh văn trường hàng ở phần trước nói về việc ban cho [các con] cùng một loại xe lớn. Kinh văn trường hàng ở phần tương hợp không có nghĩa [các con] “xin ban cho xe” cũng như nghĩa “[được xe] vui mừng”, nhưng trong phần tụng nêu [thí dụ thì] có đủ. Nay trong kệ tụng phần này chỉ tương hợp với nghĩa “ban cho cùng một loại xe” và nghĩa “được xe vui mừng”, không tương hợp với nghĩa “thoát nạn [vui mừng]” và nghĩa “xin ban cho xe”.

[Trong các nghĩa này] có lấy có bỏ, cuối cùng thành hai nghĩa, lại chia ra thành 2 đoạn. Đoạn thứ nhất có 5 khổ kệ, tụng nghĩa tương hợp với ý “ban cho cùng [một loại xe]”. Đoạn thứ hai có 3 khổ kệ, tụng [nghĩa tương hợp với ý “các con được xe] vui mừng”.

Đoạn thứ nhất, kinh văn phần trước nói nghĩa “ban cho cùng một loại xe” có 4 ý nhưng tụng tương hợp chỉ nêu 2 ý, nay trong phần kệ này cũng tụng lược bớt, [chia ra 4 tiểu đoạn tụng] tương hợp với 2 ý, [nghĩa là] chỉ tương hợp ý thứ hai nêu các nghĩa chính và ý thứ ba mô tả xe rộng lớn, đồng thời cũng tụng giải thích nguyên do có xe.

Tiểu đoạn thứ nhất gồm 1 khổ kệ, từ câu “Nghe đây, Xá-lợi-phất” trở đi, tụng nghĩa chính về “xe lớn”, [hay Đại thừa, tương ứng với] phần kinh văn trước nói về “thiền định, [giải thoát…] của chư Phật” v.v.

Tiểu đoạn thứ hai gồm 1 khổ kệ, từ câu “Các ông nếu có thể” trở đi, tụng ý tương hợp với nghĩa chính “tâm [chúng sanh] bình đẳng”, đó là [tương ứng với] kinh văn phần trước nói “tất cả những chúng sinh đã thoát ra ngoài ba cõi”.

Tiểu đoạn thứ ba gồm 2 khổ kệ, từ câu “Phật thừa này vi diệu” trở đi, tụng nghĩa tương hợp với [ý thứ ba ở kinh văn trường hàng phần trước] mô tả xe rộng lớn, tương ứng với kinh văn phần trước nói “tất cả đều cùng một tướng thể, một chủng loại”.

Tiểu đoạn thứ tư gồm 1 khổ kệ, từ câu “Gồm vô số muôn ngàn, các pháp lực, giải thoát...” trở đi, tụng lại ý nghĩa nguyên do có xe.

Đoạn thứ hai gồm 3 khổ kệ, từ câu “Đạt được Phật thừa này” trở đi, tụng về ý nghĩa “[các con] được xe vui mừng”, lại chia thành 2 tiểu đoạn.

Tiểu đoạn thứ nhất gồm 2 khổ kệ, từ câu “Đạt được Phật thừa này” trở đi, nêu ý mỗi [người con] đều được ban cho xe lớn.

Tiểu đoạn thứ hai gồm 1 khổ kệ, từ câu “Vì nhân duyên như vậy” trở đi, kết lại ý nghĩa khuyến khích tin nhận.

Nay [giải thích tiểu đoạn thứ nhất gồm] 2 khổ kệ. Nói “ngày đêm [vô số kiếp]” là nghĩa, khi vừa được tri kiến trung đạo của Phật thì trí tuệ sáng suốt ví như giữa ban ngày sáng tỏ, lúc còn trong vô minh thì tối tăm như trong đêm đen.

[Lại cũng có thể hiểu rằng], tự mình đạt được trí tuệ trung đạo ví như sống giữa ban ngày sáng tỏ, [khởi tâm] từ bi đi vào sinh tử ví như [đi vào] đêm tối, thường thực hành cả 2 pháp ấy nên gọi là “thường được vui rong chơi”. Người trong ba thừa đều thể nhập được trí tuệ Phật, cho nên nói là “Với các vị Bồ Tát, cùng đại chúng Thanh văn”.

[Lại cũng có thể hiểu rằng], kệ này nêu ý nghĩa tự mình thực hành và giáo hóa người khác. Tự mình đạt đến [Phật] thừa này, cho nên nói “ngày đêm… … rong chơi”; dùng Phật thừa này giáo hóa người khác, cho nên nói “với các vị Bồ Tát, cùng đại chúng Thanh văn”, tức là nói có thể giáo hóa cả ba thừa cùng nương theo thừa báu [là Phật thừa].

Tiểu đoạn thứ hai gồm 1 khổ kệ nói rõ nhân duyên chỉ có một [Phật] thừa, [thật] không có ba thừa. Trong các cõi nước ở khắp mười phương dù hết sức tìm cầu cũng chỉ có duy nhất một thừa, không có thừa thứ hai. “Trừ phương tiện của Phật” tức là nói [riêng phương tiện của Phật] không giới hạn trong câu này.

Cũng có người hỏi: Nếu nói Bồ Tát không “xin ban cho xe” [tức không cầu quả vị] thì do đâu khi được ngồi xe lớn [Đại thừa] lại vui mừng?

KINH VĂN

Phật bảo Xá-lợi-phất:
“Nay tất cả các ông,
Đều là con Như Lai,
Phật là đấng cha lành.
Các ông qua nhiều kiếp,
Bị khổ não thiêu đốt,
Đều được ta cứu giúp,
Đưa ra ngoài ba cõi.
Trước đây tuy Phật nói:
“Các ông được diệt độ”
Nhưng chỉ dứt sinh tử,
Thật chưa được diệt độ.
Nay việc cần phải làm,
Chỉ cầu trí tuệ Phật.

Tổng đoạn thứ tư từ câu “Phật bảo Xá-lợi-phất, nay tất cả các ông” trở đi, gồm 15 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa tương hợp với thí dụ thứ tư trong kinh văn trường hàng ở trước, nói “[ông trưởng giả] không nói dối”. Kinh văn tương hợp ở trước có 2 phần, trước tiên nêu 2 thí dụ, sau đó nói nghĩa tương hợp “[ông trưởng giả] không nói dối”. Nay trong kệ tụng ở đây chỉ có phần tương hợp với nghĩa “không nói dối” và chia làm 2 đoạn. Đoạn thứ nhất gồm 3 khổ rưỡi kệ, tụng nghĩa tương hợp với ý chính là “không hư dối”. Đoạn thứ hai từ câu “Nếu như có Bồ Tát” trở đi, gồm 12 khổ kệ, tụng ý tương hợp và giải thích nghĩa “không hư dối”.

[Kinh văn trường hàng nêu việc] ngài Xá-lợi-phất cho rằng vì hợp với tâm nguyện ban đầu nên không phải hư dối. Người cha vốn muốn khiến cho các con được ra khỏi nhà thoát nạn nên mới bày ra nói có 3 loại xe, vậy khi các con đã được thoát nạn rồi, cho dù chẳng ban cho cỗ xe nhỏ nào thì cũng không trái với tâm nguyện trước đó, cho nên không phải là hư dối. Phật tụng kệ [so sánh với] thí dụ này là nêu rõ nghĩa [lời Phật] không hư dối. [Kệ này] nêu rõ ý Phật vốn muốn thuyết dạy Nhất thừa, chỉ vì [chúng sinh bị che chướng bởi] năm sự uế trược nên chẳng chịu tin nhận, vì vậy mới [tạm] thuyết dạy ba thừa. Khi uế trược che chướng đã trừ rồi liền thuyết dạy chỉ một Đại thừa, tức là hợp với tâm nguyện ban đầu.

Đoạn thứ nhất gồm 3 khổ rưỡi kệ nêu ý chính lại chia làm 3 tiểu đoạn.

Tiểu đoạn thứ nhất gồm 1 khổ kệ, trước tiên xác định ý nghĩa cha con, nêu rõ ý ban đầu muốn dạy cho Đại thừa, nên nói: “Đều là con Như Lai.” [Như vậy] theo đúng lý thì phải bình đẳng thuyết dạy Đại thừa cho tất cả.

Tiểu đoạn thứ hai gồm 1 khổ kệ, từ câu “Các ông qua nhiều kiếp” trở đi, làm rõ ý [Phật] thuyết dạy ba thừa vì để trừ bỏ uế trược che chướng. Cho nên nói rằng: “Các ông qua nhiều kiếp, bị khổ não thiêu đốt.”

Tiểu đoạn thứ ba gồm 1 khổ rưỡi kệ, từ câu “Trước đây tuy Phật dạy” trở đi, [nói nghĩa] sau khi che chướng đã dứt trừ, [Phật mới] quay lại thực hiện ý định ban đầu là thuyết giảng giáo pháp Đại thừa. Cho nên nói rằng: “Nay việc cần phải làm, chỉ cầu trí tuệ Phật.”

KINH VĂN

Nếu như có Bồ Tát
Ở giữa chúng hội này,
Có thể chuyên tâm nghe,
Pháp thật của chư Phật.
Là chư Phật Thế Tôn,
Tuy dùng nhiều phương tiện,
Chúng sinh được giáo hóa,
Thảy đều là Bồ Tát.
Người trí tuệ hạn hẹp,
Lại đắm sâu ái dục,
Phật vì những người ấy,
Trước chỉ bày Khổ đế.
Chúng sinh ấy vui mừng,
Được điều chưa từng có,
Thấy Phật nói Khổ đế,
Đúng sự thật không khác.
Nếu có những chúng sinh,
Không biết nguồn gốc khổ,
Bám chấp nhân tạo khổ,
Không một chút tạm dừng.
Phật vì những người ấy,
Thuyết dạy đạo phương tiện,
Rằng nguyên nhân các khổ,
Đều ở nơi tham dục.
Nếu tham dục dứt trừ,
Không còn chỗ sinh khởi,
Thì các khổ dứt sạch,
Đó gọi là Diệt đế.
Vì muốn đạt Diệt đế,
Nên tu hành theo đạo,
Lìa các khổ trói buộc,
Gọi là được giải thoát.
Người ấy nhờ nơi đâu,
Mà đạt được giải thoát?
Chỉ xa lìa hư dối,
Mà gọi là giải thoát.

Đoạn thứ hai gồm 12 khổ kệ, từ câu “Nếu như có Bồ Tát” trở đi, tụng nghĩa tương hợp và giải thích, [chia ra 3 tiểu đoạn] giải thích lại 3 ý phần trước. Tiểu đoạn thứ nhất gồm 2 khổ kệ, giải thích nghĩa [tất cả chúng sanh] đều là con [của Như Lai], nên theo lý đều bình đẳng như nhau.Tiểu đoạn thứ hai gồm 7 khổ kệ, từ câu “người trí tuệ hạn hẹp” trở đi, giải thích việc [chúng sanh] không có khả năng thọ nhận [Đại thừa] nên [Phật] mới thuyết dạy ba thừa.Tiểu đoạn thứ ba gồm 3 khổ kệ, từ câu “thật ra vẫn chưa được” trở đi, giải thích việc về sau khi chúng sinh đã đủ sức tin nhận thì [Phật] quay lại thuyết giảng Đại thừa.

Bây giờ [giải thích] 2 khổ kệ trong tiểu đoạn thứ nhất, từ câu “Nếu như có Bồ Tát” trở đi. [Đây là] nói những chúng sinh được giáo hóa bởi ba thừa phương tiện thảy đều là những Phật tử đã kết duyên từ thuở xưa, lại cũng cùng có tánh Phật chân như, cho nên nói rằng: “Thảy đều là Bồ Tát.”

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “người trí tuệ hạn hẹp” trở đi nêu nghĩa những người trí tuệ hạn hẹp, che chướng nặng nề, không thể tức thời tin nhận [Đại thừa] nên phải dùng phương tiện khai mở ba thừa để tiếp dẫn. [Phật] vì những người trí tuệ hạn hẹp mà thuyết dạy khổ đế. Trong ba thừa thì hàng Thanh văn là thấp nhất, nên cũng dùng khổ đế làm cửa ngõ ban đầu [nhập đạo]. “Chúng sinh ấy vui mừng”, vì [nghe pháp] xứng hợp với sự huân tập lâu đời của mình cho nên vui mừng. [Chúng sinh] vốn chán ghét sinh tử, tự có ý mong cầu Niết-bàn, nay nghe [pháp có thể giúp] được thoát ra khỏi sinh tử, nghĩa là tương hợp với tập khí cũ cho nên vui vẻ. Đoạn kệ này làm rõ nghĩa Tứ đế trong vòng tạo tác chỉ là xa lìa hư vọng. Vô minh vốn đã là không thật có, thông hoặc lại nương nơi vô minh mà sinh khởi cho nên nói là hư vọng. Tứ đế trong vòng tạo tác chỉ trừ được [những thông] hoặc này thì gọi là giải thoát. Tuy giải thoát khỏi sinh tử phần đoạn nhưng chưa giải thoát sinh tử biến dịch cho nên chưa được hoàn toàn tự do tự tại.

KINH VĂN

Thật ra vẫn chưa được,
Giải thoát hết tất cả.
Nên Phật nói người ấy,
Chưa thật được diệt độ.
Người ấy chưa đạt được,
Đạo Vô thượng Chánh giác,
Nên ý Phật không muốn,
Cho đó là diệt độ.
Phật là đấng Pháp vương,
Tự tại với các pháp,
Làm an ổn chúng sinh,
Nên xuất hiện ở đời.

Tiểu đoạn thứ ba gồm 3 khổ kệ, từ câu “Thật ra vẫn chưa được, giải thoát hết tất cả” trở đi, giải thích nghĩa khi che chướng [của chúng sanh] đã dứt trừ, tình thức căn cơ nhanh nhạy sắc bén [thì đức Phật liền] theo tâm nguyện ban đầu mà thuyết dạy giáo pháp Đại thừa. Đức Phật vốn muốn giúp cho [chúng sanh] được giải thoát hoàn toàn, nhưng nay [chúng trong ba thừa] chỉ mới dứt trừ sinh tử phần đoạn, chưa phải [đạt được] Đại Niết-bàn. Vì [chúng sanh] chưa đạt được [giải thoát] hoàn toàn nên rốt cùng vẫn chưa xứng hợp với tâm nguyện ban đầu [của Phật]. Do vậy mà: “Nên ý Phật không muốn, cho đó là diệt độ.” Nay Phật lại sẽ giúp cho [những chúng sinh ấy] được đạo Vô thượng, thể nhập Đại Niết-bàn. Thành tựu rốt ráo đó mới xứng hợp với tâm nguyện ban đầu của Phật. “Giải thoát tất cả” tức là Diệt đế không còn tạo tác. Đạo Vô thượng tức là Đạo đế không còn tạo tác. Dùng nhị đế[52] để phá trừ Khổ đế và Tập đế không còn tạo tác. Trước đây [Phật] vốn muốn thuyết các pháp như vậy, thế nhưng chúng sinh [vì che chướng mà] không đủ sức thọ nhận, nay che chướng [của chúng sanh] đã dứt trừ rồi, [Phật] liền quay lại thuyết pháp [Đại thừa] như vậy. Phật là bậc Pháp Vương nên đối với các pháp quyền hay thật cũng đều tự tại không ngăn ngại, [do vậy, tuy] bày ra ba thừa [quyền biến] nhưng hiển bày một thừa chân thật, lẽ nào lại có sự hư dối hay sao?

KINH VĂN

Nghe đây Xá-lợi-phất!
Pháp ấn này của ta,
Thuyết dạy chỉ vì muốn,
Làm lợi ích thế gian.
Các ông đi khắp nơi,
Chớ sai lệch nói ra.
Nếu có người nghe được,
Mừng vui, cung kính nhận,
Nên biết rằng người ấy,
Đã được trí bất thối.
Nếu có người tin nhận,
Kinh điển, giáo pháp này,
Đó là người đã từng,
Gặp Phật trong quá khứ,
Từng cung kính cúng dường,
Cũng từng nghe pháp này.
Nếu như ai có thể,
Tin lời ông nói ra,
Đó là người thấy Phật,
Cũng thấy được chính ông,
Cùng chư tỳ-kheo tăng,
Và chư vị Bồ Tát.
Thuyết kinh Pháp hoa này,
Vì trí tuệ thâm sâu.
Người trí cạn nghe qua,
Nghi ngờ không hiểu được.
Hết thảy hàng Thanh văn,
Cùng với Phật Bích-chi,
Đối với kinh điển này,
Không đủ sức theo kịp.
Đến như Xá-lợi-phất,
Mà đối với kinh này,
Phải nhờ tin mới nhận,
Huống gì Thanh văn khác?
Hết thảy Thanh văn khác,
Đều do tin lời Phật,
Mà đón nhận kinh này,
Không phải tự hiểu được.

Từ câu “Này ông Xá-lợi-phất! Pháp ấn này của ta…” trở đi là nhóm kệ thứ hai, gồm 65 khổ kệ, [nội dung] khuyến tín và lưu thông [kinh này]. Tín là nói việc tin [chắc kinh này do] Phật thuyết hay không phải do Phật thuyết; khuyến là khuyên dạy về việc [kinh này] có thể lưu thông hay không thể lưu thông. [Nhóm kệ này] có đủ 2 nghĩa đó cho nên nói là “khuyến tín”, lại được phân chia thành 2 phần. Phần thứ nhất nêu 2 ý chính, phần thứ hai giải thích.

[Phần thứ nhất chia làm 2 tổng đoạn.]

Tổng đoạn thứ nhất gồm 1 khổ kệ, nêu nghĩa có thuyết và không thuyết. Đức Như Lai thuyết dạy pháp ấn này chỉ vì muốn “làm lợi ích thế gian”, cho nên nói có thuyết. Không thuyết nghĩa là qua hơn 40 năm vẫn chưa đúng thời để thuyết, vì 5.000 người [căn cơ thấp kém] chưa đi ra [khỏi pháp hội] nên không thuyết.

Tổng đoạn thứ hai gồm nửa khổ kệ: “Các ông đi khắp nơi, chớ sai lệch nói ra”, nêu ý chính của [các trường hợp] có thể lưu thông hay không thể lưu thông [kinh này]. “Chớ sai lệch nói ra” là đối với những kẻ xấu ác nếu gượng ép thuyết giảng [kinh này] sẽ khiến họ đọa vào cảnh giới khổ [vì không đủ sức tin nhận]; đối với người hiền thiện nếu không thuyết giảng [kinh này] là sai lầm khiến họ lỡ mất [cơ hội] được vui. [Cho nên, khởi] tâm đại bi thương xót kẻ xấu ác thì không lưu thông [kinh này], khởi tâm đại từ nghĩ đến người hiền thiện thì nên lưu thông. Đó gọi là nêu ý nghĩa chính về việc có thể lưu thông và không thể lưu thông [kinh này].

Phần thứ hai là giải thích, từ câu “Nếu có người nghe được” trở đi, lại chia làm 2 tổng đoạn. Tổng đoạn thứ nhất gồm 8 khổ kệ, giải thích về việc có thể thuyết giảng và hay không thể thuyết giảng [kinh này]. Tổng đoạn thứ hai gồm 55 khổ rưỡi kệ,[53] giải thích về việc có thể lưu thông hay không thể lưu thông [kinh này].

Nay [nói về] tổng đoạn thứ nhất, có 8 khổ kệ làm rõ tướng trạng của việc đức Như Lai làm lợi ích thế gian, nói tổng quát về lợi ích [của thế gian] trong cả ba đời, luận giải cụ thể việc giúp cho hàng Nhị thừa thể nhập lòng tin. “Đã được trí bất thối” là quán xét lợi ích trong hiện tại. “Đã từng gặp Phật trong quá khứ” là quán xét [nhân] hiền thiện trong quá khứ để vì [người khác] thuyết giảng. “Tin lời ông nói ra” là quán xét sự hiền thiện trong tương lai mà vì [người khác] thuyết giảng. Kinh văn phần sau nói rằng: “Nếu tin sâu hiểu rõ liền thấy được Phật vẫn thường trụ ở núi Linh thứu”,[54] chính là nghĩa này.

Từ câu “Thuyết kinh Pháp hoa này” trở đi 1 khổ kệ là tóm kết lại [ý nghĩa] phần trước và khai mở phần tiếp theo. Đức Như Lai quán xét rõ biết sự lợi ích trong ba đời cho nên mới vì [chúng sinh ấy] thuyết giảng, [rõ biết] những kẻ trí tuệ cạn cợt không thể nhận hiểu nổi nên không thuyết giảng. Đó là giải thích ý nghĩa chính của việc đức Như Lai thuyết giảng hay không thuyết giảng.

KINH VĂN

Lại nữa, Xá-lợi-phất!
Gặp người kiêu mạn, lười,
Bám chấp nơi tự ngã,
Đừng thuyết giảng kinh này.
Kẻ phàm phu trí cạn,
Đắm sâu trong năm dục,
Nghe kinh không thể hiểu,
Cũng đừng thuyết kinh này.
Nếu có người không tin,
Chê, hủy báng kinh này,
Đó là dứt hết sạch,
Giống Phật của người đời.
Ai cau mày nhăn mặt,
Ôm lòng hoài nghi kinh,
Đều phải chịu tội báo,
Nên ông hãy lắng nghe.
Khi Phật còn tại thế,
Hoặc Phật đã diệt độ,
Nếu có người phỉ báng,
Những kinh điển thế này,
Thấy người khác tụng đọc,
Sao chép hoặc thọ trì,
Liền khinh bỉ, ganh ghét,
Rồi ôm lòng oán hận.
Tội báo của người ấy,
Nay ông hãy lắng nghe.
Người ấy sau khi chết,
Sinh vào ngục Vô gián,
Trải qua trọn một kiếp,
Lại sinh vào kiếp nữa.
Cứ vậy mà tiếp nối,
Cho đến vô số kiếp.
Ra khỏi địa ngục rồi,
Sẽ đọa làm súc sinh.
Hoặc chó hoặc chồn hoang,
Với hình thể gầy còm,
Đen đủi, đầy ghẻ lở,
Bị con người đánh đuổi.
Lại còn bị nhiều người,
Căm ghét và khinh khi,
Thường khổ vì đói khát,
Nên xương thịt khô gầy.
Sống chịu nhiều độc hại,
Chết vùi trong ngói đá.
Vì dứt mất giống Phật,
Chịu tội báo như vậy.
Hoặc làm thân lạc đà,
Hoặc sinh trong giống lừa,
Thân mang, kéo nặng nề,
Lại còn bị đánh đập,
Mong ăn cỏ uống nước,
Không biết gì khác hơn.
Vì hủy báng kinh này,
Chịu tội báo như vậy.
Nếu sinh làm chồn hoang,
Lang thang vào xóm làng,
Thân hình đầy ghẻ chốc,
Lại thiếu mất một mắt,
Còn bị lũ trẻ con,
Theo đánh đập, ném đá.
Chịu đủ mọi đau đớn,
Cho đến phải chết đi.
Và sau khi đã chết,
Liền sinh làm mãng xà,
Thân hình to lớn, dài
Đến năm trăm do-tuần,
Ngu si, điếc, không chân,
Chỉ trườn đi nhờ bụng,
Bị những loài trùng nhỏ,
Rúc rỉa thân ăn thịt,
Nên ngày đêm chịu khổ,
Không một lúc được dừng.
Vì hủy báng kinh này,
Chịu tội báo như vậy.
Nếu như được làm người,
Thì các căn ngu độn,
Lùn, xấu xí, què quặt,
Mù, điếc lại gù lưng,
Khi nói ra điều gì,
Người khác không tin nhận.
Mở miệng bốc mùi hôi,
Bị ma quỷ khống chế,
Sống nghèo khốn, hèn hạ,
Bị người khác sai khiến.
Nhiều bệnh tật, gầy ốm,
Lại không nơi nương tựa.
Dù gần gũi cậy nhờ,
Người không chút lưu tâm.
Nếu học hỏi được gì,
Rồi cũng nhanh quên mất.
Nếu học theo nghề thuốc,
Dùng đúng phương trị bệnh,
Bệnh người vẫn tăng thêm,
Thậm chí đến phải chết.
Nếu tự mình có bệnh,
Không ai cứu chữa được.
Dù dùng phương thuốc hay,
Bệnh vẫn càng thêm nặng.
Như người khác phản nghịch,
Cướp bóc, trộm của người,
Đủ các tội như thế,
Vô cớ chịu liên lụy.
Người chịu tội như vậy,
Vĩnh viễn không gặp Phật,
Bậc đứng đầu chư thánh,
Thường thuyết pháp giáo hóa.
Người chịu tội như vậy,
Thường sinh các nan xứ.
Điên cuồng, điếc, loạn tâm,
Vĩnh viễn không nghe pháp.
Trong vô số kiếp sống,
Nhiều như cát sông Hằng,
Sinh ra đều câm điếc,
Không đủ các giác quan.
Thường xuyên vào địa ngục,
Như người đi dạo vườn.
Cõi ngạ quỷ, súc sinh,
Là nhà ở của họ.
Lạc đà, lừa, chó, lợn,
Là chốn họ sinh vào.
Vì hủy báng kinh này,
Chịu tội báo như vậy.
Nếu như được làm người,
Phải tự mang vào thân,
Những nạn mù, điếc, câm,
Cùng nghèo khốn, suy kiệt.
Bệnh phù thũng, khô khát,
Bệnh ghẻ lở, ung thư,
Đủ các bệnh như vậy,
Bám theo như áo quần.
Thân thể thường hôi hám,
Đầy cáu bẩn, dơ nhớp.
Chấp chặt vào tự ngã,
Sân hận càng tăng thêm,
Tâm tham dâm cực mạnh,
Đến không chừa cầm thú.
Vì hủy báng kinh này,
Chịu tội báo như vậy.
Phật bảo Xá-lợi-phất:
“Dù nói đến trọn kiếp,
Cũng chưa hết tội lỗi,
Của người hủy báng kinh.
Vì nhân duyên như thế,
Nên ta dạy ông rằng:
Gặp những người ngu si,
Đừng thuyết giảng kinh này.”

Tổng đoạn thứ hai từ câu “Lại nữa, Xá-lợi-phất! Gặp người kiêu mạn, lười” trở đi, [gồm 55 khổ rưỡi kệ], giải thích ý nghĩa chính trong việc người hành trì nên lưu thông hoặc không nên lưu thông [kinh này]. Phần này lại chia làm 2 đoạn.

Đoạn thứ nhất gồm 36 khổ rưỡi kệ, nêu rõ nghĩa nếu vận dụng pháp môn đại bi thì không vì những người xấu ác mà thuyết giảng [kinh này]. Trước tiên kể ra những trường hợp xấu ác, tất nhiên sẽ khởi lên sự hủy báng xấu ác, [từ đó] nhận lãnh quả báo xấu ác. Cho nên, [người tu tập] tâm đại bi thì không thể vì [những người xấu ác đó mà] thuyết giảng [kinh này].

Về câu “đó là dứt hết sạch, giống Phật của người đời”, kinh Tịnh Danh nói “lấy phiền não làm hạt giống Như Lai”, đó là lấy tánh của cảnh giới [làm giống Phật]. Đại phẩm [Bát-nhã] nói dùng Nhất thiết chủng trí để học Bát-nhã, đó là lấy tánh của liễu nhân làm giống Phật. Kinh Niết-bàn nói vận dụng tâm, tánh và lý đều không dứt đoạn, đó là lấy tánh của chánh nhân làm giống Phật. Nay kinh [Pháp hoa này] nói rõ nghĩa việc thiện nhỏ [cũng có thể] thành Phật, đó là lấy tánh của duyên nhân[55] làm giống Phật. Nếu không tin được rằng việc thiện nhỏ [cũng có thể] thành Phật thì “đó là dứt hết sạch giống Phật của người đời”.

KINH VĂN

Như gặp người nhanh nhạy,
Có trí tuệ sáng suốt,
Lại nghe nhiều, nhớ lâu,
Phát tâm cầu Phật đạo.
Với những người như thế,
Nên vì họ thuyết kinh.
Như có người từng gặp,
Ngàn muôn ức vị Phật,
Gieo trồng các căn lành,
Lòng sâu vững, kiên cố.
Với những người như thế,
Nên vì họ thuyết kinh.
Như có người tinh tấn,
Thường tu tập tâm từ,
Không tiếc cả thân mạng,
Nên vì họ thuyết kinh.
Ai một lòng cung kính,
Không có ý gì khác,
Lìa xa người phàm tục,
Sống một mình núi vắng.
Với những người như thế,
Nên vì họ thuyết kinh.
Lại này, Xá-lợi-phất!
Nếu gặp được những người,
Từ bỏ bạn xấu ác,
Thường gần gũi bạn lành.
Với những người như thế,
Nên vì họ thuyết kinh.
Nếu gặp những Phật tử,
Giữ giới thật thuần khiết,
Như minh châu trong sáng,
Thường cầu kinh Đại thừa.
Với những người như thế,
Nên vì họ thuyết kinh.
Nếu người không sân hận,
Tánh ngay thẳng, nhu hòa,
Thường thương xót muôn loài,
Và cung kính chư Phật.
Với những người như thế,
Nên vì họ thuyết kinh.
Lại có những Phật tử,
Khi ở giữa đại chúng,
Dùng tâm ý thanh tịnh,
Với đủ mọi nhân duyên,
Cùng thí dụ, ngôn từ,
Thuyết pháp không ngăn ngại.
Với những người như thế,
Nên vì họ thuyết kinh.
Nếu có những tỳ-kheo,
Muốn được Nhất thiết trí,
Khắp bốn phương cầu pháp,
Chắp tay cung kính nhận.
Chỉ ưa thích thọ trì,
Những kinh điển Đại thừa,
Thậm chí không thọ nhận,
Một bài kệ kinh khác.
Với những người như thế,
Nên vì họ thuyết kinh.
Như có người chí tâm,
Cầu được xá-lợi Phật,
Cầu kinh này cũng vậy,
Cầu được, cung kính nhận,
Người ấy tâm không cầu
Bất cứ kinh nào khác,
Lại cũng chưa từng nghĩ
Đến kinh sách ngoại đạo.
Với những người như thế,
Nên vì họ thuyết kinh.”

Đoạn thứ hai từ câu “Như gặp người nhanh nhạy, có trí tuệ sáng suốt” trở đi gồm 19 khổ kệ, giải thích việc khi truyền rộng kinh này nếu vận dụng pháp môn đại bi thì phải vì những người hiền thiện mà thuyết giảng, khiến cho họ không mất đi [cơ hội được] an vui. Nói chung, điều cần yếu trong việc hoằng truyền và lưu thông [kinh điển] là phải hài hòa 2 pháp môn [đại từ và đại bi] khiến cho chúng sinh nhận hiểu được mới là khéo léo lưu truyền. Nếu [thuyết giảng mà chúng sanh] không nhận hiểu được thì đó là “sai lệch nói ra”. Đoạn này chia ra 2 tiểu đoạn.

Tiểu đoạn thứ nhất gồm 17 khổ kệ, có 5 cặp [ý nghĩa], bao gồm 10 hình tướng riêng lẻ của người hiền thiện, [là những trường hợp] có thể tuyên thuyết giảng giải [kinh này].

Tiểu đoạn thứ hai gồm 2 khổ kệ, tổng kết về [những trường hợp] nên và có thể thuyết giảng [kinh này].

Trong tiểu đoạn thứ nhất, cặp [ý nghĩa] thứ nhất là quá khứ và hiện tại. Căn tánh “nhanh nhạy, có trí tuệ sáng suốt” là hiện tại, “gieo trồng các căn lành” là quá khứ; “nghe nhiều, nhớ lâu” là hiện tại, “từng gặp ngàn muôn ức vị Phật” là quá khứ.

Cặp ý nghĩa thứ hai là trên, dưới. “Thường tu tập tâm từ” là thương xót [chúng sanh] bên dưới, “một lòng cung kính” là tôn trọng [chư Phật] bên trên.

Cặp ý nghĩa thứ ba là trong, ngoài. “Từ bỏ kẻ xấu ác, thường gần gũi bạn lành” là cầu từ bên ngoài, “giữ giới thật thuần khiết, như minh châu trong sáng” là giữ gìn bảo vệ từ bên trong.

Cặp ý nghĩa thứ tư là tự mình thực hành và giáo hóa người khác. “Tánh ngay thẳng, nhu hòa, thường thương xót muôn loài và cung kính chư Phật” là tự mình thực hành; “dùng tâm ý thanh tịnh, với đủ mọi nhân duyên, cùng thí dụ, ngôn từ, thuyết pháp không ngăn ngại” là giáo hóa người khác.

Cặp ý nghĩa thứ năm là khởi đầu và chung cuộc. “Khắp bốn phương cầu pháp” là khởi đầu thưa thỉnh cầu đạo; “chắp tay cung kính nhận”, chuyên tâm tu hành là chung cuộc quay về nương tựa. Đại lược là như vậy.

KINH VĂN

Phật bảo Xá-lợi-phất:
“Dù kể đến trọn kiếp,
Cũng chưa hết tướng trạng,
Những người cầu Phật đạo.
Những người ta kể trên,
Ắt có thể tin hiểu.
Ông nên vì họ thuyết,
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.”

Tiểu đoạn thứ hai gồm 2 khổ kệ, từ câu “Phật bảo Xá-lợi-phất” trở đi là tổng kết. [Những người có] niềm tin và hiền thiện rất nhiều, [ở đây] chỉ lược nêu 10 tướng trạng để chỉ bày phương pháp lưu hành truyền rộng [kinh này], giải thích rõ 2 pháp môn đại từ và đại bi là trọng yếu nhất trong việc nên hay không nên truyền rộng [kinh này].[56]

4. Giải thích phẩm Tin hiểu

KINH VĂN

Phẩm Tin hiểu, thứ tư

Giải thích tên phẩm

Có người nói, “tín giải” [là tin hiểu]. [Chư Phật, Bồ Tát] có 3 pháp [giáo hóa giúp chúng sanh tin hiểu], bao gồm thứ nhất là giáo hóa một lần, thứ hai là giáo hóa theo đuổi và thứ ba là giáo hóa rốt ráo.[57]

Các nhà cựu giải cho rằng, thuở xưa [Phật] thuyết giảng Đại thừa là giáo hóa một lần; sau đó thuyết giảng khác với Đại thừa là giáo hóa theo đuổi; [kinh nói] cha con gặp [và nhận biết] nhau là giáo hóa rốt ráo.

Lại cũng nói rằng, [dạy bảo chúng sanh tạo nghiệp] hiền thiện trong 2 cõi trời người là giáo hóa một lần; [phương tiện] nói Tiểu thừa đồng như [giáo pháp] Pháp hoa là giáo hóa theo đuổi; nói [tu tập giáo pháp] Pháp hoa được thụ ký [thành Phật] là giáo hóa rốt ráo.

Lại cũng nói rằng, ban đầu thuyết dạy hai thừa [Thanh văn và Duyên giác] là giáo hóa một lần; nói các pháp chuyển đổi là giáo hóa theo đuổi; [thuyết giảng] Pháp hoa là giáo hóa rốt ráo.

Lại cũng nói rằng, nói các pháp chuyển đổi là giáo hóa một lần; trải qua [các pháp hội] Phương đẳng là giáo hóa theo đuổi; [dạy cho chúng sanh] giác ngộ Nhất thừa là giáo hóa rốt ráo.

Lại cũng nói rằng, thuyết giảng Pháp hoa là giáo hóa một lần, [trải qua] Thập địa vẫn thường giáo hóa [chúng sanh] là giáo hóa theo đuổi; [chỉ bày tu tập] đạt đến tâm kim cang là giáo hóa rốt ráo.

Lại cũng nói rằng, [giáo hóa chúng sanh] lập nguyện[58] là giáo hóa một lần; [giáo hóa] trong quãng thời gian [từ lập nguyện đến thành tựu như nguyện] là giáo hóa theo đuổi; [giáo hóa chúng sanh] đạt được [quả vị] Phật là giáo hóa rốt ráo.

Nay theo ý riêng tôi cho rằng, những cách giải thích tầng tầng lớp lớp như trên, thật giống như ngọc đã nát vụn thì không phải vật quý.

Nói chung, việc giáo hóa một lần chẳng phải bản hoài [của chư Phật], giáo hóa rốt ráo mới là tông chỉ cao tột nhất. Nếu nói rằng [các giáo pháp dành cho hàng] trời, người với Nhị thừa là giáo hóa một lần thì có thể đó chẳng phải bản hoài [của chư Phật], nhưng thuở xưa thuyết giảng Đại thừa, ngày nay thuyết giảng Pháp hoa, đó đều là giáo hóa rốt ráo, sao có thể gọi là giáo hóa một lần?

Nếu như [giáo pháp] Pháp hoa là [giáo hóa] rốt ráo mà cuối cùng lại thành [giáo hóa] một lần, [giáo pháp dành cho hàng] trời, người là [giáo hóa] một lần lại trở thành [giáo hóa] rốt ráo, như vậy ắt là hết sức điên đảo. Lại nữa, [nếu giáo pháp] Nhị thừa là giáo hóa một lần thì [thí dụ] “am cỏ”[59] nên phá bỏ; thuở xưa [Phật] thuyết Đại thừa là giáo hóa một lần thì [thí dụ] “hạt châu buộc trong áo”[60] cũng nên phá bỏ. Nếu [như trong hai thí dụ ấy mà] một phá, một chẳng phá thì một là giáo hóa một lần, một lại chẳng phải là giáo hóa một lần.

Lại nữa, [thí dụ] cha con gặp [và nhận biết] nhau là giáo hóa rốt ráo. Trước khi [giáo hóa] rốt ráo lẽ ra phải chứng ngộ Nhất thừa, như vậy thì sau khi [giáo hóa] rốt ráo không cần [chứng ngộ] nữa. Nếu sau khi [giáo hóa] rốt ráo mới chứng ngộ Nhất thừa, thì chỗ giáo hóa rốt ráo trước đó thật chẳng phải rốt ráo. [Do vậy, hết thảy những giải thích như trên] mỗi mỗi đều gây chướng ngại, cho nên nay không dùng đến.

Có người nói, phẩm [Tín giải] này thuộc về tích [môn]. Vì sao vậy? Đức Như Lai đã thành đạo từ lâu xa, cho đến khoảng thời gian ở giữa có tạm dừng cũng đều là tích môn. Theo ý riêng tôi cho rằng, về ý nghĩa thì hẳn nhiên như thế, nhưng kinh văn như vậy không thuận hợp. Vì sao? Vì Phật còn chưa nói ra bản tích, ở đây sao có thể nhận hiểu trước? Cũng như chưa lãnh hội được ba thừa [sao có thể] đã chứng ngộ Nhất thừa? Đại lược là như thế.

Bây giờ giải thích phẩm [Tín giải] này. Nói chung căn cơ thì có nhanh lẹ sáng suốt hoặc tối tăm trì độn; sự mê hoặc thì có sâu dày hay cạn cợt; [Phật] thuyết pháp thì có thuyết chánh pháp và thuyết thí dụ;[61] [đại chúng nghe pháp] giác ngộ thì có [kẻ] trước [người] sau, [có những vị ngồi trên] tòa trước hội Pháp hoa [mà tâm ý không thể chuyển đổi, ví] như hạt đậu [khô cứng không thể khoan dùi]. Nên kinh văn nói: “Đức Thế Tôn thuở trước thuyết pháp đã lâu, khi ấy chúng con ngồi trong pháp hội mà thân thể mỏi mệt, chỉ nghĩ nhớ đến các pháp không, vô tướng, vô tác,[62] còn đối với các pháp của hàng Bồ Tát như thần thông du hí, làm thanh tịnh cõi Phật, thành tựu cho chúng sanh… thì tâm chúng con không hề vui thích.” Ban đầu, [các vị Thanh văn] khi nghe [Phật] thuyết giảng sơ lược [về Đại thừa], chạm đến chỗ bám chấp [từ lâu của mình] nên khởi sinh lòng nghi. Khi nghe [giảng] rộng 5 lượt về chư Phật[63] cũng vẫn còn mông lung chưa sáng tỏ. Nay nghe [thuyết giảng] thí dụ thì vui mừng phấn khởi, niềm tin (tín) phát triển, sự nhận hiểu (giải) sinh ra, nghi ngờ tiêu tan, lẽ thật sáng tỏ. Vui mừng là thế giới [tất đàn], niềm tin phát sinh là vị nhân [tất đàn], nghi ngờ tiêu tan là đối trị [tất đàn], lẽ thật sáng tỏ là đệ nhất nghĩa [tất đàn]. Do những nhân duyên này cho nên gọi tên là phẩm Tin hiểu.

[Người tu tập] nhận lãnh giáo pháp Tiểu thừa hay Đại thừa, từ ban sơ bỏ phàm lên thánh, mỗi người đều có giai vị theo thứ lớp. Chỉ có điều là [hành giả] Tiểu thừa do niềm tin mà thực hành, từ chỗ được nghe phát sinh sự nhận hiểu, nhẫn chịu khổ não mà phát khởi sự sáng suốt, nên khởi niềm tin gọi là thực hành. [Hành giả Đại thừa y theo] giáo pháp mà thực hành, quán sát khắp thảy các pháp, nhẫn chịu khổ não phát khởi sự sáng suốt, nên hiểu giáo pháp gọi là thực hành.[64] Nếu người hành trì theo niềm tin chuyển nhập giai đoạn tu đạo,[65] sự chuyển nhập ấy gọi là “tín giải” (tin hiểu). Người tu tập theo giáo pháp chuyển nhập giai đoạn tu đạo, sự chuyển nhập ấy gọi là “kiến đắc” (thấy biết được). [Xét theo] chuẩn mực Tiểu thừa hướng đến Đại thừa cũng nên [hiểu theo cách] như vậy.

Hàng trung căn nghe thuyết thí dụ, ban sơ phá trừ nghi hoặc, thể nhập giai đoạn kiến đạo của Đại thừa nên gọi là “tín” (tin nhận); tiến lên thể nhập giai đoạn tu đạo của Đại thừa nên gọi là “giải” (hiểu rõ). [Kệ tụng trong] kinh văn nói: “Bao nhiêu báu vô thượng, không cầu tự nhiên được.” [Lại cũng nói rằng:] “Chúng con ngày hôm nay, mới thật là Thanh văn, đem âm thanh pháp Phật, khiến tất cả được nghe.” Được nghe giáo pháp viên mãn, thể nhập giai vị viên mãn, cho nên gọi là phẩm Tin hiểu.

Giải thích theo bản tích thì bốn vị đại đệ tử [của Phật][66] vốn từ lâu đã thể nhập Đại thừa, thành tựu Phật pháp, [nay thị hiện] hình tích để dẫn dắt hàng trung căn, chỉ bày chỗ tin hiểu ban đầu nên gọi là phẩm Tin hiểu.

Đây là phần kinh văn nêu việc nhận hiểu, nói gần là nhận hiểu [thí dụ] căn nhà đang bốc cháy, nói xa là nhận hiểu [ý nghĩa] phương tiện. Kinh văn chia làm hai mục. Mục thứ nhất là người chép kinh nêu việc [các vị đệ tử] hoan hỷ vui mừng [sau khi nghe Phật thuyết dạy]; mục thứ hai là [các vị đệ tử] bạch Phật, tự trình bày [chỗ nhận hiểu].

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, các ngài Tuệ Mệnh[67] Tu-bồ-đề, Ma-ha Ca-chiên-diên, Ma-ha Ca-diếp, Ma-ha Mục-kiền-liên, được nghe Phật thuyết pháp chưa từng có, lại thấy đức Thế Tôn thụ ký cho ngài Xá-lợi-phất sẽ được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì khởi tâm cho là điều hy hữu, vui mừng phấn chấn, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh trang y phục, trần vai áo phải, quỳ gối phải sát đất, chắp tay một lòng cúi mình cung kính chiêm ngưỡng tôn nhan rồi bạch Phật rằng:

[Trong mục thứ nhất có hai tổng phần nêu việc các đệ tử hoan hỷ.]

Tổng phần thứ nhất trình bày [sự vui mừng hoan hỷ] trong nội tâm, tổng phần thứ hai trình bày sự tôn kính tỏ ra bên ngoài.

[Trong tổng phần thứ nhất], chỉ riêng ngài Thiện Cát[68] được gọi là Tuệ mệnh, ba vị còn lại đều gọi là Ma-ha. Nếu luận nghĩa chung thì các vị đều là những bậc lớn lao, có trí tuệ, còn xét riêng thì ngài Thiện Cát thấu hiểu nghĩa không, lấy trí tuệ hiểu nghĩa không làm thọ mệnh. Đây là lược nói về công hạnh.

Trong các loại trí tuệ giữa cõi người thì trí tuệ Phật là hơn hết. Trong hội Bát-nhã, đức Phật lệnh cho [ngài Tu-bồ-đề] hoằng truyền giáo pháp. Vì ngài vâng theo mệnh lệnh của bậc trí tuệ nên gọi là Tuệ mệnh. Ba vị đệ tử khác không dùng [tuệ] mệnh [trong danh xưng] vì chẳng dùng nghĩa không làm tông chỉ tu hành. Đây là giải thích theo giáo nghĩa. [Về nghĩa] chữ Ma-ha thì như trước đã nói. Đại lược là như vậy.

Về nguyên do [các vị đệ tử] được hoan hỷ vui mừng, xét theo nghĩa xa là do được nghe 5 đoạn thuyết chánh pháp về nghĩa phương tiện. Người chép kinh [trong đoạn này] chỉ nêu hai ý là “được nghe pháp hy hữu” và “được nghe [Phật] thụ ký [cho hàng Thanh văn]”. Hoặc cũng có thể [giải thích rằng trong ý] “nghe pháp hy hữu” được trình bày bốn đoạn và “thấy [Phật] thụ ký” là đoạn thứ 5. Những việc thấy nghe như vậy đều là trước đây chưa từng có, nên là nguyên do của sự hoan hỷ vui mừng.

“Khởi tâm cho là điều hy hữu”, nghĩa là vừa được nghe thuyết bốn lượt thí dụ nên khởi tâm cho là điều hiếm có. Khởi tâm [như vậy] gọi là có niềm tin; nhờ có niềm tin nên thể nhập được, tức là thể nhập giai vị hoan hỷ. Đây là ý nghĩa của phẩm Tin hiểu.

[Tổng phần thứ hai] từ câu “từ chỗ ngồi đứng dậy” là trình bày sự tôn kính tỏ ra bên ngoài, y theo kinh văn có thể hiểu được. Cứ theo như [phần nói về] ngài Xá-lợi-phất nên cũng bày tỏ đủ 3 nghiệp [thân, miệng và ý], dựa theo phần trước có thể hiểu được.

[Mục thứ hai] từ câu “rồi bạch Phật rằng” trở đi, [ngài Ca-diếp] tự trình bày bằng lời nói. Kinh văn mục này chia làm 2 tổng phần.

Tổng phần thứ nhất [chia làm 2 phần] gồm văn trường hàng [là phần thứ nhất] và 73 khổ rưỡi kệ tụng [là phần thứ hai, qua đó ngài Ca-diếp] trình bày rõ sự nhận hiểu.

Tổng phần thứ hai gồm 13 khổ kệ xưng tán ơn sâu của Phật. Sự nhận hiểu [của ngài Ca-diếp] là nhờ nơi Phật, cho nên trước là trình bày, sau đó xưng tán [ơn Phật].

[Phần thứ nhất là] phần văn trường hàng lại chia thành 2 tổng đoạn. Tổng đoạn thứ nhất lược nói nghĩa thuyết chánh pháp, tổng đoạn thứ hai nói rộng nghĩa thí dụ.

Tổng đoạn thứ nhất lược nói [thuyết chánh pháp] lại chia thành 2 đoạn. Đoạn thứ nhất lược nói nghĩa thuyết chánh pháp, đoạn thứ hai nêu thí dụ.

Đoạn thứ nhất lược nói nghĩa thuyết chánh pháp lại chia thành 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất nêu rõ xưa kia vì 3 [lý do] nên không cầu [giáo pháp Đại thừa], tiểu đoạn thứ hai nêu việc ngày nay đã hiểu Nhất thừa nên tự nhận hiểu được.

Trong tiểu đoạn thứ nhất nói [lý do] không cầu [giáo pháp Đại thừa] lại [chia ra thành 2 phân đoạn]. Phân đoạn thứ nhất nêu [các lý do] và phân đoạn thứ hai giải thích.

KINH VĂN

“Chúng con đứng đầu trong hàng tăng chúng, nay đều đã già nua, tự cho rằng mình đã được Niết-bàn, không còn gì để nhận lãnh thêm, nên không còn tiến lên mong cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đức Thế Tôn thuở trước thuyết pháp đã lâu, khi ấy chúng con ngồi trong pháp hội mà thân thể mỏi mệt, chỉ nghĩ nhớ đến các pháp không, vô tướng, vô tác, còn đối với các pháp của hàng Bồ Tát như thần thông du hí, làm thanh tịnh cõi Phật, thành tựu chúng sanh… thì tâm chúng con không hề vui thích.

Phân đoạn thứ nhất nói về việc [không cầu giáo pháp Đại thừa], nêu ra 3 lý do. Thứ nhất là do đứng đầu trong hàng tăng chúng, thứ hai là do tuổi đời đã già nua, thứ ba là do có sự chứng đắc [theo Tiểu thừa].

Lý do thứ nhất là đứng đầu trong hàng tăng chúng, [vì nghĩ rằng] tuổi đạo[69] của mình đã cao, những người tu học đến sau đều lấy mình làm khuôn mẫu noi theo, nếu bỗng dưng thay đổi đường lối, nề nếp tu tập [từ xưa], từ bỏ Tiểu thừa để cầu [giáo pháp] Đại thừa, e rằng người đi sau sẽ ngờ vực chê bai. Muốn tự kiên định mình, giữ gìn cho người khác nên chẳng cầu [giáo pháp Đại thừa].

Lý do thứ hai là tuổi đời đã già nua, [vì nghĩ rằng] vị Bồ Tát [Đại thừa] phải chuyên tâm gánh vác đạo lớn, rộng độ chúng sanh, nay mình đã già nua suy yếu không thể gánh vác nổi cho nên không cầu [giáo pháp Đại thừa].

Lý do thứ ba là đã đạt Niết-bàn [của Tiểu thừa], được chánh vị vô vi nên không thể phát tâm Đại thừa, [cũng giống như] ở vùng đất cao hay đất bằng đều không thể sinh ra hoa sen.[70] Do đã thành tựu được tận trí và vô sanh trí[71] nên không còn chỗ nương theo hay mong cầu.

KINH VĂN

“Vì sao vậy? Đức Thế Tôn đã giúp chúng con thoát ra ngoài ba cõi, chứng đạt Niết-bàn, nay chúng con lại già cả suy yếu, [cho nên] đối với việc Phật giáo hóa chư Bồ Tát pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, trong tâm [chúng con] không hề sinh khởi dù chỉ một niệm vui thích.

Phân đoạn thứ hai từ câu “Vì sao vậy?” [trở đi], giải thích 3 lý do không cầu [giáo pháp Đại thừa], nhưng kinh văn không theo đúng thứ tự [như trên]. Trước tiên giải thích vì chứng đắc Niết-bàn nên không cầu [giáo pháp Đại thừa]. Kế đến giải thích vì tuổi già, tức bao gồm cả ý nghĩa đứng đầu tăng chúng, hoặc chỉ đến việc thuở xưa [nghe đức Phật] thuyết pháp đã lâu nhưng không sinh tâm mừng vui ưa thích.

Giải thích về việc đứng đầu tăng chúng nên không cầu [Đại thừa], vì đã nói “ngồi trong pháp hội”, rồi lại nói “già cả suy yếu”, nên biết là giải thích việc đứng đầu tăng chúng. Giải thích việc không cầu [Đại thừa] thì y theo kinh văn có thể hiểu được.

KINH VĂN

“Hôm nay ở trước Phật, chúng con được nghe Phật thụ ký cho hàng Thanh văn sẽ được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, trong lòng chúng con hết sức vui mừng, được việc chưa từng có, thật không hề nghĩ rằng hôm nay bỗng dưng lại được nghe giáo pháp xưa nay hiếm có, nên tự sâu thẳm trong lòng chúng con cảm thấy vô cùng may mắn, vui mừng vì đạt được sự lợi ích lớn lao, cũng giống như người không hề mong cầu mà tự nhiên có được vô số châu ngọc quý báu.

[Tiểu đoạn thứ hai] từ câu “hôm nay ở trước Phật” trở đi, trình bày nguyên do nhận hiểu được. [Nguyên do] xa là nhờ được nghe 5 phần nói lược, nói rộng, khai mở trừ bỏ ba thừa, hiển bày [Nhất thừa] chân thật, cho nên nói là “vô cùng may mắn”. “Đạt được sự lợi ích lớn lao” là tự nói đã nhận hiểu được, do vừa nghe 4 lượt thí dụ thuyết giảng pháp ít có nên được khai ngộ. Sự khai ngộ đó tức là lợi ích lớn lao.

Đoạn thứ hai là câu “cũng giống như người không hề mong cầu mà tự nhiên có được vô số châu ngọc quý báu”, lược nêu thí dụ, ví với việc ngày xưa chẳng mong cầu mà nay lại tự nhiên được pháp bảo quý báu ít có.

KINH VĂN

“Bạch Thế Tôn! Hôm nay chúng con muốn nêu ra một thí dụ để làm rõ ý nghĩa như trên.

“Ví như có một người kia, khi tuổi còn thơ ấu đã bỏ cha trốn biệt đến phương xa, ở lâu nơi xứ ấy, hoặc mười năm, hoặc hai mươi năm, cho đến năm mươi năm. Khi tuổi đã lớn, cảnh nhà trở nên nghèo cùng khốn khó, phải lưu lạc khắp bốn phương để mưu cầu sự ăn mặc. Người ấy đi mãi như vậy, dần dần lại đúng hướng về nước cũ.

“Người cha từ trước đến nay tìm con mãi không được, cuối cùng dừng chân cư ngụ ở một thành [cũng trong nước ấy]. Nhà ông cực kỳ giàu có, có vô số tiền tài vật báu như vàng, bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, pha lê, trân châu… Các kho chứa của ông luôn tràn đầy dư dật. Trong nhà có rất nhiều tôi tớ, người giúp việc, các phụ tá quản lý, thuộc hạ... Nhà ông có vô số các loại xe cộ, voi, ngựa, trâu, dê… Việc làm ăn xuất nhập thu lợi tức ở khắp các nước, thương nhân giao dịch mua bán, hoặc đến mua tận nhà ông cũng rất nhiều.

“Lúc bấy giờ đứa con nghèo cùng khốn khổ kia lưu lạc khắp các thôn ấp, đi qua cả kinh thành, cuối cùng đến thành mà người cha đang cư ngụ. Tấm lòng cha mẹ luôn thương nhớ con, nhưng dù cách xa con đã hơn 50 năm vẫn chưa từng đem chuyện này nói với người khác, chỉ tự suy tư ôm lòng buồn tiếc, nghĩ mình già yếu suy kiệt, sở hữu rất nhiều tiền tài vật chất, vàng bạc châu báu, kho chứa đầy tràn dư dật mà nay không con nối dõi, một mai chết đi thì tiền bạc của cải đành tiêu tán hết, không có người giao phó. Do vậy ông thường ôm lòng nhớ tưởng đến con, tự nghĩ: ‘Nếu ta được gặp lại con, giao phó hết tài sản cho con thì không còn phải lo lắng gì nữa, thật an vui thanh thản biết bao.’

Tổng đoạn thứ hai từ câu “Bạch Thế Tôn! Hôm nay chúng con muốn nêu ra một thí dụ” trở đi, nói rộng phần nhận hiểu [qua thí dụ], được chia ra thành nghĩa nêu thí dụ và quy kết [ý nghĩa] thí dụ. [Ngài Ca-diếp] trước tiên muốn nêu ra [thí dụ] nên thưa trình [với Phật]. Đại lược là như vậy.

[Tổng đoạn nêu] thí dụ này lại chia ra 5 đoạn.

Đoạn thứ nhất từ câu “Ví như có một người kia, khi tuổi còn thơ ấu đã bỏ cha trốn biệt đến phương xa” trở đi, gọi là thí dụ “cha con thất lạc nhau”, ý nghĩa gần là [nói lên] sự nhận hiểu về thí dụ khái quát về căn nhà [đang cháy] [ở phẩm trước], ý nghĩa xa là [nói lên] sự nhận hiểu phần lược nói về phương tiện.

Đoạn thứ hai từ câu “Bạch Thế Tôn! Bấy giờ đứa con nghèo khổ khốn cùng kia làm thuê kiếm sống” trở đi, gọi là thí dụ “cha con gặp nhau”, ý nghĩa gần là nhận hiểu việc thấy lửa cháy [trong thí dụ] căn nhà bốc cháy, ý nghĩa xa là nhận hiểu đoạn “ta dùng Phật nhãn quán, thấy chúng sanh sáu đường” trong phẩm Phương tiện.

Đoạn thứ ba từ câu “Nghĩ vậy rồi ông liền lập tức sai một người hầu cận gấp rút đuổi theo để đưa đứa con ấy trở lại” trở đi, gọi là thí dụ “theo đuổi dẫn dụ”, ý nghĩa gần là nhận hiểu việc từ bỏ không đặt con lên bàn, ghế… mà chuyển sang dùng các loại xe [đẹp để dẫn dụ] trong thí dụ căn nhà đang cháy, ý nghĩa xa là nhận hiểu việc tạm gác Đại thừa, dùng Tiểu thừa để giáo hóa trong phẩm Phương tiện.

Đoạn thứ tư từ câu “Qua thời gian đó rồi mới thấy quen thuộc tin cậy” trở đi, gọi là “ủy thác cho con rõ biết việc nhà”, không phải nói việc nhận hiểu những ý nghĩa gần xa ở phần trước, mà nhắc lại nghĩa dùng giáo pháp Phương đẳng chê trách [Tiểu thừa và dùng] Đại phẩm [Bát-nhã] để chuyển nêu giáo pháp Đại thừa.

Đoạn thứ năm từ câu “Lại trải qua một thời gian ngắn nữa, người cha biết ý con” trở đi, gọi là thí dụ “giao phó gia nghiệp”, ý nghĩa gần là nhận hiểu việc ban cho các con đồng một loại xe lớn trong thí dụ căn nhà bốc cháy, ý nghĩa xa là nhận hiểu việc [đức Phật] hoàn toàn xả bỏ phương tiện trong phần thuyết chánh pháp.

Lại [cũng có thể] kết hợp hai đoạn thứ tư với thứ năm thành một phần nhận hiểu thí dụ “giao phó cho con”. Ở phần sau sẽ nói rõ ý này.

Các nhà cựu giải cho rằng ông trưởng giả [trong thí dụ] là ví với đức Phật Vô Lượng Thọ ở Tây phương, nay không dùng ý này. [Xét về] Tây phương là vị Phật khác, nhân duyên [với chúng sanh cõi Ta-bà] cũng khác. Vì là Phật khác nên [hiểu theo] ý nghĩa tiềm ẩn hay hiển lộ đều không được. Vì là nhân duyên khác nên ý nghĩa “con với cha” cũng không thích hợp. Lại trong kinh này từ đầu đến cuối hoàn toàn không có tông chỉ ấy, [nên nói như vậy chẳng khác nào] nhắm mắt [không suy xét mà] giải thích sai lệch.

Nay y theo kinh văn để giải nghĩa. Khi giải thích về [thí dụ] “đứa con cùng khốn” thì dùng pháp chưa rốt ráo[72] của hàng Nhị thừa để hiểu kinh văn, giải thích về [thí dụ] “ông “trưởng giả” thì dùng pháp môn rốt ráo viên mãn của Phật Lô-xá-na[73] để hiểu kinh văn. Vì sao [hiểu như] vậy? Vì [thí dụ nói] ông trưởng giả ở trong nhà “cởi bỏ hết chuỗi ngọc…” và “mặc vào người loại y phục dơ bẩn thô kệch”. Y phục dơ bẩn với chuỗi ngọc có khác biệt nhau nhưng vẫn chỉ là một con người ấy. Đây là ví cho việc đức Phật Lô-xá-na ẩn tàng vô số thần thông công đức để thị hiện [thân cõi người] cao một trượng sáu thước[74] với [hào quang] sắc vàng rực rỡ, tay cầm đồ hốt phân, thiết lập giáo pháp ba thừa [nơi cõi Ta-bà]. Việc ẩn tàng hay hiển lộ tuy có khác nhau nhưng nào có liên quan gì đến tánh thể khác biệt? Đức Phật Lô-xá-na mặc [y phục xấu], cởi [chuỗi ngọc] ở gần [cõi Ta-bà] mà còn không rõ biết, thì đức Phật A-di-đà nơi [Tây phương] xa xôi có bao giờ lại biến hóa thay đổi? Đại lược là như thế.

[Đoạn thứ nhất] là thí dụ “cha con thất lạc nhau”, gồm có 4 tiểu đoạn. Thứ nhất là người con bỏ cha mà đi, thứ hai là người cha đi tìm con rồi dừng lại [ở một thành phố khác], thứ ba là người con về lại nơi quê cũ, thứ tư là người cha lo lắng nhớ tưởng. Bốn tiểu đoạn này, mỗi tiểu đoạn đều có 2 phân đoạn.

Tiểu đoạn đầu tiên có 2 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất là người con bỏ cha mà đi, [ý nghĩa] là nhận hiểu thí dụ [trong nhà] có 500 người ở phần thí dụ khái quát. Thuở xưa từng gắn kết [với Phật như] cha con trong giáo pháp Đại thừa nhưng rồi quên mất, [ý nghĩa] là nhận hiểu việc [chúng sanh si mê] trôi giạt trong 5 đường [luân hồi], cho nên nói rằng “hoặc mười năm, hoặc hai mươi năm, cho đến năm mươi năm”. Nói chung thì vẫn là con Phật, nhưng nghĩa “con” còn nhỏ nhoi yếu đuối nên nói rằng “tuổi còn thơ ấu”. Vì không ở nơi cảnh giới mình đã kết duyên [Đại thừa] nên nói rằng “ở lâu nơi xứ ấy”.

Phân đoạn thứ hai là hướng về đến nơi quê nhà, [ý nghĩa] là nhận hiểu về thí dụ [ông trưởng giả] có 30 người con trong phần thí dụ khái quát. Duyên sự này đã có sự sáng suốt nhỏ nhiệm nên nói là “khi tuổi đã lớn”. Nhân vì đã trải qua khổ nạn, liên quan đến lòng đại bi của Phật nên nói rằng “đúng hướng về nước cũ”.

[Tiểu đoạn thứ hai] “cha đi tìm con rồi dừng lại ở một thành phố khác” cũng có 2 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất là “cha đi tìm con mãi không được”, ý nghĩa là nhận hiểu thí dụ “ông trưởng giả” trong phần thí dụ khái quát. Từ sau khi chúng sanh thối thất tâm Đại thừa, [Phật] xem xét căn cơ Đại thừa [của chúng sanh] thấy chưa đến lúc thích hợp, cho nên nói rằng “mãi không được”.

Phân đoạn thứ hai là “dừng chân cư ngụ ở một thành”. “Nhà ông cực kỳ giàu có” là ý nghĩa nhận hiểu thí dụ “ngôi nhà [của ông trưởng giả]” trong phần thí dụ tổng quát. “Cực kỳ giàu có” là ý nghĩa nhận hiểu về đức độ và sự nghiệp cũng như sự giàu có bên trong lẫn bên ngoài của ông trưởng giả trong phần thí dụ khái quát.

[Tiểu đoạn thứ ba] nói “người con đến nơi thành cha đang ở” cũng chia làm 2 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất là nguyên do [đưa đẩy người con] đến thành ấy. Đây là ý nghĩa nhận hiểu về các hình tướng khổ não khi lửa bốc lên cháy [nhà trong phần thí dụ ở trước, nghĩa là chúng sanh] từ sau khi thối tâm Đại thừa phải lưu lạc khắp mọi nơi, chịu đủ mùi cay đắng.

Phân đoạn thứ hai là “đến thành người cha đang cư ngụ”, do sự khổ não là cơ duyên thích hợp với lòng đại bi, cho nên nói “cuối cùng đến thành người cha đang cư ngụ”.

[Tiểu đoạn thứ tư] nói sự lo nghĩ và vui mừng của người cha, có 2 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất là nhớ nghĩ việc mất con nên buồn khổ.

Phân đoạn thứ hai là nghĩ đến việc gặp được con nên vui mừng. Ý nghĩa ở đây là nhận hiểu về thí dụ “chỉ có một cửa ra vào” trong phần thí dụ khái quát ở trước. Vì các con còn thơ dại không thể dùng cửa [thoát ra bên ngoài] nên khiến người cha lo lắng buồn rầu, lại cũng dùng cửa này mà thoát ra được nên cha vui mừng.

Phần phân chia [đoạn thứ nhất] đến đây là dứt.

Về phần giải thích ý nghĩa kinh văn thì tiểu đoạn thứ nhất nói việc “người con bỏ cha mà đi” có 2 ý nghĩa.

Về nghĩa thứ nhất, nói “ví như có một người kia” là ý nghĩa nhận hiểu [thí dụ] “có 20 người con”, ví cho hàng Nhị thừa, còn công hạnh của địa vị Bồ Tát thật khó rõ biết nên cũng tạm nhận hiểu như vậy.

Về câu “khi tuổi còn thơ ấu”, các nhà cựu giải nói rằng, nghe pháp ít là nghĩa “thơ ấu”. Nếu vậy thì câu sau nói “khi tuổi đã lớn” phải hiểu là được nghe pháp nhiều. Nay [không giải thích theo cách đó mà cho rằng,] vì vô minh sâu nặng che chướng tâm nhận hiểu; tâm nhận hiểu không có sức [phá trừ vô minh] cho nên nói là “tuổi còn thơ ấu”; căn lành huân tập còn bị đôi chút bám víu dục nhiễm gọi là “khi tuổi đã lớn”.

Về câu “bỏ cha trốn đi biệt”, thối thất tâm [Đại thừa] nên gọi là “bỏ”, do vô minh tự che lấp [tánh giác] nên gọi là “trốn”, mãi hướng theo sanh tử [luân hồi] nên gọi là “đi biệt”.

Hỏi: Sau khi đức Phật xả bỏ ứng thân, chúng sanh mới khởi sanh mê hoặc, như vậy là cha lìa xa con chứ đâu phải con bỏ cha?

Đáp: Do chúng sanh không có sự chiêu cảm, Phật mới rời khỏi cõi đời, nên [phải hiểu] ngược lại thành nghĩa là con bỏ cha.

Về câu “ở lâu nơi nước khác”, [hàm ý] pháp giới Niết-bàn là cõi nước của Phật, năm món dục trong sanh tử là “nước khác”. Vốn xưa cầu ra khỏi [sanh tử] nhưng rồi thối thất sa đọa, mãi không quay lại nên gọi là “ở lâu”. Hoặc [giải thích rằng ở lâu] 10 năm là nói cõi trời, 20 năm là nói cõi người, 50 năm là nói đủ 5 đường, dựa theo ý nghĩa một người phải lưu chuyển xoay vòng trong các nẻo [luân hồi].

Về nghĩa thứ hai, từ câu “khi tuổi đã lớn” trở đi nói việc “hướng về đến nơi quê nhà”. “Thơ ấu” có 2 nghĩa. Thứ nhất là còn si mê theo Tiểu thừa, thứ hai là chưa gặp qua cảnh khổ nên chưa biết quay về.

Đây là ví cho việc sau khi kết duyên mà sự nhận hiểu [Đại thừa] chưa sáng tỏ, giống như [đứa con] ngu si chưa biết quay về. Tuy phúc đức thuở xưa vẫn còn nhưng mê say không chịu quay về, nay nghiệp lực tích tập, vô minh thêm dày, khuynh hướng theo chánh đạo chỉ còn nhỏ nhiệm, [đến khi] chịu khổ, không còn vui thú mới nhớ nghĩ, mong cầu thoát ra.

Hai yếu tố [gặp khổ, mất vui] này là cơ duyên cầu Phật, nên gọi là “dần dần lại đúng hướng về nước cũ”.[75]

Kinh văn phần trước nói: “Với những người gặp khổ, vì họ thuyết Niết-bàn.”[76] Nếu dùng những việc thiện trong hai cõi trời người thì không thể chiêu cảm nhân duyên [gặp] Phật. Ở trong ba cõi không được gặp được cha là đức Phật nên gọi là “[đứa con] nghèo cùng”. Không biết phương cách thoát ra khỏi [luân hồi] cũng gọi là “nghèo cùng”. Bị ngọn lửa 8 nỗi khổ thiêu đốt nên là “khốn khó”.

“Phải lưu lạc khắp bốn phương để mưu cầu sự ăn mặc.” Các nhà cựu giải cho rằng, [tu tập] năm giới, mười điều lành, mỗi việc đều có nhân quả, lấy đó làm “bốn phương” dùng để tự chu cấp. Lại ở trong 4 cách sinh[77] mà mưu cầu sự sống tức là “mưu cầu sự ăn mặc”. Kinh văn phần sau nói: “Hơn trăm ba mươi kiếp, nay mới gặp một lần.”[78] Trong suốt những kiếp ấy, không phải là không có nhân quả tốt đẹp trong 2 cõi trời người, nhưng không thể chiêu cảm được gặp Phật. Cho nên biết rằng, những việc lành trong hai cõi trời người không phải là cơ duyên để được gặp Phật. Nay Phật chưa ra đời, kẻ phàm phu đối với [4 yếu tố] thân, thọ, tâm, pháp khởi lên 4 kiến chấp,[79] ở trong đó mà cầu đạo chân chánh như cầu thức ăn, cầu các pháp trợ đạo như cầu y phục. Biết chán lìa sự khổ, cầu chân lý, đó là duyên có thể được giáo hóa. Khi Phật mới ra đời, những kẻ ngoại đạo được hóa độ trước chính là ý nghĩa này.[80]

Kinh Đại Bát Niết-bàn,[81] [quyển 33] nói: “Xem khắp bốn phương”, đó là ví cho bốn chân đế,[82] dựa theo đó có thể rõ biết được.

“Dần dần lại đúng hướng về nước cũ”, đây là nói rõ ý chán lìa cảnh khổ, hy vọng thoát khỏi đường tà, cầu được Niết-bàn, tuy vốn không tự có ý chính nhưng cũng nhờ đó được gặp Phật, cho nên nói “lại đúng hướng”.

Như trên nói về “nước cũ”, phần sau lại nói đến nhà trong thành, vậy làm sao phân biệt? Tất cả Phật pháp là cõi nước, đó là nghĩa rộng, còn dùng chữ “thành” thì nhỏ hẹp hơn nên gần gũi hơn. Dùng đoạn đức của Niết-bàn[83] để ngăn ngừa việc sai trái, chế ngự điều xấu ác, đó là nghĩa của “thành”. Lại dùng chữ “nhà” cũng có nghĩa gần gũi, thân thiết hơn. Đồng thể đại bi[84] là nghĩa của “nhà”.

Từ câu “Người cha từ trước đến nay tìm con mãi không được” trở đi là tiểu đoạn thứ hai, nêu thí dụ “trong lúc đi tìm con dừng lại”, cũng có 2 nghĩa.

Nghĩa thứ nhất là từ sau khi [chúng sanh] thối tâm Đại thừa, [Phật] vẫn tìm cầu cơ duyên nhưng không gặp. Vì không gặp [cơ duyên Đại thừa] nên nói là “tìm con mãi không được”. Nghĩa thứ hai là “dừng lại nơi một thành”. [Ý nghĩa là ông trưởng giả] không vì một đứa con [thất lạc] mà bỏ phế gia nghiệp, ví như chư Phật không vì một nơi không có cơ duyên mà bỏ phế việc giáo hóa [chúng sanh] ở những nơi khác. Các nhà cựu giải cho rằng, “dừng lại” tức là nói dừng trong khoảng hai mốc thời gian: sau 20.000 vị Phật và trước Phật Thích-ca ra đời. Nay cho rằng ý nghĩa “trong khoảng giữa” thì có thể được, nhưng nghĩa “dừng lại” ở nước ấy, thành ấy hay nhà ấy đều không thích hợp. [Do vậy] nay lấy cõi phương tiện hữu dư là nghĩa của “nước”, nằm ở khoảng giữa hai cõi phàm thánh đồng cư và thật báo trang nghiêm; lấy cõi Niết-bàn hữu dư là nghĩa của “thành”; trụ nơi Niết-bàn [hữu dư] này gọi là “dừng lại”.

Ở nơi Niết-bàn này là nghĩa của “nhà”, [từ đây] khởi lên 2 ứng hóa thân là liệt ứng hóa thân thắng ứng hóa thân.[85] Liệt ứng hóa thân là ứng với hàng Thanh văn, thắng ứng hóa thân là ứng với hàng Bồ Tát. Năm hạng hành giả[86] đã dứt trừ thông hoặc[87] đều sanh về cõi [phương tiện hữu dư] này, đều là Bồ Tát. Đức Phật dùng thắng ứng hóa thân để ứng hiện ở cõi này, chỉ dùng toàn “gia nghiệp” là Đại thừa để dạy bảo, khiến cho tu học. “Dừng lại” ở giữa là xem xét, tìm kiếm cơ duyên [giáo hóa] của “con” là [chúng sanh] ở cõi [phàm thánh] đồng cư. [Hiểu như vậy thì] không chỉ riêng nghĩa “ở giữa” được phù hợp, mà các nghĩa của “nước”, “thành”, “gia nghiệp” cũng đều rõ ràng.

“Cực kỳ giàu có” là lấy cảnh thật tướng làm nghĩa của “nhà”. Đầy đủ muôn phẩm đức gọi là giàu, [đầy đủ] phước đức trong năm cõi gọi là tiền tài, trí tuệ Bát-nhã gọi là vật báu, dẫn dắt hết thảy [chúng sanh] thấu hiểu Đại thừa gọi là vô số. “Vàng, bạc, lưu ly, trân châu v.v.” là 37 đạo phẩm Đại thừa. Thí dụ này là nhận hiểu ý nghĩa [thí dụ] “ông trưởng giả giàu có vô cùng” trong phần trước.

“Kho chứa tràn đầy dư dật”, bên trong [có nhiều] là tràn đầy, bên ngoài [có nhiều] là dư dật; đựng nhiều lúa gạo là “kho”, cất giữ đồ vật là “chứa”. “Kho” là ví cho thiền định, vì thiền sanh ra 108 pháp tam-muội. “Chứa” là ví cho thật tướng, vì có thể phát khởi trí tuệ [thấu triệt] 18 nghĩa không.[88] Tự giúp được mình là nghĩa “tràn đầy”, [có thể] giáo hóa người khác là nghĩa “dư dật”. Thí dụ này là nhận hiểu ý nghĩa [thí dụ ông trưởng giả] “sở hữu rất nhiều ruộng vườn, nhà cửa” trong phần trước.

“Có rất nhiều tôi tớ” là nói tất cả phương tiện, tri kiến, các pháp ba-la-mật thảy đều đầy đủ, uyển chuyển linh hoạt tùy theo cơ duyên, xứng hợp cả sự và lý. Thí dụ này là nhận hiểu ý nghĩa [thí dụ “ông trưởng giả] có rất nhiều tôi tớ” trong phần trước. Theo giai vị mà nói thì hàng Nhị thừa, Bồ Tát Thông giáo và [giai vị] tam thập tâm của Bồ Tát Biệt giáo đều ví như “tôi tớ”; hàng Thập địa của Bồ Tát Biệt giáo, Viên giáo ví như quan đại thần, Thập hồi hướng ví như quan phụ tá, Thập hạnh ví như các viên chức, Thập trụ ví như dân thường. Kể từ ban sơ vào cảnh giới Phật, ví như sống trên lãnh thổ của nhà vua thì không ai không phải là dân của vua. Nhưng tuy được làm “dân” [trong cảnh giới Phật], nếu so sánh với các viên chức, quan phụ tá... thì hãy còn cách nhau rất xa. [Hàng Bồ Tát] Thập hạnh riêng trải qua tu tập các pháp, rong ruổi đó đây nên ví như các viên chức giúp việc. [Hàng Bồ Tát] Thập hồi hướng [thì nhận hiểu về] sự lý đã có phần sâu xa, như chức vị đã gần bên vua nên ví như các quan phụ tá. [Hàng Bồ Tát] Thập địa đã trợ giúp vào việc hành đạo giáo hóa của Phật, hàng phục ma oán, chế ngự kẻ địch nên ví như các quan đại thần.

[Về câu “Nhà ông có vô số các loại xe cộ, voi, ngựa, trâu, dê…”, hành giả đạt được] nhất tâm tam quán[89] ví như voi, chuyển vận Đại thừa Viên giáo, [hành giả đạt] thứ đệ tam quán[90] ví như ngựa, chuyển vận Đại thừa Biệt giáo, [hành giả tu tập] Tức không quán, Tích không quán[91] ví như trâu, chuyển vận Đại thừa Thông giáo…, [hành giả] tự hành trì Tích pháp quán ví như hươu, dê, chuyển vận các pháp Nhị thừa. Nói “vô số” là vì tất cả các pháp quyền thật đều ví như “xe”, các pháp quán trí quyền thật ví như voi, ngựa, trâu, dê…, không những giáo pháp là rất nhiều, mà cho đến các pháp quán trí cũng nhiều vô số.

[Câu “Việc làm ăn] xuất nhập…” [hàm ý] tuy phân biệt thành hai mà chẳng phải hai, đó là nhập; tuy chẳng phải hai mà phân biệt thành hai, đó là xuất. Lại nữa, không phân biệt thành hai mà là hai, đó là nhập; phân biệt thành hai mà chẳng phải hai, đó là xuất. Từ vô lượng quay về một là nhập, trong một có vô lượng là xuất. Công năng giáo hóa người khác gọi là xuất, công năng tự hành trì gọi là nhập.

“Thu lợi tức ở khắp các nước…” [hàm ý] thiện pháp đưa ra làm lợi ích số đông gọi là “tức”, công giáo hóa quy về chính mình gọi là “lợi”. “Ở khắp các nước” tức là nghĩa ở khắp trong ba cõi, “thi hành những việc trái đạo là thông đạt Phật đạo”.[92] Chỉ riêng pháp tánh là quê hương đất nước của chính mình mà thôi.

“Thương nhân giao dịch mua bán, hoặc đến mua tận nhà ông cũng rất nhiều.” Các vị Bồ Tát ví như “thương nhân giao dịch mua bán”, lại hiện vào khắp trong ba cõi để cầu lợi ích từ chánh pháp nên nói là “rất nhiều”. Bồ Tát ở cõi này sang các phương khác để nghe thuyết pháp, các vị đại sĩ ở phương khác lại đến đây nghe kinh, đó là qua lại để được lợi ích. Lại nữa, 2 ứng hóa thân[93] như người buôn bán, đem pháp chân thật vào khắp trong ba cõi, giáo hóa làm lợi ích [vô số] chúng sanh quay về pháp thân nên gọi là “rất nhiều”. Giống như người thế gian giúp cho người khác có được tiền tài, đời sống tốt đẹp thì tự mình cũng được đời sống tốt đẹp.

Từ câu “Lúc bấy giờ đứa con nghèo cùng khốn khổ kia lưu lạc khắp các thôn ấp” trở đi là tiểu đoạn thứ ba, nêu thí dụ “đứa con trở về gần cha”. Thí dụ này lại có 2 nghĩa. Thứ nhất là [đứa con nghèo khổ phải đi lang thang] tìm cầu cơm ăn áo mặc, thứ hai là [dần dần về] đến thành nơi người cha ở.

Nghĩa thứ nhất [xét về] nội dung hợp với sự thối tâm Đại thừa thì đã đầy đủ. [Đến khi] gặp nhiều khổ não mới khởi tâm sâu xa chán lìa lo lắng, muốn cầu thoát ra [ngoài ba cõi]. Do chấp giữ lý lẽ thiên lệch không đúng nên trí tuệ thành ra tà vạy sai lệch. Nhân nơi trí tuệ tà vạy đã trải qua các tâm mà dễ dàng có thể nhập vào nẻo chánh, khởi tâm cầu xuất thế là nguyên do chiêu cảm [việc được gặp] Phật.

Quán sát 5 ấm là nghĩa “thôn ấp”, 12 nhập là nghĩa “kinh thành”, 18 giới là nghĩa “đất nước”. Trải qua những nơi ấy để tìm cầu chân lý gọi là “cầu cơm ăn áo mặc”.

Từ câu “cuối cùng đến nơi thành mà người cha đang cư ngụ” trở đi là nghĩa thứ hai. Đây là chính là nói hướng đến nơi thành mà người cha đã dừng lại [sinh sống]. Do cảnh khổ não là cơ duyên chiêu cảm lòng đại bi của Phật, gọi là “đến nơi thành”. Thành là nghĩa Niết-bàn. Niết-bàn này bao gồm [cả 2 nghĩa] viên mãn và chưa viên mãn.[94] Do ý nghĩa chúng sanh giải trừ tập khí thì có thể đạt được Niết-bàn nên nói là “đến nơi thành”.

Từ câu “Tấm lòng người cha vẫn luôn thương nhớ con” trở đi là tiểu đoạn thứ tư, tức là nói việc người cha luôn lo lắng nhớ nghĩ đến con. Tiểu đoạn này có 2 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất là nỗi khổ [của người cha] nhớ nghĩ đến đứa con thất lạc. [Đây là ý nói] đức Như Lai từ thuở xưa cho đến ngày nay vẫn thường nghĩ đến những [chúng sanh là] con có cơ duyên Đại thừa, cho nên nói “vẫn luôn thương nhớ”. “Cách xa con đã hơn 50 năm” là nói nghĩa [chúng sanh luân lạc trong] 5 đường. [Trong 5 đường ấy,] trừ bỏ cảnh giới ngạ quỷ, ra ngoài cảnh giới a-tu-la, cho nên nói là “hơn”. “Chưa từng đem chuyện này nói với người khác” nghĩa là chưa từng hướng đến những [giai vị Bồ Tát như] “đại thần”, “quan phụ tá”, “viên chức”, “dân thường” trong cõi phương tiện hữu dư mà nói việc [họ] có cơ duyên [Đại thừa] như [thí dụ] đứa con này.

Lại [cũng có nghĩa rằng], từ khi ứng hiện ra đời đến nay,[95] trải qua các pháp tòa trong hội Hoa nghiêm, Phương đẳng, Bát-nhã, [đức Phật Thích-ca] chưa từng hướng đến các vị Bồ Tát mà nói việc hàng Thanh văn vốn là những “đứa con” [của Phật] trong Đại thừa. Vì [nghĩ rằng mình] không phải con Phật nên không hiểu được pháp Phật, hoặc như câm như điếc [trong pháp hội Hoa nghiêm], hoặc như bị hoa trời rơi dính, phải lễ [Phật mới lên được] tòa ngồi [như trong kinh Duy-ma-cật], hoặc phải đặt bát xuống mà hoang mang [như ngài Tu-bồ-đề nghe Duy-ma-cật thuyết pháp], đủ cả mọi điều không theo kịp [giáo pháp Đại thừa].[96]

“Ôm lòng buồn tiếc” là nói [người cha] “tiếc” vì thuở xưa chưa đủ sự ân cần giáo hóa, khiến cho con vì không được dạy dỗ mà bỏ trốn đi, lại “buồn” vì con không nghĩ đến ân nghĩa, xem mình như người xa lạ mà gần gũi với những người khác. Nội dung [thí dụ này] tương hợp với ý nghĩa đức Như Lai lấy làm tiếc vì chưa đủ sự ân cần giáo hóa giúp cho [chúng sanh] thể nhập được các giai vị nội phàm,[97] khiến cho phải thối thất sự nhận hiểu [Đại thừa] trước kia, lại buồn vì [những chúng sanh ấy] không có tâm chuyên cần tinh tấn, trốn sâu trong sự mê muội kiên cố chẳng biết quay về. Do vậy nên nói là “buồn tiếc”.

“Tự nghĩ mình già yếu suy kiệt” tức là nói thời gian giáo hóa [của Phật] đã sắp hết mà chưa có người để truyền lại giáo pháp Đại thừa, cũng giống như [ông trưởng giả] già yếu suy kiệt mà chưa [tìm được] con.

Hỏi: Các vị Bồ Tát được pháp thân [Phật] giáo hóa, hết thảy đều có khả năng nhận lãnh trách nhiệm ra đời giáo hóa,[98] vì sao phải lo buồn?

Đáp: [Hàng Bồ Tát] được pháp thân [Phật] giáo hóa vốn không hề có chuyện hưng thịnh hay suy yếu. Ở đây đang nói về việc “già yếu suy kiệt” nên chẳng phải luận về pháp thân. Nay nêu rõ về quyến thuộc của hóa thân có 2 nhóm. Nhóm thứ nhất là các vị pháp thân đại sĩ với hình tướng chúng ảnh hưởng[99] [trong pháp hội], tuy thị hiện hình tích là đệ tử nhưng vốn ban sơ đã là thầy. Nhóm các vị này cũng không thích hợp để nói “tự nghĩ mình già yếu suy kiệt”. Nhóm thứ hai là các vị cùng chung sống với phàm phu. Các vị này tự thuở ban đầu theo hóa Phật mà phát đạo tâm lần đầu, nên gọi đó là con [Phật]. Con kế thừa gia nghiệp của cha, làm cho dòng tộc nối truyền chẳng dứt. Nếu ngài Xá-lợi-phất được thụ ký quyết định sẽ làm Phật Hoa Quang, tức là hạt giống Phật ở một phương được nối truyền không dứt, gia nghiệp Đại thừa được theo thứ lớp truyền thừa. Nếu ngài Xá-lợi-phất không có cơ duyên có thể [được Phật] hóa độ, tức là gia tài giáo pháp Đại thừa trong hiện tại không có người để giao phó việc nối truyền, hạt giống Phật của chúng sanh đời sau biết giao phó vào đâu? Khởi lên [ý niệm] than vãn “mình già yếu suy kiệt” chính là [ý nghĩa] này.

§ Từ câu “Rồi ông lại nghĩ: Nếu ta được gặp lại con…” trở đi là phân đoạn thứ hai, người cha nghĩ đến việc được gặp lại con là niềm vui. [Theo ý nghĩa của thí dụ này thì] gặp cơ duyên có thể hóa độ [đệ tử] gọi là “được gặp con”, thụ ký cho [đệ tử] sẽ thành Phật gọi là “giao phó hết gia tài chánh pháp”, phù hợp với lòng mong muốn xưa nay gọi là vui thích.

Phận nhận hiểu các thí dụ khái quát [trong phẩm Thí dụ] đến đây là hết.[100]

KINH VĂN

“Bạch Thế Tôn! Bấy giờ đứa con nghèo khổ khốn cùng kia làm thuê kiếm sống, dần dần đi đến nhà cha mình, đứng ở ngoài cửa nhìn vào xa xa bên trong, thấy người cha ngồi trên giường sư tử, đặt chân trên ghế quý, có các vị bà-la-môn, sát-đế-lợi, cư sĩ cùng cung kính vây quanh, trên người trang sức trân châu anh lạc giá trị đến ngàn muôn lượng vàng, có những viên chức, tôi tớ tay cầm phất trần màu trắng đứng hầu hai bên, phía trên có màn báu giăng che với các dải hoa đẹp, cờ phướn rủ xuống, có nước thơm rưới lên mặt đất, tung rải các loại hoa thơm danh tiếng, có rất nhiều đồ vật quý báu được bày biện để xuất ra, nhập vào, cất giữ hoặc phân phối… [Người con nhìn thấy] đủ hết thảy những sự trang hoàng uy nghiêm như thế, oai đức đặc biệt cao quý.

“Đứa con nghèo khổ khốn cùng ấy nhìn thấy người cha thế lực quá lớn lao nên ôm lòng lo sợ, lấy làm hối tiếc vì đã tìm đến nơi này, liền tự nghĩ rằng: ‘Người như thế này hẳn phải là đức vua hoặc ngang hàng với vua, không phải chỗ mà ta có thể đem sức lực [làm thuê] để kiếm tiền. Chi bằng ta hãy tìm đến xóm nghèo, có chỗ để ta ra sức làm thuê, dễ dàng kiếm được cơm ăn áo mặc. Nếu như ta nấn ná lâu ở nơi này, e rằng có người nhìn thấy sẽ cưỡng bức ta phải làm việc [cho họ].’ Nghĩ như vậy rồi liền vội vã bỏ đi.

“Khi ấy, ông trưởng giả ngồi trên giường sư tử, vừa nhìn thấy con liền nhận ra ngay, trong lòng hết sức vui mừng, nghĩ rằng: ‘Tất cả tiền tài, của cải, kho tàng của ta, nay đã có chỗ để giao phó rồi. Ta vẫn thường nhớ nghĩ đến đứa con này, không biết làm sao gặp lại, nay nó bỗng nhiên tự tìm đến, thật hết sức đúng với tâm nguyện của ta. Ta tuy đã già nua suy yếu nhưng vẫn còn có lòng tham tiếc [muốn cho tài sản được duy trì].’

Đoạn thứ hai từ câu “Bấy giờ đứa con nghèo khổ khốn cùng kia làm thuê kiếm sống” trở đi là thí dụ “cha con gặp nhau”. [Thí dụ này] theo nghĩa gần là nhận hiểu việc nhìn thấy lửa ở thí dụ căn nhà bốc cháy [trong phẩm Thí dụ] ở phần trước, theo nghĩa xa là nhận hiểu ý nghĩa về 5 sự uế trược trong phẩm Phương tiện. [Đoạn này] có 3 ý nghĩa.

Thứ nhất, nêu rõ việc đứa con nghèo khổ cùng khốn phải đi làm thuê, [đây là] nhận hiểu [thí dụ] nhìn thấy lửa trong căn nhà bốc cháy, [tức là nghĩa] nhìn thấy 5 sự uế trược trong phần thuyết chánh pháp.

Thứ hai nêu [thí dụ] người cha gặp con, [đây là] nhận hiểu những gì ông trưởng giả nhìn thấy trong thí dụ căn nhà bốc cháy, [tức là nghĩa những gì] Phật nhãn nhìn thấy trong phần thuyết chánh pháp.

Thứ ba nêu việc [ông trưởng giả] vui mừng vì [gặp lại con] đúng như ý nguyện, [đây là] nhận hiểu ý nghĩa [ông trưởng giả] “hết sức kinh hãi” trong thí dụ căn nhà bốc cháy, [tức là ý nghĩa đức Phật] khởi tâm đại bi trong phần thuyết chánh pháp.

Trong 2 phần thuyết chánh pháp và thuyết thí dụ đều nói người cha nhìn thấy con trước, trong phần này lại nói người con nhìn thấy cha trước. Xét theo trí tuệ Phật thì linh hoạt sáng suốt nên tất nhiên trước đã rõ biết cơ duyên từ trước rồi mới khởi sinh sự ứng hiện [giáo hóa], cho nên nói người cha thấy con trước. Nhưng nếu xét từ góc độ chúng sanh thì cơ duyên [của chúng sanh] phải có trước, sau mới có sự ứng hiện [của chư Phật], cho nên nói người con thấy cha trước. Cơ duyên [giáo hóa] và sự ứng hiện [của chư Phật] là không thể nghĩ bàn, không có sau hay trước, cho nên [dùng cả 2 cách] nói trước sau để bổ sung cho nhau.

Nay để thuận tiện trong việc phân chia kinh văn, đoạn này sẽ chia thành 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất là “con nhìn thấy cha” và tiểu đoạn thứ hai là “cha nhìn thấy con”. Trong mỗi tiểu đoạn này đều có 4 phân đoạn.

Tiểu đoạn thứ nhất nói việc “con nhìn thấy cha” có 4 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất nêu nguyên do [đưa con đến] nhìn thấy cha, đó là vì [đi làm thuê để] tìm cầu cơm ăn áo mặc. Phân đoạn thứ hai nêu nơi chốn người con nhìn thấy cha, chính là “đứng tựa cửa nhìn vào”. Phân đoạn thứ ba nêu việc con nhìn thấy cha ngồi trên giường sư tử. Phân đoạn thứ tư nêu việc [người con] sinh ra sợ hãi và lấy làm hối tiếc vì đã tìm đến nơi này.

§ [Phân đoạn thứ nhất nêu] nguyên do nhìn thấy cha là [ví cho việc] chán lìa khổ não, ưa thích được vui, tìm cầu ý nghĩa chân lý, dần dần tích chứa huân tập mà thành căn lành xuất thế, cho nên nói là “làm thuê kiếm sống, dần dần đi đến”. Dùng căn lành này có thể ứng hợp với lòng từ bi của Phật, cho nên nói rằng “đi đến nhà cha mình”. “Người cha” ví cho pháp thân sau khi chứng ngộ,[101] căn nhà [của cha] ví cho lòng từ bi vô duyên.[102] Cả hai cơ duyên Đại thừa và Tiểu thừa đều ứng hợp với thí dụ “căn nhà” này. Vì có cơ duyên Đại thừa cho nên nói “nhìn vào xa xa bên trong nhà thấy người cha”. Vì có cơ duyên Tiểu thừa nên “đứng tựa cửa nhìn vào”. Nếu chỉ có [cơ duyên] Tiểu thừa mà không có cơ duyên Đại thừa thì không thể thấy được thân tôn quý kỳ đặc [của Phật], người cha hẳn sẽ không nói “tiền tài, của cải, kho tàng của ta, nay đã có chỗ để giao phó”. Nếu chỉ có cơ duyên Đại thừa mà không có cơ duyên Tiểu thừa thì hẳn đã không “đứng ở ngoài cửa”, người con cũng không nói “không phải chỗ mà ta có thể đem sức lực làm thuê để kiếm tiền”.

§ [Phân đoạn thứ hai nói nơi chốn] người con nhìn thấy cha là từ nơi cửa. Hai pháp quán là phương tiện, tức là 2 bên cửa. Trong cơ duyên Viên giáo thì đó là giữa cửa, tức chánh kiến. Với Nhị thừa, lẽ chân thật còn thiên lệch nên nói là nơi cửa. Tuệ nhãn của pháp tam-muội chỉ biết quán không thì lẽ chân còn thiên lệch, chỉ như đứng bên cạnh nhìn nghiêng về pháp thân mà thôi.

§ [Phân đoạn thứ ba nói người con từ ngoài cửa] “xa xa… thấy người cha” [là hàm ý] có hai loại chánh kiến, một là thấy gần, hai là thấy xa. Nay nói rằng, cơ duyên Đại thừa vừa chớm phát, ứng hợp dẫn đến việc ở xa, cho nên nói là “xa xa”. Lại nữa, cơ duyên còn nhỏ nhoi chưa thể ứng hiện giao phó, nên gọi là “xa xa”.

“Ngồi trên giường sư tử”, nghĩa là báo thân và pháp thân viên mãn an trụ nơi lẽ không, không còn khởi lên hai loại thông hoặc và biệt hoặc cùng những sự lo sợ về 8 thứ ma,[103] cho nên nói là “ngồi trên giường sư tử”. Kinh Hoa nghiêm nói: “Nghĩa không rốt ráo[104] với 4 đức không sợ[105] là giường.

“Đặt chân trên ghế quý”, [hàm ý] định tuệ là “chân”, thật đế là “ghế”, định tuệ vô sanh nương theo cảnh chân như.

[Giải thích về] bà-la-môn, các nhà cựu giải cho rằng chỉ dòng họ cao quý hiền lương, [là ví cho] hàng Bồ Tát ở giai vị từ địa thứ tám (bát địa) trở lên. Sát-đế-lợi là [ví cho] hàng Bồ Tát ở giai vị từ địa thứ bảy (thất địa) trở xuống. Cư sĩ là [ví cho hành giả còn ở] các giai vị nội phàm phu.[106]

Các nhà cựu giải cho rằng kinh này nói về pháp thân, không phải là thường trụ pháp thân, tức là nói ứng hóa thân [Phật] ở phương khác ứng hiện ở cõi này, thành pháp thân trong cõi này, cho nên có những người thuộc giai vị nội phàm vây quanh. Nay cho rằng chẳng phải như vậy. Nếu nói là Phật ở phương khác thì cơ duyên và sự ứng hiện giữa cha con, thể và dụng với sự bám víu hay giải thoát, tất cả đều không thành [ý nghĩa] như phần trước đã nói, lại cũng không dung hợp được việc cơ duyên Tiểu thừa ứng hợp với cơ duyên Đại thừa ở cõi này lại ứng hợp với cõi kia; và cũng không hợp lý khi nói kết duyên Đại thừa ở cõi này lại kết duyên Tiểu thừa ở cõi kia, hoặc nói cùng kết duyên Đại thừa lẫn Tiểu thừa[107] ở cõi này lại ứng hiện Đại thừa lẫn Tiểu thừa[108] ở cõi kia. [Giải thích] như vậy là hết sức sai lầm rối loạn.

Nay giải thích rõ, thắng ứng hóa thân [của Phật] ứng hiện với hàng Bồ Tát chính là tôn đặc thân[109] của đức Phật Lô-xá-na, tức là chỗ ứng hợp với cơ duyên Đại thừa. Liệt ứng hóa thân [của Phật] là ứng hiện với hàng Tiểu thừa, [thân ấy chỉ cao] một trượng sáu thước, mặc y phục xấu, tức là chỗ ứng hợp với cơ duyên Tiểu thừa. Nay kinh [Pháp hoa] này nêu rõ nghĩa thường trụ, là vị đề-hồ đồng như kinh Niết-bàn; [nêu rõ] pháp thân, là nghĩa viên đốn đồng với kinh Hoa nghiêm. [Trong kinh nêu] thí dụ ông trưởng giả uy đức có người hầu, sát-đế-lợi, bà-la-môn cung kính vây quanh, đều là chỉ cho nghĩa quyến thuộc trong kinh Hoa nghiêm, không có gì khác biệt. Chỗ giảng về pháp tướng [trong kinh Pháp hoa này] cũng giống như giảng giải trong kinh Hoa nghiêm, không có gì khác.

Bà-la-môn (brāhmaṇa) Hán dịch là “tịnh hạnh”, là dòng tộc cao quý thanh khiết, [ví cho] hàng Bồ Tát Đẳng giác đã lìa mọi cấu nhiễm. Sát-đế-lợi (kṣatriya) là dòng dõi vua chúa, ví cho hàng Bồ Tát từ sơ địa trở lên đến cửu địa. Cư sĩ [là những người] giàu có nhưng không cao quý, ví cho hàng Bồ Tát ở giai vị tam thập tâm.[110]

“Trân châu anh lạc” ví cho giới, định, tuệ, đà-la-ni, tức là 4 loại anh lạc [Bồ Tát dùng để trang nghiêm].[111] “Giá trị đến ngàn vạn [đồng tiền vàng]” là ví cho 4 công đức của hàng Bồ Tát Thập địa,[112] dùng để trang nghiêm pháp thân.

“Những viên chức, tôi tớ” [ví như] kẻ nhờ pháp môn khác sáng tỏ được giáo nghĩa, tức là nương theo pháp phương tiện. Dứt trừ thông hoặc gọi là “dân thường”, nương theo Biệt giáo dứt trừ thông hoặc gọi là “viên chức”. Nếu cùng một pháp môn sáng tỏ được giáo nghĩa thì vẫn là phương tiện ba-la-mật. Trong đồng với thật trí, ngoài đồng với cơ duyên, là ví như ý nghĩa các viên chức và dân thường, khi ở trong nhà thì phục dịch, đi ra bên ngoài thì sai khiến.

“Phất trần màu trắng” là ví như công dụng của quyền trí. “Đứng hầu hai bên”, bên phải là thể nhập công dụng của trí quán không, [dùng phất trần] phủi bụi 4 trụ địa,[113] bên trái là thể nhập công dụng của trí quán giả,[114] [dùng phất trần] phủi bụi si mê không hiểu biết. Cả 2 nghĩa này đều là phương tiện của trung đạo, cho nên nói là đứng hầu. Đại lược là như vậy.

“Có màn báu giăng che” là ví như lòng từ bi chân thật. “Các dải hoa đẹp, cờ phướn rủ xuống” là ví hoa như 4 nhiếp pháp, cờ phướn như thần thông. “Nước thơm rải lên mặt đất” [là ví như] nước pháp rưới xuống đất tâm của chư Bồ Tát làm lắng xuống bụi bặm nghi hoặc, cũng hiểu là nước chánh định rưới tâm tán loạn. “Tung rải các loại hoa thơm danh tiếng” [là ví như] bày biện 7 loại hoa thanh tịnh. Đó là giới, định, tuệ, đoạn nghi tịnh, đạo phi đạo tịnh, tri kiến tịnh, đoạn tri tịnh.[115]

Giới là nói đến nhiếp luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới và nhiêu ích hữu tình giới.[116] Định là nói đến [các loại tam-muội như tam-muội] Thủ-lăng-nghiêm v.v. Tuệ là nói đến trí tuệ chân thật.

Đoạn nghi tịnh nghĩa là đã vượt qua 2 mối nghi về chân đế và tục đế.[117] Đạo phi đạo tịnh là nói nghĩa thực hành những việc trái đạo mà thông đạt Phật đạo.[118] Tri kiến tịnh nghĩa là thành tựu viên mãn cả 2 mặt trí tuệ và đức hạnh, thấy biết tánh Phật rõ ràng sáng tỏ. Đoạn tri tịnh nghĩa là thành tựu đoạn đức, vĩnh viễn dứt trừ vô minh.

“Có rất nhiều đồ vật quý báu được bày biện” là ví như rất nhiều công đức chân thật [của hàng Bồ Tát] Thập địa. “Xuất ra, nhập vào” đã có giải thích ở phần trước. Đại lược là như vậy.

“Oai đức đặc biệt cao quý” là ví cho quang minh vô biên, màu sắc hình tượng vô biên, thân tướng tốt đẹp, rực rỡ oai nghiêm, rộng lớn vô biên.[119] Ý nghĩa này phải hiểu là [nói về] đức Phật Lô-xá-na, làm sao có thể giải thích khác hơn được?

Phân đoạn thứ tư là từ câu “Đứa con nghèo khổ khốn cùng ấy nhìn thấy người cha thế lực quá lớn lao” trở đi, nói việc người con thấy cha rồi sợ sệt chạy trốn.

“Thế lực quá lớn lao” [là hàm nghĩa] vì trí tuệ lớn lao nên nói “lực” lớn lao, vì thần thông lớn lao nên nói “thế” lớn lao. Ý nghĩa chỗ này cũng giống như câu “thân ta mạnh, chân ta khỏe” [trong phẩm Thí dụ] ở trước.

“Ôm lòng lo sợ” là nói căn cơ Tiểu thừa kém cỏi yếu ớt nên khiếp sợ trước đạo Đại thừa. “Hối tiếc vì đã tìm đến nơi này” là nghĩa đức Phật vốn đã dự định dùng giáo pháp Đại thừa, nhưng ứng hiện chưa xứng hợp cơ duyên nên [thính chúng] chỉ có ý thối thất tâm Đại thừa, do vậy nói rằng “hối tiếc vì đã tìm đến nơi này”. “Liền tự nghĩ rằng” là nghĩa trong cơ duyên đã tiềm ẩn hàm chứa việc này, không phải hiển lộ rõ ràng như đối diện nhìn thấy thắng ứng hóa thân [của Phật]. “Hẳn phải là đức vua hoặc ngang hàng với vua”, hàm ý chỉ ma Ba-tuần là “đức vua”, đồng bọn với ma là “ngang hàng với vua”. [Hàng Thanh văn khi ấy] cơ duyên Tiểu thừa đã nguội lạnh dứt mất, không còn lời nào để thuyết giảng đạo, dứt tuyệt mọi sắc tướng hình tượng, nay lại được thấy hình tượng thắng ứng hóa thân [của Phật], hàng trời người không thể nào sánh kịp, nghe thuyết pháp hoàn toàn khác hẳn với [giáo pháp] Nhị thừa, xưa nay trí tuệ hạn hẹp, đức hạnh mỏng manh chưa từng được thấy nghe [những điều như vậy] nên liền cho [hình tượng nhìn thấy] đó là ma, giáo pháp nghe thuyết giảng đó là ma thuyết. Trong phần lược thuyết khai trừ ba thừa, hiển bày Nhất thừa, ngài Xá-lợi-phất [khi nghe pháp Đại thừa] đã hoài nghi cho rằng ma giả Phật để làm não loạn tâm ngài. Nếu như ban đầu Phật dùng pháp Đại thừa không thuyết Tiểu thừa, thì hẳn rằng mối nghi “ma giả Phật” sẽ còn lớn hơn ngày nay rất nhiều.

Lại nữa, ông trưởng giả ví cho thắng ứng hóa thân [của Phật]. Trưởng giả là biểu trưng báo thân Phật cho nên là “ngang hàng với vua”. Pháp thân là thầy của báo thân nên gọi thầy là “đức vua”. Các kinh khác phần nhiều đều gọi kinh [Pháp hoa] này là vua [trong các kinh]. Trí tuệ khế hợp với pháp, tức là trí và pháp bình đẳng, cho nên gọi báo thân Phật là “ngang hàng với vua”. Đây là nói pháp thân và báo thân theo Đại thừa, không phải chỗ mà hàng Tiểu thừa được lợi ích, cho nên nói “là đức vua hoặc ngang hàng với vua”.

“Không phải chỗ mà ta có thể đem sức lực [làm thuê] để kiếm tiền.” [Đây là nói] căn cơ Tiểu thừa không thể thọ lãnh sự giáo hóa của Đại thừa.

“Chi bằng ta hãy tìm đến xóm nghèo, có chỗ để ta ra sức làm thuê, dễ dàng kiếm được cơm ăn áo mặc.” Đây là ý nghĩa như trong kinh Tịnh Danh nói, có thể làm cho kém cỏi đi chỗ chứng đắc của mình để “hóa độ những kẻ thấp hèn”.[120] Nhưng chỉ riêng lẽ không[121] chẳng bao gồm được muôn phẩm đức, chẳng phải Như Lai tạng, cho nên nói là “xóm nghèo”. Lẽ không thiên lệch[122] xứng hợp với trí tuệ [hạn hẹp của] Tiểu thừa, cho nên nói là “có chỗ để ta ra sức làm thuê”. “Dễ dàng kiếm được cơm ăn áo mặc” là nói có thể chứng đắc Niết-bàn hữu dư, tức là “cơm áo” vô lậu. Công hạnh trí tuệ là “cơm”, công hạnh hành trì là “áo”.

“Nếu như ta nấn ná ở lâu nơi này, e rằng có người nhìn thấy sẽ cưỡng bức ta phải làm việc [cho họ].” Việc tu hành theo con đường Đại thừa trải qua vô lượng kiếp, cho nên nói là “ở lâu”. [Hàng Thanh văn tự nghĩ:] Ta vốn chán ghét ghê sợ luân hồi sanh tử, nếu tu theo Đại thừa thì phải vào vòng sanh tử, học rộng [làm theo] muôn công hạnh, cho nên nói là “cưỡng bức”. Ta vốn ưa thích Tiểu thừa, mà nay khiến cho ta phát tâm Bồ-đề Đại thừa, đó gọi là “cưỡng bức ta phải làm việc cho họ”. Từ bỏ Đại thừa để chọn theo Tiểu thừa, cho nên nói là “vội vã bỏ đi”.

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Khi ấy, ông trưởng giả [ngồi trên giường sư tử]” trở đi, nêu thí dụ “cha nhìn thấy con”. Tiểu đoạn này cũng có bốn phân đoạn. Thứ nhất là nơi chốn cha nhìn thấy con. Thứ hai là [cha] nhìn thấy con liền nhận biết. Thứ ba là [cha] thấy con thì vui mừng. Thứ tư là được gặp lại con đúng với tâm nguyện.

§ [Phân đoạn thứ nhất nói về] nơi cha nhìn thấy con, tức là [đang “ngồi trên] giường sư tử”. [Đây là ý nghĩa] pháp thân Như Lai trụ nơi nghĩa không rốt ráo, trong cảnh giới vô úy, soi chiếu sáng tỏ cơ duyên.

§ [Phân đoạn thứ hai nói việc] cha nhìn thấy con liền nhận biết, [là nói chư Phật] rõ biết việc đã từng kết duyên với chúng sanh từ thuở trước.

§ [Phân đoạn thứ ba nói việc cha nhìn thấy con] trong lòng hết sức vui mừng, [là nói nghĩa] chư Phật thường soi xét cơ duyên của con [là tất cả chúng sanh], nay thấy cơ duyên đã đến, xứng hợp với tâm từ [của Phật] cho nên hoan hỷ. [Thí dụ này] là nhận hiểu ý nghĩa khởi tâm đại bi trong phần thuyết chánh pháp. [Thí dụ] căn nhà bốc cháy [trong phần trước] tức là ý nghĩa hết sức kinh sợ. Vì muốn nêu rõ ý nghĩa [đại bi] cứu khổ, nên nói [thí dụ] kinh sợ. Trong phần này nêu rõ ý nghĩa [đại từ] ban vui, nên nói [thí dụ] hoan hỷ.

§ [Phân đoạn thứ tư nói việc ông trưởng giả gặp lại con “đúng với tâm nguyện”.] “Liền nghĩ rằng: Tất cả tiền tài, của cải, kho tàng của ta, nay đã có chỗ để giao phó rồi.” [Thí dụ này ý nói chư Phật từ] thuở xưa nhìn thấy chúng sanh thối thất tâm Đại thừa, tu hành theo Tiểu thừa, [như đứa con cùng khổ] ở nơi xóm nghèo gian nan vất vả tìm cầu miếng ăn để sống qua ngày, thường muốn ban cho tiền tài [pháp bảo] nhưng vì không có cơ duyên nên không thể được. Nay cơ duyên đã đến, xứng hợp với tâm đại từ [của Phật], cho nên nói là “kho tàng… …nay đã có chỗ giao phó”.

“Ta vẫn thường nhớ nghĩ đến” [là ý] nêu rõ việc [chúng sanh] không chỉ nghèo khổ không có tài sản lớn, mà còn phải lưu chuyển trong sanh tử, bị các sự khổ não bức bách, [chư Phật] vì lòng đại bi mà đau xót, cho nên nói là “thường nhớ nghĩ đến”. [Chư Phật] tuy muốn cứu giúp [chúng sanh khổ não], nhưng không có cơ duyên thì không thể cứu giúp, cho nên nói rằng “không biết làm sao gặp lại”. Nay có cơ duyên cứu độ khởi sinh, cho nên nói rằng “bỗng nhiên tự tìm đến”. Xứng hợp với tâm đại bi [của Phật], cho nên nói rằng “hết sức đúng với tâm nguyện của ta”.

“Ta tuy đã già nua suy yếu nhưng vẫn còn có lòng tham tiếc.” [Đây là] giải thích nguyên do vì sao [đúng với tâm nguyện]. Do thời kỳ giáo hóa đã sắp dứt cho nên nói là “đã già nua suy yếu”. Chưa gặp được cơ duyên Đại thừa, giáo pháp không có người ủy thác giao phó, chúng sanh trong tương lai [không biết] nhờ ai để được giải thoát. [Lo lắng] vì những chúng sanh có thể hóa độ cho nên nói là “có lòng tham tiếc”. Nay cơ duyên tự đến, không còn sự lo lắng như vậy nữa, [cho nên nói] “thật hết sức đúng với tâm nguyện của ta”.

KINH VĂN

“[Nghĩ vậy rồi ông] liền lập tức sai một người hầu cận gấp rút đuổi theo bắt đứa con ấy trở lại. Khi đó, người được ông sai đi liền chạy nhanh theo kịp, bắt lấy người con. Đứa con cùng khổ ấy hết sức kinh ngạc, vội lớn tiếng than oán: ‘Tôi chẳng làm gì xúc phạm, sao lại bị bắt?’ Người được sai đi [chẳng nói năng gì,] lại càng gấp rút bắt lấy, cưỡng bức đưa về.

“Bấy giờ, đứa con cùng khổ kia tự nghĩ mình không có tội gì mà bị bắt giữ, lần này chắc nhất định phải chết. [Nghĩ như vậy nên] càng thêm kinh sợ đến nỗi ngã lăn ra đất bất tỉnh. Người cha từ xa trông thấy như vậy liền bảo với người mà ông đã sai khiến: ‘Ta không cần người ấy, chớ cưỡng bức đưa về. Hãy dùng nước lạnh tưới lên mặt cho tỉnh lại. Đừng nói gì thêm với nó.’ Vì sao vậy? Vì người cha biết con mình [đang khi ấy] ý chí thấp hèn, nên tự biết rằng sự giàu sang cao quý của mình đã khiến cho đứa con rất khó [tiếp cận]. Ông xét kỹ thấy đúng thật là con mình, nhưng phải dùng phương tiện khéo léo, không nói cho người khác biết đó là con mình.

“[Khi đứa con tỉnh lại,] người được sai đến liền nói rằng: ‘Nay tôi thả ông ra, tùy ý muốn đi đâu thì đi.’ Đứa con cùng khổ ấy hết sức vui mừng như được điều chưa từng có, từ dưới đất vùng đứng dậy, đi đến một xóm nghèo để [làm thuê] kiếm cơm ăn áo mặc.

Đoạn thứ ba từ câu “[Nghĩ vậy rồi ông] liền lập tức sai một người hầu cận gấp rút đuổi theo bắt đứa con ấy trở lại”, nêu thí dụ “đuổi theo dỗ dành”. [Thí dụ này] theo nghĩa gần là nhận hiểu ý nghĩa “bỏ ý định dùng sức mạnh, chuyển sang phương tiện”[123] trong thí dụ căn nhà đang bốc cháy, còn hiểu theo nghĩa xa là nhận hiểu ý nghĩa “tạm gác giáo pháp Đại thừa, vận dụng giáo pháp Tiểu thừa” trong phần thuyết chánh pháp. Đoạn này lại chia thành 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất nói việc sai người hầu cận đuổi theo, tiểu đoạn thứ hai nói việc sai 2 người đến dẫn dụ.

Tiểu đoạn thứ nhất [nói việc] “đuổi theo” là nhận hiểu ý nghĩa “thân ta mạnh, tay ta khỏe nhưng không dùng đến” trong phẩm Thí dụ. Chỉ có điều là trong phẩm Phương tiện tổng hợp hai ý nghĩa răn dạy ngăn cản và khuyên bảo khuyến khích thành một ý, trong khi phần văn giải thích thì chia làm ba. Như trong thí dụ căn nhà đang bốc cháy thì mở đầu nói nghĩa khuyến khích, sau đó nói nghĩa răn dạy, mỗi một nghĩa này đều được giải thích thành ba ý. Riêng ý nghĩa [đức Phật định] từ bỏ [việc giáo hóa] thì kinh văn lược bớt không nói.

Trong kinh văn trường hàng chỉ [có phần] tương hợp với nghĩa khuyên bảo khuyến khích, không [có phần] tương hợp với nghĩa răn dạy ngăn cản, nhưng ý nghĩa tạm dừng việc giáo hóa thì được nói rộng. Trong phần kệ tụng chỉ lặp lại ý nghĩa răn dạy, không tụng lại ý nghĩa khuyến khích, cũng không tụng ý nghĩa dừng việc giáo hóa. [Như vậy,] mỗi phần đều có chỗ có hoặc không có. Trong phần văn trường hàng nêu thí dụ căn nhà bốc cháy thì hai nghĩa răn dạy và khuyến khích đều được giải thích mỗi nghĩa thành 3 ý, trong phần này sẽ nhận hiểu chung tất cả, [chia làm 3 phân đoạn].

§ [Phân đoạn thứ nhất từ câu] “Liền lập tức sai một người hầu cận gấp rút đuổi theo để đưa đứa con ấy trở lại.” [Thí dụ này] nhận hiểu ý nghĩa “[ông trưởng giả] dự định dùng cách khuyến khích” trong phẩm trước. “Đứa con cùng khổ ấy hết sức kinh ngạc.” [Thí dụ này] nhận hiểu ý nghĩa “[những đứa con] không có cơ duyên tiếp nhận sự khuyến khích” trong phần trước.

§ [Phân đoạn thứ hai từ câu] “Người được sai đi… …gấp rút bắt lấy, cưỡng bức đưa về.” [Thí dụ này] là nhận hiểu ý nghĩa “[ông trưởng giả] dự định dùng cách răn dạy” trong phần trước. Từ câu “đứa con cùng khổ kia tự nghĩ mình không có tội…” cho đến câu “ngã lăn ra đất bất tỉnh”. [Thí dụ này] nhận hiểu ý nghĩa không có cơ duyên để dùng cách răn dạy.

§ [Phân đoạn thứ ba từ câu] “người cha từ xa trông thấy” trở đi là nhận hiểu chung ý nghĩa từ bỏ cả 2 pháp răn dạy ngăn cản và khuyên bảo khuyến khích, dừng việc giáo hóa. Đây là nghĩa dò xét để hiểu ý Phật. Tuy Phật dùng pháp khuyến khích dự định là thích hợp, lại không có cơ duyên, nhưng ý [Phật] vẫn chưa dừng [sự giáo hóa]. Sau đó [Phật] dùng pháp răn dạy, cũng không có kết quả, nên mới dừng việc giáo hóa.

§ [Trong phân đoạn thứ nhất,] “sai một người hầu cận” [là ví cho việc] ban sơ [đức Phật] dự định dùng pháp khuyến khích là thích hợp. Trí tuệ [ví cho] người sai khiến, giáo pháp [ví cho] người bị sai khiến. Ý nghĩa chân lý là chính, là giữa; ý nghĩa giáo pháp là phụ, là bên cạnh, [như người hầu cận]. Từ khi đức Phật thuyết giảng ra 12 bộ kinh Đại thừa,[124] dự định là thích hợp, nhưng chúng sanh không có cơ duyên tiếp nhận, giáo pháp đó cũng giống như sữa, [là nghĩa phụ cận], cho nên nói là “sai một người hầu cận”. Lại nữa, người hầu cận là những người ở bên cạnh, người phụ tá, tức là [ví cho việc đức Phật] sai khiến các vị pháp thân Bồ Tát vì [chúng sanh] mà thuyết giảng Đại thừa, như trong kinh Hoa nghiêm [đức Phật] sai 4 vị Bồ Tát thuyết giảng 40 giai vị[125] của hàng Bồ Tát, đó là [ý nghĩa] “sai người hầu cận”.

“Chạy nhanh theo kịp bắt lấy” là nói ý nghĩa giáo pháp Đại thừa sáng tỏ rõ ràng, hiển lộ ngay thẳng, dùng giáo pháp ấy hợp với căn cơ thì nhanh chóng thẳng đến quả vị Bồ-đề. Cho nên [trong phẩm Thí dụ khi nói về] xe lớn [mô tả là] “chạy nhanh như gió”.

Nếu giải thích Bồ Tát là “người hầu cận” thì Bồ Tát tự có thần lực, lại thêm được Phật gia trì nên có thể khiến cho vị ấy nhanh chóng thể nhập quả vị Bồ Đề.

“Đứa con cùng khổ ấy hết sức kinh ngạc” là nói [việc Phật] dùng cách khuyên dạy khuyến khích không gặp được cơ duyên. Hiện tại đã không có cơ duyên, cho dù xưa kia đã từng phát [tâm Đại thừa] nhưng quên mất đã lâu không hề nhớ lại, nay chợt nghe giáo pháp Đại thừa, vì trái ngược với lòng mình nghĩ nên kinh sợ, vì không nhận hiểu được nên ngạc nhiên.

“Lớn tiếng than oán”[126] [hàm ý] hàng Tiểu thừa xem phiền não là oán đối, sanh tử là khổ não. Nếu khuyên dạy rằng “phiền não tức Bồ-đề” thì [họ] sẽ lớn tiếng cho đó là oán đối, tà vạy. Nếu nghe nói “sanh tử tức Niết-bàn” thì [họ] sẽ lớn tiếng cho đó là khổ não, đau đớn. Đó là không có cơ duyên để tiếp nhận sự khuyên dạy khuyến khích.

“Tôi chẳng làm gì xúc phạm”, [hàm ý hàng Tiểu thừa tự hỏi], “chúng tôi chẳng hề cầu xin, nay có ý gì mà dùng Đại thừa giáo hóa chúng tôi?” [Thí dụ này] là nhận hiểu về 2 ý ở phần nói pháp khuyên dạy khuyến khích [trong phẩm Thí dụ], chưa nhận hiểu đến ý [đức Phật muốn] tạm dừng giáo hóa.

§ [Phân đoạn thứ hai nói] lần kêu la tiếp theo là khi “người được sai đi lại càng gấp rút bắt lấy”. [Thí dụ này] là nhận hiểu ý nghĩa [Phật] dự định dùng cách răn dạy ngăn cản là thích hợp. Phần trước nêu rõ ý khuyên làm việc lành nhưng vẫn còn hòa hoãn, [đến đây kinh văn nói] “ta nên vì chúng nói ra những việc đáng kinh sợ”, tức là đã rất cấp thiết. Tuy nói “cưỡng bức đưa về”, nhưng [ý nghĩa] sự răn dạy là khó nhọc dùng lời để khiến cho tránh xa việc xấu ác. Do trong tự tâm đã không có cơ duyên mà bên ngoài lại cưỡng ép dùng Đại thừa giáo hóa, đó là nghĩa “cưỡng bức đưa về”.

“Tự nghĩ mình không có tội gì” là nhận hiểu [ý nghĩa] không tiếp nhận sự răn dạy ngăn cản. “Tội” là ví cho lòng từ bi [của Bồ Tát]. Chúng sanh vì có tội nên phải vào ngục sanh tử. Bồ Tát cũng có tội giống như vậy để đi vào ngục. Hàng Nhị thừa không có lòng đại bi nên gọi là “không có tội” mà bị đẩy vào sanh tử, tức là bị giam hãm trong ngục tù. Không có phương tiện lớn mà vào sanh tử, tất nhiên phải vĩnh viễn mất đi tuệ mệnh trong Tam thừa, cho nên nói rằng “nhất định phải chết”. Suy nghĩ đến những việc như vậy, cho nên nói là “càng thêm kinh sợ”. Vì cưỡng ép dùng Đại thừa giáo hóa, trí tuệ Tiểu thừa không thể nhận hiểu cho nên nói là “bất tỉnh”. [Do không hiểu nên] khởi sinh sự hủy báng [Đại thừa], phải đọa vào ba đường ác, cho nên nói là “ngã lăn ra đất”, lại cũng có nghĩa là [chúng sanh] do mê muội chìm đắm [ngã xuống] đất vô minh.

Phân đoạn thứ ba từ câu “Người cha từ xa trông thấy như vậy” trở đi, [hàm ý đức Phật] buông bỏ cả hai cách khuyên dạy khuyến khích và răn dạy ngăn cản, dừng lại việc giáo hóa bằng Đại thừa. Phân đoạn này chia ra 4 ý. Thứ nhất là [đức Phật] suy nghĩ muốn dừng sự giáo hóa [Đại thừa], thứ hai là giải thích [nguyên do muốn] dừng sự giáo hóa, thứ ba là thực sự dừng sự giáo hóa và thứ tư là nói việc dừng sự giáo hóa [Đại thừa] là thích hợp.

Ý thứ nhất có 2 tiểu ý. Một là rõ biết chí [hướng theo] Đại thừa còn yếu ớt, hai là rõ biết chí [hướng theo] Tiểu thừa đang mạnh mẽ.

Tiểu ý thứ nhất từ câu “Người cha từ xa trông thấy”, [hàm ý] tuy bỏ Tiểu thừa nhưng còn xa Đại thừa, cho nên nói là “từ xa”. Vì [chúng sanh] là con đã từng kết duyên Đại thừa cho nên nói là “trông thấy”.

“Liền bảo với người mà ông đã sai khiến.” Nếu theo nghĩa “người được sai khiến” là việc thuyết giáo, thì trí tuệ [Phật] là gốc của việc thuyết giáo. Trí tuệ ấy biết [chúng sanh] chưa có cơ duyên, nên khi trí dừng lại thì [việc thuyết giáo cũng dừng lại. Nếu theo nghĩa “người được sai khiến” là người thuyết giáo, thì [đó là nghĩa Phật] bảo các vị Bồ Tát không nên hiện thân đẹp đẽ tôn quý cho hàng Nhị thừa nhìn thấy. Trong kinh Tịnh Danh, [Phật Hương Tích bảo các vị Bồ Tát] “nên kiềm giữ mùi thơm nơi thân, đừng để cho chúng sanh cõi Ta-bà khởi tâm lầm lạc tham trước”.[127] Bồ Tát Phổ Hiền khi vào cõi Ta-bà này tự làm cho thân hình nhỏ bé lại. Những việc như thế đều cùng một nghĩa này.

“Chớ cưỡng bức đưa về” [là hàm nghĩa Phật] suy nghĩ thấy việc từ bỏ cách răn dạy ngăn cản là thích hợp. Đã biết chúng sanh không có cơ duyên Đại thừa, sợ làm thương tổn đến căn lành của chúng sanh cho nên nói “chớ cưỡng bức”. Theo ý riêng tôi cho rằng, nói “không cần người ấy” [là nghĩa Phật] suy nghĩ thấy nên từ bỏ cách khuyên dạy khuyến khích; lại nói “chớ cưỡng bức đưa về” [là nghĩa Phật] suy nghĩ thấy nên từ bỏ cách răn dạy ngăn cản.

Từ câu “Dùng nước lạnh tưới lên mặt cho tỉnh lại” là tiểu ý thứ hai, [hàm nghĩa Phật rõ biết chúng sanh] có chí hướng theo Tiểu thừa, nên [tạm] dùng nước lý tịch diệt [Tiểu thừa[128] rưới lên] để trừ ngọn lửa nóng kiến hoặc và tư hoặc.

Nói “mặt” [có hàm nghĩa] chán ghét sanh tử là quay lưng lại, hướng đến Niết-bàn như quay mặt tới. Nói “tỉnh lại” [là hàm nghĩa] tạm khai mở cơ duyên Tiểu thừa [cũng] được lìa phiền não, tỏ ngộ được bốn chân đế. “Đừng nói gì thêm với nó” [là hàm nghĩa đức Phật] đã quyết định nên tạm dừng sự giáo hóa bằng Đại thừa.

Ý thứ hai từ câu “vì sao vậy” trở đi, giải thích về ý định dừng sự giáo hóa [bằng Đại thừa]. Đó là [vì thấy chúng sanh] chán ghét khổ não, vui thích lẽ không, đã quen nhờn với sự kém cỏi thấp hèn, không có tâm từ bi, nên sợ pháp Đại thừa khó khăn. [Do đó] hãy tạm chấp nhận chí hướng nhỏ nhoi của họ, gác lại bản hoài của chư Phật. [Vì những lẽ đó] cho nên dừng sự giáo hóa [bằng Đại thừa].

[Đức Phật] xét biết [những chúng sanh này] đã từng ở nơi hai vạn ức vị Phật phát tâm đạo [Đại thừa], không phải hoàn toàn không có cơ duyên Đại thừa. Tuy tạm dừng việc giáo hóa Đại thừa nhưng ý Phật chưa phải dừng ở đó, còn chờ đợi [cơ duyên] về sau.

“Không nói cho người khác biết”, [hàm nghĩa] thuở xưa trong giáo nghĩa Tiểu thừa, [Phật] tùy thuận tâm ý chúng sanh nói pháp phương tiện để che chở, bảo vệ, gọi [những chúng sanh ấy] là hàng Thanh văn, không nói theo tự ý [của Phật] rằng [những chúng sanh ấy] chính là Bồ Tát, [đều có khả năng thành Phật].

Ý thứ ba từ câu “người được sai khiến đến liền nói rằng” trở đi, [hàm ý] nêu rõ việc tạm dừng giáo hóa [Đại thừa]. “Nay tôi thả ông ra”, [hàm ý đức Phật] rõ biết cơ duyên Đại thừa hãy còn yếu ớt. “Tùy ý muốn đi đâu thì đi” nghĩa là [Phật] đã biết tâm thiện Tiểu thừa [của chúng sanh] đang mạnh mẽ. Do cả hai duyên [Đại thừa còn yếu ớt và Tiểu thừa đang mạnh mẽ] nên [đức Phật] tạm dừng việc giáo hóa [Đại thừa].

Ý thứ tư từ câu “Người con cùng khổ ấy hết sức vui mừng” trở đi [hàm ý] nêu rõ việc [đức Phật] dừng sự giáo hóa [Đại thừa] là xứng hợp cơ duyên. Không phải chịu sự cưỡng bức phải theo giáo pháp Đại thừa nên “hết sức vui mừng”. Không mắc vào tội hủy báng Đại thừa nên tránh khỏi được 3 đường ác, do đó nói là “từ nơi dưới đất”. Tâm thiện Tiểu thừa khởi sanh nên nói là “vùng đứng dậy”. Lại nữa, trước đây khi [Phật] dự định dùng giáo pháp Đại thừa là thích hợp thì [chúng sanh] mê muội không nhận hiểu được, [ví như] nằm trên mặt đất vô minh, nay [Phật] tạm dùng giáo pháp Tiểu thừa nên có thể hiểu được liền tỉnh ngộ. Do đó nói là “từ nơi dưới đất vùng đứng dậy”. Từ trong giáo lý bốn chân đế mà mong cầu đạo pháp, cho nên nói “đi đến một xóm nghèo để [làm thuê] kiếm cơm ăn áo mặc”. Hoặc [cũng có thể hiểu vì] từ trong 4 kiến chấp[129] mà cầu đạo nên nói là “xóm nghèo”.

KINH VĂN

Bấy giờ, ông trưởng giả muốn dẫn dụ đứa con [trở về] nên bày ra phương tiện, bí mật sai khiến hai người có hình dung dáng vẻ tiều tụy, không chút uy đức, dặn dò: “Các ông hãy đi đến nơi ấy, thư thả nói với kẻ nghèo khốn ấy rằng: ‘Chỗ kia có việc làm trả giá cao hơn.’ Nếu kẻ nghèo khốn ấy chịu nghe theo thì dẫn về đây để giao việc làm. Nếu như hỏi: ‘Muốn tôi làm việc gì?’ thì đáp: ‘Thuê ông làm việc hốt phân. Hai người chúng tôi sẽ cùng làm với ông.’”

Lúc ấy, hai người được sai khiến liền đi tìm người con khốn cùng kia. Khi tìm gặp được rồi liền nói rõ như lời dặn ở trên. Bấy giờ, người con khốn cùng trước tiên nhận tiền công, sau đó được giao việc hốt phân. Người cha nhìn thấy con [như vậy] thì thương xót mà lấy làm quái lạ.

Rồi đến một ngày kia, ông nhìn qua song cửa sổ, xa xa thấy hình dáng con mình gầy ốm tiều tụy, nhớp nhúa vì bám đầy phân dơ cùng bụi đất. Ông liền cởi bỏ hết chuỗi ngọc và y phục tốt đẹp mềm mại cùng những thứ trang sức uy nghiêm, mặc vào người y phục thô xấu dơ bẩn, [tự làm cho] thân thể bám đầy bụi đất, rồi tay phải cầm dụng cụ hốt phân, dáng vẻ như có điều lo sợ, đi đến nói với những người làm công: “Các người hãy siêng năng làm việc, đừng biếng nhác dừng nghỉ.” Ông dùng phương tiện như vậy mới đến gần được con mình. Sau đó, ông lại nói với đứa con: “Này chàng trai! Con hãy thường xuyên ở đây làm, đừng bỏ đi nơi khác, ta sẽ trả thêm nhiều tiền hơn. Những gì con cần đến như vật chứa hoặc [thức ăn như] gạo, bột gạo, muối, giấm… [ta đều sẽ cung cấp đủ,] chớ nên tự nghi ngại. Ta cũng có một nô bộc già hèn kém, có thể giao cho con sai khiến, nên hãy tự yên lòng. [Hãy xem] ta như cha của con, chớ nên lo lắng gì cả. Vì sao vậy? Ta nay tuổi cao già yếu mà con thì tuổi trẻ tráng niên, thường siêng làm việc, không dối trá, không lười nhác, không nóng giận, không thù hận, không nói lời than oán. Ta thấy con không có những thói xấu ấy như những người làm thuê khác. Từ nay về sau, [ta xem con] như con ta sinh ra.” Ông trưởng giả [nói vậy rồi] liền đặt cho tên mới và gọi là con mình. Đứa con cùng khốn ấy tuy vui mừng được sự đãi ngộ này nhưng vẫn tự cho mình là người hèn hạ từ bên ngoài đến làm thuê, do vậy mà phải qua 20 năm thường được sai làm việc hốt phân.

[Tiểu đoạn thứ hai] từ câu “Bấy giờ, ông trưởng giả muốn dẫn dụ…” trở đi, nói việc [ông trưởng giả] bí mật sai hai người đến dẫn dụ. Tiểu đoạn này có 2 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất, cứ theo giáo pháp mà xét nghĩa gần thì là nhận hiểu [về thí dụ] “dùng ba loại xe [đẹp dẫn dụ để] cứu các con”, xét nghĩa xa là nhận hiểu [về việc đức Phật ở] thành Ba-la-nại thi hành pháp quyền biến [phương tiện].

Phân đoạn thứ hai từ câu “Rồi đến một ngày kia…”, hàm ý là nhận hiểu nghĩa pháp thân vốn đã từ lâu soi chiếu phương tiện, chẳng phải đợi đến [khi Phật thành đạo dưới] cội Bồ-đề mới bắt đầu biết vận dụng Tiểu thừa. Từ lâu [Phật] đã sớm rõ biết trí tuệ chúng sanh rất khó tiếp cận với thân tôn quý kỳ đặc [của Như Lai], chỉ quen nhờn với y phục xấu xí dơ bẩn. Cho nên hiểu được những việc trước đây trong quá khứ thì giải thích được việc trong hiện tại.

Hỏi: Bốn vị đại đệ tử do nhân duyên gì biết được pháp thân đã từ lâu soi chiếu?

Đáp: Suy từ việc gần đây mà biết được việc lâu xa. Nếu như chỉ đến lúc thành đạo dưới cội bồ-đề [đức Phật] mới bắt đầu biết được [chúng sanh] không có cơ duyên Đại thừa, thì lẽ ra không có việc từ cõi trời Đâu-suất giáng thần, đem trí tuệ chân chánh gá vào thai mẹ, cho đến thị hiện [sinh ra] có phiền não rồi cưới vợ sinh con, [cuối cùng vận dụng] 34 tâm[130] của thân sau cùng đoạn trừ tất cả phiền não... Suy nghiệm như vậy thì biết rằng [đức Phật] đã cởi bỏ “chuỗi ngọc đẹp đẽ nhiệm mầu” là tất cả tướng hảo quang minh, tự mặc vào “y phục thô xấu dơ nhớp” là tấm thân [phàm phu] một trượng sáu thước. [Dụng ý] như vậy thật là đã có từ rất lâu xa.

§ Nay trước hết giải thích sự nhận hiểu của phân đoạn thứ nhất xét theo giáo nghĩa.

Trong phẩm Thí dụ, kinh văn [phần tương ứng][131] có 4 ý chính. Thứ nhất, [ông trưởng giả] dự định dùng phương tiện [xe đẹp để dẫn dụ các con] là cách thích hợp; thứ hai, [ông trưởng giả] rõ biết tâm niệm [ham muốn] trước đây [của các con]; thứ ba, [ông trưởng giả] dùng lời khen ngợi 3 loại xe đẹp; và thứ tư, [phương tiện dẫn dụ như trên] phù hợp với tâm nguyện mong muốn [của các con].

Trong phẩm Phương tiện, [phần kinh văn tương ứng] cũng có 4 ý [như trên], nay phần nhận hiểu ở đây cũng có đủ 4 ý.

Ý thứ nhất từ câu “Bấy giờ, ông trưởng giả muốn dẫn dụ…” trở đi là nhận hiểu ý nghĩa “dự định dùng phương tiện là thích hợp” ở phần trước.

Ý thứ hai từ câu “Lúc ấy, hai người được sai khiến liền đi tìm người con khốn cùng kia. Khi tìm gặp được rồi…” là nhận hiểu ý nghĩa phần trước nói “rõ biết trong tâm trước đây của con vốn có cơ duyên”.

Ý thứ ba từ câu “nói rõ như lời dặn ở trên” là nhận hiểu ý nghĩa trong phần trước “khen ngợi ba loại xe đẹp rất ít có”.

Ý thứ tư từ câu “Bấy giờ, người con khốn cùng trước tiên nhận tiền công…” là nhận hiểu ý nghĩa “hợp với ý thích, các con tranh nhau ra khỏi căn nhà đang cháy” trong phần trước.

w [Nay giải thích] ý thứ nhất, [“ông trưởng giả] muốn dẫn dụ”. Tuy đã dừng việc giáo hóa bằng Đại thừa nhưng [đức Phật] không bỏ mặc [chúng sanh]. Vì muốn thiết lập phương tiện cho nên nói là “muốn”. “Bí mật sai khiến hai người”. Bốn vị đệ tử [Thanh văn] đều đã tự mình nhận hiểu, không liên quan đến Bồ Tát, cho nên nói là “hai người”. [Nếu xét] theo pháp thì “hai người” là [biểu trưng cho] pháp nhân duyên và bốn chân đế, xét theo lý thì có thể xem là chân đế và tục đế, xét theo người thì là Thanh văn và Duyên giác.

Ban đầu [Phật] dự định dùng Đại thừa nên [thí dụ] nói “sai một người hầu cận”,[132] là biểu thị cho một thật đế, một giáo pháp Đại thừa, một vị Bồ Tát. Nay nêu rõ phương tiện, ẩn tàng lẽ thật nên nói là “bí mật”, chỉ bày thiên lệch pháp chân nên gọi là “sai khiến”. Nói theo giáo nghĩa thì ẩn tàng pháp viên mãn liễu nghĩa nên nói là “bí mật”, chỉ bày pháp quyền thừa bất liễu nghĩa nên nói là “sai khiến”.[133] Nói theo con người thì bên trong ẩn giấu hạnh Bồ Tát, cho nên nói là “bí mật”; bên ngoài hiện [hình tướng] Thanh văn, cho nên nói là “sai khiến”.

Nói về hình tướng thì theo giáo pháp Nhị thừa không tu tập [cầu] thân tướng tốt đẹp, chỉ nói về [các pháp] khổ, vô thường và bất tịnh, cho nên nói là “hình dung dáng vẻ tiều tụy”. Nói về người thì các vị Bồ Tát ẩn giấu sắc tướng bản môn, thị hiện hình tướng tích môn, không phải thuyết rốt ráo liễu nghĩa. Không có mười trí lực, mười pháp vô úy[134] nên gọi là “không chút uy đức”.

“Các ông hãy đi đến nơi ấy”, tức là dùng giáo pháp Tiểu thừa vận dụng theo cơ duyên Tiểu thừa. Giáo pháp Đại thừa nêu thẳng lẽ thật, cho nên nói “gấp rút đuổi theo bắt”. Giáo pháp Tiểu thừa nói lẽ quanh co không hiển lộ rõ ràng [tức thời], cho nên nói là “thư thả”.

“Chỗ kia có việc làm”, [hàm ý] kiến đạo và tu đạo là “chỗ có việc làm”, [việc làm ấy là] dứt trừ mê hoặc.

“Trả giá cao hơn”, [hàm ý trước đây tu tập] 5 giới, 10 nghiệp lành chỉ có thể tránh được 3 đường ác, nay [dạy cho các pháp] 4 chân đế với 12 nhân duyên có thể giúp cho thoát ra khỏi sanh tử. Đây gọi là 1 lần cao hơn. Lại nữa, 6 pháp tu khổ hạnh của ngoại đạo[135] chỉ có thể kiềm chế các nghi hoặc, nay tu tập 4 chân đế có thể đoạn trừ, dứt hết mê hoặc, đạt đến Niết-bàn. Đây gọi là [cao hơn] gấp 2 lần.

“Nếu kẻ nghèo khốn ấy chịu nghe theo.” Nếu có cơ duyên tức là “chịu nghe theo”, liền bày ra việc giáo hóa. Không có cơ duyên tức là chẳng chịu nghe theo, sẽ không bày ra việc giáo hóa.

“Muốn tôi làm việc gì?” Hàng Nhị thừa chỉ muốn trừ mê hoặc và trụ nơi chỗ chứng đắc, không bàn đến việc làm thanh tịnh cõi Phật hay thành tựu cho chúng sanh. Do vậy cho nên đáp: “Thuê ông làm việc hốt phân.”

“Hai người chúng tôi sẽ cùng làm với ông.” Hàng Nhị thừa căn tánh chậm lụt, phải dựa theo giáo pháp để thực hành công hạnh, sau đó mới có thể tu nghiệp. Xét nghĩa theo lý thì [thí dụ này hàm ý] là trí tuệ và chân đế nương theo nhau, xét nghĩa theo người thì hàng [Tiểu thừa] theo pháp quyền và các vị [Bồ Tát] theo pháp thật cùng nhau tu hành.

Ý thứ hai từ câu “Lúc ấy, hai người được sai khiến liền đi tìm người con khốn cùng kia.” [Đây là nói nghĩa đức Phật] xem xét biết là có cơ duyên, cho nên nói là “tìm gặp được rồi”. Phần này nhận hiểu ý nghĩa “rõ biết tâm ý trước đây” trong [kinh văn] phần trước.

Ý thứ ba là câu “nói rõ như lời dặn ở trên”, tức là trình bày việc thuê làm công. Phần này là nhận hiểu [ý nghĩa trong phẩm Thí dụ nói] “khen ngợi ba loại xe đẹp”. Dứt trừ khổ đế, tập đế là “hốt phân”, nhận lấy đạo đế, diệt đế là “nhận tiền công”.

Ý thứ tư là câu “Bấy giờ, người con khốn cùng trước tiên nhận tiền công, sau đó được giao việc hốt phân”, nói việc [người con cùng khốn] bắt đầu làm công việc [hốt phân]. Phần này nhận hiểu ý nghĩa [trong phẩm Thí dụ nói] “hợp với ý thích, các con tranh nhau ra khỏi căn nhà đang cháy”. Hàng Nhị thừa [khởi tâm] ngưỡng mộ, [muốn được] quả mới thực hành tạo nhân, cho nên nói “trước tiên nhận tiền công”.

“Người cha nhìn thấy con [như vậy] thì thương xót mà lấy làm quái lạ.” Quái lạ [vì thấy hàng Nhị thừa] chẳng cầu Phật đạo, thương xót vì [hàng Nhị thừa] chỉ chấp giữ quả A-la-hán. [Do vậy,] chỗ mất thì lớn lao mà chỗ được rất ít ỏi, cho nên nói rằng “quái lạ”.

Đến đây là hết phần xét theo giáo nghĩa để nhận hiểu [trong phân đoạn thứ nhất tương ứng với] các phần thuyết chánh pháp và thuyết thí dụ.

Phân đoạn thứ hai từ câu “lại một ngày kia” trở đi, được nhận hiểu qua phân tích suy xét. [Phần này nói nghĩa] trí tuệ linh diệu [của Phật] đã soi chiếu [thấy biết căn cơ chúng sanh] từ lâu nên thiết lập các pháp quyền biến phương tiện thích hợp, vất vả tùy thuận [chúng sanh để giáo hóa], không phải chỉ đến khi [thành đạo] dưới gốc cây bồ-đề mới bắt đầu thấy biết nhân duyên [của chúng sanh], như bên trên đã nói.

Phân đoạn này có 4 ý. Thứ nhất, “lại một ngày kia” là hàm ý nhận hiểu ý nghĩa phần trước nói [Phật] dùng quyền trí từ lâu đã muốn vận dụng thích hợp. Thứ hai, “thấy hình dáng con mình gầy ốm tiều tụy” [là hàm ý nhận hiểu ý nghĩa phần trước nói đức Phật] từ lâu đã biết phương tiện thích hợp là “những món đồ chơi tốt đẹp” [mà chúng sanh ưa thích]. Thứ ba là “cởi bỏ những [y phục] tốt đẹp, mặc vào [y phục] thô xấu”, hàm ý nhận hiểu phần trước nói từ lâu đã biết nên khen ngợi “ba loại xe đẹp”. Thứ tư là [ông trưởng giả] đích thân dạy con làm, hàm ý nhận hiểu nghĩa từ lâu đã biết [việc làm ấy] hợp với ý thích nên con sẽ chịu làm.

Nay [giải thích] ý thứ nhất. Chữ “lại” là cách nói trang trọng, hàm nghĩa sắp nhận lãnh ý nghĩa pháp thân từ lâu đã rõ biết căn cơ Đại thừa hoặc Tiểu thừa [của chúng sanh] (nghĩa là Nhất thừa hoặc Tam thừa) để thi hành việc giáo hóa. Vì lặp lại ý Phật cho nên trước tiên nêu ra chữ “lại”.

“Một ngày khác” [là nghĩa] hàng Nhị thừa tự cho pháp phương tiện là [pháp của] mình, không phải pháp Nhị thừa gọi là pháp “khác”, suy ra là pháp thân. “Ngày” là nói nghĩa hợp thời, cũng có nghĩa [mặt trời soi chiếu],[136] tức là trí tuệ. Nương vào thời pháp thân, dùng trí tuệ soi chiếu cơ duyên, cho nên nói là “ngày khác”. Nếu theo nghĩa này thì trí chân thật soi chiếu pháp chân thật, đó là [hướng đến] tự thân; trí quyền thừa soi chiếu pháp phương tiện, đó là [hướng đến] người khác. Theo giáo nghĩa mà nhận hiểu thì hóa thân vận dụng sự việc là trí soi chiếu tự thân, không phải hóa thân vận dụng sự việc thì là trí soi chiếu người khác. Nếu xét theo nghĩa [đối với] đức Như Lai thì quyền trí hay thật trí tự hành đều gọi là [hướng vào] bên trong; chỗ soi chiếu giáo hóa chúng sanh của Như Lai thì pháp quyền hay pháp thật pháp đều là [hướng ra] bên ngoài. [Còn nếu phân biệt] các pháp quyền thật Như Lai soi chiếu, thì soi chiếu pháp thật là tự thân, soi chiếu pháp quyền là [hướng đến] người khác. Đó là xem xét nhận hiểu sự hợp thời của pháp thân.

Vận dụng trí tuệ quyền biến để giáo hóa chúng sanh, soi chiếu nơi cơ quyền biến để biết có hoặc không, soi chiếu chỗ vận dụng pháp quyền để biết là có thể hoặc không thể. Tất cả đều là chỗ soi chiếu của trí tuệ quyền thừa, cho nên nói là “một ngày khác”. Nếu theo nghĩa này, chỉ căn cứ giáo pháp để nhận hiểu thì việc giáo hóa chúng sanh là quyền biến, nên hàng Nhị thừa gọi là “việc của mình”; tham cứu sâu xa để nhận hiểu cả hai pháp quyền tự, tha không phải là việc của hàng Nhị thừa, cho nên gọi là “[việc của người] khác”. Tuy có hai ý đều từ nghĩa “ngày khác”, nhưng nay chỉ nói theo cách nhận hiểu của hàng Nhị thừa. Lại theo kinh văn nói “một ngày khác”, như đã cứu xét nhận hiểu thì đó là nói từ trong pháp thân soi chiếu căn cơ [chúng sanh].

“Nhìn qua song cửa sổ”, [hàm ý] cách nhìn thiên lệch ắt rơi vào Tiểu thừa, là biểu trưng cho trí quyền biến [của Phật] soi chiếu căn cơ [của hàng Nhị thừa].

“Xa xa thấy hình dáng con” là nói đã từ bỏ Tiểu thừa nhưng với Đại thừa còn chưa quyết định, cho nên nói là “xa xa”.

“Thấy hình dáng con”, [hàm nghĩa] từ xa xưa đã gieo trồng hạt giống Đại thừa, cho nên gọi là “con”; dự định dùng Đại thừa [để giáo hóa], cho nên nói là “thấy”.

“Nhìn qua song cửa sổ” thì tầm nhìn hẹp hòi và thiên lệch, [hàm ý] chưa thích hợp để giáo hóa bằng Đại thừa, cho nên tạm dừng [việc giáo hóa bằng] Đại thừa mà thiết lập [giáo pháp] Tiểu thừa.

Ý thứ hai từ câu “gầy ốm tiều tụy” trở đi, [hàm ý] nhận hiểu nghĩa trước đây đã biết [chúng sanh] có tâm Tiểu thừa, nghĩa là “ưa thích đồ chơi đẹp”. Vì ít tu nhân trí lực nên nói là “gầy”, ít tu nhân phước lực nên nói là “ốm”. Trong tâm khiếp sợ vô thường là “tiều”, bên ngoài hứng chịu 8 nỗi khổ là “tụy”. Bốn trụ địa[137] là “phân dơ”, si mê không trí tuệ là “bụi đất”.

Ý thứ ba từ câu “Ông liền cởi bỏ hết chuỗi ngọc…” trở đi, [hàm ý] nhận hiểu nghĩa trước đây đã biết là nên khen ngợi “ba loại xe đẹp ít có”. “Cởi bỏ y phục tốt đẹp” ví cho việc ẩn giấu báo thân với vô lượng công đức; 42 giai vị[138] cùng với giới, định, tuệ, đà-la-ni… là chuỗi ngọc anh lạc; pháp nhẫn tịch diệt[139] là y phục mềm mại thượng hạng; các tướng tốt và vẻ đẹp[140] là những đồ trang sức uy nghiêm. Nếu y phục, dung mạo đẹp đẽ sang trọng thì đứa con sẽ kinh sợ. [Điều này hàm ý] hàng Nhị thừa không nên nhìn thấy những tướng tốt đẹp [của Phật vì sẽ kinh sợ], cho nên “cởi bỏ”. “Mặc vào người y phục thô xấu dơ bẩn”, [hàm ý đức Phật] thị hiện thân hình một trượng sáu thước [ở cõi phàm] là “thô”; [thị hiện] các pháp sanh nhẫn, pháp nhẫn[141] là “xấu”. “Thân thể bám đầy bụi đất”, [hàm ý đức Phật] thị hiện có phiền não với đủ các pháp hữu vi, hữu lậu.

Từ câu “Tay phải cầm dụng cụ hốt phân” trở đi, [hàm ý] chỉ nói việc đối trị các pháp hữu lậu, kiến hoặc và tư hoặc, không bàn đến trí tuệ thanh tịnh ở các giai vị [Bồ Tát]. Tay trái ví cho pháp chân thật, tay phải ví cho pháp quyền biến. Pháp quyền vận dụng phương tiện để dễ dàng tự mình dùng pháp này dứt trừ phiền não, thành tựu quả Phật. Lại cũng dùng pháp này để giáo hóa chúng sanh.

“Dáng vẻ như có điều lo sợ”, [hàm ý đức Phật] thị hiện cũng lo sợ sanh tử giống như chúng sanh, lại cũng [thị hiện] nhận lãnh những nghiệp báo xấu [như chúng sanh].[142]

Ý thứ tư là từ câu “Đến nói với những người làm công” trở đi, là thí dụ [ông trưởng giả tạo điều kiện] gần gũi để dạy con. Thí dụ này [hàm ý nói đến] 7 nhóm pháp môn trong 37 phẩm đạo,[143] dùng để hiển bày tướng trừ phẩn uế. [Phần này] nhận hiểu ý nghĩa phần trước nói về tâm ý các con “tất cả đều hối hả đem hết sức mình, chen lấn nhau mà chạy nhanh ra khỏi căn nhà đang cháy”.

Thứ nhất, câu “nói với những người làm công” là ví cho 4 niệm xứ, là [nói về] giai vị ngoại phàm.[144]

Thứ hai, câu “hãy siêng năng làm việc, đừng biếng nhác dừng nghỉ” là ví cho 4 chánh cần.

Thứ ba, câu “Này chàng trai! Con hãy thường xuyên ở đây làm, đừng bỏ đi nơi khác” là ví cho 4 như ý túc.

Thứ tư, câu “chớ nên lo lắng gì cả” gọi là thí dụ an ủi, ví cho 5 căn.[145]

Thứ năm, từ câu “vì sao vậy” trở đi gọi là thí dụ không có 5 điều lỗi,[146] ví cho 5 lực.[147]

Từ câu thứ hai đến câu thứ năm là [nói về] bậc thứ hai, bước lên các giai vị nội phàm.

Thứ sáu, câu “Ông trưởng giả nói vậy rồi liền đặt cho tên mới và gọi là con mình” là ví cho 8 chánh đạo.[148]

Thứ bảy, từ câu “tuy vui mừng được sự đãi ngộ này”, gọi là thí dụ “dạy con phải thường trừ phẩn uế”, ví cho 7 giác chi.[149]

Hai câu thứ sáu và thứ bảy là [nói về] bậc thứ ba, vào các thánh vị.

Nay bắt đầu giải thích câu thứ nhất, “nói với những người làm công”, ví cho việc [đức Phật] thuyết Tạng giáo, chỉ bày giáo pháp 4 niệm xứ, giống như dụng cụ để dọn phân dơ, tức là phá trừ cảnh giới phiền não trói buộc.

Kinh Di giáo nói rằng: “Thường y theo [4 pháp] niệm xứ mà tu tập thì có thể phá trừ được 4 sự điên đảo.”[150]

Phần này nhận hiểu [ý nghĩa] trong thí dụ căn nhà đang cháy ở phần trước nói “hợp với ý thích của các con nên vui mừng phấn chấn”, tức là [biểu trưng] cho trí tuệ có được nhờ nghe pháp.[151]

Câu thứ hai “hãy siêng năng làm việc, đừng biếng nhác dừng nghỉ” tức là dạy phải chuyên cần tu tập 4 pháp niệm xứ. Nếu khởi lên sự biếng nhác thì không thể dứt trừ 2 điều xấu ác, không thể khởi sanh 2 điều thiện.[152] Dùng 2 sự chuyên cần [dứt ác, làm thiện] nên có thể làm phát sanh lửa nóng của noãn vị,[153] so sánh với hình ảnh “chen lấn nhau mà chạy nhanh ra khỏi” trong thí dụ căn nhà đang cháy [thì là biểu trưng cho việc] thể nhập trí tuệ tu tập thuộc noãn vị. Việc [ông trưởng giả nhờ] dùng phương tiện nên đến gần được con là ví như người tu tập 4 niệm xứ chưa được ngọn lửa chân lý sưởi ấm trong tâm, giống như người lạ bên ngoài không thể gần gũi [bên trong], đến lúc bắt đầu đạt được phương tiện của noãn vị mới có thể gần gũi.

Câu thứ ba “Này chàng trai!” Gọi tiếng “này” là gợi sự chú ý, đánh thức, cũng là tiếng quở trách. Phần trước trong 4 pháp chánh cần đều là pháp động, là pháp của trí tuệ, nên ví như “chàng trai”, tức là tánh dương, [khác với] 4 pháp như ý túc[154] là pháp an định, ví như người nữ là tánh âm.

Vì 4 pháp chánh cần thôi thúc [tâm] động không thể tương ưng với [tánh] chân nên [gọi “này” để] thức tỉnh, quở trách, làm cho bỏ sự tán loạn, thể nhập sự an tĩnh. Cho nên nói “Này chàng trai! Con hãy thường xuyên ở đây làm, đừng bỏ đi nơi khác.” [Tu tập] 4 niệm xứ và 4 chánh cần là các pháp động, không chuyên nhất nên không gọi là thường. Trong [sự tu tập] 4 pháp như ý túc thì sự an định chẳng khác biệt với [ngoại] duyên, tư duy tức là an định, tư duy tức là dứt trừ; an định và dứt trừ là chuyên nhất, cho nên là thường. Không phân vân xáo động, cho nên nói là “đừng bỏ đi nơi khác”. Phần này vẫn còn nằm trong ý “chen lấn nhau mà chạy nhanh ra khỏi”, tức là [biểu trưng cho] giai vị đảnh pháp.

“Sẽ trả thêm nhiều tiền hơn” là nói tâm ý trong sự quán chiếu [ở giai vị] noãn pháp không thể phát khởi [trí] chân thật, còn tâm ý trong sự quán chiếu của 4 pháp như ý túc thì có thể phát khởi trí vô lậu [chân thật], cho nên nói “thêm nhiều tiền hơn”.

“Những gì con cần đến” là nói các pháp thiện hữu lậu hoặc vô lậu,[155] các pháp trợ đạo và chánh đạo, tất cả đều từ pháp quán như ý túc mà cầu, khi cần đến liền có. Thể của tứ thiền hàm chứa [18] công đức[156] [nên ví] như “vật chứa”; sanh không[157] còn thô thiển, ví như “gạo”; pháp không tinh tế, ví như “bột gạo”. Những pháp này là chánh đạo. Từ pháp quán tứ đế trở xuống đến 16 pháp quán, [thấy rõ] vô thường ví như “muối”, khổ ví như “giấm”… Các pháp này là trợ đạo. Cũng giống như [chỉ riêng] gạo hay bột gạo thì khó ăn được, cần phải có thêm [các gia vị như] muối, giấm; riêng pháp chánh đạo thật khó hiển bày, nên cần các pháp trợ đạo giúp thêm vào.

“Chớ nên tự nghi ngại” là tóm kết lại [ý nghĩa] phần trên nói về chánh đạo và trợ đạo, xét kỹ đều là nằm trong các pháp quán như ý túc, cho nên nói “chớ nghi”; quyết định có thể làm được, như tưởng đến vật của mình, nên nói “chớ ngại”.

“Ta cũng có một nô bộc già hèn kém.” [Đây là nói ý] nếu muốn dùng ngay thần thông để thay cho [sức lực của] tay chân thì cũng giống như sai khiến kẻ nô bộc. Trong các pháp quán như ý túc cũng có thần thông, nhưng thần thông ấy còn yếu ớt kém cỏi nên so với “nô bộc già hèn kém”. Tuy chẳng phải hạng trai trẻ cường tráng nhưng cũng có thể sai khiến. Lại cũng như dùng chánh đạo cầu chân lý nhưng [sự tu tập] chánh đạo còn yếu ớt chưa thể phát khởi [tánh] chân, nên muốn tu tập các pháp trợ đạo như là 9 pháp quán tưởng,[158] 10 pháp quán tưởng,[159] 8 pháp giải thoát[160] v.v. Các pháp trợ đạo ấy ví như nô bộc để sai khiến. Trong các pháp quán như ý túc cũng có những pháp này. Nếu [tu tập] được các pháp trợ đạo để trợ giúp chánh đạo thì sẽ thành bậc cộng giải thoát.[161]

Câu thứ tư “hãy tự yên lòng”, [hàm ý] có được 5 căn lành[162] an ổn nên khó bị hư hoại. “Ta như cha của con”, [hàm ý các giai vị như] nhẫn vị, thắng giải hạnh vị[163] tuy đã gần với tánh chân, dù tương tợ nhưng chưa phải thật, cho nên nói là “như cha” nhưng cũng là “như con”. “Chớ nên lo lắng” là khiến cho tâm ý được an ổn, tức là phá trừ kiến hoặc và tư hoặc.

Câu thứ năm “Ta nay tuổi cao già yếu mà con thì tuổi trẻ tráng niên”, hàm nghĩa đức Phật đã hoàn tất con đường đạo, đầy đủ tất cả trí đức và đoạn đức, cho nên nói là “tuổi cao già yếu”. [Hàng Thanh văn] chỉ mới khởi đầu con đường đạo, chưa có trí đức và đoạn đức, cho nên nói là “tuổi trẻ tráng niên”. Đây là nói về nhẫn pháp vị. Không có 5 điều lỗi, [nghĩa là không dối trá, không lười nhác, không nóng giận, không thù hận, không nói lời than oán. Điều này hàm ý] đạt được 5 lực, lìa 5 pháp xấu ác. Có được năng lực của niềm tin (tín lực) nên không dối trá; có được năng lực của sự tinh tấn (tấn lực) nên không lười nhác; có được năng lực của sự nhiếp phục ý niệm (niệm lực) nên không nóng giận; có được năng lực của sự an định (định lực) nên không thù hận, có được năng lực của trí tuệ (tuệ lực) nên không nói lời than oán.

“Những người làm thuê khác”, hàm nghĩa xa là chỉ cho hạng ngoại đạo, [bám giữ] các tà kiến mà tìm cầu chân lý nên gọi là “người làm thuê khác”; hàm nghĩa gần là chỉ cho 4 giai vị như noãn vị, [đảnh vị, nhẫn vị, thế đệ nhất vị] chưa trừ bỏ được 5 điều lỗi [như trên], nên cũng gọi là “người làm thuê khác”. Kinh văn chỗ này nói không có 5 lỗi, tức là nói [đã đạt được] 5 lực.

“Từ nay về sau ta xem con như con ta sinh ra.” [Đây là nói việc người tu tập thành tựu nhẫn vị có 3 phẩm.] Hạ phẩm nhẫn [còn quán sát 16 hành tướng] trong 16 sát-na, thời gian như vậy là dài. Trung phẩm nhẫn tuy sự quán xét còn rất ít, [chỉ còn 1 hành tướng trong cõi Dục], nhưng vẫn chưa đến mức còn 1 sát-na. Nếu đạt đến thượng phẩm nhẫn thì tâm thế gian chỉ còn duy nhất 1 sát-na sau cùng.[164] Vì đã gần đạt được tánh chân, kế cận thánh vị, cho nên giai vị này được [chư Phật] ví như “con ta sinh ra”, tức là thế đệ nhất pháp vị.

Câu thứ sáu “Ông trưởng giả liền đặt cho tên mới và gọi là con mình.” [Đây là hàm ý hàng Thanh văn] đạt được 8 chánh đạo, nhập vào giai vị kiến đạo, [ví như những đứa con ông trưởng giả] “chen lấn nhau mà chạy nhanh” [trong phẩm Thí dụ ở phần trước], cho nên nói “gọi là con mình”. [Từ giai vị] thế đệ nhất pháp đạt đến tánh chân không còn lâu, cho nên nói là “liền”. Trong kinh A-hàm nói đến 5 hạng con Phật. Những vị chứng đắc tứ quả [A-la-hán] và Bích-chi Phật được gọi là con chân thật của Phật. Hàng Bồ Tát nếu chưa dứt hết phiền não kết sử thì chưa gọi là con Phật.

Câu thứ bảy “Đứa con cùng khốn ấy tuy vui mừng được sự đãi ngộ này” trở đi là thí dụ “thường giao cho công việc của người làm thuê”. Thí dụ này có nghĩa là, tuy đã [được xem] là con nhưng vẫn chưa dứt hết những suy nghĩ cũ, còn ở giai vị hữu học, chưa dứt hết được mọi khổ nạn, cho nên nói “phải qua 20 năm thường được sai làm việc hốt phân”. Lại nữa, [hàng Thanh văn] cũng tự biết mình chưa thể đảm nhận được việc tiếp nối Đại thừa, chỉ là y theo lời dạy của Phật để tu hành dứt hết khổ não mà thôi. Cho nên nói rằng “vẫn tự cho mình là người hèn hạ từ bên ngoài đến làm thuê”. Nếu như [có người] chứng được sơ quả, [khởi tâm] chán bỏ Tiểu thừa, ưa thích Đại thừa, cơ duyên Đại thừa khởi phát, liền sẽ được trao cho Đại thừa. Lại nữa, chẳng phải đợi đến khi tiến lên dứt hết tàn dư phiền não kết sử, mà ngay khi còn chưa bỏ được chí hướng Tiểu thừa, cơ duyên Đại thừa chưa phát khởi, [đức Phật] cũng đã tạm khiến cho [hàng Thanh văn] y theo giáo pháp [tu hành] để trừ hết lậu hoặc. Cho nên nói rằng “qua 20 năm thường được sai làm việc hốt phân”.

“Hai mươi năm” là nói giai vị kiến đế[165] [phá trừ kiến hoặc phải vận dụng] 1 [trí] giải thoát và 1 [trí] vô ngại,[166] [phá trừ] tư hoặc [phải vận dụng] 9 vô ngại và 9 giải thoát,[167] [cộng là 20 pháp mới trừ dứt kiến hoặc và tư hoặc],[168] cho nên nói “20 năm”. Lại cũng nói rằng, trong 2 đường thấy biết và tư duy suy xét mà dứt trừ phiền não kết sử nên gọi là “20 năm”. Lại cũng nói rằng, [2 phần phiền não gồm] ngũ hạ phần kết và ngũ thượng phần kết[169] gọi là “20 năm”. Lại cũng nói rằng, ở trong giáo pháp Nhị thừa mà dứt trừ tư hoặc, gọi là “20 năm”. Lại cũng nói rằng, nương theo hai người được [ông trưởng giả] sai khiến đến, cùng dứt trừ những phiền não kết sử còn lại, cho nên nói là “20 năm”. Từ lúc có cơ duyên Nhị thừa đến khi chiêu cảm được gặp Phật, cho nên nói từ khi gặp con đến nay đã 20 năm. Nếu như trụ ở giai vị của Nhị thừa để thuyết giảng giáo pháp Đại thừa, thì đây gọi là trong 20 năm đảm nhận việc nhà. Cùng một cách nói là “20” nhưng mỗi cách [giải thích như trên] có nguyên do khác nhau. Chỉ riêng câu này [hàm nghĩa] “tranh nhau ra khỏi căn nhà đang cháy” [như trong phẩm Thí dụ].

KINH VĂN

Qua thời gian đó rồi, trong lòng mới tin cậy lẫn nhau, [người con] tự do ra vào [ngôi nhà ấy] không còn ngăn ngại, nhưng nơi ngủ nghỉ thì vẫn không rời chỗ cũ.

Bạch đức Thế Tôn! Khi ấy ông trưởng giả có bệnh, tự biết mình không bao lâu sẽ chết, liền nói với người con khốn cùng kia: “Cha nay có rất nhiều vàng bạc châu báu, kho chứa tràn đầy, trong đó có những chỗ nhiều hay ít, cần giữ lại hay cho ra, con nên rõ biết tất cả. Lòng cha muốn vậy, con nên làm theo ý cha. Vì sao vậy? Nay cha với con đã là người một nhà, không khác biệt nhau, con phải chú tâm nhiều hơn, chớ để thất thoát [tài sản].”

Bấy giờ, đứa con cùng khổ liền vâng theo lời dạy, nhận lãnh và tìm hiểu rõ biết tất cả tài sản, vàng bạc, châu báu cùng các kho chứa [của ông trưởng giả], nhưng tuyệt nhiên không hề có ý lấy [làm của mình] dù chỉ đáng một bữa ăn, cho đến nơi ngủ nghỉ vẫn không rời chỗ cũ, tâm ý [tự cho mình là] thấp hèn vẫn chưa thể từ bỏ.

Lại trải qua một thời gian ngắn nữa, người cha biết ý con nay đã dần trở nên thông suốt rộng mở, thành tựu được chí khí lớn lao, biết tự chê bỏ tâm ý [tự ti] ngày trước.

Đoạn thứ tư từ câu “Qua thời gian đó rồi…” trở đi là thí dụ “nhận lãnh sự giao phó gia nghiệp”. Thí dụ này [theo hàm nghĩa] gần thì nhận hiểu việc “ban cho [các con] cùng một loại xe lớn” trong thí dụ căn nhà đang cháy, theo hàm nghĩa xa thì nhận hiểu ý nghĩa “vô thượng đạo” trong phần thuyết chánh pháp [ở trước]. Đoạn này chia thành 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn đầu tiên là nghĩa “nhận lãnh” và sau đó tiểu đoạn thứ hai là nghĩa “giao phó”. Mỗi tiểu đoạn đều có 2 phân đoạn, cùng nhận lãnh 4 ý của phần “ban cho [các con] cùng một loại xe” trong thí dụ căn nhà đang cháy, cũng là 4 ý hiển bày pháp thật trong phẩm Phương tiện.

Tiểu đoạn đầu tiên có hai phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất [nói nghĩa] trong lòng [hai cha con bắt đầu] có sự tin cậy lẫn nhau, tức là nhận hiểu nghĩa “[các con được khỏi nạn” [trong phẩm Thí dụ] ở phần trước. Phân đoạn thứ hai [nói nghĩa] ủy thác việc nhà, [khiến cho] dần dần rõ biết thông suốt, tức là thành tựu chí nguyện Đại thừa. Đây là nhận hiểu nghĩa “các con xin ban cho xe” [trong phẩm Thí dụ] ở phần trước.

Tiểu đoạn thứ hai có 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất nói nghĩa “giao phó gia nghiệp”, tức nhận hiểu nghĩa “ban cho cùng một loại xe lớn”. Phân đoạn thứ hai nói nghĩa “được giao phó nên vui mừng”, là nhận hiểu nghĩa “các con được xe vui mừng” [trong phẩm Thí dụ].

Do tâm ý có sự tin cậy lẫn nhau nên [người con] được ủy thác cho mọi việc nhà. Việc nhà đã được am tường thông suốt tất nhiên rõ biết tất cả, [đó là] thành tựu chí nguyện Đại thừa. Do ý chí đã thông suốt rộng mở nên được giao phó gia nghiệp. Được giao phó gia nghiệp cho nên vui mừng.

[Cho nên nói về] nguyên do thì có gần, có xa. Nếu trước đó không sai bảo công việc làm thuê trả tiền công mỗi ngày thì làm sao có lúc được tin cậy lẫn nhau, để rồi được ủy thác việc nhà, giao phó gia tài. Xét trong giáo pháp thì hợp với nghĩa nhờ nơi Tạng giáo mà đoạn trừ phiền não kết sử, đủ sức nghe giáo pháp Đại thừa cùng nhận chịu sự chê trách [như trong kinh] Tịnh Danh,[170] mới chuyển sang được chỉ dạy giáo pháp Bát-nhã, dẫn đến việc được giao phó gia tài [Chánh pháp]. Vậy nên biết rằng, giao việc làm thuê trả tiền công mỗi ngày tức là nguyên do xa. Đạt sự tin cậy, được ủy thác việc nhà tức là nguyên do gần.

Lại nữa, trong [phần giải thích về] thí dụ dẫn dụ ở trước, khi nhận hiểu y theo giáo nghĩa [có đề cập đến] khởi đầu từ [ý nghĩa Phật thành đạo] dưới cây Bồ-đề cho đến sau cùng [là nghĩa “các con tranh nhau] ra khỏi căn nhà [đang cháy]”; lại cũng có sự nhận hiểu qua phân tích suy xét [đề cập đến], khởi đầu từ nghĩa pháp thân cho đến sau cùng là nghĩa dứt trừ hết tư hoặc. Nay phần nhận hiểu này cũng có hai [cách nhận hiểu như vậy].

Trước tiên là nhận hiểu qua phân tích suy xét [ý nghĩa] từ bi, [biểu trưng cho] 4 vị [sữa tươi, sữa đặc, váng sữa sống, váng sữa chín] cùng điều hòa thuần thục, đến sau cùng là nhận lãnh sự giao phó gia tài, [biểu trưng cho] một vị [đề hồ] rốt ráo. [Như vậy,] hợp nghĩa từ xa đến gần, từ trước về sau để luận bàn là đủ 5 vị.[171]

Vì sao vậy? [Trong tiểu đoạn thứ nhất của đoạn thứ ba ở trên nói] “liền sai một người hầu cận”. Lời người hầu cận nói ra là ví cho giáo pháp Hoa nghiêm thẳng tắt viên mãn. Đây là phần giáo pháp [được đức Phật] thuyết dạy trước tiên. “Người hầu cận” ví cho loài bò, lời người ấy nói ra ví cho sữa bò. Xét trong giáo pháp thì phù hợp với nghĩa từ nơi đức Phật [nói ra] mà có 12 bộ kinh, tức là vị ban đầu [của sữa tươi]. [Đức Phật] vận dụng giáo pháp này, dự định là thích hợp với hàng Nhị thừa, nhưng vì không có cơ duyên nên họ không thể thọ nhận, [cho nên nói] “ngã lăn ra đất bất tỉnh”. [Giáo pháp] khi ấy còn giữ nguyên phẩm tính ban đầu như vị của sữa tươi.

Tiếp theo giải thích nghĩa “bí mật sai khiến hai người” trong tiểu đoạn thứ hai cùng đoạn] nói đến việc “[thuê] hốt phân”. Đây là ví cho việc [đức Phật] sau khi tạm dừng việc giáo hóa bằng Đại thừa thì đến Lộc uyển thuyết dạy ba thừa. Người tin nhận giáo pháp Tiểu thừa liền được chuyển phàm thành thánh, giống như sữa tươi được chuyển thành sữa đặc. Xét trong giáo pháp thì phù hợp với việc từ nơi 12 bộ kinh mà phát xuất khế kinh,[172] tức là vị thứ hai, [ví cho thời thuyết pháp A-hàm].

Tiếp đến giải thích câu “trong lòng mới tin cậy lẫn nhau, tự do ra vào không còn ngăn ngại”. Đây là ví cho sau thời A-hàm thuyết Tạng giáo, [đức Phật] thuyết giảng thời Phương đẳng, [trong đó] kinh Tịnh Danh tán dương Đại thừa, chê trách Tiểu thừa, hàng Nhị thừa nghe giáo pháp Đại thừa mà không hủy báng, nghe chê trách Tiểu thừa mà không thối tâm. Đó là nhờ [hàng Nhị thừa] đã vận dụng Tạng giáo dứt trừ được phiền não kết sử, [ví như đứa con] được nhận tiền công mỗi ngày, nên được an nhiên trước sự khen chê. Nếu như chưa dứt trừ được phiền não kết sử thì không thể chịu được khi nghe tán dương Đại thừa, cũng như phần trước nói “không thể nhận lãnh pháp khuyến tấn”; cũng không thể chịu được khi nghe chê trách Tiểu thừa, cũng như phần trước nói “không thể nhận lãnh pháp răn dạy”. Nhưng nay [hàng Thanh văn nghe tán dương Đại thừa] mà không hủy báng, [nghe chê trách Tiểu thừa] mà không thối tâm, chính là “trong lòng đã tin cậy” nên mới được như vậy. Tự thân đã chứng đạt giáo pháp Tiểu thừa ắt sẽ tin cậy giáo pháp Đại thừa là không hư dối. Đã được “trả tiền công” là Niết-bàn [của Tiểu thừa] nên dù tự thân bị chê trách nhưng không khởi sân hận, tuy [nghe giáo pháp Đại thừa] không phải việc của mình [có thể hiểu được] nhưng không nghi ngờ hủy báng. Tâm ý như vậy đã thuần thục, giống như từ sữa đặc chuyển thành bơ [sống]. Xét trong giáo pháp thì phù hợp với việc từ nơi khế kinh mà phát xuất các kinh Phương đẳng, tức là vị thứ ba, [ví cho thời thuyết pháp Phương đẳng].

Tiếp theo giải thích ý nghĩa từ câu “ông trưởng giả có bệnh, tự biết mình không bao lâu sẽ chết” trở đi. Đây là ví cho việc từ sau thời Phương đẳng, “trong lòng đã tin cậy lẫn nhau, ra vào không còn ngăn ngại”, nên được “giao phó cho mọi công việc nhà”, [tức là được Phật] giao cho nhận lãnh giáo pháp, vì các vị Đại Bồ Tát mà thuyết giảng giáo pháp Đại Bát-nhã. Đã được [người cha] giao cho “nhận lãnh rõ biết tất cả tài vật trong nhà”, tức là [hàng Thanh văn nay đã] nhận hiểu thông suốt các pháp môn [Đại thừa], tâm ý sáng suốt, tài giảng thuyết càng khiến [người nghe] thêm ngưỡng mộ ưa chuộng, chỉ tự hận mình đã trụ nơi Tiểu thừa [nên quả vị Đại thừa] chẳng có phần mình, nay được sự thay đổi khai mở chấp thuận ban cho [quả vị Đại thừa], có lẽ nào lại không vui sao! Do vậy nên tâm ý dần dần thông suốt mở rộng, thành tựu chí nguyện Đại thừa, giống như từ váng sữa sống làm thành váng sữa chín, nghĩa là từ thời Phương đẳng mà phát xuất các kinh Đại Bát-nhã, tức là vị thứ tư, [ví cho thời thuyết pháp Bát-nhã].

Kế đến nói “lúc sắp lâm chung liền gọi người con ấy đến…” Đây là ví cho việc từ sau thời Bát-nhã, đã nói rõ về tự tánh sẵn có,[173] [tức là] “xác định quan hệ cha con”, quy cả ba thừa về một [Phật thừa]; “giao phó gia tài”, tức là thụ ký [cho sẽ thành Phật], thuyết giảng giáo pháp Pháp hoa, khai mở tri kiến Phật, chỉ bày tướng chân thật, [khiến cho] hàng Bồ Tát dứt hết nghi ngờ, hàng Thanh văn [được thụ ký sẽ] làm Phật, [do vậy] tất nhiên sẽ theo đúng như sự diệt độ của Như Lai mà tự mình diệt độ, giống như từ váng sữa chín chuyển thành đề hồ, từ nơi thời thuyết pháp Đại Bát-nhã phát xuất Đại Niết-bàn, tức là vị thứ năm, [ví cho thời thuyết pháp Pháp hoa và Niết-bàn].

Phần phân tích để nhận hiểu về việc 4 vị đại đệ tử hiểu sâu xa ý Phật, trong ý nghĩa một lần giáo hóa [của đức Phật phải phương tiện thiết lập 5 thời thuyết pháp] ví như 5 vị [của sữa], trước sau đã lần lượt theo [ý nghĩa] kinh văn nêu ra như trên.

[Nay phân tích tiểu đoạn thứ nhất,] phần kinh văn nói về “nhận lãnh việc nhà” lại chia làm hai phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất nói việc [cha con bắt đầu] “tin cậy lẫn nhau”. Phân đoạn thứ hai nói việc [người cha] “sai con nhận lãnh mọi công việc trong nhà”.

Phân đoạn thứ nhất nói việc “tin cậy lẫn nhau” lại có hai ý. Ý thứ nhất nêu nêu rõ sự tin cậy lẫn nhau, ý thứ hai nêu việc [người con] vẫn tiếp tục ở nơi chỗ cũ.

Nay giải thích ý thứ nhất. Nói “lẫn nhau” tức là có sự hỗ tương tin cậy qua lại. Đây là nói việc [hàng Thanh văn tu tập] trong giáo pháp Tiểu thừa[174] được “trả tiền công” là Niết-bàn [của Tiểu thừa], điều đó vốn đã không phải là hư vọng, nay [được đức Phật giao cho việc] vì các vị Bồ Tát thuyết pháp Đại thừa, lại cũng không phải là hư vọng. Đây là ý nghĩa “con tin cậy cha”. Đức Phật rõ biết [chúng Thanh văn] này đã dứt trừ kiến hoặc và tư hoặc, nghe [giáo pháp Đại thừa] ắt không phỉ báng; không còn lậu hoặc nên căn tánh sáng suốt nhanh nhạy, khi nghe [giáo pháp Đại thừa] ắt sanh khởi lòng tin. Đây là ý nghĩa “cha tin cậy con”. Do [niềm tin] này nên [hàng Thanh văn] mới thấy được thân tôn quý kỳ đặc[175] [của Phật]; nghe được giáo pháp Đại thừa, đó gọi là “vào”. [Hàng Thanh văn] lại bị chê bai quở trách vì vẫn còn nhìn thấy thân một trượng sáu thước[176] [của Phật], vẫn còn thuyết pháp Tiểu thừa, đó gọi là “ra”. [Đối với cả] Đại thừa và Tiểu thừa đều “ra vào” như vậy, không còn ngăn ngại.

Ý thứ hai nói “nhưng về nơi ngủ nghỉ thì vẫn không rời chỗ cũ”. Đây là nói [hàng Thanh văn] tuy đã được “tự do ra vào không ngăn ngại”, được nghe giáo pháp Đại thừa, nhưng luôn cho rằng [Đại thừa] là việc của Bồ Tát, chẳng có phần trí tuệ của mình, cho nên không chịu xoay chuyển Tiểu thừa hướng về Đại thừa, vẫn còn ở bậc A-la-hán, không nói rằng tương lai sẽ được làm Phật. Đây là nhận hiểu giáo pháp trong các kinh Đại tập, Tịnh Danh…, là phần giáo pháp ví như vị váng sữa sống (sanh tô).

Phân đoạn thứ hai từ câu “Bạch đức Thế Tôn! Khi ấy ông trưởng giả có bệnh…” trở đi, nói nghĩa “ủy thác mọi việc trong nhà”. Đây là nhận hiểu ý nghĩa trong Đại phẩm [Bát-nhã], đức Phật sai khiến [hàng Thanh văn] thuyết giảng giáo pháp Bát-nhã, tức là phần giáo pháp được ví như vị váng sữa chín (thục tô).

Phân đoạn này lại có 2 ý. Ý thứ nhất là [ông trưởng giả] sai khiến [người con] phải rõ biết mọi việc trong nhà, ý thứ hai là [người con] nhận lời sai khiến nên rõ biết mọi việc trong nhà. Hai ý này, mỗi ý đều có 4 tiểu ý.

Ý thứ nhất có 4 tiểu ý. Thứ nhất là nêu lên thời điểm; thứ hai là [ông trưởng giả] chính thức sai khiến [người con] tìm hiểu mọi việc trong nhà; thứ ba là khuyên con nên làm theo ý muốn của mình; thứ tư là dặn dò đừng để cho thất thoát [tài sản].

Tiểu ý thứ nhất nói “không bao lâu sẽ chết”, [đây là hàm ý] khi có cơ duyên thì [đức Phật] ứng hiện, gọi là sanh ra; khi cơ duyên đã hết thì rời đi, gọi là chết. Nay cơ duyên giáo hóa đã sắp dứt, nên không bao lâu nữa [đức Phật] sẽ rời đi.

Tiểu ý thứ hai từ câu “Nói với người con khốn cùng kia: Cha nay có rất nhiều…” trở đi, là sai khiến [người con] phải tìm hiểu rõ biết mọi việc trong nhà. “Vàng” là ví cho chân lý của Biệt giáo, “bạc” là ví cho chân lý của Thông giáo. Chân đế được giảng giải trong Đại phẩm [Bát-nhã] cũng không ngoài hai chân lý này nhưng lại nói là “có rất nhiều”. Chân lý vốn không phải nhiều, nhưng xét về pháp môn thì có đủ các loại khác nhau, cho nên cũng có thể nói là nhiều. Ví như lẽ không chẳng hề có sự phân chia thành 18 loại, nhưng xét theo việc phá trừ 18 pháp [sai lầm] nên gọi là 18 pháp không. Trong phẩm Khuyến học [của Đại phẩm Bát-nhã] nêu rõ, tất cả các pháp môn đều là châu báu. Pháp định là “kho”, tức là 108 pháp tam-muội; pháp tuệ là “chứa”, tức là cảnh giới của 18 pháp không. Hai loại “kho chứa” định và tuệ của Thông giáo và Biệt giáo bao hàm tất cả thiền định và trí tuệ, không hề khuyết thiếu. Bên trong đầy đủ, bên ngoài tràn trề, cho nên nói là “tràn đầy”.

“Trong đó có những chỗ nhiều hay ít”, đây là nói việc thuyết giảng giáo pháp Bát-nhã có 2 cách, hoặc giảng rộng hoặc nói tóm lược. Bồ Tát thực hành pháp Bát-nhã nên rõ biết cả 2 hình thức tóm lược và giảng rộng. Nói tóm lược tức là “ít”, giảng rộng tức là “nhiều”. Tự mình hành trì là “giữ lại”, giáo hóa người khác là “cho ra”. Trong Đại phẩm Bát-nhã, [Phật dạy hàng Thanh văn], “các ông nên vì Bồ Tát mà thuyết giảng”, cho nên [ở đây] nói “con nên rõ biết tất cả”.

Tiểu ý thứ ba từ câu “lòng ta muốn vậy” trở đi, [ông trưởng giả] khuyên con nên làm theo ý muốn của mình. Chư Phật lấy Bát-nhã làm tâm ý, [hàm ý là] các ông ngày nay nối truyền ngọn đèn [chánh pháp] nên thuyết giảng theo đúng ý Phật. Lại nữa, chỗ nhận hiểu của hàng Nhị thừa vốn do phân tích chia chẻ đạt đến pháp không, nay dạy rằng “nên làm theo ý cha” tức là nên thay đổi cách vận dụng giáo pháp để thể nghiệm đồng một pháp không giống như chư Phật. [Hàng Thanh văn] trước đây được Phật sai khiến nối tiếp ngọn đèn chánh pháp truyền cho người khác, nay mới biết rằng Phật muốn cho chính mình tự nhận biết tánh thể, nên nói rằng “con nên làm theo ý cha”.

“Nay cha với con đã là người một nhà, không khác biệt nhau.” Câu này có 3 ý để giải thích. Thứ nhất là vâng lời Phật dạy mà nói ra nên cùng Phật chẳng khác. Thứ hai là xét theo lý rốt ráo thì các pháp đều như như, nên không có khác biệt. Tu-bồ-đề[177] là “như”, Như Lai là “như”, chỉ là một như chẳng có hai như, cho nên nói “không khác biệt nhau”. Thứ ba là cho đến nay mới biết rằng cả cha và con từ xưa đến nay chân tánh vốn không khác biệt, nhưng hàng Nhị thừa tự cho rằng có thêm vào nên là khác biệt.

Tiểu ý thứ tư từ câu “con phải chú tâm nhiều hơn” trở đi là dặn dò đừng để cho thất thoát. [Có hai ý để giải thích. Thứ nhất, hàm ý là] “các ông vì Bồ Tát thuyết pháp Bát-nhã đừng để cho có sự thiếu sót”. Thứ hai, xét cho cùng lý thì giáo pháp này chính là pháp của các ông sau này sẽ dùng đến, nên đừng để cho thiếu sót.

Ý thứ hai từ câu “Bấy giờ, đứa con cùng khổ liền vâng theo lời dạy…” trở đi, nói việc [người con] nhận lời sai khiến, cũng có 4 tiểu ý.

Tiểu ý thứ nhất là việc [người con] vâng lời sai khiến [của cha nên tìm hiểu] rõ biết [tất cả mọi việc trong nhà].

Tiểu ý thứ hai nói việc [người con] hoàn toàn không có ý giữ lấy gì [cho mình]. [Đây là hàm ý như] ngài Tu-bồ-đề tuy [vâng lời Phật] thuyết giảng giáo pháp Bát-nhã nhưng tự cho rằng [đối với giáo pháp ấy] mình không có phần.

Tiểu ý thứ ba là câu “vẫn không rời chỗ cũ, tâm ý thấp hèn chưa thể từ bỏ”. [Đây là hàm ý nói hàng Thanh văn] trụ ở giai vị A-la-hán, tuy ngưỡng mộ Đại thừa nhưng cũng chưa nói chắc chắn là muốn làm Bồ Tát.

“Tâm ý thấp hèn vẫn chưa thể từ bỏ” là nói tuy khởi tâm hổ thẹn vì [tu tập] Tiểu thừa nhưng cũng chưa chắc chắn buông xả chỗ chứng đạt theo Tiểu thừa.

Tiểu ý thứ tư, từ câu “Lại trải qua một thời gian ngắn nữa, người cha biết ý con…” trở đi, tức là nhận hiểu thí dụ “các con xin ban cho xe” [trong phẩm thí dụ] ở phần trước. [Đây là nói] hàng Thanh văn đã từ bỏ được tâm [thấp hèn] trước kia, cơ duyên Đại thừa khởi phát nên muốn cầu đạo Đại thừa.

Hỏi: [Trong kinh nói] “một thời gian ngắn”, đó là thời gian nào?

Đáp: Có người nói rằng, sau khi Phật thuyết xong thời Bát-nhã, [hàng Thanh văn] đi đến nơi khác tiếp tục quán chiếu,[178] truy tìm suy xét giáo pháp Đại thừa vừa được nhận hiểu rồi liền tham muốn ưa thích, [khởi tâm nghi ngại] không biết [tánh Phật của mình] đã mất hay không mất,[179] truy tìm suy xét như vậy tức là lúc cơ duyên Đại thừa khởi phát. Từ lúc này đến lúc Phật thuyết thời Pháp hoa không xa, cho nên nói là “một thời gian ngắn”.

[Lại có thuyết khác cho rằng] đang khi Phật nói kinh Vô Lượng Nghĩa thì cơ duyên Đại thừa [của hàng Thanh văn] khởi phát, [cho nên là “một thời gian ngắn”]. Do đâu mà biết được như vậy? Vì trong kinh Vô Lượng Nghĩa nói rằng bảy hạng phương tiện,[180] vô lượng các pháp tiệm hoặc đốn đều từ một pháp sanh. [Hàng Thanh văn] sau khi nghe thuyết dạy như vậy liền suy ngẫm, trước đây [Phật thuyết] Tạng giáo, ba thừa đều từ một pháp ấy sanh. Như vậy thì ba thừa này ắt cũng sẽ nhập thành một. Trong lúc suy nghĩ như vậy thì dần dần [tâm ý] thông suốt mở rộng, tâm Đại thừa liền phát khởi. Cho nên nói là “thành tựu chí khí lớn lao”.

KINH VĂN

“Đến lúc lâm chung, [ông trưởng giả] liền gọi người con ấy đến, rồi triệu tập hết thảy người trong gia tộc và [thỉnh mời] đức vua cùng các vị đại thần, sát-đế-lợi, cư sĩ… cùng đến, rồi tự tuyên bố rằng: ‘Quý vị nên biết rằng, đây chính là đứa con của tôi, do tôi sinh ra. Ngày trước ở nơi thành kia đã trốn tôi mà đi, lưu lạc khổ sở hơn 50 năm. [Xưa nó] vốn tên họ thế này, còn tôi tên họ thế này, trước đây ở thành ấy vẫn thường lo âu tìm kiếm [mãi không gặp], nay bỗng dưng gặp lại tại nơi này. Nó quả thật là con tôi, tôi thật là cha nó. Nay tất cả tiền bạc, tài sản của tôi đều là của nó, và từ trước đến giờ những việc xuất ra nhập vào [trong nhà] nó đều đã rõ biết.’

“Bạch đức Thế Tôn! Lúc bấy giờ đứa con cùng khổ kia nghe cha nói như vậy thì hết sức vui mừng, được điều chưa từng có, tự nghĩ rằng: ‘Ta vốn không hề có tâm mong cầu, nay cả kho tàng quý báu này tự nhiên tìm đến.’

Tiểu đoạn thứ hai là từ câu “Đến lúc lâm chung…” trở đi, nói việc [ông trưởng giả] chính thức giao phó gia tài sự nghiệp. Phần này chia làm 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất nói việc [người cha] giao phó sự nghiệp, phân đoạn thứ hai là [người con được giao phó nên] vui mừng.

Phân đoạn thứ nhất có 4 ý. Ý thứ nhất nêu thời điểm giao phó sự nghiệp; ý thứ hai là gọi con đến và triệu tập mọi người tụ họp để làm chứng; ý thứ ba là tóm kết, [công bố] việc cha con gặp nhau; ý thứ tư là chính thức giao phó gia tài sự nghiệp.

Ý thứ nhất nêu thời điểm giao phó, “đến lúc lâm chung” là nêu rõ thời điểm nhân duyên. [Đây là hàm ý] cơ duyên giáo hóa [của Phật] đã sắp hết, tức là thời điểm sau 8 năm thuyết kinh Pháp hoa tại Linh Sơn, [đến lúc] đức Phật báo trước [với đại chúng] sẽ nhập Niết-bàn.

Ý thứ hai từ câu “liền gọi người con ấy đến” trở đi, nói việc tụ họp mọi người. [Đây là hàm ý] những đệ tử đã từng được giáo hóa ở nơi hai vạn ức đức Phật [trước đây] gọi là “con”, tức là những người có cơ duyên Đại thừa thuần thục trong mười phương cùng vân tập. [Tức là tương hợp với] phần trước nói bốn chúng vây quanh [đức Phật].

“Triệu tập hết thảy người trong gia tộc”, các nhà cựu giải cho rằng, “người trong gia tộc” là ví cho phân thân [của Phật], hàng Bồ Tát thập địa như “quốc vương”, hàng Bồ Tát cửu địa như “đại thần”, hàng Bồ Tát bát địa như “sát-đế-lợi”, hàng Bồ Tát thất địa như “cư sĩ”.

[Các bậc thầy phái Địa luận] phương Bắc[181] thì cho rằng phân thân [Phật] như “thân tộc”, [Phật] Đa Bảo là “quốc vương”, hàng Bồ Tát thập địa là “đại thần”, hàng Bồ Tát bát địa là “sát-đế-lợi”, [hàng Bồ Tát ở giai vị] tam thập tâm[182] là “cư sĩ”.

Nếu [giải thích theo những cách] như vậy, thì vào thời thuyết pháp theo tích môn,[183] cả phân thân [của Phật Thích-ca] và Phật Đa Bảo đều còn chưa xuất hiện, làm sao có thể liên kết như thế?

Các vị ấy lại giải thích rằng, chính vào lúc ngài Xá-lợi-phất còn hoài nghi, trong hội Pháp hoa còn chưa thể khởi sinh lòng tin, cho nên [phân thân của Phật Thích-ca] và Phật Đa Bảo mới cùng lúc hiện đến để chứng minh [làm tin]. Nếu như [đợi đến lúc] nghi hoặc đã trừ, nhận hiểu giáo pháp và khởi sanh lòng tin, đã được Phật thụ ký [cho thành Phật] rồi, thì đâu cần đến [Phật] Đa Bảo [hiện ra] để chứng minh gì nữa? Cho nên biết rằng vào thời thuyết chánh pháp [trong hội Pháp hoa] thì Phật Đa Bảo đã xuất hiện rồi, chỉ có điều là người chép kinh muốn tránh sự trùng lặp nên sắp xếp lại, đưa phần nguyên nhân về sau đó thôi.

Nay cho rằng [việc giải thích] như vậy chỉ là dựa theo [suy nghĩ] thường tình của con người, chẳng lấy gì làm căn cứ. Lúc thuyết pháp theo tích môn là việc ở gần, chưa cần đến sự chứng minh của cổ Phật. Nếu thuyết pháp theo bản môn là việc xa thì tất nhiên trước đó cần phải lấy việc xưa làm chứng. Vậy nên không dùng đến những cách giải thích ấy mà chỉ y theo trong kinh này.[184] Đại lược là như vậy.

Nay cho rằng mười phương Bồ Tát pháp thân thuộc chúng ảnh hưởng là “thân tộc”. Các vị trong chúng ảnh hưởng phần nhiều đều là nghiệp tương đồng với đức Phật Thích-ca ngày xưa, cùng với Như Lai được khai hóa ở nơi hai vạn ức Phật, đối với nhau ắt phải như họ hàng chú bác trong sự tu hành, cho nên giải thích rằng các vị này là “thân tộc”. Về chữ “quốc vương”, tất cả các kinh thuộc tiệm giáo hay đốn giáo, bất cứ chỗ nào giảng đến kinh này cũng đều gọi là “vua của các kinh”. [Giáo pháp] thuận theo cơ duyên làm lợi ích chúng sanh, có lúc hưng thịnh, có lúc suy vi, mỗi một bộ kinh đều khác biệt nhau nên gọi [các kinh] là “quốc”, các kinh đều [xưng tán kinh này] là hơn hết, nên gọi là “vương”. Lại nữa, kinh này kết hợp tương thông với các phần giáo pháp khác, lẽ nào chẳng phải ví như “tụ họp quốc vương”? Cho nên trong kinh Vô Lượng Nghĩa, trước tiên [đối với các pháp] cũng đã thu nhóm gom về.

Các vị thầy khác cũng lập luận rằng, ban đầu Phật thuyết 4 chân đế và 12 nhân duyên, sau đó mới thuyết 12 bộ kinh[185] Phương đẳng, tiếp theo là thuyết Ma-ha Bát-nhã, Hoa nghiêm hải không.[186] [Như vậy kinh] này là rộng gồm tất cả các kinh, dung thông cả tiệm giáo và đốn giáo, tất cả đều hội nhập vào trong kinh này, cho nên gọi nói là “tụ họp quốc vương”.

Các vị Đại Bồ Tát như ngài Di-lặc đều là bậc đẳng giác, ví như “đại thần”. Các vị Bồ Tát từ sơ địa đến cửu địa ví như “sát-đế-lợi”. Từ trong chủng tánh của đấng Pháp vương sanh ra, [hàng Bồ Tát ở giai vị] tam thập tâm ví như “cư sĩ”. Tất cả những vị này đều nhận sự giáo hóa của đức Phật Thích-ca.

Ý thứ ba từ câu “Quý vị nên biết rằng…” trở đi, tóm kết lại việc cha con gặp nhau. [Chúng Thanh văn này] thật sự theo Phật tu học nên nói là “con của tôi”, [chúng Thanh văn] thật sự nhờ Phật mà được nhận hiểu nên nói là “do tôi sanh ra”. Đức Phật đã từng ở nơi [đạo tràng của] hai vạn ức vị Phật mà thường giáo hóa [chúng Thanh văn này] bằng pháp Đại thừa, cho nên nói “tôi thật là cha nó”. “Ngày trước ở nơi thành kia” [là nói ngắn gọn]. Bản kinh này ở Ấn Độ rất dài, truyền đến [Trung Hoa] thì rất ngắn, [nên nói ngắn gọn]. Hoặc cũng có thể giải thích rằng, trước đây nói đầy đủ tên gọi cõi nước [Phật], như [khi thuyết về] nhân duyên đức Phật Đại Thông Trí Thắng [thuở xưa], còn nay giản lược các tên gọi nên nói thẳng là chỗ này, chỗ kia...

Những chúng sanh này trái nghịch với Đại thừa, khởi sinh vô minh, si ám trì độn nên phải rơi vào vòng sanh tử, cho nên nói rằng “trốn tôi mà đi”. Phải lăn lộn trải qua 6 đường, cho nên nói rằng “hơn 50 năm qua”. “Trước đây ở thành ấy vẫn thường lo âu tìm kiếm”, [hàm ý là] từ thuở xưa [đức Phật] trụ nơi pháp thân vẫn thường dùng 2 trí [quyền và thật] để quán sát tìm kiếm cơ duyên có thể hóa độ [chúng sanh], mãi đến ngày hôm nay mới có sự cảm ứng giao hòa trong đạo [với chúng sanh], cho nên nói “nay bỗng dưng gặp lại tại nơi đây”.

Ý thứ tư từ câu “Nay tất cả tiền bạc, tài sản của tôi” trở đi là chính thức giao phó gia nghiệp, [bao gồm] tất cả muôn công hạnh, muôn công đức Đại thừa nên nói là “tất cả tiền bạc tài sản của tôi”. [Lại nói] “từ trước đến giờ những việc xuất ra nhập vào nó đều đã rõ biết”, tức là nhắc lại thuở trước [chúng Thanh văn] được dạy cho giáo pháp Đại phẩm [Bát-nhã], nhận sự ủy thác [của Phật] mà giảng rộng hoặc nói lược về Bát-nhã cũng như các pháp chung cùng và không chung cùng.[187]

[Ông trưởng giả trước đó nói] “con nên rõ biết tất cả” tức là nói “đó là tài sản của con”. Cho nên kinh Pháp hoa này chỉ làm rõ tri kiến của Phật, không rộng nói tất cả các hành tướng.

Phân đoạn thứ hai từ câu “Lúc bấy giờ đứa con cùng khổ kia nghe cha nói như vậy” trở đi, là nói việc [người con] được giao phó [gia nghiệp] nên hoan hỷ. Phần này là nhận hiểu ý nghĩa trong kinh văn phần trước nói “những người con của ông trưởng giả, mỗi người đều đi trên một cỗ xe lớn, được việc chưa từng có”. Tự nghĩ lại mình hoàn toàn không có tâm mong cầu đạt được đạo của Phật, mà nay bỗng nhiên nghe được thụ ký làm Phật, cho nên nói là “không hề mong cầu mà tự nhiên có được”. [Hàng Thanh văn] trong thời Tạng giáo thì tâm vốn không cầu; trong thời Phương đẳng thì hổ thẹn vì học Tiểu thừa, dứt hết hy vọng nên không cầu, trong thời Bát-nhã, tuy nhận hiểu [Đại thừa] nhưng cho rằng không có phần của mình nên không cầu. [Hết thảy những trường hợp] không cầu như vậy mà nay bỗng tự nhiên đạt được.

KINH VĂN

“Bạch Thế Tôn! Trưởng giả hết sức giàu có kia ví như đức Như Lai, tất cả chúng con đều giống như con Phật. Đức Như Lai thường dạy rằng chúng con là con Phật. Bạch Thế Tôn! Chúng con vì ba sự khổ mà ở trong vòng sinh tử bị các phiền não thiêu đốt, mê muội ngu si không hiểu biết nên ưa thích bám chấp giáo pháp Tiểu thừa.

“Nay đức Thế Tôn giúp cho chúng con biết suy xét, dứt trừ dọn sạch phân dơ là các pháp hý luận. Chúng con theo lời dạy đó thêm chuyên cần tinh tấn, đạt được Niết-bàn [của Tiểu thừa, chỉ ví như] giá tiền làm thuê [nhận được] mỗi ngày. Khi đã được như vậy rồi thì trong lòng hết sức vui mừng, tự cho là đủ, liền tự nhủ rằng: ‘Nhờ chuyên cần tinh tấn trong pháp Phật nên chỗ đạt được thật lớn lao nhiều lắm.’

“Nhưng đức Thế Tôn trước đã rõ biết trong lòng chúng con bám chấp nơi sự vui thú thấp hèn, ưa thích pháp Tiểu thừa, nên tuy thấy chúng con buông thả mà vẫn tạm không vì chúng con phân biệt chỉ rõ: ‘Các ông rồi cũng đều có phần trong kho báu tri kiến của Như Lai.’ Đức Thế Tôn dùng sức phương tiện thuyết giảng về trí tuệ của Như Lai, chúng con theo Phật đạt được Niết-bàn [của Tiểu thừa, chỉ như] tiền công làm thuê [nhận được] mỗi ngày, nhưng lấy đó cho là đã được quá nhiều nên đối với Đại thừa không hề có ý mong cầu.

“Chúng con lại cũng nhân nơi trí tuệ của Như Lai mà vì chư Bồ Tát khai mở chỉ bày, diễn giảng [giáo pháp Đại thừa], nhưng tự thân mình thì đối với giáo pháp này không hề có chí nguyện [tu tập]. Vì sao vậy? Vì Phật rõ biết tâm ý chúng con ưa thích pháp Tiểu thừa, nên dùng sức phương tiện mà thuyết pháp tùy thuận [theo ý muốn của chúng con], nhưng chúng con lại không biết rằng mình quả thật đều là con Phật. Ngày nay chúng con mới biết rằng đức Thế Tôn không hề tiếc giữ trí tuệ Phật.

“Vì sao vậy? Vì chúng con từ xưa nay vốn thật sự là con của đức Như Lai, nhưng lại ưa thích giáo pháp Tiểu thừa. Nếu như chúng con có lòng ưa thích Đại thừa, tất nhiên Phật sẽ vì chúng con thuyết dạy giáo pháp Đại thừa. Trong kinh Pháp hoa này chỉ thuyết một thừa, nên thuở xưa ở trước các vị Bồ Tát chê trách hàng Thanh văn ưa thích pháp Tiểu thừa, nhưng thật ra Phật vẫn dùng pháp Đại thừa để giáo hóa. Cho nên chúng con nói rằng vốn không có tâm mong cầu mà nay tự nhiên đạt được báu vật lớn lao của đấng Pháp vương. Những gì hàng con Phật cần đạt được thì nay [chúng con] đều đã đạt được.

Từ câu “Bạch Thế Tôn! Vị trưởng giả hết sức giàu có kia” trở đi là nói nghĩa tương hợp giữa các thí dụ trong phần thứ hai. Ngài Quang Trạch đối với nghĩa tương hợp thí dụ này, hoặc trước, hoặc sau đều giải thích rất sơ lược. Nay chỉ y theo kinh văn để xét ý, không nêu lại phần [nói về] người con. Phần tương hợp thí dụ lấy việc hiểu được ý nghĩa là chính, không cần phải phí nhiều lời. “Vị trưởng giả hết sức giàu có” là tương hợp với thí dụ “cha con lạc mất nhau”. Phần kinh văn nói thí dụ này có 4 ý, ở đây chỉ tương hợp 2 nghĩa cha và con, tức bao gồm được các ý khác. “Như Lai” là tương hợp với “cha”, nói “giống như” là tương hợp với nghĩa “con”.

“Giống như” có hai ý nghĩa. Thứ nhất là lấy [hạng có] cơ duyên Đại thừa làm con; thuở trước chưa “bỏ cha trốn đi” vốn chưa có địa vị chân thật, [ví như] vẫn còn ở giai vị ngoại phàm, nên nói là “giống như”. Thứ hai là lấy [hạng có] cơ duyên Tiểu thừa làm con; cơ duyên Tiểu thừa cũng có căn tánh tương tự Đại thừa, như con đã trốn cha mà đi, địa vị hạ thấp nên nói “giống như” v.v.

Hỏi: Ở đầu phẩm này giải thích rằng “đã được nhập chân”, sao ở đây lại nói “giống như”?

Đáp: Ở đây nói nghĩa tương hợp với lúc “con bỏ cha trốn đi” nên nói là “giống như”; ở đầu phẩm này nói nghĩa [tương hợp với] lúc con được khai ngộ [nên có khác]. Câu hỏi của ông nêu ra không đúng.

Từ câu “Đức Như Lai thường dạy rằng chúng con là con Phật” trở đi là tương hợp với thí dụ “cha con gặp lại nhau”, nhưng chỉ hợp với nghĩa “ông trưởng giả gặp con liền nhận ra ngay”.

Từ câu “chúng con vì ba sự khổ”[188] trở đi là tương hợp với thí dụ “đuổi theo dẫn dụ về”. Phần trên có 2 thí dụ [sai người] bên cạnh đuổi theo, phần này cũng tương hợp cả 2. Phần trên nói lần đầu sai người bên cạnh đuổi theo, sau đó tiếp tục đuổi theo, rồi sau nữa lại thả ra. Nay [giải thích là] tương hợp với cả 2 pháp môn [khuyên bảo khuyến khích và răn dạy ngăn cản] đều chẳng có cơ duyên. [Người con] thấy mình bị bắt, tự nghĩ là không có tội, đây là tương hợp với nghĩa không có cơ duyên Đại thừa. [Nói] “ưa thích bám chấp giáo pháp Tiểu thừa” là tương hợp [với thí dụ] tâm chí [đứa con còn] nhỏ hẹp chẳng thích hợp nên thả ra.

Từ câu “Nay đức Thế Tôn giúp cho chúng con…” trở đi là tương hợp với 2 thí dụ. Phần trước có [2 cách nhận hiểu là] y theo giáo pháp và suy xét nhận hiểu, phần này cũng có đủ 2 ý. Từ câu “dứt trừ dọn sạch…” trở đi là tương hợp với nghĩa y theo giáo pháp trình bày đầy đủ mọi việc. Từ câu “Chúng con theo lời dạy đó thêm chuyên cần tinh tấn…” trở đi là tương hợp với phần trước nói “được giao việc hốt phân”. Từ câu “đạt được Niết-bàn…” trở đi là tương hợp với phần trên nói “trước tiên nhận tiền công”.

Từ câu “Nhưng đức Thế Tôn trước đã rõ biết trong lòng chúng con…” trở đi là tương hợp với nghĩa suy xét nhận hiểu ở phần trước. Phần thí dụ ở trước có 4 ý, phần này chỉ tương hợp với 3, không tương hợp với ý “[ông trưởng giả đích thân] dạy con làm”, chỉ lấy nghĩa ở trước nói “chuyên cần hốt phân” tức đã bao gồm.

Về những điểm không tương hợp [với phần trước] thì có: phần trước nói “từ xa trông thấy”, phần này nói “trước đã rõ biết”; phần trước nói “[thấy con] gầy ốm, tiều tụy”, phần này nói “bám chấp nơi sự vui thú thấp hèn”; phần trước nói “liền cởi bỏ hết chuỗi ngọc… …mặc vào người y phục thô xấu dơ bẩn”, phần này nói “thấy chúng con buông thả… …không vì chúng con phân biệt chỉ rõ… có phần trong kho báu tri kiến của Như Lai”.

Từ câu “Đức Thế Tôn dùng sức phương tiện thuyết giảng về trí tuệ của Như Lai” trở đi là tương hợp với thí dụ giao phó gia nghiệp. Phần trước có 2 ý, trước nói nguyên do, sau nói giao phó. Phần này cũng tương hợp đủ 2 ý. Phần trước nói nguyên do có 2 ý, thứ nhất là [cha con] đã tin tưởng nhau, thứ hai là giao phó mọi việc nhà; phần này tương hợp cũng đủ 2 ý. Phần thứ nhất nói “cha con tin nhau” có 2 ý, phần này chỉ tương hợp với ý trước là “cha con dần tin nhau”, [không tương hợp với ý thứ hai là “người con vẫn tiếp tục ở nơi chỗ cũ”].

Về câu “dùng sức phương tiện thuyết giảng về trí tuệ của Như Lai”, các nhà cựu giải cho rằng, [phương tiện là] dùng nhân trí tuệ của Như Lai mà tạo thành quả Nhị thừa. Nay nêu rõ, vì sử dụng phương tiện của Tam thừa để thuyết giảng thật tướng của Đại thừa, cho nên nói là “dùng sức phương tiện”. Câu “vì chúng con thuyết dạy giáo pháp Đại thừa” lại cũng là tương hợp với [phần trước nói] “ra vào ngôi nhà ấy không còn khó khăn”. [Phật] dùng sức phương tiện nên “ra” thì biện biệt rõ [pháp] Nhị thừa, dùng sức trí tuệ Phật nên “vào” thì làm sáng tỏ thật tướng. Nếu như chẳng có việc “dần tin lẫn nhau”, thì làm sao [Phật] có thể vì chúng con mà “thuyết giảng về trí tuệ của Như Lai”?

Từ câu “chúng con theo Phật đạt được Niết-bàn [của Tiểu thừa, chỉ như] tiền công làm thuê [nhận được] mỗi ngày” trở đi là tương hợp với [thí dụ] trong phần trước nói “vẫn tiếp tục ở nơi chỗ cũ”. Từ câu “chúng con lại cũng nhân nơi trí tuệ của Như Lai…” trở đi là tương hợp với [thí dụ] “nhận lãnh việc nhà”. Phần trước có [hai ý], trước là [người cha] yêu cầu, sau là [con] nhận lãnh; phần này chỉ tương hợp với ý nhận lãnh.

Trong ý nhận lãnh [việc nhà], phần trước lại có 4 tiểu ý. Thứ nhất là người con vâng lời cha sai khiến, thứ hai là không hề có ý giữ lấy cho riêng mình, thứ ba là vẫn chưa từ bỏ tâm ý hạ liệt, thứ tư là dần dần thông thạo rõ biết [mọi việc nhà]. Trong phần này chỉ tương hợp với 2 tiểu ý. Trước tiên tương hợp với ý vâng lời cha nhận lãnh việc nhà. Từ câu “nhưng tự thân mình thì đối với giáo pháp…” trở đi là tương hợp với ý “không giữ cho mình” đồng thời gồm luôn các tiểu ý còn lại.

Câu “không hề có chí nguyện” là nêu rõ [hàng Thanh văn] nhờ oai lực của Phật gia trì khiến cho có thể y theo như tâm Phật mà thuyết giảng [Đại thừa], cho nên nói “nhưng tự thân mình… …không có chí nguyện”.

Từ câu “Vì sao vậy” trở đi là giải thích nghĩa “không hề có ý giữ lấy cho mình”. [Phật] dùng sức phương tiện tùy thuận tâm ý Tiểu thừa nên nói [hàng Thanh văn] không có phần [trong giáo pháp Đại thừa]. Do vậy nên “không biết rằng mình quả thật đều là con Phật”. Vì thế mới “không giữ lấy cho mình”. Câu “Phật dùng sức phương tiện mà thuyết pháp tùy thuận theo chúng con” là nói việc đức Phật vận dụng sức phương tiện, đem pháp thật tướng giảng nói cùng với hàng Nhị thừa, hàng Thanh văn lại không hiểu được ý nghĩa “không chung cùng” [của giáo pháp Đại thừa], cho nên chưa phải là con Phật.

Từ câu “Ngày nay chúng con mới biết…” trở đi là tương hợp với thí dụ “giao phó gia nghiệp”. [Thí dụ này] ở phần trước có 2 phân đoạn, thứ nhất là [người cha] giao phó, thứ hai là [người con] hoan hỷ; trong phần này lại cũng tương hợp với cả 2 phân đoạn. Phân đoạn “giao phó” ở trước có 4 ý,[189] phần này lại tương hợp chung trong ý giao phó, chia thành 2 tiểu ý. Thứ nhất nêu rõ đức Phật không hề keo lận tiếc giữ Đại thừa, thứ hai là giải thích sự không keo lận đó. Chính vì [hàng Thanh văn] ưa thích Tiểu thừa nên trước đây Phật mới không sớm trao cho Đại thừa.

Từ câu “Trong kinh Pháp hoa này…” trở đi là nêu việc hiện nay để chứng minh ý nghĩa thuở xưa. Hiện nay [kinh Pháp hoa này chỉ thuyết Nhất thừa] là 1 lý duy nhất, nên biết rằng thuở xưa nói 3 thừa là không phải thật, chỉ vì [hàng Thanh văn] chưa kham nhận nổi [nên mới phương tiện bày ra]. Do vậy mà trước khi nói Đại thừa phải chê trách tâm nhỏ hẹp của hàng Thanh văn, là muốn khiến cho từ bỏ pháp không thật, nhận lấy pháp chân thật. Vì thế biết chắc là Phật không có sự keo lận tiếc giữ, mà thật sự chỉ dùng Đại thừa để giáo hóa [tất cả chúng sanh].

Từ câu “chúng con nói rằng vốn không có tâm mong cầu” trở đi là tương hợp với ý hoan hỷ [trong thí dụ], cũng là nói đối với ba thừa không có ý mong cầu.

KỆ TỤNG

KINH VĂN

Lúc bấy giờ ngài Đại Ca-diếp muốn lặp lại những ý nghĩa trên nên đọc kệ rằng:

[Từ đây đến cuối phẩm là] 86 khổ rưỡi kệ, [chia thành hai phần]. Phần đầu gồm 73 khổ rưỡi kệ tụng lại nội dung vừa nói trước đó, [là phần thứ hai thuộc tổng phần thứ nhất]. Phần kế tiếp gồm 13 khổ kệ xưng tán ân đức sâu dày của Phật, [thuộc về tổng phần thứ hai].

Phần đầu gồm 73 khổ rưỡi kệ lại chia thành 2 nhóm kệ. Nhóm thứ nhất chỉ có 2 khổ kệ, tụng về nội dung thuyết chánh pháp. Nhóm thứ hai gồm 71 khổ rưỡi kệ, tụng về nội dung thuyết thí dụ.

KINH VĂN

Chúng con ngày hôm nay,
Được nghe lời Phật dạy,
Nên vui mừng phấn khởi,
Được điều chưa từng có.
Phật dạy: “Hàng Thanh văn,
Rồi đều sẽ thành Phật.”
Bao nhiêu báu vô thượng,
Không cầu tự nhiên được.

Nhóm kệ thứ nhất, trong phần nội dung thuyết chánh pháp không tụng lại nghĩa không mong cầu, chỉ tụng lại nghĩa tự nhiên đạt được [pháp bảo Đại thừa].

KINH VĂN

Ví như đứa con nhỏ,
Dại khờ chưa hiểu biết.
Bỏ cha mà trốn đi,
Đến những miền xa xôi,
Lang thang khắp các nước,
Trải hơn năm mươi năm.

Nhóm kệ thứ hai, trong phần tụng lại nội dung thí dụ lại có chia thành 2 tổng phần. Tổng phần thứ nhất gồm 41 khổ kệ, tụng lại nội dung nêu ra thí dụ. Tổng phần thứ hai gồm 30 khổ rưỡi kệ, tụng về ý nghĩa tương hợp của các thí dụ.

Tổng phần thứ nhất tụng nội dung nêu thí dụ lại chia thành 4 đoạn, tụng lại đầy đủ 4 [ý nghĩa trong phần văn trường hàng;] thứ nhất, cha con lạc mất nhau; thứ hai, cha con gặp lại nhau; thứ ba, [người cha] ủy thác việc nhà [cho con] và thứ tư, giao phó tài sản sự nghiệp [cho con].

Đoạn thứ nhất gồm 13 khổ kệ, tụng lại việc cha con lạc mất nhau. Phần văn trường hàng nêu nội dung này có 4 tiểu đoạn. Thứ nhất là người con bỏ cha mà đi; thứ hai là người cha đi tìm con; thứ ba là người con dần dần về lại gần nhà; thứ tư là người cha luôn nhớ nghĩ đến con. Đoạn này [chia làm 4 tiểu đoạn] tụng lại đầy đủ cả 4 ý nghĩa như vậy, nhưng không theo đúng thứ tự.

Tiểu đoạn thứ nhất gồm 1 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa thứ nhất, người con bỏ cha ra đi. Tiểu đoạn thứ hai gồm 7 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa thứ hai, người cha đi tìm con không được. Tiểu đoạn thứ ba gồm 2 khổ kệ, tụng vượt sang ý nghĩa thứ tư, người cha lo lắng nhớ nghĩ ngày càng nhiều hơn. Tiểu đoạn thứ tư gồm 2 khổ rưỡi kệ, tụng ngược về ý nghĩa thứ ba, người con dần dần về lại gần cha. Trong văn trường hàng ở trước, mỗi tiểu đoạn nêu các ý nghĩa này đều chia thành 2 phân đoạn.

Nay giải thích tiểu đoạn thứ nhất, gồm 1 khổ rưỡi kệ, từ câu “Ví như đứa con dại” trở đi, chỉ tụng việc “con bỏ cha mà đi”, không tụng việc quay lại hướng về quê hương. Trong thí dụ căn nhà đang cháy ở phần trước, khi nói về nơi chốn của ông trưởng giả thì dùng “đất nước, đô thành hay thôn xóm” là cách nói thư thả. Ở đây [dùng cách nói gấp gáp hơn, nên] đứa con cùng khổ luân hồi trong 3 cõi là “khắp các nước”, 6 đường là “hơn 50 năm”.

KINH VĂN

Người cha thường lo lắng,
Khắp bốn phương truy tìm,
Cho đến khi mỏi mệt,
Dừng ở một thành phố,
Rồi xây dựng nhà cửa,
Vui hưởng năm món dục.
Nhà ông rất giàu có,
Chất chứa lắm bạc vàng,
Cùng xa cừ, mã não,
Với trân châu, lưu ly,
Cùng voi, ngựa, trâu, dê…
Cho đến nhiều xe cộ,
Vườn ruộng cùng tôi tớ,
Người giúp việc rất nhiều.
Những lợi tức thu chi,
Trải rộng khắp các nước.
Người buôn bán cùng ông,
Ở khắp nơi đều có.
Nên có ngàn muôn người,
Luôn cung kính vây quanh.
Lại thường được đức vua,
Yêu mến, nhớ nghĩ đến.
Các quan chức, quý tộc,
Cũng đều kính ngưỡng ông.
Bởi có nhiều nhân duyên,
Nên đông người lui tới.
Ông giàu có như vậy,
Lại thế lực lớn lao.

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Người cha thường lo lắng” trở đi, gồm 7 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa “cha tìm con không được”. Phần này kinh văn trường hàng ở trước chia làm 2 phân đoạn, ở đây kệ tụng cũng có 2 phân đoạn. Nửa khổ kệ đầu tụng ý nghĩa [người cha] tìm con không gặp. Từ câu “Cho đến khi mỏi mệt” trở đi, gồm 6 khổ rưỡi kệ, tụng ý nghĩa không vì lạc mất một đứa con mà bỏ cả gia nghiệp.

Câu “khắp bốn phương truy tầm” ý nghĩa không giống như trong văn trường hàng ở trước. Trong kinh văn trường hàng thì 4 phương là [hàm ý] dựa vào 4 chân đế để suy tìm lẽ thật. Nay trong kệ tụng thì 4 phương [hàm ý] quán sát trong 4 loài1 để tìm cơ duyên có thể hóa độ.

“Rồi xây dựng nhà cửa” là chỉ Niết-bàn hữu dư trong cõi nước hữu dư, là xây nên căn phòng “từ bi” dựa vào ngôi nhà “tánh không”.

“Nên đông người lui tới” là nói chư Bồ Tát ở những cõi nước khác lui tới nơi đây để nghe thuyết pháp.

KINH VĂN

Nhưng tuổi cao suy yếu,
Nên càng nhớ đến con.
Ngày đêm thường suy nghĩ:
“Ta nay sắp chết rồi,
Con dại bỏ ta đi,
Đã hơn năm mươi năm.
Nay kho tàng, mọi thứ,
Biết phải làm sao đây?”

Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Nhưng tuổi cao suy yếu” trở đi gồm 2 khổ kệ, tụng vượt sang ý thứ tư] trong kinh văn trường hàng] nói về “người cha lo lắng nhớ nghĩ ngày càng nhiều hơn”. Kinh văn phần trước có 2 ý nghĩa, ở đây chỉ tụng lại nghĩa vì ngày trước lạc mất con nên nay khổ não, không có người để ủy thác, giao phó, do vậy mà lo lắng.

KINH VĂN

Đứa con nay cùng khốn,
Vì manh áo miếng cơm,
Lưu lạc khắp xóm làng,
Nước này sang nước khác.
Đôi khi đủ ăn mặc,
Có lúc chẳng được gì,
Nên đói gầy ốm yếu,
Thân thể đầy ghẻ chốc.
Đi dần qua các nơi,
Đến thành người cha ở.

Tiểu đoạn thứ tư từ câu “Đứa con nay cùng khốn” trở đi gồm 2 khổ rưỡi kệ, tụng ngược về ý thứ ba trong kinh văn trường hàng, nói việc người con dần dần đi gần về hướng người cha. Kinh văn trường hàng phần này có 2 phân đoạn, ở đây tụng lại cũng đủ 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất 2 khổ kệ, tụng nguyên do người con đi về gần cha mình, là do việc mưu sinh, tìm cầu miếng cơm, manh áo. § Từ câu “Đi dần qua các nơi” trở đi, gồm nửa khổ kệ, tụng nghĩa đã thực sự đến gần nơi cha ở.

§ Trong phân đoạn thứ nhất giải thích nguyên do, nói “lưu lạc khắp xóm làng”, [hàm ý] căn và trần thiệp nhập lẫn nhau, giống như xóm làng gần nhau. 18 giới ví như các cõi nước, [nên nói “nước này sang nước khác”]. Tu các pháp lành hữu lậu là “đôi khi đủ ăn mặc”; tu các pháp lành Nhị thừa là “có lúc chẳng được gì”. Không có được thức ăn là giáo pháp Đại thừa “nên đói gầy ốm yếu”. Không có công dụng của Đại thừa là “đói gầy”; không có công đức của Đại thừa là “ốm yếu”. Từ nơi các pháp lành hữu lậu và vô lậu mà khởi lên chỗ thấy biết suy nghĩ là ví như “ghẻ chốc”.

KINH VĂN

“Ngày lại ngày làm thuê,
Dần đến nhà người cha.
Bấy giờ ông trưởng giả,
Đang ở bên trong nhà,
Có màn báu giăng che,
Ngồi trên tòa sư tử,
Quyến thuộc cùng vây quanh,
Với nhiều người hầu cận,
Lại có người tính toán,
Bao vàng bạc, châu báu,
Đưa ra hoặc thu vào,
Đều ghi chép rành mạch.
Đứa con khổ, thấy cha,
Giàu, uy nghiêm, tôn quý,
Cho rằng đó là vua,
Hoặc bậc ngang hàng vua,
Nên kinh hãi, tự hỏi:
‘Sao đến chi chốn này?’
Rồi âm thầm tự nghĩ:
‘Nếu ta ở đây lâu,
Ắt sẽ bị bức bách,
Ép buộc làm công việc.’
Suy nghĩ như vậy rồi,
Liền vội vàng bỏ chạy,
Hỏi đường sang xóm nghèo,
Để đến đó làm thuê.
Khi ấy ông trưởng giả,
Ngồi trên tòa sư tử,
Từ xa nhìn thấy con,
Lặng yên nhận biết rồi.

Đoạn thứ hai từ câu “Ngày lại ngày làm thuê” trở đi, gồm 7 khổ rưỡi kệ, tụng lại đoạn thứ hai “cha con gặp nhau” [trong tổng đoạn thứ hai] ở phần trước. Phần kinh văn trường hàng ở trước có 2 tiểu đoạn, nay phần kệ tụng này cũng có 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất gồm 6 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa “người con nhìn thấy cha”. [Tiểu đoạn thứ hai] tiếp theo gồm 1 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa “người cha nhìn thấy con”.

Tiểu đoạn thứ nhất, trong kinh văn trường hàng, phần “con nhìn thấy cha” có 4 phân đoạn,[190] nay tụng lại thành 3 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất gồm nửa khổ kệ, tụng lại nguyên do người con nhìn thấy cha, đó là vì “ngày qua ngày làm thuê” nên cuối cùng đi đến nhà của cha.

Phân đoạn thứ hai từ câu “khi ấy ông trưởng giả” trở đi gồm 2 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý thứ ba trong kinh văn trường hàng, mô tả tướng trạng lúc con nhìn thấy cha. Kinh văn trường hàng nêu chỗ nhìn thấy người cha là bên cạnh cửa ra vào, kệ tụng ở đây nói ông trưởng giả ở bên trong cửa, là gồm luôn được nghĩa nơi chốn. “Có màn báu giăng che”, nêu tướng trạng ngay nơi chỗ [người con] nhìn thấy cha, đó là “ngồi trên tòa sư tử”. Pháp thân [Phật] là bậc thầy, là đức vua; báo thân và ứng hóa thân là trưởng giả. “Đều ghi chép rành mạch” là nói việc thụ ký, nêu rõ sự tu hành. Theo ý riêng tôi cho rằng, dùng cách giảng rộng ấy để hiển bày chỗ sơ lược là ghi; thọ nhận chắc chắn là chép; 4 hoằng thệ nguyện là chứng từ rành mạch; sự tu hành là giải thích rõ ràng.

Phân đoạn thứ ba từ câu “đứa con khổ, thấy cha” trở đi, gồm 3 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa phân đoạn thứ tư [trong kinh văn trường hàng] là [người con] khởi tâm sợ hãi muốn chạy trốn.

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Khi ấy ông trưởng giả” trở đi, gồm 1 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa thứ hai là “cha nhìn thấy con”. Kinh văn trường hàng phần này có 4 phân đoạn. Thứ nhất là nêu nơi chốn nhìn thấy; thứ hai nêu việc vừa nhìn thấy đã nhận biết; thứ ba là thấy con liền vui mừng; thứ tư là [được gặp lại con] đúng như mong ước. Trong phần kệ tụng này chỉ tụng lại 2 ý trong 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất nửa khổ kệ đầu tụng nơi chốn nhìn thấy con. Phân đoạn thứ hai từ câu “từ xa nhìn thấy con” trở đi là nửa khổ kệ thứ nhì, tụng lại ý nghĩa nhìn thấy con liền nhận biết.

KINH VĂN

“Liền sai khiến một người,
Đuổi theo để bắt lại.
Đứa con sợ, kêu la,
Ngã xuống đất ngất xỉu:
‘Người này đuổi bắt ta,
Chắc ta sẽ bị giết.
Ôi chỉ vì cơm áo,
Khiến ta đến nỗi này.’
Trưởng giả biết con mình,
Ngu si, nghĩ phận hèn,
Sẽ không tin lời cha,
Không tin đó là cha.

Đoạn thứ ba từ câu “Liền sai khiến một người…” trở đi, gồm 10 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa “theo đuổi, dẫn dụ về” trong kinh văn phần trước. [Phần này chia thành 2 tiểu đoạn.]

Tiểu đoạn thứ nhất gồm 3 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa sai người hầu cận đuổi theo truy bắt. Trong kinh văn trường hàng phần này có 3 ý. Thứ nhất là [đuổi theo] gọi lớn mà người con không quay lại; thứ hai là tiếp tục đuổi bắt [nhưng ngất đi nên] cũng không quay lại; thứ ba là buông thả cho đi. Nay 3 câu kệ đầu tụng lại việc kêu gọi lần đầu không quay lại, [ví như chúng sanh] không có cơ duyên. Câu thứ tư “ngã xuống đất ngất xỉu” là tụng nghĩa tiếp tục gọi lần nữa nhưng [ngất đi] không quay lại. Từ câu “Người này đuổi bắt ta” trở đi, gồm 2 khổ kệ, tụng ý nghĩa [ông trưởng giả biết là] không có cơ duyên thích hợp, tương hợp với ý nghĩa trong kinh văn trường hàng ở trước là buông thả cho đi.

KINH VĂN

“Ông liền dùng phương tiện,
Sai khiến vài người khác,
Chột mắt và lùn, xấu,
Dáng vẻ không oai đức:
‘Hãy đến nói với nó,
Rằng ta muốn thuê người,
Để quét dọn phân dơ,
Trả công cao hơn nhiều.’
Đứa con khổ, nghe vậy,
Liền vui mừng đi theo,
Làm việc hốt phân dơ,
Và quét dọn phòng, nhà.
Trưởng giả qua cửa sổ,
Vẫn thường nhìn thấy con.
Nghĩ con mình ngu hèn,
Ưa làm việc thấp kém,
Cho nên ông trưởng giả,
Liền ăn mặc dơ nhớp,
Tay cầm đồ hốt phân,
Đi đến chỗ đứa con,
Dùng phương tiện gần gũi,
Khuyên bảo nên siêng làm:
‘Ta sẽ trả thêm tiền,
Và cho dầu thoa chân,
Thức ăn uống đầy đủ,
Chăn chiếu dày đủ ấm.’
Ông dùng lời cứng rắn:
‘Ngươi phải siêng năng làm.’
Rồi lại nói dịu dàng:
‘Ta xem ngươi như con.’

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Ông liền dùng phương tiện” trở đi gồm 7 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa [trong kinh văn trường hàng nói] “bí mật sai 2 người đến dẫn dụ”. Trong kinh văn trường hàng, phần này chia làm 2, nay trong kệ tụng cũng chia thành 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất gồm 3 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa [ông trưởng giả] thuê [con] làm công việc. Phân đoạn thứ hai gồm 4 khổ rưỡi, tụng lại ý nghĩa dạy [con] làm việc.

Phân đoạn thứ nhất trong kinh văn trường hàng ở trên là phần nói việc thuê con làm, có 4 ý. Thứ nhất là nghĩ ra phương tiện, thứ hai là [sai người] đi tìm được [con], thứ ba là nói việc muốn thuê làm và thứ tư là [người con] nhận tiền công rồi làm việc hốt phân. Nay trong kệ tụng chỉ tụng lại thành 2 ý. Hai khổ kệ đầu tụng lại ý thứ nhất là “nghĩ ra phương tiện”. Từ câu “đứa con khổ nghe vậy” trở đi gồm 1 khổ kệ tụng lại ý thứ 4 là “nhận tiền rồi làm việc hốt phân”.

Nay giải thích trong ý thứ nhất “nghĩ ra phương tiện”. “Chột mắt” là nói người thiên lệch chấp vào lẽ không; “lùn” là ngắn ngủi về thời gian, không thể thấu triệt cội nguồn thật tướng; “xấu” là hạn hẹp về không gian, không được trang nghiêm bởi những pháp lành Đại thừa. Không có 4 pháp vô úy nên gọi là không có “oai”; khác biệt với [4 đức] thường, lạc, ngã, tịnh nên gọi là không có “đức”.

Ý thứ hai từ câu “đứa con khổ nghe vậy” trở đi nói việc nhận tiền rồi làm việc hốt phân. [Nay giải thích “quét dọn phòng, nhà”] là làm thanh tịnh căn phòng 6 căn với ngôi nhà 5 ấm.

Phân đoạn thứ hai từ câu “trưởng giả qua cửa sổ” trở đi gồm 4 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa trong kinh văn trường hàng về việc “dạy con làm việc”. Kinh văn trường hàng phần này chia làm 4 ý, nay kệ tụng cũng đủ 4 ý.

Ý thứ nhất nửa khổ kệ, tụng về việc [ông trưởng giả] nhìn từ trong cửa sổ.

Ý thứ hai từ câu “nghĩ con mình ngu hèn” trở đi, gồm nửa khổ kệ, tụng lại phần trên nói người con “đói gầy ốm yếu”.

Ý thứ ba từ câu “cho nên ông trưởng giả” trở đi gồm 1 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa “cởi đồ đẹp, mặc đồ xấu”.

Ý thứ tư từ câu “dùng phương tiện gần gũi” trở đi gồm 2 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý chính “dạy con làm việc”.

Trong kinh văn trường hàng ở trước, phần này nói đến 7 nhóm pháp môn [trong 37 phẩm trợ đạo]. [Trong kệ tụng ở đây,] “khuyên bảo” là tương hợp với 4 niệm xứ; “nên siêng làm” là 4 chánh cần. Từ câu “Ta sẽ trả thêm tiền” trở đi gồm 1 khổ kệ là tụng về 4 như ý túc. “Dầu thoa chân” có thể ngâm sâu trong nước, ví như thần thông. Lại nữa, dầu có thể trừ được gió, ví như định thì không loạn. “Thức ăn uống đầy đủ” tức gồm những thứ gạo, bột gạo, muối, giấm… đã nói ở trước. “Chăn chiếu dày đủ ấm” tức là nói các pháp quán chiếu rèn luyện, bền bỉ tu tập định lực, có thể trừ sự tán tâm, loạn động.

Hai câu “Ông dùng lời cứng rắn: Ngươi phải siêng năng làm” là tụng lại bao gồm cả ý nghĩa thí dụ “an ủi” trong câu thứ tư (ví cho 5 căn) và thí dụ “không có năm điều lỗi” trong câu thứ năm (ví cho 5 lực) trong phần kinh văn trường hàng ở trước. [Ở đây hàm ý] đã thành tựu 5 căn và 5 lực rồi nên mới đủ sức nhận chịu “lời cứng rắn”. Hai câu “Rồi lại nói dịu dàng: Ta xem ngươi như con” là tụng lại bao gồm cả câu thứ sáu “đặt tên mới và gọi là con” và câu thứ bảy “dạy phải thường làm việc [dọn phân]”. Đây cũng là xác định vị trí của người con.

KINH VĂN

Trưởng giả có trí tuệ,
Dần cho con ra, vào,
Trải qua hai mươi năm,
Giao hết mọi việc nhà,
Chỉ cho biết vàng, bạc,
Trân châu cùng pha lê,
Tài sản thu hoặc chi,
Cũng đều cho rõ biết.
Nhưng vẫn ở bên ngoài,
Ngủ nghỉ chốn am tranh,
Tự nghĩ mình nghèo khổ,
Không có tài sản ấy.
Người cha biết lòng con,
Dần dần đã mở rộng,
Nên muốn giao tài sản,
Liền mời hết thân tộc,
Cùng đức vua, quan lớn,
Và sát-lợi, cư sĩ…
Tuyên bố giữa mọi người:
“Đây thật là con tôi,
Đã bỏ tôi đi xa,
Đến hơn năm mươi năm.
Từ lúc gặp lại nó,
Đã được hai mươi năm.
Xưa tôi ở thành ấy,
Thất lạc đứa con này,
Đi khắp nơi tìm kiếm,
Cuối cùng đến nơi đây.
Bao tài sản tôi có,
Nhà, đất với người làm,
Nay giao hết cho con,
Được tùy ý sử dụng.”
Đứa con nghĩ: “Xưa nghèo,
Tâm chí đều kém cỏi.
Nay ở nơi nhà cha,
Bỗng được nhiều châu báu,
Cùng nhà đất, ruộng vườn,
Hết thảy mọi tài sản.”
Nên hết sức vui mừng,
Được điều chưa từng có.

Đoạn thứ tư từ câu “trưởng giả có trí tuệ” trở đi, gồm 10 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa đoạn thứ tư [thuộc tổng đoạn thứ hai] trong kinh văn trường hàng, nêu việc [ông trưởng giả] giao phó việc nhà cho con. Kinh văn trường hàng phần này chia thành 2 tiểu đoạn, nay kệ tụng cũng có 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất gồm 3 khổ rưỡi kệ, tụng về nguyên do của sự giao phó việc nhà. Tiểu đoạn thứ hai gồm 6 khổ rưỡi kệ, tụng vào ý chính giao phó việc nhà.

Trong tiểu đoạn thứ nhất nói về nguyên do, [kinh văn trường hàng] có 2 phân đoạn, nay kệ tụng cũng có 2 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất từ “trưởng giả có trí tuệ” trở đi gồm 2 câu, tụng khái quát về ý nghĩa “cha con dần tin tưởng nhau”, tức là [có thể] ra vào [không ngăn ngại].

Phân đoạn thứ hai từ câu “trải qua hai mươi năm” trở đi gồm 3 khổ kệ, tụng về sự ủy thác và nhận lãnh việc nhà. Trong kinh văn trường hàng phần này có 2 ý: [người cha] ra lệnh và [người con] vâng lệnh, nay trong kệ tụng chỉ tụng lại nghĩa vâng lệnh.

Phần nói nghĩa vâng lệnh trong kinh văn trường hàng lại có 4 ý, nay tụng thành 3 ý. Ý thứ nhất 1 khổ rưỡi đầu tiên tụng về việc [người con] vâng lệnh. Ý thứ hai từ câu “Nhưng vẫn ở bên ngoài” trở đi gồm 1 khổ kệ, tụng về việc vẫn còn ở giai vị cũ, chưa buông bỏ được tâm ý thấp hèn. Ý thứ ba từ câu “người cha biết lòng con” trở đi gồm 2 câu, tụng về sự hiểu biết [của người con ngày càng] sâu rộng, [hàm ý] cơ duyên chí nguyện Đại thừa sinh khởi.

Nay giải thích rằng, “hai mươi năm” trong kệ tụng không giống như trong kinh văn trường hàng. Trong kinh văn trường hàng, vì trừ được kiến hoặc và tư hoặc nên nói là “hai mươi”, trong kệ tụng này nêu ý nhận lãnh việc nhà, hoặc cũng nói đó là thuyết giảng giáo pháp Đại thừa, chỉ dạy các vị Bồ Tát. Dứt trừ được biệt hoặc,[191] kiến hoặc và tư hoặc, gọi là “20 năm”. Hoặc cũng nói rằng, thời gian thuyết giáo pháp Bát-nhã kéo dài, đến “20 năm”. Hoặc nói rằng, ở địa vị Nhị thừa thuyết giảng giáo pháp Đại thừa là “20 năm”. Kinh Nhân vương Bát-nhã nói: “Thuyết pháp Đại Bát-nhã trong 28 năm.”

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Nên muốn giao tài sản” trở đi gồm 6 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý chính “giao phó gia nghiệp”. Phần này trong kinh văn trường hàng có 2 phân đoạn, nay kệ tụng cũng có 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất gồm 4 khổ rưỡi kệ, tụng ý chính giao phó gia nghiệp. Phân đoạn thứ hai gồm 2 khổ kệ, tụng về việc [người con] được giao phó [gia nghiệp] nên vui mừng.

§ Về phân đoạn thứ nhất, trong kinh văn trường hàng ở trước, phần nói ý chính giao phó gia nghiệp có 4 ý,[192] nay chỉ tụng lại thành 3 ý, không nói về thời điểm. Ý thứ nhất là từ câu “Nên muốn giao tài sản” trở đi gồm 1 khổ kệ, tụng lại ý thứ 2 trong kinh văn trường hàng là “triệu tập người trong gia tộc”. Ý thứ hai là từ câu “Tuyên bố giữa mọi người” trở đi, gồm 2 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý thứ ba trong kinh văn trường hàng, nêu việc xác định quan hệ cha con, hàm ý nói về chân tánh. Ý thứ ba từ câu “bao tài sản tôi có” trở đi gồm 1 khổ kệ, tụng lại ý thứ tư trong kinh văn trường hàng là chính thức giao phó gia nghiệp.

Phân đoạn thứ hai từ câu “Đứa con nghĩ: Xưa nghèo…” trở đi, gồm 2 khổ kệ, tụng về việc [người con] được giao phó [gia nghiệp] nên hoan hỷ.

KINH VĂN

Đức Phật cũng như vậy,
Biết chúng ưa Tiểu thừa,
Nên chưa từng nói ra:
“Các ông sẽ thành Phật.”
Phương tiện dạy chúng con,
Được các pháp vô lậu,
Thành tựu quả Tiểu thừa,
Thành đệ tử Thanh văn.

Tổng phần thứ hai từ câu “Đức Phật cũng như vậy” trở đi, gồm 30 khổ rưỡi kệ, [chia làm 2 phần], tụng những ý nghĩa tương hợp. n [Phần thứ nhất gồm 2 khổ kệ, tương hợp với ý nghĩa 4 đoạn trong kinh văn trường hàng.]

Câu “Đức Phật cũng như vậy” là tương hợp với đoạn thứ nhất, nói thí dụ “cha con thất lạc nhau”.

Câu “Biết chúng ưa Tiểu thừa” là tương hợp với thí dụ “cha con gặp nhau” [ở đoạn thứ hai].

Hai câu “Nên chưa từng nói ra: Các ông sẽ thành Phật” là tương hợp với thí dụ “theo đuổi dẫn dụ” [ở đoạn thứ ba]. Phần kệ tụng ở trước tương hợp [với thí dụ] này có 2 ý. Thứ nhất là kêu gọi lần sau [nhưng người con] vẫn không quay lại, thứ hai là [người cha bảo] buông thả cho đi. Nay ở đây tụng gồm chung thành 1 ý.

Từ câu “Phương tiện dạy chúng con” trở đi gồm 1 khổ kệ là tương hợp với phần ở trước tụng về thí dụ “bí mật sai 2 người đến dẫn dụ”. Phần trước tương hợp với cả cách hiểu theo giáo nghĩa và cách hiểu phân tích suy xét, trong phần này tụng gồm chung thành 1 ý.

KINH VĂN

Phật lại sai chúng con,
Thuyết giảng đạo tối thượng,
Những ai tu tập theo,
Đều sẽ được thành Phật.

Phần thứ hai từ câu “Phật lại sai chúng con” trở đi gồm 28 khổ rưỡi kệ là tương hợp với [thí dụ] “nhận lãnh gia nghiệp”] ở đoạn thứ tư [trong kinh văn trường hàng]. Trong kinh văn phần trước tương hợp có 2 nghĩa, cha con tin nhau và giao phó gia nghiệp. Trong phần này [chia thành 2 tổng đoạn:] 18 khổ rưỡi kệ đầu chỉ tụng tương hợp với nghĩa muốn giao phó gia nghiệp. 10 khổ kệ tiếp theo tụng tương hợp với ý chính giao phó [gia nghiệp].

Kinh văn phần trước nói về sự vâng lệnh chỉ có 2 ý: thứ nhất là vâng lời cha nhận lãnh việc nhà, thứ hai là không giữ lại gì cho riêng mình. Đoạn thứ nhất ở đây gồm 1 khổ kệ, tụng [tương hợp với nghĩa cha sai con] nhận lãnh việc nhà và nên rõ biết [mọi việc trong nhà]. Phần kệ tụng ở trước nói ông trưởng giả bảo con nên rõ biết tất cả, ở đây nói “đạo tối thượng” tức là [rõ biết] tánh không của Bát-nhã, xét cho cùng cũng không sai với ý nghĩa ở trước.

KINH VĂN

Chúng con vâng lời Phật,
Vì các Đại Bồ Tát,
Thuyết giảng các nhân duyên,
Cùng đủ loại thí dụ,
Dùng cách này, cách khác,
Để nói đạo Vô thượng.
Bao nhiêu hàng Phật tử,
Theo chúng con nghe pháp,
Rồi ngày đêm suy ngẫm,
Tu tập rất chuyên cần,
Đến lúc được chư Phật,
Vì họ mà thụ ký:
“Các ông trong tương lai,
Đều sẽ được thành Phật.”
Con nghĩ: “Tạng bí mật,
Của chư Phật mười phương,
Đều chỉ vì Bồ Tát,
Nói lên pháp chân thật,
Chẳng phải vì chúng con,
Nói pháp chân thật ấy.”

Đoạn thứ hai gồm 17 khổ rưỡi kệ, tụng [tương hợp] ý chính [người con vâng lời cha] nhận lãnh việc nhà và không hề có ý giữ gì cho riêng mình, tất cả đều không nắm giữ và rõ biết thông suốt, rộng khắp. [Đoạn này chia thành 2 tiểu đoạn.]

Tiểu đoạn thứ nhất từ câu “Chúng con vâng lời Phật” trở đi, gồm 5 khổ kệ, tụng vào ý chính [tương hợp với nghĩa] vâng lời cha [nhận lãnh việc nhà].

“Bao nhiêu hàng Phật tử, theo chúng con nghe pháp…” cho đến “được chư Phật... thụ ký” là nêu rõ sự thuyết giảng giáo pháp làm lợi ích chúng sanh. Lúc bấy giờ [hàng Thanh văn] cho rằng việc thuyết giảng giáo pháp ấy đều là vì giáo hóa các vị Bồ Tát chứ không phải vì mình.

KINH VĂN

Như đứa con khốn khổ,
Được gần gũi cha mình,
Tuy rõ biết tài sản,
Lòng không mong có được.
Chúng con tuy thuyết giảng,
Kho pháp Phật quý báu,
Nhưng tự không chí nguyện,
Nên cũng giống như vậy.
Chúng con diệt phiền não,
Tự cho là đã đủ,
Chỉ xong một việc này,
Không còn việc gì khác.
Chúng con dẫu được nghe,
Việc cõi Phật thanh tịnh,
Việc giáo hóa chúng sanh,
Cũng đều không vui thích.
Vì sao lại như vậy?
Vì hết thảy các pháp,
Đều trống không vắng lặng,
Không sinh cũng không diệt,
Không lớn cũng không nhỏ,
Không lậu hoặc, vô vi.
Thường suy ngẫm như thế,
Nên không sinh vui thích.
Chúng con suốt đêm dài,
Đối với trí tuệ Phật,
Không tham muốn, bám chấp,
Cũng không có chí nguyện,
Nhưng đối với các pháp,
Cho đó là rốt ráo.
Chúng con trong đêm dài,
Tu tập theo pháp không,
Được thoát ngoài ba cõi,
Thoát hoạn nạn khổ não,
Trụ nơi thân cuối cùng,
Vào Niết-bàn hữu dư.
Theo lời Phật chỉ dạy,
Đạt đạo không hư dối,
Cho rằng đã thành tựu,
Báo đáp được ơn Phật.
Chúng con tuy vẫn thường,
Vì hết thảy Phật tử,
Thuyết giảng pháp Bồ Tát,
Hướng đến cầu đạo Phật,
Nhưng đối với pháp ấy,
Mãi mãi không ham thích.
Đạo sư tạm bỏ qua,
Vì biết tâm chúng con;
Ban đầu không khuyến tấn,
Pháp lợi ích chân thật.

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Như đứa con khốn khổ” trở đi, gồm 12 khổ rưỡi kệ, tụng [tương hợp với] nghĩa thứ hai là “không nghĩ đến việc giữ cho riêng mình”. Kệ tụng phần này nói rộng thêm nghĩa ở trước, chia làm 2 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất gồm 1 khổ kệ, lặp lại nội dung tương hợp của thí dụ ở phần trước.

Phân đoạn thứ hai, từ câu “Chúng con tuy thuyết giảng” trở đi gồm 11 khổ rưỡi kệ, tụng tương hợp với ý chính là “không giữ gì cho mình”.

Trong phân đoạn này có 3 ý.

Ý thứ nhất 1 khổ kệ tụng ý chính tương hợp với nghĩa không giữ cho mình.

Ý thứ hai từ câu “Chúng con diệt phiền não” trở đi, gồm 9 khổ rưỡi kệ, [giải thích vì] có đủ trí đức và đoạn đức cho nên [tương hợp với] nghĩa không giữ lại cho mình.

Ý này lại có 3 tiểu ý, bao gồm: nêu ra, giải thích và tóm kết.

Tiểu ý thứ nhất nói nghĩa nêu ra lại chia làm 2 phần. Phần thứ nhất gồm 1 khổ kệ, nêu nghĩa đầy đủ đoạn đức nên [tương hợp với ý] không giữ cho mình. Phần thứ hai từ câu “Chúng con dẫu được nghe” trở đi cũng gồm 1 khổ kệ, nêu nghĩa đầy đủ trí đức nên [tương hợp với ý] không giữ cho mình.

Tiểu ý thứ hai từ câu “Vì sao lại như vậy” trở đi gồm 6 khổ kệ, giải thích cả 2 phần trí đức và đoạn đức.

Tiểu ý thứ ba từ câu “Chúng con tuy vẫn thường” trở đi gồm 1 khổ rưỡi kệ là tóm kết phần giải thích, [tụng tương hợp với] nghĩa không tự giữ lại cho mình.

Ý thứ ba từ câu “Đạo sư sư tạm bỏ qua, vì biết tâm chúng con…” trở đi gồm 1 khổ kệ, nêu rõ việc đức Phật thấy biết trong tâm [hàng Thanh văn chưa tiếp nhận được nên] tạm bỏ qua [không thuyết giảng Đại thừa], tương hợp với [ý nghĩa trong thí dụ đứa con] không giữ gì lại cho mình.

KINH VĂN

Như ông trưởng giả kia,
Biết tâm con kém cỏi,
Nên dùng sức phương tiện,
Để uốn nắn tâm ấy,
Rồi sau mới giao phó,
Cho hết thảy tài sản.
Đức Phật cũng như thế,
Hiện ra việc ít có,
Biết tâm ưa Tiểu thừa,
Liền dùng sức phương tiện,
Để điều phục tâm ấy,
Rồi dạy trí Đại thừa.
Chúng con ngày hôm nay,
Được việc chưa từng có,
Trước đây không mong cầu,
Mà hôm nay đạt được.
Như đứa con khốn cùng,
Được vô số của quý.
Thế Tôn! Nay chúng con,
Đã đạt đạo, chứng quả,
Đối với pháp vô lậu,
Được mắt pháp thanh tịnh.
Chúng con trong đêm dài,
Giữ tịnh giới của Phật,
Hôm nay mới vừa được,
Kết quả như thế này.
Trong pháp của Pháp vương,
Tu Phạm hạnh lâu dài,
Nay được quả vô lậu,
Tối thượng, không gì hơn.
Chúng con ngày hôm nay,
Mới thật là Thanh văn,
Đem âm thanh pháp Phật,
Khiến tất cả được nghe.
Chúng con ngày hôm nay,
Thật là bậc Ứng cúng,
Đối với khắp thế gian,
Trời, người, ma, Phạm chí,
Khắp trong đại chúng ấy,
Xứng đáng nhận cúng dường.

Tổng đoạn thứ hai gồm 10 khổ kệ, từ câu “Như ông trưởng giả kia” trở đi, tụng ý chính là giao phó gia tài sự nghiệp. Phần kệ tụng ở trước tương hợp với nghĩa này có 2 ý. Thứ nhất là [ông trưởng giả] chính thức giao phó gia tài sự nghiệp [cho con], thứ hai là [người con] được giao phó nên vui mừng. Nay ở phần này tụng lại cũng có 2 phần, [chia thành 2 đoạn]. Đoạn thứ nhất gồm 3 khổ kệ, tụng về sự chính thức giao phó. Đoạn thứ hai gồm 7 khổ kệ, tụng về việc [người con] được giao phó [gia nghiệp] nên vui mừng.

Đoạn thứ nhất 3 khổ kệ tụng nghĩa giao phó, phần kệ ở trước tụng nghĩa tương hợp chung về việc giao phó, phần này cũng tụng nghĩa chung, nhưng chia ra 1 khổ rưỡi kệ đầu tiên lặp lại thí dụ ở trước, 1 khổ rưỡi kệ còn lại tụng [nghĩa tương hợp với] ý chính giao phó tài sản sự nghiệp.

Đoạn thứ hai từ câu “Chúng con ngày hôm nay” trở đi gồm 7 khổ kệ, tụng nghĩa thứ hai là [người con] được giao phó gia nghiệp nên vui mừng. [“Thế Tôn! Nay chúng con, đã đạt đạo, chứng quả”], đạt đạo là nói đạt đạo thật tướng, chứng quả là nói chứng được một phần tập quả Đại thừa. Hai câu này nêu rõ việc khai mở chỗ biết như Phật. “Đối với pháp vô lậu, được mắt pháp thanh tịnh”, hai câu này nêu rõ việc khai mở chỗ thấy như Phật, tức là thấy được lý thật tướng. Ngày trước [theo pháp Tiểu thừa] được chỗ thấy vô lậu không rơi vào phàm phu, ngày nay [theo pháp Đại thừa] được chỗ thấy vô lậu không rơi vào Nhị thừa. Ngày trước dùng mắt tuệ thấy được lẽ không, ngày nay dùng mắt pháp thanh tịnh thấy được lẽ trung đạo. Về kết quả giữ giới, ngày trước [theo Tiểu thừa] trì giới và giữ hạnh thanh tịnh cùng làm rõ pháp vô lậu, [sau đó] hủy nhục thân, diệt tâm trí,[193] không còn người thọ nhận quả báo ấy; ngày nay [theo Đại thừa] thì giữ hạnh thanh tịnh có thể đạt được vô lậu, tức là rõ biết nhân, thọ nhận quả. Giữ giới tức là nghĩa duyên nhân, mắt pháp thanh tịnh thấy rõ lý tức là nghĩa chánh nhân.[194]

“Chúng con ngày hôm nay, mới thật là Thanh văn”, tức là [đã được] các giai vị chân thật trong Đại thừa. [Bồ Tát ở giai vị] Thập tín có thể dùng một âm thanh mà khiến cho khắp thế giới Đại thiên[195] [đều nghe được] nhưng cũng chỉ là tương tợ với đạo, chưa phải chân thật. [Bồ Tát] đạt đến các giai vị Thập trụ[196] tức là chân thật.

A-la-hán chân thật có 3 nghĩa, phần kệ tụng này chỉ nêu một nghĩa “ứng cúng” [là “xứng đáng nhận cúng dường”]. Nếu không còn khởi sinh biến dịch, diệt trừ hết thông hoặc, biệt hoặc, đó là các nghĩa “bất sanh”, “sát tặc”. Có thể là ruộng phước cho [hết thảy chúng sanh] trong mười pháp giới, đó là nghĩa là “ứng cúng”. “Ứng cúng” và “sát tặc” [là hai nghĩa] hỗ tương làm rõ cho nhau.

KINH VĂN

Ân đức của Thế Tôn,
Đem sự việc ít có,
Thương xót dạy dỗ cho,
Chúng con được lợi ích.
Dẫu qua vô số kiếp,
Ai người đền đáp được?
Dù tay chân phụng sự,
Lại cúi đầu kính lễ,
Cúng dường đủ mọi thứ,
Cũng không báo đáp được.
Dù đội trên đỉnh đầu,
Gánh vác bằng hai vai,
Trải qua vô số kiếp,
Với hết lòng cung kính,
Lại dùng thức ăn ngon,
Vô số y phục quý,
Cùng những thứ chăn nệm,
Đủ các loại thuốc men.
Dùng chiên đàn Ngưu đầu,
Cùng các loại trân bảo,
Để xây dựng tháp miếu,
Dùng vải quý trải đất…
Hết thảy những việc ấy,
Đều dùng để cúng dường,
Trải qua vô số kiếp,
Cũng không thể báo đáp.
Chư Phật là ít có,
Là vô lượng vô biên,
Là không thể nghĩ bàn.
Sức thần thông lớn lao,
Không lậu hoặc, vô vi,
Là vua của các pháp.
Thường vì kẻ hèn kém,
Nhẫn chịu những việc ấy,
Mang lấy tướng phàm phu,
Để thuyết pháp thích hợp.
Chư Phật với các pháp,
Đã hoàn toàn tự tại.
Rõ biết sự ưa muốn,
Cùng chí hướng, sức lực...
Của hết thảy chúng sanh.
Nên tùy sức nhận lãnh,
Dùng vô số thí dụ,
Để thuyết giảng giáo pháp.
Tùy căn lành đời trước,
Của mỗi một chúng sanh,
Biết rõ sự thành thục,
Hoặc chưa được thành thục,
Suy lường đủ mọi mặt,
Để phân biệt rõ biết,
Nên với đạo Nhất thừa,
Tùy nghi thuyết thành ba.

Phần kế tiếp gồm 13 khổ kệ [có thể tách riêng thành phần kết lại của kệ tụng, nội dung] xưng tán ân đức sâu dày của Phật khó báo đáp được. Ý nghĩa phần này y theo kinh văn có thể hiểu được, [không cần giải thích].

Theo ý riêng tôi thì ân đức lớn lao của đức Thế Tôn có thể kể ra như sau:

Thứ nhất, đức Phật dựng lập đạo từ bi, giúp chúng sanh trong sáu đường dứt trừ khổ não, mang lại sự an vui khi chứng đắc 4 thánh quả, khiến cho chúng sanh khắp trong 10 pháp giới đều thể nhập được 4 lời thệ nguyện lớn.[197] Đây là ân đức [dựng lên] tòa nhà Như Lai.

Thứ hai, đức Như Lai thực hành đạo Bồ Tát, chỉ bày giáo pháp lợi lạc hoan hỷ, trước đây đã từng dạy cho ta giáo pháp Đại thừa, tuy giữa đường tu tập có quên mất đi nhưng trí tuệ và ý nguyện [Đại thừa] không hề mất. Đó là ân đức [khi xuất gia ở trong] nhà Như Lai mát mẻ, ấm áp, có lòng đại từ ban sự an vui.

Thứ ba, chúng sanh chịu khổ não [như người con cùng khổ] thấy cha chỉ biết đứng nhìn, đức Phật [không từ bỏ mà luôn theo đuổi,] suy xét tìm cơ duyên thích hợp [để hóa độ,] giống như nghé con theo mẹ [không buông], thực hành đầy đủ 6 pháp ba-la-mật để làm lợi lạc chúng sanh. Đó là ân đức [khi xuất gia ở trong] nhà Như Lai, tránh được sự rét lạnh hay nóng bức, có lòng đại bi cứu bạt khổ não.

Thứ tư, đức Phật đã thành đạo rồi, lẽ ra có thể an hưởng niềm vui tịch diệt vô vi, nhưng ngài tự che giấu phẩm đức thần thông của mình, vận dụng những pháp mà [chúng sanh giống như đứa con] nghèo nàn kia ưa thích như 5 giới, 10 nghiệp lành… [để giáo hóa, giống như ông trưởng giả sai người] “dùng nước lạnh tưới lên mặt [đứa con đang hoảng sợ] cho tỉnh lại”. Đó là ân đức [khi đắp] y Phật ngăn che được sức nóng tham dục.

Thứ năm, đức Phật thị hiện hình tướng như tỳ-kheo già [trong thế gian, giống như ông trưởng giả] dùng phương tiện để gần gũi [đứa con cùng khổ,] trả giá cho [con làm công] mỗi ngày. Đó là ân đức [khi đắp] y Phật trừ được sự rét lạnh của kiến chấp và sức nóng của ái luyến.

Thứ sáu, sau khi vận dụng phương tiện như vậy rồi, đến lúc [chúng sanh] đã phát khởi được niềm tin liền chê trách bác bỏ khiến cho hổ thẹn [vì tu theo] Tiểu thừa và sinh tâm ngưỡng mộ Đại thừa. Đó là ân đức [khi đắp] y Phật ngăn chặn được những điều xấu ác hèn kém.

Thứ bảy, [đức Phật thuyết dạy giáo pháp Đại thừa như ông trưởng giả] giao cho con nhận lãnh mọi việc nhà, vàng bạc cho đến tất cả kho chứa đều rõ biết. Đó là ân đức [khi đắp] y Phật ta được trang nghiêm.

Thứ tám, [trong pháp hội Pháp hoa, Phật thụ ký cho các đệ tử, như ông trưởng giả] triệu tập người trong gia tộc để tuyên bố xác định quan hệ cha con, giao phó gia nghiệp, [nên đối với] Phật pháp vô thượng không mong cầu mà tự nhiên có được. Đó là ân đức [cho ta ngồi] tòa Như Lai.

Thứ chín và thứ mười là đã được ngồi tòa Như Lai, thân tâm thảnh thơi, nhanh chóng đạt được sự an ổn, rồi dùng âm thanh Phật đạo để khiến cho tất cả [chúng sanh] đều được nghe, bao gồm trong đó hết thảy chư thiên và loài người nên thọ nhận cúng dường. Đó là ân đức [cho ta] ngồi tòa Như Lai nên được đầy đủ cả 2 pháp tự thực hành và giáo hóa chúng sanh.

Kinh văn nói rằng ân đức lớn lao của đức Thế Tôn dù có dùng hai vai gánh vác [trong vô số kiếp] cũng không thể báo đáp được, chính là nói những ân đức như thế.[198]

___________________________


CHÚ THÍCH

[1] Văn Cú dùng chữ Bà-già-bà (婆伽婆), phiên âm từ chữ bhagavat, dịch là Thế Tôn.

[2] Văn Cú dùng “三相 - tam tướng”, chỉ các tướng hữu vi gồm sinh tướng (sinh ra, hình thành), trụ dị tướng (tồn tại và thay đổi) và diệt tướng (hủy hoại, diệt mất). Tất cả các pháp hữu vi đều biến chuyển theo ba tướng này.

[3] Văn Cú dùng chữ ? (cách), theo từ điển Khang Hy là giống như chữ “骼 - cách”, chỉ bộ xương.

[4] Bốn đại, chỉ các yếu tố hình thành thân người, bao gồm đất (địa đại), chỉ cho tính chất cứng rắn; nước (thủy đại), chỉ cho tính chất ẩm ướt; gió (phong đại), chỉ cho tính chất chuyển động, hay động năng; và lửa (hỏa đại), chỉ cho tính chất ấm nóng, hay nhiệt năng.

[5] Nguyên tác dùng “四威儀 - tứ oai nghi”, ở đây chỉ bốn tư thế chuyển động bình thường của cơ thể là đi, đứng, nằm và ngồi.

[6] Theo Văn Cú Ký thì Ấn sư là đệ tử của Long sư, Long sư là đệ tử của ngài Tuệ Viễn (334-416), ngoài ra không có thông tin nào khác.

[7] Các kinh luận liệt kê tất cả các chi tiết trong thân thể con người thành 36 món khác nhau, gồm 12 món nhìn thấy bên ngoài (ngoại tướng) như tóc, lông, móng, răng...; 12 món tạo thành khí chất (thân khí) như da, máu, thịt...; 12 món nằm trong thân (nội hàm) như gan, mật, tim, phổi...

[8] Năm đường (ngũ đạo): tức bao gồm địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, cõi người và cõi trời. Theo cách tính này thì loài a-tu-la được xem là tùy theo nghiệp lực có thể sinh vào cõi người hoặc cõi trời. Do vậy cách hiểu này cũng tương đương như sáu đường (lục đạo), bao gồm tất cả chúng sinh trong ba cõi.

[9] Nguyên tác đề cập đến hai loại chim cú là cú mèo (鴟 - si) và cú vọ (梟 - kiêu).

[10] Chim cưu (鳩), tức là chim tu hú.

[11] Loài sâu có nhiều chân, hình dạng được mô tả là giống con rết.

[12] Nguyên tác là bá túc (百足), dịch sát nghĩa là “trăm chân”, nhưng thật ra chỉ chung những loại côn trùng rất nhiều chân, không phải chính xác là trăm chân.

[13] Thập sử (十使), tức mười yếu tố sai sử chúng sinh, thúc đẩy việc tạo nghiệp và do đó phải lưu chuyển mãi mãi trong sinh tử luân hồi. Thập sử bao gồm năm độn sử (tức là sự sai sử thô thiển) là tham (tham lam), sân (sân hận), si (si mê), mạn (kiêu mạn), nghi (nghi ngờ), và năm lợi sử (là những sự sai sử tinh tế hơn) là thân kiến (quan điểm chấp có thân), biên kiến (quan điểm thiên lệch, nghiêng về một bên), tà kiến (quan điểm sai lầm, không đúng chánh đạo), kiến thủ kiến (quan điểm sai lầm về nhận thức giác ngộ của chính mình, do đó sinh ra bám chấp) và giới cấm thủ kiến (quan điểm sai lầm về giữ giới, giữ theo những cấm giới sai lầm, không phải do Phật chế định, không có tác dụng phòng hộ thân tâm).

[14] Chỗ này Văn Cú ghi nhầm là 1 khổ rưỡi, nhưng trong phần giảng giải ở phía sau thì phân đoạn này chỉ có 1 khổ kệ. Phân đoạn thứ ba tiếp theo cũng ghi nhầm là 1 khổ rưỡi nhưng đúng ra là 2 khổ kệ. Chúng tôi đã điều chỉnh theo số đúng.

[15] Loài sâu do diên có hình dạng giống con rết, sống ở nơi ẩm thấp.

[16] Nguyên tác dùng “計淨等 - kế tịnh đẳng” là cách nói lược, chỉ nêu “tịnh” để chỉ chung “thường, lạc, ngã, tịnh” của thế gian.

[17] Ở đây chỉ sắc trần (hình sắc đẹp đẽ theo ý muốn), thanh trần (âm thanh êm dịu ngọt ngào như ý muốn), hương trần (mùi hương thơm tho như ý muốn), vị trần (vị nếm ngon ngọt như ý muốn) và xúc trần (sự xúc chạm mềm mại, khoái lạc).

[18] Văn Cú chép là “摣掣 - tra xế” (bộ thủ), trong khi kinh văn dùng chữ “䶥 - tra” (bộ xỉ), có lẽ để nhấn mạnh sự cắn xé bằng răng.

[19] Năm lợi sử (pañca-dṛṣṭayaḥ) bao gồm: tà kiến (邪見), thân kiến (身見), biên kiến (邊見), kiến thủ kiến (見取見) và giới cấm thủ kiến (戒禁取見). Do đó cũng gọi là ngũ kiến (五見).

[20] Tên quỷ dạ-xoa là phiên âm từ Phạn ngữ yakṣa, Hán dịch là tiệp tật (捷疾), nghĩa là rất nhanh nhẹn.

[21] Tà kiến (邪見): những kiến chấp tà vạy, sai trái, không đúng với lẽ chân thật. Do bám chấp vào đó mà không thể nhận biết được chân lý, sự thật.

[22] Giới cấm thủ kiến (戒禁取見): kiến chấp sai lầm về việc trì giới, như giữ theo các giới cấm mê muội, sai lầm của ngoài đạo mà cho rằng sẽ đưa đến giải thoát. Kiến chấp này cũng được hiểu như là vận dụng sai lầm các giới luật đã thọ trì, dẫn đến làm chướng ngại cho sự tu tập.

[23] Kinh Viên giác gọi tên quỷ này là cát-bàn-trà (吉槃茶) và nói là Đại lực quỷ vương, cai quản các quỷ khác. (ĐCT, T17, 842, tr.922a, d.17.)

[24] Nguyên tác Văn Cú dùng “六天 - lục thiên” tức Lục dục thiên, chỉ sáu tầng trời thuộc Dục giới, bao gồm: 1. Tứ thiên vương thiên (Cāturmahārājakāyika-deva), 2. Đao-lợi thiên hay Tam thập tam thiên (Tryastriṃśa), 3. Dạ-ma thiên (Yāma), 4. Đâu-suất thiên (Tuṣita), 5. Hóa lạc thiên (Nirmāṇarati), 6. Tha hóa tự tại thiên (Paranirmita-vaśa-vartin).

[25] Tức chỉ đến cõi trời Tha hóa tự tại, cao nhất trong Dục giới.

[26] Lục hành quán (六行觀), cũng gọi là lục hành tướng, là sáu pháp thực hành quán tưởng sáu hành tướng, bao gồm 3 hành tướng chán lìa là thô, khổ và chướng (ở hạ địa) cùng 3 hành tướng ưa thích là tĩnh, diệu và ly (ở thượng địa).

[27] Văn Cú dùng giác quán (覺觀), là cách nói khác của tầm tứ (尋伺), chỉ các niệm tưởng, tư tưởng thô và tế khởi sinh trong tâm.

[28] Thân kiến (身見): kiến chấp cho rằng thân này là thật có, cho nên cũng gọi là “hữu thân kiến”. Vì chấp thân này là thật có, khác biệt với những thứ ngoài thân, cho nên cũng chính là ngã kiến.

[29] Nguyên tác Văn Cú dùng tàm quý (慚愧), chỉ sự hổ thẹn. Tàm là tự mình nhận biết đã phạm phải điều lỗi lầm xấu ác, tự xấu hổ với chính mình. Quý là làm điều lỗi lầm xấu ác bị người khác nhận biết nên hổ thẹn với người. Do vậy, người có tâm tàm quý thì không dám phạm vào những điều lỗi lầm xấu ác. Lại cũng có cách hiểu rằng tàm là mến mộ các công đức, việc lành, mong muốn thực hiện; quý là kinh sợ các điều xấu ác, cố tránh xa không dám phạm vào.

[30] Văn Cú dùng “kiến thủ” (見取), tức chỉ kiến thủ kiến (見取見), gọi đầy đủ là kiến đẳng thủ kiến (見等取見), tức kiến chấp nắm giữ, bám víu những quan điểm sai lầm. Cụ thể là đối với những pháp xấu xa hạ liệt mà các bậc thánh dứt trừ nhưng lại bám chấp cho đó là thù thắng, tốt đẹp.

[31] Biên kiến (邊見): kiến chấp thiên lệch, nghiêng về một bên, không đúng sự thật.

[32] Văn Cú dùng chữ “thuần” (純) e là chép nhầm chữ “độn” (鈍) vì hai chữ gần giống nhau.

[33] Trong phần phân chia tổng quát ở trước, Văn Cú có sự nhầm lẫn khi nói là tiểu đoạn thứ hai gồm một khổ rưỡi kệ và tiểu đoạn thứ ba cũng gồm một khổ rưỡi kệ. Xét theo nội dung giảng giải và phân đoạn ở phần này thì tiểu đoạn thứ hai chỉ có 1 khổ kệ và tiểu đoạn thứ ba gồm 2 khổ kệ.

[34] Thân, thọ, tâm, pháp: tức bốn đối tượng của pháp quán tứ niệm xứ.

[35] Văn Cú dùng chữ “phong đao” (風刀) để chỉ trạng thái đau đớn như dao cắt xẻ thân thể thành từng mảnh khi tứ đại tan rã, do phong đại dao động mà tạo ra.

[36] Vì giới cấm thủ kiến thuộc về năm lợi sử nên ở đây nói tách riêng.

[37] Văn Cú dùng “ngũ chi” (五支) chỉ 5 chi trong 12 chi phần tức thập nhị nhân duyên, tức là các chi: thức, danh sắc, lục xứ, xúc và thọ. Trong 12 nhân duyên thì 2 chi vô minh và hành được xem là nhân quá khứ, 3 chi ái, thủ và hữu là nhân hiện tại, 5 chi vừa đề cập ở đây là quả hiện tại và 2 chi cuối cùng gồm sinh và lão tử là quả tương lai.

[38] Lập luận ở đây dựa trên ý nghĩa sự chán ghét, không ưa thích thuộc về tâm sân hận.

[39] Văn Cú dùng “phi tưởng” tức là “phi tưởng thiên” (非想天), để chỉ cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ (非想非非想處天). Đây là cõi trời cao nhất trong cõi Vô sắc nên cũng là cao nhất trong ba cõi.

[40] Cõi Vô sắc không có hình sắc, nên trong năm ấm chỉ còn lại bốn ấm là thọ, tưởng, hành và thức.

[41] Cõi trời Hữu đảnh: là tên khác của cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng.

[42] Văn Cú chép câu này là: “Xả kỷ dụng xa, tẩm đại thí tiểu” (捨几用車寢大施小), tức nói theo ý nghĩa ở phần trước, ông trưởng giả từ bỏ ý định dùng sức mạnh đặt các con lên bàn, ghế… để đưa ra ngoài, quay sang dùng phương tiện dẫn dụ các con bằng các loại xe đẹp để các con tự chạy ra khỏi nhà. “Tẩm Đại thí tiểu” là ý nghĩa liên kết thí dụ này với việc đức Phật tạm ngưng việc thuyết giảng Đại thừa, quay sang thuyết giảng các pháp phương tiện Tiểu thừa. Chúng tôi chuyển dịch câu này theo ý đã dùng ở trước để người đọc dễ theo dõi.

[43] Văn Cú dùng “đệ nhất nghĩa không” (第一義空), cũng gọi là thắng nghĩa không (勝義空) hay chân thật không (真實空), chỉ Niết-bàn của Đại thừa, vì thật tướng của các pháp là đệ nhất nghĩa cao tột hơn hết, không phải thường, không phải diệt, không phải thọ nhận, không phải bám chấp, tánh thể tự nhiên như vậy, trước vốn là không mà nay thành có, tuy có nhưng rồi rốt lại là không, cho nên gọi là đệ nhất nghĩa không.

[44] Văn Cú dùng “nhữ hữu duyên chư tử - 汝有緣諸子” (các con có nhân duyên của ngài) để chỉ các chúng sinh, dựa theo ý trong thí dụ nói về các con của ông trưởng giả.

[45] Nguyên tác Văn Cú dùng “tứ chủng tứ môn” (四種四門) để chỉ bốn pháp nhập môn của Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo, bao gồm Hữu môn, Không môn, Diệc hữu diệc không môn và Phi hữu phi không môn.

[46] Nguyên tác Văn Cú dùng “tứ chủng tứ đế” (四種四諦) để chỉ bốn chân đế được nhận hiểu và tu tập theo Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo.

[47] Nguyên tác Văn Cú dùng “hoành thụ - 橫竪” để chỉ hai cách lý giải theo thời gian. Hoành là nói sự việc xảy ra trong cùng một thời điểm (nhất thời), và thụ là nói sự việc xảy ra theo trình tự thời gian.

[48] Nguyên tác Văn Cú dùng “thất chủng phương tiện - 七種方便” để chỉ đến: 1. Thanh văn của Tạng giáo, 2. Duyên giác của Tạng giáo, 3. Thanh văn của Thông giáo, 4. Duyên giác của Thông giáo, 5. Bồ Tát của Thông giáo, 6. Bồ Tát của Biệt giáo, 7. Bồ Tát của Viên giáo. So với phàm phu thì tất cả các vị này đều là hiền thánh. Đức Phật là bậc tôn quý nhất giữa tất cả những vị này.

[49] Nguyên tác Văn Cú dùng “cửu chủng - 九種”, Văn Cú Ký giải thích rằng cửu chủng ở đây chỉ cửu giới (界), tức 9 pháp giới. Thập pháp giới bao gồm 6 cảnh giới phàm (lục phàm) và 4 cảnh giới thánh (tứ thánh). Lục phàm gồm: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, a-tu-la, cõi trời và cõi người. Tứ thánh gồm: Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát và Phật. Khi nói 9 pháp giới tức là trừ ra Phật pháp giới.

[50] Nguyên tác kinh văn là “thị chư tử đẳng - 是諸子等“, hiểu sát nghĩa là “những đứa con này”. Tuy nhiên, trong ngữ cảnh này, “những đứa con” đang được dùng để ví với chúng sinh, và cụ thể hơn là những chúng sinh được nghe đức Phật thuyết dạy “con đường xuất thế gian”. Do vậy chúng tôi dịch là “những chúng sinh được nghe”. Hòa thượng Trí Quang dịch câu kệ này thành hai câu là: “Các loại chúng sinh, con của Như Lai.”

[51] Khổ pháp nhẫn: tức một trong hai pháp nhẫn là Khổ pháp nhẫn (苦法忍) và Đạo pháp nhẫn (道法忍). Khổ pháp nhẫn đạt được khi hành giả bước vào giai vị Kiến đạo, tin nhận Khổ đế trong cõi Dục. Đạo pháp nhẫn đạt được khi hành giả hiểu và tin nhận Đạo đế.

[52] Nhị đế ở đây là Diệt đế và Đạo đế, vì tu tập đạo, chứng tịch diệt thì dứt trừ khổ.

[53] Văn Cú chép là “五十行半 - ngũ thập hàng bán” (50 khổ rưỡi kệ), nhưng đúng ra phải là “五十五行半- ngũ thập ngũ hàng bán“ vì phần này là 55 khổ rưỡi kệ.

[54] Ở đây dẫn ý câu kinh ở quyển 5, phẩm Như Lai thọ lượng của kinh Pháp hoa, nguyên văn là: “深心信解則為見佛常在耆闍崛山- Thâm tâm tín giải tắc vi kiến Phật thường tại Kỳ-xà-quật sơn.” Núi Kỳ-xà-quật tức là núi Linh thứu. (Xem ĐCT, T9, số 262, trang 45b, d.17-18.)

[55] Về duyên nhân, chánh nhân và liễu nhân, kinh Niết-bàn dạy rằng đều là các nhân đưa đến quả Phật. Duyên nhân là nhân hỗ trợ từ bên ngoài, chánh nhân là nhân chân chánh, liễu nhân là nhân rốt ráo.

[56] Đến đây là hết phần giải thích phẩm Thí dụ.

[57] Nguyên tác dùng nhất vãng hóa (一往化), tùy trục hóa (隨逐化) và tất cánh hóa (畢竟化). Nhất vãng hóa là nói chư Phật, Bồ Tát chỉ hiện thân đến giáo hóa một lần, như chúng sanh mê lầm trôi lăn trong sinh tử, được gặp chư Phật, Bồ Tát giáo hóa một lần thì kết duyên với Phật pháp, tương lai có thể nhờ đó được giải thoát; tùy trục hóa là chư Phật, Bồ Tát theo đuổi để tiếp tục giáo hóa, như chúng sanh trôi lăn trong sáu đường, đọa lạc vào các đường ác, chư Phật, Bồ Tát cũng hóa thân đi theo vào các cảnh giới ấy để tiếp tục giáo hóa, tùy thuận căn cơ của mỗi chúng sanh; tất cánh hóa là giáo hóa một cách rốt ráo, chỉ bày giáo pháp chân thật tối hậu để giúp chúng sanh chấm dứt sinh tử luân hồi, giải thoát hoàn toàn khỏi mọi khổ đau, thể nhập Đại Niết-bàn giống như chư Phật không khác.

[58] Nguyên tác dùng kết tăng-na (結僧那). Tăng-na là phiên âm chữ saṃnāha trong Phạn ngữ, có nghĩa là lời nguyện rộng lớn (hoằng thệ), thường dùng chỉ Tứ hoằng thệ (4 lời nguyện lớn), tức là: chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành. Kết tăng-na là kết nguyện (結願), tức là lập nguyện.

[59] Thí dụ “am cỏ”, tức là thí dụ trong kinh văn nói đứa con bần cùng khi về với ông trưởng giả nhưng chưa nhận mối quan hệ cha con, tuy được giao quản lý việc nhập vào xuất ra các tài bảo nhưng vẫn ở ngoài nhà, ngủ nghỉ trong một am cỏ. Nguyên văn kinh nói: “諸物出入皆使令知, 猶處門外止宿草庵,自念貧事:我無此物。 - Chư vật xuất nhập giai sử linh tri, do xử môn ngoại chỉ túc thảo am, tự niệm bần sự: Ngã vô thử vật.” (Những tài vật nhập vào xuất ra, [ông trưởng giả] đều sai khiến [đứa con] phải rõ biết, nhưng vẫn còn ở bên ngoài nhà, nghỉ đêm trong một am cỏ, tự mình nghĩ sự nghèo hèn: “Ta không hề sở hữu những tài vật này.”)

[60] Thí dụ “hạt châu buộc trong chéo áo”: tức là thí dụ trong kinh văn nói, có người đến chơi nhà thân hữu giàu có, được ông này cho một hạt châu rất quý, buộc giấu vào bên trong chéo áo. Về sau lưu lạc khổ sở, đói thiếu triền miên nhưng không hề nhớ đến hạt châu quý giá. Cho đến khi gặp lại người thân hữu thuở trước liền chỉ ra hạt châu trong chéo áo, từ đó mới trở nên giàu có sung túc.

[61] Ở đây sử dụng cách phân loại ba vòng thuyết pháp: thuyết chánh pháp, thuyết thí dụ và thuyết nhân duyên.

[62] Đoạn này Văn Cú trích dẫn không đầy đủ, chúng tôi bổ sung đúng theo kinh văn. Văn Cú dùng vô nguyện, trong khi kinh văn dùng vô tác. Ở đây đề cập đến tam giải thoát môn (三解脫門), bao gồm: không môn (空門), vô tướng môn (無相門) và vô tác môn (無作門). Vô tướng cũng được gọi là vô tưởng (無想), vô tác (無作) cũng được gọi là vô nguyện (無願) hay vô dục (無欲).

[63] Nguyên tác dùng “五佛 - ngũ Phật” nhưng là chỉ đến 5 lượt nói về chư Phật, thứ nhất nêu về chư Phật nói chung, thứ hai nói về chư Phật quá khứ, thứ ba nói về chư Phật vị lai, thứ tư nói về chư Phật trong hiện tại và thứ năm nói riêng về Phật Thích-ca.

[64] Ở đây phân biệt hai trường hợp là “信行 - tín hành” và “法行 - pháp hành”. Người tu tập theo Tiểu thừa dựa vào niềm tin để khởi sự hành trì nên gọi là tín hành, người tu tập theo Đại thừa dựa theo giáo pháp để thực hành nên gọi là pháp hành.

[65] Tu đạo (修道): tức là một trong Tam đạo (三道), bao gồm Kiến đạo (見道), Tu đạo (修道) và Vô học đạo (無學道). Kiến đạo là giai đoạn ban sơ nhận hiểu con đường tu tập; tu đạo là giai đoạn tiếp theo đi vào tu tập hành trì; vô học đạo là giai đoạn thành tựu, vượt trên mọi kiến giải, tri thức của thế gian.

[66] Tức là bốn vị được đề cập trong phẩm này, bao gồm các vị Tu-bồ-đề, Ma-ha Ca-chiên-diên, Ma-ha Ca-diếp và Ma-ha Mục-kiền-liên.

[67] Tuệ mạng (慧命): dịch từ Phạn ngữ āyuṣmat, cũng dịch là cụ thọ mạng (具壽命), cụ thọ (具壽), tuệ thọ (慧壽), là tiếng tôn xưng đặt trước danh hiệu vị tỳ-kheo đức độ, cũng như ngày nay ta thường dùng Đại đức, Thượng tọa v.v. Người xuất gia xem nhẹ thân xác thịt, chỉ xem trọng Pháp thân. Pháp thân được nuôi dưỡng bởi trí tuệ là thọ mạng, cũng như thân xác thịt được nuôi dưỡng bởi thức ăn. Do vậy những vị xuất gia đức độ cao dày được tôn xưng là Tuệ mạng.

[68] Tức ngài Tu-bồ-đề (須菩提), là tên phiên âm từ Phạn ngữ là Subhūti, được dịch nghĩa theo nhiều cách khác nhau như Thiện Nghiệp (善業), Thiện Cát (善吉), Thiện Hiện (善現), Thiện Thật (善實), Thiện Kiến (善見), Không Sinh (空生).

[69] Nguyên tác dùng pháp lạp (法臘), chỉ số năm đã xuất gia, tức là tuổi đạo, vì mỗi năm người xuất gia đều phải trải qua một kỳ an cư nên gọi là hạ lạp (夏臘). Còn có nhiều cách nói khác để chỉ tuổi đạo, cũng đều dùng chữ lạp, như tăng lạp (僧臘), pháp lạp (法臘), giới lạp (戒臘), tọa lạp (坐臘), hoặc cũng gọi là pháp tuế (法歲), pháp hạ (法夏).

[70] Ý nói hoa sen chỉ có thể sinh ra ở nơi bùn lầy, dưới ao hồ. Phần này lấy ý từ kinh Duy-ma-cật.

[71] Gọi chung là nhị trí (二智), chỉ hai loại trí tuệ của bậc A-la-hán. Tận trí (盡智), chuyển dịch từ Phạn ngữ Kṣaya-jñāna, chỉ trí tuệ được sinh khởi ở quả vị vô học, đoạn trừ hết thảy phiền não, tự biết mình đã thành tựu sự tu tập Tứ đế: biết khổ, dứt tập, chứng diệt, tu đạo. Vô sanh trí (無生智), chuyển dịch từ Phạn ngữ anutpādajñāna, chỉ trí tuệ rõ biết hết thảy các pháp đều không thực sự có sinh có diệt, nhờ đó dứt trừ hết thảy phiền não, xa lìa sinh diệt.

[72] Kinh văn dùng chữ “半字 - bán tự” (nửa chữ), lấy ý từ kinh Đại Bát Niết-bàn, dùng để chỉ kinh điển hay pháp môn chưa rốt ráo, chưa phải thật nghĩa tối hậu, đối lại với “滿字 - mãn tự” (trọn chữ) để chỉ đến kinh điển hay pháp môn rốt ráo, là chân lý tối hậu.

[73] Phật Lô-xá-na (Vairocana), gọi đủ là Tỳ-lô-xá-na, tức Phật Đại Nhật hay Tịnh Mãn, được dùng để chỉ đến Báo thân hay Hóa thân Phật, có ý nghĩa là “biến nhất thiết xứ”, “biến chiếu” hay “quang minh biến chiếu”.

[74] Nguyên tác dùng “trượng lục”, tức một trượng sáu thước, mỗi trượng bằng 10 thước, theo đơn vị hiện nay thì tương khoảng 3,3 mét. Như vậy một trượng sáu thước là khoảng hơn 5 mét. Kinh văn dùng độ cao này để chỉ thân Phật khi thị hiện ở cõi người.

[75] Chỗ này Văn Cú dùng “tiệm hướng phụ quốc - 漸向父國” (dần dần hướng về đất nước của cha), nhưng kinh văn đoạn được trích dẫn này là “tiệm tiệm du hành ngộ hướng bản quốc - 漸漸遊行遇向本國”, cho nên chúng tôi căn cứ kinh văn, vẫn dịch là “dần dần lại đúng hướng về nước cũ”.

[76] Đoạn này Văn Cú chỉ trích một phần, vì đúng ra phải là: “若人遭苦,厭老病死,為說涅槃,盡諸苦際 - Nhược nhân tao khổ, yếm lão bệnh tử, vị thuyết Niết-bàn, tận chư khổ tế.” (Với những người gặp khổ, chán bỏ già, bệnh, chết; vì họ thuyết Niết-bàn, dứt hết mọi cảnh khổ.)

[77] Bốn cách sinh: chỉ chung những cách sinh ra của tất cả chúng sanh, bao gồm thai sinh (sinh từ bào thai), noãn sinh (sinh từ trứng), thấp sinh (sinh từ nơi ẩm ướt) và hóa sinh (sinh từ sự biến hóa).

[78] Câu kinh này nằm trong quyển 3, phẩm Dược thảo dụ, nguyên văn là: “過百三十劫, 今乃得一見 - Quá bách tam thập kiếp, kim nãi đắc nhất kiến.” Xem Đại Chánh tạng, Tập 9, số 262, trang 24, tờ a, dòng 24.

[79] Tức chỉ ngã kiến, biên kiến, tà kiến và kiến thủ kiến.

[80] Ở đây hàm ý những người ngoại đạo này đều đã chán lìa cảnh khổ thế gian, đang muốn cầu tìm chân lý, nên đó là duyên có thể được Phật hóa độ.

[81] Chỗ này Văn Cú dùng chữ “大經 - Đại kinh” để chỉ kinh Đại Bát Niết-bàn.

[82] Đoạn kinh được trích dẫn ở đây nằm trong quyển 30 của kinh Đại Bát Niết-bàn. (Nam bản - Xem Đại Chánh tạng, Tập 12, số 375, trang 800) Ở quyển 33 có câu: “四方者即是四諦 - Tứ phương giả tức thị tứ đế.” Xem Đại Chánh tạng, Tập 12, số 375, trang 824, tờ c, dòng 14-15. Phần giảng giải ở đây có lẽ dựa vào cả hai đoạn kinh văn.

[83] Tức đoạn đức của Phật, là phẩm tính dứt trừ hết thảy mọi phiền não. Quả vị Phật thành tựu ba đức mà không ai có được là trí đức (trí tuệ Bát-nhã), đoạn đức (phẩm đức dứt trừ hết thảy mọi phiền não) và ân đức (ân đức giáo hóa chúng sanh lớn lao không gì so sánh được).

[84] Đồng thể đại bi: tâm đại bi khởi sinh từ sự nhận thức, quán tưởng tất cả chúng sanh với bản thân mình đều bình đẳng, cùng một thể tánh.

[85] Đức Phật tùy nghi hóa độ nên chúng sanh tùy theo căn cơ khác biệt mà nhìn thấy ứng hóa thân của Phật cũng khác biệt. Liệt ứng hóa thân là thân một trượng sáu thước ở cõi phàm, được nhìn thấy bởi hàng Thanh văn và chúng phàm phu. Phật ứng hiện thân này ở cõi phàm thánh đồng cư để giáo hóa chúng sanh. Thắng ứng hóa thân là thân tướng hảo quang minh bao trùm khắp pháp giới, tuy cũng có thể hiện ra như thân một trượng sáu thước nhưng có đủ thần thông tự tại. Phật ứng hiện thân này ở cõi phương tiện hữu dư để giáo hóa chúng sanh.

[86] Nguyên tác dùng “五人 - ngũ nhân”, Văn Cú Ký giải thích rằng ở đây chỉ những người đạt 5 thánh quả của Nhị thừa, gồm các quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán và Bích-chi Phật. Các vị này tuy chứng thánh quả nhưng đều hướng theo Tiểu thừa, khi sinh về cõi phương tiện hữu dư được gặp ứng hóa thân của Phật thì đều được giáo hóa trở thành Bồ Tát theo Đại thừa.

[87] Thông hoặc (phiền não chung), chỉ kiến hoặc và tư hoặc, là những phiền não mà tất cả những ai tu tập đều phải hướng đến dứt trừ, do đó gọi là thông hoặc, khác với biệt hoặc (phiền não riêng) là những phiền não vi tế như trần sa hoặc và vô minh hoặc, chỉ lên đến hàng Bồ Tát Biệt giáo mới có thể dứt trừ.

[88] Mười tám nghĩa không bao gồm: 1. Nội không; 2. Ngoại không; 3. Nội ngoại không; 4. Không không; 5. Đại không; 6. Đệ nhất nghĩa không; 7. Hữu vi không; 8. Vô vi không; 9. Tất cánh không; 10. Vô thủy không; 11. Tán không; 12. Tính không; 13. Tự tướng không; 14. Chư pháp không; 15. Bất khả đắc không; 16. Vô pháp không; 17. Hữu pháp không; 18. Vô pháp hữu pháp không.

[89] Nhất tâm tam quán, cũng gọi là Bất thứ đệ tam quán, tức công phu thành tựu chỉ trong một tâm niệm có thể tu tập cả ba pháp quán là không quán, giả quán và trung quán.

[90] Hành giả thực hiện đủ ba pháp quán là không quán, giả quán và trung quán, nhưng không phải đồng thời mà theo cách tuần tự.

[91] Tức không quán, cũng gọi là Thể không quán hay Thể pháp nhập không quán, tức công phu thành tựu quán chiếu ngay nơi thể tánh các pháp mà thấu suốt được lẽ không, khác với Tích không quán, còn gọi là Tích pháp nhập không quán, tức nhờ vào công phu quán chiếu phân tích, chia chẻ các pháp mà thể nhập, thấu suốt được lẽ không. Theo giáo lý tông Thiên Thai thì Tích không quán thuộc về Tạng giáo, Tức không quán thuộc về Thông giáo.

[92] Nguyên tác là “行於非道通達佛道 - hành ư phi đạo thông đạt Phật đạo” (Làm những việc trái đạo là thông đạt Phật đạo.) Đây là ý nghĩa được giảng rộng trong phẩm Phật đạo của kinh Duy-ma-cật, có thể hiểu đại lược qua lời ngài Duy-ma-cật như sau: “Bồ Tát thi hành năm tội vô gián nhưng không có giận hờn; đến cảnh địa ngục nhưng không có cấu uế; đến cảnh súc sinh nhưng không có những tội lỗi như vô minh, kiêu mạn; đến cảnh ngạ quỷ nhưng đầy đủ công đức…” Nói tóm lại, đó là những hành vi có vẻ như không phù hợp hoặc trái ngược với đạo pháp nhưng động cơ sinh khởi và mục đích nhắm đến đều là lợi mình lợi người.

[93] Hai ứng hóa thân: tức Liệt ứng hóa thân và Thắng ứng hóa thân, đã đề cập ở phần trước.

[94] Nguyên tác dùng “涅槃通半滿 - Niết-bàn thông bán mãn”. Nghĩa của “bán mãn” được dùng tương tự như “bán tự” và “mãn tự” trong kinh Đại Bát Niết-bàn, nghĩa là để chỉ Niết-bàn viên mãn (của Đại thừa) và Niết-bàn chưa viên mãn (của Tiểu thừa).

[95] Tức là đến thời điểm thuyết giảng kinh Pháp hoa.

[96] Những ví dụ này đều rút từ kinh điển để nói lên rằng trước pháp hội Pháp hoa thì hàng Thanh văn không được nghe nói đến việc họ cũng có khả năng thành Phật.

[97] Nội phàm (內凡): theo Đại thừa là chỉ các giai vị thuộc Tam hiền, bao gồm Thập trụ, Thập hạnh và Thập hồi hướng của hàng Bồ Tát, phân biệt với ngoại phàm (外凡) là các giai vị thuộc Thập tín. So sánh với ví dụ đã nêu ở trước thì nội phàm chỉ việc đã vào được cảnh giới Phật, như thập trụ là “dân thường”, thập hạnh là “viên chức”, thập hồi hướng là “quan phụ tá” v.v.

[98] Nguyên tác dùng bổ xứ (補處)), tức nhất sanh bổ xứ (一生補處)), chỉ vị Bồ Tát ra đời giáo hóa trong kiếp sống cuối cùng trước khi thành Phật.

[99] Chúng ảnh hưởng: một trong bốn chúng nghe pháp, đã được giải thích ở phần đầu. Chúng ảnh hưởng là những vị Bồ Tát pháp thân từng tu tập nơi chư Phật quá khứ xa xưa, nay tự giấu kín chỗ viên mãn cùng cực của mình để theo trợ giúp [sự giáo hóa của] đấng Pháp vương hiện tại.

[100] Trong Nguyên tác đến đây là hết phần thượng của quyển 6, bắt đầu phần hạ.

[101] Nguyên tác dùng “道後法身 - đạo hậu pháp thân”. Đạo tiền chỉ giai đoạn tu tập chưa vào Sơ địa; từ Sơ địa trở lên gọi là Đạo trung; sau khi tu hành chứng ngộ gọi là Đạo hậu.

[102] Lòng từ bi vô duyên: nghĩa là lòng từ bi khởi sinh vô điều kiện, chỉ vì thương xót chúng sanh muốn cứu khổ ban vui mà khởi sinh lòng từ bi này.

[103] Tám thứ ma: bao gồm ma phiền não, ma năm ấm, ma chết, ma trời Tha hóa tự tại (là những yếu tố não hại tất cả phàm phu) và vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh (là những yếu tố não hại những người tu tập thuộc hàng Nhị thừa).

[104] Nguyên tác là “第一義空 - đệ nhất nghĩa không”, tức nghĩa không rốt ráo vì không còn nghĩa nào khác hơn nữa.

[105] Nguyên tác là “四無所畏 - tứ vô sở úy”, tức bốn đức không sợ của chư Phật, Bồ Tát, vì có đủ năng lực, sự tự tin, dũng mãnh, không sợ sệt trong bất cứ hoàn cảnh nào. Bốn đức không sợ của chư Phật do đã thành tựu rốt ráo, bao gồm: 1. Nhất thiết trí vô sở úy; 2. Lậu tận vô sở úy; 3. Thuyết chướng đạo vô sở úy; 4. Thuyết tận khổ đạo vô sở úy. Bốn đức không sợ của hàng Bồ Tát do có đủ năng lực ứng phó, bao gồm: 1. Tổng trì bất vong thuyết pháp vô úy; 2. Tận tri pháp dược, cập tri chúng sanh căn dục tánh tâm, thuyết pháp vô úy; 3. Thiện năng vấn đáp, thuyết pháp vô úy; 4. Năng đoạn vật nghi, thuyết pháp vô úy.

[106] Nội phàm phu (內凡夫) hay nội phàm (內凡). “Phàm” nghĩa là còn phàm tục; “nội” là bước vào trong, đối với chân lý đã có phần nào nhận hiểu. Theo Đại thừa là chỉ những người đã đạt đến các giai vị thuộc Tam hiền, bao gồm Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng. Phân biệt với ngoại phàm (外凡) là còn bên ngoài, chỉ phàm phu chưa nhận hiểu chân lý, là các giai vị sơ cơ như Thập tín, phục nhẫn…

[107] Nguyên tác dùng “雙結 - song kết”, chỉ việc kết duyên Đại thừa và kết duyên Tiểu thừa.

[108] Nguyên tác dùng “雙應 - song ứng”, chỉ việc ứng hiện Đại thừa và ứng hiện Tiểu thừa.

[109] Tôn đặc thân (尊特身), nghĩa là thân tôn quý, kỳ đặc, là tên khác của thắng ứng thân hay thắng ứng hóa thân, là thân ứng hiện của Phật chỉ hàng Bồ Tát từ Sơ địa trở lên mới có khả năng nhìn thấy, khác với liệt ứng hóa thân là thân ứng hiện mà phàm phu có thể nhìn thấy và chiêm bái.

[110] Pháp hoa nghĩa sớ giải thích rằng đây là giai vị đã đạt sáu căn thanh tịnh nhưng chưa vào được sơ địa.

[111] Ở đây Văn Cú đang đề cập đến tứ chủng anh lạc trang nghiêm (四種瓔珞莊嚴). Nguyên tác Văn Cú viết là: “即戒, 定, 慧, 陀羅尼, 三昧, 四瓔珞也 – Tức giới, định, tuệ, đà-la-ni, tam-muội, tứ anh lạc giả.” Trong câu này nói bốn loại anh lạc nhưng kể ra đến năm yếu tố. Theo kinh Thủ Hộ Quốc Giới Chủ Đà La Ni (守護國界主陀羅尼經), quyển 7, thì bốn loại anh lạc trang nghiêm của Bồ Tát là: giới, định, trí tuệ và đà-la-ni. (Xem Đại Chánh tạng, Tập 19, số 997, trang 557, tờ b, dòng 3-5.) Theo Tứ Phần Luật Hành Sự Sao Phê (四分律行事鈔批) trích dẫn kinh Đại tập thì bốn loại anh lạc trang nghiêm của Bồ Tát là: giới, tam-muội, trí tuệ, đà-la-ni. (Xem Vạn tục tạng, Tập 42, số 736, trang 668, tờ b, dòng 4-6.) Như vậy, Văn Cú lặp lại chữ “tam-muội” sau khi đã nói đến “định” ở trước đó, trong khi tam-muội cũng chính là định. Do vậy, trong bản dịch chúng tôi đã loại bỏ chữ tam-muội vì thừa.

[112] Nguyên tác là “四十地功德 - tứ thập địa công đức”, chỉ bốn loại công đức của hàng Bồ Tát Thập địa, bao gồm: 1. Bất động nhi chí chi đức (công đức không dao động mà có thể hiện thân đến bất cứ nơi đâu); 2. Nhất niệm biến chí chi đức (công đức dùng một ý niệm có thể thấu suốt đến mọi nơi); 3. Tán cúng chư Phật chi đức (công đức tán thán cúng dường chư Phật); 4. Thị pháp như Phật chi đức (công đức thuyết giảng hoằng truyền giáo pháp không khác với Phật).

[113] Bốn trụ địa: Nguyên tác dùng “tứ trụ - 四住“ tức tứ trụ địa (四住地), cũng chính là kiến hoặc và tư hoặc, bao gồm Kiến nhất thiết trụ địa (tức là hết thảy kiến hoặc trong ba cõi), Dục ái trụ địa (tức là hết thảy tư hoặc trong Dục giới), Sắc ái trụ địa (tức là hết thảy tư hoặc trong Sắc giới), Hữu ái trụ địa (tức là hết thảy tư hoặc trong Vô sắc giới). Bốn yếu tố này là căn bản khởi sinh của tất cả phiền não nên gọi là trụ địa.

[114] Quán không và quán giả là hai pháp quán căn bản theo tông Thiên thai. Quán không đưa đến sự thấu triệt chân lý về tánh không của các pháp, quán giả đưa đến sự thấu triệt tính chất giả hợp của các pháp. Theo ý nghĩa của đoạn này thì quán không giúp trừ được bốn trụ địa khởi sinh phiền não, quán giả đưa đến thấu triệt lý nhân duyên, trừ được sự si mê.

[115] Bảy loại hoa thanh tịnh, tức là thất tịnh hoa (七淨華), theo ngài Cưu-ma-la-thập thì gồm có: 1. Giới tịnh; 2. Tâm tịnh; 3. Kiến tịnh; 4. Độ nghi tịnh; 5. Phân biệt đạo tịnh; 6. Hành đoạn tri kiến tịnh; 7. Niết-bàn tịnh. So sánh với các yếu tố được Văn Cú liệt kê ở đây thì có thể thấy: Giới tịnh được trình bày giống nhau, Tâm tịnh tương đương với Định, Kiến tịnh tương đương với Tuệ, Độ nghi tịnh tương đương với Đoạn nghi, Phân biệt đạo tịnh tương đương với Đạo phi đạo, Hành đoạn tri kiến tịnh tương đương với Tri kiến tịnh, và Niết-bàn tịnh tương đương với Đoạn tri tịnh.

[116] Ở đây Văn Cú đang đề cập đến Tam tụ thanh tịnh giới, nhưng nguyên văn nói theo cách khó hiểu hơn, nếu dịch sát theo văn là: “Nhiếp luật nghi giới v.v., tức ba loại giới.” Chúng tôi ghi rõ cả ba loại tịnh giới này để độc giả dễ nhận hiểu hơn.

[117] Nguyên tác Văn Cú dùng “二諦 - nhị đế”, tức chỉ đến chân đế (chân lý tuyệt đối, chân lý xuất thế gian) và tục đế (chân lý quy ước, chân lý thế tục).

[118] Đây là giải thích theo tinh thần phẩm Phật đạo trong kinh Duy-ma-cật.

[119] Nguyên tác Văn Cú dùng “相海 - tướng hải”. Hòa thượng Tuyên Hóa trong Hoa nghiêm kinh thiển thích giảng rằng: “相好莊嚴,猶如大海,無窮無盡,無邊無際,所以叫相海。 - Tướng hảo trang nghiêm, do như đại hải, vô cùng vô tận, vô biên vô tế, sở dĩ khiếu tướng hải.”

[120] Đoạn này Văn Cú lấy ý từ kinh Duy-ma-cật (tức kinh Tịnh Danh), phẩm Phật quốc. Đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “我佛國土常淨若此,為欲度斯下劣人故,示是眾惡不淨土耳 - Ngã Phật quốc độ thường tịnh nhược thử, vị dục độ tư hạ liệt nhân cố, thị thị chúng ác bất tịnh độ nhĩ.” (Cõi Phật độ của ta thường thanh tịnh như vậy. Nhưng vì muốn độ những kẻ thấp kém ở đây, cho nên ta thị hiện ra cõi bất tịnh với mọi thứ dơ xấu.) Xem Đại Chánh tạng, Tập 14, số 475, trang 538, tờ c, dòng 25-27. Theo ý này nên Nguyên tác trong Văn Cú “貧所得法 - bần sở đắc pháp” được hiểu là làm cho kém cỏi đi chỗ chứng đắc của Phật, từ cao quý thanh tịnh trở thành thấp hèn bất tịnh, mục đích là để hóa độ những kẻ thấp kém.

[121] Ở đây muốn nói đến mục đích quán không của hàng Nhị thừa.

[122] Nguyên tác dùng “偏空 - thiên không” (lẽ không thiên lệch). Vì hàng Nhị thừa quá chú trọng vào việc quán không nên gọi là thiên lệch.

[123] Nguyên tác Văn Cú dùng “捨几用車 - xả kỷ dụng xa”, hiểu theo nghĩa đen trong văn cảnh là “bỏ [ý định đặt các con lên] ghế [để đưa ra ngoài] và dùng [các loại] xe [đẹp để dẫn dụ]”, điều này hàm ý từ bỏ ý định dùng sức mạnh mà chuyển sang dùng phương tiện dẫn dụ. Chúng tôi đã chuyển dịch theo ý nghĩa này.

[124] Đây là những thể loại kinh điển khác nhau được đức Phật thuyết giảng. Có tất cả 12 thể loại khác nhau, thường được gọi là 12 phần giáo (H. 十二分教, S. dvādaśāṅga-buddha-vacana), hoặc một cách không chuẩn xác là 12 bộ kinh (十二部經), bao gồm: 1. Tu-đa-la (H. 修多羅, S. sūtra), Hán dịch là khế kinh (契經), là những lời Phật dạy thích hợp, khế hợp với căn cơ chúng sanh; 2. Kỳ-dạ (H. 祇夜, S. geya), Hán dịch là ứng tụng (應頌), trùng tụng (重頌), là những lời dạy trong kinh được lặp lại bằng thể kệ tụng để dễ ghi nhớ và thực hành; 3. Hòa-ca-la-na (H. 和伽羅那, S. vyākaraṇa), Hán dịch là thụ ký (授記), là lời Phật báo trước kết quả tu tập trong tương lai của các vị đệ tử, về sự chứng đắc quả vị; 4. Già-đà (H. 伽陀, S. gāthā), Hán dịch là phúng tụng (諷頌), cô khởi (孤起), là lời dạy của Phật được diễn đạt theo thể kệ tụng để dễ ghi nhớ, khác với thể kỳ-dạ là không lặp lại mà tự nêu ra ý mới, nên gọi là cô khởi; 5. Ưu-đà-na (H. 優陀那, S. udāna), Hán dịch là tự thuyết (自說), hay vô vấn tự thuyết (無問自說), là những kinh điển do đức Phật quán xét căn cơ chúng sanh rồi tự nói ra, không có người thưa hỏi; 6. Ni-đà-na (H. 尼陀那, S. nidāna), Hán dịch là nhân duyên (因緣), là sự thuyết dạy của Phật do nhân duyên dẫn khởi, như do có việc thế này nên thuyết dạy pháp như thế này...; 7. A-ba-đà-na (H. 阿波陀那, S. avadāna), Hán dịch là thí dụ (譬喻), là những lời dạy bằng phương thức thí dụ, dẫn dụ, so sánh các sự việc để nêu ý nghĩa; 8. Y-đế-viết-đa-già (H. 伊帝曰多伽, S. itivṛttaka), Hán dịch là bản sự (本事), là những lời dạy về tiền thân tu tập của các vị đệ tử Phật, được dẫn ra như những bài học cho thính chúng; 9. Xà-đà-già (H. 闍陀伽, S. jātaka), Hán dịch là bản sanh (本生), là lời dạy về các tiền thân đức Phật, được dẫn ra vì mục đích giáo hóa; 10. Tỳ-phật-lược (H. 毘佛略, S. vaipulya), Hán dịch là Phương quảng (方廣), chỉ chung các kinh điển truyền dạy giáo pháp Đại thừa; 11. A-phù-đà-đạt-ma (H. 阿浮陀達磨, S. adbhuta-dharma), Hán dịch là hy pháp (希法) hoặc vị tằng hữu (未曾有), là những kinh điển thuyết giảng những điều bất khả tư nghị, xưa nay chưa từng có, như nói về thần lực, phước đức của chư Phật, Bồ Tát...; 12. Ưu-ba-đề-xá (H. 優波提舍, S. upadeśa), Hán dịch là luận nghị (論議), là những lời dạy mang tính luận thuyết, luận giải, để giúp người nghe nắm hiểu được giáo pháp cũng như các pháp môn tu tập.

[125] Văn Cú dùng “四十地 - tứ thập địa”, chỉ 40 giai vị của hàng Bồ Tát, bao gồm Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng và Thập địa. Bốn vị Bồ Tát nương theo oai lực của Phật mà thuyết giảng về 40 giai vị này trong kinh Hoa nghiêm bao gồm: Bồ Tát Pháp Huệ thuyết về Thập trụ, Bồ Tát Công Đức Lâm thuyết về Thập hạnh, Bồ Tát Kim Cang Tràng thuyết về Thập hồi hướng và Bồ Tát Kim Cang Tạng thuyết về Thập địa.

[126] Kinh văn dùng chữ “稱怨 - xưng oán”, Văn Cú cũng trích lại đúng chữ này. Các bản dịch trước đây hiểu là “kêu oan”, nhưng chữ oán (怨) trong kinh văn khác với chữ oan (冤) trong oan khuất, oan trái. Kinh văn thể hiện nỗi oán hận, bực tức của người con khi vô cớ bị bắt. Bản Anh ngữ của The Buddhist Text Translation Society dịch là “shouted in resentment” (kêu thét trong sự oán giận); bản Anh ngữ của Burton Watson dịch là “cried out in an angry voice” (hét to lên với giọng tức giận). Giảng giải của Văn Cú cũng cho thấy rõ ý nghĩa ở đây là “oán” chứ không phải “oan”.

[127] Duy-ma-cật sở thuyết kinh (維摩詰所說), quyển 3, phẩm Phật Hương Tích: “攝汝身香,無令彼諸眾生起惑著心。 - Nhiếp nhữ thân hương, vô linh bỉ chư chúng sanh khởi hoặc trước tâm.” Xem Đại Chánh tạng, Tập 14, số 475, trang 552, tờ b, dòng 22-23.

[128] Nguyên tác Văn Cú dùng “灰斷 - hôi đoạn” chỉ sự tịch diệt của hàng thánh quả Tiểu thừa, tức hàm nghĩa “灰身滅智 - hôi thân diệt trí”. Cho nên trong Biệt hành huyền ký (別行玄記), quyển 2 nói: “小乘灰斷,身智俱亡。 - Tiểu thừa hôi đoạn thân trí câu vong.” (Hàng Tiểu thừa hủy thân diệt trí, cả hai đều mất.)

[129] Nguyên tác Văn Cú dùng “四見 - tứ kiến”, tức ngã kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến. Bốn kiến chấp này có đề cập đến trong kinh Kim Cang.

[130] Vị Bồ Tát sau khi đã trải qua nhiều kiếp tu tập đủ lục độ vạn hạnh, đến thân cuối cùng ngồi dưới gốc bồ-đề thì trong một sát-na khởi sinh đủ 34 tâm tương ứng gồm 8 nhẫn, 8 trí, 9 vô ngại, 9 giải thoát, dùng các tâm này đoạn trừ tất cả các tập khí của kiến hoặc, tư hoặc, thành tựu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

[131] Tức là phần kinh văn trong phẩm Thí dụ, từ câu: “”Bấy giờ, ông trưởng giả liền suy nghĩ rằng: ‘Căn nhà này đang bị lửa dữ thiêu đốt…” cho đến “… cùng chạy nhanh ra khỏi căn nhà đang cháy.”

[132] Chỗ này Văn Cú trích lại kinh văn là “密遣傍人 - mật khiển bàng nhân” nhưng đúng ra là “即遣傍人 - tức khiển bàng nhân”. Đến đoạn sai khiến 2 người kinh văn mới dùng chữ “密 - mật” (密遣二人 - mật khiển nhị nhân).

[133] Nguyên tác Văn Cú dùng “滿字 - mãn tự” để chỉ giáo pháp viên mãn, liễu nghĩa, “半字 - bán tự” để chỉ giáo pháp quyền thừa, bất liễu nghĩa. Đây là cách dùng theo kinh Đại Bát Niết-bàn.

[134] Nguyên tác Văn Cú dùng “十力無畏 - thập lực vô úy”, tức chỉ thập trí lực và thập vô sở úy của chư Phật.

[135] Nguyên tác Văn Cú dùng “外道六行 - ngoại đạo lục hạnh”, chỉ sáu pháp tu khổ hạnh sai lầm của ngoại đạo ở Ấn Độ thời xưa, bao gồm các phương pháp: 1. nhịn đói; 2. gieo mình xuống vực sâu; 3. phơi mình dưới nắng cháy; 4. lõa thể; 5. ngồi ở chỗ vắng lặng; 6. giữ theo các giới kỳ quái như giới bò, giới chó…

[136] Trong Hán ngữ chữ nhật (日) có nghĩa là ngày (chỉ thời gian), cũng có nghĩa là mặt trời.

[137] Tức là tứ trụ (四住) hay tứ trụ địa (四住地), chỉ bốn yếu tố căn bản làm khởi sinh tất cả phiền não, bao gồm Kiến nhất thiết trụ địa (tức là hết thảy kiến hoặc trong ba cõi), Dục ái trụ địa (tức là hết thảy tư hoặc trong Dục giới), Sắc ái trụ địa (tức là hết thảy tư hoặc trong Sắc giới) và Hữu ái trụ địa (tức là hết thảy tư hoặc trong Vô sắc giới).

[138] Chỉ các giai vị được gọi là Hiền Thánh, bao gồm Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng giác và Diệu giác.

[139] Pháp nhẫn tịch diệt, tức tịch diệt nhẫn, là một trong 5 pháp nhẫn, bao gồm: 1. Phục nhẫn (伏忍); 2. Tín nhẫn (信忍); 3. Thuận nhẫn (順忍); 4. Vô sinh nhẫn (無生忍); 5. Tịch diệt nhẫn (寂滅忍)

[140] Nguyên tác Văn Cú dùng “大小相海 - đại tiểu tướng hải”, tức là đại tướng hải và tiểu tướng hải, chỉ tướng hảo của Phật, tức 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp. Thân tướng trang nghiêm của đức Phật bao trùm khắp nơi, mênh mông không cùng tận như biển lớn nên gọi là “tướng hải”. Cách dùng này tuy ít gặp nhưng cũng đồng nghĩa với “tướng hảo” nên chúng tôi chuyển dịch theo cách dễ nhận hiểu hơn.

[141] Gọi chung là nhị nhẫn (二忍). Sanh nhẫn (生忍) cũng gọi là chúng sanh nhẫn (眾生忍), chỉ sự nhẫn chịu của Bồ Tát đối với tất cả chúng sanh, dù gánh chịu mọi sự nhục mạ, thương tổn cũng không khởi tâm sân hận, phiền não ; dù nhận được mọi sự tôn trọng, cung kính, cúng dường cũng không khởi tâm kiêu mạn, bám chấp. Pháp nhẫn (法忍) cũng gọi là vô sanh pháp nhẫn (無生法忍), chỉ sự an nhẫn của Bồ Tát vì đã thấu triệt lẽ vô sanh, đối với tất cả các pháp đều không còn dao động. Văn Cú Ký giải thích theo cách đơn giản hơn: Sanh nhẫn là nhẫn chịu đối với các phiền não do chúng sanh hữu tình gây ra ; pháp nhẫn là nhẫn chịu đối với tất cả các pháp vô tình không thuận ý, chẳng hạn như nóng lạnh, gió mưa v.v. Đây chỉ là các phẩm tính ban đầu của hàng Bồ Tát nên khi so với phẩm đức của chư Phật thì gọi là “xấu”.

[142] Nguyên tác Văn Cú nói là “又有寒風馬麥之報 – Hựu hữu hàn phong mã mạch chi báo” (Lại cũng có các quả báo như chịu gió rét, ăn lúa ngựa…) Văn Cú Ký giải thích rằng đây là nói tóm lược. Theo Đại Trí độ luận, quyển 9, thì đức Phật thị hiện chịu đủ 10 quả báo xấu là: 1. Sáu năm khổ hạnh; 2. Bị Tôn-đà-lợi phỉ báng; 3. Bị giáo vàng đâm xuyên đùi; 4. Có mùa an cư không người cúng dường phải ăn loại lúa mạch dành để nuôi ngựa; 5. Chịu nạn vua Lưu Ly giết hại cả dòng họ Thích-ca; 6. Có lần khất thực mang bình bát về không; 7. Bị cô gái Chiên-già phỉ báng; 8. Bị Đề-bà-đạt-đa lăn đá trên núi xuống hãm hại; 9. Bị gió rét xuyên y; 10. Chịu bệnh đau đớn dưới gốc sa-la song thụ lúc gần nhập Niết-bàn.

[143] Nguyên tác Văn Cú dùng “道品中七科法門 - đạo phẩm trung thất khoa pháp môn”, tức là chỉ đến bảy nhóm pháp môn trong tam thập thất đạo phẩm, bao gồm: 1. Tứ niệm xứ (四念處), 2. Tứ chính cần (四正勤), 3. Tứ thần túc (四神足), 4. Ngũ căn (五根), 5. Ngũ lực (五力), 6. Thất giác chi (七覺支) và 7. Bát thánh đạo (八聖道).

[144] Ngoại phàm: tức chỉ các giai vị vẫn còn là phàm phu, chưa đạt đến sự nhận hiểu chân lý nên xem như còn ở ngoài, khác với nội phàm là các giai vị cao hơn, đã nhận hiểu chân lý nên tuy là phàm phu nhưng xem như đã chớm bước vào cảnh giới bậc thánh.

[145] Ngũ căn, tức 5 điều được xem là căn bản, là cội gốc sinh khởi các pháp lành nên gọi là “căn”, bao gồm: tín căn (lòng tin), tấn căn (sự tinh tấn), niệm căn (sự ghi nhớ, duy trì ý niệm), định căn (sự chú tâm, tập trung tâm ý) và tuệ căn (trí tuệ).

[146] Nguyên tác dùng “ngũ quá”chỉ 5 điều lỗi, tức là không có 5 lỗi như nói trong kinh văn: không dối trá, không lười nhác, không nóng giận, không thù hận, không nói lời than oán.

[147] Ngũ lực, tức là: tín lực (năng lực của lòng tin), tấn lực (năng lực tinh tấn), niệm lực (năng lực ghi nhớ, duy trì ý niệm), định lực (năng lực tập trung, chú tâm) và tuệ lực (năng lực trí tuệ).

[148] Bát chánh đạo, tám khuynh hướng tu tập chân chánh giúp người tu tập tiến gần đến sự giải thoát, bao gồm : 1. Chánh kiến, thấy biết chân chánh đúng thật ; 2. Chánh tư duy, suy xét chân chánh, lợi mình lợi người. 3. Chánh ngữ, nói lời chân chánh, đúng thật, không gây tổn hại cho mình và người khác ; 4. Chánh nghiệp, việc làm chân chánh, không gây tổn hại ; 5. Chánh mệnh, nghề nghiệp chân chánh, không làm những nghề gây tổn hại hoặc si mê tà kiến ; 6. Chánh tinh tấn, nỗ lực chuyên cần chân chánh, đúng hướng ; 7. Chánh niệm, thường duy trì ý niệm, sự nhớ nghĩ chân chánh ; 8. Chánh định, sự định tâm, chú tâm chân chánh.

[149] Thất giác chi, bảy pháp tu tập tỉnh giác, sáng suốt, bao gồm : 1. Trạch pháp giác chi; 2. Tinh tấn giác chi; 3. Hỷ giác chi; 4. Trừ giác chi, cũng gọi là Khinh an giác chi; 5. Xả giác chi; 6. Định giác chi; 7. Niệm giác chi.

[150] Chúng tôi hiện không tìm thấy ý trích dẫn này trong kinh Di giáo. Bốn pháp niệm xứ được đề cập ở đây là thân niệm xứ, thọ niệm xứ, tâm niệm xứ và pháp niệm xứ. Bốn điên đảo là bốn nhận thức trái ngược với sự thật, bao gồm các nhận thức : pháp hữu vi là vô thường mà cho là thường , khổ mà cho là vui, vô ngã mà cho là hữu ngã, và bất tịnh mà cho là tịnh. Nhờ tu tập các pháp quán bốn niệm xứ nên trừ bỏ được bốn nhận thức sai lầm này.

[151] Tức là văn tuệ, một trong ba loại trí tuệ là văn tuệ (trí tuệ có được nhờ nghe pháp), tư tuệ (trí tuệ có được nhờ suy ngẫm) và tu tuệ (trí tuệ có được nhờ thực hành tu tập).

[152] Ở đây đề cập đến tứ chánh cần, tức bốn điều chuyên cần chân chánh : 1. Điều ác đã sanh, nỗ lực dứt trừ ; 2. Điều ác chưa sanh, nỗ lực ngăn chặn ; 3. Điều thiện chưa sanh, nỗ lực khởi sanh ; 4. Điều thiện đã sanh, nỗ lực phát triển. Hai điều xấu ác là nói điều ác đã sanh và chưa sanh ; hai điều thiện là nói điều thiện chưa sanh và đã sanh.

[153] Nguyên tác Văn Cú dùng “煖火 - noãn hỏa”, sức nóng ấm của lửa, chỉ giai đoạn hành giả sắp bước vào giai vị đầu tiên của tứ thiện căn nên khởi phát trí vô lậu, giống như ngọn lửa sắp bốc cao thì có sức nóng tỏa ra, do đó giai vị này gọi là noãn vị.

[154] Tức là Tứ như ý túc, bao gồm: 1. Dục như ý túc; 2. Tinh tấn như ý túc; 3. Tâm như ý túc; 4. Trạch pháp như ý túc.

[155] Pháp thiện vô lậu là chỉ các pháp thiện được khởi sanh bởi các bậc thánh từ địa vị kiến đạo trở lên. Pháp thiện hữu lậu là các pháp thiện của hàng phàm phu, vì hãy còn song song tồn tại với các phiền não.

[156] Nguyên tác Văn Cú dùng “支林 - chi lâm”, tức thập bát chi lâm (十八支林), chỉ 18 công đức của tứ thiền thuộc Sắc giới, chia thành bốn nhóm, bao gồm: 1. Năm chi thuộc định Sơ thiền thiên: giác chi (tầm chi), quán chi (tứ tâm), hỷ chi, lạc chi và nhất tâm chi (định chi); 2. Bốn chi thuộc định Nhị thiền thiên: nội tịnh chi (nội đẳng tịnh chi), hỷ chi, lạc chi, nhất tâm chi; 3. Năm chi thuộc định Tam thiền thiên: xả chi, niệm chi, tuệ chi, lạc chi, nhất tâm chi; 4. Bốn chi thuộc định Tứ thiền thiên: bất khổ bất lạc chi, xả chi, niệm thanh tịnh chi, nhất tâm chi.

[157] Sanh không (生空), cũng gọi là ngã không (我空) hoặc nhân không (人空), chỉ sự nhận biết về chúng sanh như sự giả hợp của năm uẩn nên không thường tồn, không có chủ thể.

[158] Chín pháp quán tưởng (九想 - cửu tưởng), tức là quán tưởng các hình thức biến hoại, phân hủy của thân xác con người sau khi chết, bao gồm: 1. Thanh ứ tưởng (quán tưởng thấy xác chết đổi màu dần thành vàng, đỏ rồi xanh đen); 2. Nùng lạn tưởng (quán tưởng thấy xác chết phân hủy, nước chảy ra các hốc mắt, mũi…); 3. Trùng đạm tưởng (quán tưởng thấy xác chết bị giòi bọ côn trùng rúc rỉa…); 4. Bành trướng tưởng (quán tưởng thấy xác chết trương sình lên); 5. Huyết đồ tưởng (quán tưởng thấy máu mủ hôi hám chảy ra từ xác chết); 6. Hoại lạn tưởng (quán tưởng thấy xác chết đến lúc rữa nát); 7. Bại hoại tưởng (quán tưởng thấy xác chết rã tan gân, xương… rời rạc); 8. Thiêu tưởng (quán tưởng thấy xác chết khi thiêu đốt chỉ còn lại tro xương…); 9. Cốt tưởng (quán tưởng thấy xác chết sau các giai đoạn phân hủy tự nhiên rồi cuối cùng chỉ còn lại bộ xương trắng).

[159] Mười pháp quán tưởng (十想 - thập tưởng), bao gồm: 1. Vô thường tưởng (quán thấy lẽ vô thường, biến hoại); 2. Khổ tưởng (quán thấy tất cả pháp hữu vi là khổ); 3. Vô ngã tưởng (quán thấy tất cả các pháp không có tự tính, không có chủ tể, cho nên là vô ngã); 4. Thực bất tịnh tưởng (quán thấy tất cả thức ăn uống đều là bất tịnh); 5. Nhất thiết thế gian bất khả lạc tưởng (quán thấy tất cả pháp thế gian không có gì là vui thú); 6. Tử tưởng (quán xét về hình tướng của cái chết); 7. Bất tịnh tưởng (quán thấy thân người là bất tịnh); 8. Đoạn tưởng (quán tưởng dứt trừ phiền não); 9. Ly dục tưởng (quán tưởng xa lìa sinh tử); 10. Tận tưởng (quán tưởng dứt sạch hoặc nghiệp sinh tử).

[160] Nguyên tác Văn Cú dùng bát bối xả (八背捨), tức bát giải thoát (八解脫), chỉ tám pháp giải thoát bao gồm: 1. Nội hữu sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát: Ở trong sắc giới, quán nội sắc và ngoại sắc, nhằm trừ bỏ tâm ham thích sắc thể; 2. Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát: Không quán nội sắc, quán ngoại sắc, nhận ngoại sắc là ô nhiễm; 3. Tịnh thân tác chứng cụ túc tác giải thoát: Quán tưởng về thanh tịnh nhưng không chấp giữ; 4. Không vô biên xứ giải thoát: Vượt qua sắc thể, quán tưởng rằng hư không là vô biên; 5. Thức vô biên xứ giải thoát: Đạt đến ý niệm thức là vô biên; 6. Vô sở hữu xứ giải thoát: Đạt địa vị trong tâm không còn có vật gì; 7. Phi tưởng Phi phi tưởng xứ giải thoát: Đạt đến mức định Phi tưởng phi phi tưởng xứ; 8. Diệt tận định giải thoát: Đạt mức định Diệt thọ tưởng xứ.

[161] Cộng giải thoát (共解脫), bậc thành tựu giải thoát nhờ vượt qua mọi chướng ngại của thiền định. Luận Thập trụ Tỳ-bà sa (十住毘婆沙論), quyển 11 nói : Giải thoát có ba hạng. Thứ nhất là giải thoát mọi chướng ngại của phiền não. Thứ hai là giải thoát mọi chướng ngại của thiền định. Thứ ba là giải thoát hết thảy mọi thứ chướng ngại. Vị A-la-hán vượt qua mọi chướng ngại của phiền não gọi là tuệ giải thoát (慧解脫). Bậc A-la-hán và Bích-chi Phật vượt qua mọi chướng ngại của thiền định gọi là cộng giải thoát (共解脫). Chỉ có chư Phật là thành tựu đủ ba loại giải thoát, nên gọi là vô ngại giải thoát (無礙解脫). Xem Đại Chánh tạng Tập 26, số 1521, trang 83, tờ a, dòng 24 đến tờ b, dòng 3.

[162] Nguyên tác dùng ngũ căn (五根), chỉ tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn và tuệ căn.

[163] Nguyên tác Văn Cú dùng “忍解 - nhẫn giải”, theo nghĩa ở đây thì “nhẫn” là chỉ nhẫn vị hay nhẫn pháp vị, tức giai vị chuẩn bị tiến lên thế đệ nhất pháp vị là giai vị cao nhất trong tứ thiện căn vị; và “giải” là chỉ thắng giải hạnh vị, tức chỉ chung các giai vị thuộc thập tín, thập trụ, thập hạnh và thập hồi hướng, chuẩn bị tiến lên Thập địa, chỉ còn hai bậc Đẳng giác và Diệu giác nữa là thành tựu quả Phật.

[164] Ở đây trình bày về ba phẩm của nhẫn vị.

[165] Kiến đế (見諦) là tên khác của giai vị kiến đạo (見道), cũng gọi là kiến đế đạo (見諦道), chỉ giai đoạn người tu tập dùng trí vô lậu quán xét bốn thánh đế nên thấu triệt được chân lý.

[166] Trí vô gián đạo đoạn kiến hoặc và Trí giải thoát đạo chứng đoạn chân lí Tứ đế.

[167] Chín vô ngại (cửu vô ngại), cũng gọi là cửu vô gián. Vô gián đạo là giai vị đang đoạn trừ phiền não, còn giải thoát đạo là giai vị giải thoát sau khi đã đoạn trừ phiền não. Tư hoặc ở mỗi địa có chín phẩm, cho nên pháp đối trị cũng có chín, gọi là Cửu vô gián đạo và Cửu giải thoát đạo.

[168] Văn Cú trong đoạn này trình bày rất tối nghĩa, chỉ nói “見諦 - kiến đế” và “思惟 - tư duy”. Tham khảo Chỉ quán phụ hành truyền hoằng quyết (止觀輔行傳弘決), quyển 8, diễn đạt ý này rõ ràng hơn: “破見惑用一無礙一解脫。破思惟惑用九無礙九解脫。合為二十。 - Phá kiến hoặc dụng nhất vô ngại, nhất giải thoát; phá tư duy hoặc dụng cửu vô ngại, cửu giải thoát; hợp vi nhị thập.” Xem Đại Chánh tạng, Tập 46, số 1912, trang 390, tờ a, dòng 27-29.

[169] Ngũ hạ phần kết là những phiền não trong Dục giới, bao gồm: tham dục, sân khuể, hữu thân kiến, giới cấm thủ kiến và si mê. Ngũ thượng phần kết là những phiền não thuộc Sắc giới và Vô sắc giới, bao gồm hai phiền não ở Sắc giới là tham dục và ái luyến, ba phiền não ở cả hai cõi Sắc giới và Vô sắc giới là tâm xao động, kiêu mạn và vô minh.

[170] Tức là tên khác của kinh Duy-ma-cật.

[171] Năm vị, nghĩa là dùng năm vị của sữa bò để biểu trưng cho năm thời thuyết pháp của đức Phật, bao gồm: bốn vị đầu tiên là sữa tươi (nhũ), biểu trưng cho thời thuyết pháp Hoa nghiêm, sữa đặc (lạc), biểu trưng cho thời A-hàm, váng sữa sống (sanh tô), biểu trưng cho thời Phương đẳng, váng sữa chín (thục tô), biểu trưng cho thời Bát-nhã; vị rốt ráo cuối cùng là đề hồ, biểu trưng cho thời thuyết pháp Pháp hoa và kinh Niết-bàn, tức là Phật thừa rốt ráo.

[172] Nguyên tác Văn Cú dùng tu-đa-la (修多羅), tức phiên âm chữ sūtra, dịch nghĩa là khế kinh (契經), tức kinh điển khế hợp với chân lý Phật dạy và cũng thích hợp với căn cơ, trình độ của chúng sanh.

[173] Văn Cú dùng “thiên tánh”, nghĩa đen là “tánh trời sinh”, nhưng thật ra trong văn cảnh này là chỉ đến tự tánh có khả năng thành Phật của hàng Thanh văn cũng như tất cả chúng sanh. Ngày nay thường gọi là tánh Phật, chân tánh, tánh Như Lai… Cách nói “ thiên tánh” có thể là do ảnh hưởng từ Nho giáo và Lão giáo.

[174] Nguyên tác Văn Cú dùng chữ “三藏 - tam tạng” để chỉ toàn bộ giáo pháp Tiểu thừa, được kết tập lần đầu tiên, bao gồm đủ kinh tạng, luật tạng và luận tạng nên gọi là “tam tạng giáo - 三藏教”, đôi khi cũng gọi tắt là “藏教 - tạng giáo”. Đây là cách phân loại theo tông Thiên Thai, bao gồm: Tạng giáo (藏教), Thông giáo (通教), Biệt giáo (別教) và Viên giáo (圓教).

[175] Nguyên tác dùng “尊特身 - tôn đặc thân”, tức chỉ thắng ứng hóa thân, là thân ứng hiện của Phật, chỉ hàng Bồ Tát từ Sơ địa trở lên mới có khả năng nhìn thấy, khác với liệt ứng hóa thân là thân ứng hiện mà phàm phu có thể nhìn thấy và chiêm bái.

[176] Tức là liệt ứng hóa thân, thân Phật thị hiện tương đồng với phàm phu nên chỉ cao một trượng sáu thước.

[177] Nguyên tác Văn Cú dùng “善吉 - Thiện Cát”, là tên gọi khác của ngài Tu-bồ-đề. Vì mở đầu đoạn này đã dùng tên gọi Tuệ Mệnh Tu-bồ-đề nên chúng tôi dùng lại tên này để độc giả tiện theo dõi.

[178] Đây là nhắc lại ý nói của ngài Xá-lợi-phất ở kinh văn phần trước: “Chúng con thường một mình ở dưới gốc cây trong chốn núi rừng, mỗi khi tĩnh tọa hoặc đi kinh hành đều tự nghĩ...”

[179] Đây là nhắc lại ý kinh trong đoạn kệ tụng ở phần trước, ngài Xá-lợi-phất bạch Phật: “Nên suốt ngày lẫn đêm, con thường xét việc này. Muốn thưa hỏi Thế Tôn,tánh Phật còn hay mất?”

[180] Hàm ý chỉ các giáo pháp phương tiện từ thấp đến cao, theo giáo lý của tông Thiên Thai thì bao gồm: 1. Thanh văn của Tạng giáo, 2. Duyên giác của Tạng giáo, 3. Thanh văn của Thông giáo, 4. Duyên giác của Thông giáo, 5. Bồ Tát của Thông giáo, 6. Bồ Tát của Biệt giáo, 7. Bồ Tát của Viên giáo.

[181] Theo Văn Cú Ký thì “北人 - Bắc nhân” trong nguyên tác chỉ đến đa phần là các vị luận sư của phái Địa luận ở Tương châu thuộc miền Bắc Trung Hoa.

[182] Đây là giai vị đã đạt sáu căn thanh tịnh nhưng chưa vào được sơ địa.

[183] Bản môn là nói nghĩa chân thật rốt ráo, nguồn cội của các pháp, không có hình tướng; tích môn là hình tích hiển lộ, là phương tiện thị hiện dẫn dắt chúng sanh.

[184] Nguyên tác Văn Cú nói “依薩云經 - y tát vân kinh”. Chúng tôi không thực sự hiểu được ý nghĩa ở đây, nhưng tham khảo Văn Cú Ký giải thích chỗ này là: “依薩云者, 如下多寶品中所引。 - Y tát vân giả, như hạ Đa Bảo phẩm trung sở dẫn.” (Nói “y tát vân” nghĩa là theo như trong phẩm Đa Bảo ở phần sau có dẫn.) Phẩm Đa Bảo tức là nói phẩm Hiện bảo tháp, vì trong phẩm này có đức Phật Đa Bảo hiện ra trong bảo tháp để xưng tán Phật Thích-ca thuyết kinh Pháp hoa.

[185] Nguyên tác dùng “十二部經 - thập nhị bộ kinh”, nhưng về ý nghĩa thực sự là chỉ đến 12 thể loại kinh điển chứ không phải 12 bộ kinh theo ý nghĩa thường dùng.

[186] Đoạn này trích nội dung từ kinh Vô Lượng Nghĩa, nguyên văn: “次說方等十二部經、摩訶般若、華嚴海空,演說菩薩歷劫修行 - Thứ thuyết Phương đẳng thập nhị bộ kinh, Hoa nghiêm hải không, diễn thuyết Bồ Tát lịch kiếp tu hành…” Xem Đại Chánh tạng, Tập 9 số 276, trang 386, tờ b, dòng 24-26.

[187] Các pháp không chung cùng (bất cộng) nghĩa là chỉ dành riêng cho hàng Bồ Tát Đại thừa. Các pháp chung cùng (cộng) nghĩa là chung cho cả Nhị thừa và Bồ Tát.

[188] Ba sự khổ: bao gồm khổ khổ (khổ vì những nỗi khổ của thân tâm), hoại khổ (khổ vì sự hư hoại những điều mình ưa thích) và hành khổ (khổ vì sự biến chuyển, không ngừng thay đổi).

[189] Tức là gồm bốn ý: thứ nhất nêu thời điểm giao phó gia nghiệp; thứ hai là gọi con đến và triệu tập mọi người làm chứng; thứ ba là công bố việc cha con gặp nhau; thứ tư là chính thức giao phó gia nghiệp.

[190] Bốn phân đoạn này bao gồm: 1. Nêu nguyên do [đưa con đến] nhìn thấy cha; 2. Nêu nơi chốn nhìn thấy cha; 3. Nêu việc thấy cha ngồi trên giường sư tử; 4. Nêu việc [người con] sinh tâm sợ hãi. Phần kệ tụng gộp 2 ý thứ hai và thứ ba thành một ý nên chỉ còn 3 ý.

[191] Biệt hoặc: tức trần sa hoặc và vô minh hoặc. Kiến hoặc và tư hoặc là những phiền não mà cả Thanh văn, Duyên giác và Bồ Tát đều phải đoạn trừ, cho nên gọi là thông hoặc. Trần sa hoặc và vô minh hoặc là đối tượng chỉ riêng hàng Bồ Tát mới dứt trừ được nên gọi là biệt hoặc.

[192] Bốn ý trong kinh văn trường hàng là: 1. Nêu thời điểm; 2. Sai khiến việc nhà; 3. Khuyên con nên làm theo ý mình; 4. Dặn dò đừng để cho thất thoát [tài sản].

[193] Nguyên tác dùng “灰身滅智 - hôi thân diệt trí”, chỉ trạng thái tịch diệt của vị thánh Tiểu thừa, tự hủy diệt thân xác, dứt hết mọi hoạt động của tâm trí, đi vào cảnh giới rỗng không vắng lặng và xem đó là Niết-bàn.

[194] Chánh nhân là nhân chánh tạo thành quả, duyên nhân là các nhân phụ làm điều kiện để chánh nhân có thể phát triển thành quả.

[195] Nguyên tác dùng “三千界 - tam thiên giới”, là cách nói tắt của “三千大千世界 - tam thiên đại thiên thế giới” (tri-sāhasra-mahā-sāhasra-loka-dhātu), chỉ một thế giới đại thiên. Vì 1.000 thế giới tạo thành một thế giới tiểu thiên, 1.000 thế giới tiểu thiên tạo thành một thế giới trung thiên, 1.000 thế giới trung thiên tạo thành một thế giới đại thiên, nên một thế giới đại thiên cũng được gọi là một “tam thiên đại thiên thế giới” (thế giới đại thiên được tạo thành bởi ba lần 1.000). Do vậy, cách chuyển dịch “tam thiên đại thiên thế giới” thành “3.000 đại thiên thế giới” là hoàn toàn không đúng ý nghĩa, vì trong thực tế cụm từ ngữ này chỉ đến một đại thiên thế giới mà thôi.

[196] Thập trụ: các giai vị tiếp theo sau Thập tín. Từ sau các giai vị Thập trụ, vị Bồ Tát còn lần lượt trải qua Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng giác và Diệu giác trước khi thành tựu quả Phật.

[197] Nguyên tác dùng “四弘 - tứ hoằng”, là nói tắt của “四弘誓願 - tứ hoằng thệ nguyện” nghĩa là bốn lời thệ nguyện lớn, bao gồm: 1. Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ; 2. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn; 3. Pháp môn vô lượng thệ nguyện học; 4. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành. Bốn lời thệ nguyện này không có giới hạn, có thể xem như thiết lập toàn bộ con đường tu tập của người Phật tử từ khi còn là phàm phu cho đến lúc thành tựu quả Phật.

[198] Đến đây là hết quyển 6 của Văn Cú, cũng hết phần giải thích phẩm Tin hiểu.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 10 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Học Phật Đúng Pháp


Rộng mở tâm hồn và phát triển trí tuệ


Cảm tạ xứ Đức


Hạnh phúc khắp quanh ta

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.108 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập