Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương

Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay. Kinh Bốn mươi hai chương
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
"Nó mắng tôi, đánh tôi, Nó thắng tôi, cướp tôi." Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú [妙法蓮華經文句] »» Bản Việt dịch quyển số 1 »»

Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú [妙法蓮華經文句] »» Bản Việt dịch quyển số 1

» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 1.51 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 1.78 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Pháp Hoa Văn Cú

Kính mong quý độc giả xem kinh cùng góp sức hoàn thiện bằng cách gửi email về admin@pgvn.org
để báo cho chúng tôi biết những chỗ còn có lỗi.

Kinh này có 10 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 |
Việt dịch: Thích Như Điển và Nguyễn Minh Tiến

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Lời tựa

bản Sớ giải kinh Pháp hoa
của Đại sư Trí Khải, núi Thiên Thai


Kính Trung Sa-môn Thần Quýnh thuật

Trước hết thưa rằng: chân lý tột cùng không có danh xưng, có danh xưng thì lưu truyền khắp bốn phương trời; Phật thừa không lay động, động thì hiện trong ba cõi. Chứng đắc giáo pháp thì muôn sự ngưng lặng tịch nhiên, nhưng phương tiện nên dùng bốn pháp tất đàn[1] tùy cơ duyên hóa độ. Không toan tính mưu cầu mà dẫn dắt chúng sinh, công đức ấy thật vĩ đại thay!

Đức Thế Tôn Đại Hùng ra đời, vì một đại sự nhân duyên mà thuyết giảng kinh Diệu pháp liên hoa. Thế nhưng, các loài cây thuốc chẳng giống nhau, đối với người bệnh thì sự thích nghi không đồng nhất, sự nhận hiểu giáo pháp cũng khác biệt. Cho nên, thi hành pháp phương tiện mà Chuyển pháp luân nơi Lộc uyển, nói pháp Tứ đế; hiển bày lẽ thật nơi đỉnh Linh Thứu, ba lần biến hóa Tịnh độ.[2] [Giáo pháp của Thế Tôn] ý chỉ thâm sâu, ngôn từ trọn đủ. Bậc đáng tôn kính thuyết đạo cao vời, làm sáng tỏ thọ lượng [Như Lai] từ bản môn xưa vô lượng kiếp, [giúp] thấu hiểu nghĩa thật của hình tích gần đây nơi Bồ-đề Đạo tràng.[3] Mưa pháp tuôn nhuần, khuyến thiện phá ác, diễn bày khắp chốn, bỏ đi những điều phương tiện quyền thuyết trước đây, như người bắt cá bỏ nơm, thợ săn vất lưới; khai mở chỉ bày giúp chúng sinh nhận hiểu, thể nhập tri kiến Phật, được lợi ích hiện đời, như người đã bắt được cá, thợ săn đã bắt được thỏ. Bồ Tát số nhiều như vi trần, đạo quả ngày càng tăng trưởng, sinh tử biến dịch ngày càng giảm dần.[4] Hàng Thanh văn nơi am tranh [nghe pháp rồi] hổ thẹn với pháp Tiểu thừa, mừng vui tiếp nhận Đại thừa. [Trong Pháp hội,] Bồ Tát Dược Vương thiêu cánh tay cúng dường, đức Như Lai Đa Bảo hiện toàn thân chứng minh [lời Phật], trọn vẹn cùng cực, nhỏ nhiệm tinh vi, chẳng thể dùng lời mà nói hết được.

Có bậc Đại sư ở núi Thiên Thai, pháp hiệu Trí Khải, thuở xưa từng đối trước Như Lai tự thân được nghe kinh điển này. Đại sư chứng đắc quả vị hàng Ngũ phẩm,[5] danh tiếng vang dội qua hai triều vua.[6] Ngài không cần trải qua các giảng đường mà đã thấu hiểu Phật thừa. Được sức tổng trì,[7] vui thích giảng thuyết giáo pháp không cùng tận. Ngài thường ở điện Thái Cực của vua Trần, trước mặt vua giảng giải kinh Nhân vương Bát-nhã,[8] bậc thiên tử quỳ gối,[9] trăm quan cùng tán thán. Lại như pháp quán tâm thích [của Đại sư][10] thật khéo lìa hai mặt có không, lấy chân tánh làm khuôn phép, dựa theo sự chiếu soi tự thân mà thấu triệt. [Đại sư] giảng giải danh xưng, trình bày tông chỉ đều khác người xưa, nêu lên năm tầng nghĩa[11] để khảo xét nghĩa lý [kinh điển], đều là phát huy Thánh giáo.

Từ khi Đại sư Trí Giả[12] ra hoằng pháp đến hơn 30 năm, chỉ [trước tác] duy nhất sớ giải kinh Duy-ma.[13] Cho đến đời nhà Tùy, vâng sắc chỉ của Tùy Dạng Đế mới soạn ra bản văn huyền diệu này. Chỉ riêng phần ghi chép của Pháp sư Quán Đảnh đã hợp thành 20 quyển. Không có trí tuệ thì không thể phán xét, đó là lời chân thật.

Sau khi Đại sư viên tịch hơn trăm năm,[14] đến năm Mậu Tý (748), niên hiệu Thiên Bảo [thứ 7] đời nhà Đường, có Hòa Thượng Huyền Lãng[15] ở chùa Thanh Thái thuộc quận Đông Dương, là hàng trưởng lão trong đạo pháp,[16] trí tuệ và công hạnh song toàn;[17] công phu tu tập và nghiêm trì giới luật nỗ lực tinh cần như nhau;[18] uyên thâm cả nội điển và ngoại điển. Ngài đạt được năng lực thuyết pháp như ngài Phú-lâu-na,[19] thấu đạt nghĩa Không như ngài Tu-bồ-đề.[20] Mỗi lần giảng đến bản văn này, ngài thường lặng lẽ than rằng: “Nếu quán xét nơi nghĩa lý thì thật là sâu xa, khế hợp Phật thừa, nhưng tìm hiểu vào cấu trúc văn chương thì thường không theo thứ lớp thích hợp. Hoặc văn tương tục mà nghĩa dứt đoạn; hoặc văn theo sau mà nghĩa đã nêu trước; hoặc dùng văn trường hàng để mở đầu chương; hoặc theo sau mới nêu ý nghĩa; hoặc trong kệ trước đã kể đủ số, nhưng phần theo sau lại không thấy nêu tên. Nhưng thánh ý [của Đại sư] thật khó suy lường, nên chỉ dám cung kính tin nhận mà thôi.

Nay nhân vì những người đến nghe giảng pháp nhiều lần thưa thỉnh khuyến khích: ‘Bậc thượng căn dễ đạt ngộ, cứu xét vào nghĩa lý sâu xa mà không mê lầm, nhưng đối với hàng trung căn, hạ căn, nếu phải tìm theo câu văn liền sai lệch ý chỉ. Ví như có sự so sánh, thay đổi sắp xếp lại thì điều đó hẳn sẽ rộng làm lợi ích cho rất nhiều người.’ Hòa thượng nhiều lần suy đi tính lại những lời trên, xét thấy thật là việc chẳng đặng đừng, mới một lòng cầu nguyện với Đại sư xem việc này có thể làm được không. Nhân vì trong mộng được sự chiêu cảm [đồng thuận] nên mới bắt đầu sắp xếp chỉnh sửa lại [bản văn này]. Nhưng hết thảy đều tùy theo từng chỗ mà sắp xếp thích hợp, thành tâm lượng xét, chẳng phải cẩu thả vì muốn có sự giống hay khác nhau mà tùy tiện theo ý mình thêm bớt trong văn bản.

Mong sao các bậc học giả đời sau thấu hiểu cho ý nguyện ban đầu, truy chỗ cốt yếu, tìm phần thiết thực, chọn lấy vàng ròng mà vất bỏ đá sỏi; thuyết pháp chân thật, chẳng dối lừa người. Vì giúp thêm chánh pháp nhiệm mầu lan tỏa rộng, nơi ngọn Đan Khâu[21] trọn thành việc thêm bớt sửa sang,[22] ắt là trăm pháp giới ngàn như thị, hết thảy cùng tự nhiên khế hợp;[23] dù hóa thành hay bảo sở[24] đều đến được bến bờ giải thoát. Cậy nhờ có Bồ Tát Di-lặc quan tâm [thưa hỏi], Pháp vương tử Văn-thù hồi đáp.[25] [Nay] dùng nghĩa sáu bộ Túc luận[26] làm rõ thêm cho luận Phát trí,[27] nêu một lời xưng tán đúng thật như kinh Xuân Thu.”[28]

Bọn chúng tôi là [Sa-môn] Thần Quýnh và các đồng sự, cùng thu thập, chọn lọc văn xưa, an nhiên thanh thản trong lẽ thật, không một người nào là không cùng phát tâm [Bồ-đề] trước đức Phật Không Vương thuở xưa, như mười sáu vị sa-di đều thay Phật giảng nói [kinh Pháp hoa].[29] [Gặp được kinh này] khác nào như đóa hoa trong bóng tối gặp được ánh mặt trời, dứt trừ nạn khổ, vun bồi châu báu.

Nay thật lòng hổ thẹn không có được văn tài như Nhạn Môn,[30] sao có thể trộm nhìn vào chỗ sâu xa uyên áo như mày rồng? [Nhưng làm việc này] chỉ vì mong muốn [giúp cho] người tham cứu nghĩa lý diệu huyền có thể thấm nhuần trong dòng đạo pháp, được căn bản vững chắc.

1. GIẢI THÍCH PHẨM TỰA

([Thưa rằng:] Phật ra đời khó gặp, được nghe Phật thuyết dạy là khó; chuyển dịch kinh văn lưu truyền là khó, tự mình khai mở giác ngộ càng khó; được nghe thầy thuyết giảng là khó, nghe qua một lần ghi chép lại càng khó. Bản thân tôi năm 27 tuổi ở đất Kim Lăng được nghe nhận pháp này, đến 69 tuổi mới ở núi Đan Khâu làm việc sửa sang thêm bớt [bản văn này]. Nay ghi chép lưu lại tặng các bậc hiền giả đời sau, cùng được hưởng nhờ trí tuệ Phật.)[31]

KINH VĂN

Phẩm Tựa, thứ nhất

Giải thích tên phẩm


Về nguyên ủy bản sớ giải kinh này đã nói rõ ở phần trên. [Chữ] tựa [trong phẩm tựa] có nghĩa là giải rõ tường tận. Đó là nói [ý nghĩa phân chia] rõ ràng vai trò người thuyết pháp và người nghe pháp, người thưa hỏi và người trả lời. Các nhà nghiên cứu kinh điển dựa theo ý nghĩa này mà phân chia thành ba nghĩa: th t (trình bày các thứ lớp), do t (trình bày nguyên do) và thut t (trình bày đi vào nội dung). [Chẳng hạn] như năm việc nêu ra ở phần đầu của mỗi bản kinh,[32] đó là th t. Đức Phật phóng hào quang, hiện sáu điềm lành[33] trước khi thuyết giảng kinh này, đó là do tự. Những lời hỏi đáp thích hợp [giữa Bồ Tát Di-lặc và Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi] để dẫn vào phần thuyết giảng chính văn, đó là thuật tự. Có đầy đủ ba ý nghĩa [th t, do tthut t] nên gọi là tựa.

[Chữ] phẩm, trong kinh Trung A-hàm gọi là bạt-cừ, Hán dịch là phẩm.[34] Phẩm có nghĩa là phân loại ý nghĩa tương đồng với nhau. Gồm chung [những ý nghĩa tương đồng] vào trong một phần nên gọi là phẩm. [Việc xác lập mỗi phẩm kinh và tên gọi] hoặc do đức Phật tự nói ra, như kinh Phạm võng,[35] hoặc do người kết tập sắp xếp đặt tên, như Đại luận, hoặc do người dịch kinh thêm vào cho đầy đủ, như [cách làm của] ngài La-thập.[36] Nay [xét như trong kinh Pháp hoa này thì] phẩm Dược Vương [Bồ Tát] Bổn Sự là do chính đức Phật xác định và đặt tên,[37] các phẩm Diệu Âm [Bồ Tát], Quán Thế Âm [Bồ Tát] là những vị chép kinh ghi vào.[38] Chưa nghe [có phẩm nào trong kinh này do] người dịch [thêm tên gọi vào].

Vì [phẩm này] mở đầu cho tất cả các phẩm nên gọi là thứ nhất.[39] Phật tùy theo nhân duyên [của chúng sanh][40] mà [thuyết kinh văn, như] rải hoa khắp nơi [hoặc thuyết kệ tụng, như] xâu hoa thành chuỗi.[41] Các vị kết tập y theo lời Phật đã thuyết mà truyền lại [kinh này]. Các bậc luận sư dựa vào kinh văn mà suy diễn giảng rộng thêm, hết thảy đều không phân chia tiết mục. Các bậc giảng sư từ xưa cũng chỉ giảng rộng nghĩa lý mà không phân chia chương đoạn. Nếu chỉ hoàn toàn theo cách này thì người đời sau e rằng không hiểu hết [được nghĩa kinh].

Lại nữa, đức Phật thuyết kệ tụng (quán hoa) hoặc kinh văn (tán hoa) [là hình thức khác nhau], nhưng các vị kết tập phải tùy theo ý nghĩa mà xác lập, [phân chia] phẩm loại. Kinh Tăng Nhất A-hàm nói rằng: [Giáo pháp của Phật gồm] một phần Khế kinh, một phần Luật, một phần Luận [A-tỳ-đàm].

Khế kinh lại chia ra làm bốn phần, gồm: kinh Tăng Nhất A-hàm, kinh Trường bộ, kinh Trung bộ và kinh Tạp A-hàm.[42] Kinh Tăng Nhất A-hàm làm sáng tỏ nhân quả trong hai cõi trời, người. Kinh Trường A-hàm phá tà kiến. Kinh Trung A-hàm làm rõ nghĩa sâu xa. Kinh Tạp A-hàm nói rõ về thiền định.

Phần Luật tạng có Ngũ bộ [luật][43] và Bát thập tụng [luật].[44] Luận A-tỳ-đàm thì chia ra có Lục túc luận, Bát kiền-độ luận[45] v.v.

Kinh A-hàm nói Bố thí độ, Trì giới độ, Trí tuệ độ... Lục độ đều có đủ; nói đủ căn tánh, đạo, định v.v. trong Bát chủng tụ.[46]

Những phương thức phân chia trước đây[47]

Ngài Thiên Thân[48] tạo [Pháp hoa kinh] luận dùng bảy công đức [thành tựu][49] để phân chia phẩm Tựa, lấy năm phần thị hiện[50] [để phân chia] phẩm Phương tiện. Các phẩm khác cũng đều có chỗ phân chia. Từ xưa ở Hà Tây có [Thích Đạo] Bằng,[51] Giang Đông có [Thích Pháp] Dao,[52] đều dựa theo cách này để phân chia tiết mục kinh văn, hết sức rườm rà. Đến ngài Quang Trạch[53] chuyển sang hướng phân chia tinh tế. [Nhưng chia nhỏ như vậy khác nào như] sương mù dày đặc che lấp bầu trời cao rộng, khiến cho ánh sáng mặt trời, mặt trăng và tinh tú đều ẩn khuất. Đây không phải chỗ đáng trân quý của người cầu học đạo.[54]

Ngài Đàm Loan nói: Phân chia tiết mục kinh văn quá chi ly, khác nào như khói bụi hỗn tạp gặp cơn gió lộng, [che lấp yếu chỉ của kinh. Cho nên, từ trước đến giờ việc phân tiết mục kinh văn] hoặc [chi ly] thái quá, hoặc sơ sài không đủ. Long sư ở Lô sơn phân chia kinh văn [thành ba phần là] phần Tựa, phần Chánh văn và phần Lưu thông. Toàn bộ kinh 27 phẩm[55] được chia thành hai nhóm. Từ phẩm Tựa đến phẩm Pháp sư [là nhóm thứ nhất] nói pháp phương tiện (quyền pháp) và pháp chân thật (thật pháp), lẽ thật tuy chỉ có Nhất [thừa] nhưng giảng nói thành Tam thừa. Từ phẩm [Hiện] tháp báu trở về sau [là nhóm thứ hai, nói về] thân phương tiện và thân chân thật. Đó là [ý nghĩa thành Phật từ] lâu xa mà [mượn việc thành đạo] gần đây [nơi Bồ-đề Đạo tràng] để nói.[56]

Lại từ phẩm Phương tiện đến phẩm Hạnh an vui là nói nhân môn, từ phẩm Từ lòng đất vọt lên trở về sau là nói quả môn. Ngài Huyền Sướng chùa Tề Hưng (Trung Hưng) và ngài Pháp Dao chùa Tiểu Sơn đều theo ngài Long Thụ, phân chia kinh văn như nhau. Ngài Huyền Sướng lấy từ phẩm Tựa cho đến phẩm Hiện tháp báu[57] là phần nhân, từ phẩm Khuyến khích thọ trì đến phẩm Thần lực Như Lai là phần quả, từ phẩm Giao phó về sau cho đến hết kinh là phần hộ trì.

Lại có bậc thầy cho rằng, từ phẩm Tựa cho đến phẩm Thụ ký cho hàng hữu học và vô học là thể của Pháp hoa, từ phẩm Pháp sư cho đến phẩm Giao phó về sau là nói rõ công đức của việc thọ trì [kinh này]. Từ phẩm Hạnh nguyện thuở xưa của Bồ Tát Dược Vương cho đến hết kinh là ngợi khen bổn nguyện của chư vị Bồ Tát.

Lại có bậc thầy phân chia [kinh văn] làm bốn phần. Phẩm Tựa là phần đầu tiên. Từ phẩm Phương tiện cho đến phẩm Hạnh an vui là [phần thứ hai] giảng rộng Tam thừa để nêu rõ Nhất thừa. Từ phẩm Từ lòng đất vọt lên đến hết phẩm Phân biệt công đức là phần [thứ ba] giảng rộng nghĩa [thành đạo] gần đây để làm rõ nghĩa [Như Lai vốn đã thành Phật từ] lâu xa. Phần còn lại từ đó về sau là phần lưu thông.

Ngài Quang Trạch [Pháp] Vân thì đối với ba phần kinh văn, tất cả đều chia hai, [như trong phần Tựa (Tự phẩm) thì chia ra] có thông tự và biệt tự, trong phần chánh văn thì chia thành nhân môn và quả môn, trong phần lưu thông thì chia thành hóa tha (giáo hóa người khác) và tự hành (tự mình hành trì). [Như vậy] phần tựa có năm đoạn, tất cả đều chia hai thành mười, phần chánh văn có bốn đoạn, tất cả đều chia hai thành tám, phần lưu thông có ba đoạn, tất cả đều chia hai thành sáu. Toàn bộ hợp lại thành hai mươi bốn đoạn. Đại lược là như vậy.

Nói chung, việc phân chia tiết mục kinh văn [như trên] hết thảy đều dựa theo cảm nhận của mỗi người. Hoa lan, hoa cúc mỗi loại đều có vẻ đẹp riêng. Người đời sau không nên vì sự khác biệt mà tranh biện đúng sai, [như vậy là] chẳng được ba lợi ích, mất đi một mối đạo. Ba lợi ích là nói [ba tất đàn, gồm] thế giới tất đàn, [vị nhân tất đàn và đối trị tất đàn]. Một mối đạo là nói Đệ nhất nghĩa tất đàn.[58]

Ngài Thiên Thai Trí Giả phân chia toàn kinh làm ba phần. Phẩm đầu là phần Tựa. Từ phẩm Phương tiện đến [phần đầu] phẩm Phân biệt công đức, [vừa hết] 19 đoạn kệ tụng,[59] gồm cả thảy mười lăm phẩm rưỡi, là phần Chánh văn. Từ sau phần kệ tụng ấy cho đến hết kinh, gồm cả thảy mười một phẩm rưỡi, là phần Lưu thông.[60]

Lại có khi [toàn kinh] được chia làm hai phần. Từ phẩm Tựa đến phẩm Hạnh an vui, gồm 14 phẩm, xếp thành phần Tích [môn] khai trừ phương tiện, hiển bày lẽ thật. Từ phẩm Từ lòng đất vọt lên đến hết kinh, gồm 14 phẩm, xếp thành phần Bản [môn] khai trừ phương tiện, hiển bày lẽ thật.

[Hai phần] Bản môn và Tích môn, [mỗi phần] đều bao gồm đủ các phần tựa (tự), chánh văn (chánh) và lưu thông. [Như trong phần Tích môn,] phẩm đầu tiên là phần Tựa, từ phẩm Phương tiện đến phẩm Thụ ký cho hàng hữu học và vô học là phần Chánh văn, từ phẩm Pháp sư đến phẩm Hạnh an vui là phần Lưu thông. [Trong phần Bản môn thì chia hai] phẩm Từ lòng đất vọt lên , [từ đầu] cho đến [câu Di-lặc] “đã thưa hi vic này ri, nay Pht s tr li, các ông nhân đó s t mình đưc nghe”][61] là phần Tựa, từ câu “Bấy giờ, Phật bảo Bồ Tát Di-lc[62] đến hết [19 đoạn] kệ tụng trong phẩm Phân biệt công đức là phần Chánh văn, từ đó cho đến hết kinh là phần Lưu thông. Nay ghi lại [cách phân chia] ba phần như trên để hiểu rõ ý nghĩa trong kinh.[63]

● [Có người] hỏi rằng: [Nếu nói như trên, vậy chỉ] một bản kinh sao có đến hai phần Tựa?

● Đáp: Trong kinh Hoa nghiêm, mỗi nơi hội chúng vân tập [đều có phần Tựa].[64] Trong kinh A-hàm mỗi phần cũng đều [mở đầu bằng] “như thị” [giống như một bản kinh riêng biệt].[65] Kinh Đại Phẩm hai phần trước sau đều có Phó chúc.[66] [Những điều ấy] đều không ngăn ngại [việc hình thành] một bộ kinh. [Nên trong kinh này có] hai phần Tựa cũng không trở ngại gì. Nay [nếu không như vậy thì] không thiết lập đủ năm nghĩa,[67] phần Bản môn không phân vạch được chỗ khởi đầu, phần Tích môn chỉ có riêng phần Lưu thông, việc thuyết pháp chưa rốt ráo. Ý nghĩa có hay không chỉ là như vậy mà thôi.

Cách phân chia trong sách này

Nay tạm phân trong kinh văn có bốn ý.

Thứ nhất là trình bày theo số lượng, thứ hai là nêu lý do, thứ ba là nêu dẫn chứng và thứ tư là chỉ rõ tướng thật.

Trình bày theo số lượng là kể ra: Thứ nhất nhân duyên, thứ hai ước giáo, thứ ba là [ý nghĩa] bản môn và tích [môn], thứ tư là quán tâm. Bắt đầu từ “Như thị [ngã văn]” (Tôi nghe như thế này) cho đến kết thúc “[tác lễ] nhi khứ” (lễ bái lui ra), hết thảy đều phải vận dụng bốn ý này để nhận hiểu kinh văn. Ngày nay ghi chép giản lược, hoặc chỉ còn ba, hai hay một ý. Điều quan trọng là nhận hiểu được ý kinh, không cần đến văn tự rườm rà.

Thứ hai là nêu lý do. Có người hỏi rằng, nếu nói giản lược ắt chỉ còn một ý, nếu giảng rộng ra ắt không chỉ bốn ý, lý do vì sao? Đáp rằng, nếu giảng rộng [quá] sẽ làm cho trí tuệ [người học] suy kém, còn nói giản lược [quá] thì không trọn ý. Nay ta ở khoảng giữa hai điều ấy mà giảng nói, làm cho ý nghĩa [kinh văn] dễ được sáng tỏ hơn.

Nhân duyên cũng gọi là cảm ứng. Chúng sinh thiếu cơ duyên thì dẫu kề bên cũng không thấy được. [Ngược lại], có đủ lòng từ và căn lành thì dù xa xôi vẫn tự thông suốt, là do có sự cảm ứng giao hòa trong mối đạo. Đó là dùng lẽ nhân duyên để giải thích.

Nhìn chung những chúng sinh cầu giải thoát với căn cơ như vậy rất nhiều, bậc thánh khởi lên sự ứng hiện ắt cũng phải nhiều tương ứng như vậy. Ý nghĩa [kinh] này rộng lớn như thế, [nói] khoảng giữa biết là ở chỗ nào? Nhưng kinh điển Đại thừa dạy rằng: Sức mạnh của lòng từ với căn lành có vô lượng phương thức, nói đơn giản là các thần thông. Nếu như căn cơ [chúng sanh] và sự cảm ứng trong mười phương rộng lớn như hư không, thì nay chỉ xét trong thế giới Ta-bà, những âm thanh làm Phật sự chính là rộng mở cửa cam lồ. Y theo giáo pháp giải thích, chọn cách trung dung để giảng nói rõ ràng. Nếu tùy theo căn cơ mà thiết lập giáo pháp, thì giáo pháp ấy phải có quyền, có thật, có nông cạn, có sâu xa chẳng đồng nhau, nên phải biết quên đi ngón tay mà nhận lấy mặt trăng, quên đi tích [môn] để tìm cầu bản [môn].

Thầy Tăng Triệu[68] nói: “Không có bản [môn] thì chẳng lấy gì để truyền lại tích [môn], không có tích [môn] thì chẳng lấy gì để hiển bày bản [môn].” Cho nên dùng bản [môn] và tích [môn] để giải thích. Nếu tìm cầu tích [môn “khai quyền hiển thật”] thì tích [môn] rộng lớn mênh mông, [kẻ tìm cầu chỉ] nhọc công vô ích. Nếu tìm cầu [bản môn “khai cận hiển viễn”] thì bản môn cao vời, [kẻ tìm cầu] không thể theo đến cùng cực. Suốt ngày đêm chỉ lo đếm châu báu của người khác thì tự mình không có được [dù chỉ] nửa đồng xu. Chỉ cần quán xét sự cao rộng của tự tâm mình, khơi dậy sự cảm ứng vô cùng của bậc thánh. Cơ duyên đạt đến sự cảm ứng mới có được lợi ích cho bản thân mình. Cho nên dùng sự quán xét [tự] tâm để giải thích.

Thứ ba là nêu dẫn chứng. Phẩm Phương tiện nói rằng: “Mười phương chư Phật vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời.” [Như vậy thì giáo pháp] Nhân thừa, Thiên thừa, Tiểu thừa chẳng phải Nhất thừa, chẳng phải Đại thừa. Hơn nữa, không có Phật sự thì không thành tựu cơ duyên cảm ứng. Thật tướng gọi là Nhất thừa, rộng khắp gọi là Đại thừa. Đức Phật chỉ rõ việc này, đó là “sự”, [Phật] xuất hiện ở đời gọi là một “đại sự nhân duyên”. [Cũng trong phẩm Phương tiện] còn nói rằng: “Dùng đủ mọi pháp môn, để chỉ bày Phật đạo.” Nên biết rằng, [đức Phật dạy] hết thảy mọi giáo pháp bằng âm thanh, hoặc tinh tế nhỏ nhiệm, hoặc sáng tỏ rõ ràng, hoặc quyền biến phương tiện, hoặc chân thật rốt ráo, tất cả đều chỉ là vì đạo giải thoát của Phật mà tạo phương tiện, [cũng giống như] nơm [để bắt cá], lưới [để bắt thỏ] mà thôi.

Kinh điển Đại thừa dạy rằng “lời nói thô thiển hay nhu nhuyễn cũng đều quy về nơi đệ nhất nghĩa”, chính là nói lên ý nghĩa như thế. Trong phẩm Tuổi thọ của Như Lai, [đức Phật] nói: “Trong thế gian này, tất cả chư thiên, loài người cho đến a-tu-la đều cho rằng: ‘Đức Phật Thích-ca Mâu-ni hiện nay là từ hoàng cung họ Thích xuất gia, đến ngồi nơi đạo tràng không xa thành Già-da, chứng đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.’ Nhưng này các thiện nam tử, thật ra ta thành Phật đến nay đã vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức na-do-tha kiếp.”

Trong phẩm Phương tiện cũng có kệ rằng:

“Phật xưa đã thệ nguyện,

Độ hết thảy chúng sinh,

Được như Phật không khác.”[69]

Lại trong phẩm Năm trăm đệ tử được thụ ký có kệ rằng:

Trong giấu hạnh Bồ Tát,

Ngoài hiện tướng Thanh văn...

...Tự thanh tịnh cõi Phật.

Thị hiện có ba độc,

Lại có tướng tà kiến.

Đệ tử Phật như thế,

Phương tiện độ chúng sinh.

Như vậy thì cả Phật và đệ tử đều làm sáng tỏ ý nghĩa Bản môn, Tích môn. Đại lược là như thế.

Trong [kệ trùng tuyên] ở phẩm Thí dụ, [đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất] rằng: “Nếu như ai có thể, tin lời ông nói ra, đó là người thấy Phật, cũng thấy được chính ông, cùng chư tỳ-kheo tăng, và chư vị Bồ Tát.”[70] Do đó nên biết rằng, tùy theo chỗ nghe được mà để tâm quán sát thật kỹ thì trong tâm tin tưởng ấy sẽ thấy được Tam bảo. Nghe được lời thuyết dạy, đó là Pháp bảo; liền “thấy Phật”, đó là Phật bảo; thấy được “chư tỳ-kheo tăng...”, đó là Tăng bảo. Đại lược là như thế.

Thứ tư là chỉ rõ tướng thật. Hãy nói ngắn gọn về ba giai đoạn chỉ rõ tướng nhân duyên. Chúng sinh từ lâu xa vẫn mong chờ phương tiện thiện xảo của Phật để giúp gieo trồng nhân duyên Phật đạo. Trong [lúc mong chờ] ấy được gặp [Phật], dùng phương tiện khác giúp hiển bày Đệ nhất nghĩa mà làm cho thành thục [hạt giống Phật]. Ngày nay mưa hoa, mặt đất chấn động, là dùng sự diệt độ của Như Lai để độ thoát [những chúng sinh ấy].[71]

Lại nữa, [nhân duyên] từ rất lâu xa nên [gọi là] gieo trồng, từ trong quá khứ nên được thành thục, trong đời gần đây được giải thoát. Trong phẩm Từ lòng đất vọt lên nói những việc như thế.

Lại nữa, trong thời gian [chưa giác ngộ] là gieo trồng nhân duyên, [trải qua] bốn mùi vị [của sữa][72] là thành thục, [sinh nơi] cung vua là giải thoát, nay làm việc khai mở (khai), chỉ bày (thị) [cho chúng sinh nhận hiểu] (ngộ), thể nhập (nhập) [vào tri kiến Phật].

Lại nữa, [những việc làm trong] đời này là gieo trồng nhân duyên, những đời sau là thành thục và đời sau nữa là giải thoát. Người đời sau được độ thoát chính là [ý nghĩa] như vậy. Tuy chưa phải là Bản môn, nhưng chỉ theo ý mà nói. Thời thời khắc khắc trong suốt thời gian [chưa giải thoát] đó, trải qua ba đời, chín đời gieo trồng nhân duyên, thành thục, rồi giải thoát. Sự cảm ứng [với cơ duyên] cũng không hề chướng ngại. Vì sao vậy? Vì đức Như Lai có sức thần thông tự tại, có sức sư tử phấn chấn, nhanh nhẹn, lớn lao, uy dũng.

Vì để nói đến sức tự tại cùng những năng lực như thế nên [kinh văn] có phần Tựa. Vì đại chúng thấy điềm lành hy hữu liền trang nghiêm khát ngưỡng muốn được nghe đầy đủ [Phật] đạo. Đức Phật tùy cơ duyên ấy lập pháp giáo hóa để khai mở, chỉ bày [cho chúng sanh] nhận hiểu, thể nhập tri kiến Phật, cho nên [kinh văn] mới có phần Chánh văn. Không những chỉ [chúng sanh] đương thời được lợi ích lớn, mà đến hơn 500 năm sau nữa cũng được hưởng nhờ đạo mầu, cho nên [kinh văn] mới có phần Lưu thông.

Lại nữa, [về phương diện] hiển bày hình tướng giáo pháp, phần Tựa [của Kinh văn] chẳng phải vì [hàng phàm phu cầu] thăng tiến trong hai cõi trời người mà nói ra, chẳng phải vì hàng Nhị thừa cầu đạo hạn hẹp mà nói ra, chẳng phải vì [hàng Duyên giác quán “pháp] không” thông suốt ba cõi mà nói ra, chẳng phải riêng vì giáo pháp dành cho hàng Bồ Tát mà nói ra, nhưng là vì sự chân chánh ngay thật buông bỏ [các pháp] phương tiện, chỉ vì thuyết dạy Phật đạo vô thượng mà nói ra phần Tựa này. Sự chân chánh này, chẳng xem pháp thế gian là chân chánh, chẳng xem trí tuệ [phàm phu] phân biệt chia chẻ [ví như] ánh sáng đom đóm là chân chánh, chẳng xem trí tuệ [của hàng Nhị thừa thấy được] thực thể các pháp [ví như ánh sáng] đèn đuốc là chân chánh, chẳng xem trí tuệ thấu rõ các pháp thế gian và xuất thế gian[73] [của hàng Bồ Tát ví như ánh sáng] trăng sao[74] là chân chánh, mà chỉ xem trí tuệ rõ biết tất cả [của chư Phật ví như] ánh sáng mặt trời mới là chân chánh.

Phần Lưu thông [của kinh] này không phải vì những phương tiện quyền biến giả tạm[75] mà nói ra, chẳng phải lưu thông giáo pháp không rốt ráo[76] [của hàng Tiểu thừa], chẳng phải lưu thông giáo pháp chung cùng[77] [của hàng Nhị thừa], chẳng phải lưu thông giáo pháp chuyên biệt[78] [của hàng Bồ Tát], hoàn toàn là để lưu thông Kinh điển [Nhất thừa] rốt ráo trọn vẹn.

Kế đến là chỉ bày bản (chỗ phát khởi ban sơ) và tích (hình tích sự phát triển).[79] Từ thuở xa xưa lúc [đức Phật] còn tu hành đạo Bồ Tát, đã tuyên dương kinh Pháp hoa của chư Phật trước đó, cũng có 3 phần thượng, trung và hạ,[80] [trong đó] cũng có đủ bản và tích.

Nhưng dù chư Phật tiếp nối nhau đến vô cùng vô tận, cũng chỉ riêng lấy kinh Pháp hoa do vị Phật thuở tối sơ thuyết giảng gồm 3 phần thượng, trung, hạ mà xem là phần thượng, mới gọi là bản. Vì sao vậy? Vì là do vị Phật thuở tối sơ thuyết giảng nên xem là phần thượng, gọi là bản. Ý nghĩa này có thể biết được.

Rồi trong khoảng giữa thời gian hành hóa, [Bồ Tát][81] trợ giúp các vị Phật như Phật Đại Thông Trí Thắng, Phật Nhiên Đăng... tuyên dương kinh Pháp hoa, cũng gồm 3 phần, đây được xem là phần trung, được gọi là tích. Vì sao vậy? Vì trước đó đã có phần thượng, đã được gọi là bản.

Ngày nay, [kinh Pháp hoa do đức Phật Thích-ca] thuyết giảng tại thành Vương xá có ba phần, được xem là phần hạ, cũng gọi là tích.

Cho đến chư Phật vĩnh viễn trong tương lai về sau sẽ dùng sức mạnh mẽ phấn chấn như sư tử để thuyết giảng [kinh Pháp hoa này] gồm đủ ba phần, nhưng cũng chỉ riêng bản kinh được thuyết giảng vào thuở tối sơ mới được xem là phần thượng, được gọi là bản [mà thôi]. Ví như cây đại thọ tuy có ngàn cành muôn lá, nhưng luận về căn bản thì không thể xem tất cả [những cành lá ấy] đồng như cội gốc. Ví dụ này có thể giải thích rõ [ý nghĩa bản, tích như trên]. Đại lược là như vậy.

Thứ tư nói về tướng trạng của việc quán tâm. Trong việc thúc ước tâm này phải luận đến ba phần là giới, định và tuệ. Tu tập hành trì phải khởi đầu từ giới, tiếp theo là định rồi sau cùng là tuệ. Nhưng [nếu phân chia] về mặt pháp môn thì tuệ được xem là bản, định và giới là tích.

Trong giới, định và tuệ, mỗi yếu tố lại gồm đủ 3 phần [tự, chánh và lưu thông].[82]

Giới có ba phần, các phương tiện trước [để thực hiện là tự], bạch tứ yết-ma [là chánh], đi đến phán quyết chung [là lưu thông].

Định có ba phần, 25 phương tiện [là chuẩn bị, là tự], [tu tập] chân chánh quán chiếu các duyên [là chánh], khéo nhập, xuất hoặc an trụ trong trăm ngàn pháp môn Tam-muội [là lưu thông].

Tuệ có ba phần, hết thảy các pháp đều do nhân duyên mà sinh ra, [nhìn thấy các pháp] đều không [là tự], [nhìn các pháp theo] trung đạo [là chánh], [thấy các pháp đều] giả tạm [là lưu thông].

Tạm phân ba phần như vậy để chỉ rõ bốn chủng tướng, nên vận dụng ý nghĩa như vậy. [Đó là nói] từ câu “như th [ngã văn...] cho đến [cuối kinh văn] “tác lễ nhi khứ”,[83] toàn bộ kinh này có thể chia ra bốn ý chính, nhưng nếu đem so với ý nghĩa vừa nêu ắt thấy có khác biệt. Nếu phân biệt chỉ rõ từ ngữ [theo cách đó] thì rất khó, nên người đọc phải khéo léo tự mình suy xét. [Phải thấy rằng] từ ngữ tuy có chỗ khác biệt nhưng ý nghĩa vẫn tương đồng. Đây chính là ý nghĩa ngàn chiếc xe [đi qua chỉ để lại] cùng một dấu vết, muôn dòng nước [chảy về biển rồi] đều cùng một vị mặn.

Phần tự (lời tựa) có chia ra thông tự (tựa chung) và biệt tự (tựa riêng).[84] Từ chữ “như thị...” cho đến “khước tọa nhất diện” là phần thông tự. Từ “nhĩ thời Thế Tôn” cho đến hết phẩm này là phần biệt tự.

Thông tự nghĩa là tương thông, tương đồng với các giáo nghĩa, kinh điển khác. Biệt tự là phần khác biệt, riêng biệt của một bộ kinh. Phần thông tự [có thể chia ra] 5, 6, 7 ý hoặc nhiều hơn. Chẳng hạn, “như thị” là nêu lên tánh thể của việc nghe pháp, “ngã văn” là nói người nghe có khả năng ghi nhớ, nắm giữ [giáo pháp], “nhất thời” là nói việc nghe pháp và ghi nhớ diễn ra trong cùng một thời điểm, chẳng phải vào lúc khác, “Phật” là nói rõ giáo pháp được nghe chính từ kim khẩu Phật, “Vương Xá thành, Kỳ-xà-quật sơn trung” là nêu rõ địa điểm được nghe kinh và ghi nhớ, “dữ đại tỳ-kheo” là nói những người cùng nghe kinh và ghi nhớ. Những điều này đều là nhân duyên hòa hợp lần lượt tác động lẫn nhau mà sinh ra.

KINH VĂN

Tôi nghe như vậy, vào lúc đức Phật ở tại thành Vương Xá, giữa núi Kỳ-xà-quật.

Giải thích chữ “như vậy”


Chữ “như vậy”, Hán văn chép là “như thị”, có nghĩa là ba đời chư Phật đều an ổn như nhau, đạo hạnh tương đồng, [tùy thuận mà] chẳng tranh chấp với thế gian. Đó là giải thích theo thế giới tất đàn.[85]

Đại [Trí độ] luận nói: “Nêu lên thời điểm và nơi chốn mới có thể khiến người sinh khởi lòng tin.” Đó là giải thích theo [vị] nhân tất đàn.

Lại nữa, đối phá ngoại đạo [vì họ] dùng hai chữ, “a” [là không] và “âu” [là có],[86] vốn chẳng phải “như”, chẳng phải “thị”. Đây là giải thích theo đối trị tất đàn.

Lại nữa, “như thị” là từ ngữ tin thuận. Tin thì có thể nhận hiểu những điều được nghe, thuận thì thành tựu được sự truyền thừa giữa thầy với học trò. Đây là giải thích theo đệ nhất nghĩa tất đàn.

Vì lẽ nhân duyên được giải thích rất rộng nên ở đây không thể ghi chép hết... Lược giải theo giáo nghĩa, kinh là giáo pháp của chư Phật ba đời, ban sơ đều giống nhau nên gọi là “như thị”. Chư Phật trước đây có phân ra các kinh điển Tiệm giáo, Đốn giáo, hoặc Bí mật giáo, hoặc Bất định giáo.[87] Trong Tiệm giáo lại có Tam tạng giáo (hay Tạng giáo), Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo.[88] Chư Phật ngày nay cũng giống như vậy, cũng có phân chia các kinh điển khác nhau, không thể dùng duy nhất một phương thức để khai mở chỉ bày cho hết thảy chúng sinh.

Lại nữa, Phật và A-nan, chỗ nghe không khác nhau, gọi là “như”. Người thuyết giảng làm rõ pháp được thuyết giảng, gọi là “thị”. Ngày nay ngài A-nan truyền lại những lời của Phật như thế nào thì phải giảng giải đúng như thế ấy. Không thể đem pháp tiệm truyền lại thành đốn, pháp quyền thừa truyền lại thành rốt ráo. Nếu sự truyền đạt và giảng giải sai lệch thì kinh văn chẳng gọi là “như”. Kinh văn không “như” thì nghĩa lý chẳng phải “thị”. Ý nghĩa này thật khó nhận hiểu sáng tỏ nên cần phụ giải thêm.

Hơn nữa, nếu y theo Tiệm giáo mà phân biệt, Phật đã giảng rõ, theo tục đế thì có văn tự nhưng nếu thật là chân đế ắt không có văn tự. Ngài A-nan truyền lại văn tự của Phật thuộc tục đế, so với những gì Phật thuyết dạy không hề sai khác, cho nên gọi là “như”. Nhân nơi văn tự thế tục mà nhận hiểu được nghĩa lý của chân đế, cho nên gọi là “thị”. Đây chính là ý nghĩa của hai chữ “như thị” được giảng rõ theo Tạng giáo.

Đức Phật giảng rõ “sắc tức là không, không tức là sắc”; sắc với không, không với sắc vốn chẳng phải hai, chẳng phải khác biệt. Không và sắc chẳng khác biệt nhau, đó là “như”; ngay nơi sự đã có chân, đó là “thị”. Ngài A-nan truyền lại lời Phật không sai khác, ấy là “như”, chỗ giảng giải không khác điều được giảng giải, ấy là “thị”. Đó là ý nghĩa của hai chữ “như thị” theo Thông giáo.

Đức Phật giảng rõ trong vòng sinh tử là có giới hạn, còn đạt đến Niết-bàn là không giới hạn. Vượt khỏi sinh tử vẫn còn giới hạn, thể nhập Niết-bàn không còn giới hạn. Ra khỏi Niết-bàn không giới hạn ấy là thể nhập trung đạo. Ngài A-nan truyền lại ý nghĩa này là “ra ngoài cõi có, nhập vào cõi không, vượt ngoài cõi không, nhập vào trung đạo”. So với lời Phật thuyết dạy không khác nên gọi là “như”, từ cạn đến sâu đều không sai lầm nên gọi là “thị”. Đây chính là ý nghĩa hai chữ “như thị” theo Biệt giáo.

Đức Phật cũng giảng rõ sinh tử chính là Niết-bàn, cũng là trung đạo, lẽ nào Niết-bàn lại không phải trung đạo? Pháp giới chân như, thật tánh thật tế, khắp thảy mọi nơi không đâu không phải là pháp Phật. Ngài A-nan truyền lại ý nghĩa này so với lời Phật thuyết dạy không có gì sai khác nên gọi là “như”, như như không động chuyển nên gọi là “thị”. Đây chính là ý nghĩa hai chữ “như thị” theo Viên giáo.

Nếu dùng nghĩa động của tục đế thể nhập nghĩa “như”, đó là ý nghĩa theo Tạng giáo. Nếu dùng nghĩa chẳng động của tục đế thì chính là ý nghĩa theo Thông giáo. Nếu dùng các nghĩa “động như”, “nhập như”, ấy là ý nghĩa của Biệt giáo. Nếu dùng nghĩa “bất động như” thì là ý nghĩa của Viên giáo. Đại lược là như vậy.

Nếu theo Đốn giáo thì ý nghĩa của “như thị” tương đồng với Viên giáo. Theo Bất định giáo thì ý nghĩa “như thị” trước sau có sự hỗ tương cho nhau. Theo ý nghĩa Bí mật giáo thì ẩn khuất không truyền. Bày ra [tấm lưới] tám giáo[89] như vậy rộng trùm khắp biển pháp giới, chỉ sợ còn có thất thoát, huống chi chỉ như một mắt lưới giăng ra. Lại như người cùng lúc đón bắt bốn mũi tên không cho rơi xuống đất cũng chẳng dám gọi là nhanh,[90] huống gì kẻ chậm chạp như thúc con lừa đần, đuổi con rùa què, dẫu một còn chưa bắt được, nói gì đến bốn?[91] Đại lược là như thế.

Nay lược nói ý nghĩa “bản tích” để giải nghĩa “như thị” (đúng thật như vậy). Mười phương ba đời dọc ngang đều đúng thật như vậy, cho đến quá khứ xa xôi, hiện tại mênh mang, tương lai mãi mãi, hết thảy cũng đều đúng thật như vậy, biết đâu là “bản” (ban sơ), biết đâu là “tích” (dấu vết)? Cho nên tạm nói rằng, đức Thích-ca Thế Tôn từ thuở ban sơ vừa mới thành đạo đúng thật như vậy, đó gọi là bản. Qua thời gian làm Phật giảng kinh đúng thật như vậy, cho đến ngày nay những kinh điển Phật thuyết giảng đúng thật như vậy, đều gọi là tích.

Lại nữa, những gì ngài A-nan truyền lại đúng thật như vậy đều gọi là tích, những gì đức Phật thuyết giảng đúng thật như vậy đều gọi là bản.

Lại nữa, những gì được truyền đạt thông suốt đúng thật như vậy giữa thầy và trò, chẳng phải mới bắt đầu từ hôm nay, cũng chẳng có khoảng chuyển tiếp trung gian, như thế gọi là bản. Những gì có khoảng trung gian chuyển tiếp cho đến ngày nay, đó gọi là tích.

Nếu giải thích theo nghĩa quán tâm thì các ý nghĩa “như thị” theo [tứ] tất đàn, giáo tông, bản tích đã nói ở trước, hết thảy đều là pháp nhân duyên sinh. Đó là quán xét theo Thông giáo. Hết thảy nhân duyên vốn là không, vốn là giả hợp, đó là quán xét theo Biệt giáo. [Nếu xem] hai pháp quán [của Thông giáo và Biệt giáo] đều là phương tiện thì thể nhập được ý nghĩa tột cùng của trung đạo. Lại cùng lúc quán chiếu cả Không và Giả (nhị đế) thì đó là cách quán theo cả Thông giáo cũng như Biệt giáo. Như trên đã thấy, quán xét theo trung đạo thì không phải Thông giáo cũng không phải Biệt giáo.

Phần kinh văn tiếp theo [trong phẩm Thí dụ] nói rằng: “Nếu như ai có thể, tin lời ông nói ra,[92] đó là người thấy Phật, cũng thấy được chính ông, cùng chư tỳ-kheo tăng, và chư vị Bồ Tát.

Đây là đoạn văn giảng rõ việc thực hành quán chiếu. “Tin lời” là luận về “cơ”, còn “thấy được” là luận về “ứng”, tức là nói lẽ nhân duyên. Lại nữa, trong sự “tin nhận” cũng có mức độ cạn hoặc sâu, trong chỗ “thấy được” cũng chia ra quyền biến hay chân thật. Từ đó mà phân biệt đủ mọi hạng loại chẳng giống nhau, tức là giáo nghĩa phân biệt.

Lại nữa, tin nhận kinh văn Pháp hoa là thấy được chỗ ban sơ của thật tướng. Thấy được sự hóa hiện của Xá-lợi-phất[93] thì thấy được chỗ ban sơ vốn là Phật Kim Long Đà.[94] Nếu thấy được đức Thích Tôn vừa mới thành đạo, thì cũng thấy được chư Phật trước đây đã thành đạo từ lâu. Nếu thấy được 1.200 tỳ-kheo, 80.000 Bồ Tát, thì cũng thấy được chỗ ban sơ của các vị ấy.

Lại nữa, khi nghe kinh khởi tâm tin nhận không nghi, hiểu rõ được tâm tin nhận sáng suốt thanh tịnh đó tức là thấy Phật; trí tuệ thường sáng suốt phân biệt tức là thấy Xá-lợi-phất; phân biệt số lượng sáng suốt rõ ràng là chúng tỳ-kheo; tâm từ bi thanh tịnh là thấy các vị Bồ Tát. Lược giải về tâm có bốn ý như vậy xoay vần giảng rõ.

Nếu giảng giải những kinh điển khác chỉ dùng ba ý, vì chưa có nghĩa “phát bản hiển tích” (nêu chỗ ban sơ để làm sáng rõ ý nghĩa hình tích). Nên biết rằng, kinh điển này giảng rõ ba ý tương đồng với những kinh khác, riêng có một ý khác biệt. Đến đây trọn vẹn bốn lượt giải thích ý nghĩa [hai chữ] “như thị”. Đại lược là như vậy.

Giải thích chữ “tôi nghe”

[Hai chữ] “tôi nghe”, Hán văn là “ngã văn”, hoặc [cũng có kinh chép là] “văn như thị”. Tuy kinh bản không giống nhau nhưng trước sau đều nêu việc “nghe kinh”. Nay xin dẫn ra bốn cách giải thích.

Luận Đại Trí độ nói: “Lỗ tai bình thường không hư hoại, âm thanh phát ra trong phạm vi có thể nghe, người khởi tâm muốn nghe. Các duyên như vậy hòa hợp đủ nên nói rằng ‘tôi nghe’.”

Có người hỏi: “Lẽ ra nên nói ‘tai nghe’, sao lại nói ‘tôi nghe’?” Đáp rằng: “Nói ‘tôi’ đó là chủ thể của lỗ tai. Nêu chữ ‘tôi’ lên là để gồm hết các duyên [như trên]. Đó là giải thích theo thế giới [tất đàn].”[95]

Ngài A-nan lên tòa cao cất tiếng nói “tôi nghe” thì đại chúng đều bi thương, bởi vừa thấy đức Như Lai đó mà nay đã phải nói lại rằng “tôi nghe”. Các vị A-la-hán đều nói kệ, nhắc rõ lời Phật dạy. Ngài Văn-thù [khi chủ trì] kết tập, trước tiên nêu đề kinh, tiếp theo phải nói “tôi nghe như vậy”. Khi ấy “đại chúng buồn thương”, đó là giải thích theo vị nhân [tất đàn].

Ngài A-nan khi lên tòa cao cất tiếng nói “tôi nghe” là để xua tan sự nghi hoặc của đại chúng. Vì thân hình ngài A-nan tương tự như Phật, chỉ thấp hơn Phật ba lóng tay, [nên khi vừa lên tòa cao thì trong] đại chúng [khởi sinh ba mối nghi]. [Một là có người] nghi rằng đức Thích Tôn xuất hiện trở lại, [hai là có người] nghi rằng Phật từ phương khác đến, [ba là có người] nghi rằng ngài A-nan nay đã thành Phật. Khi nói rõ “tôi nghe” thì ba mối nghi ngờ như thế liền tiêu tan. Đây là giải thích theo nghĩa đối trị [tất đàn].

[Lại nữa,] ngài A-nan chứng quả hữu học, do tùy thuận thế tục mới nói là “ngã văn” (tôi nghe). Theo nghĩa rốt ráo (đệ nhất nghĩa) thì không có “tôi”, cũng không có “nghe”. Các giải thích từ xưa đến nay đều đồng thuận theo ý nghĩa nhân duyên như vậy. Đó là giải thích theo giáo nghĩa.

Luận giải nói rằng, phàm phu có ba loại chấp ngã là ngã kiến, ngã mạn và ngã danh tự. Người chứng quả hữu học có hai loại, bậc chứng quả vô học vẫn còn một loại. Ngài A-nan chứng quả hữu học, không còn chấp ngã tà vạy, có khả năng chế phục ngã mạn, nhưng tùy theo thế tục mà dùng “ngã danh tự” nên không có lỗi. Đây là giải thích ý nghĩa của “ngã” theo Tạng giáo.

Theo luận Thập trụ Tỳ-bà-sa thì rơi vào bốn câu chấp “ngã” đều là tà kiến.[96] Trong chánh pháp của Phật không có ngã, ai là người nghe? Đây là nói theo ý nghĩa của Thông giáo.

Kinh điển Đại thừa nói rằng, ngài A-nan là bậc đa văn, biết rằng “ngã” và “vô ngã” vốn chẳng phải hai, đồng thời cũng phân biệt rõ “ngã” và “vô ngã”. Đây là giải thích theo ý nghĩa của Biệt giáo.

Lại nữa, ngài A-nan rõ biết ngã và vô ngã vốn chẳng phải hai, nhưng vì phương tiện [thị hiện] làm thị giả cho [Phật] để truyền nối giữ gìn trí tuệ vô ngại của Như Lai, dùng âm thanh tự tại để truyền [thừa giáo pháp] quyền và thật, nên chẳng có gì là không làm được. Đây là giải thích ý nghĩa của “ngã” theo Viên giáo.

Lại nữa, kinh Chánh pháp niệm giải thích rõ là có ba vị [mang tên] A-nan. [Vị thứ nhất là] A-nan-đà (Ānanda), Hán dịch là Hoan Hỷ, là vị truyền giữ tạng kinh điển Tiểu thừa. [Vị thứ hai là] A-nan-bạt-đà (Ānandabhadra), Hán dịch là Hoan Hỷ Hiền, [là người] thọ trì Tạp tạng. [Vị thứ ba là] A-nan-sa-già (Ānandasāgara), Hán dịch là Hoan Hỷ Hải, [là người] thọ trì Phật tạng. Trong kinh A-hàm thì có Điển Tạng A-nan, [là người] thọ trì Bồ Tát tạng. Nói chung thì đây chỉ là một vị có đủ bốn đức, truyền thừa bốn loại giáo pháp.[97] Ý nghĩa này tự nó đã rõ ràng. Đại lược là như vậy.

Theo ý nghĩa “bản tích” để giải thích thì nếu chưa hội nhập, có thể nói rằng ngài A-nan tùy thuận thế tục nên tự xưng là “ngã”, còn đi vào chỗ “phát tích hiển bản”, nêu rõ việc hiện nay để hiển bày bản nguyên, thì [thuở ban sơ ở] chỗ đức Phật Không Vương, [ngài A-nan với Phật] đồng thời phát tâm, ngày nay [ngài A-nan] dùng phương tiện thị hiện làm người thọ trì truyền giữ giáo pháp, có gì là không thể?

Giải thích theo ý nghĩa quán tâm thì các pháp đều do nhân duyên sinh, tức là không, tức là giả, tức là trung đạo. Tức không, là nói “ngã” và “vô ngã”. Tức giả, là nói sự phân biệt ngã. Tức trung, là nói chân ngã nhiệm mầu. Đại lược là như vậy.

Theo các bản thích nghĩa kinh văn thì ngài A-nan sinh ra vào đêm đức Phật thành đạo, [sau đó] theo làm thị giả cho Phật hơn 20 năm. Vậy lúc chưa làm thị giả thì lẽ ra không nghe [những lời Phật dạy]. Luận Đại trí độ nói: “Lúc ngài A-nan kết tập giáo pháp có tự nêu ra: ‘Khi Phật chuyển pháp luân lần đầu, tôi chưa được gặp Phật, về sau mới dần dần được nghe.’ Như vậy thì biết rằng, không nhất thiết là nghe [theo nghĩa thông thường].”

Các bản giảng giải xưa thì cho rằng, ngài A-nan được sức [gia trì của] Tam-muội Phật giác[98] nên tự mình có thể nghe được [những kinh Phật thuyết trước đó].

Kinh Báo Ân nói rằng: “Ngài A-nan thỉnh cầu bốn việc. Trong đó có nguyện ‘những kinh chưa được nghe xin Phật giảng [cho nghe]’.” Lại nói: “Từ kim khẩu Phật bí mật [nói riêng] cho A-nan nghe.”

Thai kinh[99] nói rằng: “Đức Phật [sau khi nhập Niết-bàn], từ trong kim quan đưa cánh tay vàng [ra bên ngoài], vì ngài A-nan mà tái hiện hình tướng nhập thai.” Cho nên, các kinh [từ lúc nhập thai ngài] đều được nghe, huống là những kinh thuyết ở nơi khác [sau này]. Kinh văn này nói rằng ngài A-nan ghi nhớ được là do bổn nguyện thọ trì giáo pháp của chư Phật trước đây, cũng đều giống như ngày nay [thọ trì giáo pháp của Phật Thích-ca]. Đó là giải thích theo nhân duyên.

Nếu [giải thích theo] giáo nghĩa thì ngài A-nan-đà (Hoan Hỷ) khuôn mặt sáng như trăng tròn, mắt đẹp như hoa sen xanh, tự thân đón nhận lời Phật dạy như [nước rót] vào bình, rồi truyền giáo pháp lại để giáo hóa chúng sinh như [rót nước] sang bình khác [không hề vơi mất]. Đây là truyền lại giáo pháp phàm phu có thể nghe được.[100] Ngài A-nan-bạt-đà (Hoan Hỷ Hiền) thì trụ nơi địa vị hữu học, chứng đắc Không, vô tướng, vô nguyện,[101] các căn như mắt, tai, mũi, lưỡi... đều không khiếm khuyết, [có khả năng] thọ trì truyền lại giáo pháp mà phàm phu không thể nghe.[102] Ngài Điển Tạng A-nan thì đa phần những điều [Phật thuyết đều] thọ nhận giữ gìn, cũng giống như đám mây lớn chứa giữ nước mưa. Đây là thọ trì truyền lại giáo pháp của hàng Bồ Tát.[103] Ngài A-nan-sa-già (Hoan Hỷ Hải) là bậc đa văn, tự nhiên có thể hiểu rõ ý nghĩa thường và vô thường. Nếu ai biết rằng Như Lai thường không thuyết pháp thì được gọi là bậc Bồ Tát có đủ phẩm hạnh đa văn. [Có câu rằng:] “Phật pháp như nước biển lớn chảy cả vào tâm ngài A-nan.”[104] Đây gọi là thọ trì truyền lại giáo pháp rốt ráo chân đế.[105] Kinh điển ngày nay đều là do ngài A-nan-sa-già (Hoan Hỷ Hải) thọ trì truyền lại, thuộc giáo pháp chân đế rốt ráo nhiệm mầu.

Nếu giải thích theo ý nghĩa bản tích thì cả bốn ý nói trên đều thuộc về tích, còn chỗ phát khởi ban sơ thì không thể nghĩ bàn. Đại lược là như thế.

Nếu giải thích theo ý nghĩa quán tâm thì quán pháp nhân duyên là quán về giáo pháp phàm phu có thể nghe hiểu được. Quán các pháp đều không là quán về giáo pháp phàm phu không thể nghe hiểu được. Quán các pháp giả tạm là quán về giáo pháp của hàng Bồ Tát. Quán pháp trung đạo là quán về giáo pháp rốt ráo chân đế. Đại lược là như vậy. Mỗi một niệm quán chiếu đều là sự quán chiếu nhiệm mầu.

Giải thích chữ “vào lúc”

[Bây giờ nói về] hai chữ “vào lúc”, Hán văn là “nhất thời”. Ngài Tăng Triệu[106] nói rằng: “[Thời ở đây] là thời điểm đấng Pháp Vương khai mở vận hội tốt lành.”

Về [chữ thời theo] thế giới [tất đàn], luận giải nói rằng: “[Có thật thời và giả thời,] ca-la là thật thời, là thời điểm chỉ bày cho đệ tử. Như giờ ăn đắp y [trì bát] là [hiểu theo] vị nhân [tất đàn]. Tam-ma-da là giả thời, phá trừ tà kiến ngoại đạo, là đối trị [tất đàn]. Nếu thời và đạo hòa hợp nhau, đó là đệ nhất nghĩa tất đàn. Đại lược là như thế.

Nếu [trong hội chúng nghe kinh gồm những bậc] chứng bốn thánh quả[107] thì nghĩa “nhất thời” thuộc về bậc hạ; nếu như người trong ba thừa[108] cùng chứng đắc đệ nhất nghĩa thì nghĩa “nhất thời” thuộc về bậc trung; nếu đều là [Bồ Tát] đăng địa[109] trở lên thì nghĩa “nhất thời” thuộc về bậc thượng; nếu đều là Bồ Tát Sơ trụ trở lên thì nghĩa “nhất thời” thuộc bậc thượng thượng. Nay [xét hội chúng] trong kinh này là thuộc về bậc thượng thượng. Đó là phân biệt giải thích theo Tạng giáo.

[Nếu xét chữ “nhất thời” theo nghĩa] bản tích thì những giải thích như vừa nói trên đều thuộc về tích, rất lâu xa về trước mới thuộc về bản.

Lại theo nghĩa quán tâm mà xét thì trước tiên là quán tánh không, tiếp theo là quán sự giả tạm và sau cùng quán lẽ trung đạo. Đó là thứ tự của sự quán tâm. Nếu ngay nơi sự quán tâm thấy được [vạn pháp] là rỗng không, là giả tạm, là trung đạo, thì đó là quán tâm viên mãn nhiệm mầu.

Giải thích chữ “Phật”

Vào thuở kiếp sơ [chúng sanh] không có bệnh, đến giai đoạn kiếp tận thì nhiều bệnh. Vào thuở tuổi thọ trung bình được lâu dài thì chúng sinh vui thú, đến giai đoạn tuổi thọ ngắn ngủi thì khổ đau. Cõi phía đông thiên hạ[110] thì chúng sinh giàu có và trường thọ. Cõi phía tây thiên hạ[111] có nhiều châu báu, nuôi nhiều trâu dê. Cõi phía bắc thiên hạ[112] [chúng sinh sống bình đẳng], không có người trị vì, không có kẻ thần thuộc.

Những thời gian và xứ sở như kể trên không thể cảm ứng được Phật ra đời. [Trong khoảng thời gian từ lúc tuổi thọ loài người là] 80.000 tuổi [giảm dần đến] lúc còn 100 tuổi, nơi cõi phía nam thiên hạ,[113] [chúng sinh tuy] chưa thấy quả nhưng đã biết tu nhân, cho nên Phật ra đời ở xứ này.

[Trong kinh Đại thừa, Bà-la-môn Vô Thắng bảo] Ly-xa tử rằng: “Đức Phật ra đời ở nước Ma-kiệt-đà như hoa sen lớn mọc lên trong hồ nước lớn.”[114] Vô Thắng lại nói: “Phật đối với chúng sinh bình đẳng không phân biệt, do các ông mê đắm năm món dục nên không thấy Phật, chẳng phải Phật tránh các ông mà ra đời tại xứ Ma-kiệt-đà.”[115] Đây là giải thích theo nghĩa thế giới tất đàn.

Nếu mặt trời không mọc lên thì các loại hoa chưa sinh hoặc đã sinh ra trong hồ kia chắc chắn đều phải héo úa mà chết. Đức Phật ra đời liền có các hạng sát-đế-lợi, bà-la-môn, cư sĩ, Tứ thiên vương cho đến chư thiên cõi trời Hữu đỉnh[116] [vây quanh]. Đây là giải thích theo vị nhân tất đàn.

Do những chúng sinh có căn tánh thuộc ba thừa[117] mà cảm ứng được sự ra đời của Phật, còn những hạng chúng sinh khác không thể cảm được. [Cho nên nói rằng:] “Khéo dứt trừ nhân sinh về cõi trời Hữu đỉnh mới có thể vĩnh viễn vượt qua dòng sinh tử.”[118] Đây là nói theo đối trị tất đàn.

Đối với tánh pháp thì Phật chẳng hề dao động, cũng không có ra đời, tuy có thể khiến cho chúng sinh do cảm ứng mà thấy như Phật có hoạt động, có ra đời, nhưng đức Như Lai thật không có hoạt động, không có ra đời. Đây là nói theo đệ nhất nghĩa tất đàn.

Những giải thích như trên cũng đều là lý nhân duyên [cảm ứng].

Phật là danh xưng của bậc giác ngộ rõ biết. Ngài ngồi dưới gốc [bồ-đề] nơi đạo tràng mà giác ngộ rõ biết hết thảy các tướng chung và riêng của [các pháp] thế gian và xuất thế gian. Giác ngộ các pháp thế gian, đó là khổ đế và tập đế. Giác ngộ các pháp xuất thế gian, đó là diệt đế và đạo đế. Phật cũng có khả năng giáo hóa giúp người khác giác ngộ. [Đó là hiện tướng] thân hình cao một trượng sáu thước, sống đến 80 tuổi, hình dáng như vị tỳ-kheo già. Dưới gốc bồ-đề, ngài đoạn trừ được cả 34 tâm chánh sử và tập khí.[119] Đây là [hình tượng] Phật tự giác, giác tha theo Tạng giáo.

Lại nữa, Phật mang hình dạng tỳ-kheo, thị hiện thân tôn quý đặc biệt, ngồi dưới gốc cây [bồ-đề] chỉ trong một niệm tương ưng liền đoạn sạch hết thảy tàn dư tập khí. Đây là [hình tượng] Phật tự giác, giác tha theo Thông giáo.

Chỉ nói việc hiện tướng tôn quý đặc biệt ngồi trên tòa sen nhận danh xưng Phật, đó là [hình tượng] Phật tự giác, giác tha theo Biệt giáo.

Nếu ẩn đi ba tướng vừa nêu, chỉ thị hiện tướng như hư không không thể nghĩ bàn, thì đó là [hình tượng] Phật tự giác, giác tha theo Viên giáo.

Cho nên, trong kinh dạy rằng: “Hoặc thấy thân Như Lai cao một trượng sáu thước, hoặc thấy thân [Như Lai] có nhỏ hoặc lớn, hoặc thấy [thân Như Lai] ngồi trên tòa sen vì trăm ngàn vị Thích-ca thuyết giảng pháp môn tâm địa, hoặc thấy thân [Như Lai] đồng với hư không, biến hiện khắp pháp giới không có sự phân biệt.” Chính là những ý nghĩa này. Đây là cách phân biệt theo Tạng giáo.

Nếu giải thích theo ý nghĩa bản tích thì có một vị Phật là bản (ban sơ), ba vị Phật là tích (hình tích về sau). Trong khoảng trung gian lại thị hiện vô số lần sinh, vô số lần diệt, hết thảy đều là hình tích, nhưng chỉ có bốn vị Phật căn bản được xem là bản.

Hoặc giải thích theo ý nghĩa quán tâm thì là quán tâm do nhân duyên sinh. Trước hết [thấy các pháp] là rỗng không, thứ đến là giả tạm, sau thấy khoảng giữa hết thảy đều là chỗ nhận hiểu còn thiên lệch hẹp hòi. [Chỉ khi ngay lúc] quán tâm [thấy tất cả đều] là không, là giả tạm, là trung đạo thì đó mới chính là chỗ giác ngộ viên mãn. Đại lược là như vậy.

Giải thích chữ “ở tại”

[Chữ “ở tại”], Hán văn là “trụ”, có nghĩa là “năng trụ” (chủ thể) ở tại nơi “sở trụ” (nơi trụ). Nơi trụ ở đây chính là thành Vương [Xá] thuộc cõi Ta-bà.[120] Chủ thể trụ là [đức Thế Tôn với] bốn oai nghi[121] đang còn trụ thế chưa diệt độ. Đó là giải thích chữ “trụ” bằng lý nhân duyên theo thế giới tất đàn.

Lại nữa, trụ có nghĩa là trụ nơi mười nghiệp lành,[122] trụ nơi bốn cảnh giới thiền. Đó là giải thích chữ trụ bằng lý nhân duyên theo vị nhân tất đàn.

Lại nữa, trụ có nghĩa là trụ nơi ba pháp tam-muội.[123] Đây là giải thích chữ trụ bằng lý nhân duyên theo đối trị tất đàn.

Lại nữa, trụ có nghĩa là trụ nơi [Tam-muội] Thủ-lăng-nghiêm. Đây là giải thích chữ trụ bằng lý nhân duyên theo đệ nhất nghĩa tất đàn. Đại lược là như vậy.

Nếu giải thích theo giáo nghĩa thì Tạng giáo cho rằng Phật từ nơi tích môn phát khởi đức vô lậu chân thật, trụ nơi Niết-bàn hữu dư, vô dư; Thông giáo cho rằng Phật từ nơi thể môn phát khởi đức chân thật, trụ nơi Niết-bàn hữu dư, vô dư; Biệt giáo cho rằng Phật tuần tự theo các pháp môn mà vào, trụ nơi tạng bí mật; Viên giáo cho rằng Phật từ các pháp môn chẳng theo thứ tự mà vào, trụ ở tạng bí mật. Ba vị Phật [theo giải thích] của Tạng giáo, Thông giáo và Biệt giáo thì năng trụ, sở trụ đều thô. Vị Phật [theo giải thích của] Viên giáo thì năng trụ, sở trụ đều mầu nhiệm. Theo kinh Pháp hoa này thì chính là Phật của Viên giáo trụ nơi chỗ nhiệm mầu.

Nếu dùng nghĩa “bản tích” để giải thích thì theo Tạng giáo, đức Phật đúng ra đã nhập Niết-bàn, do tâm từ bi thương xót [chúng sanh] mà để lại hình tích thân Phật vẫn trụ ở đời. Thông giáo thì cho rằng Phật do thệ nguyện từ bi cứu giúp hóa độ chúng sinh, thực hiện các Phật sự. Biệt giáo và Viên giáo đều cho rằng Phật dùng tâm từ bi huân tập pháp tánh, thương xót chúng sinh nên rủ lòng ứng hiện vào pháp giới. Cho nên biết rằng [theo bốn giáo lý ấy thì] Phật vốn trụ ở nơi Phật trụ, [đó là theo nghĩa bản], vì lòng từ bi [thị hiện] trụ nơi thành Vương Xá thuộc cõi Ta-bà [với hình thể đủ bốn] oai nghi, đó gọi là trụ [theo nghĩa] tích.

Nếu dùng nghĩa quán tâm để giải thích thì việc quán trụ nơi ngoại cảnh, hoặc trụ nơi cảnh giới vô thường, đó tức là những cảnh rỗng không, giả tạm, trung đạo. Dùng pháp không chỗ trụ để trụ trong những cảnh ấy nên mới gọi là trụ.

Giải thích tên gọi “thành Vương Xá”

Thành Vương Xá, tên Phạn ngữ là La-duyệt-kỳ Già-la (Rājagṛha). Chữ La-duyệt-kỳ, Hán dịch là Vương Xá, chữ Già-la dịch là thành.

Nước này tên là Ma-già-đà,[124] có nghĩa là bất hại, vì ở đây không dùng những hình phạt giết hại. Tên nước này cũng gọi là Ma-kiệt-đề, Hán dịch là Thiên La.[125] Thiên La là tên của một vị vua [xưa kia], được dùng làm tên nước. Vua Thiên La là phụ vương của vua Bác Túc. Trong một kiếp xa xưa trước đây, vua Thiên La cai trị một ngàn nước nhỏ. Một lần vua đi tuần thú ngang qua vùng núi, bỗng gặp một con sư tử cái, mọi người đều chạy tứ tán, [bỏ vua ở lại đơn độc]. Khi ấy sư tử cái lại cùng vua giao phối. Về sau, khi [mang thai] đã đủ ngày tháng, sư tử đi vào cung điện của vua sinh con. Vua biết đó là con của mình [với sư tử] nhưng lại nói dối rằng do mình không có con nên [đứa con này] có lẽ trời ban cho, liền nhận làm con nuôi, [rồi phong] làm thái tử. Trên hai chân thái tử có màu vằn vện nên người thời ấy gọi là Bác Túc.[126]

Về sau [thái tử] nối ngôi vua, rất thích ăn thịt, ban lệnh cho nhà bếp không được thiếu thịt. Có một lần bị thiếu thịt, người đầu bếp gấp rút quá liền dùng thịt của một đứa bé vừa mới chết ở phía tây trong thành để nấu dâng lên vua. Vua khen thịt rất ngon, ban lệnh phải thường dùng đúng loại thịt này. Từ đó người đầu bếp mỗi ngày đều phải bắt một đứa bé để giết thịt, khiến cho khắp nước kinh sợ oán hận. Một ngàn nước nhỏ cùng nhau khởi binh lật đổ vua Bác Túc, giam vua vào trong vùng núi Kỳ-xà-quật.

Các quỷ la-sát [trong vùng] theo giúp vua, tôn làm Quỷ vương. Nhân đó vua liền cùng với thần núi ở đây lập lời nguyền sẽ bắt 1.000 vị vua [nước nhỏ] để cúng tế thần núi. Sau đó bắt được 999 vua, chỉ còn thiếu vua Phổ Minh, lại tiếp tục tìm kiếm bắt được. [Vua Phổ Minh] khóc lóc to tiếng, nói rằng suốt đời chỉ nói lời chân thật mà nay phải thất hứa [vì có việc chưa làm xong]. Vua Bác Túc [nghe vậy] liền thả cho về nước.

Vua Phổ Minh về nước rồi lập tức mở hội đại bố thí và lập thái tử. [Xong việc quay trở lại chịu chết,] nhưng đến lúc bị mang ra giết vẫn tỏ ra vui vẻ, trong lòng hết sức an ổn. Vua Bác Túc [lấy làm lạ lùng nên] hỏi, [vua Phổ Minh] liền trả lời là do đã được nghe giáo pháp của bậc thánh [nên dù chết cũng vui vẻ].

Nhân đó liền thuyết pháp cho vua Bác Túc nghe, hết lời xưng tán tâm từ và chê trách sự giết hại. Tiếp theo liền nói kệ về bốn ý nghĩa vô thường.[127] Đại lược là như vậy.

Vua Bác Túc nghe pháp rồi liền chứng đắc địa vị Không, bình đẳng, tức là Sơ địa. Sau đó, một ngàn vị vua [của các nước nhỏ] mỗi người đều lấy một giọt máu và ba sợi tóc để cúng tế thần núi như lời thề nguyền [trước đây].[128]

Vua Bác Túc với 1.000 vị vua [nước nhỏ] cùng nhau dựng lập thành quách nhà cửa, đặt kinh đô giữa 5 ngọn núi lập thành một nước lớn, mỗi vua trong số 1.000 vua nước nhỏ đều được truyền lại cho con cháu nối dõi, lần lượt thay nhau cai trị nước lớn.

[Bấy giờ,] nhân dân trong vùng giữa năm ngọn núi, 7 lần làm nhà là 7 lần bị hỏa hoạn. Mọi người đều bàn tán với nhau rằng: “Do chúng ta phước mỏng nên mới bị lửa thiêu đốt nhiều lần, còn đức vua phước lớn nên cung vua không bị cháy, từ nay nên xây dựng nhà cửa theo như cung vua.” Nhờ đó không còn bị hỏa hoạn nữa, liền gọi tên thành là Vương Xá, [nghĩa là nhà của vua].

Lại nữa, vua Bác Túc cùng với 1.000 vị vua đều dựng lập nhà cửa trong thành này, cho nên gọi là Vương Xá.

Lại nữa, vua Bác Túc sau khi chứng đạo liền tha [chết], trả tự do cho 1.000 vị vua. Thành này có 1.000 vị vua được xá tội nên gọi là Vương Xá (王赦), nhưng trải qua nhiều đời nên âm xá (赦) [là tha tội] đã chuyển dần thành chữ xá (舍) là nhà cửa.

Các nhân duyên như trên được trích từ luận Đại Trí độ và các kinh điển khác.

Nếu giải thích theo giáo nghĩa thì trong kinh Tượng Pháp quyết nghi nói rằng: “Chỗ thấy của mỗi người trong đại chúng không giống nhau, hoặc thấy nơi rừng Sa-la toàn đất cát, cây cỏ, vách đá... hoặc thấy bảy món báu thanh tịnh trang nghiêm. Hoặc thấy khu rừng này là nơi đi đến của ba đời chư Phật. Hoặc thấy rừng này là cảnh giới pháp thể chân thật không thể nghĩ bàn của chư Phật. Theo đó mà xét thì biết rằng ý nghĩa về chỗ trụ có bốn cách nhìn không giống nhau. Về chỗ trụ đã như vậy thì đối với chủ thể trụ cũng vậy. Đây là cách phân biệt [giải thích] theo giáo nghĩa.

[Những cách giải thích theo ý nghĩa] bản tích và quán tâm sẽ bàn đến sau.

Giải thích tên gọi “núi Kỳ-xà-quật”

Núi Kỳ-xà-quật là phiên âm từ Phạn ngữ Gṛdhrakūṭa, Hán dịch là Linh Thứu, cũng gọi là Thứu Đầu, cũng gọi là Lang Tích. [Chim thứu][129] cũng gọi là lương thư[130] hay vương sư, chính là loài chim mà tác giả bài thơ vịnh trong Kinh Thi gọi là chim thư cưu.[131] Sách Nhĩ nhã nói chim này giống với chim cú.[132]

Lại có giải thích rằng, đỉnh núi có hình dạng tương tợ như [đầu] chim thứu nên đặt tên là núi Thứu.

Lại có người nói rằng, phía nam của núi có rừng thi-đà,[133] chim thứu ăn [xác người chết ở đó] rồi tụ về đậu trên đỉnh núi này, nên người thời ấy gọi là núi Thứu.

Lại có giải thích rằng, chư Phật trước đây và hiện nay đều trụ tại núi này. Sau khi Phật diệt độ thì có các vị A-la-hán trụ. Chánh pháp diệt mất thì có các vị Phật Bích-chi trụ.[134] Khi không có Phật Bích-chi thì quỷ thần trụ ở đây.

Vì là nơi các bậc thánh linh cư ngụ, lại có ba nguyên nhân nói trên nên người đời gọi là núi Linh Thứu.

[Nơi đây] có 5 chỗ yên tĩnh tu tập.[135] [Thứ nhất là] Bệ-bà-la-bạt-thứ, Hán dịch là động Thiên chủ, thứ hai là Tát-đa-bát-na-cầu-ha, Hán dịch là động Thất Diệp, thứ ba là Nhân-đà-thế-la-cầu-ha, Hán dịch là núi Xà Thần, thứ tư là Tát-bá-thứ-hồn-trực-ca-bát-bà-la, Hán dịch là núi Thiếu Độc Lực, thứ năm là núi Kỳ-xà-quật.

Có người hỏi rằng: “Vào thời kiếp hỏa, trời đất rỗng rang trong sáng, làm sao có thể nói chư Phật trước sau đều trụ tại núi này?”

Trả lời: “Khi kiếp sau đó đang hình thành vừa sắp hiện ra, những người có thần thông đều biết được tên gọi trước kia, liền lấy đó làm tên gọi hiện tại. Lấy ví dụ như người kiếp trước có họ Cù-đàm [thì sinh ra] cũng dùng họ ấy đặt tên hiện nay.”

Nếu giải thích theo giáo nghĩa [về tên] núi [Kỳ-xà-quật] thì ý nghĩa cũng tương tự như cách giải thích về thành [Vương Xá]. Đại lược là như vậy.

Nếu giải thích về [tên thành và tên núi] theo ý nghĩa quán tâm thì chữ vương [trong Vương Xá] tức là tâm vương, chữ xá tức là năm ấm.[136] Tâm vương tạo ra nhà cửa [ấy là năm ấm]. Nói theo nghĩa tích thì nhà cửa năm ấm ấy đều là không. Nghĩa không ấy là thành quách Niết-bàn.

Nếu quán xét cạn cợt thì chỉ thấy đất đai, cây cối. Nếu quán xét thấu triệt thể tánh căn nhà năm ấm đó thì thấy là rỗng không. Tánh không ấy là thành quách Niết-bàn. Đó là giải thích theo Thông giáo.

Nếu quán xét căn nhà năm ấm đó, khi nhân [tạo ra chúng] đã diệt thì sắc [ấm] sẽ đạt đến sắc chân thường. Thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm, thức ấm cũng đều như vậy.

Bốn phẩm đức [thường, lạc, ngã, tịnh] vốn thường là chỗ dạo chơi của chư Phật. Nếu quán chiếu năm ấm chính là tánh pháp thì tánh pháp vốn không có thọ, tưởng, hành, thức, hết thảy chúng sinh chính là Niết-bàn, không thể lại có diệt mất. Đó là ngôi nhà rốt ráo rỗng không vắng lặng. Niết-bàn như vậy chính là thực thể chân như. Đại lược là như vậy.

[Bây giờ] giải thích tên núi theo ý nghĩa quán tâm. Nếu quán sắc ấm [tự nó vốn không biết], đó là núi; thức ấm là Linh; ba ấm [còn lại] là Thứu. Quán chiếu “Linh Thứu” ấy là vô thường, tức là quán xét phân tích. Quán “Linh Thứu” ấy vốn là không, tức là quán chiếu tánh thể.

Quán “Linh” tức là tánh của trí, rõ biết nhân trí tuệ trang nghiêm. [Quán] “Thứu” tức là nhân duyên tụ tập, là phước đức trang nghiêm. [Quán] “núi” tức là tánh pháp chánh nhân không lay động. Ba pháp như vậy gọi là tạng bí mật, [chư Phật] tự mình an trụ trong [các pháp] ấy và cũng vận dụng để hóa độ người.

Phần tiếp theo nói rằng “Phật tự mình an trụ trong Đại thừa”, đó là hai cách quán của Biệt giáo và Viên giáo. Đại lược là như vậy.

Giải thích chữ “giữa”

Chữ “giữa”, Hán văn là “trung”, [nghĩa là khoảng giữa]. Đức Phật chuộng theo khoảng giữa. [Ngài] thăng lên giữa cõi trời, vào khoảng giữa ngày, đản sinh vào một đất nước ở khoảng giữa [thế giới] và nhập Niết-bàn vào khoảng giữa đêm. Tất cả đều biểu thị ý nghĩa khoảng giữa, tức là Trung đạo. Nay [Phật] ở [trong thành Vương Xá] giữa núi [Kỳ-xà-quật] thuyết giảng giáo pháp Trung đạo.

GIẢI THÍCH VỀ THÍNH CHÚNG

KINH VĂN

Cùng với hội chúng đại tỳ-kheo 12.000 vị, hết thảy đều là các bậc A-la-hán.
[137]

Đại chúng cùng nghe [thuyết giảng kinh này] có ba hạng. Đầu tiên [nói đến] các vị Thanh văn, sau là chư Bồ Tát và cuối cùng là tạp chúng [gồm hết thảy các thành phần khác]. Các kinh khác đa phần cũng đều như vậy.

[Các chú giải] xưa phân ra hai mặt là sự tướng và ý nghĩa. Về sự tướng thì xét theo [hai yếu tố là] hình tích và sự thân cận. Các vị Thanh văn mang hình tướng xuất tục, hành trạng gần gũi đức Như Lai, trong việc nghe kinh được xem là thân, do vậy [các vị] được kể ra trước tiên. Chư thiên và loài người hình thể y phục khác nhau, hành trạng thì không được kề cận phụng sự [Như Lai], nên trong việc chứng kinh được xem là sơ, do vậy kể ra cuối cùng.[138] Chư Bồ Tát hình thể không theo khuôn khổ, hành trạng không có nơi chốn nhất định, đã không giống với người thế tục, lại cũng khác biệt với chúng tăng, ở về khoảng giữa không cao không thấp,[139] cho nên được kể ra ở khoảng giữa.[140]

Về mặt ý nghĩa thì các vị Thanh văn ham thích Niết-bàn, còn hàng chư thiên và loài người thì bám chấp nơi sinh tử, mỗi bên đều có sự thiên lệch. Chư Bồ Tát thì không ham thích [Niết-bàn] cũng chẳng bám chấp [sinh tử], ở nơi khoảng giữa mà cầu tông chỉ [Phật], nên được xếp vào giữa hai bên. Luận văn cũng giải thích theo như ý này. Đây là một cách giải thích có vẻ như thuộc về hai phương thức. Nói về sự tướng thì giải thích [như trên] là lý nhân duyên, còn xét về ý nghĩa thì giải thích [như trên] lại theo giáo nghĩa. Đại lược là như vậy.

Nếu giải thích theo ý nghĩa bản tích thì các vị Thanh văn vốn thật bên trong ẩn tàng công hạnh Bồ Tát, bên ngoài thị hiện hình tướng Thanh văn, có bao giờ lại [khởi tâm] ham thích Niết-bàn? Còn hàng chư thiên và loài người [trong Pháp hội này], hết thảy đều là Đại Bồ Tát, có lẽ nào lại bám chấp sinh tử? [Cho nên] tất cả đều chỉ là hình tích [hiển lộ] để dẫn dắt [những kẻ rơi vào] nhị biên, nhưng thực chất căn bản chưa hề rời Trung đạo.

Nếu giải thích theo ý nghĩa quán tâm thì quán chiếu từ chỗ giả tạm đi vào tánh không là nghiêng về sự phá trừ sinh tử; còn quán chiếu từ tánh không thấy rõ được sự giả tạm là nghiêng về phá trừ [sự bám chấp] Niết-bàn. Chân chánh quán chiếu theo Trung đạo thì không rơi vào hai điều đó. Đại lược là như vậy.

I. Hội chúng Thanh văn

n [Kinh văn] liệt kê [hội chúng] Thanh văn chia làm hai hạng, trước là tỳ-kheo, sau đến tỳ-kheo-ni. [Trong chúng] tỳ-kheo lại cũng chia làm hai hạng, trước tiên kể những vị được nhiều người biết đến, tiếp theo mới nói những vị ít người biết hơn. Theo cách gọi xưa kia là “đại danh văn” và “tiểu danh văn”, nhưng cách gọi như vậy là không có căn cứ. Nay y theo kinh văn để phân biệt như trên.

A. Chúng tỳ-kheo - Những vị tỳ-kheo nhiều người biết đến

Về những vị [Thanh văn] được nhiều người biết đến, ở đây sẽ trình bày theo 6 yếu tố. Thứ nhất là phẩm loại, thứ hai là số lượng, thứ ba là địa vị, thứ tư là sự xưng tán, thứ năm là danh hiệu được kể ra và thứ sáu là kết lại.

1. Phẩm loại

Về phẩm loại thì tất cả các vị đều là đại tỳ-kheo có khí chất [siêu phàm] như nhau. Ví như kẻ sang người hèn trong khắp thiên hạ, mỗi người đều có thứ bậc của riêng mình. Nay các vị tỳ-kheo [trong Pháp hội này] đều là những bậc danh vang khắp chốn, phẩm đức lớn lao, tôn quý vượt trội. Các bản luận giải làm rõ điều này bằng cách nêu lên bảy sự đồng nhất [của chư tỳ-kheo], bao gồm đồng nhất về thời gian, đồng nhất về nơi chốn, đồng nhất về giới hạnh, đồng nhất về tâm ý, đồng nhất về chỗ thấy biết, đồng nhất về con đường tu tập và đồng nhất về sự giải thoát.

Nếu xét qua các giáo nghĩa khác nhau thì mỗi giáo nghĩa đều có cách hiểu riêng về bảy sự đồng nhất [như trên]. Tạng giáo có một, Thông giáo có hai, Biệt giáo có vô số cách hiểu về bảy sự đồng nhất, Viên giáo chỉ có một cách hiểu. Nếu theo cách hiểu chưa phát tích thì đó là nghĩa của bảy sự đồng nhất theo Tạng giáo và Thông giáo. Có thể thấy rõ trong cách giải thích của hai bên có những điểm khác nhau. Như các điểm về thời gian, nơi chốn, giới hạnh và sự giải thoát đều giống nhau, nhưng ba điểm về tâm ý, chỗ thấy biết và con đường tu tập thì có khác biệt.

Nếu xét [đến cách phân chia] “trừ bỏ ba [thừa], hiển lộ nhất thừa”[141] là đi vào cách giải thích của Viên giáo về bảy sự đồng nhất.

Luận Pháp hoa[142] phân ra bốn loại Thanh văn. Nay những vị khai mở rồi trụ yên nơi quả [Thanh văn][143] được chia làm hai hạng, đắc pháp rồi trụ yên là hạng Thanh văn theo Tạng giáo, thể nhập giáo pháp[144] rồi trụ yên là hạng Thanh văn theo Thông giáo.

Hạng ứng hóa Thanh văn vừa nhập đạo chia làm hai loại. Đăng địa ứng hóa là hạng Thanh văn của Biệt giáo. Đăng trụ ứng hóa là hạng Thanh văn của Viên giáo.

Hạng Thanh văn khai mở Phật đạo [cho chúng sanh] cũng chia làm hai loại. Thuyết giảng Phật pháp tuần tự theo thứ lớp cho người khác là hạng Thanh văn của Biệt giáo. Thuyết giảng Phật pháp cho người khác không tuần tự theo thứ lớp là hạng Thanh văn của Viên giáo. Ý nghĩa hai chữ Thanh văn mênh mông rộng lớn như thế, làm sao có thể riêng lấy việc chứng Niết-bàn để phân định được. Đại lược là như thế.

Giải thích chữ “đại”

Theo luận giải thì “đại” có hai nghĩa, hoặc là số nhiều, hoặc là thù thắng, vượt trội. Khí chất đáng tôn trọng, được các bậc Thiên vương, đại nhân đều tôn kính nên gọi là “đại”. Vượt cao hơn cả 95 loại ngoại đạo[145] nên nói là thù thắng, vượt trội. Hiểu biết rộng khắp đủ các loại kinh sách nội điển, ngoại điển nên gọi là nhiều. [Số lượng] lên đến 12.000[146] vị nên nói là nhiều.

Nay nói rõ thêm, [chư tỳ-kheo] nắm hiểu giáo pháp lớn lao, có chỗ vận dụng lớn lao, có trí tuệ lớn lao, cho nên gọi là “đại”. Lại nói về nghĩa thù thắng thì [các vị có] giáo pháp thù thắng, chỗ vận dụng thù thắng, trí tuệ thù thắng, do vậy nói là thù thắng. Lại nói về nghĩa nhiều thì [các vị] có nhiều giáo pháp, nhiều chỗ vận dụng, nhiều trí tuệ, cho nên nói là nhiều.

Giáo pháp tức là tánh niệm xứ,[147] lớn lao hơn hết thảy trí của ngoại đạo. Chỗ vận dụng tức là cộng niệm xứ,[148] vượt hơn hẳn những thần thông của ngoại đạo. Trí tuệ tức là duyên niệm xứ,[149] rộng lớn hơn cả bốn bộ Vệ-đà[150] của ngoại đạo.

[Tiếp theo] giải thích các ý nghĩa lớn lao, số nhiều và thù thắng theo giáo nghĩa. Lớn lao là được mọi người kính trọng, đó là giải thích theo Tạng giáo.

Nếu giải thích theo Thông giáo thì lớn lao có nghĩa là được các bậc A-la-hán có thần lực tôn kính; số nhiều có nghĩa là rộng biết hết thảy các pháp sinh diệt chính là không sinh không diệt; thù thắng có nghĩa là vượt hơn bốn môn của Tạng giáo.[151]

Nếu giải thích theo Biệt giáo thì lớn lao có nghĩa là được các bậc A-la-hán thể nhập tánh pháp[152] có thần lực tôn kính; số nhiều có nghĩa là vô số[153] pháp Phật đều rõ biết; thù thắng có nghĩa là vượt hơn những người [tu tập theo] Nhị thừa.[154]

Nếu giải thích theo Viên giáo thì lớn lao có nghĩa là được các vị Đại Bồ Tát tôn kính; số nhiều có nghĩa là hết thảy các pháp không thể suy lường trong pháp giới ắt đều rõ biết, thù thắng có nghĩa là vượt hơn cả các vị Bồ Tát.

Giải thích theo ý nghĩa bản tích thì các bậc đại đức [trong chúng tỳ-kheo] này từ lâu đã được chư Phật ngợi khen xưng tán. Từ ban sơ (bản) các vị đã đạt được pháp Tam-muội Thắng Tràng, vượt hơn các ngoại đạo, trước đây đã thành tựu trí tuệ rộng biết khắp thảy mọi việc. Nhưng ngày nay các vị thị hiện (tích) [hình thể trong chúng hội] là đến để phò trì phụ giúp cho sự giáo hóa của đức Phật, thị hiện ở giữa vòng ái nhiễm kiến chấp [mà có đủ các phẩm tính] lớn lao, số nhiều và thù thắng, giống như “đun sữa thành sữa đặc”, [đó là dẫn dắt chúng sinh mê lầm vào đạo giải thoát]. [Các ngài] lại [cũng thị hiện các phẩm tính] lớn lao, số nhiều và thù thắng trong Tạng giáo, giống như “chế biến sữa đặc thành váng sữa (sinh tô),” [đó là dẫn dắt chúng sinh trên đường tu tập]. Lại cũng thị hiện [các phẩm tính] lớn lao, số nhiều và thù thắng trong hội chúng Phương đẳng, giống như “làm cho váng sữa thành váng sữa chín (thục tô)”, [đó là dẫn dắt chúng sinh lên hàng Nhị thừa]. Lại thị hiện [các phẩm tính] lớn lao, số nhiều, thù thắng trong pháp hội thuyết giảng Bát-nhã, giống như để làm cho “thục tô thành đề-hồ”, [dẫn dắt chúng sinh từ hàng Nhị thừa đi lên Đại thừa rốt ráo].

[Cho nên,] các ngài thị hiện những phẩm tính lớn lao, số nhiều, thù thắng trong hội Pháp hoa này, nhưng vốn thật căn bản từ thuở ban sơ đã có đầy đủ các phẩm tính lớn lao, số nhiều và thù thắng. Đại lược là như vậy.

Giải thích theo nghĩa quán tâm thì quán [các pháp đều] không, đó là lớn lao, quán giả tạm là nhiều và quán Trung đạo là thù thắng. Lại đi thẳng vào pháp quán Trung đạo thì tâm tánh rộng mở, khoáng đạt như hư không, cho nên gọi là lớn lao; ngăn lấp cả hai bên biên kiến, thể nhập vào biển tịch diệt, cho nên gọi là thù thắng; soi chiếu cả tục đế và chân đế, dung thông hàm chứa rất nhiều, một tâm [bao hàm] hết thảy tâm, cho nên gọi là nhiều.

Giải thích chữ “tỳ-kheo”

Ngài Tăng Triệu nói, [chữ tỳ-kheo (bhikṣu)] dịch sang Hán ngữ[155] có các nghĩa là “người khất thực sống thanh tịnh”, “phá trừ phiền não”, “thường giữ giới hạnh” và “hàng phục chúng ma”. Trong Phạn ngữ, danh từ bhikṣu hàm chứa bốn nghĩa như trên. Hán ngữ không có từ ngữ nào có thể dùng để phiên dịch đầy đủ được, cho nên chỉ phiên âm [thành tỳ-kheo], tức là giữ theo nguyên tác.

Ngài La-thập[156] nói: “[Người xuất gia] ban sơ [vì muốn] lìa bỏ căn nhà thế tục là đời sống gia đình, vợ con, nên dùng pháp khất thực để tự nuôi dưỡng đời sống thanh tịnh. Cuối cùng [vì muốn] ra khỏi căn nhà ba cõi, nên phải phá trừ phiền não, nghiêm trì giới luật để tự giữ mình. Đầy đủ hai ý nghĩa trên thì khiến cho thiên ma khiếp sợ, thành tựu việc xuất gia.”

Luận giải nói, [người xuất gia là] khiến cho thiên ma khiếp sợ, phá trừ điều xấu ác, làm người khất thực tự nuôi sống. Ma ưa thích sinh tử, người xuất gia giáo hóa người khác, đều cùng nhau ra khỏi ba cõi, như vậy là trái với ý muốn của ma. Ma dùng sức để chế ngự, nhưng trái lại bị [vị tỳ-kheo] dùng năm pháp trói buộc[157] [đối trị], nên ma phải than khóc mà bỏ đi. Do vậy nên gọi là làm cho ma khiếp sợ.

Người xuất gia tất nhiên phá trừ 7 điều xấu ác của thân và khẩu,[158] cho nên gọi là phá ác. Người thế tục tại gia có 3 cách tự nuôi sống đúng pháp. Một là làm ruộng vườn nông nghiệp, hai là kinh doanh buôn bán, ba là dùng tri thức [phụng sự bằng sự hiểu biết]. Ba cách này có thể được người tại gia dùng để nuôi dưỡng mạng sống. Đối với người xuất gia, đức Phật [chế giới luật] không cho phép làm những việc ấy, chỉ được khất thực tự nuôi thân, sống an ổn trong đạo, tạo phước đức lợi ích cho đàn-việt. Cả 3 nghĩa ấy đều thành tựu thì hỗ tương nhau thành nghĩa tỳ-kheo.

Trong sách Niết-bàn kinh tập giải của ngài Bảo Lương[159] [nhiều chỗ] đều nói nghĩa phá ác gọi là tỳ-kheo, đó là nói không đầy đủ. Nay giảng rõ cả 3 nghĩa này tương thông trước sau, [từ lúc mới xuất gia đến khi thành tựu đạo nghiệp].

Như trước tiên khi mới xuất gia, lúc bạch tứ yết-ma, nhờ sức vô tác giới [ngăn phòng][160] nên biến đổi tất cả ngoại cảnh trở thành môi trường không tạo việc ác. Đến lúc bắt đầu tu tập thiền định, phát khởi được định lực kết hợp cùng [sức ngăn ngừa của] giới, ngăn phòng khuất phục tham, sân, không cho khởi lên trong tâm ý. Lại đến lúc bắt đầu tu tập quán tuệ, phát khởi được tương tự đạo[161] kết hợp cùng [sức ngăn ngừa của] giới có thể hàng phục được phiền não. Cho nên những giai đoạn sơ tâm [ban đầu] cũng gọi là phá ác, không chỉ riêng những giai đoạn thành tựu về sau [mới gọi là phá ác].

Về ý nghĩa làm cho ma khiếp sợ, người xuất gia vừa mới cạo tóc và được truyền giới đã làm cho ma lo lắng sợ hãi. [Đến khi] tu định là muốn hàng phục phiền não, tu tuệ là muốn phá trừ phiền não. Những tâm sơ phát ấy cũng đều làm cho ma khiếp sợ, đâu chỉ riêng những tâm thành tựu về sau.

Về ý nghĩa khất sĩ, [người xuất gia] ban đầu lìa bỏ sự kiếm sống bằng những việc tà ác,[162] chỉ dùng pháp khất thực để tự nuôi sống. Đến khi tu tập thiền định, trải qua các cảnh giới để cầu được định, tu tuệ nương theo lý để cầu không lậu hoặc, [các giai đoạn ấy] cũng đều phải làm người khất thực tự nuôi sống. Huống chi [những giai đoạn tu tập] tương ưng lại có thể không làm người khất thực?

Đầy đủ những nghĩa này nên được tôn xưng là tỳ-kheo. Các vị giảng kinh đều chỉ tán thán tâm [thành tựu] về sau của vị tỳ-kheo. Đó đều là [ý nghĩa] theo Tạng giáo.

Nếu trải qua muôn duyên chỉ để cầu lẽ chân thật thì gọi là người khất thực. Phá trừ những nghi hoặc chướng lý thì gọi là phá ác. Tu tập công hạnh như vậy khiến cho bốn thứ ma[163] đều khiếp sợ. Đó là ý nghĩa theo Thông giáo.

Nếu trải qua Tam đế [không, giả và Trung đạo] để cầu chân lý thì gọi là người khất thực. Dứt trừ thông hoặc[164] và biệt hoặc[165] được gọi là phá ác. Hàng phục tám thứ ma,[166] mười thứ ma,[167] đó là ý nghĩa theo Biệt giáo.

Nếu ngay nơi sinh tử cầu nếm được mùi vị của thật tướng, đó gọi là người khất thực. Đạt đến chỗ ngay nơi phiền não tức là Bồ-đề, như vậy gọi là phá ác. [Đối với người như vậy thì] cảnh giới ma tức là cảnh giới Phật. Đây là ý nghĩa theo Viên giáo.

Nếu chưa rõ hình tích thì chỉ sáng tỏ hai nghĩa phía trước, khi đã hiển lộ đầy đủ cội nguồn mới có đủ ý nghĩa theo sau.

Theo nghĩa bản tích mà nói thì bản là lên đỉnh núi Niết-bàn, cùng kết nghiệp nhận vô minh, si ái là cha mẹ, đến khi lìa bỏ vợ con, ra khỏi căn nhà [sinh tử] phần đoạn và biến dịch,[168] từ lâu đã trừ dứt năm trụ phiền não,[169] phá sạch mọi điều ác, đạt được pháp hỷ chân chánh, [khoan khoái] như ăn món cháo sữa, rốt cùng chẳng còn một pháp nào phải tu. Giữ theo đường Trung đạo cùng Thi-la ba-la-mật,[170] dùng giới hạnh nhiếp hóa chúng sinh, hàng phục ma giới tức cảnh giới Phật, như gánh vác vâng theo lời dạy.

Xét về bản môn thì công đức vốn đã thành tựu từ lâu, nhưng vì điều phục chúng sinh mà thị hiện hình tích có năm vị tỳ-kheo để truyền thừa dẫn dắt chúng sinh, nêu ví dụ cũng giống như phần giải thích ở trước.

Nói theo nghĩa quán tâm thì quán chiếu một niệm tâm thanh tịnh như hư không, không bị trói buộc chướng ngại bởi hai biên kiến,[171] trí tuệ bình đẳng lớn lao, không bám luyến, không tham chấp, đó là xuất gia. Lấy pháp quán theo Trung đạo làm chỗ tự nương cậy, pháp thân tuệ mạng đang sống gọi là khất sĩ. Lại quán năm trụ phiền não tức là Bồ-đề, đó gọi là phá ác. Hết thảy các quan điểm sai lệch điên đảo đều không ngoài Trung đạo, đó là làm cho ma kinh sợ. Đại lược là như vậy.

Giải thích chữ “chúng”

Trong Phạn ngữ là Tăng-già,[172] Hán dịch là hòa hợp chúng (和合眾). Chỉ một người thì không thể gọi là hòa hợp, từ bốn người trở lên mới gọi là hòa hợp chúng. Nói về sự thì hòa nghĩa là không sống riêng rẽ. Nói về pháp thì hòa là không có lý riêng biệt. Đức Phật thường sống chung hòa hợp với 1.250 vị tỳ-kheo. [Trong đó, những người do] ba vị Ca-diếp [dẫn đến] có 1.000 người, [do] hai ngài Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên [dẫn đến] có 250 người. Cũng có chỗ nói ngài Da-xá [dẫn theo] 50 người. Trong Tạp A-hàm, quyển 45, nói rằng trong 500 vị tỳ-kheo có 90 vị chứng Tam minh, 90 người đạt được Câu giải thoát,[173] còn lại [320 vị] được Tuệ giải thoát.

Trong các bản luận giải thích rõ về 4 hạng tăng. Không sống đời thanh tịnh, gọi là tăng phá giới. Tăng không rõ biết [giáo] pháp và [giới] luật gọi là tăng ngu si. [Tu tập] năm phương tiện[174] là tăng tàm quý. [Quán] khổ [thành tựu] pháp [trí] nhẫn là tăng chân thật. Trong [hội chúng Pháp hoa] không có ba hạng tăng trước, chỉ có tăng chân thật.

Nếu nói theo Tứ giáo thì trong [hội chúng Pháp hoa] này đã trải qua năm giai vị ở mức tương đối và tuyệt đối, nay làm hội chúng cùng nghe [kinh trong pháp hội này], chính là yếu tố chứng tín [cho kinh này] theo Viên giáo.

Giải thích theo bản tích thì bản là [hội chúng này] vốn hòa hợp với lý thật tướng, lại cũng hòa hợp với cơ duyên của chúng sinh trong pháp giới, còn tích là chúng tăng với sự lý phương tiện chưa rốt ráo, trải qua năm giai vị để dẫn dắt chúng sinh. Đại lược là như vậy.

Theo ý nghĩa quán tâm thì những người mới học Trung quán chỉ nhập được phép quán tương tự, chưa phát triển tánh chân thật, tự thấy xấu hổ với chư Phật,[175] thẹn với các bậc thánh, đó là hạng tăng [tàm quý,] có tu tập. Tu tập phép quán nếu phát triển được trí tuệ gọi là tăng chân thật. Nếu khác với hai hạng [tăng tàm quý và tăng chân thật] tức là 2 loại tăng [phá giới và tăng ngu si đã nói] ở phần trước. Không tu tập quán tưởng gọi là tăng phá giới. Không hiểu rõ được hình tướng các phép quán thì gọi là tăng ngu si.

2. Số lượng

Sau khi nêu ra hạng loại [trong chúng tăng] rồi, tiếp theo nói rõ về số lượng, nghĩa là con số 12.000 người.[176]

Giảng giải theo bản tích thì bản nguyên là 12.000 vị Bồ Tát, theo hình tích hiển thị thì là 12.000 vị Thanh văn.

Theo nghĩa quán tâm thì quán 12 nhập,[177] mỗi nhập đầy đủ 10 pháp giới, mỗi pháp giới lại gồm đủ 10 pháp giới, mỗi pháp giới có đủ 10 như thị, tức đủ số 1.000. Mỗi nhập là 1.000, nên 12 nhập tức là 12.000 pháp môn.

3. Giai vị

Tiếp theo giảng rõ về giai vị [trong thính chúng]. [Kinh văn nói] các vị đều là A-la-hán. Kinh A-bạt[178] gọi [quả vị A-la-hán] là Ứng chân,[179] kinh Thụy ứng[180] gọi là Chân nhân,[181] đều là những bậc [đã chứng] vô sinh, đó là giải nghĩa [danh hiệu] A-la-hán. Các nhà cựu dịch thì dịch là Vô trước, Bất sinh, Ứng cúng, hoặc không phiên dịch [chỉ gọi theo phiên âm là A-la-hán]. Danh xưng này bao gồm 3 nghĩa. [Hạt thóc] vô minh đã bóc sạch vỏ, trong ruộng đời sau [không nảy mầm], [182] chẳng phải chịu quả sinh tử nữa nên gọi là Bất sinh. 98 sử phiền não[183] diệt hết; cho nên gọi là Sát tặc. Đầy đủ công đức trí tuệ và dứt trừ, có thể làm ruộng phước cho hàng trời người nên gọi là Ứng cúng. Gồm cả 3 nghĩa này là giải thích [danh xưng] A-la-hán.

Hoặc cũng nói rằng, khi mới tu học vô sinh, trong vòng sinh tử chưa được vô sinh, tu tập trừ ma nhưng ma chưa khiếp sợ, tu hành khất sĩ nhưng chưa rõ ràng xứng đáng nhận cúng dường, nay [chứng quả này rồi] được Vô sinh nhẫn, phá sạch giặc phiền não, là ruộng [phước] tốt đẹp [cho hai cõi trời, người]. Dùng quả [chứng đắc] đối với nhân [tu hành] để giải thích 3 nghĩa của danh xưng A-la-hán. Nếu bàn về sự thành tựu thì dùng 3 nghĩa quả [chứng đắc], nếu bàn thêm sự tu tập ban đầu thì phải dùng cả 3 nghĩa của nhân [tu hành].

Giải thích như trên đều là ý nghĩa theo Tạng giáo và Thông giáo. Theo Biệt giáo và Viên giáo thì ý nghĩa có khác. Chẳng những trừ giặc [phiền não] mà còn dứt trừ cả không phiền não. Không phiền não, ấy là Niết-bàn, [Niết-bàn ấy] cũng phải tu tập dứt trừ. Đó là ý nghĩa “sát tặc” [theo Biệt giáo và Viên giáo]. [Chẳng những] không sinh đối với sinh [tử] mà còn không sinh đối với không sinh. Vô lậu là không sinh. Chẳng những xứng đáng nhận cúng dường mà còn bố thí, cung ứng. Hết thảy chúng sinh đều được bố thí, đều xưng tán đức hạnh của [hàng Bồ Tát] Sơ địa, Sơ trụ.

Theo ý nghĩa bản tích thì bản nguyên đã được Tam-muội Bất thọ, đối với hai biên kiến không có chỗ vướng mắc nên gọi là không sinh. Dứt trừ năm trụ địa phiền não[184] nên gọi là sát tặc. Thường tạo phước trong chín đường,[185] làm lợi lạc chúng sinh nên có đức ứng cúng, đây là nghĩa bản nguyên. Dùng phương tiện cứu độ chúng sinh, trải qua năm giai vị nối truyền không dứt, thành đức vô sinh, đây là nghĩa hiển thị hình tích. Lại cũng giải thích rằng bản nguyên là pháp thân, hình tích thị hiện lợi mình; bản nguyên là Bát-nhã, hình tích thị hiện không sinh; bản nguyên là giải thoát, hình tích thị hiện trừ giặc phiền não. Đại lược là như vậy.

Giải thích theo nghĩa quán tâm thì quán [muôn pháp đều] không, đó là Bát-nhã; quán [các pháp] giả tạm là giải thoát; quán trung đạo là pháp thân.

Lại cũng theo nghĩa quán tâm, từ chỗ quán giả tạm đi vào quán không cũng có 3 nghĩa, cho đến quán trung đạo. [Sát tặc là] giết giặc vô minh, [Bất sinh là] chẳng sinh tâm Nhị thừa, [Ứng cúng là] cúng dường con người ở đây cũng như cúng dường đức Thế Tôn.

Kinh Phương đẳng[186] nói: “Cúng dường Phật và Văn-thù chẳng bằng bố thí cho người tu tập kinh Phương đẳng một bữa ăn nuôi thân.”[187]

Phần sau của kinh [Pháp hoa][188] nói: Người hủy báng Phật phải chịu tội, tán dương Phật được phước, nhưng tội hoặc phước ấy không lớn bằng so với kẻ hủy báng hay tán dương người trì kinh. Vì rằng Phật không nghĩ tưởng đến việc ăn uống, từ lâu đã lìa khỏi 8 ngọn gió đời,[189] không còn chịu sự tác động [của sự cúng dường hay hủy báng]. Còn bố thí [thức ăn] cho người trì kinh thì [giúp họ] duy trì thân thể, kéo dài mạng sống, sinh khởi pháp thân, tăng trưởng đời sống trí tuệ, cho nên có lợi ích lớn. [Ngược lại] hủy báng [người trì kinh khiến họ] lo lắng sầu não, thối tâm, hối hận. Nếu để mất đi cơ hội [tu tập] tốt thì không thể cứu vãn, cho nên nói là tổn hại lớn. Đại lược là như thế.

4. Xưng tán đức hạnh

KINH VĂN

Các lậu hoặc đã dứt, không bị phiền não trở lại, được lợi lạc bản thân, dứt hết trói buộc trong các cõi hiện hữu, tâm được tự tại.


[Kinh văn] có 5 câu xưng tán ba thánh đức như trên [của bậc A-la-hán]. Luận Pháp hoa nói rằng: “Câu đầu nói tổng quát, những câu sau nêu cụ thể.” Nên biết rằng, tất cả các câu này đều tán thán bậc A-la-hán.

“Các lậu hoặc đã dứt, không bị phiền não trở lại.” Hai câu này xưng tán thánh đức sát tặc, tức giết giặc phiền não như vừa nói trên. Lậu hoặc là chỉ ba thứ lậu hoặc.[190] Thành thật luận[191] nói: “Để mất đạo cho nên gọi là lậu hoặc.” Trong Luật nói: “Người si mê tạo nghiệp là mở ra các cánh cửa lậu hoặc.” [Luận] Tỳ-đàm[192] nói: “Do lậu hoặc rơi vào sinh tử.” Luận và Luật tuy dùng lời khác nhau nhưng đều làm rõ ý nghĩa lậu hoặc. Do giặc lừa gạt mà mất đi của báu, trở nên bần cùng cô độc, cũng giống như người tạo các nghiệp ác phải rơi vào sinh tử khổ não, đánh mất pháp thân, mất cả đời sống trí tuệ, mất sạch của báu. Tất cả đều là ý nghĩa [so sánh với] giặc xấu. Không nên cho đây là tán thán ý nghĩa của đức bất sinh.

Nói về phiền não, đó là 98 loại phiền não sai sử, thôi thúc, ngăn chặn, trói buộc, che chướng... luôn bức bách não hại người tu hành. Phiền não là yếu tố có khả năng thấm đẫm và lậu nghiệp là đối tượng bị thấm đẫm. Cái thấm đẫm (phiền não) và cái bị thấm đẫm (lậu nghiệp) đều dứt sạch, đó chính là ý nghĩa sát tặc, [giết giặc phiền não]. Sao có thể nói đó là xưng tán nghĩa Bất sanh?

Câu “đã được lợi mình” là xưng tán đức ứng cúng. Nhân quả trong ba cõi đều gọi là “bên ngoài”; [các phẩm tính như] trí tuệ, đoạn trừ, công đức, hết thảy đều gọi là “lợi mình”. Đầy đủ sự lợi mình nên thành ứng cúng, [xứng đáng nhận sự cúng dường].

“Dứt hết trói buộc trong các cõi hiện hữu, tâm được tự tại”, hai câu này là xưng tán thánh đức bất sinh. “Các cõi hiện hữu” là 25 cảnh giới,[193] “trói buộc” là chỉ nghiệp nhân sinh ra trong 25 cảnh giới hiện hữu. Nhân dứt, quả không còn, đó rõ ràng là xưng tán đức bất sinh, không nên cho là xưng tán đức sát tặc.

[Giai vị] A-la-hán thường là đã dứt hết trói buộc nhưng chưa dứt sạch hiện hữu. Hiện hữu dứt sạch là trong nhân nói quả, lại như dứt sạch cũng không được lâu. Nói “tâm được tự tại” là do định lực đầy đủ nên gọi là tâm tự tại. Trí tuệ đầy đủ gọi là tuệ tự tại. Tuệ tự tại chưa hẳn tâm được tự tại, nhưng tâm tự tại ắt tuệ cũng tự tại. [Cho nên] ở đây nói tâm tự tại nghĩa là đầy đủ cả định lực và trí tuệ, tức là bậc chứng đắc câu giải thoát. Chứng đắc câu giải thoát thì nhất định đã chấm dứt không còn tái sinh. Do đó suy ra, có thể biết là [câu này] xưng tán đức bất sinh.

Nếu y theo luận giải Pháp hoa thì gọi đây là “thượng thượng khởi môn”, nghĩa là dùng những câu sau để giải thích câu trước. Luận [này] nói rằng, do đã dứt hết các lậu hoặc nên gọi là A-la-hán, do tâm được tự tại nên gọi là dứt hết trói buộc. Lần lượt như vậy mà giải thích cho câu trên.

Giải thích theo nghĩa bản tích thì không sinh chỗ bất sinh gọi là Đại Niết-bàn, cội nguồn của dòng chảy phiền não lậu hoặc đã khô cạn từ lâu, không còn đọa lạc trở lại trong hàng Nhị thừa và phàm phu. Đó là bất sinh theo nghĩa bản nguyên. Đầy đủ pháp thân, trí tuệ đoạn trừ [phiền não], thật tướng, công đức, đó gọi là lợi mình theo nghĩa bản nguyên. Đạt được Vương Tam-muội,[194] phá trừ [không còn tái sinh trong] 25 cảnh giới hiện hữu, hiển bày tánh thật của ngã, đầy đủ 8 đức tự tại.[195] Đó gọi là sát tặc theo nghĩa bản nguyên. Nhưng về hình tích thì thị hiện công đức của hàng Nhị thừa.

Theo nghĩa quán tâm thì quán chiếu chân chánh theo Trung đạo, không lậu hoặc, không rơi vào hai bên quán không hay quán giả, nên phiền não [khởi sinh từ] hai biên kiến này đều dứt hết. Thường quán tánh của tâm, gọi là định bậc cao. Kho báu giấu kín như ngọc quý trong chéo áo là tài vật của mình, đó là nghĩa “đã được lợi mình”.

Chánh quán theo Trung đạo liền dứt trừ giặc phiền não kết sử. Không còn kết sử nên hiện hữu cũng dứt. Hai biên kiến không thể trói buộc tâm nên gọi là tự tại, phiền não tuy có cũng như không. Chẳng dứt phiền não mà nhập Niết-bàn, chính là ý nghĩa này.

KINH VĂN

Tên các ngài là: A-nhã Kiều-trần-như, Ma-ha Ca-diếp, Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, Già-da Ca-diếp, Na-đề Ca-diếp, Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca-chiên-diên, A-nậu-lâu-đà, Kiếp-tân-na, Kiều-phạm-ba-đề, Ly-bà-đa, Tất-lăng-già-bà-sa, Bạc-câu-la, Ma-ha Câu-hi-la, Nan-đà, Tôn-đà-la Nan-đà, Phú-lâu-na Di-đà-la-ni tử, Tu-bồ-đề, A-nan, La-hầu-la.

5. Danh hiệu


[Kinh văn] ở đây chỉ lược nêu 21 vị tôn giả. Tất cả đệ tử của Phật đều có đủ công hạnh nhưng tự giấu đi năng lực trọn vẹn của mình, mỗi vị đều tùy theo đức hạnh để nêu tên, nhằm dẫn dắt [chúng sanh] theo khuynh hướng tốt đẹp hơn.

Kinh Tăng Nhất A-hàm nói rằng: “Các vị tỳ-kheo thuộc nhóm Kiều-trần-như đều được tôn xưng là bậc Thượng Tọa, có các bậc đại nhân đức hạnh cùng đi. Ngài Xá-lợi-phất có những bậc có trí tuệ thâm sâu nhạy bén cùng đi. Ngài Mục-kiền-liên có những vị được sức thần thông lớn cùng đi... [Cứ như vậy] mỗi vị đều nắm giữ một pháp, dẫn dắt những người có khuynh hướng tốt đẹp như vậy cùng đi. [Cho nên] muốn nêu tên mỗi vị phải biết rõ được công hạnh của vị ấy. Tùy theo đức hạnh [của mỗi người] mà đặt tên hiệu, với tất cả các vị đều như vậy. Mỗi vị A-la-hán đều nêu ra 4 nội dung giải thích để làm ví dụ. Đại lược là như vậy.

A-nhã Kiều-trần-như

[Chẳng hạn như] Kiều-trần-như[196] là họ, được dịch là “hỏa khí” (vật giữ lửa), thuộc chủng tộc bà-la-môn. Tổ tiên dòng tộc này vốn thờ lửa, truyền nối nhiều đời trong họ. Lửa có hai nghĩa là chiếu sáng và thiêu đốt. Chiếu sáng thì bóng tối không sinh, thiêu đốt thì muôn vật không sinh, cho nên “không sinh” (bất sanh) là tánh [của lửa].

A-nhã là tên, Hán dịch là “dĩ tri” (đã biết) hoặc “vô tri” (không biết). Nói “không biết” [ở đây] không phải là không biết gì, mà là rõ biết về tánh không. Nếu y theo nhị đế[197] [thấy biết tánh không và giả tạm] thì đó là sự rõ biết chân chánh, cho nên dùng trí vô sinh để đặt tên gọi. Trong kinh Vô lượng thọ,[198] kinh Văn-thù vấn[199] và luận A-tỳ-đàm Bà-sa[200] đều nói [A-nhã] có nghĩa là rõ biết chân đế.[201] Nếu nói theo Tứ diệu đế thì là rõ biết về Diệt đế, nhưng trong đa số kinh điển đều gọi tên ngài là Vô Tri, hoặc cũng dịch là Đắc Đạo. Trong kinh Tăng Nhất A-hàm, [đức Phật] nói rằng: “Trong Phật pháp của ta toàn những người khoan hòa nhân ái và hiểu biết sâu rộng. Người đầu tiên được nếm mùi vị chánh pháp là tỳ-kheo Câu-lân-như,[202] cho nên được đặt tên là A-nhã.

Do nguyện thành tên

Thuở ấy [tiền thân của] Phật sinh vào thời có nạn đói, nên ngài hóa làm con cá mắt đỏ rất lớn, tự nín thở đến chết [để người đời có thức ăn]. [Lúc ấy] có 5 người thợ mộc đến trước tiên dùng lưỡi búa để lóc thịt cá. Lúc đó Phật phát lời thệ nguyện rằng: “Đời sau này [khi ta thành Phật] sẽ hóa độ những người [thợ mộc] này trước nhất. Do Phật trước kia có nguyện giúp cho [Kiều-trần-như] được chứng vô sinh nên gọi tên ông là A-nhã.

Lại nữa, vào thời đức Phật Ca-diếp, có 9 người học đạo, trong đó 5 người chưa chứng quả, lập thệ nguyện rằng [sau này khi tu tập] trong giáo pháp của đức Phật Thích-ca sẽ được khai ngộ trước tiên. Do bản nguyện ấy dẫn dắt nên chứng pháp Vô sinh trước nhất, được gọi tên là A-nhã.

Do hạnh thành tên

Trí tuệ sinh, mê hoặc diệt là công hạnh trí tuệ đoạn trừ [phiền não]. Đang khi đêm dài tăm tối, giấc ngủ mê say, không một ai tỉnh giấc, mặt trời còn chưa lên thì đã có ánh sao hiện ra trước. Tỳ-kheo Kiều-trần-như vừa chứng trí Vô sinh cũng ví như ánh sao sáng đầu tiên trong tất cả các vì sao sáng. Trong tất cả những người được trí sáng suốt, không có ai trước ngài Kiều-trần-như, cho nên gọi là A-nhã. Xua tan đêm dài tăm tối, trước nhất không gì hơn một ánh sao sáng. Ngài Kiều-trần-như cũng giống như vậy, trong tất cả những người dứt trừ được vô minh si ám, không có ai trước ngài, cho nên gọi là A-nhã.

Do việc trước đây thành tên

Khi thái tử từ bỏ ngôi vua, rời khỏi đất nước, vào chốn núi rừng học đạo. Phụ vương mong nhớ liền sai 5 người tìm đến theo hầu. Đó là các ông Câu-lân-át-bệ, cũng gọi là Thấp-bệ,[203] cùng với A-thuyết-thị, Mã-tinh-bạt-đề, Ma-ha-nam và Thập-lực Ca-diếp, cùng theo giúp thái tử. [Trong 5 người này thì] hai người là thân tộc bên ngoại, ba người là thân tộc bên nội. Nhóm hai người cho rằng thụ hưởng dục lạc là pháp tu thanh tịnh, còn nhóm ba người lại cho rằng sự khổ hạnh là pháp tu thanh tịnh. Khi thái tử siêng năng tu khổ hạnh thì nhóm hai người [không đồng tình] liền bỏ đi, ba người còn lại vẫn theo hầu. Khi thái tử từ bỏ việc tu khổ hạnh, trở lại thọ nhận món cháo sữa, uống nước ấm thì ba người kia cũng bỏ đi. Khi thái tử thành đạo, trước tiên vì cả 5 người ấy thuyết pháp Tứ diệu đế.

Lần thuyết pháp đầu tiên giáo hóa cho hai người, còn ba người kia đi khất thực về để Phật và cả năm người cùng ăn. Ngay lần ấy ngài Câu-lân[204] chứng được pháp nhãn thanh tịnh, bốn người còn lại chưa chứng đắc. Lần tiếp theo thuyết pháp cho ba người, hai người kia đi khất thực để Phật và năm người cùng ăn. Lần này cả ba người đều chứng được pháp nhãn thanh tịnh. Lần thuyết pháp thứ ba, cả nhóm Kiều-trần-như 5 người và 80.000 chư thiên đều xa lìa trần cấu. Nhóm 5 người ấy được chứng Vô sinh. Đức Phật ba lần hỏi “đã hiểu rõ pháp chưa”, các vị cũng ba lần thưa “đã hiểu rõ”. Khi ấy, thần đất xướng lên, thần hư không truyền rộng, cho đến khắp thế giới Phạm thiên đều nói lên “đã hiểu”.

Ngài Câu-lân (Kiều-trần-như) là người đắc pháp trước tiên. Ngài là người trước tiên thấy được tướng trạng Phật đạo, nghe được tiếng trống pháp trước tiên, ngửi được hương thơm chánh pháp trước tiên, nếm được vị cam lộ trước tiên, dự vào dòng pháp trước tiên, chứng đắc chân đế trước tiên. Trong số người đắc đạo ở cõi Diêm-phù-đề, ngài là người trước nhất trong tất cả loài người, chư thiên cũng như các vị A-la-hán. Cho nên trong kinh Thập nhị du[205] nói rằng: “[Sau khi] Phật thành đạo, năm đầu tiên hóa độ 5 người [nhóm Kiều-trần-như], năm thứ hai hóa độ ba anh em Ca-diếp [và đồ chúng của họ], đến năm thứ năm hóa độ Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên [cùng đồ chúng của họ].” Nên biết danh xưng A-nhã đặt ở trước như đã nói rõ. Đó là giải thích theo nhân duyên.

Nếu giải thích theo Tạng giáo thì người mù chẳng sinh ra [cái thấy] ví như trí vô sinh, tấm gương ví như cảnh giới vô sinh, là ấm, nhập, giới. Đầu [mình và tứ chi] sáu phần ví như nhân trong hiện tại, ảnh tượng [trong gương] ví như quả vị lai. Nếu như mở con mắt sáng, tay cầm tấm gương, đối trước hình liền sinh ra ảnh tượng trong gương. Nếu nhắm mắt lại như người mù thì không thấy gì cả. Không nhìn thấy sáu phần là nhân [hiện tại] không sinh, không nhìn thấy ảnh tượng trong gương là quả [vị lai] không sinh. Cho nên kinh A-hàm nói rằng: “[Đối với năm ấm, nếu nói có sắc và sắc là tịnh, tịnh ấy là sinh, chẳng phải bất sinh. Nếu nói có thọ, tưởng, hành, thức và thức là tịnh, tịnh ấy là sinh, chẳng phải bất sinh. Nếu nói có thọ và thọ là lạc, lạc ấy là sinh, chẳng phải bất sinh. Cho đến [nếu nói có] sắc và sắc là lạc, lạc ấy là sinh, chẳng phải bất sinh. Lại nếu cho rằng có tưởng, có hành và hành là ngã, ngã ấy là sinh, chẳng phải bất sinh. Cho đến [nếu cho rằng có] sắc và sắc là ngã, ngã ấy là sinh, chẳng phải bất sinh. Nếu cho rằng có thức và thức là thường, thường ấy là sinh, chẳng phải bất sinh. Cho đến [nếu cho rằng có] sắc và sắc là thường, thường ấy là sinh, chẳng phải bất sinh. Cũng như cầm tấm gương nhìn vào thấy khuôn mặt, khuôn mặt ấy là sinh, chẳng phải bất sinh. Nếu nói rằng có năm ấm thì đều là sinh, chẳng phải bất sinh.

Nếu có thể biết rằng sắc chẳng phải tịnh..., cho đến thức chẳng thường, lại có thể biết sắc là vô thường, là khổ, là không, là bất tịnh, cho đến thức là vô thường, là khổ, là vô ngã, là bất tịnh thì đó là bất sinh, chẳng phải sinh. Như người mù tay cầm tấm gương nhưng không thấy ảnh tượng sinh ra [trong gương], đó là bất sinh, chẳng phải sinh. Khi đã rõ biết bất sinh, đâu có lẽ nào trong [chỗ bất sanh] đó lại cho rằng ngã là sắc, hoặc cho rằng ngã khác với sắc, hoặc ngã ở trong sắc hay sắc ở trong ngã. Cho đến [thọ, tưởng, hành,] thức cũng đều như vậy. Quán xét như vậy thì nhân hiện tại với quả vị lai, tất cả đều không sinh ra. Giống như người mù nhìn vào tấm gương cũng chẳng thấy ảnh tượng. Đó gọi là quán năm ấm, là pháp quán với trí vô sinh.

Lại nói về pháp quán [12] nhập [và 18] giới. Thường khi nói đến biển, tuy là sâu rộng nhưng vẫn có giới hạn ở bờ bên này với bờ bên kia, do vậy vẫn xem là nhỏ. Nếu [so với] khi mắt nhìn thấy hình sắc rồi, ý niệm luyến ái đắm nhiễm, tham muốn dục lạc, làm sinh khởi cả ba nghiệp thân, miệng, ý, [không có giới hạn], đó mới thật là biển lớn, nhấn chìm hết thảy chúng sinh trong thế gian, trời, người, a-tu-la... Cho nên phải biết rằng mắt chính là biển lớn, hình sắc là sóng to gió lớn. Do luyến ái hình sắc ấy nên phải xoay vòng, quay lại [trong luân hồi]. Trong biển lớn ấy khởi lên những tri giác xấu ác thì chính là cá dữ, rồng độc; khởi tâm niệm đố kỵ, mưu hại chính là quỷ la-sát nam; khởi tâm niệm nhiễm ô tham ái chính là quỷ [la-sát] nữ. Thân, miệng, ý khởi lên chính là uống nước biển mặn tự chết chìm. Đó là con mắt với hình sắc đều không có tri giác [nhưng kết hợp] mà sinh ra ái nhiễm vô minh.

Ái luyến sinh nên sinh ra hành, hành sinh nên sinh ra nghiệp. Nghiệp trói buộc thần thức đi vào [thân] trung ấm. Đây là thức sinh. Tuy thành bào thai nhưng chưa trọn thành năm vóc, đó là sinh ra danh sắc, năm vóc trọn thành là sinh ra sáu nhập. Sáu nhập còn chưa phân biệt được khổ, vui gọi là sinh ra xúc; phân biệt được khổ, vui rồi gọi là sinh ra thụ. Đối với trần cảnh khởi lên sự đắm nhiễm là sinh ra ái luyến, rong ruổi khắp nơi tìm cầu [những điều tham muốn] là sinh ra chấp thủ. Tạo thành thân, miệng, ý là sinh ra hiện hữu.

Theo nghiệp thọ nhận năm ấm trong vị lai là hình thành sự sinh. Khi năm ấm trong vị lai dần biến đổi là sinh ra sự già suy. Năm ấm trong vị lai hư hoại mất đi là sinh ra sự chết. Trong tâm nóng nảy là sinh ra sầu ưu, buồn đau than khóc là sinh ra bi thương. Thân tâm tiều tụy rúng động là sinh ra khổ não. Đây gọi là khi mắt nhìn thấy hình sắc liền có khổ não lớn của 12 nhân duyên trong ba đời tụ lại sinh ra, chẳng phải bất sinh. Đối với [các nhập còn lại như] tai [với âm thanh], mũi [với mùi hương], lưỡi [với vị nếm], thân [với sự xúc chạm], ý [với các tư tưởng], và 18 giới, từ nhãn giới cho đến pháp giới cũng đều như vậy. Đó là 12 nhập và 18 giới đều sinh ra, chẳng phải bất sinh.

Thế nào là bất sanh? [Đó là] quán xét khi mắt thấy hình sắc chẳng trồng hạt giống khổ đau, nên chẳng nảy lên mầm khổ đau. Không rỉ chảy ra mùi hôi thối thì chẳng thu hút ruồi nhặng tụ tập. Hạt giống không sinh thì mầm sẽ không sinh; mùi hôi thối không sinh thì ruồi nhặng không sinh. Cho nên gọi là bất sinh.

Thế nào là gieo trồng khổ não? Khi mắt nhìn thấy hình sắc, khởi sinh tri giác tham lam, sân hận, đó là những hạt giống khổ đau. Nghĩ tưởng đến năm món dục lạc là mầm sinh khổ đau. Sáu căn bám giữ theo sáu trần cảnh, đó gọi là rỉ chảy nước hôi thối. Ở trong sáu trần, các ý niệm lành dữ tranh nhau khởi lên, đó gọi là ruồi nhặng.

Nếu rõ biết con mắt với hình sắc đều là vô thường, khổ, không, vô ngã thì tham lam, sân hận chẳng sinh, những ý niệm tham muốn chẳng sinh, sự bám giữ trần cảnh chẳng sinh, các hành vi thiện ác chẳng sinh. Đây là bất sinh.

[Đối với các nhập khác như] tai [với âm thanh], mũi [với mùi hương], lưỡi [với vị nếm], thân [với sự xúc chạm], ý [với các tư tưởng] cũng đều như vậy. [Và đối với 18 giới từ] nhãn giới cho đến pháp giới cũng đều như vậy.

Ngài A-nhã là người đầu tiên đạt được trí vô sinh này theo Tạng giáo, cho nên có tên là A-nhã Kiều-trần-như.

Theo nghĩa Thông giáo quán trí vô sinh thì ví như một người ảo hóa cầm tấm gương ảo hóa, dùng thân thể[206] ảo hóa soi vào tấm gương ảo hóa nhìn thấy ảnh tượng trong gương ảo hóa. Ảnh tượng ấy chẳng phải do tấm gương sinh ra, chẳng phải do khuôn mặt sinh ra, cũng chẳng phải do tấm gương hợp với khuôn mặt sinh ra, chẳng phải lìa tấm gương và khuôn mặt mà sinh ra. Đã không phải do 4 nguyên nhân trên[207] mà sinh ra, [nên ảnh tượng ấy] chẳng phải ở trong, chẳng phải ở ngoài, cũng chẳng phải ở khoảng giữa, không thể tự hiện hữu, không có chỗ mất đi, cũng chẳng thể rời đi bốn phương đông, tây, nam, bắc. Tánh vốn tự vô sinh, chẳng phải do diệt mất chỗ sinh mà thành vô sinh. Tánh vốn tự không diệt, chẳng phải do diệt mất chỗ diệt mà thành vô diệt. Chẳng sinh chẳng diệt cho nên gọi là vô sinh. [Đối với các ấm] thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy.

Lại quán hình sắc ảo hóa như ảnh tượng ảo hóa trong tấm gương soi. Quán thọ như bọt nước nổi, quán tưởng như hơi nóng lung linh [nhìn thấy từ xa], quán hành như thân cây chuối, quán thức như ảo hóa.

Sự ảo hóa ấy chẳng phải từ vật ảo hóa sinh ra, chẳng phải từ nhà ảo thuật sinh ra, chẳng phải do vật ảo với nhà ảo thuật hợp lại sinh ra, cũng chẳng phải lìa khỏi vật ảo với nhà ảo thuật mà sinh ra. Theo bốn cách ấy[208] mà tìm thì thấy chỗ ảo hóa thật không từ đâu sinh ra cả. Lại trong khắp bốn phương mà tìm chỗ ảo hóa ấy diệt mất thì thấy chẳng diệt về đâu cả. [Cho nên] tánh vốn vô sinh, chẳng phải do diệt mất sự sinh mới thành vô sinh; tánh vốn vô diệt, chẳng phải do diệt mất sự diệt mới thành vô diệt. Không sinh không diệt nên gọi là vô sinh.

Quán xét các căn và trần như xóm làng nơi các phiền não kết sử tụ họp, từ xưa đến nay hết thảy đều chẳng có gì chân thật, chỉ do vọng tưởng mà khởi lên. Sự vận hành tác động của nghiệp lực giả hợp nơi chỗ rỗng không. Thể tánh của vô minh vốn chẳng tự có, chỉ do nhân duyên vọng tưởng hòa hợp mà thành có. Chỗ có ấy tự nó vốn là không, do nhân duyên mà thành có. Nghiệp khổ phiền não [không thật, chỉ] như vòng lửa xoay tròn.[209] Quán xét thấy cội gốc [những thứ ấy] vốn đều là không, như trên đã nói, đó là ý nghĩa giải thích theo Thông giáo.[210]

Theo Biệt giáo quán xét trí vô sinh thì lấy tấm gương dụ cho pháp giới, mắt nhìn [vào gương] ví như trí quán sát, [các màu sắc] xanh, vàng, đỏ, trắng [và các hình tượng] nhỏ, lớn, ngắn, dài là dụ cho Mười pháp giới. Màu xanh dụ cho nhân và quả cảnh giới địa ngục, màu vàng dụ cho nhân và quả cảnh giới ngạ quỷ, màu đỏ dụ cho nhân và quả cảnh giới súc sinh, màu trắng dụ cho nhân và quả cõi trời, cõi người, hình tượng nhỏ dụ cho nhân quả hàng Nhị thừa, hình tượng lớn dụ cho nhân quả hàng Bồ Tát Thông giáo, hình tượng ngắn dụ cho nhân quả hàng Bồ Tát Biệt giáo, hình tượng dài dụ cho nhân quả pháp giới Phật. Tất cả đều rõ ràng trong gương, phân biệt không nhầm lẫn.

Nếu muốn tự sửa mình chân chánh thì làm sao cho 9 loại nhân quả đều không sinh, chỉ sinh 1 nhân quả [pháp giới Phật]. Nếu muốn giúp người khác tu sửa chân chánh thì làm sao cho 9 loại nhân quả của họ đều chẳng sinh, chỉ sinh 1 nhân quả [pháp giới Phật]. Y pháp giới thực hành theo hạnh Bồ-đề, tuần tự dùng trí quán sát chia chẻ tự thể, đoạn trừ sự sinh khởi của 4 trụ địa,[211] khiến cho không thể sinh khởi. Kế tiếp dùng vô số pháp Phật để đoạn trừ hết thảy phiền não khách trần, làm cho chẳng còn sinh khởi si mê vô trí. Sau đó dùng trí tuệ thật tướng đoạn trừ vô minh, khiến cho căn bản vô minh[212] không còn sinh khởi. Dứt trừ 4 trụ địa thì phần đoạn [sinh tử] không sinh khởi. Nếu không si mê vô trí thì Phương tiện độ[213] không sinh. Nếu không còn vô minh thì Thật báo độ[214] cũng không sinh. Sinh đã không sinh, cho đến bất sinh cũng không sinh, cho nên gọi là bất sinh.[215] Đây gọi là trí vô sinh theo Biệt giáo.

Nói lược qua về quán xét trí vô sinh theo Viên giáo thì giống như quán sát tấm gương soi tròn đầy, không lưu tâm đến trước hay sau, không lưu tâm đến hình tượng, mặt sau chẳng phải tối tăm, mặt trước cũng chẳng phải sáng tỏ, không bám giữ các loại hình thù, chẳng bám giữ hình tượng của gương, chỉ quán sát chỗ tròn đầy viên mãn, không bờ mé giới hạn, không khởi đầu hay kết thúc, không sáng không tối, không đồng nhất không sai khác. Ví như cái nhìn tròn đầy viên mãn, không bám giữ nơi tướng mạo của Mười pháp giới, không thiện không ác, không tà không chánh, không lớn không nhỏ v.v. hết thảy đều dứt sạch. Chỉ nương theo tướng thật của các pháp, pháp tánh của Phật pháp. Dù là hình sắc hay mùi hương đều không ngoài thật tướng.

Quán xét nghiệp phiền não sinh tức là vô sinh. Vô sinh ấy không sinh nên gọi là vô sinh. Các nỗi khổ nơi ấm, nhập, giới tức là pháp thân, vì không hiển hiện nên gọi là pháp thân. Chướng ngại ngăn che là pháp thân, tham sân si là Bát-nhã, không phải vì có khả năng soi chiếu sáng tỏ nên gọi là Bát-nhã. Vì không nơi nào có thể soi chiếu, tánh vốn tự sáng tỏ. Hết thảy hành nghiệp trói buộc đều là giải thoát, không phải do dứt trừ trói buộc mà được giải thoát, cũng không có tánh thể nào để trói buộc, không gì có khả năng trói buộc, nên gọi là giải thoát.

Giải thoát tức là nghiệp không sinh khởi. Bát-nhã tức là phiền não không sinh khởi. Pháp thân tức là khổ não không sinh khởi. Ba điều này không sinh tức một không sinh, một không sinh tức ba không sinh. Chẳng phải ba, chẳng phải một nên gọi là không sinh. Huống chi những sự biến dịch, phiền não, nghiệp khổ lại chẳng phải không sinh. Đây là quán trí vô sinh theo Viên giáo. Đại thể là như vậy.

Theo ý nghĩa bản tích thì Kiều-trần-như vốn tự không sinh, chẳng phải chỉ lúc ban đầu không sinh. Đó là muốn dẫn ví dụ sữa làm thành sữa đặc. Cho nên, theo nghĩa Tích môn thì Sơ giáo vốn không sinh, là dẫn ví dụ sữa đặc làm thành sinh tô; cũng theo nghĩa Tích môn thì Thông giáo vốn không sinh, là dẫn ví dụ sinh tô làm thành thục tô; cũng theo nghĩa Tích môn thì Biệt giáo vốn không sinh, là dẫn ví dụ thục tô làm thành đề-hồ; cũng theo nghĩa Tích môn thì Viên giáo vốn không sinh, mà Bản môn ở nơi A tự môn,[216] nghĩa là nói tất cả các pháp ban sơ vốn không sinh. [Cho nên,] nếu nghe đến A tự môn thì hiểu được nghĩa hết thảy đều chẳng phải sinh, chẳng phải không sinh. Vì thị hiện theo Tích môn để dẫn dụ giáo hóa nên có thể là [nghĩa] sinh, có thể là không sinh. Chúng sinh nào có thể hiểu được nghĩa không sinh theo Viên giáo tức là đồng với A-nhã [Kiều-trần-như].

Chẳng phải Bản môn, chẳng phải Tích môn, chẳng phải sinh cũng chẳng phải không sinh, ngay nơi chỗ này mà đại sự nhân duyên [của chư Phật] hoàn tất. Cho nên, ở phần sau [trong quyển 4] nói rằng: “Phú-lâu-na đủ các tài biến hóa, nếu ta nói đầy đủ, chúng sinh nghe điều này, tâm ắt sinh nghi hoặc”,[217] tức là nghĩa này vậy.

Trong kinh Tăng Nhất A-hàm nói: “A-nan cầm lọng bưng đèn theo sau Phật, Đại Phạm vương cầm lọng bưng đèn theo sau Kiều-trần-như.” Đó là thị hiện Tích môn vì muốn hiển lộ Bản môn.

Lược nói ba pháp quán như trên thì có thể rõ được [ý nghĩa] không sinh [trong tên gọi Kiều-trần-như], không cần nói đủ rườm rà.

Ma-ha Ca-diếp

Ma-ha Ca-diếp (Mahākāśyapa), Hán dịch là họ Đại Quy (大龜氏), [nghĩa là con rùa lớn], do tổ tiên đời trước khi học đạo có con rùa thần cõng sách học đạo tiên ứng hiện đến. Theo mệnh đức của gia tộc như vậy nên lấy họ Quy. Ngài Tam Tạng Chân Đế dịch là Quang Ba (光波), là “luồng sóng ánh sáng”. Các vị tiên nhân thuở xưa thân hình phát ra ánh sáng chói lọi, [lấn át] khiến cho không còn thấy được các loại ánh sáng khác, cho nên gọi là Quang Ba, lại cũng gọi là Ẩm Quang. Ánh sáng nơi thân ngài Ca-diếp cũng có thể soi sáng [lấn át ánh sáng của] vật khác.

[Ngài cũng có tên] là Tất-bát-la hoặc Tất-bát-ba-la-diên, hoặc Thê-tỳ-lê. Tất-bát-la là tên cây,[218] do cha mẹ cầu đảo với thần cây này mà sinh được ngài, nên lấy tên cây đặt tên cho con. [Còn danh hiệu] Bạt-kỳ tử là do sinh ra ở làng Bạt-kỳ nên lấy [tên làng] làm hiệu. Gia đình này cực kỳ giàu có. Kinh Tăng Nhất A-hàm nói: “Có vị trưởng giả cực kỳ giàu có ở xứ La-duyệt-kỳ[219] tên là Ca-tỳ-la, người vợ tên Đàn-na, con trai tên Tất-bát-la, con dâu tên là Bà-đà, giàu có hơn vua Bình Sa[220] gấp ngàn lần, trong 16 nước lớn chẳng ai sánh bằng.”

Trong sách Phó pháp tạng[221] nói rằng: “Sau khi đức Phật Tỳ-bà-thi diệt độ, tượng Phật trong tháp bằng vàng bị đổi màu hư hoại. Lúc ấy có cô gái nghèo nhặt được viên ngọc quý màu vàng liền [dùng để] thuê người thợ vàng bạc đến tô phết lại tượng Phật. [Người này] hoan hỷ tô sửa làm cho tượng Phật sáng đẹp. [Sau đó] hai người có lời thề nguyền trở thành vợ chồng với nhau. Trong suốt 91 kiếp sau đó, dù sinh trong cõi người hay cõi trời, thân thể người này thường có màu sáng như vàng ròng, tâm thường được vui. Đời sau cùng sinh vào gia đình bà-la-môn Ni-câu-luật-đà ở nước Ma-kiệt-đà. [Vua nước Ma-kiệt-đà dùng 1.000 lưỡi cày bằng vàng để cày ruộng, gia đình này] sợ hơn vua sẽ bị bắt tội nên giảm bớt một lưỡi cày, chỉ dùng 999 cặp bò kéo lưỡi cày vàng để cày ruộng.”[222]

Trong kinh cũng nói rằng, ở nhà này loại vải lụa phẩm chất kém nhất cũng có giá trị đến trăm ngàn lượng vàng. Nếu [trải lụa trên đất rồi] dùng đinh đóng xuống sâu đến 7 thước[223] cũng không xuyên thủng được [loại vải lụa này], khi rút đinh lên lụa vẫn như cũ không hề khác đi. Trong nhà có 60 kho chứa đầy vàng, mỗi kho là 340 hộc.[224] Các kho chứa lúa cũng đều như vậy.

Trong kinh lại cũng nói rằng, nhờ dùng lúa gạo cúng dường Phật Bích-chi nên [cả hai người] thường được sinh về cõi trời Đao-lợi cả ngàn lần, hưởng sự vui thú.

Thân hình ngài Ca-diếp có 30 tướng tốt. Đây chỉ nói về tướng thân có sắc vàng thì loại vàng diệm-phù-na-đà nếu đặt dưới đáy nước bùn, ánh sáng có thể tỏa chiếu lên khỏi mặt nước, nếu đặt ở chỗ tối thì xua tan tăm tối, nhưng hào quang từ thân thể ngài Ca-diếp tỏa chiếu còn sáng hơn cả loại vàng này, chiếu xa đến một do tuần. [Nếu so với đức Phật thì] kém hơn hai tướng, là không có tướng bạch hào (lông trắng giữa hai chân mày) và tướng nhục kế (khối thịt nhỏ trên đỉnh đầu).[225]

Cho nên, lúc cung thỉnh ngài kết tập kinh điển, chư thiên đọc kệ xưng tán rằng:

Bậc trưởng lão đã trừ tham, sân, mạn;

Thân uy nghi như trụ tử kim,[226]

Đoan nghiêm vi diệu không gì bằng,

Mắt sáng thanh tịnh như hoa sen.

Ngài Ca-diếp xả bỏ gia nghiệp như vậy. Lại nữa, cha mẹ cưới cho một người vợ thân có sắc vàng,[227] hai vợ chồng thay nhau kẻ thức người ngủ, không hề phạm vào sắc dục,[228] rồi lại xả bỏ để đi xuất gia. [Lúc đi xuất gia,] trên thân đang mặc tấm áo quý vô giá, liền cắt ra làm bốn tấm dâng lên cúng dường Phật làm tòa ngồi, còn mình nhận y tăng-già-lê. Ba lần xả bỏ như vậy, [xả bỏ gia nghiệp, xả bỏ gia đình, xả bỏ áo quý,] trong đời không ai sánh kịp nên gọi là bậc đại xả. Ngài gặp Phật ở làng Bạt-kỳ liền dâng cúng áo quý, Phật [nhận rồi] ban cho ngài đại y phấn tảo. Tấm y này là y của bậc đại thánh, lại không thô nặng. Cho nên ngài Ca-diếp nói rằng: “Ta thọ nhận y của Phật, luôn kính y như kính thầy, kính tháp, chưa từng dám gối đầu lên y, huống chi đến việc trải nằm. Như tấm đại y này giúp ta luôn hết sức tinh tấn tu hành, cho nên nói là được sự lớn lao.”

Trong hàng đệ tử Phật có nhiều vị khác cũng tên Ca-diếp, như Thập lực Ca-diếp,[229] ba anh em Ca-diếp[230]... Các ngài đều là những bậc đại nhân, nhưng trong những người cùng tên ấy, ngài lớn tuổi nhất nên gọi là Đại Ca-diếp. Ban sơ gặp Phật tại làng Bạt-kỳ, vừa được nghe Phật giảng về sự tăng trưởng giới, định, tuệ, ngài liền chứng quả vô lậu.[231] Ngài nhận lãnh pháp khất thực và thực hành 12 hạnh đầu đà, cho đến tuổi già vẫn không từ bỏ. Về sau, đức Phật bảo ngài: “Ông đã cao tuổi, có thể thôi việc khất thực, về theo đại chúng thọ thực,[232] cũng có thể bỏ y phấn tảo thô nặng, dùng loại y hoại sắc nhẹ nhàng của cư sĩ [dâng cúng].” Ngài Ca-diếp bạch Phật rằng: “Nếu không có Phật ra đời, con sẽ làm Phật Bích-chi suốt đời tu hạnh đầu đà. Nay con không dám bỏ những điều đã tu tập từ lâu mà học theo pháp khác. Con cũng muốn nêu gương sáng cho đời sau. Người đời sau sẽ nói: ‘Thượng tọa Ca-diếp [tu khổ hạnh] được Phật ngợi khen, chúng ta cũng nên học theo hạnh khổ hạnh khó làm.’” Đức Phật dạy: “Lành thay! Đây thật là công hạnh lớn lao.”

Theo kinh Tăng Nhất A-hàm, trong Phật pháp việc thực hành 12 hạnh đầu đà là rất khó, mà tu hành khó nhọc [như vậy] thì ngài Đại Ca-diếp là bậc đệ nhất. Khi ngài tu hạnh đầu đà đã lâu, râu tóc mọc dài, y phục xấu rách, vừa đến chỗ Phật thì các tỳ-kheo khác nhìn thấy đều khởi tâm xem thường. Đức Phật gọi đến, nhường một nửa tòa ngồi, bảo ngài cùng ngồi, nhưng ngài Ca-diếp không dám nhận. Phật dạy: “[Sao lại không dám ngồi cùng ta?] Ta có Tứ thiền, khi thiền định thì tâm dừng nghỉ, từ khởi đầu cho đến kết thúc, tâm không hao tổn, ông cũng được như ta. Ta có lòng đại từ, thương yêu che chở tất cả [chúng sanh], ông cũng giống như ta, cũng đầy đủ lòng từ. Ta có lòng đại bi tế độ chúng sinh, ông cũng giống như vậy. Ta có bốn phép thần tam-muội, một là tam-muội vô hình, hai là tam-muội vô lượng ý, ba là tam-muội tích chứa thanh tịnh và bốn là tam-muội không thối chuyển, ông cũng giống như vậy. Ta có sáu phép thần thông, ông cũng giống như vậy. Ta có bốn phép định, một là thiền định, hai là trí định, ba là tuệ định, bốn là giới định, ông cũng giống như vậy.”

Kinh lại nói tiếp: “Có người bà-la-môn thưa với Phật: ‘Hôm qua có người bà-la-môn đến nhà con, đó là ai vậy?’ Phật chỉ ngài Ca-diếp. Người kia lại hỏi: ‘Vị sa-môn này đâu phải bà-la-môn?’ Đức Phật dạy: ‘Những pháp và luật của sa-môn, pháp và luật của bà-la-môn ta đều rõ biết, Ca-diếp cũng rõ biết.’”

[Đức Phật nói:] “Công đức của Ca-diếp so với ta chẳng khác, vì sao lại chẳng [dám] ngồi [chung với ta]?”

Các vị tỳ-kheo nghe Phật ngợi khen [Ca-diếp] như vậy đều kinh sợ trong lòng, lông tóc dựng lên. Phật liền kể lại nhân duyên ngày trước: “Thuở xưa có vị thánh vương hiệu Văn-đà-kiệt,[233] tài giỏi vô song. Thiên đế kính ngưỡng đức hạnh ấy liền cho 1.000 chiếc xe ngựa dàn thành cổng chào nghênh đón nhà vua. Thiên đế ra khỏi cung chờ đón, rồi cùng vua ngồi chung một chỗ. Sau khi chung vui rồi mới đưa tiễn nhà vua về cung. Xưa kia Ca-diếp [là Thiên đế] dùng tòa ngồi trong chốn sinh tử mời ta [là thánh vương Văn-đà-kiệt] cùng ngồi. Nay ta thành Phật nên dùng tòa ngồi Chánh pháp để đáp lại tấm lòng thuở xưa.” Ngài Ca-diếp ngồi xuống đối diện với Phật, hàng trời người thấy vậy đều cho rằng đó là thầy của Phật.[234]

Lại nữa, [có lần] ngài Ca-diếp cùng đi với ngài A-nan, thuyết pháp cho các tỳ-kheo-ni. Có một tỳ-kheo-ni không hài lòng nói rằng: “Thằng bé bán kim châm dám đến trước ông thầy châm cứu mà bán kim châm.” Ngài Ca-diếp liền bảo ngài A-nan: “Tỳ-kheo-ni này ví ông như thầy châm cứu, còn tôi như đứa trẻ bán kim châm.” Rồi ngài Ca-diếp nói với tỳ-kheo-ni ấy: “Phật thuyết trong kinh Nguyệt Dụ rằng, duy nhất chỉ có Đại Ca-diếp là mỗi ngày đều tăng trưởng sự học giống như người mới học, cô có nghe việc ấy chăng? Ở giữa đại chúng [được Phật] nhường cho một nửa tòa ngồi [để cùng ngồi với Phật], cô có nghe việc ấy chăng? Ở giữa đại chúng [Ca-diếp] được [Phật ngợi khen] công đức rộng lớn cũng đồng như Phật, cô có nghe việc ấy chăng? Làm sao một người như vậy [mà cô lại có thể ví như] đứa trẻ bán kim châm?”[235]

Do những việc như vậy nên được Phật ấn khả cho [danh xưng của ngài] là Đại [Ca-diếp].

Về địa vị [được xưng là] Đại, [ngài Ca-diếp] ở trong đại chúng được xưng là Đại, ở trong 1.250 vị [tỳ-kheo] được xưng là Đại, ở trong 500 vị [A-la-hán] được xưng là Đại, ở trong 4 đại đệ tử được xưng là Đại, là vị chủ trì tự viện của 5 núi, là bậc Thượng Tọa tri sự trong cõi Diêm-phù-đề, cho nên về địa vị gọi là Đại.

Sau khi trà-tỳ nhục thân Phật, chỗ tro tàn nơi ấy mọc lên 4 cây đa-la,[236] tượng trưng cho việc ngài Ca-diếp kết tập giáo pháp của Phật trong 3 a-tăng-kỳ kiếp, thành 3 tạng kinh điển, 4 bộ A-hàm.

Bài tựa của ngài Tăng Triệu nói rằng: “Chỗ cao tột của tông chỉ là dứt sạch sự ngợi khen, giảng giải. Bậc hiền thánh xem đó là hòa nhập vào tĩnh lặng. [Nhưng] tông chỉ sâu xa huyền diệu, nếu không dùng đến ngôn từ thì không thể truyền lại [cho đời sau]. Đức Thích-ca thiết lập giáo pháp, vì ước thúc hành vi và lời nói, ngăn phòng [việc xấu ác] nên dùng giới luật với các điều ngăn cấm; vì để phân biệt sáng tỏ những điều thiện ác, làm khuôn mẫu dẫn dắt [chúng sanh] nên dùng kinh điển; vì diễn giảng những chỗ sâu xa uyên áo tinh vi nên dùng [các luận giải vi diệu] biện biệt rõ các tướng của pháp.”[237] Đây chính là nói rõ về giới, định, tuệ trong Tam tạng [kinh điển].

Kinh Tăng Nhất A-hàm làm sáng tỏ lý nhân quả trong hai cõi trời, người. Kinh Trường A-hàm phá trừ tà kiến. Kinh Trung A-hàm làm sáng tỏ những ý nghĩa sâu xa. Kinh Tạp A-hàm giảng rõ về thiền định. [Lưu truyền được các bộ kinh này,] đều là do công lao của ngài Đại Ca-diếp. Nếu nói riêng về việc kết tập thì ngài A-nan tụng đọc lại Kinh tạng (Tu-đa-la), ngài Ưu-ba-ly tụng đọc lại Luật tạng (Tỳ-ni), ngài Ca-diếp tụng đọc lại Luận tạng (A-tỳ-đàm). Cho nên nói việc kết tập là lớn lao.

Sau khi Đức Như Lai viên tịch, Chánh pháp được giao phó cho ngài Ca-diếp. [Phật dạy rằng: “Ca-diếp] có thể vì tất cả [chúng sanh] làm chỗ nương tựa noi theo, cũng giống như Như Lai [còn tại thế]. Vì sao vậy? Nếu còn có người thực hành hạnh đầu đà khổ hạnh [như Ca-diếp] thì Chánh pháp của ta còn tồn tại. Nếu không có người như thế thì Chánh pháp không tồn tại. Ca-diếp có thể gánh vác Phật pháp, khiến cho được trụ thế lâu dài, cho đến khi đức Phật vị lai ra đời để giao phó Chánh pháp, trao lại y [của Phật], xong việc rồi sau đó mới nhập diệt.” Cho nên nói việc giữ gìn Chánh pháp là lớn lao.

Ngài Ca-diếp khi sắp [vào núi] ẩn mình liền hiện lên cõi trời đảnh lễ tóc Phật [được thờ ở đó] rồi vì chư thiên thuyết pháp, dạy rằng:

Làm thiện sinh cõi trời,

Làm ác đọa lạc sâu.

Năm dục chẳng thường còn,

Như sương đọng trên hoa,

Nắng lên liền tan biến.

Thuyết giảng như vậy rồi từ biệt, chư thiên buồn khóc, than rằng:

Khốn khổ buồn lo cùng quẫn,

Đớn đau ốm yếu gầy còm,

Nghèo khổ cô độc chơ vơ,

Tôn giả xót thương che chở.

Nay ngài xả thân diệt độ,

Còn ai chở che, bảo bọc?”

[Ý nghĩa danh xưng “Đại Ca-diếp”] đại lược là như vậy.

Giải thích về hạnh đầu đà

Lược theo giáo nghĩa giải thích rõ về hạnh đầu đà,[238] gồm 12 sự nỗ lực vượt trội.[239] Đó là nói kẻ tham muốn mong cầu y tốt là khổ. Khi được y thì nhiều nỗi lo lắng sợ sệt, khi mất y thì sinh ra buồn rầu khổ não. Người mặc y phấn tảo[240] thì không có 5 mối lo sợ [mất y] như: bị nước trôi, bị lửa cháy, bị trộm, bị cướp, bị vua quan tịch thu. Nếu tích chứa nhiều y thì khổ nhọc cũng nhiều vì những việc giặt giũ, khâu vá, cắt sửa. Cho nên [người tu hành] chỉ có 3 y. Nếu ở trong chúng mà ăn [của tăng chúng] thì phải giúp vào phục vụ việc chung, nên chỉ đi khất thực [để sống]. Nếu ăn rồi còn ăn thêm nữa,[241] ăn nhiều bữa vặt thì lăng xăng nhiễu động, mất nhiều thời gian, nên mỗi ngày chỉ ăn một bữa, đã ăn xong thì không ngồi xuống ăn nữa. Ăn quá no thì khó tiêu hóa, sinh ra buồn ngủ và lười biếng; ăn quá ít thì đói gầy mất sức, cho nên phải ăn uống tiết chế vừa đủ. Dùng nhiều bát đĩa phải mất nhiều công rửa sạch càng thêm chướng ngại [sự tu tập], nên chỉ ăn trong một bình bát. Tham cầu các loại nước uống khiến tâm lăng xăng loạn động, nên [sau bữa ăn] không uống nước.[242] [Ngủ nghỉ trong] phòng ốc sẽ sinh tâm bám chấp, nên [ngủ nghỉ] dưới gốc cây. Dưới gốc cây cũng sinh bám chấp, nên ngủ nghỉ nơi bãi tha ma. Nơi bãi tha ma lại bị những sự bi thương buồn khổ gây chướng ngại [sự tu tập] nên [ngủ nghỉ nơi] đồng trống. Nằm thì tiêu hao công đức, tăng thêm sự lười nhác, cho nên chỉ thường ngồi.

[Trong 12 hạnh đầu đà như kể trên,] có 2 điều là phép tắc dùng y phục, 6 điều là phép tắc ăn uống và 4 điều là về chỗ ngủ nghỉ.[243]

Hãy lược nói qua về việc khất thực để hiểu rõ về hạnh đầu đà. Lúc đi khất thực [cũng có thể mắc lỗi lầm], nếu dễ dàng có được thức ăn thì sinh tâm vui mừng, nếu khó khăn mới có được thì sinh ra bực tức, sân hận; nếu được món ngon thì thích ý, gặp món dở thì buồn phiền. Tâm buồn lo hay vui thích ấy do nơi hình sắc [bên ngoài] mà khởi lên, tức là sắc ấm. Nhận lấy những buồn lo, vui thích ấy là thọ ấm. Bám chấp nơi tướng buồn lo, vui thích ấy là tưởng ấm. Buồn lo, vui thích ấy chính là hành ấm. Phân biệt những sự buồn lo, vui thích, ấy là thức ấm. Buồn lo, vui thích ấy là gồm cả ý và pháp, hai việc ấy thành ra 2 nhập [trong 6 nhập, với thức ở giữa thành ra] 3 giới [trong 18 giới]. Ấm, nhập và giới tức [hình thành] Khổ đế.

Thấy mình có thể đi khất thực, liền khởi tâm chấp mình là ngã, [phân biệt với] không phải ngã; cho việc khất thực là đạo, là chân thật, suy xét như vậy thì tán thán niềm vui, chê ghét sự sân hận, thường bị trách mắng tức sinh lòng nghi, [đối với sự việc] không rõ biết ấy là si... [Những kiến chấp, tham, sân, si, mạn...] ấy chính là thập sử. Xét qua Tứ đế trong Tam giới thì gồm đủ Bát thập bát sử (88 phiền não kết sử),[244] gọi là Tập đế.

Nếu rõ biết được trong pháp khất thực có 4 sự điên đảo, tương tợ như nhau, tương tục không ngừng che lấp nên cho là thường, được khi thích ý cho là lạc (vui), cử động đi lại vì [si mê] che lấp mà cho là ngã, [thân bất tịnh] có lớp da mỏng che đậy lại cho là tịnh. Thấu suốt được bốn sự che lấp ấy, không còn bốn điên đảo,[245] tinh tấn chuyên cần ngăn hai việc ác, sinh hai việc thiện,[246] tu tập tứ định, [ngũ] căn, [ngũ] lực, [các] giác đạo.[247] Đây chính là Đạo đế.

Trong khi khất thực không thấy có tự ngã thì si mê diệt. Si diệt nên tham ái diệt. Tham ái diệt nên sân hận diệt. Sân diệt nên không tự đề cao mình, do đó kiêu mạn diệt. Kiêu mạn diệt rồi nên khi bị trách mắng không sinh lòng nghi. Không thấy có tự ngã nên diệt được ngã kiến. Ngã kiến diệt nên biên kiến diệt. Không bám chấp [việc khất thực] là đạo nên giới thủ diệt, không cho [việc khất thực] là chân thật nên kiến thủ diệt, không bám chấp tà vạy nên diệt được tà kiến. [Tham, sân, si, mạn... cho đến giới thủ kiến, kiến thủ kiến,] thập sử đều diệt nên Bát thập bát sử (88 kết sử phiền não) [trong Tam giới] đều diệt. Bát thập bát sử đã diệt nên sự trói buộc bởi sự chết cũng diệt. Trói buộc nơi sự chết đã diệt nên trói buộc với [nghiệp] quả cũng diệt. Trói buộc nơi nghiệp quả đã diệt nên 25 cảnh giới hiện hữu[248] đều diệt. Đây chính là Diệt đế.

Nếu trong việc khất thực mà không thấy biết được Tứ chân đế[249] thì phải lưu chuyển lâu dài trong biển khổ sinh tử mênh mông. Nếu có thể thấy biết Tứ đế thì trừ dứt được sinh tử. Sinh tử đã dứt rồi thì không còn phải thọ [sanh] trong các cảnh giới hiện hữu. Đó là dùng trí tuệ quán xét trong hạnh đầu đà khất thực. Trong các hạnh đầu đà về y phục, đầu đà về trụ xứ cũng đều [quán xét] giống như vậy. Đây là giảng giải về hạnh đầu đà theo Tạng giáo.

Theo Thông giáo giảng giải về hạnh đầu đà thì duyên theo chân thật để chứng tịch tịnh là [hạnh đầu đà] trụ xứ, trí tuệ rõ biết tánh không là [hạnh đầu đà] khất thực, giữ tâm không trong mọi hành vi là [hạnh đầu đà] y phục. Thường thấy tánh không, khi không thấy gì không là tánh không thì hạnh đầu đà trí tuệ Không ấy thấy hết thảy đều như huyễn hóa, hết thảy vọng tưởng, các niệm xấu ác đều vắng lặng không còn sinh khởi, cho nên các pháp tâm và tâm sở đều không hiện hành. Do không gì có thể nắm bắt nên trong các pháp tương ưng thì tương ưng Không là cao trổi hơn hết, trong các pháp khổ hạnh thì hạnh Không là cao trổi hơn hết, trong các pháp đầu đà thì đầu đà trí tuệ Không là cao trổi hơn hết. Đó là lược nói về hạnh đầu đà [theo Thông giáo].

Giảng giải về hạnh đầu đà theo Biệt giáo thì nương theo pháp thân là [hạnh đầu đà] trụ xứ, trí tuệ Bát-nhã là [hạnh đầu đà] khất thực, hết thảy mọi hành vi đều trang nghiêm là [hạnh đầu đà y phục] ngăn che. Đầu đà [y phục] ngăn che cái xấu của nghiệp ác, đầu đà [khất thực] Bát-nhã ngăn che cái xấu của phiền não, đầu đà [trụ xứ] Pháp thân ngăn che cái xấu của khổ não sinh tử. Hạnh đầu đà trước [chấp nhận] nghiệp khổ phiền não phần đoạn, hạnh đầu đà tiếp theo [chấp nhận] nghiệp khổ phiền não biến dịch.[250] Đây là quán xét hạnh đầu đà chân chánh theo Trung đạo, vượt hơn tất cả những sự hành trì khổ hạnh của hàng Nhị thừa. Đại lược là như vậy.

Giải thích về hạnh đầu đà theo Viên giáo thì [hạnh đầu đà] trụ xứ cũng tức là hạnh đầu đà về y phục, cũng tức là hạnh đầu đà khất thực, vốn chỉ là một pháp, phân biệt nói thành ba. Một hạnh đầu đà là hết thảy các hạnh đầu đà, tất cả các hạnh đầu đà là một hạnh đầu đà, không phải một, không phải tất cả. Đối với hết thảy các hạnh đầu đà không gì là không phải thật tướng. Hết thảy việc làm của chư Phật đều là hạnh Như Lai, vượt qua chỗ hành trì thanh tịnh của chư Bồ Tát. Đại lược là như vậy.

Giải thích về hạnh đầu đà theo bản tích thì ban sơ vốn cùng ngồi với Như Lai, rốt ráo nơi lẽ không, cùng được pháp thân rộng lớn, cùng được trí tuệ không ngăn ngại, cùng được công đức vô lượng; trong buông xả mọi pháp ái nhiễm, ngoài không có cáu bẩn nhiễm ô. Các pháp đầu đà vốn dĩ trong ngoài đều tự thanh tịnh, vì muốn dẫn dắt [chúng sinh sơ cơ, như giới thiệu] mùi vị sữa (nhũ), nên [thị hiện] các hạnh đầu đà trong hành sự. Tiếp theo vì dẫn dắt [chúng sinh đi xa hơn, như giới thiệu] mùi vị sữa đặc (lạc), nên [thị hiện] các hạnh đầu đà quán Không. Tiếp nữa vì dẫn dắt [chúng sinh đi xa hơn, như giới thiệu] mùi vị váng sữa sống (sinh tô), nên thị hiện các hạnh đầu đà theo Biệt giáo. Lại tiếp theo nữa vì dẫn dắt [chúng sinh đi xa hơn, như giới thiệu] mùi vị váng sữa chín (thục tô), nên thị hiện các hạnh đầu đà theo Viên giáo.

Giải thích hạnh đầu đà theo quán tâm thì quán Không thấy các hạnh đầu đà là chấp giữ tướng, quán giả tạm thấy các hạnh đầu đà như cát bụi không thật, quán Trung đạo thấy các hạnh đầu đà là vô minh, quán nhất tâm thấy năm trụ phiền não... Đại lược là như vậy.

Ba vị Ca-diếp

[Danh xưng] Ca-diếp (Kāśyapa) như trước đã giải thích. [Ba anh em Ca-diếp gồm có] ngài Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp (Uruvilvā-kāśyapa), cũng được đọc là Ưu-lâu-tỳ (優樓毘), hoặc cũng đọc là Ưu-vi (優為), dịch nghĩa là Mộc Qua Lâm;[251] ngài Na-đề Ca-diếp (Nadī-kāśyapa), dịch nghĩa là Hà hoặc Giang;[252] ngài Già-da Ca-diếp (Gayā-kāśyapa), cũng đọc là Kiệt-di, dịch là Tượng (象), cũng dịch là Thành (城), vì nhà ngài ở phía nam thành Vương Xá, cách 7 do-tuần.

Vào thời đức Phật Tỳ-bà-thi, [ba người] cùng nhau dựng trụ tháp thờ Phật,[253] do nhân duyên đó [nên sinh ra] làm anh em một nhà. Người anh [cả] là thầy của vua Bình Sa,[254] có 500 đệ tử, hai người em mỗi người có 250 đệ tử, cùng tu hành theo giáo pháp của người anh. Đức Phật [vì muốn hóa độ nên] thị hiện 10 pháp biến hóa như là: không trúng độc của rồng, rồng phun lửa không đốt cháy được, nước dâng không chìm, hái quả từ ba hướng [đông, tây, nam] trong khi hướng bắc cắt lúa, lấy nước cam lồ từ cõi trời Đao Lợi, rõ biết những việc ẩn khuất trong quá khứ, biết rõ những ý niệm [của người khác] trong hiện tại và tương lai, [làm cho] lửa tắt không thể cháy lên được, [làm cho kẻ] đưa búa lên không thể hạ xuống được, và hiện ra rất nhiều điềm lành. Tuy nhìn thấy đủ các sự biến hóa như vậy [nhưng Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp vẫn] bám chấp tà kiến không chịu hối cải nên nói rằng: “Cù-đàm tuy có thần thông nhưng không thể sánh bằng đạo chân thật của ta.” Đức Phật liền bảo: “Ông chẳng phải A-la-hán, cũng không hề đắc đạo.” [Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp nghe nói vậy] hốt nhiên tỉnh ngộ, tất cả thầy trò đều quy phục theo Phật. Hai người em thấy vậy liền [dẫn theo các đệ tử cùng về] quy y với Phật, tổng cộng thành 1.000 vị tỳ-kheo.

Theo giáo nghĩa thì như trong kinh Tăng Nhất A-hàm có nói rằng: “Ngài Ưu-lưu-tỳ[255] là bậc dẫn đầu trong việc giúp đỡ hộ trì bốn chúng,[256] cung cấp bốn sự thiết yếu[257] không để cho thiếu thốn. Tỳ-kheo Na-đề thì tinh tấn bậc nhất, tâm ý vắng lặng an nhiên, hàng phục được hết thảy phiền não kết sử. Tỳ-kheo Già-da là bậc đứng đầu trong việc quán xét rõ các pháp, hết thảy đều không vướng mắc, thường khéo léo giáo hóa người khác.

Giải thích như trên là giáo pháp [dẫn dắt], giống như vị sữa đặc (lạc). Nếu tiến thêm một bước, giống như vị váng sữa sống (sinh tô), suy theo lệ thường thì biết, ắt phải xem nhẹ Tiểu thừa, hâm mộ Đại thừa. Lại nếu tiến lên bước nữa, giống như vị váng sữa chín (thục tô), ắt phải nương theo nghiệp mà nhận hiểu giáo pháp. Nếu tiến lên một bước cao hơn nữa, như vị đề-hồ,[258] tức là [tầng bậc] như trong kinh [Pháp hoa] này nói là được thụ ký thành Phật.

Giải thích theo nghĩa bản tích thì trụ ở ba đức. [Ngài Ưu-lâu-tần-loa là] rừng (Lâm), tức là Bát-nhã, [ngài Già-da là] thành tức là pháp thân, [ngài Na-đề là] nước (Hà), tức là giải thoát. Đây chính là kho tàng căn bản bí mật, mà dấu tích biểu hiện là dựa vào [ba yếu tố] “rừng, thành, nước” như trên để hóa độ chúng sinh.

Giải thích theo nghĩa quán tâm thì chân chánh quán xét tâm tánh, theo Trung đạo chẳng lay động giống như thành ngăn quân địch; chẳng động mà động giống như nước làm sạch các bờ điên đảo, mưa nắng hai mùa soi chiếu như rừng cây sầm uất.[259] Ba tướng pháp ấy hỗ tương cho nhau nên gắn kết thành anh em một nhà.

Xá-lợi-phất

Xá-lợi-phất (Śāriputra), nói đầy đủ là Xá-lợi-phất-la, Hán dịch là Thân Tử, cũng dịch xá-lợi là châu ngọc. Mẹ ngài khi còn trẻ vốn đã thông minh, tướng thông minh ấy hiện ra nơi đôi mắt đẹp như châu ngọc, nên sinh con ra gọi tên là Châu tử. Lại cũng dịch [tên ngài là] là Thân vì người mẹ có thân hình đẹp, nên sinh con ra gọi là Thân tử.[260] Người thời bấy giờ dùng tên con để nêu danh mẹ nên gọi như vậy. Lại có tên do người cha đặt là Ưu-ba-đề-xá (Upatiṣya), hoặc cũng gọi là Ưu-ba-thế, Hán dịch là Luận nghĩa. [Cha ngài] nhờ việc luận nghĩa mà cưới được vợ, nên sinh con ra đặt tên là Luận, đó là để nêu đức tốt của cha.

Luận giải nói rằng: “Ta tên là Đề-xá nên noi theo tên ta mà đặt tên con là Ưu-ba-đề-xá.” Ưu-ba dịch nghĩa là noi theo, đề-xá là tên một ngôi sao.

Lại nữa, [trong tên gọi Xá-lợi thì] Xá là nêu tên cha, Lợi là nêu tên mẹ. Vì muốn nêu tên cả cha lẫn mẹ nên gọi là Xá-lợi-phất, vì chữ Phất nghĩa là con. Họ của ngài là Câu-lật-đà, thuộc chủng tộc Bà-la-môn.

Trong kinh Tăng Nhất A-hàm, [Phật] nói: “Trong Phật pháp của ta, [nếu xét về] trí tuệ mênh mông không giới hạn, dứt hết được mọi sự nghi ngờ thì Xá-lợi-phất là bậc nhất.”

Thuở xưa, theo Sinh kinh[261] nói rằng, trong quá khứ có hai cậu cháu đều là thợ dệt, biết rõ về kho tàng của nhà vua nên nhân đó đào đường hầm xuyên dưới đất để lẻn vào, lấy trộm được rất nhiều châu báu. Người giữ kho [phát hiện châu báu bị mất] liền tâu lên vua. Vua nói: “Đừng nói ra việc này, kẻ trộm thế nào cũng quay lại, hãy âm thầm rình bắt nó.”

[Hai cậu cháu không biết việc đã bại lộ nên quay lại trộm nữa.] Người cháu bảo cậu chui ngược vào đường hầm, [đưa chân vào trước], liền bị quân canh tóm được. Người cháu sợ bị người của vua nhận biết nên [ở phía sau] chặt lấy đầu người cậu mang chạy đi mất, [quân canh chỉ giữ được thi thể không đầu].

Nhà vua ra lệnh đem thi thể người chết [không có đầu] đặt ở ngã tư đường để dụ người thân tìm đến [thì bắt]. Người cháu chờ khi khách buôn tấp nập đông đúc ở nơi ấy thì đưa hai xe củi khô chen vào, đi ngang qua đổ củi lên phủ lấp tử thi.

Vua lại cho người rình rập canh giữ chung quanh, [đợi kẻ nào đến nổi lửa thiêu xác thì bắt]. [Người cháu thuê] một đám trẻ con cầm đuốc chơi đùa nhảy múa quanh đó rồi ném đuốc vào, thiêu được xác.

[Vua lại lệnh người canh giữ cẩn mật, chờ có kẻ đến lấy tro cốt thì bắt.] Người cháu giả làm người đi đường mang rượu ngon đặt quanh đó, đợi quân canh uống rượu say thì lẻn đến dùng bình đựng rượu hốt lấy tro cốt đi mất.

Vua [không bắt được kẻ trộm] giảo hoạt, liền nghĩ cách cho một người con gái đẹp đến ở trong căn phòng bên bờ sông, dặn trước là khi có người tìm đến phải nắm chặt lấy và la lên, [rồi cho quân canh phòng quanh đó chờ bắt]. [Người cháu liền núp bên dưới] một gốc cây khô rồi thả trôi đến gần. Quân canh phòng nghi là có người liền đến xem thì chỉ thấy gốc cây khô nổi. Qua nhiều ngày liên tiếp đều như vậy nên lơ là không chú ý nữa. Người cháu nhân đó [rời khỏi gốc cây khô] vào phòng người con gái đẹp. [Trong lúc gần nhau, cô gái nhớ lời vua dặn liền nắm giữ chặt tay áo người cháu. [Người cháu đã tính toán trước nên mang theo một] cánh tay người chết, lúc đó tráo sang cho người con gái nắm lấy rồi thoát ra được mà trốn đi. Khi ấy cô gái mới la to lên gọi người đến bắt, hóa ra chỉ đang nắm giữ một cánh tay người chết.

[Sau lần đó, cô gái mang thai] rồi sinh ra một đứa bé trai khôi ngô tuấn tú. Nhà vua liền ra lệnh cho người nuôi trẻ bồng đứa bé đi ra ngoài, dặn có ai quan tâm đến thì bắt giữ. Đi tiếp mấy ngày [chẳng gặp ai,] vừa đói vừa khát, đến chỗ một lò nấu bánh, người [cháu chính là người thợ] làm bánh, lấy bánh đưa cho đứa trẻ mà nựng nịu. [Hôm sau] vua ra lệnh mang đứa trẻ đi ra ngoài đến đó lần nữa. Người cháu dùng rượu ngon chuốc cho những người canh giữ uống đến say khướt rồi bồng đứa bé trốn ra khỏi nước.

[Vua] nước làng giềng xem trọng người nhiều mưu kế nên phong làm đại thần, lại muốn gả con gái cho, nhưng người cháu không nhận, xin với đức vua giúp sang hỏi cưới con gái vua nước mình. Vua nước ấy liền nhận người cháu làm con rồi mới sang hỏi cưới con vua lân quốc, được vua thuận hứa gả cho. [Lúc đưa sính lễ sang, vua nhận ra những châu báu bị mất trước đây] nên nghi là kẻ trộm ngày trước. Người cháu dùng đến 500 người cưỡi ngựa y phục giống hệt như nhau để đi đón dâu. Khi gặp mặt, nhà vua liền gặng hỏi thì quả đúng là kẻ trộm trước đây. Vua thán phục là người đa mưu túc trí, [nên vẫn chấp nhận] gả con gái cho. Người cháu ấy nay là Xá-lợi-phất, còn người cậu nay là Điều-đạt[262]... Đại lược là như thế.

Kể về giai đoạn nhập thai. Cha ngài là Ưu-ba-đề-xá học tinh thông kinh điển thư tịch, dùng lá sắt mỏng quấn quanh bụng, đầu đội mũ trên có ngọn đèn,[263] một mình đi vào thành Vương Xá đánh trống thách người tranh luận. Quốc sư Đà-la tự biết người phô bày như thế không nên cùng tranh luận, khi thấy ông tranh luận khuất phục được tất cả liền đem con gái gả cho làm vợ, [tức là mẹ ngài Xá-lợi-phất].

Mẹ ngài một hôm mộng thấy một người, thân mang giáp trụ, tay cầm chày kim cang đập nát hết các ngọn núi, cuối cùng chỉ còn lại một ngọn liền đến đứng bên cạnh. Khi tỉnh mộng cảm thấy thân thể nặng nề, liền đem việc ấy hỏi cha ngài. Cha ngài bảo: “Bà đã mang thai rồi. [Đứa con này về sau] sẽ thắng hết tất cả luận sư, chỉ không thắng được một người nên sẽ làm đệ tử của vị ấy.”

Người cậu, em của mẹ ngài, tên Câu-hy-la, khi tranh luận thường thắng chị, nhưng khi người chị mang thai thì luôn thắng được em. Người em tự nghĩ, đây không phải năng lực của chị mình, ắt là do đang mang thai một người có trí tuệ nên khiến cho người mẹ tranh biện được vậy. Nay ở trong thai mà còn vậy, huống chi sau này khi sinh ra, [làm sao ta có thể thắng được nó? Nghĩ vậy rồi liền] sắp xếp việc gia đình, đi du học khắp nơi, nỗ lực đến mức không có thời gian rảnh để cắt móng tay. Do vậy người thời bấy giờ gọi ông là Phạm chí Trường Trảo, [nghĩa là ông Phạm chí móng tay dài]... [Chuyện về giai đoạn trong thai của ngài Xá-lợi-phất] đại lược là như vậy.

[Thuở ấy] có hai vị long vương là Nan-đà và Bạt-nan-đà thường hộ trì thành Vương Xá, giúp mưa thuận gió hòa, trong nước không bị đói thiếu, đức vua và thần dân mỗi năm đều mở đại hội [ăn mừng], bên trên thiết lập ba tòa ngồi cao, một dành cho đức vua, một dành cho thái tử và một dành cho luận sư. Ngài Xá-lợi-phất năm ấy mới 8 tuổi, đến tham dự đại hội, thấy ba tòa ngồi trên cao liền dọ hỏi, có người trả lời cho biết như vậy. Ngài liền vượt qua hết thảy mọi người để trèo lên tòa của luận sư mà ngồi. Các luận sư dự hội đều xấu hổ không muốn ra tranh luận, vì nếu thắng một đứa bé cũng chẳng vinh dự gì, mà nếu thua thì thật là nỗi nhục quá lớn. Do vậy, mỗi người đều đặt câu hỏi rồi sai người hầu của mình mang đến chất vấn. Tất cả những câu hỏi đều được [ngài Xá-lợi-phất] trả lời và giải thích sâu rộng hơn nữa. Cho đến khi hết thảy mọi luận sư dự hội đều hạ cờ khuất phục, không còn ai dám chất vấn nữa. Đức vua và tất cả nhân dân đều hết sức vui mừng khen ngợi, cho rằng đất nước gặp vận thái bình nên mới có bậc hiền trí ra đời.

Đến năm 16 tuổi thì ngài Xá-lợi-phất đã nghiên cứu hết tất cả kinh điển thư tịch trong cõi Diêm-phù-đề, không có việc gì không thông thuộc, thông kim bác cổ, diễn thuyết hết thảy mọi việc đều sâu xa uyên áo, trong 16 nước lớn không còn ai có thể tranh luận ngang tài, trở thành [luận sư] bậc nhất trong khắp năm vùng Thiên Trúc.[264]

Ngài theo học với thầy là Phạm chí Sa-nhiên,[265] hết thảy đạo lý phương thuật đều học được. Thầy có 250 đệ tử, tất cả đều dựa vào ngài Xá-lợi-phất mà được thành tựu. Khi Sa-nhiên sắp chết bỗng hân hoan nở nụ cười, ngài Xá-lợi-phất thưa hỏi, ông đáp rằng: “Người thế tục không có mắt, lấy sự ân ái làm thân thiết. Ta nhìn thấy vua nước Kim vừa chết, phu nhân của vua đâm đầu vào đống lửa chết theo, nguyện được cùng sinh về một chỗ với nhau.” Phạm chí Sa-nhiên nói như vậy rồi liền mạng chung.

Về sau, [ngài Xá-lợi-phất] gặp thương nhân người nước Kim, hỏi ra quả đúng [có sự việc] như vậy, liền hối tiếc là chưa học được hết phương thuật của thầy, có lẽ vì mình không phải người thích hợp nên thầy còn che giấu. Ngài tự biết mình chưa thông đạt nên vẫn có lòng mong cầu pháp thù thắng, nhưng không còn ai để có thể theo học được nữa. Tuy không đạt được pháp như vậy nhưng hết thảy các pháp khác ngài đều thông suốt, là bậc cao trổi nhất trong chúng ngoại đạo [lúc bấy giờ].

[Một hôm], trên đường đi ngài gặp tỳ-kheo Át-bệ[266] dáng vẻ uy nghiêm chững chạc, nhân đó liền hỏi [ngài Át-bệ] giáo pháp nào ông đã học được với thầy. Át-bệ [đọc kệ] trả lời rằng:

Các pháp từ duyên sinh,

Cho nên nói nhân duyên.

Pháp cũng do duyên diệt,

Thầy ta dạy như vậy.

Ngài Xá-lợi-phất vừa nghe qua liền chứng quả Tu-đà-hoàn. [Sau đó] tìm đến chỗ Phật, trải qua 7 ngày liền thông đạt hết Phật pháp sâu thẳm như biển lớn. Lại nói, sau 15 ngày ngài chứng quả A-la-hán. [Ngài được đức Phật giao cho làm] hòa thượng dẫn dắt La-hầu-la, làm thầy của ngài Kiều-phạm-ba-đề. Trong chúng Thanh văn, ngài là đệ tử luôn đứng hầu bên phải đức Phật.

Khi Đề-bà-đạt-đa phá hoại Tăng đoàn, dẫn 500 tỳ-kheo bỏ đi, ngài Xá-lợi-phất là người đến giáo hóa đưa 500 vị này quay về... Đại lược là như vậy.

Về chuyện đấu sức thần thông với Lao Độ Sai,[267] [đệ tử của ngoại đạo]. Khi Độ Sai hóa ra một cái hồ trong có đủ các loại hoa thì Xá-lợi-phất hóa ra một con voi lớn nhổ hoa phá nát hồ. Độ Sai lại hóa làm quỷ dạ-xoa thì Xá-lợi-phất hóa làm Thiên vương Tỳ-sa-môn [khiến quỷ dạ-xoa khiếp sợ]... Với đủ cách biến hóa khác nhau, Xá-lợi-phất đều vượt trội, Độ Sai chịu khuất phục.

Kinh Trung A-hàm nói rằng, Xá-lợi-phất là người mẹ sinh ra bốn chúng, Mục-kiền-liên là người mẹ dưỡng nuôi... Đại lược là như vậy.

Kinh Trung A-hàm, quyển 2,[268] kể rằng: Các vị tỳ-kheo an cư ở Sinh xứ[269] [khi đến lễ Phật] đều khen ngợi xưng tán ngài Mãn Từ tử[270] là người [tự mình có đủ các pháp] ít ham muốn, biết đủ, tinh tấn, sống nơi vắng vẻ, nhất tâm, chánh niệm, trí tuệ, vô lậu, lại cũng khuyến khích người khác và giảng thuyết về các pháp ấy.

Lúc bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất nghe như vậy tự nghĩ, biết bao giờ ta mới được gặp vị ấy, biết bao giờ vị ấy mới đến chỗ Phật?

[Ngài Xá-lợi-phất liền hỏi các vị tỳ-kheo về ngài Mãn Từ tử,] có vị tỳ-kheo nói cho biết rằng: “Thầy ấy là người có nước da trắng, mũi cao như mỏ chim anh vũ.”[271] [Ngài Xá-lợi-phất liền ghi nhớ như vậy.]

Sau đó, nơi rừng An-đà (Jeta), Hán dịch là Thắng lâm,[272] hai người có dịp gặp nhau [nhưng chưa hỏi tên]. Ngài Xá-lợi-phất thưa hỏi rằng: “Thưa hiền giả! Có phải hiền giả theo đức Cù-đàm (Gotama) tu Phạm hạnh chăng?”[273] Đáp: “Đúng vậy.”

Lại hỏi: “Có phải hiền giả vì muốn được giới thanh tịnh mà tu Phạm hạnh chăng?” Đáp: “Không phải.”

[Lại hỏi:] “Vậy có phải hiền giả vì muốn làm thanh tịnh tâm, hoặc làm thanh tịnh tri kiến, hoặc làm cho sự nghi ngờ ngăn che được thanh tịnh, hoặc làm cho những gì thuộc về đạo và không phải đạo đều được thanh tịnh, hoặc làm cho tri kiến về dấu vết của đạo được thanh tịnh, hoặc làm cho sự đoạn dứt tri kiến về dấu vết của đạo được thanh tịnh, vì [bảy điều] như thế mà tu Phạm hạnh chăng?”[274] Đáp: “Cũng không phải.”

Lại hỏi rằng: “Hiền giả! Tôi đã thưa hỏi [bảy điều] như trên, hiền giả đều nói là không phải. Vậy là ý nghĩa thế nào?”

[Ngài Mãn Từ tử] đáp: “Tôi vì hướng đến Niết-bàn vô dư nên mới tu Phạm hạnh.”

[Ngài Xá-lợi-phất lại hỏi: “Vậy có phải vì giới thanh tịnh [mà đức Thế Tôn] thiết lập Niết-bàn vô dư chăng?” Đáp: “Không phải.”

[Lại hỏi:] “Vậy có phải vì [tâm thanh tịnh...] cho đến vì sự đoạn dứt tri kiến về dấu vết của đạo được thanh tịnh mà thiết lập Niết-bàn vô dư chăng?” Đáp: “Cũng không phải.”

[Ngài Xá-lợi-phất] lại hỏi: [“Thưa hiền giả! Tôi đã hỏi [bảy điều] như trên, hiền giả đều nói là không phải. Vậy là ý nghĩa thế nào?”

[Ngài Mãn Từ tử đáp: “Nếu vì giới thanh tịnh mà thiết lập vô dư thì đó là dùng hữu dư để giảng nói vô dư... Cho đến nếu vì sự đoạn dứt tri kiến về dấu vết của đạo được thanh tịnh mà thiết lập vô dư cũng là dùng hữu dư để giảng nói vô dư. Nếu [đức Thế Tôn] lìa bỏ bảy pháp này [mà thiết lập Niết-bàn vô dư] thì dù phàm phu cũng sẽ chứng Niết-bàn, bởi vì phàm phu vốn lìa bảy pháp này. [Thưa hiền giả!] Nhờ giới thanh tịnh nên tâm được thanh tịnh, [nhờ tâm thanh tịnh nên tri kiến được thanh tịnh...] cho đến sự đoạn dứt tri kiến về dấu vết của đạo được thanh tịnh.

“Xin hiền giả hãy nghe tôi nói một thí dụ, như vua Ba-tư-nặc [có việc gấp] muốn đi từ [thành Xá-vệ nước] Câu-tát-la đến Bà-kê-đế [chỉ trong một ngày], nên trên suốt chặng đường liền bố trí bảy chiếc xe. Vua đi xe thứ nhất đến chỗ xe thứ hai, bỏ xe thứ nhất lên xe thứ hai... [tuần tự đi như vậy] cho đến bỏ xe thứ sáu lên xe thứ bảy. [Nhờ vậy có thể đi nhanh trong một ngày đến được Bà-kê-đế].[275] Người ở Bà-kê-đế hỏi vua: ‘Có phải vua đi xe thứ nhất đến chăng?’ Đáp: ‘Không phải.’ Cho đến hỏi rằng: ‘Có phải vua đi xe thứ bảy đến chăng?’ Vua cũng đáp rằng: ‘Không phải.’ Lại hỏi rằng: ‘Có phải vua lìa bỏ cả bảy xe [mà đến được] chăng?’ [Vua] đáp: ‘Cũng không phải.’ Thí dụ này có thể làm rõ câu hỏi [của hiền giả].”[276]

Ngài Xá-lợi-phất lại hỏi: “Hiền giả tên là gì? Những người tu Phạm hạnh gọi tên ngài như thế nào?”

Đáp rằng: “Tôi tên Mãn,[277] mẹ tôi tên Từ, nên những người tu Phạm hạnh gọi tôi là Mãn Từ tử.”

Ngài Xá-lợi-phất liền xưng tán: “Lành thay! Hiền giả Mãn Từ tử, đệ tử của đức Như Lai, có trí tuệ biện tài, thông minh quyết định, an ổn không sợ sệt, đạt đại biện tài, dựng cờ Chánh pháp, đối với Chánh pháp đã tự tác chứng. Được gặp hiền giả thật là lợi ích lớn lao. Những người tu Phạm hạnh nên tôn kính quấn y đội đầu lễ bái hiền giả.”[278]

Ngài Mãn Từ tử liền hỏi: “Hiền giả tên là gì? Những người tu Phạm hạnh gọi tên ngài như thế nào?”

Ngài Xá-lợi-phất đáp: “Tôi tên Ưu-ba-đề-xá,[279] mẹ tôi tên Xá-lợi, nên mọi người gọi tôi là Xá-lợi tử.”

Ngài Mãn Từ tử xưng tán rằng: “Ồ, nay tôi được cùng với đệ tử đức Thế Tôn luận bàn mà không biết, cùng với bậc trí tuệ chỉ đứng sau đức Thế Tôn luận bàn mà không biết, cùng với vị tướng quân trong Chánh pháp luận bàn mà không biết, cùng với vị đệ tử thay Phật trùng chuyển pháp luân mà không biết. Nếu tôi biết đây là Tôn giả [Xá-lợi-phất] thì chỉ một câu cũng không dám đối đáp, huống chi lại dám luận bàn sâu xa! Lành thay, lành thay! Ngài là đệ tử của đức Như Lai, Những người tu Phạm hạnh nên tôn kính quấn y đội đầu lễ bái hiền giả.”[280] Đại lược là như vậy.

Khi Phật thuyết pháp nói ra một câu, ngài Xá-lợi-phất có thể dùng một câu ấy làm căn bản, thuyết giảng hùng hồn như tiếng sư tử hống trong suốt bảy ngày bảy đêm, diễn giải thành nhiều câu khác, nhiều ý nghĩa khác, cho đến vô cùng tận. Huống chi Phật thuyết giảng rất nhiều, nên biện tài trí tuệ của ngài Xá-lợi-phất thật không thể cùng tận.

Trong kinh [Tăng nhất] A-hàm, quyển 29[281] chép rằng: “Khi Phật ở tại ao A-nậu-đạt, Long vương thưa rằng: ‘Trong chúng hội không thấy ngài Xá-lợi-phất, xin Phật cho gọi đến.’ Đức Phật liền sai ngài Mục-kiền-liên đến tinh xá Kỳ Hoàn mời ngài Xá-lợi-phất. Ngài Xá-lợi-phất đang khâu y ngũ nạp,[282] đáp rằng: ‘Ngài cứ về trước, tôi sẽ đến sau.’ Ngài Mục-kiền-liên nói: ‘Phật sai tôi đến mời ngài, sao có thể về trước được?’ Ngài Mục-kiền-liên nói rồi lấy tay chạm vào tấm y, việc khâu y liền hoàn tất. Ngài Xá-lợi-phất nghĩ, Mục-kiền-liên đùa bỡn để thử ta, vậy ta cũng thử lại ông ấy xem sao. Liền ném sợi dây buộc y xuống đất và nói: ‘Ông có thể nhặt sợi dây này lên được chăng?’ Mục-kiền-liên nghĩ: ‘Xá-lợi-phất đùa cợt để thử ta.’ Liền dùng hết sức để nhặt sợi dây lên nhưng không nhấc lên được.

Bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất liền buộc sợi dây ấy vào cây diêm-phù, [Mục-kiền-liên dùng thần lực nhấc cây diêm-phù] làm cho khắp một cõi thiên hạ đều chấn động. [Ngài Xá-lợi-phất] lại buộc dây vào hai, ba rồi bốn cõi thiên hạ, [ngài Mục-kiền-liên cũng dùng thần lực nhấc cả lên làm cho chấn động,] nhưng vẫn không nhấc được dây buộc y lên. [Ngài Xá-lợi-phất] lại buộc vào cả tiểu thiên thế giới, trung thiên thế giới, rồi đại thiên thế giới, [cũng đều bị ngài Mục-kiền-liên làm cho chấn động,] nhưng vẫn không nhấc dây buộc y lên được. [Khi ấy, khắp các thế giới đều chấn động, chỉ riêng tòa ngồi của đức Như Lai ở hồ A-nậu-đạt là an nhiên bất động.][283] Ngài Mục-kiền-liên tự nghĩ: ‘Ta có thần lực bậc nhất mà nay không thể nhấc nổi sợi dây buộc y, chẳng phải là đã mất thần lực rồi sao?’ Nhân đó lại thúc giục ngài Xá-lợi-phất cùng đi. Ngài Xá-lợi-phất nói: ‘Ông hãy đi trước.’ Ngài Mục-kiền-liên [liền đi trước,] về đến chỗ Phật thì thấy ngài Xá-lợi-phất đã ngồi ở phía trước đức Phật rồi.

Long vương thấy cõi đất chấn động nên thưa hỏi Phật. Đức Phật bảo: ‘Đó là do thần lực của Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên.’ Khi ấy, Long vương và 500 vị tỳ-kheo đều khởi tâm khinh thường ngài Mục-kiền-liên, [cho là không bằng Xá-lợi-phất]. Đức Phật dạy: ‘Xá-lợi-phất đối với bốn thần lực[284] đều được tự tại. Mục-kiền-liên cũng được tự tại như vậy, nhưng không thể vượt qua Phật lực.’ Nhân đó Phật bảo ngài Mục-kiền-liên: ‘Ông hãy thể hiện thần lực của mình [cho đại chúng xem].’ Ngài Mục-kiền-liên liền dùng bình bát chứa hết cả 500 vị tỳ-kheo vào đó rồi nâng lên đến cung trời Phạm thiên, lại dùng một chân đạp lên núi Tu-di và chân kia bước đến cung trời Phạm thiên, rồi hiện thân ở phương khác đọc một bài kệ mà khiến cho khắp các cõi nước trong đại thiên thế giới đều nghe được. Khi ấy, 500 vị tỳ-kheo đều tâm phục. Đại lược là như vậy.

Cứ theo giáo nghĩa thì [ngài Xá-lợi-phất là bậc] Tam tạng trí tuệ, tức đủ mười trí vô học, dứt hết phiền não kết sử, chứng pháp chân thật, giúp Phật tuyên dương giáo hóa. Đại Trí độ luận, quyển 40, gọi [ngài Xá-lợi-phất] là Hữu diện đệ tử,[285] chính là ý nghĩa này.

Theo Thông giáo thì trí tuệ [của ngài Xá-lợi-phất] là như trong kinh Bát-nhã nói về duyên do gọi là đại [trí tuệ], rằng đối với các kiến chấp về tự ngã, kiến chấp về chúng sinh, kiến chấp về Phật, kiến chấp về Bồ-đề, kiến chấp về chuyển pháp luân, tất cả đều phá trừ được hết thì gọi là đại trí tuệ. Chư hiền thánh thuyết giảng pháp đã tự chứng đắc, nếu không được vậy tức là người đời nay dối gạt nói mình có chỗ thuyết. Nên biết rằng ngài Xá-lợi-phất không chỉ phá trừ kiến chấp sinh tử mà cũng phá trừ cả những kiến chấp về Phật, về Bồ-đề, về chuyển pháp luân, về Niết-bàn. Trí tuệ này khác với trí tuệ theo giáo pháp sơ cơ.

Theo Biệt giáo nói về trí tuệ thì lược qua như 5 vị khác biệt [của sữa].[286] Nếu chỉ theo những giáo pháp căn bản ban sơ [thì giống như] chỉ biết đến vị của sữa tươi (nhũ) và sữa đặc (lạc), không được biết đến các mùi vị khác. Người phát tâm tu hành mà chỉ hành trì [những giáo pháp như] sữa với sữa đặc thì gọi đây là trí tuệ của giáo pháp căn bản.

Nếu nói rằng nếm mùi sữa đặc (lạc), mà sữa đặc ấy chẳng từ nơi sữa (nhũ), thì đó là giáo pháp về bản tánh của thiện và ác vốn đều là không, chẳng phải do tu việc thiện, trừ việc ác, dứt hình sắc mà được nghĩa không, chỉ ngay nơi sự tu tập đó tức là không.

Theo Thông giáo thì [người có] trí tuệ là ngay từ ban đầu đã nếm được vị đề hồ, biết đó là đề hồ.

Nếu trải qua các việc nuôi bò lấy sữa, nấu sữa thành sữa đặc, từ sữa đặc chế thành sinh tô, từ sinh tô chế thành thục tô, rồi sau đó mới được đề hồ, người tu hành [tuần tự qua các bước] như thế tức là có trí tuệ theo Biệt giáo.

Nếu từ ban sơ chỉ nếm một vị sữa của loài bò ăn toàn cỏ nhẫn, sữa ấy tức là đề hồ, có thể chữa khỏi tất cả bệnh tật, hết thảy các loại thuốc trị bệnh đều có đủ trong sữa ấy. Người tu hành như thế tức là có trí tuệ theo Viên giáo.

Giải thích [tên ngài là Thân tử] theo bản tích thì bản là trụ nơi thật tướng, Bát-nhã ba-la-mật là mẹ, nương theo cảnh mà sinh ra trí tuệ. Cảnh tức là “Thân”, trí tuệ tức là “tử”, nên khởi lòng từ bi thương xót chúng sinh.

Về hình tích thì [hiện thân] là Thân tử [với giáo pháp đủ 5 mùi vị sữa]. Vì muốn chuyển hóa máu phiền não xấu ác thành dòng sữa hiền thiện nên thị hiện làm ngoại đạo có trí tuệ, làm vị đại luận sư. Vì muốn nấu sữa (nhũ) thành sữa đặc (lạc) nên thị hiện có trí tuệ tinh thông Tam tạng, làm người thứ hai sau đức Thế Tôn, [giáo hóa đại chúng]. Vì muốn làm cho sữa đặc thành váng sữa sống (sinh tô) nên thị hiện kém cỏi Đại thừa, biểu lộ Tiểu thừa, chịu khuất phục trước cư sĩ Tịnh Danh (Duy-ma-cật). Vì muốn làm cho váng sữa sống thành váng sữa chín (thục tô), khuyến tấn, khích lệ, làm lợi ích cho những người đồng tu Phạm hạnh nên trong Pháp hội Bát-nhã thọ lãnh giáo pháp. Vì muốn làm cho thục tô thành đề hồ nên [thị hiện] lần đầu giác ngộ trong hội Pháp hoa. Tất cả những điều trên đều là trong ý nghĩa hình tích thị hiện ra bên ngoài, nhưng nơi nguồn cội bản địa vốn đã hàm chứa tánh thật bên trong từ rất lâu xa.

Giải thích [trí tuệ] theo quán tâm thì chỉ một tâm đủ ba pháp quán, thâu nhiếp được tất cả trí tuệ. Quán không thì thâu nhiếp được trí tuệ như sữa đặc (lạc). Quán giả tạm thì thâu nhiếp được trí tuệ như sinh tô và thục tô, cùng trí tuệ thế gian. Quán trung đạo thì thâu nhiếp được trí tuệ [cùng tột] như đề hồ. Đây gọi là trong một pháp quán tâm, một trí tuệ là hết thảy trí tuệ, hết thảy trí tuệ là một trí tuệ, chẳng phải một trí tuệ cũng chẳng phải hết thảy trí tuệ. Đại lược là như vậy.

Đại Mục-kiền-liên

Về dòng họ của Đại Mục-kiền-liên, [đây là theo họ của mẹ,] Hán dịch là Tán Tụng, trong kinh Văn-thù vấn lại dịch là Lai Phục Căn. Ngài Chân Đế phiên âm là Vật-già-la, Hán dịch là cây hồ đậu, [tức cây đậu xanh].[287] Xưa có vị tiên không ăn bất cứ món gì, chỉ thích ăn đậu xanh nên xưng tên là Vật-già-la. Dòng họ Mục-kiền-liên là con cháu của vị tiên này nên lấy đó làm tên tộc họ. Thích luận nói, cha ngài là thầy bói toán, đặt tên cho ngài là Câu-luật-đà. Câu-luật-đà là tên một loài cây, cha mẹ ngài vốn không sinh con, do cầu đảo thần cây này mà sinh được ngài nên nhân đó mà đặt tên. Lại cũng phiên âm là Mục-già-lược-hề-đạc. Kinh Vị lai nhân quả nói rằng: “[Tên ngài là] Mục-liên-la-dạ-na, vì có nhiều người trùng tên nên gọi thêm chữ Đại.”

Thích luận nói rằng: “Xá-lợi-phất đáng trân quý ở chỗ tài trí sáng suốt. Mục-kiền-liên đáng trọng ở điểm hào phóng rộng rãi. Cả hai vị so ra tài ba trí tuệ đều như nhau, đức hạnh cũng tương đồng.”

Trong kinh Tăng Nhất A-hàm, [Phật] nói: “Trong các đệ tử của ta, người có thần thông nhẹ nhàng bay lên không trung đến cả mười phương thì Đại Mục-kiền-liên là bậc nhất.” Luận Đại Trí độ, quyển 41, gọi ngài Mục-kiền-liên là Tả diện đệ tử [của Phật].[288]

[Có lần] thầy trò ngoại đạo cả 500 người cùng nhau niệm chú để dời ngọn núi, trải qua một tháng thì núi bắt đầu lay động. Ngài Mục-kiền-liên suy nghĩ: “Núi này nếu bị di chuyển đi thì rất nhiều loài bị tổn hại.” Ngài liền bay lên hư không ở phía trên đỉnh núi ngồi kiết già, khiến cho núi trở lại như cũ, không hề lay động. Thầy trò ngoại đạo bảo nhau: “Pháp thuật của chúng ta đã làm cho núi lay động, tính toán theo đúng ngày thì phải di chuyển, tại sao núi lại nằm yên như cũ? Chắc chắn là do vị sa-môn kia đã khiến cho thành như vậy.” Nhân đó họ tự biết sức tu tập của mình còn yếu kém, liền phát tâm quy y theo đạo Phật, khiến cho vô số người cũng đều xuất gia theo Chánh pháp.

Có hai anh em long vương là Nan-đà và Bạt-nan-đà cùng sống ở vùng biển cạnh núi Tu-di. Đức Phật mỗi khi lên cung trời Đao Lợi thường bay ngang qua trên vùng này. Anh em rồng khởi tâm sân hận, tự nghĩ: “Sa-môn trọc đầu này sao dám bay ngang qua trên đầu chúng ta.” Sau đó, khi biết Phật sắp lên cung trời, bọn rồng liền phun mây đen kịt che khuất cả mặt trời, mặt trăng cho đến hết thảy các vì sao. Các vị tỳ-kheo đều muốn lui về, Phật không cho phép. Ngài Mục-kiền-liên thưa: “Con có thể hàng phục rồng này.”

[Khi ấy,] rồng hiện thân lớn quấn quanh núi Tu-di bảy vòng, đuôi khuấy nước biển, đầu tựa lên đỉnh núi. Ngài Mục-kiền-liên liền hiện thân lớn hơn gấp nhiều lần, quấn quanh núi Tu-di đến mười bốn vòng, đuôi dài ra khỏi biển, đầu tựa lên đến cung trời Phạm thiên. Rồng nổi cơn sân hận, hóa mưa xuống cát cứng chắc như kim cương [có thể làm giập nát hư hại mọi thứ], ngài Mục-kiền-liên liền biến cát ấy thành hoa báu mềm mại xinh đẹp, nhẹ nhàng rơi xuống. Rồng vẫn không nguôi cơn sân hận. Ngài Mục-kiền-liên liền hiện thân rất nhỏ đi vào bên trong thân rồng, đi vào mắt rồng rồi ra nơi tai rồng, lại đi vào tai rồi ra nơi mũi, khoan thủng, cắn rứt khắp thân rồng, khiến cho đau đớn khôn cùng, đành chịu khuất phục. Ngài Mục-kiền-liên khi ấy mới thâu nhiếp cả thân lớn, thân nhỏ, hiện lại hình tướng sa-môn rồi đưa hai con rồng cùng đến trước đức Phật.

Khi Đề-bà-đạt-đa [phá hoại Tăng đoàn], dẫn 500 vị tỳ-kheo về làm đồ chúng của riêng mình, ngài Mục-kiền-liên [dùng phép] khiến cho [Đề-bà-đạt-đa] ngủ say như chết, miệng ngáy như sấm động, thân dưới phát tiếng trung tiện, đến nỗi Cù-già-ly[289] dùng chân đạp mà vẫn không tỉnh dậy. Ngài Xá-lợi-phất [nhân lúc đó] thuyết pháp cho 500 vị tỳ-kheo, khiến họ hồi tâm thức tỉnh. Ngài Mục-kiền-liên khi ấy dùng bàn tay nâng [cả 500 vị tỳ-kheo] lên đưa về [tinh xá], Tăng đoàn lại được hòa hợp.

Kinh Tăng Nhất A-hàm, quyển 44,[290] chép rằng: Khi Phật ở tại thành Xá-vệ, chuẩn bị thuyết giới vào ngày 15, nhưng đức Phật yên lặng không nói gì. Ngài A-nan thưa thỉnh bốn lần, [Phật vẫn không thuyết giới]. Phật nói: “Hôm nay trong chúng không thanh tịnh nên ta không thuyết giới. Ông có thể thỉnh một vị thượng tọa, hoặc vị trì luật, hoặc một vị nào [thông thuộc giới luật] để tụng giới.” Khi ấy, ngài Mục-kiền-liên liền nhập định, quán xét xem ai là người không thanh tịnh, thì thấy đó là hai tỳ-kheo Mã Sư và Mãn Túc, liền nắm tay lôi hai tỳ-kheo này ra bên ngoài, rồi đóng cửa lại và thỉnh Phật thuyết giới. Phật dạy: “Ta chẳng nói hai lời, nên hôm nay không tự thuyết giới.” Ngài Mục-kiền-liên cũng nói: “Nay trong chúng không thanh tịnh, con cũng không thể làm Duy na.”[291]

Kỳ-vực (Jivaka),[292] Hán dịch là Cố Hoạt, [sau khi chết] sinh lên cõi trời Đao Lợi. Đệ tử của ngài Mục-kiền-liên có bệnh, ngài liền dùng thần thông [lên cung trời Đao-lợi] để hỏi [cách trị bệnh], gặp lúc [Kỳ-vực cùng] chư thiên ra khỏi vườn để dạo chơi. Kỳ-vực ngồi trên xe không xuống, chỉ chắp tay chào. Ngài Mục-kiền-liên giữ xe dừng lại, Kỳ-vực nói: “Chư thiên [ở đây] hối hả thọ hưởng lạc thú nên không có thời gian rảnh rỗi dừng lại để gặp nhau. Tôn giả có việc gì cần?” Ngài Mục-kiền-liên nói rõ ý mình. [Kỳ-vực] nói: “Điều quan trọng là phải nhịn ăn.”[293] Ngài Mục-kiền-liên buông ra, xe mới đi tiếp được.[294]

Khi Đế thích đánh nhau với A-tu-la chiến thắng, liền tạo ra [cung điện lớn gọi là] Đắc thắng đường, lầu gác đài quán đều bằng bảy món báu, trang nghiêm đẹp đẽ đặc biệt lạ thường. Rường cột và các chi tiết tất cả đều xinh đẹp ngay ngắn, không buộc vào nhau mà vẫn gắn kết giữ vững. Đây là do thần lực mầu nhiệm có được từ phước báu cõi trời nên mới được như vậy. Ngài Mục-kiền-liên bay ngang qua, Đế thích liền đưa ngài đi xem khắp Đắc thắng đường. Các thiên nữ e thẹn với ngài Mục-kiền-liên nên đều ẩn hình trốn đi không hiện ra. Ngài Mục-kiền-liên suy nghĩ: “Đế Thích đắm say dục lạc, không tu tập căn bản của đạo.” Nghĩ rồi liền dùng phép biến hóa thiêu cháy Đắc thắng đường, tất cả đều sụp đổ. Nhân đó mới vì Đế thích giảng rộng về lẽ vô thường. Đế Thích nghe pháp vô cùng hoan hỷ. Sau đó Đắc thắng đường hiện ra trở lại, trang nghiêm như trước, không một chút dấu tích gì của lửa khói.

[Ngài Mục-kiền-liên] lại có thần thông dùng bình bát đựng cả 500 vị tỳ-kheo [mang đi], như phần trước đã nói.

Đức Như Lai [thuyết pháp bằng] Phạm thanh, vang đi rất xa và dù ở xa vẫn nghe được [rõ ràng] giống như ở bên cạnh Phật, không khác. Ngài Mục-kiền-liên muốn biết âm thanh của Phật [thuyết pháp] vang xa đến đâu, nhưng dù đã đi xa hết mức vẫn nghe như đang ở bên cạnh Phật. Ngài liền dùng thần lực bay về hướng tây, vượt qua số cõi nước nhiều như cát sông Hằng, nhưng vẫn nghe tiếng Phật thuyết pháp như lúc ở gần, chẳng thấy khác biệt. Ngài bay mãi, bay mãi không dừng đến lúc thần lực đã hết nên thân mệt mỏi, gặp lúc đại chúng ở phương ấy đang cùng nhau dùng bữa, liền dừng nghỉ, đi kinh hành quanh miệng bình bát [rất lớn của một vị tỳ-kheo ở đó]. Vị [tỳ-kheo] ấy hoảng kinh lấy làm quái lạ, tự hỏi vì sao lại có con sâu đầu người từ đâu đến đây. Đức Phật ở đó bảo rằng: “Không phải con sâu. Đó là vị đệ tử Đệ nhất thần túc của đức Phật Thích Tôn ở về phương đông cách đây vô số cõi Phật, vì muốn biết nơi xa nhất của âm thanh [Phật thuyết pháp] nên mới đến tận đây.”

Lại trong kinh Niết-bàn nói: “Đức Phật muốn tìm người làm thị giả, tâm Phật hướng về A-nan giống như mặt trời ở phương đông chiếu sang vách tường phía tây.” [Ngài Mục-kiền-liên nhập định quán sát thấy biết rõ.][295] Đại lược là như vậy.

Bàn luận về thần thông theo giáo nghĩa thì nương vào Tứ thiền đạt được 14 pháp biến hóa,[296] nương theo pháp thiền Thập nhất thiết xứ[297] vô lậu sự mà quán chiếu huân tập lâu ngày thì có thể thực hiện 18 pháp biến hóa.[298] Đây là thần thông ban sơ trong Tạng giáo. Nương vào [pháp quán] không để khởi lên trí tuệ. Dùng tâm với trí tuệ không ấy mà tu các thần thông, đó là thần thông trong Thông giáo. Tuần tự nương vào Tam đế[299] tu tập đạt được thần thông, dần dần vào sâu vượt hơn hàng Nhị thừa, đó là thần thông của Biệt giáo. Nương vào tướng chân thật mà đạt được thần thông, không dùng tướng phân biệt để nhìn các cõi Phật. Từ nơi chân thật mà khởi lên và ứng hợp, nhưng trong chỗ chân thật ấy chẳng hề dao động, có thể biến hiện khắp mười pháp giới. Đây là thần thông của Viên giáo. Đại lược là như vậy.

[Ngài Mục-kiền-liên] trong quá khứ từng giúp đỡ một vị Phật Bích-chi trong những việc cạo tóc, nhuộm, giặt và may vá áo cà-sa, [nhân đó] phát nguyện được thần thông. Đại lược là như thế.

[Giải thích về thần thông theo] bản tích thì bản là trụ nơi chân thật của pháp định Thủ-lăng-nghiêm, có thể từ một niệm mà ứng hiện biến khắp mười phương, đủ các phương cách thị hiện để thi hành mọi Phật sự, đều do nơi tâm từ bi, còn dấu tích hiển hiện là thần thông qua năm giai đoạn[300] để đi đến chỗ cùng cực cao tột nhất. Đại lược là như vậy.

[Giải thích về thần thông theo] quán tâm thì quán nơi một tâm tức thời có hết thảy tâm, quán hết thảy tâm tức thời không có tất cả tâm. Tâm chẳng rơi vào có hoặc không, thông suốt đến tướng chân thật, đó là quán thần thông.

Ma-ha Ca-chiên-diên

Ma-ha Ca-chiên-diên (Mahākātyāyana), Hán dịch là Văn Sức, cũng dịch là Kiên Thừa, có người cho là lầm, đúng ra nên dịch là Phiến Thằng, hoặc dịch là Hảo Kiên. Tên ngài cũng đọc là Kha-la, Hán dịch là Tư Thắng. Tất cả những tên ấy đều là gọi theo họ, lấy họ làm tên.

Kinh Tăng Nhất A-hàm nói: “Ca-chiên-diên là bậc nhất trong việc khéo phân biệt nghĩa lý, diễn giải đạo pháp.”

Kinh Trường A-hàm chép rằng: “Có kẻ ngoại đạo chấp thuyết đoạn diệt, cho rằng không có đời sau, từng có đến 10 lần đối đáp [với ngài Ca-chiên-diên].

[Lần thứ nhất,] ngoại đạo nói: “Không có đời sau.” [Ngài Ca-chiên-diên] hỏi: “Nay thấy có mặt trời, mặt trăng, vậy là của người làm ra hay trời làm ra? [Mặt trời, mặt trăng ấy] là thuộc về đời này hay đời sau? Nếu nói không có đời sau tức là không có ngày mai. [Nhưng sự thật là có ngày mai, nên biết là có đời sau.]”

[Lần thứ hai, ngoại đạo] lại hỏi: “Tôi thấy người chết rồi chẳng ai quay lại, làm sao [biết mà] nói về sự thọ khổ của họ? Cho nên biết là không có đời sau.” [Ngài Ca-chiên-diên] đáp rằng: “Như tội nhân đã bị giam, liệu có quay về được chăng?”

[Lần thứ ba, ngoại đạo] lại hỏi: “Vậy như người sinh lên cõi trời, [không phải tội nhân,] sao cũng chẳng quay trở lại? Cho nên biết rằng không có đời sau.” [Ngài Ca-chiên-diên] đáp rằng: “Như người bị rơi xuống hầm phân rồi được lên khỏi, liệu có quay trở xuống dưới hầm phân ấy chăng? Hơn nữa, một ngày trên cõi trời bằng 100 năm cõi này. Người sinh lên cõi trời trong năm ba ngày hẳn còn chưa có thời gian nghĩ đến việc trở lại cõi người. Ví như [sau năm ba ngày rồi] có quay trở lại thì ông cũng đã chết, làm sao biết được?”

[Lần thứ tư, ngoại đạo] lại hỏi: “Khi người ta hành hình tội nhân nấu trong chảo nóng, đậy nắp kín bên trên, bốn phía đều chẳng thấy thần thức thoát ra, cho nên biết rằng không có đời sau.” [Ngài Ca-chiên-diên] đáp rằng: “Lúc ông nằm ngủ ban ngày, liệu người bên cạnh có thấy được thần thức của ông thoát ra chăng?”

[Lần thứ năm, ngoại đạo] lại hỏi: “Khi ta cắt xẻ xác người chết ra, chỉ thấy da, thịt, xương cốt, không thể tìm được thần thức, cho nên biết là chẳng có đời sau.” [Ngài Ca-chiên-diên] đáp rằng: “Như đứa trẻ con chẻ vụn củi ra để tìm lửa, liệu có tìm được chăng?”

[Lần thứ sáu, ngoại đạo] lại hỏi: “Ta cân xác người chết thấy nặng hơn. Nếu thần thức thoát ra thì hẳn phải nhẹ hơn, còn nếu thần thức không thoát ra tức là chẳng có đời sau.” [Ngài Ca-chiên-diên] đáp rằng: “Như lửa nung sắt thì nhẹ, sắt không có lửa lại nặng hơn. Con người [cũng vậy], có thần thức thì nhẹ, khi chết rồi không còn thần thức cho nên nặng hơn.”

[Lần thứ bảy, ngoại đạo] lại hỏi: “Tôi thấy người sắp chết, lật ngược tìm thần thức cũng không thấy, nên biết là không có đời sau.” [Ngài Ca-chiên-diên] đáp: “Như có người lật ngược vỏ ốc [làm tù và] để tìm âm thanh, liệu có tìm được chăng?”[301]

[Lần thứ tám, ngoại đạo] lại nói: “Tuy ông phá bỏ hết mọi lập luận, nhưng tôi bám chấp thuyết đoạn diệt này đã lâu nên không thể buông bỏ được.” [Ngài Ca-chiên-diên] đáp rằng: “Như người biết chọn lọc, ban đầu chỉ thấy ruộng trồng gai liền thu lấy gai. Được nhiều gai rồi thì bỏ cây gai chỉ giữ lấy vỏ gai. Được nhiều vỏ gai rồi lại bỏ vỏ gai chỉ lấy sợi gai. Được nhiều sợi gai rồi thì bỏ sợi gai chỉ lấy vải dệt từ sợi gai. Được nhiều vải rồi thì bỏ vải đổi lấy lụa. Được nhiều lụa rồi thì bỏ lụa đổi lấy bạc. Được nhiều bạc rồi thì bỏ bạc đổi lấy vàng. Bỏ điều kém cỏi hơn để giữ lấy điều tốt đẹp hơn, tại sao lại không thể bỏ?”

[Lần thứ chín, ngoại đạo] lại hỏi: “Chẳng phải riêng tôi nói điều này, mà nhiều người khác cũng nói như vậy, tại sao nói tôi sai?” [Ngài Ca-chiên-diên] đáp rằng: “Có hai người đi buôn gặp quỷ. Quỷ giả hình người, bảo họ rằng: “Nơi các ông sắp đến ở phía trước lúa gạo rất nhiều, cỏ khô không thiếu, các ông chở theo đến đó làm gì?” Một người nghe vậy liền vất bỏ hết [lúa gạo và cỏ khô trên xe mình], khi đi đến phía trước [không đúng như lời quỷ nói] người và trâu đều bị đói, cuối cùng bị quỷ ăn thịt. Người còn lại thì nghĩ: “Đợi khi nào có được lúa gạo và cỏ khô ở nơi đó thì ta hãy vất bỏ lúa gạo và cỏ khô mang theo cũng không muộn.” Nhờ vậy nên người và trâu đều không bị đói, không bị quỷ ăn thịt. Những người nói ra thuyết sai lầm cũng giống như quỷ kia nói dối. Ông không tin lời của tôi, như việc vất bỏ lúa, cỏ mang theo trên xe, nay đã có được lúa, cỏ ở nơi mới, sao vẫn chẳng chịu vất bỏ lúa, cỏ mang theo?”[302]

[Lần thứ mười, ngoại đạo] lại nói: “Tôi không thể buông bỏ, nếu ông cố khuyên tôi sẽ nổi sân hận.” [Ngài Ca-chiên-diên] đáp rằng: “Ông như người nuôi heo, đi trên đường gặp phẩn liền nhặt lấy, đội trên đầu [mang về cho heo]. Gặp lúc trời mưa, nước hòa phẩn chảy xuống dơ đầu, người đi bên cạnh khuyên nên vất bỏ đi, lại nổi giận với người ấy, nói rằng: ‘Ông không nuôi heo nên mới bảo ta vất bỏ phân đi.’ Đó là giận ngược lại người khuyên mình.”

Cứ như vậy, [ngài Ca-chiên-diên] lần lượt phân tích phá trừ [các tà kiến], giảng rộng các ý nghĩa. Ngoại đạo liền thán phục, ngợi khen xưng tán rằng: “Tôn giả ở trước vừa nói ví dụ mặt trời, mặt trăng thì tôi đã hiểu rõ rồi. Vì muốn được nghe lập luận của bậc trí tuệ nên mới nhiều lần tiếp tục gạn hỏi. Lành thay! Lời giảng giải của tôn giả thật nhiệm mầu.”

Sự khéo léo biện luận về hình tướng nghĩa lý của ngài Ca-chiên-diên cũng giống như vậy.

Trong Luật nói rằng: “Ngài Ca-chiên-diên thường khéo giáo hóa về quy giới, đối với người đồ tể thì dạy họ thọ giới ban đêm, đối với người nhiều dâm dục thì dạy họ thọ giới ban ngày. Về sau, đến lúc thọ báo thì mỗi người đều được thấy hiện tướng an lạc vào ngày hoặc đêm.” Đại lược là như thế.

Lại có vị bà-la-môn tên là Thế Điển, nói với 500 người họ Thích rằng, có ai có thể cùng ta tranh luận chăng? Những người họ Thích đáp rằng: “Có [ngài Cù-đàm thuộc dòng họ Thích, là bậc Chánh đẳng giác;] lại có người không trí tuệ, không tri thức, lời nói thô lậu vụng về, tên là Châu-lợi-bàn-đặc,[303] ở trong chúng xuất gia là hạng thấp kém. Ông có thể cùng hai người này tranh luận, nếu thắng được thì chúng ta sẽ thừa nhận danh tiếng của ông.”[304]

Thế Điển suy nghĩ rằng, thắng được hai người này cũng không đủ để được tôn trọng hơn, nhưng nếu không thắng được thì thật quá nhục nhã. [Liền từ chối không tranh luận.]

Về sau, trên đường đi [Thế Điển] gặp Châu-lợi-bàn-đặc, liền hỏi tên họ. Châu-lợi-bàn-đặc đáp: “Ông nên hỏi về nghĩa lý, việc gì phải nhọc sức hỏi họ tên?” Liền hỏi lại: “Vậy ông có thể cùng ta tranh luận nghĩa lý chăng?” Châu-lợi-bàn-đặc đáp rằng: “Ta có thể tranh luận cùng Phạm vương, huống chi ông chỉ là một kẻ mù không có mắt?” Thế Điển vặn hỏi lại: “Nói mù tức là không có mắt, không có mắt tức là mù, sao ông phải lặp lại rườm rà?”

Châu-lợi-bàn-đặc liền hiện ra 18 pháp biến hóa. [Thế Điển] nói: “Người này chỉ biết bay nhảy biến hóa, rốt lại cũng không biết giảng giải nghĩa lý.”

Khi ấy, ngài Ca-chiên-diên có thiên nhĩ nên từ xa nghe được [lời nói ấy], liền [biến hóa] ẩn giấu thân hình của Châu-lợi-bàn-đặc, rồi tự mình thị hiện ra thân hình giống hệt như vậy, từ trên không trung hạ xuống hỏi: “Ông tên hiệu là gì?” [Thế Điển] đáp: “Tôi có tên hiệu là Nam Trượng Phu.” Ngài Ca-chiên-diên liền vặn hỏi lại: “Nam tức là trượng phu, trượng phu tức là nam, sao ông phải lặp lại rườm rà?”

Thế Điển nói: “Thôi, thôi! Hãy gác lại những chuyện nhỏ nhặt này, hãy bàn luận những nghĩa lý sâu xa.”

Nói rồi đặt câu hỏi: “Không nương theo pháp chứng Niết-bàn được sao?” Đáp: “Không nương theo pháp ngũ ấm thì có thể chứng Niết-bàn.”

Lại hỏi: “Ngũ ấm nương theo gì sinh ra?”

Đáp: “Do nhân là ái dục sinh ra.”

Lại hỏi: “Làm thế nào để đoạn trừ ái dục?”

Đáp: “Nương theo Bát chánh đạo thì có thể đoạn trừ ái dục.” [Bà-la-môn] Thế Điển nghe xong liền xa rời trần cấu, [tâm được giải thoát].

[Chuyện về ngài Ca-chiên-diên] thường là như vậy.

[Bàn về tài biện luận] theo giáo nghĩa thì y cứ các ý nghĩa vô thường, khổ, không và vô ngã để phá trừ đoạn kiến, thường kiến v.v. Đó là luận nghĩa theo Tạng giáo.[305] Nếu y theo các ý nghĩa không, vô sở hữu, bất khả đắc để phá trừ những kiến chấp như đoạn kiến, thường kiến, ái kiến... đó là luận nghĩa theo Thông giáo. Cho nên, [trong kinh Duy-ma-cật] thiên nữ nói rằng: “Ta không có chỗ chứng đắc, nên biện tài mới được như vậy.”

Nương theo sự thâu nhiếp trọn vẹn bốn biện tài vô ngại[306] mà quán xét căn cơ, soi chiếu giả tướng, dùng thuốc ngăn bệnh, phá trừ đoạn kiến, thường kiến... đó là luận nghĩa theo Biệt giáo.

Y theo tướng chân thật rốt ráo, chẳng rơi vào có không mà phá trừ đoạn kiến, thường kiến... đó là luận nghĩa theo Viên giáo.

Lược nói theo bản tích thì bản là trụ ở hai loại trang nghiêm, phước đức và trí tuệ, có thể hỏi đáp, vì thương xót chúng sinh, còn hình tích hiển thị là luận sư giảng giải giáo nghĩa theo năm tầng bậc.[307]

Theo nghĩa quán tâm thì quán nơi trí, nghiên tầm nơi cảnh, cảnh phát ra nơi trí, trí và cảnh tương quan qua lại. Đó là luận nghĩa theo quán tâm.

A-nậu-lâu-đà

A-nậu-lâu-đà (Aniruddha), cũng đọc là A-na-luật hoặc A-nê-lô-đậu, đều là phiên âm từ tiếng Phạn, Hán dịch là Vô Bần, cũng dịch là Như Ý hay Vô Lạp. Thuở xưa, gặp năm mất mùa, ngài cúng dường cơm lúa bại[308] cho một vị Phật Bích-chi, được quả báo trong 91 kiếp luôn sung túc nên có tên là Vô Bần (không nghèo).[309]

Lại nói về dòng họ, vào thuở kiếp sơ, nước dâng gió thổi mới kết cấu thành thế giới. [Vào lúc đó], chư thiên ở cõi trời Quang Âm sau khi mạng sống đã dứt, hóa sinh làm người [ở thế giới này], thân có ánh sáng, bay đi trên hư không, lấy niềm vui làm thức ăn, không phân biệt nam nữ, không trật tự trên dưới, đại chúng cùng sinh sống nên gọi là chúng sinh. Đất tự nhiên có mùi vị như đề hồ, màu sắc như sinh tô, ngọt như mật. [Có người tham] ăn nhiều [đất ấy] nên thân mất ánh sáng, tiều tụy không thể bay lên được nữa, người ăn ít thì [thân thể] còn sáng đẹp, nhân đó có hơn kém, sinh ra chuyện thị phi. Khi đã mất vị ban đầu của đất thì quay sang ăn lớp bìa của đất, [ăn rồi liền] sinh ra khinh chê, ngạo mạn với nhau. [Khi hết lớp bìa rồi] chuyển sang ăn lớp đất bên trong, [ăn rồi liền] sinh ra các việc ác. Hết cả lớp đất bên trong thì bắt đầu ăn [những thứ sinh ra từ đất như] lúa gạo. Khi ăn lúa gạo rồi thì sinh ra nam căn, nữ căn, rốt lại thành vợ chồng với nhau.

Vì xấu hổ [khi giao hợp] nên phải làm nhà cửa phòng ốc [để che kín]. Từ đó bắt đầu tích trữ, gom giữ lúa gạo. [Do tâm tham lam đó] mà hạt lúa sinh ra vỏ trấu, cám [bao bọc], khi gặt một lần rồi chẳng mọc lên [như trước đó] nữa, chỉ còn gốc khô. [Do tâm tham nên] dần dần sinh ra chuyện trộm cắp, cướp đoạt lẫn nhau. Từ đó phải cử ra một người công bằng, gọi là điền chủ, để dùng lý lẽ phân xử khi có tranh tụng. Đó là vị Chúa dân [đầu tiên]. Chúa dân sinh con trai tên là Trân Bảo. Trân Bảo có con trai tên là Hảo Vị. Bắt đầu từ lúc Chúa dân khai sáng [việc cai trị dân] truyền lại về sau, các vị vua Kim luân[310] liên tục nối nhau cai trị, cho đến đời vua Thiện Tư. Từ vua Ý Ma đến vua Tịnh Phạn là 4 đời, đều là các vua Thiết luân. Tổng cộng đã có 84.210 vị vua.

Trong kinh Thập nhị du[311] nói rằng: Thuở xa xưa cách đây nhiều kiếp, có một vị vua sớm mồ côi cha mẹ, đem việc trị nước giao cho người em, còn mình theo phụng sự một vị Bà-la-môn. Thầy Bà-la-môn [họ Cù-đàm] dạy rằng: “Ông nên cởi bỏ vương bào, lấy theo họ [của ta là] Cù-đàm. Vua ấy vâng lời làm theo, người thời bấy giờ gọi ông là Tiểu Cù-đàm, [còn vị thầy là Đại Cù-đàm]. Tiểu Cù-đàm sống trong một vườn cây trái ngọt.[312] Có bọn trộm mang đồ trộm được chạy ngang qua vườn, [giấu những đồ trộm được quanh túp lều của Tiểu Cù-đàm] quân bắt trộm đuổi theo bắt nhầm Tiểu Cù-đàm, [buộc tội rồi hành hình bằng cách] dùng cọc gỗ đâm xuyên qua thân cho chảy hết máu xuống đất, cuối cùng mới dùng tên bắn chết. Đại Cù-đàm đau đớn thương tiếc, gom hốt hết chỗ đất nhuộm máu đem về vườn, đựng vào trong hai cái bình đặt hai bên tả hữu rồi trì tụng thần chú, [phát nguyện rằng:] “Nếu Cù-đàm tôi có đủ tâm thành, xin thiên thần biến [đất có] máu này thành người.” Trải qua 10 tháng, bình bên trái hóa thành đứa con trai, bình bên phải hóa thành đứa con gái, [đều cho mang họ Cù-đàm], từ đó về sau có dòng họ Cù-đàm.

Họ Cù-đàm (Gotama) Hán dịch là Thuần Thục, lại đặt tên là Xá-di. Xá-di nghĩa là tên họ cao quý. Vào thuở ban sơ của kiếp Nhân Hiền, khi đức Như Lai Đương Bảo ra đời thì thần thức Cù-đàm mới bắt đầu thác sinh. Nếu theo ý này thì các vị Chúa dân từ trước đến nay đều thuộc họ Cù-đàm. Từ đời vua Ý Ma, có bốn người con, một là Diện Quang, hai là Tượng Thực, ba là Lộ Chỉ, bốn là Trang Nghiêm, vì bị [vua] ngờ vực nên phải dời đến sống ở phía bắc dãy Tuyết sơn, trong rừng cây trực. Người trong nước yêu thích họ nên đi theo rất đông, tụ họp thành cương vực một nước. Đức vua cha [thấy vậy] khen ngợi rằng: “Các con ta thật có năng lực.” Bốn người con nhân đó lập thành dòng họ riêng. Nơi đất ấy có cây thích-ca (sakya) mọc nhiều, rậm rạp tươi tốt. Rừng cây thích-ca, Hán dịch là rừng cây trực. Đã lập thành một nước trong rừng ấy, nên lấy tên khu rừng làm họ, [tức là họ Thích-ca]. Trong Phạn ngữ, chữ thích-ca (sakya) có nhiều hàm nghĩa, có thể dịch là trực (thẳng), cũng có thể dịch là năng (có khả năng). Vua Tịnh Phạn chính là hậu duệ nối dòng vua Trang Nghiêm, [một trong bốn người con] thuở ấy. Vua Trang Nghiêm tức là Ô-đầu, sinh ra con là Ô-đầu-la. Ô-đầu-la sinh ra Ni-cầu-la. Ni-cầu-la sinh ra Thi-hưu-la. Thi-hưu-la tức là Sư Tử Giáp. Sư Tử Giáp sinh ba người con đều đặt tên có chữ Phạn, một người trong số đó là Hộc Phạn, có hai người con. Con trưởng là Ma-ha-nam, con thứ là A-na-luật.

[Như vậy, ngài A-na-luật] chính là cháu vua Tịnh Phạn, là con thứ vua Hộc Phạn, là em họ đức Thế Tôn, là anh họ ngài A-nan, là chú La-hầu-la, không phải người tầm thường.

Xưa Chu Công nói rằng: “Ta là con Văn vương, em Vũ vương, chú Thành Vương, chẳng phải người hèn kém trong thiên hạ, vậy mà gội đầu phải nắm tóc ba lần, một bữa ăn phải [dừng lại] nhả cơm ra ba lần, dùng lễ cầu người hiền phải như thế, huống chi những kẻ khác.”[313]

Kinh Hiền ngu nói: “Sau khi đức Phật Phất-sa ra đời, đến thời mạt pháp, gặp lúc có nạn đói, có vị Phật Bích-chi tên là Lợi-trá, một hôm đi khất thực không được gì, ôm bình bát trống không. Có một người nghèo thấy vậy hết sức đau lòng, bạch Phật Bích-chi rằng: “Bạch ngài, con không biết ngài có thể thọ nhận cơm lúa bại được chăng?” Thưa hỏi rồi liền lấy phần ăn của chính mình dâng cúng. Phật Bích-chi thọ thực xong liền thị hiện 18 phép biến hóa.

Hôm sau người ấy đi cắt lúa bại, bỗng có con thỏ nhảy lên rồi hóa thành xác người chết ôm ngang lưng ông, không cách gì gỡ ra được, đành chờ đến lúc trời tối [mang cả xác chết] về nhà. [Về đến nhà vừa] bỏ xuống đất lập tức xác chết hóa thành người bằng vàng. Bẻ lấy ngón tay lại sinh ra ngón tay khác, lại chặt chân rồi cũng mọc ra chân khác, cứ như vậy lấy vàng mà dùng không bao giờ hết. Những kẻ xấu ác cùng tên vua ác [khi biết chuyện] đều muốn đến cướp lấy, thì chỉ thấy một xác người chết, riêng người ấy thì nhìn thấy toàn vàng quý.

[Đây chính là tiền thân của ngài A-na-luật,] trải qua 91 kiếp đều được quả báo luôn sống sung túc như vậy, nên có tên là Vô Bần (không nghèo). Kể từ kiếp sống kể trên về sau thì gia nghiệp luôn giàu sang sung túc, lại mỗi ngày mỗi tăng thêm. Cha mẹ muốn thử nên lấy bát trống đậy kín rồi đưa cho ngài, đến khi lấy lại mở ra xem thì thấy bên trong có đủ món ngon trăm vị. Trước cửa nhà ngài mỗi ngày thường có 12.000 người, trong đó có 6.000 người đến mượn nợ và 6.000 người đến để trả nợ.

Sau khi ngài xuất gia, dù đi đến đâu, ai gặp ngài cũng đều hoan hỷ. Nếu ngài có nhu cầu gì cũng luôn được đáp ứng ngay, giống như ở nhà mình không khác.

Ngài A-na-luật tu tập tinh tấn đến mức trong suốt bảy ngày đêm không hề chớp mắt, hai mí mắt không chạm vào nhau. Giấc ngủ vốn là thức ăn của mắt, suốt bảy ngày đêm không ngủ nên con ngươi trong mắt phải chết, do vậy ngài bị mất đi nhục nhãn. Phật dạy ngài hãy cầu thiên nhãn, luôn nhớ đến duyên là sắc thanh tịnh của bốn đại từ nơi giữa đầu phát ra, dứt sạch che chướng trong ngoài thì dù sáng hay tối cũng đều thấy rõ.

[Sau khi thành tựu, ngài từng] nói với Phạm vương rằng: “Ta nhìn thấy khắp cõi đại thiên của Phật Thích-ca giống như nhìn quả [am-ma-lặc] trong lòng bàn tay.” Trong kinh Tăng Nhất A-hàm, [đức Phật] nói: “Trong Phật pháp của ta, A-na-luật là bậc nhất trong việc dùng thiên nhãn để nhìn thấu khắp nơi.”

Khi ngài A-na-luật đã mù nhục nhãn, đức Phật cùng các vị tỳ-kheo thường giúp ngài cắt và may y. Lúc Phật ở động Câu-tát-la tại nước Xá-vệ, có 800 vị tỳ-kheo quy tụ về, cùng vì ngài A-na-luật mà may đủ 3 tấm y. Đức Phật tự tay trải các tấm vải ra, các vị tỳ-kheo kẻ cắt người khâu, trong một ngày thì hoàn thành [trọn vẹn ba tấm y]. [Nhân đó] đức Phật giảng rộng về việc người xuất gia đã thọ y phải biết sống đoàn kết, cùng chia sẻ với nhau. Vô số người [nghe pháp] được đạo.

[Luận về thiên nhãn] theo giáo nghĩa thì nương vào thiền định phát xuất thiên nhãn là phàm phu ngoại đạo, nương theo pháp thiền hết thảy đều vô lậu phát xuất được thiên nhãn, đó là theo Tạng giáo. Nương theo trí tuệ vô lậu về bản thể các pháp mà phát xuất các công hạnh, nương theo những công hạnh ấy mà phát xuất thiên nhãn, đó là ý nghĩa theo Thông giáo.

Theo ý nghĩa của Biệt giáo thì nương theo việc tán thán các việc lành mà phát xuất nhục nhãn,[314] y theo định lực phát xuất thiên nhãn, y theo lẽ chân thật [thấy các pháp đều không] (chân đế) nên phát xuất tuệ nhãn, y theo lẽ thế tục [thấy các pháp đều giả tạm] (tục đế) nên phát xuất pháp nhãn, y theo lẽ Trung [đạo] phát xuất Phật nhãn.

Theo Viên giáo thì y theo thật tướng phát xuất thiên nhãn, thiên nhãn đó tức là Phật nhãn.

Lại nữa, theo ý nghĩa của Tạng giáo thì y theo sự tán thán những việc lành mà tu tập nhục nhãn,[315] y theo thiền định mà tu tập thiên nhãn. Còn Thông giáo thì y theo nghĩa Không để tu tập nhục nhãn, thiên nhãn. Theo Biệt giáo thì tu tập năm thứ mắt, [gồm nhục nhãn, thiên nhãn, pháp nhãn, tuệ nhãn và Phật nhãn] tuần tự theo thứ lớp. Theo Viên giáo thì tu tập ngũ nhãn không tuần tự theo thứ lớp.

Theo ý nghĩa bản tích thì bản là vốn trụ nơi thật tướng thiên nhãn chân thật, không dùng tướng phân biệt để nhìn các cõi Phật, còn hình tích thị hiện nên có thiên nhãn phát xuất từ giữa đầu.

Theo ý nghĩa quán tâm thì giải thích rằng, quán nhân duyên sinh tâm hiền thiện tức là nhục nhãn, quán nhân duyên sinh tâm Không tức là thiên nhãn, quán nhân duyên sinh tâm giả tức là pháp nhãn, [ngay nơi đó thấy] Trung đạo tức là Phật nhãn. Đại lược là như thế.

Kiếp-tân-na

Kiếp-tân-na (Kapphiṇa), Hán dịch là Phòng Tú. Cha mẹ cầu đảo sao Phòng,[316] chiêu cảm sinh được con nên lấy tên sao ấy đặt tên cho con.

Ngài là vị tỳ-kheo lúc ban đầu xuất gia chưa được gặp Phật. Khi ngài mới phát tâm tìm đến chỗ Phật thì trên đường gặp mưa, đêm ấy ghé vào xin trú mưa trong nhà một người thợ làm đồ gốm. Có một phòng trống, ngài trải cỏ làm chỗ ngồi thiền. Sau đó, lại có một vị tỳ-kheo cũng vào nhà ấy xin ngủ nhờ, ngài liền chia một phần cỏ, cũng trải trên đất làm chỗ ngồi thiền cho vị ấy. Trong đêm, vị tỳ-kheo kia hỏi ngài đang muốn đi đến đâu, liền đáp: “Tôi đi tìm Phật.” Vị tỳ-kheo kia liền vì ngài mà thuyết pháp. Những lời thuyết pháp này có thể tìm xem lại trong kinh A-hàm. [Ngài Kiếp-tân-na nghe pháp rồi] hốt nhiên chứng đạo. Vị tỳ-kheo đến sau ấy chính là đức Phật. [Ngài Kiếp-tân-na] được ở cùng phòng với Phật, được thấy Pháp thân, nên dựa theo nơi chứng đạo trong phòng mà gọi tên là Kiếp-tân-na, là “phòng túc”, nghĩa là một đêm trong phòng.

[Lại nữa, khi Phật thuyết pháp, Thiên vương] Tỳ-sa-môn cầm lọng báu đi sau [che cho ngài] Kiếp-tân-na. Thiên vương Tỳ-sa-môn là chúa tể các tinh tú, vị chúa tể đã theo hầu thì hết thảy các tinh tú cũng đều như thế. Cho nên ngài Kiếp-tân-na giỏi khoa chiêm tinh, khéo rõ biết về các tinh tú, biết rõ các pháp thức, đồ hình [về các ngôi sao], do những hiểu biết đó mà được gọi tên là Kiếp-tân-na.

Trong kinh Tăng Nhất A-hàm, Phật dạy: “Trong Phật pháp của ta, tỳ-kheo Kiếp-tân-na là bậc nhất trong việc rõ biết về mặt trời, mặt trăng và các tinh tú.”[317]

Giải thích theo giáo nghĩa thì hình tích hiển bày là phá vỡ ngôi nhà căn trần, rồi cùng với Phật ngụ trong ngôi nhà chân đế. Đó là ý nghĩa theo Tạng giáo.

Theo Thông giáo thì thể đạt [ý nghĩa] căn trần, đó là được cùng Như Lai ở chung trong căn phòng chân đế.

Theo Biệt giáo thì phân biệt được căn nhà của căn trần trong mười pháp giới ắt có thể thấy Phật.

Theo Viên giáo thì từ nơi một căn nhà căn trần có thể thấy được hết thảy những căn nhà [khác], thấy được hết thảy chư Phật.

Lược nói theo bản tích thì bản là vốn đã cùng Như Lai trụ nơi thật tướng, tích là hiển thị ra có nhà cửa phòng ốc.

Theo nghĩa quán tâm thì quán căn nhà năm ấm đều không, tức Không đế, cùng ở một nhà với Hóa thân Phật; quán căn nhà năm ấm là giả tạm, tức Giả đế, cùng ở một nhà với Báo thân Phật; quán căn nhà năm ấm là khoảng giữa, tức Trung đạo, cùng ở một nhà với Pháp thân Phật. Đại lược là như vậy.[318]

__________________________________________


CHÚ THÍCH

[1] Bốn pháp tất đàn, tức tứ tất đàn (四悉檀), chỉ bốn phương thức giáo hóa, gồm thế giới tất đàn, vị nhân tất đàn, đối trị tất đàn và đệ nhất nghĩa tất đàn. Các phần về sau trong sách sẽ giảng giả kỹ các phương pháp này.

[2] Trong phẩm Hiện tháp báu của kinh này, khi đức Phật Thích-ca Mâu-ni triệu tập các phân thân, vì muốn đủ chỗ dung chứa nên đã ba lần biến hóa cõi Ta-bà này thành ra thanh tịnh và rộng lớn.

[3] Nguyên tác dùng chữ Già-da (伽耶), Phạn ngữ Gayā, tức Bồ-đề Đạo tràng, nơi đức Phật thành đạo. Đoạn này nói lên một phần ý chính của kinh Pháp hoa là “khai cận hiển viễn”, “khai tích hiển bản”, như sẽ giải thích ở phần sau.

[4] Nguyên tác dùng “tăng đạo tổn sinh” (增道損生) là cách nói theo giáo lý tông Thiên Thai, cho rằng đây là lợi ích của việc tu tập theo kinh Pháp hoa. Theo giáo lý này, hàng Bồ Tát tu tập lần lượt trải qua các giai vị từ Sơ trụ lên đến Diệu giác, đạo lực ngày càng tăng tiến (tăng đạo), vô minh đoạn trừ dần nên sinh tử biến dịch ngày càng giảm bớt đi (tổn sinh).

[5] Tức Ngũ phẩm đệ tử vị (五品弟子位), là giai vị Ngoại phàm trước Thập tín, là hành vị thứ nhất trong 8 hành vị của Viên giáo, tương đương với Quán hành tức trong Lục tức vị. Giai vị này gồm 5 phẩm chuyên tâm tu hành thực tiễn nên gọi là Ngũ phẩm đệ tử vị. Năm phẩm là Tùy hỉ phẩm, Tụng đọc phẩm, Thuyết pháp phẩm, Kiêm hành lục độ phẩm và Chính hành lục độ phẩm.

[6] Tức triều đại nhà Trần và nhà Tùy. Vua nhà Trần là Thủy Hưng Vương (始興王) quy y với Đại sư. Sau khi nhà Tùy diệt nhà Trần thì Tùy Văn Đế và con là Tấn vương Dương Quảng (sau là Tùy Dạng Đế) cũng đều quy y với Đại sư.

[7] Nguyên tác là đà-la-ni (陀羅尼), dịch nghĩa là tổng trì, có khả năng nắm giữ.

[8] Tức Nhân vương Hộ quốc Bát-nhã Kinh (仁王護國般若經), do ngài Cưu-ma-la-thập Hán dịch, gồm 2 quyển. (ĐCT, T8, 245). Đại sư Trí Khải có soạn sớ giải kinh này, gồm 5 quyển. (ĐCT, T33, 1705).

[9] Nguyên tác dùng “vạn thặng” (萬乘 - muôn cỗ xe), chỉ bậc thiên tử, vì chư hầu xuất binh chỉ dùng ngàn cỗ xe, bậc thiên tử mới dùng đến muôn cỗ xe.

[10] Quán tâm thích: là một trong bốn phương thức giải thích được Đại sư Trí Khải vận dụng xuyên suốt trong việc nhận hiểu kinh văn. Thứ nhất là nhân duyên thích, nhận hiểu theo nhân duyên; thứ hai là ước giáo, tức dựa vào giáo nghĩa; thứ ba là bản tích, tức phân biệt theo ý nghĩa bản môn ban sơ và tích môn là hình tích hiển lộ hiện tại; thứ tư là quán tâm, tức dựa vào quán xét tâm để nhận hiểu.

[11] Ngũ nghĩa hay ngũ trùng nghĩa là phương thức tìm hiểu kinh văn do ngài Trí Khải đề xướng và vận dụng, bao gồm các bước tuần tự như sau: 1. Thích danh (giải thích tên gọi), 2. Biện thể (phân biệt bản thể, tính chất), 3. Minh tông (làm sáng tỏ tông chỉ, khuynh hướng), 4. Luận dụng (phân tích, bàn luận về công năng, ứng dụng), 5. Phán giáo (xác định, sắp xếp vào loại giáo pháp nào).

[12] Trí Giả là tôn hiệu của Đại sư Trí Khải. Năm 591, Tấn vương Dương Quảng xin thọ Bồ Tát Giới với Đại sư, nhân đó vua Tùy dâng đức hiệu cho ngài là Trí Giả.

[13] Tức Duy-ma kinh lược sớ (維摩經略疏), gồm 10 quyển. (ĐCT, T38, 1778).

[14] Từ điển Phật Quang ghi rằng Đại sư Trí Khải sinh năm 538 và viên tịch vào năm 597. Ở đây nói hơn trăm năm nhưng thực tế là đến khoảng 150 năm.

[15] Nguyên tác chỉ ghi là Lãng Hòa Thượng (朗和尚), chính là Hòa thượng Thích Huyền Lãng (釋玄朗 - 673-754) ở chùa Thanh Thái, quận Đông Dương, tên tự là Tuệ Minh. Ngài là một vị cao tăng uyên bác đời Đường, viên tịch vào niên hiệu Thiên Bảo thứ 13 (754), thọ 82 tuổi, 61 tuổi Hạ. Tự truyện của ngài được ghi đầy đủ trong Tống Cao Tăng Truyện, quyển 26. (ĐCT, T50, 2061, tr.875b, d.26.)

[16] Nguyên tác dùng “pháp môn chi mi thọ” (法門之眉壽) để chỉ bậc trưởng thượng, cao tuổi trong đạo pháp.

[17] Nguyên tác dùng “lương trì chi mục túc” (涼池之目足) để chỉ cho bậc có đầy đủ trí tuệ (như mắt sáng) và công hạnh, sự hành trì (như đôi chân đi). Đây có lẽ là lấy ý từ Trí Độ luận, quyển 83: “Thí như nhiệt thời thanh lương trì, hữu mục hữu túc giai khả nhập.” (譬如热时清凉池,有目有足皆可入 。- Ví như lúc trời nắng nóng có hồ nước trong mát, những ai có mắt sáng, có chân đi đều có thể vào hồ.)

[18] Nguyên tác dùng “thừa giới câu cấp” (乘戒俱急), chỉ công phu tu tập tùy theo các thừa, gồm Tiểu thừa, Trung thừa (hay Duyên giác thừa), Đại thừa, và việc nghiêm trì giới luật đều xem trọng như nhau. Vì cầu Phật đạo mà nỗ lực tinh tấn tu tập theo các thừa gọi là thừa cấp (乘急), người xem trọng giới luật gọi là giới cấp (戒急). Trong chúng sinh được phân biệt bốn hạng người: Một là xem trọng cả giới luật và công phu tu tập (thừa giới câu cấp), hai là xem trọng công phu tu tập hơn giới luật (thừa cấp giới hoãn), ba là xem trọng giới luật hơn công phu tu tập (thừa hoãn giới cấp), bốn là hạng phàm phu, xem thường cả công phu tu tập và giới luật (thừa giới câu hoãn). Trong quyển 2 sẽ nói rõ hơn về việc này.

[19] Nguyên tác dùng “Mãn Từ chi bảo khí” (滿慈之寶器), Mãn Từ hay Mãn Từ tử tức là ngài Phú-lâu-na, một trong 10 đại đệ tử, được Phật khen ngợi là “Thuyết pháp đệ nhất”. Do đó, “bảo khí” ở đây chính là khả năng thuyết pháp như Phú-lâu-na.

[20] Nguyên tác là “tọa Không Sinh chi thạch thất” (坐空生之石室). Không Sanh” tức là ngài Tu-bồ-đề, một trong 10 đại đệ tử, được Phật khen ngợi là “Giải không đệ nhất”. Do vậy, câu này hàm ý là thấu đạt nghĩa Không giống như ngài Tu-bồ-đề.

[21] Đan Khâu (丹丘), trong Pháp hoa Kinh Văn Cú Phụ Chánh Ký (法華經文句輔正記) (Vạn Tục Tạng, T28, 593, tr.634b, d.13), ngài Đạo Xiêm (đời Đường) cho biết: “Đan Khâu giả, Xích Thành sơn dã.” (丹丘者赤城山也 - Đan Khâu là tên khác của núi Xích Thành) và nói rõ: “Cứ thời thiêm tước xứ thật Quốc Thanh tự, Đan Khâu danh giai cố dĩ tiêu địa, kim Quốc Thanh tự thuộc Đan Khâu lý. (據時添削處實國清丹丘名佳故以標地今國清寺屬丹丘里 - Nơi thật sự diễn ra việc chỉnh sửa văn bản là chùa Quốc Thanh, vì Đan Khâu là tên đẹp nên dùng để nêu nơi chốn, hiện nay chùa Quốc Thanh thuộc làng Đan Khâu.) Thiên Thai sơn ký (天台山記) (ĐCT, T51, 2096, tr.1054b, d.9-10) của Từ Linh Phủ đời Đường nói: “Tự Thiên Thai quán đông hành nhất thập ngũ lý, hữu Xích Thành sơn, sơn cao tam bách trượng.” (自天台觀東行一十五里,有赤城山,山高三百丈 - từ chùa Thiên Thai đi về phía đông 15 dặm có núi Xích Thành cao 300 trượng).

[22] Nguyên tác dùng thiêm tước (添削). Thiêm là thêm vào, tước là cắt gọt bớt đi. Pháp hoa văn cú ký (法華文句記) quyển 1, phần thượng (ĐCT, T34, 1719, tr.151b, d.13-15) giảng giải: “Thiêm vị thiêm phá cổ sư cập dẫn kinh luận, vị xích phi dĩ hiển thị. Tước vị tước kì phồn trường cập thành văn thể, sử văn ước nhi nghĩa phong.” (添謂添破古師及引經論。謂斥非以 顯是。削謂削其繁長及成文體, 使文約而義豐。- Thiêm là ý nói thêm vào phá bỏ [chỗ không đúng] của những bậc thầy trước, cùng dẫn chứng kinh luận để phá bỏ chỗ sai, hiển bày chỗ đúng. Tước là nói cắt gọt những chỗ phức tạp, dài dòng, cùng thành tựu văn thể, làm cho văn được ngắn gọn mà ý nghĩa phong phú.)

[23] Nguyên tác dùng “bách giới thiên như” (百界千如), theo giáo lý Thiên Thai tông, là thuật ngữ để chỉ cho hết thảy muôn pháp trong thực tại. Theo Thiên Thai tông, do sự sai biệt về nghiệp lực mà chúng sinh phải thọ sinh trong những cảnh giới khác nhau. Tất cả có 10 pháp giới từ thấp lên cao là: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, a-tu-la, cõi người, cõi trời, Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát và Phật. Mười pháp giới này, trong mỗi một pháp giới lại có sự phân chia thành mười pháp giới bên trong đó, cộng thành 100 pháp giới nên gọi là “bách giới”. Trong mỗi pháp giới lại có đủ mười loại sự lý khác biệt (thập như thị), cộng thành ngàn như thị.

[24] Nguyên tác dùng các biểu tượng “hóa thành” và “bảo sở” là lấy ý từ phẩm Thí dụ Hóa thành, đức Phật ví các quả vị quyền thừa như hóa thành, không có thật, chỉ quả vị nhất thừa hay Phật thừa mới là đích đến chân thật, nơi có châu báu (bảo sở).

[25] Ở đây nói một phần nguyên nhân phát khởi kinh này, khi đức Phật hiện điềm lành phóng quang thì ngài Di-lặc thưa hỏi, đức Văn-thù giải đáp.

[26] Tức Lục túc luận (Aḍpadaśāstra), sáu bộ luận căn bản, bao gồm: 1. Dị môn Túc luận (20 quyển); 2. Pháp uẩn Túc luận (12 quyển); 3. Thi thiết Túc luận (chưa có người Hán dịch); 4. Thức thân Túc luận (16 quyển); 5. Phẩm loại Túc luận (18 quyển); 6. Giới thân Túc luận (3 quyển). Trừ ra bộ thứ ba chưa có người Hán dịch, 5 bộ còn lại đều được ngài Huyền Trang dịch sang Hán ngữ.

[27] Luận Phát trí, tức Phát trí luận (Abhidharma-jñāna-prasthāna), gồm 20 quyển, hiện còn trong Đại Chánh Tạng (ĐCT, T26, 1544). Luận này thường được nhắc đến cùng với Lục túc luận như 7 bộ luận căn bản nhất. Lục túc luận bàn giải chi ly, văn nghĩa nhỏ nhặt nên gọi là Túc luận (ví như chân đi), còn Phát trí luận văn nghĩa đầy đủ, bao quát, nên gọi là Thân luận (ví như cả thân hình). Cả 7 bộ luận này, một bộ chưa dịch, còn 6 bộ đều do ngài Huyền Trang dịch vào đời Đường, nên vào thời Đại sư Trí Giả thì chưa có. Hàm ý của ngài Thần Quýnh ở đây có lẽ là cho biết Hòa thượng Huyền Lãng đã có sử dụng các bộ luận này khi hiệu chỉnh.

[28] Nguyên tác dùng “bao Xuân Thu chi nhất ngôn” (褒春秋之一 言). Kinh Xuân Thu là một tác phẩm thuộc Lục Kinh của Nho gia, gồm: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu. Điểm đặc sắc của Kinh Xuân Thu là luôn nhắm đến 2 mục đích rõ rệt: bao (褒) là ngợi khen, tán dương, đối với những việc tốt; và biếm (貶) là chê bai, quở trách, đối với những việc xấu. Về sự khen chê của Kinh Xuân Thu, Nho gia đời sau cho rằng một lời khen của Xuân Thu ắt vinh quang ngàn đời, một lời chê của Xuân Thu là trừng phạt như lưỡi đao chém dứt khoát, phải muôn đời ô nhục. Do ý nghĩa này nên trong bài dùng “bao Xuân Thu chi nhất ngôn” để chỉ lời xưng tán, ngợi khen xứng đáng, hàm ý sự tán dương, khen ngợi là đúng thật, đáng tin cậy.

[29] Đây là lấy ý trong kinh Pháp hoa, quyển 3 có đoạn chép lời Phật dạy: “Thị thập lục Bồ Tát Sa-di thậm vi hy hữu... Thị thập lục Bồ Tát, thường nhạo thuyết thị Diệu pháp liên hoa kinh.” (是十六菩薩沙彌,甚為希有... 是十六菩薩,常樂說是妙法蓮華經。 - Mười sáu vị Bồ Tát Sa-di này thật rất ít có... Mười sáu vị Bồ Tát này thường ưa thích thuyết giảng kinh Diệu pháp liên hoa.” - (ĐCT, T9, 262, tr.25b, d.11-19) Vị sa-di cuối cùng thứ 16 chính là tiền thân của đức Phật Thích-ca Mâu-ni.

[30] Nguyên tác dùng “Nhạn Môn chi bút” (雁門之筆) để chỉ văn tài của Đại sư Tuệ Viễn (慧遠 - 334-416), vốn quê ở Nhạn Môn (雁門) nên thường xưng là Nhạn Môn tăng. Ngài là bậc văn tài lỗi lạc hiếm có, hiện còn để lại rất nhiều tác phẩm trong Đại Chánh Tạng.

[31] Hòa thượng Huyền Lãng đích thân viết lời dẫn này. Hòa thượng sinh năm 673, hoàn tất việc chỉnh sửa sách này năm 69 tuổi, tức là năm 741. Lời tựa của ngài Thần Quýnh lại ghi là sách này được ngài Huyền Lãng thực hiện năm 748. Trong Lời tựa nói “bị Đan Khâu chi thiêm tước” (備丹丘之添削), có thể hiểu là hoàn tất việc chỉnh sửa. Như vậy, có thể suy đoán là thời gian thực hiện việc chỉnh sửa này đã kéo dài từ năm 741 đến năm 748.

[32] Theo Đại sư Trí Khải trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh huyền nghĩa (妙法蓮華經玄義) (ĐCT, T33, 1716, tr.682a, d.4-5) thì phần đầu của tất cả các bản kinh đều nêu ra 5 việc, bao gồm: 1. Như thị, 2. Ngã văn, 3. Nhất thời, 4. Phật trụ, 5. Thính chúng. Cũng năm việc này nhưng có sự phân chia khác thường gặp hơn là Lục chủng thành tựu bao gồm: 1. Tín thành tựu (như thị), 2. Văn thành tựu (ngã văn), 3. Thời thành tựu (nhất thời), 4. Chủ thành tựu (Phật), 5. Xứ thành tựu (trụ hay tại), 6. Chúng thành tựu (thính chúng). Như vậy, cả hai cách giảng giải này vẫn thống nhất với nhau về nội dung ở phần đầu của tất cả các kinh điển do Phật thuyết.

[33] Sáu điềm lành, cũng gọi là Pháp hoa lục thụy (法華六瑞). 1. Thuyết pháp thụy: Trước khi khai giảng kinh Pháp hoa, đức Phật đã giảng kinh Đại thừa Vô lượng nghĩa, là điềm lành thứ nhất 2. Nhập định thụy: Sau khi giảng kinh Vô lượng nghĩa, đức Phật nhập Vô lượng nghĩa xứ Tam-muội, đó là điềm lành thứ hai. 3. Vũ hoa thụy: Trong lúc Phật nhập định, trời mưa xuống các loại hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đà-la v.v. Đó là điềm lành thứ ba. 4. Địa động thụy: Sau khi trời mưa hoa thì mặt đất chấn động sáu cách. Đó là điềm lành thứ tư. 5. Chúng hỷ thụy: Đại chúng khi ấy nhìn thấy được các việc thù thắng hy hữu, đều sinh lòng hoan hỷ. Đó là điềm lành thứ năm. 6. Phóng quang thụy: Cuối cùng, đức Phật phóng hào quang từ bạch hào (lông trắng) ở khoảng giữa hai chân mày, soi chiếu khắp các cõi thế giới. Đó là điềm lành thứ sáu.

[34] Nguyên tác là “Trung A-hàm vân bạt-cừ” (中阿含云 跋渠), là nói cách phiên âm trong kinh Trung A-hàm, từ Phạn ngữ là varga. Pháp hoa nghĩa sớ ghi: “品者外國名跋渠此稱為品“ (Phẩm giả, ngoại quốc danh bạt-cừ, thử xưng vi phẩm - Chữ phẩm này, tiếng nước ngoài là bạt-cừ, Trung quốc gọi là phẩm.) Như vậy, cách phiên âm này cũng là phổ biến.

[35] Ở đây chỉ kinh Phạm Võng trong Trường A-hàm, cũng gọi là Phạm động. Mục đích nêu ví dụ ở đây là chính đức Phật sau khi thuyết giảng xong phẩm kinh thì cũng xác lập nội dung và tự nói ra tên gọi phẩm kinh ấy.

[36] La Thập, tức Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva - 鳩摩羅什), một trong các Đại dịch giả giữ vai trò quan trọng trong sự hình thành Đại Tạng Kinh Trung Hoa. Ngài chủ trương phương pháp dịch thuật lấy việc chuyển tải ý kinh là chính mà không nhất thiết đi sát theo từng câu chữ trong nguyên tác. Do đó, có những chỗ ngài mạnh dạn thay đổi cách diễn đạt hoặc sắp xếp lại kinh văn sao cho đạt được mục đích cao nhất là chuyển tải ý nghĩa. Do vậy, việc sắp xếp và đặt tên các phẩm kinh là do chính ngài thực hiện trong quá trình dịch, cụ thể như khi dịch kinh Đại Bát-nhã đã phân chia và đặt tên 90 phẩm.

[37] Vào cuối phẩm kinh, đức Phật dạy: “Nếu có người nghe phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự này cũng được vô lượng vô biên công đức.” Cho nên, nội dung và tên gọi phẩm kinh này là do chính đức Phật nói ra.

[38] Vào cuối phẩm Diệu Âm có câu: “Lúc nói phẩm Diệu Âm Bồ Tát lai vãng này, bốn mươi hai nghìn vị Thiên tử được vô sinh pháp nhẫn...” Cuối phẩm Phổ Môn thì có câu: “Lúc Phật nói phẩm Phổ Môn này, trong chúng có tám muôn bốn nghìn chúng sinh đều phát tâm vô đẳng đẳng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” Những câu kinh này xác lập nội dung và tên gọi phẩm kinh, được xem là do người chép kinh ghi lại, không phải do Phật tự nói ra.

[39] Trong kinh văn cũng như Văn Cú, tên mỗi phẩm đều kèm theo các chữ đệ nhất, đệ nhị... Vì chỉ mang ý nghĩa cho biết thứ tự của phẩm kinh nên chúng tôi thay bằng số đếm đặt trước tên phẩm.

[40] Nguyên tác dùng phó duyên (赴緣), Hòa thượng Tịnh Không giải thích rằng: “赴緣,就是感應,眾生有感,佛就有應。Phó duyên, tựu thị cảm ứng, chúng sinh hữu cảm, Phật tựu hữu ứng.” Do ý nghĩa này, chúng tôi chuyển dịch là “tùy theo nhân duyên của chúng sanh”.

[41] Tán hoa (rải hoa) và quán hoa (xâu hoa thành chuỗi): Cách nói thí dụ về cách giảng giải giáo pháp trong kinh điển. Ở đây ví kinh văn diễn giảng phân tán như hoa rải khắp nơi, còn kệ tụng thì gồm thâu ý nghĩa lại một cách cô đọng, súc tích nên ví như hoa được xâu lại thành chuỗi.

[42] Nội dung này dẫn trích từ kinh Tăng Nhất A-hàm (ĐCT, T2, 125, tr.549c, d.26-29), nguyên văn như sau: 契經一分,律二分,阿毘曇經復三分。過去三佛皆三分:契經,律,法為三藏。契經今當分四段,次名增一,二名中,三名曰長多瓔珞,雜經在後為四分。” (Khế kinh nhất phần, Luật nhị phần, A-tỳ-đàm kinh phục tam phần. Quá khứ tam Phật giai tam phân: Khế kinh, Luật, Pháp vi Tam tạng. Khế kinh kim đương phân tứ đoạn, thứ danh Tăng nhất, nhị danh Trung, tam danh viết Trường đa anh lạc, Tạp kinh tại hậu vi tứ phần.)

[43] Ngũ bộ luật (5 bộ luật) bao gồm: 1. Luật Tứ phần (Đàm-vô-đức bộ), 2. Luật Thập tụng (Tát-bà-đa bộ), 3. Luật Ngũ phần (Di-sa-tắc bộ), 4. Luật Trì giải thoát (Ca-diếp-di bộ) và 5. Luật Tăng-kỳ (Ma-ha Tăng-kỳ bộ).

[44] Bát thập tụng luật: Bộ luật đầu tiên do Tôn giả Ưu-ba-ly tụng lại trong kỳ kết tập lần thứ nhất để lưu truyền. Từ bộ luật này, về sau mới phân chia thành Ngũ bộ luật của các tông phái khác nhau.

[45] Bát kiền-độ luận (八犍度論), Phạn ngữ là Khandha, do ngài Ca-chiên-diên soạn bằng cách phân chia các pháp môn thành 8 nhóm, bao gồm: Tạp kiền-độ, Kết sử kiền-độ, Trí kiền-độ, Hành kiền-độ, Tứ đại kiền-độ, Căn kiền-độ, Định kiền-độ và Kiến kiền-độ.

[46] Bát chủng tụ (八種聚) cũng tức là bát kiền-độ (八 犍度) vừa nói trên. Căn tánh là chỉ Căn kiền-độ, đạo là chỉ Trí kiền-độ. Ở đây chỉ nêu ba kiền độ làm tiêu biểu.

[47] Tiêu đề tiểu mục do chúng tôi thêm vào khi Việt dịch để người đọc tiện theo dõi.

[48] Tức Vasubandhu, còn gọi là Bồ Tát Thế Thân, một trong những vị Luận sư lỗi lạc của Phật giáo. Ngài là em ruột của Bồ Tát Vô Trước, cũng là một vị Luận sư Đại thừa nổi tiếng.

[49] Bảy công đức thành tựu: 1. Tự phần thành tựu, 2. Chúng thành tựu, 3. Như Lai dục thuyết pháp thời chí thành tựu, 4. Sở y thuyết pháp tùy thuận uy nghi trụ thành tựu, 5. Y chỉ thuyết nhân thành tựu, 6. Đại chúng hiện tiền dục văn pháp thành tựu, 7. Văn-thù-sư-lợi đáp thành tựu. (Diệu Pháp Liên Hoa kinh luận Ưu-ba-đề-xá - ĐCT, T26, 1520, tr.10c, d.20 - 24)

[50] Tức Ngũ thị hiện hay Ngũ phần, bao gồm: 1. Thán pháp thắng diệu phần, 2. Thán pháp sư công đức phần, 3. Trí chúng định nghi phần, 4. Định ký phần, 5. Đoạn nghi phần.

[51] Tức ngài Thích Đạo Bằng (釋道憑), một danh tăng thời Bắc Ngụy, sinh vào khoảng năm 488, từng chú giải rất nhiều kinh luận.

[52] Tức ngài Thích Pháp Dao (釋法瑤), hay Đàm Dao (曇瑤), tăng sĩ vào đời Tống, ở chùa Tiểu Sơn (小山寺) quận Ngô Hưng. Đến đời Tùy quận này đổi thành Hồ Châu, tức huyện Ô Trình. Ngài thị tịch trong khoảng niên hiệu Nguyên Huy (473-477)

[53] Quang Trạch: tức ngài Thích Pháp Vân (467-529), trụ trì chùa Quang Trạch. Ngài cùng với hai vị Tăng Mân và Trí Tạng được tôn xưng là Tam Đại Pháp Sư của triều Lương. Ngài từng giảng kinh Pháp hoa tại chùa Quang Trạch vào khoảng những năm đầu thế kỷ 6 (502-505).

[54] Nguyên tác ghi “問津者所不貴 - Vấn tân giả sở bất quý.” Pháp hoa văn cú ký giải thích rõ hơn: “津者,濟渡處也。- Tân giả, tế độ xứ dã.” Đoạn tiếp theo, ngài Trạm Nhiên nêu hàm ý, như người hỏi đường đi, kẻ đáp không chỉ ngay lối cần đi mà chỉ nói rộng về các ngả đường quanh đó, thật không phải chỗ người hỏi đường cần biết.

[55] Bản Hán dịch ban đầu của ngài Cưu-ma-la-thập chỉ có 27 phẩm. Về sau được bổ sung phẩm Đề-bà-đạt-đa ngay sau phẩm Hiện Bảo Tháp, thành ra bản kinh hiện nay có 28 phẩm. Văn Cú có giải thích việc này trong quyển 8.

[56] Cách phân chia này cũng được hiểu khái quát là Tích môn và Bản môn. Phần Tích môn gồm 14 phẩm đầu tiên phá bỏ Tam thừa làm phương tiện để hiển bày Nhất thừa là chân thật, rốt ráo. Phần Bản môn gồm 13 (hay 14) phẩm sau nêu việc đức Phật thành đạo trong hiện kiếp để chỉ rõ thật ra ngài đã thành Phật từ nhiều kiếp lâu xa về trước.

[57] Nguyên tác gọi phẩm này là phẩm Đa Bảo.

[58] Tất đàn (悉檀), với nghĩa tất (悉) là rộng khắp, biến khắp; đàn (檀) là nói tắt của đàn-na, phiên âm chữ dāna, nghĩa là ban cho, thí cho. Giáo pháp của đức Phật được phân chia thành bốn phạm trù, gọi là Tứ tất đàn (Siđhānta), bao gồm: 1. Thế giới tất đàn (世 界悉檀): tùy thuận theo sở kiến của thế gian mà nêu rõ thuyết nhân duyên, duyên khởi, chỉ rõ tất cả các pháp đều do nhân duyên hòa hợp mà sinh ra, nên tự chúng không có thực thể. Phần giáo pháp này giúp chúng sinh phàm phu có được trí tuệ chân chánh, đạt được niềm vui. Do đó, đây cũng gọi là Lạc dục tất đàn (樂欲悉檀). 2. Các các vị nhân tất đàn (各各為人悉檀): cũng nói tắt là Vị nhân tất đàn. Phần giáo pháp này tùy theo căn cơ, năng lực khác biệt của mỗi chúng sinh mà dạy các pháp thực tiễn, giúp chúng sinh sinh khởi căn lành. Do đó, đây cũng gọi là Sinh thiện tất đàn (生善悉檀). 3. Đối trị tất đàn (對治悉檀): tùy theo tánh xấu ác của chúng sinh như tham lam, sân hận, si mê... mà dạy các pháp đối trị, giúp trừ dứt các phiền não của chúng sinh. Phần giáo pháp này có thể đoạn trừ được mọi điều xấu ác, nên cũng gọi là Đoạn ác tất đàn (斷惡悉檀). 4. Đệ nhất nghĩa tất đàn (第一 義悉檀): Phần giáo pháp này phá trừ tất cả mọi luận thuyết sai trái, dùng nghĩa lý đệ nhất nêu lên lẽ thật tướng của các pháp, giúp chúng sinh chân chính khế nhập giáo pháp, nên cũng được gọi là Nhập lý tất đàn (入理悉檀). Ba loại tất đàn đầu tiên là mang lại lợi ích cho chúng sinh trong đời sống (lạc dục, sinh thiện, đoạn ác), nên trong văn này gọi là ba lợi ích. Loại cuối cùng là Đệ nhất nghĩa tất đàn chính là con đường giải thoát rốt ráo, nên trong văn này gọi là một mối đạo.

[59] Tức là 19 đoạn kệ do Bồ Tát Di-lặc nói ra trong Pháp hội, thuộc phẩm Phân biệt công đức. Mỗi đoạn kệ có 4 câu, tổng cộng là 76 câu kệ. Nguyên tác dùng “十九行偈” (thập cửu hàng kệ) vì trong sách này dùng chữ hàng (行) để chỉ một khổ kệ gồm 4 câu.

[60] Theo đoạn này thì tổng cộng toàn kinh có 28 phẩm. Như vậy, vào thời điểm này phẩm Đề-bà-đạt-đa đã được thêm vào.

[61] Nguyên tác kinh văn: “以問斯事,佛今答之,汝等自當因是得聞”. (ĐCT, T9, 262, tr.41a, d.12-13)

[62] Trong Văn Cú, câu này là “從佛告阿逸多” (tùng Phật cáo A-dật-đa), hẳn là nói đại lược theo ý. Chúng tôi dẫn đúng theo kinh văn là: “爾時釋迦牟尼佛告彌勒菩薩”. (ĐCT, T9, 262, tr.41a, d.14)

[63] Nguyên tác dùng “tiêu văn” (消文), chỉ một trong bốn giai đoạn học hiểu và thực hành một bản kinh Phật, bao gồm: tiêu văn (消文), thích nghĩa (釋義), nhập lý (入 理), đàm huyền (談玄). Tiêu văn là giai đoạn trước tiên, người học cần phải phân tích và nhận hiểu chính xác ý nghĩa từ ngữ, câu văn trong bản kinh. Cách phân chia vừa được trình bày trên là để giúp cho giai đoạn này. Tiếp theo, phần thích nghĩa là trên căn bản các ý nghĩa nền tảng đã hiểu mà mở rộng, giảng giải thêm ra, giải thích đầy đủ các ý nghĩa trong kinh. Nhập lý là giai đoạn vận dụng ý nghĩa kinh văn đã học, so sánh quán chiếu trong chính nội tâm mình để thể nhập được ý nghĩa chân thật trong kinh điển. Đàm huyền là giai đoạn phát triển từ sự thể nhập chân lý để phát huy diệu dụng của Phật pháp, đạt đến cảnh giới bất khả tư nghị với trí tuệ chân chánh của bậc giác ngộ.

[64] Trong kinh Hoa nghiêm có nhiều Hội xứ khác nhau, mỗi một Hội xứ như vậy khi Kinh văn đề cập đến đều có phần mô tả về Hội chúng vân tập nghe pháp, tương đương như phần Tựa của các kinh. Cụ thể như ở đầu các phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm, phẩm Như Lai Danh Hiệu, phẩm Quang Minh Giác v.v.

[65] Kinh A-hàm là tên chung, trong đó gồm những kinh ngắn, nhiều kinh trong đó đều có phần “Như thị ngã văn...” như một bản kinh độc lập.

[66] Trong kinh này có phẩm Lụy giáo được xem là Tiền Phó chúc, lại có phẩm Chúc lụy được xem là Hậu Phó chúc.

[67] Ở đây chỉ 5 điều thường được nêu ra ở phần đầu của một bản kinh, bao gồm: 1. Như thị, 2. Ngã văn, 3. Nhất thời, 4. Phật trụ, 5. Thính chúng.

[68] Tăng Triệu (僧肇,378-414): bậc luận sư xuất sắc của Trung quốc vào đầu thế kỷ 5, theo học với ngài Cưu-ma-la-thập. Ngài để lại các tác phẩm nổi tiếng được gọi chung là Triệu luận, bao gồm: 1. Bát-nhã vô tri luận (般若無知論), 2. Bất chân không luận (不真空論), 3. Vật bất thiên luận (物不遷論) và 4. Niết-bàn vô danh luận (涅槃無名論).

[69] Văn Cú trích phần kệ này là: “我本立誓願。普令一 切眾。亦同得此道。如我等無異。 - Ngã bản lập thệ nguyện, phổ linh nhất thiết chúng, diệc đồng ngã thử đạo, như ngã đẳng vô dị. “ Như vậy là theo ý mà không đúng nguyên văn trong kinh, chúng tôi đã điều chỉnh lại. Xem kinh văn đã dẫn ( tr.8b, d.4-5).

[70] Văn Cú ở đây chỉ trích ý kinh, không dẫn nguyên kinh văn. Đoạn kệ trùng tuyên trong phẩm Thí dụ này như sau: “若人有能信汝所說,則為見我,亦見於汝,及比丘僧,并諸菩薩。” (Nhược nhân hữu năng, tín nhữ sở thuyết, tắc vi kiến ngã, diệc kiến ư nhữ, cập tỳ-kheo tăng, tịnh chư Bồ Tát.) Chúng tôi dẫn lại theo kinh văn.

[71] Đoạn này trình bày một phần giáo nghĩa của tông Thiên Thai gọi là Chủng thục thoát (種熟脫). Giáo lý này phân chia sự giáo hóa chúng sinh của một vị Phật thành ba giai đoạn. Chủng (種), hay hạ chủng (下種), là giai đoạn đầu tiên gieo hạt giống Phật, tức nhân duyên đến với Phật pháp. Thục (熟), hay điều thục (調熟), là giai đoạn truyền bá, giảng dạy giáo pháp, làm cho hạt giống Phật đã gieo trong tâm thức chúng sinh được thành thục, chín mùi. Thoát (脫), hay giải thoát (解脫), là giai đoạn thực sự chứng đắc, thoát khỏi khổ đau, thành tựu đạo quả. Các đoạn tiếp theo cũng trình bày giáo nghĩa này nhưng từ nhiều góc độ khác nhau để làm rõ hơn.

[72] Bốn mùi vị: nguyên tác dùng tứ vị (四味), cần được hiểu theo một khái niệm so sánh đặc thù của tông Thiên Thai, trong đó toàn bộ tiến trình tu chứng trải qua các giai đoạn được ví như quá trình chế biến các sản phẩm khác nhau từ sữa tươi, bao gồm: nhũ (sữa tươi), lạc (sữa nấu đặc thành cao sữa), sinh tô (váng sữa sống), thục tô (váng sữa chín) và đề-hồ. Đề-hồ là sản phẩm cuối cùng quý giá nhất, có vị ngon nhất, được dùng để ví như quả Phật viên mãn. Do đó, toàn bộ tiến trình tu tập trước khi thành Phật được ví như trải qua bốn mùi vị: nhũ, lạc, sinh tô và thục tô.

[73] Nguyên tác dùng “đạo chủng trí” (道種智), chỉ trí tuệ của hàng Bồ Tát có thể thấy rõ được sự sai biệt của hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian. Theo Phật Quang Đại từ điển, Đại Trí Độ luận (大智度論), quyển 84 có nói về ba loại trí tuệ là nhất thiết trí (一 切智) của hàng Thanh văn, đạo chủng trí (道種智) của hàng Bồ Tát và nhất thiết chủng trí (一切種智) là trí tuệ của chư Phật.

[74] Nguyên tác dùng “tinh nguyệt” (星月 - sao và trăng), Pháp hoa văn cú ký (法華文句記) giải thích: “Địa tiền như tinh, đăng địa như nguyệt.” (地前如星登地如月) Nghĩa là: Bồ Tát khi chưa chứng Thập địa (địa tiền), trí tuệ chỉ như ánh sao, sau khi lần lượt chứng đắc các quả vị (đăng địa) thì trí tuệ tỏa sáng như ánh trăng.

[75] Nguyên tác dùng “dương diệp, mộc ngưu, mộc mã” (楊葉木牛木馬). Dương diệp tức “dương thụ hoàng diệp”, nghĩa là chiếc lá màu vàng của cây dương. Mộc ngưu, mộc mã là trâu gỗ, ngựa gỗ. Các ví dụ này đều được rút ra từ kinh Đại Bát Niết-bàn, phẩm Anh nhi hạnh. Đức Phật dùng những thí dụ này để chỉ các phương tiện quyền biến được ngài sử dụng dẫn dắt chúng sinh, cũng như phẩm Thí dụ Hóa thành trong kinh Pháp hoa.

[76] Nguyên tác dùng “bán tự” (半字 - nửa chữ) để chỉ giáo pháp quyền biến dẫn dắt, không rốt ráo. Pháp hoa văn cú ký cũng giải thích rằng “bán tự” dùng để chỉ 9 bộ kinh quyền thừa.

[77] Nguyên tác dùng “cộng tự” (共字) để chỉ các giáo pháp được chia sẻ với hàng Nhị thừa.

[78] Nguyên tác dùng biệt tự (別字) để chỉ giáo pháp riêng biệt của hàng Bồ Tát.

[79] Bản tích là giáo lý đặc thù của tông Thiên Thai, do ngài Trí Khải đề ra. Bản (本) là gốc, chỉ cội nguồn, căn nguyên ban đầu. Tích (迹) là dấu tích, vết tích thấy được, chỉ những hiện tướng về sau, gần gũi hơn.

[80] Đoạn này giải thích về bản tích đối với kinh Pháp hoa. Vốn đã được chư Phật trước đây thuyết giảng là bản, nay Phật Thích-ca trùng tuyên là tích.

[81] Ở đây chỉ đức Phật Thích-ca trong thời gian còn tu hành đạo Bồ Tát.

[82] Theo phân tích ở đây cần hiểu tự hay tựa là phần mở đầu, chuẩn bị, chánh hay kinh văn là phần nội dung thực hiện chính yếu, và lưu thông là phần vận dụng nội dung chính yếu đó.

[83] Bản Hán văn ghi “tác lễ nhi thối” (作禮而退) nhưng đúng theo kinh văn thì câu cuối này phải là “tác lễ nhi khứ” (作禮而去). Mặc dù ý nghĩa không khác nhau nhiều nhưng chúng tôi điều chỉnh theo đúng kinh văn.

[84] Thông tự (通序), hay tựa chung, là phần có những thông tin tổng quát, thường chung cho tất cả hay hầu hết các kinh. Phần biệt tự (別序) hay tựa riêng gồm những thông tin cụ thể chỉ riêng cho kinh này.

[85] Thế giới tất đàn (世界悉檀), là một trong Tứ tất đàn hay bốn pháp mà chư Phật vận dụng để giáo hóa chúng sinh, bao gồm thế giới tất đàn (世界悉檀), các các vị nhân tất đàn (各各為人悉檀) hay nhân tất đàn, đối trị tất đàn (對治悉檀) và đệ nhất nghĩa tất đàn (第一義悉檀).

[86] Chữ a, chữ âu là nói theo Phạn ngữ. Ở đây muốn nói đến hai cực đoan của ngoại đạo là chấp không và chấp có. Lý “như thị” của Phật giáo là chỉ thẳng vào hiện thực như nó đang hiện hữu mà không có sự bám chấp rằng đó là không hay là có.

[87] Bất định giáo là giáo pháp đặc biệt khi thuyết giảng trong một Pháp hội thì mỗi chúng sinh tùy theo căn cơ riêng biệt mà có thể nhận hiểu khác nhau.

[88] Đây là trình bày theo hệ thống Ngũ thời bát giáo của tông Thiên Thai, trong đó bát giáo được chia làm bốn Giáo hóa nghi và bốn Giáo hóa pháp. Bốn Giáo hóa nghi gồm Đốn giáo, Tiệm giáo, Bí mật giáo và Bất định giáo. Bốn Giáo hóa pháp gồm Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo.

[89] Nguyên văn dùng bát giáo (八教), chỉ tám phương thức thuyết giảng hay tám giáo nghĩa do Phật thuyết dạy. Ở đây nhắc lại để tóm lược như trên đã nêu gồm Đốn giáo, Tiệm giáo, Bí mật giáo, Bất định giáo, Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo. Mỗi giáo nghĩa này là một phương thức truyền dạy khác nhau, phù hợp với một số đối tượng chúng sinh. Do vậy nói “bày ra tám giáo” là để có thể giáo hóa hết thảy chúng sinh.

[90] Câu này nhắc đến một ví dụ trong Kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 38, đại ý kể chuyện Bồ Tát Ca-diếp thưa hỏi: “Người có trí nên quán niệm và niệm diệt như thế nào?” Phật dạy: “Như có bốn người đều giỏi thuật bắn tên, cùng lúc quay ra bốn hướng để bắn tên và đều nghĩ rằng: ‘Chúng ta cùng lúc bắn tên ra, các mũi tên sẽ cùng lúc rơi xuống.’ Lại có một người khác nghĩ rằng: ‘Nay ta sẽ cùng lúc bắt lấy các mũi tên, không cho rơi xuống đất.’ Này Ca-diếp! Người đón bắt các mũi tên kia, dù làm được như thế cũng chưa gọi là nhanh... ...sự vô thường còn nhanh hơn thế nữa.” (ĐCT, T12, 374, tr.589c, d.11-19)

[91] Đoạn này ý nói Phật pháp phương tiện dùng cả 8 giáo nghĩa linh hoạt nhiệm mầu còn chưa đủ nhiếp hóa hết thảy chúng sinh, huống chi nếu chỉ có một hai phương tiện chậm lụt như lừa đần, rùa què thì làm sao giáo hóa?

[92] Nội dung này nằm trong đoạn kệ tụng, đức Phật đang nói với ngài Xá-lợi-phất.

[93] Nguyên tác dùng Thân Tử (身子), là dịch tên ngài Xá-lợi-phất theo Cựu dịch.

[94] Văn cú dùng chữ Long Đà (龍陀), có thể hiểu theo 2 cách. Theo sách này, ở quyển 5 có nói ngài Xá-lợi-phất vốn đã thành Phật từ lâu, hiệu là Kim Long Đà (金龍陀). Lại theo Pháp hoa văn cú ký, quyển 1, thì Đại trí độ luận có dẫn kinh Đại Bảo Tích nói ngài Tu-bồ-đề thành Phật hiệu là Thanh Long Đà (青龍陀). Đoạn này đang nói về ngài Xá-lợi-phất (Thân Tử) nên nghĩa thứ nhất thích hợp hơn.

[95] Nghĩa là tùy thuận theo chỗ hiểu của chúng sinh mà giải thích.

[96] Bốn câu “chấp ngã” được nhắc tới ở đây là: 我所非我所,亦我非我所, 非我非我所,是亦為邪論 – Ngã sở phi ngã sở, diệc ngã phi ngã sở, phi ngã phi ngã sở, thị diệc vi tà luận. (Thập trụ Tỳ-bà-sa luận - 十住毘婆沙論 - ĐCT, T26, 1521, tr.28c, d.17-18)

[97] Quan điểm cho rằng các danh xưng khác nhau như trên chỉ là dành cho một người, do có bốn (hoặc ba) phẩm đức, được nhắc đến trong Phiên dịch danh nghĩa tập (翻譯名義集) và Viên giác kinh lược sớ (圓覺經略疏). Có thể nhận xét ở đây là dựa vào các sách ấy.

[98] Tam-muội Phật giác: do sức Tam-muội của Phật gia trì mà có được trí giác ngộ đồng với Phật, do đó mà nói “tự mình nghe được”, có nghĩa là có những kinh tự biết mà không nhất thiết phải nghe từ kim khẩu Phật thuyết.

[99] Thai kinh (胎經), tức Xử thai kinh (處胎經) hay Bồ Tát xử thai kinh (菩薩處胎經), 5 quyển, chỉ thấy ghi lại trong các bản Mục lục kinh điển, hiện tại chúng tôi chưa tìm được nội dung kinh. Chúng kinh mục lục (眾經目錄), quyển 1, cho biết kinh này do ngài Trúc Phật Niệm dịch tại Trường An vào thời Tiền Tần.

[100] Nguyên tác là “傳聞聞法 - truyền văn văn pháp”, tức là nói về giáo pháp có thể nghe được qua nhĩ căn của phàm phu.

[101] Nguyên tác là “得空無相願 - đắc không vô tướng nguyện”, đề cập đến Tam giải thoát môn tức là Không, vô tướng và vô nguyện.

[102] Nguyên tác là “傳持聞不聞法 - truyền trì văn bất văn pháp”, tức là nói về giáo pháp mà nhĩ căn của phàm phu không thể nghe được.

[103] Nguyên tác là “傳持不聞聞法 - truyền trì bất văn văn pháp”, tức là nói về giáo pháp của hàng Bồ Tát, không thể truyền dạy qua sự nghe biết.

[104] Nguyên tác là “佛法大海水 流入阿難心 - Phật pháp đại hải thủy, lưu nhập A-nan tâm“. Câu này nằm ở một bài kệ tán trong Luận Đại Trí độ, quyển 3.

[105] Nguyên tác là “傳持不聞不聞法 - truyền trì bất văn bất văn pháp”, tức là nói về giáo pháp rốt ráo chân đế. Đại Bát Niết-bàn Kinh sớ, quyển 20 giải thích: “不聞不聞此但真諦絕無見聞 – bất văn bất văn thử đãn chân đế tuyệt vô kiến văn.“ (ĐCT, T38, 1767, tr.156b, d.9-10)

[106] Nguyên tác dùng “肇師 – Triệu Sư”, chỉ ngài Tăng Triệu (384-414), tác giả của bộ Triệu luận, là một trong bốn đệ tử lớn của ngài Cưu-ma-la-thập.

[107] Nguyên tác là “見諦已上無學已下 – kiến đế dĩ thượng, vô học dĩ hạ”. Kiến đế chỉ bậc chứng đắc sơ quả Tu-đà-hoàn. Vô học chỉ bậc chứng tứ quả A-la-hán. Do vậy câu này chỉ hết thảy các vị chứng bốn thánh quả.

[108] Nguyên tác dùng “三人 - tam nhân“ để chỉ người tu học trong cả ba thừa: Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ Tát thừa.

[109] Bồ Tát đăng địa, chỉ các vị Bồ Tát từ Sơ địa trở lên.

[110] Tức là nói Đông Thắng thần châu.

[111] Tức là nói Tây Ngưu hóa châu.

[112] Tức là nói Bắc Câu-lô châu.

[113] Tức là nói cõi Nam Diêm-phù-đề.

[114] Nguyên tác chỗ này là “離車子云 - Ly-xa tử vân”, nghĩa là lời của Ly-xa tử. Tuy nhiên, Pháp hoa văn cú ký dẫn trọn nội dung kinh thì đoạn này là do một bà-la-môn tên Vô Thắng (tức A-dật-đa) nói với Ly-xa tử.

[115] Lời giải thích này của Bà-la-môn Vô Thắng là vì trước đó Ly-xa tử tự trách rằng: “Do chúng ta lười nhác phóng túng nên Phật mới ra đời ở xứ Ma-kiệt-đà mà không ra đời ở đây.” Vô Thắng giải thích rằng không phải như vậy, chỉ vì những ai mê đắm năm món dục thì đều không thấy được Phật, dù có ở ngay nơi Phật ra đời cũng vậy thôi.

[116] Cõi trời Hữu đỉnh (有頂天), tên Phạn ngữ là Akaniṣṭha-deva, phiên âm là A-ca-ni-trá, cũng gọi là Sắc cứu cánh thiên (色究竟天), là tầng trời cao nhất thuộc Sắc giới.

[117] Tức là nói những chúng sinh biết tu tập, thuộc về một trong ba thừa.

[118] Đoạn này có nghĩa là những chúng sinh tạo nhân lành sinh lên cõi trời Hữu đỉnh tuy được hưởng phước báo lớn nhưng không có nhân duyên thích hợp tu đạo giải thoát. Cho nên, muốn vượt thoát sinh tử thì không nên tạo nhân hướng về việc sinh lên cõi trời.

[119] Chánh sử (正使) là những phiền nào chánh thể (chủ thể) hiện khởi có khả năng sai sử, thôi thúc chúng sinh khiến tạo nghiệp trôi lăn trong luân hồi. Tập khí (習氣) là những phiền não tích tập từ lâu đời. 34 tâm được đề cập ở đây bao gồm bát nhẫn và bát trí có khả năng đoạn trừ kiến hoặc, cửu vô ngại và cửu giải thoát có khả năng đoạn trừ tư hoặc.

[120] Nguyên tác dùng Nhẫn độ (忍土), là cách gọi khác để chỉ cõi Ta-bà, cũng gọi là cõi Kham nhẫn.

[121] Bốn oai nghi: chỉ đủ các tư thế đi, đứng, nằm và ngồi.

[122] Nguyên tác là “十善道 - thập thiện đạo”, là cách nói tắt của “thập thiện nghiệp đạo”, nghĩa là mười điều hiền thiện phải vâng theo để tạo nghiệp lành, ngược lại với “thập bất thiện đạo”.

[123] Nguyên tác là “三三昧 - tam tam-muội”, nghĩa là ba pháp tam-muội. Theo Pháp hoa huyền nghĩa, quyển 4, thì bao gồm Chân đế Tam-muội, Tục đế Tam-muội và Trung đạo Tam-muội. Theo một cách hiểu phổ biến hơn trong các Kinh điển Đại thừa thì bao gồm Không Tam-muội, Vô tướng Tam-muội và Vô nguyện Tam-muội. Một số luận giải cũng đưa ra những cách hiểu khác.

[124] Nguyên tác là “摩伽陀 – Ma-già-đà”, nhưng tên thông dụng hơn của nước này là Ma-kiệt-đà, cũng đọc là Ma-yết-đà, đều chỉ là những cách phiên âm khác nhau từ tên Phạn ngữ là Magadha.

[125] Chúng tôi không biết có sự nhầm lẫn nào ở đây không, nhưng theo Từ điển Phật Quang thì nước Thiên La (天羅國) có tên Phạn ngữ là Devala, dịch âm là Đề-bà-la, khác biệt khá xa so với Ma-kiệt-đề.

[126] Nguyên tác là “bác túc - 駁足”. Chữ bác (駁) có nghĩa là loang lỗ, vằn vện, chữ túc (足) có nghĩa là chân. Người thời ấy thấy đôi chân thái tử có màu vằn vện nên gọi tên như vậy.

[127] Nguyên tác là “四非常偈 - tứ phi thường kệ”. Pháp hoa văn cú ký giải thích rằng đây là tên khác của Tứ vô thường kệ. Thật ra là bài kệ nói về bốn ý nghĩa: khổ, không, vô thường và vô ngã.

[128] Trước đây vua Bác Túc thề sẽ bắt 1.000 vị vua này làm phẩm vật cúng tế thần núi. Nay đã giác ngộ không giết hại nên lấy mỗi người một giọt máu và ba sợi tóc để thay thế.

[129] Chim thứu: loài chim kên kên chuyên ăn xác động vật chết, kể cả xác người.

[130] Nguyên tác là “梁武 – lương vũ”, Pháp hoa văn cú ký cho rằng chữ vũ (武) đúng ra phải là chữ thư (睢) trong thư cưu (睢鳩), tức là tên một loài chim. Xét văn cảnh đang mô tả so sánh chim thứu và chim thư cưu ở Trung Hoa thì nhận xét này hoàn toàn hợp lý.

[131] Ở đây nói đến bài thơ “Quan quan thư cưu” trong Kinh Thi: “關關雎鳩, 在河之洲。窈窕淑女,君子好逑。- Quan quan thư cưu, tại hà chi chu. Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu.”

[132] Nguyên tác chép: “爾雅云似鵄 - Nhĩ nhã vân tự si.“ (Nhĩ nhã nói [chim này] giống với chim cú.) Nhĩ nhã là một tự điển Hán ngữ.

[133] Rừng thi-đà (尸陀林), phiên âm từ Phạn ngữ śītavana, không phải tên riêng mà là danh từ chỉ những khu rừng hoang được dân địa phương dùng để bỏ xác người chết cho chim thú ăn. Cũng gọi là hàn lâm (rừng lạnh).

[134] Nguyên tác là “支佛 - chi Phật”, tức là nói tắt để chỉ Phật Bích-chi hay Bích-chi-ca, phiên âm từ Phạn ngữ là Pratyeka.

[135] Nguyên tác dùng tinh xá (精舍) nhưng ở đây không chỉ các kiến trúc dành cho chư tăng tập trung cư trú và tu tập, mà chỉ cho những nơi yên tĩnh cách biệt được dùng cho mục đích tu tập.

[136] Năm ấm, tức là năm uẩn, do các dịch giả chuyển dịch trước sau khác biệt.

[137] Trong phẩm Thí dụ khi ngài Xá-lợi-phất đề cập đến các vị A-la-hán thì nói là có 1.200 vị, không phù hợp với số 12.000 ở đây. Khi tham khảo bản dịch của H. Kern dịch từ Phạn ngữ (Sanskrit) vào năm 1884 thì cả hai nơi đều nói là 1.200 vị. Bản Hán dịch khác, cùng Phạn bản tương đương với bản này là Chánh Pháp hoa (bản dịch của ngài Trúc Pháp Hộ) cũng ghi là 1.200. Xét như vậy thì có lẽ con số 1.200 là hợp lý hơn. Chúng tôi xin nêu ra điểm tồn nghi này ở đây.

[138] Kinh văn phần sau liệt kê thính chúng trong hàng chư thiên và loài người, bắt đầu từ câu “爾時釋提桓因 – nhĩ thời Thích-đề-hoàn-nhân...” (ĐCT, T9, 262, tr.2a, d.15).

[139] Nguyên tác dùng “處季孟之間 – xử Quý Mạnh chi gian”, chỉ người ở vào địa vị không cao không thấp, không thuộc về tầng lớp bên trên, cũng không rơi vào tầng lớp bên dưới. Cách dùng này xuất phát từ điển tích thời Xuân Thu, nước Lỗ có hai họ Quý tôn thị và Mạnh tôn thị có địa vị không cao không thấp trong hệ thống quý tộc thời đó.

[140] Ở đây đề cập đến đoạn kinh văn phần sau liệt kê các vị Bồ Tát trong hội chúng, bắt đầu từ câu “菩薩摩訶薩八萬人 – Bồ Tát Ma-ha-tát bát vạn nhân” (ĐCT, T9, 262, trang 2a, d.2).

[141] Nguyên tác là “開三顯一 – khai tam hiển nhất“, được tiếp tục đề cập ở phần sau.

[142] Ở đây trích dẫn từ Pháp hoa luận sớ, quyển hạ (法華論疏卷下), ĐCT, T40, 1818. Bốn loại Thanh văn theo luận này gồm có Quyết định Thanh văn (決定聲聞), Thối Bồ-đề Thanh văn (退菩提聲聞), Ứng hóa Thanh văn (應化聲聞) và Tăng thượng mạn Thanh văn (增上慢聲聞).

[143] Nguyên tác là “住 果 - trụ quả”, chỉ việc hành giả hài lòng, thỏa mãn với kết quả tu tập và không muốn tiếp tục tiến lên cầu quả vị Phật.

[144] Nguyên tác là “thể pháp” (體法), thuật ngữ của tông Thiên Thai, chỉ việc trực tiếp thể nhận chân lý không qua phân tích chia chẻ, “đương thể tức không”, tức thời đoạn sạch phiền não, chứng đắc chân không.

[145] Nguyên tác dùng “九十五 種道外- cửu thập ngũ chủng ngoại đạo”, thật ra chỉ là một cách nói khái quát để chỉ ra là rất nhiều hạng ngoại đạo khác nhau, không phải một số đếm chính xác. Trong nhiều kinh luận khác thường dùng “cửu thập lục” (96) vì con số này có thể giải thích liên quan đến lục sư ngoại đạo.

[146] Như chúng tôi đã lưu ý ở trước, con số đúng là 1.200 vị.

[147] Tánh niệm xứ (性念處), cũng gọi là tự tánh niệm trụ (自性念住), là phương thức tu tập Tứ niệm xứ (thân, thọ, tâm, pháp) lấy trí tuệ làm thể tánh, bao gồm văn, tư, tu.

[148] Cộng niệm xứ (共念處), cũng gọi là tương tạp niệm trụ (相雜念住) hay tương ưng niệm xứ (相應念處).

[149] Duyên niệm xứ (緣念處), cũng gọi là sở duyên niệm trụ (所緣念住) hay cảnh giới niệm xứ (境界念處).

[150] Nguyên tác là “四韋陀 – tứ Vi-đà”, tên gọi khác để chỉ bốn bộ Vệ-đà hay Phệ-đà của đạo Bà-la-môn (tức Áo nghĩa thư), nhưng ở đây dùng với nghĩa biểu trưng để chỉ cho hết thảy kinh sách ngoại đạo.

[151] Bốn môn của Tạng giáo, bao gồm Hữu môn, Không môn, Diệc hữu diệc không môn và Phi hữu phi không môn. Thông giáo và Biệt giáo cũng đều có Tứ môn mang tên giống như vậy, nhưng cách giải thích về giáo pháp là khác nhau.

[152] Thể pháp (體法), thuật ngữ của tông Thiên Thai, đã có chú thích ở trước.

[153] Nguyên tác là Hằng sa (恒沙), nói tắt của Hằng hà sa số (恒河沙數), nghĩa là số cát của sông Hằng, biểu ý nhiều đến mức không thể đếm được, do vậy có thể hiểu là vô số.

[154] Nhị thừa (二乘), chỉ hai thừa không rốt ráo, gồm Thanh văn thừa (hoặc Tiểu thừa) và Duyên giác thừa, để phân biệt với giáo pháp rốt ráo của Đại thừa hay Nhất thừa, Phật thừa.

[155] Nguyên tác dùng “秦言 - Tần ngôn” vì văn bản viết ra vào đời Tần, thực tế mang ý nghĩa là chỉ người Trung Hoa, và đối với người Việt thì đều là Hán ngữ.

[156] Nguyên tác dùng Thập sư (什師), chỉ ngài Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva - 鳩摩羅什), cũng gọi tắt là La-thập (羅什).

[157] Nguyên tác dùng “五系 - ngũ hệ”, tức ngũ xứ hệ (五處繫), là năm sự trói buộc khiến cho ma không thể tùy ý phá hoại, chẳng hạn như dùng pháp quán bất tịnh để đối trị ma ái dục...

[158] Bảy điều xấu ác của thân và khẩu, bao gồm ba điều xấu ác của thân là giết hại, trộm cướp và dâm dục, bốn điều xấu ác của miệng là nói dối, nói hai lưỡi, nói lời ác độc, nói lời thêu dệt hoặc vô nghĩa.

[159] Đại sư Bảo Lương (寶梁 – 444 - 509), từ năm 12 tuổi đã theo học với Pháp sư Đạo Minh, thông suốt uyên bác hết thảy kinh, luận. Về sau đến chùa Linh Vị thiết lập đạo tràng giảng các kinh Niết-bàn, Hoa nghiêm, Pháp hoa, Vô Lượng Thọ cùng với Thành thật luận v.v. Cuối đời, ngài sưu tập tất cả những tác phẩm chú giải hiện có rồi thêm kiến giải của mình vào soạn thành bộ Đại Bát Niết-bàn kinh tập giải (大般涅槃經集解) gồm 71 quyển. (ĐCT, T37, 1763). Điều cần lưu ý là trong Đại Chánh tạng cũng như Đại từ điển Phật Quang đều ghi tên ngài là 寶亮, do vậy cũng có người đọc là Bảo Lượng.

[160] Vô tác giới (無作戒), cũng gọi là vô biểu giới (無表戒), vô giáo giới (無教戒). Khi vị giới tử đắc giới thì vô tác giới thể này tự nhiên hình thành, tạo thành một sức ngăn giữ liên tục không để cho thân, khẩu, ý dễ dàng phạm vào những việc làm hư hoại giới thể.

[161] Tương tự đạo (相似道): Theo giáo lý tông Thiên Thai thì người tu tập sau khi trải qua các địa vị Thập tín, dứt trừ được kiến hoặc và tư hoặc trong ba cõi, sáu căn được thanh tịnh... thì có thể phát khởi trí tuệ chân thật tương tự như các vị hành giả từ Sơ trụ trở lên. Do vậy gọi là tương tự đạo.

[162] Nguyên tác là tà mạng (邪命), chỉ chung việc kiếm sống bằng những nghề không thích hợp, không chân chánh, bất thiện, tạo ác nghiệp. Đối với người xuất gia thì ngay cả việc kiếm sống bằng những nghề nghiệp như làm ruộng, buôn bán... cũng đều không được phép.

[163] Bốn thứ ma: bao gồm ma phiền não, ma năm ấm, ma chết, ma trời Tha hóa tự tại.

[164] Thông hoặc (通惑), tức là những phiền não chung, phổ quát ở mọi người, bao gồm kiến hoặc và tư hoặc.

[165] Biệt hoặc (別惑), tức những phiền não riêng, chỉ tu tập lên hàng Bồ Tát Biệt giáo mới phải đối diện dứt trừ, bao gồm trần sa hoặc và vô minh hoặc.

[166] Tám thứ ma, bao gồm bốn thứ ma vừa kể trên (là những yếu tố não hại tất cả phàm phu) và vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh (là những yếu tố não hại những người tu tập thuộc hàng Nhị thừa).

[167] Mười thứ ma, theo luận Đại Trí độ, quyển 5 thì gồm có: ham muốn, lo sầu, đói khát, yêu thương, thích ngủ, sợ hãi, nghi kị, tâm độc hại, lợi dưỡng và kiêu căng. Nếu theo kinh Hoa nghiêm, quyển 42 thì gồm có: ma ngũ ấm, ma phiền não, ma nghiệp, ma tâm, ma chết, ma trời, ma mất thiện căn, ma tam-muội (chấp chặt vào thiền định đã chứng được, là ma), ma thiện tri thức (bỏn xẻn pháp, không chịu nói cho người khác nghe) và ma không biết chánh pháp Bồ-đề.

[168] Ở đây chỉ phần đoạn sinh tử (分段生死) và biến dịch sinh tử (變易生死). Phần đoạn sinh tử là sự trôi lăn của hàng phàm phu trong sinh tử, cũng gọi là hữu vi sinh tử. Vì chúng sinh có thọ mạng ngắn dài, khi chết đi thì thân xác hư hoại, sang đời sống khác có thân xác khác nên gọi là phần đoạn. Biến dịch sinh tử là vòng sinh tử của hàng Bồ Tát, cũng gọi là vô vi sinh tử. Vì không có sự chấm dứt thọ mạng, thân biến dịch chỉ thay đổi chuyển biến từ giai đoạn này sang giai đoạn khác nên gọi là biến dịch sinh tử.

[169] Nguyên tác dùng ngũ trụ (五住), tức là ngũ trụ địa hoặc (五住地惑), cũng gọi Ngũ trụ địa phiền não. Theo Từ điển Phật Quang thì thuật ngữ này chỉ cho 5 loại phiền não căn bản: Kiến nhất xứ trụ địa, Dục ái trụ địa, Sắc ái trụ địa, Hữu ái trụ địa và Vô minh trụ địa. Vì 5 loại phiền não này là chỗ nương tựa, chỗ cư trú của hết thảy phiền não và thường sinh ra các phiền não khác, cho nên gọi là Trụ địa.

[170] Nguyên tác dùng Thi Ba-la-mật (尸波羅蜜) tức là Thi-la Ba-la-mật-đa (尸羅波羅蜜多), dịch theo ý nghĩa là Trì giới Ba-la-mật.

[171] Nguyên tác dùng nhị biên (二邊), nghĩa là hai bên, chỉ cho quan điểm sai lầm nghiêng về hai bên, nghĩa là chấp có hoặc chấp không, cũng gọi là biên kiến.

[172] Nguyên tác là “天竺云 - Thiên Trúc vân”. Người Trung Hoa xưa gọi Ấn Độ là Thiên Trúc. “Người Thiên Trúc nói rằng” có nghĩa là trong ngôn ngữ của Thiên Trúc, tức là Phạn ngữ (Sanskrit).

[173] Câu giải thoát (俱解脫), chỉ bậc A-la-hán nhờ định và tuệ mà dứt trừ cả hai chướng phiền não nên được giải thoát.

[174] Nguyên tác “五方便 - ngũ phương tiện”, Văn cú ký giải thích là chỉ các pháp tu như tứ niệm xứ (四念處), tứ thiện căn (四善根), ngũ đình tâm quán (五 停心觀)... Gọi là phương tiện, vì các pháp tu này để dẫn dắt người bắt đầu tu tập, chưa được xem là chánh quán giải thoát.

[175] Nguyên tác dùng “第一義天 - đệ nhất nghĩa thiên”, là một trong Ngũ chủng thiên (五種天), bao gồm: 1. Thế gian thiên (世間天), chỉ các vị vua chúa của thế gian, giả danh tự xưng là “thiên tử” nhưng thật sự không phải chư thiên. 2. Sinh thiên (生天), chỉ các cõi trời mà chúng sinh do tu thiện nghiệp có thể được tái sinh về. 3. Tịnh thiên (淨天), chỉ các bậc tu chứng từ quả Dự lưu cho đến các vị Bích-chi Phật. 4. Nghĩa thiên (義天), chỉ hàng Bồ Tát từ Thập trụ trở lên. 5. Đệ nhất nghĩa thiên (第一義天), chỉ đến chư Phật và cảnh giới Niết-bàn của Phật.

[176] Như chúng tôi đã nêu ra ở trước, con số này có thể chỉ là 1.200 vị.

[177] Thập nhị nhập (十二入), 12 nhập, tức sáu căn thiệp nhập với sáu trần.

[178] Tức kinh Phật khai giải Phạm chí A-bạt (佛開解梵志阿颰經), 1 quyển. (ĐCT, 1, 20)

[179] Trong kinh A-bạt vừa dẫn, tại trang 260c, d.14 và 15 kể tên 4 thánh quả. Sơ quả được gọi là Câu cảng (溝港), Nhị quả gọi là Tần lai (頻來), Tam quả gọi là Bất hoàn (不還), Tứ quả gọi là Ứng chân (應真).

[180] Tức kinh Phật thuyết Thái tử thụy ứng bản khởi (佛說太子瑞應本起經), thuộc (ĐCT, 3, 185)

[181] Trong kinh Thụy ứng vừa dẫn, tại trang 475a, d.26 viết: “羅漢者真人也 - La-hán giả, Chân nhân dã.” (La-hán, ấy là Chân nhân.)

[182] Đây là ví dụ như hạt thóc đã bóc sạch vỏ nên không thể nảy mầm được nữa.

[183] 98 phiền não (九十八煩惱), cũng gọi là 98 tùy miên (九十八隨眠), vì tùy miên là tên gọi khác của phiền não, cũng gọi là Cửu thập bát sử (九十八使). Chín mươi tám là tổng số của kiến hoặc và tư hoặc, trong đó kiến hoặc có 88 tùy miên, tư hoặc có 10 tùy miên.

[184] Nguyên tác dùng ngũ trụ hoặc (五住惑), tức ngũ trụ địa hoặc (五住地惑), cũng gọi là ngũ trụ địa phiền não, đã được giải thích ở trước.

[185] Nguyên tác dùng cửu đạo (九道), cũng gọi là cửu hữu (九有), cửu địa (九地), chỉ 9 cảnh giới mà tất cả chúng sinh cư trú. Bao gồm: 1. Dục giới ngũ thú địa, cũng gọi là Ngũ thú tạp cư địa (hoặc tạp trụ địa), là nơi có 5 loài hữu tình ở chung sống, gồm có địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, con người, chư thiên. 2. Ly sinh hỷ lạc địa, thuộc tầng trời Sơ thiền cõi Sắc. 3. Định sinh hỷ lạc địa, thuộc tầng trời Nhị thiền cõi sắc. 4. Ly hỷ diệu lạc địa, thuộc tầng trời Tam thiền cõi Sắc. 5. Xả niệm thanh tịnh địa, thuộc tầng trời Tứ thiền cõi Sắc. 6. Không vô biên xứ địa, thuộc tầng trời thứ nhất cõi Vô sắc. 7. Thức vô biên xứ địa, thuộc tầng trời thứ hai cõi Vô sắc. 8. Vô sở hữu xứ địa, thuộc tầng trời thứ ba cõi Vô sắc. 9. Phi tưởng phi phi tưởng xứ địa, thuộc tầng trời thứ tư (Hữu đỉnh thiên, tức tầng trời cao nhất) cõi Vô sắc.

[186] Kinh Phương đẳng, tên gọi tắt chỉ kinh Đại Phương đẳng Đà-la-ni (大方等陀羅尼經). (ĐCT, T21, 1339)

[187] Ở đây phỏng theo ý kinh Phương đẳng vừa dẫn trên (tr.649a, d.19-20). Nguyên văn đức Phật nói với ngài Xá-lợi-phất là: “若復有人持四天下以積珍寶至于梵天以供於我不如有人與彼受持經者一食充軀。 - Nhược phục hữu nhân trì tứ thiên hạ dĩ tích trân bảo chí vu Phạm thiên dĩ cung ư ngã bất như hữu nhân dữ bỉ thụ trì kinh giả nhất thực sung khu.” (Nếu như có người mang bốn cõi thiên hạ chứa đầy trân bảo cho đến cả Phạm thiên cúng dường cho ta, cũng không bằng cho người thọ trì kinh này một bữa ăn nuôi thân.)

[188] Ở đây dẫn ý trong phẩm Pháp sư, kinh Pháp hoa: “佛告藥王。若有惡人以不善心毀呰在家出家讀誦法華經者其罪甚重。- Phật cáo Dược Vương: Nhược hữu ác nhân dĩ bất thiện tâm hủy tử tại gia xuất gia độc tụng Pháp hoa kinh giả, kỳ tội thậm trọng.” (Phật bảo Bồ Tát Dược Vương: Nếu có người dùng tâm xấu ác hủy báng chê bai người tại gia hay xuất gia tụng đọc kinh Pháp hoa, tội ấy rất nặng.)

[189] Nguyên tác là “八風 - bát phong”, tám ngọn gió, cũng gọi là bát pháp (八法) hay bát thế phong (八世風), tám ngọn gió đời, chỉ các duyên thường gây tác động đến lòng người, bao gồm: 1. Lợi, là lợi ích. 2. Suy, là suy tổn. 3. Hủy, là chê bai. 4. Dự, là khen ngợi. 5. Xưng, là xưng tụng, tán dương. 6. Cơ, là gièm pha. 7. Khổ, là khổ não. 8. Lạc, là vui thích.

[190] Ba thứ lậu hoặc, gồm dục lậu (欲漏), hữu lậu (有漏) và vô minh lậu (無明漏).

[191] Nguyên tác dùng Thành luận, tức Thành thật luận (成實論). (ĐCT, T32, 1646)

[192] Tỳ-đàm (毘曇), tức A-tỳ-đàm tâm luận (阿毗曇心論), gồm 4 quyển, gọi tắt là Tâm luận, là bộ luận rút gọn từ bộ luận Đại Tỳ-bà-sa.

[193] Nguyên tác là “二十五有 - nhị thập ngũ hữu”, chỉ 25 cảnh giới. Trong Tam giới (Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới) có tất cả 25 cảnh giới. Dục giới có 14, Sắc giới có 7, Vô sắc giới có 4. Phân chia cụ thể như sau: Tứ ác đạo (四惡道) gồm: 1. Địa ngục, 2. Súc-sinh, 3. Ngạ-quỷ, 4. A-tu-la; Tứ châu (四洲) hay Tứ thiên hạ gồm: 1. Phất-vu-đãi, 2. Cồ-da-ni, 3. Uất-đan-việt, 4. Diêm-phù-đề; Lục dục thiên (六欲天) gồm: 1. Tứ thiên vương xứ, 2. Tam thập tam thiên xứ, 3. Diệm-ma thiên, 4. Đâu-suất thiên, 5. Hóa lạc thiên, 6. Tha hóa tự tại thiên. Mười bốn cảnh này thuộc về Dục giới. Tứ thiền thiên (四禪天) gồm: 1. Sơ thiền, 2. Nhị thiền, 3. Tam thiền, 4. Tứ thiền; Tịnh cư thiên (淨居天) gồm: 1. Đại phạm vương, 2. Vô tưởng thiên, 3. Tịnh cư A-na-hàm. Bảy cảnh này thuộc về Sắc giới. Tứ không xứ thiên (四空處天) gồm: 1. Thức xứ, 2. Không xứ, 3. Bất dụng xứ (Vô sở hữu xứ) 4. Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Bốn cảnh này thuộc về Vô sắc giới.

[194] Vương Tam-muội (王三昧), tức là tam-muội thù thắng nhất trong tất cả các tam-muội. Đây là tên khác của định Thủ-lăng-nghiêm.

[195] Theo kinh Đại Bát Niết-bàn thì 8 đức tự tại bao gồm: 1. Có thể hiện một thân thành nhiều thân, không có ngăn ngại; 2. Có thể thị hiện một thân nhỏ như hạt bụi trùm khắp đại thiên thế giới, không có ngăn ngại; 3. Có thể thị hiện thân lớn lao mà nhẹ nhàng bay đến bất cứ nơi xa xôi nào, không có ngăn ngại; 4. Có thể thị hiện thành vô số loài chúng sinh khác nhau thường sống trong cùng một thế giới, không có ngăn ngại; 5. Có thể sử dụng các căn hỗ trợ, thay thế cho nhau, như mắt có thể nghe, tai có thể thấy... một căn có thể nhận biết cả sáu trần, không có ngăn ngại; 6. Có thể chứng đắc tất cả các pháp không ngăn ngại nhưng không hề khởi lên ý tưởng có sự chứng đắc; 7. Có thể giảng thuyết ý nghĩa của một bài kệ trải qua vô số kiếp, không có ngăn ngại; 8. Có thể biến hiện một thân trùm khắp mọi nơi như hư không, không có ngăn ngại, khiến cho tất cả chúng sinh đều được trông thấy; dù trông thấy được, nhưng thân ấy thật cũng như hư không, không có hình tướng.

[196] A-nhã Kiều-trần-như (H. 阿若憍陳如, S. Ājñātakauṇḍinya) , một trong 5 vị tỳ-kheo được Phật giáo hóa trước tiên tại vườn Lộc uyển. Các vị này đều đã từng tu khổ hạnh với đức Phật.

[197] Nhị đế: thông thường được hiểu là chân đế (chân lý tuyệt đối) và tục đế (chân lý tương đối), nhưng trong giáo lý tông Thiên Thai thì đây là sự thấy biết chân thật về tánh không (Không đế) và sự giả tạm (Giả đế) của vạn pháp.

[198] Tức Phật thuyết Vô lượng thọ kinh (佛說無量壽經), có nhiều bản Hán dịch.

[199] Có thể là Văn-thù vấn kinh – Tự mẫu phẩm đệ thập tứ (文殊問經 - 字母品第十四), thuộc ĐCT, T14, 469.

[200] Tức A-tỳ-đàm Tỳ-bà-sa luận (阿毘曇毘婆沙論), thuộc ĐCT, T28, 1546.

[201] Nguyên tác dùng “liễu bản tế” (了本際) và “tri bản tế” (知本際), hiểu sát nghĩa là rõ biết, thấu triệt đến tận nguồn cội của các pháp. Pháp hoa văn cú ký giải thích là “sở tri chân đế” (所知真諦), nghĩa là chỗ biết về chân đế, tức ý nghĩa chân thật của các pháp.

[202] Câu-lân-như (拘隣如) tức Kiều-trần-như (憍陳如), đều phiên âm từ Phạn ngữ Kauṇḍinya.

[203] Đều là các tên gọi khác của ngài Kiều-trần-như.

[204] Câu-lân hay Câu-lân-như cũng đều là tên khác của ngài Kiều-trần-như.

[205] Phật thuyết Thập nhị du kinh (佛說十二 遊經), ĐCT, T4, 195.

[206] Nguyên tác dùng “六分 - lục phần” (sáu phần) để chỉ sáu phần làm nên thân thể con người: đầu, mình và tứ chi.

[207] Nguyên tác dùng “四句 - tứ cú” (bốn câu), chỉ bốn câu vừa nêu ra để phủ nhận bốn nguyên do sinh ra ảnh tượng trong gương.

[208] Nguyên văn dùng “tứ cú - 四句“ tức là chỉ 4 cách tìm cầu vừa nêu trong 4 câu trên: không từ vật, không từ người, không từ vật và người hợp lại, không lìa khỏi vật và người mà có.

[209] Vòng lửa xoay tròn: ví như sợi dây có đốm lửa ở đầu, khi quay tròn nhanh thì nhìn thấy như một vòng lửa nhưng thật ra chỉ có một đốm lửa quay nhanh mà thôi.

[210] Đến đây hết phần thượng của quyển 1 trong nguyên tác, bắt đầu phần hạ.

[211] Cách nói khác của dứt trừ phiền não, vì 4 trụ địa chỉ cho nguyên nhân sinh khởi hết thảy phiền não trong Tam giới, bao gồm (1) Kiến nhất thiết trụ địa (tức kiến hoặc trong Tam giới), (2) Dục ái trụ địa (tức tư hoặc trong Dục giới), (3) Sắc ái trụ địa (tức tư hoặc trong Sắc giới, (4) Hữu ái trụ địa (tức tư hoặc trong Vô sắc giới).

[212] Tức là tâm mê vọng bất giác, là căn bản của hết thảy mọi phiền não nên gọi là căn bản vô minh, cũng gọi là căn bản bất giác hay nguyên phẩm vô minh.

[213] Phương tiện độ (方便土), hay Phương tiện hữu dư độ (方便有餘土), là cảnh giới của các bậc thánh đã dứt sạch kiến hoặc và tư hoặc, chẳng hạn như các vị A-la-hán, Bích-chi Phật.

[214] Thật báo độ (實報土), là cảnh giới không còn chướng ngại của các vị Bồ Tát, nên cũng gọi là Thật báo vô chướng ngại độ.

[215] Đoạn này đề cập đến Tứ độ của Thiên Thai tông và nêu việc hành giả đoạn trừ tất cả, chỉ còn Thường tịch quang độ (常寂光土) hay Lý tánh độ (理性土) là cảnh giới rốt ráo của chư Phật.

[216] A tự môn (阿字門), Đại trí độ luận giải thích: “阿字門,一切法初不生故. 羅字門,一切法離垢故 - A tự môn, nhất thiết pháp sơ bất sinh cố; la tự môn, nhất thiết pháp ly cấu cố.” (ĐCT, T25, 1509, tr.407c, d.11-12.)

[217] Đây là trích dẫn ở kinh Pháp hoa, quyển 4, phẩm thứ 8, Ngũ bách đệ tử thụ ký (五百弟子受記-品第八), ĐCT, T9, 262, tr.28a, d.21-23.

[218] Tức là cây bồ-đề.

[219] Tên khác của thành Vương Xá.

[220] Tên khác của vua Tần-bà-sa-la.

[221] Tức Phó pháp tạng nhân duyên truyện (付法藏因緣傳), ĐCT, T50, 2058.

[222] Đoạn này nguyên tác nói sơ lược đến mức khó hiểu, chúng tôi đã sử dụng thông tin từ sách Phật Tổ thống kỷ (佛祖統紀), quyển 5, để bổ sung cho đủ nghĩa. (ĐCT, T49, 2035)

[223] Thước cổ, bằng 33 cm, 7 thước là khoảng 2.3 mét.

[224] Hộc (斛): đơn vị đong lường thời xưa, mỗi hộc bằng 10 đấu.

[225] Tướng bạch hào (白毫), còn gọi là bạch mao tướng (白毛相 - ūrṇā-keśa) và tướng nhục kế (肉髻), còn gọi là đỉnh kế tướng (頂髻相 - uṣṇīṣa-śiraskatā) là hai tướng xếp sau cùng trong 32 tướng tốt của đức Phật.

[226] Tử kim (紫金): loại vàng được xem là cực quý, có màu đỏ tía.

[227] Sách Phật Tổ thống kỷ chép chi tiết hơn về chuyện này. Khi ngài Ca-diếp đến tuổi trưởng thành, cha mẹ muốn cưới vợ cho ngài, ngài đặt yêu cầu phải tìm được người con gái nào thân hình có sắc vàng sáng và gia đình đã tìm được một cô gái như vậy. Đây chính là cô gái nghèo trong đời trước đã cùng ngài tô sửa, sơn phết tượng Phật và hai người trải qua nhiều đời đều kết làm vợ chồng với nhau.

[228] Sách Phật Tổ thống kỷ chép rằng, khi cưới vợ về, ngài Ca-diếp và vợ mỗi người ở riêng một phòng. Cha mẹ thấy vậy cho người phá bỏ một phòng, buộc hai người ở chung một phòng. Nhưng cả hai người đều không có dục tình. Ngài Ca-diếp nói: “Khi nàng ngủ ta sẽ đi kinh hành, khi ta ngủ nàng nên đi kinh hành.” Hai người thay nhau như vậy, không lúc nào cùng ngủ, không phạm vào sắc dục.

[229] Thập lực Ca-diếp (十力迦葉), cũng gọi là Bà-phu Ca-diếp (婆敷迦葉), là một trong 5 vị tỳ-kheo đầu tiên được nghe Phật thuyết pháp, tức thuộc nhóm 5 người của ngài Kiều-trần-như.

[230] Ba anh em Ca-diếp, hay Tam Ca-diếp, là các vị Ca-diếp trước thờ thần lửa, sau về quy y Phật dẫn theo cả 1.000 đồ chúng. Tên các vị này là Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, Na-đề Ca-diếp và Già-da Ca-diếp.

[231] Tức thánh quả A-la-hán, đã dứt sạch lậu hoặc nên gọi là Vô lậu.

[232] Tức là về sống chung trong đại chúng và mỗi ngày chia sẻ thức ăn do đại chúng khất thực mang về, tự mình không phải đi khất thực.

[233] Pháp hoa văn cú ký nói vị này tức là Đỉnh Sinh Vương (頂生王).

[234] Đoạn này dừng ở đây rất tối nghĩa. Sách Phật Tổ thống kỷ chép thêm rằng: “Ngài Ca-diếp vội đứng dậy quỳ dưới chân Phật nói rằng: Phật là thầy của tôi, tôi là đệ tử Phật.” Pháp hoa văn cú ký cũng chép tương tự.

[235] Đoạn văn này có 2 điểm tối nghĩa. Thứ nhất, về câu chuyện đi với ngài A-nan. Pháp hoa văn cú ký dẫn kinh A-hàm, bản biệt dịch, quyển 20, kể chuyện này chi tiết hơn. Khi đức Phật ở Ca-lan-đà, ngài Ca-diếp cùng vào thành khất thực với ngài A-nan. Ngài A-nan nói: “Còn chưa đến giờ, chúng ta hãy đi đến chỗ tinh xá của các tỳ-kheo-ni.” Ngài Ca-diếp đồng ý. Đến nơi, ngài Ca-diếp thuyết pháp cho chư ni nghe, tỳ-kheo-ni Thâu-na-lan-đà không vui, tự mình lẩm bẩm rằng: “Trưởng lão Ca-diếp thuyết pháp trước mặt ngài A-nan thì có khác gì đứa trẻ bán kim châm đến trước cửa nhà ông thầy châm cứu mà muốn bán được kim, không thể nào bán được.” Ngài Ca-diếp có thiên nhĩ thông, xa nghe được lời ấy, liền bảo ngài A-nan: “Sao có thể nói lời quái lạ đến thế!” Điểm hợp lý ở đây là cô tỳ-kheo-ni chỉ lẩm bẩm một mình chứ không phải nói rõ ý tưởng này. Về mặt tâm lý, có thể tỳ-kheo-ni này chỉ biết tiếng ngài A-nan quảng bác đa văn mà không biết đến ngài Ca-diếp, nên muốn nghe ngài A-nan thuyết pháp mà không vui khi ngài Ca-diếp thuyết pháp. Do thiếu hiểu biết nên mới so sánh tri thức của ngài Ca-diếp ít oi như đứa trẻ bán kim châm, còn ngài A-nan có nhiều và đầy đủ như ông thầy châm cứu. Cho nên cô nghĩ, đứa trẻ mang kim châm đến nhà ông thầy, làm sao có thể bán được? Văn Cú ở đây lược nói quá ngắn gọn nên thành khó hiểu. Điểm khó hiểu thứ hai, nội dung những lời này nếu là ngài A-nan nói với cô tỳ-kheo-ni thì có vẻ hợp lý hơn, vì ngài Ca-diếp không thể tự nói về mình như vậy.

[236] Văn Cú chỗ này ghi bát-đa-la thụ (鉢多羅樹) (cây bát-đa-la) e là bị nhầm vì không tìm thấy tên cây này, chỉ có bát-đa-la (鉢多羅) thường dịch là ứng lượng khí để chỉ bình bát của vị khất sĩ. Có lẽ ở đây muốn nói cây đa-la, loại cây thường được nhắc đến rất nhiều trong kinh điển, cũng gọi là bối-đa-la, ngày xưa dùng lá để chép kinh gọi là bối diệp.

[237] Văn Cú trích dẫn từ bài tựa do ngài Tăng Triệu viết cho kinh Trường A-hàm (長阿含經), ĐCT, T1, 1.

[238] Nguyên tác dùng “đẩu tẩu - 抖擻”, phiên âm chữ dhūta trong Phạn ngữ, cũng đọc là đỗ-đa, thường dịch là đầu đà (頭陀), chỉ pháp tu nỗ lực để kiểm thúc thân tâm.

[239] Nguyên tác dùng “thập nhị chủng quá - 十二種過”. Tham khảo Thiên Thai Bồ Tát giới sớ (天台菩薩戒疏) quyển 3, có nói rằng: “Đẩu tẩu thập nhị chủng quá linh thành tam đức. –“ (ĐCT, T40, 1812, tr.596c, d.22.) Theo đây mà xét thì chữ “quá” không phải nói lỗi lầm hay đã qua, mà chỉ sự nỗ lực tu tập vượt trội, quá mức thông thường. Đây chính là ý nghĩa phù hợp với các hạnh đầu đà, gần đến mức như khổ hạnh.

[240] Y phấn tảo (糞掃衣), hay phẩn tảo, cũng gọi là y bách nạp, chỉ tấm y của vị tăng sĩ được may ghép lại từ nhiều mảnh vải nhỏ người ta không còn dùng được, đã vất đi ở bãi rác. Do vậy, ý nghĩa chính là loại y xấu xí, không có giá trị đối với người đời.

[241] Nguyên tác dùng “殘食 - tàn thực“, chỉ việc ăn xong đứng dậy rồi sau đó còn nhận thêm thức ăn để ăn thêm.

[242] Trí độ luận ghi hạnh đầu đà này là “trung hậu bất ẩm tương - 中後不飲漿”, kinh Thập nhị đầu đà giải thích rõ hơn là “中食之後不飲漿 - trung thực chi hậu bất ẩm tương”, nghĩa là “sau bữa ăn giữa trưa không uống nước”. Văn Cú nói lược thành “bất ẩm tương” nên khó hiểu và không hợp lý. Văn Cú ở đây cũng nói quá gọn “tu tương lao động - 須漿勞動“ không thể rõ nghĩa. Chúng tôi căn cứ giải thích trong Đại trí độ luận thì thói quen uống nước sau bữa ăn dẫn đến khởi tâm mong cầu, tìm kiếm các loại nước uống ngon ngọt v.v. Đây chỉ là một trong những chỗ bản Văn Cú này dùng cách nói lược quá ngắn gọn không rõ nghĩa.

[243] Mười hai hạnh đầu đà này được kinh Phật thuyết Thập nhị đầu đà (佛說十二頭陀經) kể ra như sau: 1. Sống nơi thanh vắng yên tĩnh; 2. Thường thực hành pháp khất thực, 3. Đi khất thực bình đẳng theo thứ lớp; 4. Mỗi ngày chỉ ăn một bữa; 5. Ăn điều độ, có chừng mực; 6. Sau bữa ăn không uống nước; 7. Chỉ dùng nạp y; 8. Chỉ sử dụng 3 tấm y; 9. Ngủ nghỉ nơi nghĩa địa; 10. Ngủ nghỉ dưới gốc cây; 11. Ngủ nghỉ nơi đồng trống; 12. Khi nghỉ ngơi cũng chỉ ngồi không nằm. (ĐCT, T17, 783, tr.720c, d.6 - 10.) Theo kinh này thì là 2 điều về y phục, 5 điều về sự ăn uống và 5 điều thuộc về sự ngủ nghỉ, có thể Văn Cú đã có sự nhầm lẫn.

[244] Đây là cách tính đặc biệt trong giáo lý tông Thiên Thai, cho rằng các kết sử phiền não kết hợp trong Tứ đế ở Tam giới không giống nhau. Cụ thể, ở Dục giới kết hợp Khổ đế có đủ Thập sử, gồm 5 lợi sử là thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến và giới thủ kiến (ngũ lợi sử) cùng 5 độn sử là tham, sân, si, mạn và nghi (ngũ độn sử), tức 10 kết sử phiền não. Tập đế và Diệt đế, mỗi đế chỉ có Thất sử (7 x 2) vì không có thân kiến, biên kiến và giới cấm thủ kiến, Đạo đế có Bát sử (8) vì không có thân kiến và biên kiến. Như vậy, Dục giới có cả thảy Tam thập nhị sử (32). Ở Sắc giới và Vô Sắc giới, cách tính cũng giống như trên nhưng ở Tứ đế đều không có sân nên trừ đi 4, còn lại Nhị thập bát sử (28). Như vậy Dục giới có 32, Sắc giới và Vô sắc giới có 56 (28 x 2), cộng là 88 phiền não kết sử (Bát thập bát sử).

[245] Bốn điên đảo: vô thường mà cho là thường, khổ mà cho là vui, vô ngã mà cho là ngã, bất tịnh mà cho là tịnh. Do bốn nhận thức này trái ngược với sự thật nên gọi là bốn điên đảo (tứ đảo).

[246] Hai việc ác ở đây là việc ác chưa sinh và việc ác đã sinh. Ngăn hai việc ác nghĩa là dứt trừ những việc ác đã sinh và ngăn ngừa việc ác chưa sinh không cho sinh khởi. Hai việc thiện là việc thiện chưa sinh và việc thiện đã sinh. Sinh hai việc thiện nghĩa là làm cho những việc thiện chưa sinh được sinh khởi và làm tăng trưởng những việc thiện đã sinh. Đây cũng chính là nội dung của Tứ chánh cần.

[247] Giác đạo ở đây có thể nói khái quát về con đường tu tập theo chánh đạo, cũng có thể chỉ thất giác chi, tam thập thất đạo phẩm. Chúng tôi nghiêng về ý thứ hai vì trước đó đã phân biệt liệt kê tứ định, các căn, lực...

[248] Nhị thập ngũ hữu (25 cảnh giới hiện hữu): chỉ tất cả các cảnh giới mà chúng sinh hiện hữu, bao gồm 14 cảnh giới trong cõi Dục, 7 cảnh giới trong cõi Sắc và 4 cảnh giới trong cõi Vô sắc. Kể ra cụ thể là: 1. Địa ngục. 2. Súc sinh. 3. Ngạ quỷ. 4. A-tu-la. 5. Phất-bà-đề. 6. Cù-da-ni. 7. Uất-đan-việt. 8. Diêm-phù-đề hữu. 9. Tứ thiên xứ. 10. Tam thập tam thiên xứ. 11. Diệm-ma thiên. 12. Đâu-suất thiên. 13. Hóa lạc thiên. 14. Tha hóa tự tại thiên. (14 cảnh giới này thuộc Dục giới) 15. Sơ thiền thiên. 16. Đại phạm thiên. 17. Nhị thiền thiên. 18. Tam thiền thiên. 19. Tứ thiền thiên. 20. Vô tưởng thiên. 21. Tịnh cư A-na-hàm thiên. (7 tầng trời này đều thuộc Sắc giới) 22. Không xứ thiên. 23. Thức xứ thiên. 24. Bất dụng xứ thiên. 25. Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên. (4 tầng trời này thuộc Vô sắc giới).

[249] Tứ chân đế: cách gọi khác của Tứ diệu đế hay Tứ đế, đều chỉ bốn sự thật là khổ, tập, diệt, đạo.

[250] Phần đoạn và biến dịch là hai hình thức khổ não trong luân hồi. Phần đoạn có nghĩa là hết thảy các pháp không thường tồn nên diệt mất theo từng giai đoạn, sinh rồi diệt. Biến dịch có nghĩa là hết thảy các pháp không thường tồn nên liên tục chuyển biến, thay đổi, không bao giờ giữ được nguyên trạng.

[251] Mộc Qua lâm (木瓜林): rừng Mộc Qua. Từ điển Phật Quang giải thích rằng nhà ngài ở gần khu rừng này nên lấy đó làm tên gọi.

[252] Hà (河) hoặc Giang (江) đều có nghĩa là con sông. Từ điển Phật Quang giải thích rằng nhà ngài ở gần sông nên gọi tên như vậy.

[253] Nguyên tác là sát trụ (剎柱), chỉ phần trụ cột chính để xây dựng tháp thờ Phật, nên cũng được dùng chỉ chung kiến trúc tháp thờ Phật. Về sau chữ này dùng chỉ cây cột cờ dựng trước sân chùa hay thiền viện, cũng gọi là sát can (剎竿). Từ điển Phật Quang bản Việt dịch, không biết vì sao chỉ chuyển dịch nghĩa này, không có nghĩa chính ở trước, là nghĩa phù hợp ở đây.

[254] Vua Bình Sa (Bình Sa vương) tức vua Tần-bà-sa-la (Bimbisāra), cai trị nước Ma-kiệt-đà (Magadha) vào thời đức Phật.

[255] Ưu-lưu-tỳ (優留毘), tức ngài Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp.

[256] Bốn chúng ở đây nghĩa là bốn chúng xuất gia, gồm tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, sa-di, sa-di ni, bởi vì hai chúng cư sĩ nam và cư sĩ nữ thì không phải đối tượng có thể nhận cúng dường.

[257] Bốn sự thiết yếu: bao gồm thức ăn, y phục, thuốc mên trị bệnh và chỗ ngủ nghỉ.

[258] Đề-hồ là món ăn ngon nhất và quý nhất được làm ra từ sữa. Kinh Phật thường dùng năm món được làm từ sữa để ví dụ với các tầng bậc giáo pháp từ thấp lên cao, như sữa tươi (nhũ) là căn bản nhất, tiến lên nữa là sữa đặc (lạc), tiếp theo là váng sữa sống (sinh tô), rồi đến váng sữa chín (thục tô) và cuối cùng cao quý nhất là đề-hồ.

[259] Các đoạn giải thích này đều lấy theo ý nghĩa tên gọi của ba vị Ca-diếp như đã dịch trên là Lâm (rừng), Hà (sông, nước) và Thành (thành quách).

[260] Về cách dịch Thân tử, Từ điển Phật Quang cho rằng các vị Cựu dịch có thể đã nhầm lẫn chữ śarī (xá-lợi) là tên loài chim thu có đôi mắt đẹp, với chữ śarīra (xá-lợi-la) có nghĩa là thân thể.

[261] Sinh kinh (生經), do ngài Trúc Pháp Hộ (竺法護) dịch vào đời Tây Tấn. (ĐCT, T3, 154) Phần trích dẫn ở đây là quyển 2, kinh 12: Phật thuyết Cữu Sinh Kinh (佛說舅甥經) (Phật thuyết Câu chuyện hai cậu cháu). Văn Cú kể chuyện này tóm tắt rất khó hiểu vì thiếu nhiều chi tiết. Chúng tôi tôi căn cứ nguyên tác kinh văn để bổ sung các chi tiết cho rõ nghĩa phần này.

[262] Điều-đạt, tức Đề-bà-đạt-đa.

[263] Nguyên tác là “鐵鍱其腹頭戴火冠 – thiết diệp kỳ phúc, đầu đái hỏa quan”, chỉ hành vi của người học rộng có tài luận nghị vào thời xưa, làm như vậy để phô bày sự tự mãn rằng không ai hơn mình. “Thiết diệp kỳ phúc” là dùng lá thép mỏng (hoặc lá đồng) quấn chặt quanh bụng, hàm ý rằng do học quá nhiều sợ kiến thức trong bụng vỡ ra nên phải dùng lá thép quấn quanh để bảo vệ. “Đầu đái hỏa quan” là trên đầu đội mũ có ngọn đèn, hàm ý rằng khắp thiên hạ tối tăm không có người sáng suốt hơn mình nên đội đèn trên đầu để đi tìm. Đây là thái độ biểu hiện thường gặp ở những luận sư cao ngạo thời xưa.

[264] Năm vùng Thiên Trúc (ngũ Thiên Trúc), tức là năm vùng Ấn Độ thời xưa, bao gồm Bắc Ấn, Nam Ấn, Tây Ấn, Đông Ấn và Trung Ấn.

[265] Phạm chí Sa-nhiên (沙然), tức San-xà-da-tì-la-chi tử (刪闍耶毘羅胝子- Sañjayavairaṭṭiputra), một trong sáu luận sư ngoại đạo đương thời.

[266] Át-bệ (Aśvajit), tức là ngài A-thuyết-thị, cũng gọi là tỳ-kheo Mã Thắng, là một trong 5 đệ tử đầu tiên của đức Phật, thuộc nhóm 5 anh em ngài Kiều-trần-như.

[267] Xem chi tiết sự việc này ở kinh Hiền ngu (賢愚經), quyển 10, phần 48, phẩm thứ 41 (第四十一), Tu-đạt khởi tinh xá phẩm (須達起精舍品), ĐCT, T4, 202, tr.420b, d.14.

[268] Kinh Trung A-hàm, quyển 2, xem kinh Thất xa (七車經), ĐCT, T1, 26, tr.429c, d.28.

[269] Sinh xứ (生處), trong Trung A-hàm như được trích dẫn ở đây ghi là Sinh địa (生地), đều có nghĩa như nhau. Theo kinh Đại Bát Niết-bàn thì thành Câu-thi-na-yết-la là nơi sinh của các lực sĩ, thuộc họ tộc Ly-xa, thường được gọi là Lực sĩ Sinh địa, cũng gọi tắt là Sinh địa.

[270] Mãn Từ tử (滿慈子), tức là ngài Phú-lâu-na (富樓那 - Pūrṇa), một trong mười vị đại đệ tử của đức Phật, được Phật ngợi khen là Thuyết pháp Đệ nhất.

[271] Văn Cú chép là “白哲隆鼻鸚鵡嘴 - bạch triết long tỵ anh vũ chủy”, chữ triết ở đây không hợp nghĩa, đối chiếu văn bản được trích dẫn là Trung A-hàm, quyển 2, thì chỗ này đúng ra là “白皙隆鼻如鸚鵡嘴 - bạch tích long tỵ như anh vũ chủy”, nghĩa là “nước da trắng, mũi cao giống như mỏ chim anh vũ”. Do 2 chữ giống nhau nên bị chép nhầm và lại thiếu một chữ “như” làm câu tối nghĩa.

[272] An-đà lâm hay Thắng lâm cũng tức là Kỳ viên hay Kỳ thụ, nơi có tinh xá Kỳ viên mà trong kinh điển thường gọi là Kỳ thụ Cấp Cô Độc viên.

[273] Phạm hạnh (梵行): thường được hiểu là hạnh thanh tịnh, trong đó điểm quan trọng nhất là đoạn trừ dâm dục, sống thanh tịnh không gia đình. Tuy nhiên, Phạm hạnh còn được hiểu rộng hơn là sống nghiêm trì tất cả những giới luật do Phật chế định.

[274] Câu văn này Văn Cú cũng trích dẫn tối nghĩa, chúng tôi căn cứ văn bản gốc được trích dẫn là Trung A-hàm, quyển 2 để chuyển dịch mới rõ nghĩa. Xem chi tiết ở ĐCT, T1, 26, tr.430b, d.26.

[275] Đây là một ví dụ rất hay nhưng Văn Cú trích dẫn quá vắn tắt đến mức không đủ nghĩa, chẳng hạn như mất hẳn một phần trong câu: “以何方便令一日行從舍衛國至婆雞帝 - dĩ hà phương tiện linh nhất nhật hành tùng Xá-vệ quốc chí Bà-kê-đế” (dùng cách nào để đi trong một ngày từ thành Xá-vệ đến Bà-kê-đế). Chúng tôi căn cứ bản văn gốc được trích dẫn là Trung A-hàm để bổ sung cho đầy đủ và đúng nghĩa. Việc bố trí 7 chiếc xe giúp nhà vua có thể đi với tốc độ nhanh nhất mà một xe không thể nào đạt được trên suốt đoạn đường dài. Nhờ vậy mới có thể đến nơi trong một ngày. Điểm quan trọng thứ hai là trong 7 xe, không thể bỏ đi bất cứ xe nào mà hoàn tất được chuyến đi, cũng như 7 pháp được nói trên đều là thiết yếu để đạt đến Niết-bàn vô dư.

[276] Trong kinh Trung A-hàm có thêm một đoạn liên kết bảy chiếc xe trong ví dụ này với bảy pháp tu tập tuần tự như trên, nhằm làm rõ ý không thể bỏ bất cứ pháp nào, không thể bám chấp riêng một pháp nào, cũng không thể lìa bảy pháp này mà được thành tựu.

[277] Văn cú trích dẫn là “我父名滿 - ngã phụ danh Mãn”, không đúng. Kinh văn ghi “我號滿也 - ngã hiệu Mãn dã” và các tư liệu khác cũng ghi tên ngài Phú-lâu-na là Mãn, không phải tên cha. Chúng tôi điều chỉnh theo nghĩa đúng.

[278] Văn cú chép nhầm là “縈衣頂載 - oanh y đỉnh tái”, không có nghĩa, trong khi ở đoạn sau chép đúng là “縈衣頂戴 - oanh y đỉnh đái”. Kinh văn cũng nói chi tiêt hơn về việc “隨時往見,隨時禮拜” (nên thường gặp gỡ, nên thường lễ bái...”

[279] Văn cú trích dẫn là “我父字優波提舍 - ngã phụ tự Ưu-ba-đề-xá”, không đúng, vì kinh văn ghi “ngã tự Ưu-ba-đề-xá. Chúng tôi đã điều chỉnh.

[280] Văn cú lược bớt nội dung này bằng cách dùng chữ “乃至 - nãi chí” để bỏ đi phần giữa, chúng tôi chuyển dịch đủ.

[281] Văn Cú chỗ này chép là quyển 20, có lẽ nhầm, vì câu chuyện trích dẫn được tìm thấy trong kinh Tăng Nhất A-hàm (增壹阿含經), quyển 29. Hơn nữa, những chi tiết trong kinh có một số điểm khác biệt. (ĐCT, T2, 125, tr.708c, d.28)

[282] Ngũ nạp y (五納衣), cũng gọi là nạp y, là tấm y được khâu lại từ vải vụn nhặt được. Gọi là “ngũ nạp” là ý vải vụn có năm màu, nhưng không nhất định như vậy.

[283] Câu này Văn Cú đã bỏ sót và thêm vào một đoạn vô nghĩa, nói đến tòa ngồi của chư Phật trong mười phương thế giới. Chúng tôi căn cứ kinh văn để điều chỉnh trong bản dịch cho hợp lý.

[284] Bốn thần lực: kinh Tăng Nhất A-hàm kể ra bao gồm: Tự tại tam muội thần lực, Tinh tấn tam muội thần lực, Tâm tam muội thần lực và Thí tam muội thần lực.

[285] Văn Cú dùng Thích luận để chỉ Đại Trí độ luận. Văn Cú nói “Hữu diện Đại tướng” nhưng thật ra trong sách này nói “Hữu diện đệ tử”.

[286] Năm vị của sữa: chỉ năm món chế biến từ sữa là: nhũ (sữa tươi), lạc (sữa nấu đặc, cũng gọi là cao sữa), sinh tô (váng sữa sống), thục tô (váng sữa chín) và đề-hồ.

[287] Đoạn này tham khảo sách Pháp hoa nghĩa sớ (法華義疏) của ngài Cát Tạng ghi chép đầy đủ, rõ nghĩa hơn nên chúng tôi căn cứ vào đó để bổ sung cho trọn ý.

[288] Ngài Xá-lợi-phất là Hữu diện, ngài Mục-kiền-liên là Tả diện. Cách xưng tán này cũng có nghĩa là xem hai vị như cánh tay mặt và cánh tay trái, cùng hỗ trợ cho đức Phật trong việc hoằng hóa.

[289] Cù-già-ly, cũng tức là Cù-ba-ly hay Cù-hòa-ly, là một trong các tỳ-kheo sai lầm ủng hộ Đề-bà-đạt-đa trong việc làm chia rẽ Tăng đoàn.

[290] Văn Cú ở đây nói là dẫn từ kinh Tạp A-hàm, quyển 29, có lẽ bị nhầm, vì chúng tôi đã xem kỹ lại, câu chuyện được trích dẫn này không có trong Tạp A-hàm mà được tìm thấy trong Tăng Nhất A-hàm, quyển 44 (ĐCT, T2, 125, tr.786a, d.26). Tuy cùng một câu chuyện nhưng được ghi chép chi tiết hơn phần trích dẫn ở đây.

[291] Duy na, cũng gọi là Quản chúng hay Duyệt chúng, tức là vị tăng giữ việc quản trị hết thảy mọi việc trong tự viện.

[292] Tức y sư Kỳ-bà, là quan Ngự y của vua Tần-bà-sa-la, từng lo việc chăm sóc sức khỏe cho đức Phật và chư tăng.

[293] Theo ngài Huyền Trang ghi chép trong Tây vực ký thì từ xưa người Ấn Độ đã áp dụng rất phổ biến phương pháp trị bệnh bằng cách tuyệt thực một thời gian ngắn.

[294] Câu chuyện này trích lại từ Phiên dịch danh nghĩa tập (翻譯名義集) (ĐCT, T54, 2131, tr.1078a, d.26). Khi so sánh có một số chữ trong Văn Cú bị sai lệch, như Cố Hoạt (故活) thay vì 固活, hoặc như “xa nãi đắc khứ - 車乃得去” (xe mới đi được) bị chép sai thành “車乃得前 - xa nãi đắc tiền” rất tối nghĩa. Ý chính của đoạn trích này để nói về sức thần thông của ngài Mục-kiền-liên.

[295] Đoạn này trích dẫn câu chuyện từ kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 40, phẩm Kiều-trần-như, nhưng Văn Cú giản lược đến mức không nhắc đến ngài Mục-kiền-liên. Ý chính ở đây là khả năng nhập định quán sát của ngài Mục-kiền-liên, vào lúc đó là người duy nhất biết được ý muốn của đức Phật.

[296] Đây là luận theo giáo pháp Tiểu thừa, cũng gọi là Thập tứ biến hóa tâm, bao gồm Sơ thiền có 2, Nhị thiền có 3, Tam thiền có 4 và Tứ thiền có 5 tâm biến hóa, cộng cả thảy là 14 tâm biến hóa.

[297] Thập nhất thiết xứ: 10 cảnh giới mà hành giả khi tu tập thành tựu có thể tùy ý thâm nhập, bao gồm: địa nhất thiết xứ, thủy nhất thiết xứ, hỏa nhất thiết xứ, phong nhất thiết xứ, thanh nhất thiết xứ, hoàng nhất thiết xứ, xích nhất thiết xứ, bạch nhất thiết xứ, không nhất thiết xứ và thức nhất thiết xứ.

[298] Mười tám pháp biến hóa bao gồm: (1) hông bên phải tuôn ra nước, (2) hông bên trái tuôn ra lửa, (3) hông bên trái tuôn ra nước, (4) hông bên phải tuôn ra lửa, (5) phía trên thân tuôn ra nước, (6) phía dưới thân tuôn ra lửa, (7) phía dưới thân tuôn ra nước, (8) phía trên thân tuôn ra lửa, (9) đi trên nước như mặt đất (10) đi trên đất như mặt nước (11) biến mất trên không hiện ra dưới đất (12) biến mất dưới đất hiện ra trên không (13) đi giữa không trung, (14) trụ yên giữa không trung, (15) ngồi giữa không trung, (16) nằm giữa không trung, (17) hiện thân lớn tràn khắp hư không, (18) hiện thân lớn rồi trở lại nhỏ.

[299] Tam đế: tức ba phép quán Không, Giả và Trung đạo.

[300] Năm giai đoạn: Nguyên tác là ngũ vị (五味), tức năm mùi vị, ở đây là các mùi vị của sữa (nhũ), sữa đặc (lạc), bơ sống (sinh tô), bơ chín (thục tô) và đề hồ, được dùng để chỉ các giai đoạn tu tiến qua các giai vị Thanh văn (nhũ), Duyên giác (lạc), Bồ Tát (sinh tô, thục tô), chư Phật (đề hồ).

[301] Về ý phản biện này, Pháp hoa văn cú ký giải thích: Thân thể là hình sắc, có thể nhìn thấy; thần thức không hình sắc, không thể nhìn thấy. Cũng vậy, vỏ ốc được dùng làm tù và có thể tạo ra âm thanh, nhưng vỏ ốc có thể nhìn thấy, còn âm thanh không thể nhìn thấy, nay lật cái vỏ sò để tìm âm thanh thì không thể tìm được, cũng như lục soát nơi thân thể để tìm thần thức thì không thể thấy được. (ĐCT, T34, 1719, tr.176b, d.10)

[302] Pháp hoa văn cú ký giải thích về ý nghĩa đoạn này rằng: Lúa, cỏ mang theo trên xe ví như tri thức thế gian, vất bỏ hết sẽ thành người ngu si thì hai cõi trời người còn không thể đến, nói gì Niết-bàn? Lúa, cỏ ở nơi mới đến ví như tri thức xuất thế gian, một khi có được thì phải vất bỏ hết tri thức thế gian, mới có thể đạt được giải thoát. Người có trí chỉ sau khi đạt được tri thức xuất thế mới từ bỏ tri thức thế gian.

[303] Văn Cú trong câu này nêu tên một người là Cù-mật-thích (瞿蜜釋), thật ra không có tên người này. Câu chuyện có nguồn gốc được trích dẫn từ Tăng Nhất A-hàm, quyển 8, và 2 người được nêu tên là đức Phật Cù-đàm và tỳ-kheo Châu-lợi-bàn-đặc. Tên đức Phật được nhắc đến trong câu này: “二名瞿曇釋種如來, 至真 等正覺 – nhị danh Cù-đàm, Thích chủng Như Lai, chí chân, đẳng chánh giác” (người thứ hai tên là Cù-đàm, là đức Như Lai dòng họ Thích, là bậc chí chân, đẳng chánh giác). (ĐCT, T2, 125, tr.585c, d.12) Như vậy có thể thấy rằng Văn Cú đã chép nhầm những chữ Cù-đàm Thích (瞿曇釋) thành Cù-mật Thích (瞿蜜釋).

[304] Theo Tăng Nhất A-hàm (đã dẫn trên) thì những người họ Thích hứa sẽ cúng dường chu cấp mọi thứ và còn thêm 1.000 dật vàng ròng (千鎰純金 – thiên dật thuần kim). Dật là đơn vị thời cổ, mỗi dật bằng 20 lượng.

[305] Văn Cú trong phần này thường dùng Sơ giáo để chỉ Tạng giáo, với ý nghĩa là giáo pháp ban đầu, khởi đầu.

[306] Tứ biện (四辯) hay Tứ biện tài, bao gồm Pháp vô ngại biện, Nghĩa vô ngại biện, Từ vô ngại biện và Nhạo thuyết vô ngại biện.

[307] Nguyên tác là ngũ vị (五味), chỉ 5 tầng bậc giáo nghĩa từ thấp lên cao, được ví như 5 vị của sữa là nhũ, lạc, sinh tô, thục tô và đề hồ.

[308] Lúa bại: một giống lúa hạt rất nhỏ, ăn không ngon.

[309] Văn Cú chỗ này chép nhầm chữ vô bần (無貧) thành vô tham (無貪), trong khi ở đoạn trước thì ghi đúng.

[310] Theo quan điểm ngày xưa thì các vị vua cai trị tùy theo quyền hạn và lãnh thổ mà phân chia ra từ lớn đến nhỏ hơn là Kim luân, Ngân luân, Thiết luân và Đồng luân.

[311] Tức kinh Phật thuyết Thập nhị du (佛說十二遊經), do ngài Ca-lưu-đà-già dịch vào đời Đông Tấn. (ĐCT, T4, 195, tr.146a)

[312] Văn Cú chép là cam giá (甘蔗), Nguyên tác trong kinh Thập nhị du chép là cam quả (甘果) (trang 146a, d.16), do vậy biết đây không phải tên riêng mà chỉ chung là vườn trái cây ngọt. Cam giá là vườn cây mía, nhưng như vậy dường như không hợp ngữ cảnh ở đây nên có lẽ Văn Cú chép nhầm. Chúng tôi dựa theo kinh văn.

[313] Câu này lấy ý trích một phần từ Hàn thi ngoại truyện (韓詩外傳) của Hàn Anh (韓嬰) đời Hán. Sách này chép lời Chu công rằng: “Ta là con Văn vương, em Vũ vương, chú Thành Vương, lại nắm quyền trị thiên hạ, ta ở trong thiên hạ cũng không phải hạng kém cỏi, vậy mà gội đầu phải nắm tóc ba lần, bữa ăn phải nhả cơm ra ba lần, chỉ vì sợ để mất người hiền trong thiên hạ.” Đây là nói việc Chu công lúc đang gội đầu nếu có người xin vào gặp thì lập tức dừng lại, tiếp người ấy xong mới tiếp tục gội đầu, cho nên nói “phải ba lần nắm tóc lại” mới gội đầu xong; lại khi đang ăn nếu có người xin vào gặp, ông lập tức nhả miếng cơm đang nhai để ra tiếp người ấy, xong mới vào ăn tiếp, cho nên nói “nhả cơm ra ba lần” mới ăn xong bữa. Tuy vẫn còn chưa biết người muốn gặp mình là ai, nhưng nếu không làm vậy thì ông sợ để lỡ mất đi bậc hiền tài. Văn cú dẫn chuyện này để so sánh, ý muốn nói rằng xuất thân của ngài A-na-luật cũng giống như vậy.

[314] Tức là nói do nghiệp lực, tạo thiện nghiệp nên được mắt sáng, tạo ác nghiệp phải chịu đui mù.

[315] Nghĩa là tu tập để mắt nhìn sáng tỏ, phân biệt được những việc tốt xấu, thiện ác.

[316] Sao Phòng (房星), một trong Nhị thập bát tú theo thiên văn cổ.

[317] Các trích dẫn ở đây và các phần bên trên về ngài Kiếp-tân-na không tìm thấy trong các Nguyên tác kinh văn, mà thật ra là được dẫn lại từ sách Đại Phương Quảng Phật Hoa nghiêm Kinh tùy sớ diễn nghĩa sao (大方廣佛華嚴經隨疏演義鈔), quyển 84 (ĐCT, T36, 1736). Trong sách đã dẫn, xem chi tiết ở trang 658b, bắt đầu từ dòng 20.

[318] Trong nguyên tác đến đây là hết phần hạ quyển thứ nhất, bắt đầu phần thượng quyển thứ hai.

« Kinh này có tổng cộng 10 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Bức Thành Biên Giới


Phật giáo và Con người


Truyện cổ Phật giáo


Công đức phóng sinh

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.108 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập