Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú

Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú [妙法蓮華經文句] »» Bản Việt dịch quyển số 8 »»

Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú [妙法蓮華經文句] »» Bản Việt dịch quyển số 8

» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 1.41 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 1.74 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Pháp Hoa Văn Cú

Kính mong quý độc giả xem kinh cùng góp sức hoàn thiện bằng cách gửi email về admin@pgvn.org
để báo cho chúng tôi biết những chỗ còn có lỗi.

Kinh này có 10 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 |
Việt dịch: Thích Như Điển và Nguyễn Minh Tiến

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

KINH VĂN

Dần dần trọn đủ đạo của hàng Bồ Tát, trải qua vô số a-tăng-kỳ kiếp rồi Phú-lâu-na sẽ ở cõi này mà thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hiệu là Pháp Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Đức Phật Pháp Minh dùng số thế giới đại thiên nhiều như số cát sông Hằng làm một cõi Phật,[1] mặt đất bằng bảy món báu, bằng phẳng như lòng bàn tay, không có núi, gò, suối, khe, ngòi, rãnh… Những lầu đài xây bằng bảy món báu đầy khắp trong cõi nước. Cung điện chư thiên ở giữa không trung nhưng rất gần mặt đất nên loài người và chư thiên có thể giao tiếp với nhau, nhìn thấy được nhau; không có các đường xấu ác, không có nữ giới,[2] hết thảy chúng sanh đều là hóa sanh, không có sự dâm dục; có thần thông lớn, thân tỏa hào quang, bay đi tự tại giữa không trung, có ý chí và niệm tưởng kiên cố, đủ các phẩm tính trí tuệ và tinh tấn; thân thể có màu vàng ròng, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt[3] để tự thành dáng vẻ trang nghiêm.

Chúng sanh cõi ấy thường dùng hai loại thức ăn. Thứ nhất là thức ăn bằng niềm vui chánh pháp, thứ hai là thức ăn bằng niềm vui thiền định. Cõi Phật ấy có vô số a-tăng-kỳ ngàn muôn ức na-do-tha các vị Bồ Tát, đều đạt được thần thông lớn lao, đủ bốn trí không ngăn ngại, thường khéo giáo hóa các loài chúng sanh. Số lượng Thanh văn ở cõi ấy nhiều đến mức tính toán đếm kể đều không thể biết được số lượng, tất cả đều đạt được đầy đủ sáu thần thông, ba sự sáng suốt cùng tám giải thoát. Cõi Phật ấy thành tựu vô số những công đức trang nghiêm như thế. Thời đại ấy tên là Bảo Minh, cõi nước tên Thiện Tịnh. Đức Phật Pháp Minh có tuổi thọ vô số a-tăng-kỳ kiếp, chánh pháp trụ ở đời rất lâu. Sau khi đức Phật ấy diệt độ, chúng sanh dựng tháp bằng bảy báu khắp nước để thờ kính.

Đoạn thứ hai nói việc thụ ký, bắt đầu từ câu “Dần dần trọn đủ đạo của hàng Bồ Tát” trở đi, kinh văn chia làm 7 tiểu đoạn.

Thứ nhất, nêu rõ việc tu nhân trọn đủ; thứ hai, từ câu “trải qua vô số a-tăng-kỳ kiếp”, nêu rõ quả vị viên mãn; thứ ba, nêu cõi nước rộng lớn thanh tịnh; thứ tư, nêu tên cõi nước và thời đại; thứ năm, nêu tuổi thọ của Phật; thứ sáu, nêu việc chánh pháp trụ ở đời rất lâu; thứ bảy, nêu việc cúng dường xá-lợi sau khi Phật nhập diệt.

Tiểu đoạn thứ ba nói về cõi nước rộng lớn thanh tịnh lại chia thành 5 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất nói rõ cõi nước ấy rộng lớn trang nghiêm thanh tịnh. “Đất… bằng phẳng như lòng bàn tay.” Kinh văn nói rõ là như “lòng bàn tay” chứ không nói như “bàn tay”. Bàn tay không bằng phẳng, cho nên không dẫn ra để so sánh. Ở dưới đáy biển có một loại đá gọi là “lòng bàn tay”, trên mặt đá ấy chẳng có một điểm nhỏ nào là không bằng phẳng nên được xem như lòng bàn tay của biển. Lại nữa, trong kinh Hiền kiếp nói rằng, đây là so sánh lòng bàn tay Phật, không phải lấy bàn tay người thường để so sánh.[4]

Phân đoạn thứ hai nêu rõ cõi Phật ấy chỉ có thuần các đường lành.[5]

Phân đoạn thứ ba nêu rõ chư thiên và loài người ở cõi Phật này có đầy đủ phước đức và trí tuệ.

Kinh Nguyệt tạng, quyển 9[6] nói về [3 loại thức ăn là] pháp thực, hỷ thực và thiền thực, kinh văn ở đây nói tổng quát là pháp hỷ thực (thức ăn bằng niềm vui chánh pháp) và thiền duyệt thực (thức ăn bằng niềm vui thiền định). Nếu phân biệt thì nên kể ra thành 3 loại khác nhau.

Phân đoạn thứ tư nêu rõ số lượng đại chúng Bồ Tát, Thanh văn [ở cõi Phật ấy] rất nhiều.

Phân đoạn thứ năm nói tóm kết tổng quát [về vô lượng công đức]. Kinh Nguyệt tạng, quyển 5 nói rằng, người không giết hại có 10 công đức. Thứ nhất là được sự an ổn không sợ sệt đối với tất cả chúng sanh, cho đến thứ mười là sau khi mệnh chung sẽ tái sanh vào cảnh giới lành.[7] [Về sau nếu tu tập viên mãn] thành Phật thì trong cõi Phật ấy không có nỗi lo sợ đánh đập làm hại nhau, người trong cõi nước ấy có tuổi thọ lâu dài.[8]

[Cũng trong kinh Nguyệt tạng nói] người không trộm cướp có 10 công đức. Thứ nhất là được quả báo đầy đủ lớn lao, làm việc quyết đoán không có trở ngại; cho đến thứ mười là sau khi chết được tái sanh vào cảnh giới lành. [Về sau nếu tu tập viên mãn] thành Phật thì cõi Phật ấy có hoa báu trang nghiêm đầy khắp mọi nơi.[9]

Người không dâm dục[10] lại có 10 công đức. Thứ nhất là các căn đầy đủ tốt đẹp, làm việc quyết đoán, cho đến [thứ mười là] sau khi chết tái sanh vào cảnh giới lành.[11] [Về sau nếu tu tập viên mãn] thành Phật thì cõi Phật ấy không có nữ giới.

Người không nói dối có 10 công đức. Thứ nhất là lời nói được chúng sanh tin tưởng, cho đến [thứ mười là] sau khi chết tái sanh vào cảnh giới lành.[12] [Về sau nếu tu tập viên mãn] thành Phật thì cõi Phật ấy không có mùi hôi thối, có hoa báu đầy khắp mọi nơi.

Người không nói hai lưỡi có 10 công đức. Thứ nhất là thân thể không hư hoại, cho đến [thứ mười là] sau khi chết được tái sanh vào cảnh giới lành.[13] [Về sau nếu tu tập viên mãn] thành Phật thì ở cõi Phật ấy ma oán và đồng đảng đều không thể phá hoại được quyến thuộc.

Người không nói lời độc ác có 10 công đức. Thứ nhất là lời nói êm ái dễ nghe, cho đến [thứ mười là] sau khi chết tái sanh vào cảnh giới lành.[14] [Về sau nếu tu tập viên mãn] thành Phật thì cõi Phật ấy có âm thanh thuyết pháp đầy khắp mọi nơi, [không có những lời xấu ác].[15]

Người không nói lời thêu dệt có 10 công đức. Thứ nhất là được chư thiên và loài người yêu mến kính trọng, cho đến [thứ mười là] sau khi chết tái sanh vào đường lành.[16] [Về sau nếu tu tập viên mãn] thành Phật thì [những chúng sanh có hình thể đoan chánh được sanh về] cõi Phật ấy, có trí nhớ lâu dài không quên, thường ưa thích lìa xa dục lạc.[17]

Người không tham lam có 10 công đức. Thứ nhất là các căn trong thân không khiếm khuyết, [cho đến thứ mười là] sau khi chết tái sanh vào cảnh giới lành.[18] [Về sau nếu tu tập viên mãn] thành Phật thì cõi Phật ấy không có chúng ma và các hạng ngoại đạo.

Người không sân hận có 10 công đức. Thứ nhất là xa lìa tất cả những sự sân hận, cho đến [thứ mười là] sau khi chết được tái sanh vào cảnh giới lành.[19] [Về sau nếu tu tập viên mãn] thành Phật thì những chúng sanh dạt được tam-muội sẽ sanh về cõi Phật ấy, tâm hết sức thanh tịnh.

Người không tà kiến có 10 công đức. Thứ nhất, tâm tánh hiền thiện nhu hòa, cho đến [thứ mười là] sau khi chết tái sanh vào cảnh giới lành.[20] [Về sau nếu tu tập viên mãn] thành Phật thì chúng sanh ở cõi Phật ấy có lòng tin chân chánh.

KINH VĂN

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại những ý nghĩa trên liền nói kệ rằng:

Các tỳ-kheo, lắng nghe!
Hàng con Phật hành đạo,
Do khéo học phương tiện,
Nên không thể nghĩ bàn.
Biết người ưa pháp nhỏ,
E sợ trí tuệ lớn,
Nên các vị Bồ Tát,
Hiện Thanh văn, Duyên giác.
Dùng vô số phương tiện,
Giáo hóa khắp muôn loài.
Tự nhận là Thanh văn,
Còn cách Phật rất xa,
Độ thoát vô số người,
Khiến cho đều thành tựu.
Tuy cầu Tiểu, lười nhác,
Dần khiến cho thành Phật.
Trong giấu hạnh Bồ Tát,
Ngoài hiện tướng Thanh văn.
Ít muốn, chán sanh tử,
Tự thanh tịnh cõi Phật.
Thị hiện có ba độc,
Lại có tướng tà kiến.
Đệ tử Phật như thế,
Phương tiện độ chúng sanh.
Nếu như Phật thuyết đủ,
Mọi phương tiện hóa hiện,
Chúng sanh nghe như vậy,
Hẳn ôm lòng nghi hoặc.

Phần kệ tụng có 21 khổ rưỡi; tụng lại ý nghĩa trong văn trường hàng ở trước nêu rõ hình tích [của ngài Phú-lâu-na] và thụ ký cho ngài sẽ thành Phật, [chia làm 2 đoạn]. Đoạn thứ nhất có 14 khổ kệ nêu rõ về hình tích [của ngài Phú-lâu-na]. Đoạn thứ hai có 7 khổ rưỡi tụng về việc thụ ký [cho ngài Phú-lâu-na].

Đoạn thứ nhất lại chia làm 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất có 7 khổ kệ, tụng nêu tổng quát về hình tích hiển lộ của hàng Thanh văn, tức là tụng lại ý nghĩa trong phần văn trường hàng tổng xưng “chúng con”. Tiểu đoạn thứ hai có 7 khổ kệ, tụng lại phần văn trường hàng ở trước nêu rõ hình tích hiển lộ của ngài Phú-lâu-na.[21]

Tiểu đoạn thứ nhất tụng nghĩa tổng quát lại có 5 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất gồm 1 khổ kệ, nêu tổng quát về việc làm của người con Phật khó nhận hiểu vì đã đạt được pháp thương xót thị hiện hình tích.

Phân đoạn thứ hai từ câu “biết người ưa pháp nhỏ” trở đi gồm 1 khổ kệ nêu rõ nguyên do thương xót thị hiện hình tích.

Phân đoạn thứ ba từ câu “dùng vô số phương tiện” trở đi, gồm 2 khổ kệ, nêu rõ lợi ích của sự thương xót thị hiện hình tích.

Phân đoạn thứ tư, kể từ câu “trong giấu hạnh Bồ Tát” trở đi gồm 2 khổ kệ, nêu rõ việc [chư Bồ Tát] bên trong thường giữ đạo Đại thừa nhưng bên ngoài thị hiện phạm lỗi Tiểu thừa.

Phân đoạn thứ năm từ câu “Nếu như Phật thuyết đủ” trở đi gồm 1 khổ kệ chỉ lược nói việc tạm ẩn giấu giáo pháp Đại thừa. Nói “cầu Tiểu” là chỉ cho việc cầu pháp Tiểu thừa; nói “lười nhác” là chỉ sự thối tâm Đại thừa. Không chỉ thị hiện làm Thanh văn mà còn thị hiện làm ngoại đạo cũng như phàm phu có đủ ba độc, như Xá-lợi-phất có sân, Nan-đà có tham, Điều-đạt có si... Đại lược là như thế.

KINH VĂN

Ông Phú-lâu-na này,
Xưa với ngàn ức Phật,
Đã chuyên cần tu tập,
Gìn giữ, thuyết pháp Phật.
Cầu trí tuệ Vô thượng,
Nên ở nơi chư Phật,
Đứng đầu hàng đệ tử,
Nghe nhiều, có trí tuệ,
Thuyết giảng không sợ sệt,
Khiến người nghe hoan hỷ.
Chưa bao giờ chán mệt,
Trợ giúp các Phật sự.
Đã được thần thông lớn,
Đủ bốn trí vô ngại,
Biết căn tánh nhanh, chậm,
Thường thuyết pháp thanh tịnh,
Giảng rõ nghĩa “như thị”,
Giáo hóa ngàn ức người,
Khiến trụ nơi Đại thừa,
Tự thanh tịnh cõi Phật.
Tương lai cũng cúng dường,
Vô số các đức Phật,
Trợ giúp truyền chánh pháp,
Tự thanh tịnh cõi Phật.
Thường dùng các phương tiện,
Thuyết pháp, không sợ sệt,
Độ vô số chúng sanh,
Thành tựu Nhất thiết trí.

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Ông Phú-lâu-na này” trở đi, gồm 7 khổ kệ tụng nêu rõ hình tích của ngài Phú-lâu-na thuở xưa. Nội dung này trong kinh văn trường hàng có 3 phần, nay chỉ lược tụng thành 2 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất có 5 khổ kệ tụng nêu rõ việc quá khứ.

Phân đoạn thứ hai từ câu “Tương lai cũng cúng dường” trở đi gồm 2 khổ kệ, tụng về nhân tố tu hành [của ngài Phú-lâu-na] nơi đạo tràng của 3 đời chư Phật, quá khứ, hiện tại và vị lai. [Như vậy là] lược bớt không tụng về 7 vị Phật [quá khứ] và Phật [Thích-ca] trong hiện tại.

KINH VĂN

Cúng dường các đức Phật,
Gìn giữ kho Pháp báu.
Về sau được thành Phật,
Danh hiệu là Pháp Minh,
Cõi nước tên Thiện Tịnh,
Do bảy báu hợp thành,
Thời đại tên Bảo Minh.
Chúng Bồ Tát rất đông,
Nhiều đến vô số ức,
Đều đạt thần thông lớn,
Đủ các lực, oai đức,
Đầy khắp cả cõi nước.
Thanh văn cũng vô số,
Ba minh, tám giải thoát,
Bốn trí không ngăn ngại,
Cùng hợp thành chúng tăng.
Chúng sanh cõi Phật ấy,
Đã dứt trừ dâm dục,
Đều do biến hóa sanh,
Đủ tướng tốt trang nghiêm,
Dùng pháp hỷ, thiền duyệt,
Không muốn ăn gì khác.
Cõi ấy không nữ giới,
Cũng không các đường ác.
Tỳ-kheo Phú-lâu-na,
Công đức đã trọn đủ,
Thành tựu cõi tịnh ấy,
Chúng hiền thánh rất đông.
Vô số việc như vậy,
Nay ta chỉ lược nói.

Đoạn thứ hai từ câu “cúng dường các đức Phật” trở đi, gồm 7 khổ rưỡi kệ tụng về việc thụ ký. Kinh văn trường hàng có 7 phần, nay phần kệ chỉ tụng thành 4 tiểu đoạn.

Tiểu đoạn thứ nhất gồm nửa khổ kệ đầu tiên tụng về nhân tu hành đã trọn vẹn.

Tiểu đoạn thứ hai nửa khổ kệ tiếp theo tụng về quả thuần thục đầy đủ.

Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Cõi nước tên Thiện Tịnh” trở đi gồm 3 câu tụng vượt sang tên hiệu cõi nước và thời đại.

Tiểu đoạn thứ tư từ câu “Chúng Bồ Tát rất đông” trở đi gồm 5 khổ kệ và 3 câu, tụng về cõi nước [của Phật ấy] thanh tịnh rộng rãi, lược bớt không tụng [các yếu tố] thọ mạng [của Phật], thời gian chánh pháp trụ thế, sau khi Phật diệt độ dựng tháp [thờ kính]…

KINH VĂN

Bấy giờ, 1.200 vị A-la-hán tâm đạt tự tại liền khởi lên ý nghĩ rằng: “Chúng con đều hoan hỷ, được điều chưa từng có. Nếu như mỗi người chúng con đều được đức Thế Tôn thụ ký cho giống như các vị đại đệ tử kia, chẳng phải là vui thích lắm sao!” Đức Phật rõ biết suy nghĩ trong tâm các vị ấy, liền bảo ngài Ma-ha Ca-diếp: “Nay ta sẽ lần lượt theo thứ tự mà thụ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho 1.200 A-la-hán này.

“Trong đại chúng này, đại đệ tử của ta là Tỳ-kheo Kiều-trần-như rồi sẽ cúng dường 62.000 ức vị Phật, sau đó thành Phật hiệu là Phổ Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Ngoài ra, 500 A-la-hán trong số này, những vị như Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, Già-da Ca-diếp, Na-đề Ca-diếp, Ca-lưu-đà-ni, Ưu-đà-di, A-nậu-lâu-đà, Ly-bà-đa, Kiếp-tân-na, Bạc-câu-la, Chu-đà, Sa-già-đà… cũng đều sẽ thành tựu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tất cả đều cùng một danh hiệu là Phổ Minh.

Phần thứ hai nói việc thụ ký cho 1.200 vị chia thành 3 tổng đoạn. Tổng đoạn thứ nhất là khởi niệm thỉnh Phật thụ ký, tổng đoạn thứ hai là Phật thụ ký và tổng đoạn thứ ba 3 là [các vị đệ tử] trình bày sự nhận hiểu.

© Tổng đoạn thứ nhất [nêu việc các đệ tử] khởi niệm thỉnh Phật thụ ký thì y theo kinh văn có thể hiểu được.

© Tổng đoạn thứ hai nói việc Phật thụ ký, kinh văn chia ra có văn trường hàng và kệ tụng. Phần kinh văn trường hàng lại có 3 đoạn.

Đoạn thứ nhất nói việc đức Phật đưa ra lời hứa chung sẽ thụ ký cho tất cả 1.200 vị.

Đoạn thứ hai nói riêng về việc thụ ký cho ngài Kiều-trần-như. Ngài Kiều-trần-như là vị đệ tử ngộ đạo trước nhất, đứng hàng đầu trong đại chúng nên được thụ ký riêng.

Đoạn thứ ba nói riêng về việc thụ ký cho 500 vị. Vì 500 vị ấy [khi thành Phật sẽ] cùng một danh hiệu nên được thụ ký riêng.

Hỏi: Chỉ thấy có 500 vị được thụ ký, không thấy đủ số 1.200 vị?

Đáp: 500 vị này tức là trong số 1.200 vị ấy. Trong phần kệ tụng, 1 khổ rưỡi kệ cuối cùng là nói việc thụ ký chung cho 700 vị [còn lại], cho nên tất cả là 1.200 vị.

Lại nữa, trong phẩm Khuyến khích thọ trì nói rằng: “Ta trước đây đã thụ ký chung, tất cả Thanh văn đều đã được thụ ký rồi.” Như vậy tức là chỉ đến 1 khổ rưỡi kệ này, không phải chỉ thụ ký cho 700 Thanh văn mà thôi.

KINH VĂN

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại những ý nghĩa này nên nói kệ rằng:

Tỳ-kheo Kiều-trần-như,
Sẽ gặp vô số Phật,
Qua a-tăng-kỳ kiếp,
Mới thành Chánh Đẳng Giác.
Thường phóng hào quang lớn,
Đầy đủ các thần thông,
Vang danh khắp mười phương,
Chúng sanh đều cung kính.
Thường thuyết đạo Vô thượng,
Nên hiệu là Phổ Minh.
Cõi Phật ấy thanh tịnh,
Bồ Tát đều dũng mãnh,
Ở trên lầu gác đẹp.
Dạo chơi khắp mười phương,
Dùng những món quý nhất,
Phụng hiến lên chư Phật.
Cúng dường như như vậy rồi,
Trong lòng rất hoan hỷ,
Thoáng chốc đã quay về,
Có thần lực như vậy.
Phật trụ sáu muôn kiếp,
Chánh pháp trụ lâu hơn,
Tượng pháp lâu hơn nữa,1
Pháp diệt, trời người buồn.
Năm trăm A-la-hán,
Theo thứ tự thành Phật,
Cùng một hiệu Phổ Minh,
Lần lượt thụ ký rằng:
“Sau khi ta diệt độ,
Vị này sẽ thành Phật,2
Việc giáo hóa trong đời,
Cũng giống ta ngày nay.”
Về cõi Phật nghiêm tịnh,
Cùng những sức thần thông,
Chúng Thanh văn, Bồ Tát,
Chánh pháp, rồi tượng pháp,
Trụ thế bao nhiêu kiếp,
Đều như trên đã nói.
Ca-diếp, ông đã biết,
Năm trăm vị tự tại.
Các vị Thanh văn khác,
Cũng đều sẽ như vậy.
Ai vắng mặt hội này,
Ông nên vì họ nói.

Phần kệ tụng có 11 khổ kệ, và chia ra làm 2 đoạn. Đoạn thứ nhất có 9 khổ rưỡi kệ, tụng về việc thụ ký cho ngài Kiều-trần-như và 500 vị khác. Đoạn thứ hai có 1 khổ rưỡi kệ, nói về việc thụ ký chung cho tất cả Thanh văn.

KINH VĂN

Khi ấy, 500 vị A-la-hán ở trước Phật được thụ ký rồi, trong lòng hoan hỷ phấn khích, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đi đến trước Phật, cúi đầu và mặt lễ sát chân Phật, hối lỗi tự trách: “Bạch Thế Tôn! Chúng con thường tự suy nghĩ cho rằng mình đã đạt đến diệt độ rốt ráo, nay mới biết rằng như thế là không có trí tuệ. Vì sao vậy? Chúng con lẽ ra đều được trí tuệ Như Lai, nhưng lại tự cho trí nhỏ nhoi là đủ.

“Bạch Thế Tôn! Ví như có người đến chơi nhà bạn thân, uống rượu say nằm. Khi ấy, người bạn thân có việc quan cần phải đi, liền lấy một hạt châu quý báu vô giá tặng cho bạn bằng cách buộc giấu vào giữa hai lớp áo, xong rồi mới rời đi. Người ấy say rượu nằm, hoàn toàn không hay biết. Đến khi tỉnh dậy ra đi, rồi sau đó lưu lạc đến nước khác, vì chuyện cơm áo phải chuyên cần nỗ lực làm lụng, hết sức gian nan vất vả, kiếm được chút ít liền cho là đủ. Sau đó, người bạn thân thuở trước gặp lại, thấy vậy kêu lên: “Ôi chao, anh bạn tôi! Sao vì cơm áo mà đến nỗi này! Ngày xưa tôi vì muốn bạn được an vui, tùy ý thụ hưởng năm món dục, nên vào ngày tháng năm đó đã lấy hạt châu quý báu vô giá buộc giấu vào giữa hai lớp vải áo của anh, nay vẫn còn nguyên đó, sao anh không biết, phải khó nhọc vất vả lo toan khổ sở chỉ cầu đủ sống, thật là ngu si quá! Nay anh có thể lấy hạt châu này bán đi để mua những thứ cần dùng, sẽ thường được như ý, không thiếu thốn gì nữa.”

© Tổng đoạn thứ ba nói về 500 vị Thanh văn trình bày sự nhận hiểu, kinh văn có chia ra trường hàng và kệ tụng. Trong kinh văn trường hàng [chia làm 2 đoạn]. Đoạn thứ nhất là người chép kinh nói về sự hoan hỷ của các vị. Đoạn thứ hai [các vị Thanh văn] tự trình bày sự nhận hiểu.

Đoạn thứ nhất có 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất là người chép kinh nêu sự vui mừng vì ngày nay được nhận hiểu [Đại thừa]. Tiểu đoạn thứ hai nói việc hổ thẹn vì trước đây không nhận hiểu, cho nên tự trách.

Tiểu đoạn thứ nhất nêu sự vui mừng có 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất nói rõ sự mừng vui hoan hỷ trong lòng. Phân đoạn thứ hai nói sự cung kính biểu lộ ra bên ngoài.

[Tiểu đoạn thứ hai,] nói “hối lỗi tự trách” tức là nói rõ việc [các vị Thanh văn] hổ thẹn vì trước đây không nhận hiểu [được Đại thừa].

Đoạn thứ hai, từ câu “Bạch Thế Tôn! Chúng con từ…” trở đi là [các vị Thanh văn] tự trình bày sự nhận hiểu, có 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất là nhận hiểu phần thuyết chánh pháp, tiểu đoạn thứ hai là nhận hiểu phần thuyết thí dụ.

Tiểu đoạn thứ nhất có 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất nói việc hối tiếc vì nhận hiểu được chút ít đã cho là đủ. Phân đoạn thứ hai là tự trách mình căn cơ trì độn nên khó giác ngộ.

Phân đoạn thứ nhất, câu “Bạch Thế Tôn! Chúng con thường tự suy nghĩ cho rằng mình đã đạt đến diệt độ rốt ráo” là nêu sự hối trách vì thuở trước mê lầm, nhận hiểu được Tiểu thừa đã cho là đủ, không biết cầu đạo Đại thừa.

Phân đoạn thứ hai, câu “nay mới biết rằng” là tự trách mình căn cơ trì độn, đến nay mới bắt đầu tỏ ngộ, không nhận biết được sớm hơn, đến nay mới biết rằng Tiểu thừa không phải cứu cánh rốt ráo, Đại thừa mới là chân thật.

Tiểu đoạn thứ hai nhận hiểu phần thuyết thí dụ chia ra 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất [nói thí dụ, phân đoạn thứ hai nêu ý nghĩa nhận hiểu tương hợp với thí dụ].[22]

Phân đoạn thứ nhất nêu thí dụ có 2 ý. Ý thứ nhất nêu nghĩa sơ lược, ý thứ hai là nêu ra thí dụ.

Ý thứ nhất có 2 tiểu ý.

Tiểu ý thứ nhất, câu “như là không có trí tuệ” lược nêu tình huống thí dụ.

Tiểu ý thứ hai từ câu “Vì sao vậy” trở đi là giải thích ý nghĩa “không có trí tuệ”.

Ý thứ hai nêu thí dụ có 2 tiểu ý.

Tiểu ý thứ nhất nêu thí dụ người say rượu, tương hợp với phần thuyết pháp nói việc tự trách vì hiểu được chút ít đã cho là đủ, không biết cầu giáo pháp Đại thừa, và là nhận hiểu trong phần thuyết pháp nói ý nghĩa quyền biến trong các đời trước.

Tiểu ý thứ hai nêu thí dụ được người bạn thân nói rõ cho biết [về hạt châu trong áo], tương hợp với phần thuyết pháp nói việc tự trách mìn căn cơ trì độn nên khó tỏ ngộ, đến nay mới rõ biết, và là nhận hiểu trong phần thuyết pháp nói ý nghĩa hiển bày pháp thật trong các đời trước.

Tiểu ý thứ nhất lại có 3 điều.

Điều thứ nhất nêu thí dụ buộc hạt châu giấu trong chéo áo, tức là nhận hiểu ý nghĩa phần trước nói các vị vương tử kết duyên [đại chúng].

Điều thứ hai nêu thí dụ người say rượu nằm không hay biết gì, tức là nhận lãnh ý nghĩa phần trước nói gặp người thối tâm Đại thừa.

Điều thứ ba nêu thí dụ [người say] khi tỉnh dậy rồi lưu lạc đến nước khác, tức là nhận lãnh ý nghĩa phần trước nói dùng Tiểu thừa để tiếp nhận dẫn dắt.

[Giải thích điều thứ nhất, nói] “ví như có người”, tức là nói những người trong hàng Nhị thừa. Nói “bạn thân”, tức là nói 16 vị vương tử thuở trước. Nói “đến nhà”, tức là nói lấy giáo pháp Đại thừa làm nhà. Nói “uống rượu say nằm”, tức là nói lúc ấy cơ duyên Đại thừa tạm khởi phát, vô minh chỉ tạm thời ẩn phục, nên khi được nghe thuyết giảng kinh thì trong lòng nhận hiểu rõ được rất ít, nhưng vì vô minh che lấp nặng nề nên rồi lại mê muội quên mất.

Nói “say rượu” có hai ý nghĩa. Thứ nhất là quá say, không còn hay biết gì. Thứ hai là say nhẹ, vẫn còn hay biết đôi chút nhưng liền quên đi, nên cũng gọi là không biết. Tuy có 2 nghĩa nhưng rốt cuộc đều dẫn đến việc [người khác] buộc hạt châu [trong áo mình mà không biết], giống như người nghe tiếng trống độc.[23]

Nói “gặp việc quan phải đi” là nêu rõ việc các vương tử có căn cơ khởi phát ở các cõi nước khác, phải tùy duyên ứng hiện đến đó, cho nên nói là “phải đi”. Việc hoằng dương chánh pháp, giáo hóa chúng sanh không phải là việc riêng, cho nên nói là “gặp việc quan”.

Nói “hạt châu quý báu vô giá” tức là trí tuệ quý báu về chân như thật tướng trong Nhất thừa. “Buộc giấu vào giữa hai lớp áo”, là nói các đức tính tàm quý, nhẫn nhục có thể ngăn chặn tâm sân hận và phòng ngừa những điều xấu ác bên ngoài, đó là lớp áo bên ngoài; tâm tin tưởng ưa thích bên trong hàm chứa các căn lành, tức lớp áo bên trong. Vào lúc nghe pháp khởi lên đôi chút tin tưởng ưa thích mong muốn, tức là chủng tử tạo nhân rốt ráo [Đại thừa] của trí tuệ và tâm nguyện.

[Giải thích điều] thứ hai, nói “người ấy say rượu nằm, hoàn toàn không hay biết”, đó là nói tâm vô minh che lấp nặng nề, tuy cố gắng cũng không nhớ biết được. Đây là nhận hiểu ý nghĩa trong thời gian giữa chừng chán nản thối lui, không thụ nhận giáo pháp Đại thừa.

[Giải thích điều] thứ ba, nói “người say khi tỉnh dậy rồi lưu lạc đến nước khác”. Đây là nhận hiểu ý nghĩa phần trên nói trong khoảng thời gian ở giữa được tiếp nhận dẫn dắt bằng Tiểu thừa, giáo hóa bằng ba thừa. Do căn lành muốn phát khởi, chán sợ khổ não tìm cầu an vui, cho nên nói rằng “tỉnh dậy rồi lưu lạc”. Do vô minh che lấp sự nhận hiểu, không biết hướng về quê hương để tìm cầu cơm áo là Đại thừa, cho nên nói rằng “lưu lạc đến nước khác” để tìm cầu cơm áo là Tiểu thừa. Nếu so sánh giữa ma với Phật thì cảnh giới ma sanh tử là “nước khác”, còn Phật pháp dù Đại thừa hay Tiểu thừa đều là “quê hương”. Nhưng nếu so sánh giữa Tiểu thừa với Đại thừa thì Tiểu thừa chưa thoát khỏi sanh tử nên vẫn còn là “nước khác”, Đại thừa đã vĩnh viễn thoát khỏi sanh tử mới gọi là “quê hương”, tức là rốt ráo quay về nguồn cội. Đây là nêu rõ việc quay lưng với cõi nước Đại thừa mà đi sang cõi nước Tiểu Thừa, không biết dùng hạt châu quý giá để có được những thứ cần thiết, nên phải làm thuê để tự kiếm miếng ăn, nhận tiền công mỗi ngày, được chút ít cho là đủ.

Tiểu ý thứ hai từ câu “Sau đó, người bạn thân thuở trước gặp lại” trở đi, nêu thí dụ nhờ người bạn thân nói rõ cho biết, tức là nhận lãnh ý nghĩa trong phần trước nói “do nhân duyên thuở trước nên ngày nay lại thuyết kinh Pháp hoa”, cũng như nghĩa “ban cho các con cùng một loại xe lớn”.

Tiểu ý này lại có 3 điều. Điều thứ nhất là quở trách, điều thứ hai là chỉ ra cho biết chỗ có hạt châu và điều thứ ba là khuyên nên bán đi mua những thứ cần dùng.

Điều thứ nhất nói quở trách là ví như phần trước nói [hàng Tiểu thừa] do tình chấp động khởi mà sanh nghi hoặc.

Điều thứ hai nói việc chỉ ra hạt châu là ví như nhân duyên các đời trước.

Điều thứ ba khuyên bán hạt châu là ví như việc được thụ ký làm Phật.

Trong ba vòng thuyết chánh pháp, thuyết nhân duyên, thuyết thí dụ đều có đủ 3 ý nghĩa này.

Trong vòng thuyết chánh pháp, [kệ tụng nói] “Ta dạy cho thoát khổ, nhưng chưa được Niết-bàn”, tức là quở trách. Năm lượt nói rõ về chư Phật,[24] tức là khai mở chỉ bày, chỉ rõ hạt châu. Ngài Xá-lợi-phất được thụ ký, tức là khuyên bán hạt châu.

Trong vòng thuyết thí dụ, [Phật bảo ngài Xá-lợi-phất]: “Chẳng phải trước đây ta đã từng nói rằng ‘Các đức Phật Thế Tôn dùng đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, phương tiện để thuyết pháp, đều là vì dẫn dắt đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác’”, câu này tức là quở trách. [Nói thí dụ] ba loại xe, rồi ban cho cùng một loại xe, tức là chỉ rõ hạt châu. Hàng trung căn được thụ ký, tức là khuyên bán hạt châu.

[Trong vòng thuyết nhân duyên, kệ tụng nói:] “Đời trước kết nhân duyên, nay ta sắp nói rõ, các ông khéo lắng nghe” tức là quở trách. [Các vương tử] giảng lại [kinh Pháp hoa] kết duyên [với đại chúng], rồi sau trở lại thuyết giảng Đại thừa, tức là chỉ rõ hạt châu báu. Hàng hạ căn được thụ ký tức là khuyên bán hạt châu.

Trong thí dụ “buộc hạt châu giấu giữa hai lớp áo”, có 3 ý so sánh tương ứng trong 3 vòng thuyết giảng. Ban sơ đức Phật vừa thành đạo dưới gốc cây Bồ-đề, dự định dùng Đại thừa giáo hóa, tức là thí dụ buộc hạt châu; thấy chúng sanh không có cơ duyên [Đại thừa] nên dừng việc giáo hóa, tức là thí dụ người uống rượu say nằm; sau đó Phật liền bày ra phương tiện [để giáo hóa], tức là thí dụ tỉnh dậy rồi ra đi.

Trong phẩm Thí dụ nói “từng ở nơi 20.000 ức vị Phật”, tức là thí dụ buộc hạt châu. [Trong phẩm Tin hiểu nói ông trưởng giả] “sai một người hầu cận gấp rút đuổi theo”, [rồi nói đứa con bị đuổi bắt] “ngã lăn ra đất bất tỉnh”, tức là thí dụ người uống rượu say nằm. [Phẩm Thí dụ lại nói ông trưởng giả] dùng ba loại xe dẫn dụ được [các con ra khỏi căn nhà đang cháy], tức là thí dụ tỉnh dậy rồi đi.

Trong phần thuyết nhân duyên [phẩm Thí dụ hóa thành] nói “ở nơi Đức Phật Đại Thông Trí Thắng”, tức là thí dụ buộc hạt châu; nói “giữa đường mỏi mệt muốn thối lui”, tức là thí dụ người uống rượu say nằm; vì tiếp nhận dẫn dắt mà vận dụng Tiểu thừa, tức là thí dụ tỉnh dậy rồi đi.

Những ý nghĩa như trên đều là nhận hiểu pháp quyền thừa. Nói “vào ngày tháng năm đó” là chỉ cho thời gian ở nơi đức Phật Đại Thông Trí Thắng.

KINH VĂN

“Đức Phật cũng như [người bạn thân kia], khi còn là Bồ Tát giáo hóa chúng con, khiến cho phát tâm cầu Nhất thiết trí, [giống như ban cho hạt châu quý báu,] nhưng chúng con lại quên mất đi, không hề hay biết, khi được quả A-la-hán rồi liền tự cho đó là diệt độ, [giống như người kia] mưu sinh vất vả gian nan, vừa được chút ít đã cho là đủ, trong khi tâm nguyện cầu Nhất thiết trí vẫn còn nguyên đó, không hề mất đi. Nay đức Thế Tôn vì thức tỉnh chúng con nên mới dạy rằng: “Này các tỳ-kheo! Chỗ mà các ông đạt được đó không phải là diệt độ rốt ráo. Từ lâu ta đã giúp các ông gieo trồng căn lành là hạt giống Phật, vì dùng phương tiện nên thị hiện tướng Niết-bàn [Nhị thừa], nhưng các ông thật ra chưa được diệt độ.” Bạch Thế Tôn! Chúng con hôm nay mới biết mình thật là Bồ Tát, được thụ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Do nhân duyên đó nên hết sức hoan hỷ, được việc chưa từng có.”

Phân đoạn thứ hai từ câu “Đức Phật cũng như người bạn thân kia” trở đi, nêu nghĩa tương hợp với thí dụ. Trong thí dụ vốn có 2 ý [trước sau], phân đoạn này cũng có 2 ý, mỗi ý đều có 3 tiểu ý.

Ý thứ nhất, từ câu “giáo hóa chúng con” trở đi, tương hợp với tiểu ý thứ nhất phần trước là thí dụ buộc hạt châu. Từ câu “nhưng chúng con lại quên mất đi” trở đi, tương hợp với tiểu ý thứ hai phần trước là thí dụ uống rượu say nằm không biết gì. Từ câu “được quả A-la-hán rồi” trở đi, tương hợp với tiểu ý thứ ba phần trước là thí dụ tỉnh dậy rồi đi lưu lạc.

Ý thứ hai, từ câu “trong khi tâm nguyện cầu Nhất thiết trí” trở đi, tương hợp với thí dụ về sau gặp lại người bạn thân chỉ ra cho biết có hạt châu. Phần trước có 3 tiểu ý, phần này cũng có 3 tiểu ý. Từ câu “trong khi tâm nguyện cầu Nhất thiết trí vẫn còn nguyên đó, không hề mất đi”, tương hợp với tiểu ý thứ nhất phần sau là thí dụ quở trách. Từ câu “Từ lâu ta đã giúp các ông gieo trồng căn lành là hạt giống Phật” trở đi, tương hợp với tiểu ý thứ hai phần sau là thí dụ chỉ ra cho biết có hạt châu. Từ câu “chúng con hôm nay mới biết” trở đi, tương hợp với tiểu ý thứ ba phần sau là khuyên bán hạt châu để đổi lấy những thứ cần dùng.

KINH VĂN

Bấy giờ, nhóm các ngài A-nhã Kiều-trần-như… muốn lặp lại ý nghĩa trên nên cùng đọc kệ rằng:

Chúng con nghe Phật ban
Lời thụ ký an ổn,
Hoan hỷ chưa từng có,
Lễ trí Phật vô lượng.
Nay trước mặt Thế Tôn,
Xin tự hối lỗi lầm.

Phần kệ tụng có 12 khổ rưỡi, chia làm 2 đoạn.

Đoạn thứ nhất gồm 1 khổ rưỡi kệ, tụng về sự nhận hiểu được từ trong tâm. Đoạn này lại có 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất 1 khổ kệ, tụng về sự hoan hỷ vui mừng. Tiểu đoạn thứ hai nửa khổ kệ, tụng về sự hối tiếc tự trách.

KINH VĂN

Kho báu Phật vô lượng,
Con chỉ được chút ít,
Lại như người ngu si,
Tự cho đó là đủ.
Ví như người nghèo khó,
Đến chơi nhà bạn thân.
Nhà bạn rất giàu có,
Thết đãi nhiều món ngon,
Rồi lấy hạt châu quý
Giấu trong hai lớp áo
Tặng cho trước khi đi,
Người say nằm, không biết.
Sau khi tỉnh dậy rồi,
Lưu lạc sang nước khác,
Cầu cơm áo qua ngày,
Mưu sinh thật khó khăn,
Được ít cho là đủ,
Chẳng mong cầu tốt hơn.
Không biết trong áo mình,
Có hạt châu vô giá.
Người bạn cho hạt châu,
Sau gặp lại người nghèo,
Thấy vậy liền quở trách,
Rồi chỉ rõ hạt châu.
Người nghèo thấy hạt châu,
Lòng vui mừng khôn xiết,
Được giàu có, sung túc,
Tùy ý hưởng năm dục.
Chúng con cũng như vậy,
Thế Tôn trong đêm dài,1
Thường thương xót giáo hóa,
Khiến phát tâm Vô thượng.
Chúng con vì ngu si,
Nên không hề hay biết,
Được phần nhỏ Niết-bàn,
Tưởng đủ, chẳng cầu thêm.
Phật đánh thức chúng con:
“Đó chưa phải diệt độ.
Được Trí tuệ Vô thượng,
Mới diệt độ chân thật.”
Chúng con được nghe Phật,
Thụ ký việc trang nghiêm,
Cùng thứ lớp thành Phật,
Thân tâm đều hoan hỷ.

Đoạn thứ hai từ câu “Kho báu Phật vô lượng” trở đi, gồm 11 khổ kệ, tụng về việc [các vị Thanh văn] tự trình bày sự nhận hiểu. Phần kinh văn trường hàng ở trước có 2 tiểu đoạn, [ở đây có 3 tiểu đoạn].

Tiểu đoạn thứ nhất gồm nửa khổ kệ tụng về việc hối tiếc tự trách vì chỉ được ít đã cho là đủ, lược bớt không tụng ý nghĩa [giáo pháp Đại thừa] khó gặp, đến nay mới được biết.

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Lại như người ngu si” có nửa khổ kệ, tụng lược việc nêu thí dụ. Câu “tự cho đó là đủ” là giải thích ý “ngu si”.

Tiểu đoạn thứ ba gồm 10 khổ kệ, tụng nghĩa thuyết thí dụ, chia ra hai phân đoạn khai mở và tương hợp.

Phân đoạn thứ nhất gồm 6 khổ kệ, tụng nghĩa khai mở thí dụ. Phân đoạn thứ hai gồm 4 khổ kệ, tụng nghĩa tương hợp thí dụ.

Phân đoạn thứ nhất lại có 2 ý.

Ý thứ nhất gồm 4 khổ kệ, tụng về nghĩa bỏ quên mất hạt châu quý báu mà không biết.

Ý thứ hai gồm 2 khổ kệ, tụng về việc người bạn thân chỉ ra cho biết hạt châu.

Những phần kinh văn khác đều có thể nhận hiểu dễ dàng.

9. Giải thích phẩm
Thụ ký cho hàng hữu học và vô học

KINH VĂN

Phẩm Thụ ký cho hàng hữu học và vô học, thứ chín

Giải thích tên phẩm

Trong giai đoạn còn nghiền ngẫm chân lý, dứt trừ nghi hoặc gọi là hữu học; khi đã thấu suốt tận cùng chân lý, dứt hết nghi hoặc gọi là vô học.

Nghiền ngẫm tu tập chân lý, ngưỡng mộ tìm cầu sự hiểu biết thù thắng gọi là hữu học. Giai vị của bậc hữu học là 3 quả, 4 hướng,[25] hướng đến trí tuệ chân thật không còn lậu hoặc. Đạt đến quả A-la-hán thì nghiền ngẫm chân lý đã tột cùng, sự hiểu biết thù thắng cũng đã hết mức, không còn gì phải học nữa, cho nên gọi là vô học.

Theo giáo nghĩa để giải thích phẩm này thì chia chẻ nghĩa pháp, nghiền ngẫm chân lý gọi là hữu học; dứt hết nghi hoặc, thấu triệt tận cùng chân lý gọi là vô học. Đó là ý nghĩa của Tạng giáo.

Thể nhập giáo pháp, nghiền ngẫm chân lý gọi là hữu học; không chân thật cũng không mê hoặc, gọi là vô học. Đó là ý nghĩa theo Thông giáo.

Nghiên tầm [giáo pháp] từ cạn cợt đến sâu xa là học; dứt trừ hết thông hoặc, biệt hoặc, thấu triệt rốt ráo lẽ quyền thật, gọi là vô học. Đây là ý nghĩa của Biệt giáo.

Nghiên cứu tạng Như Lai thì có cả hữu học, vô học; tướng thật của tánh pháp thì không phải hữu học, không phải vô học, nhưng cũng là hữu học, cũng là vô học. Đại lược là như thế.

[Trong pháp hội,] 2.000 vị này có người hữu học, có người vô học, đều xếp cùng một hạng, cùng một lúc được thụ ký, cùng một danh hiệu, cho nên tách riêng thành một phẩm này. Trong phần kinh văn thụ ký, phẩm này là đại đoạn thứ hai.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, các ngài A-nan và La-hầu-la có ý nghĩ rằng: “Chúng ta mỗi người đều tự nghĩ: ‘Giá như được Phật thụ ký, chẳng phải là vui thích lắm sao!’” Hai vị liền từ chỗ ngồi đứng dậy tiến đến trước Phật, cúi đầu chạm mặt lễ sát chân Phật, cùng bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Chúng con đối với việc thụ ký này cũng nên được dự phần, vì chỉ có đức Như Lai là nơi chúng con quy hướng. Chúng con lại được hết thảy trời, người, a-tu-la trong khắp cõi thế gian biết đến, rằng A-nan thường làm thị giả theo hầu Phật, giữ gìn bảo vệ kho tàng Chánh pháp, rằng La-hầu-la là con của Phật. Nếu được Phật thụ ký quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì chúng con thật mãn nguyện, mà sự ngưỡng vọng của đại chúng cũng được thỏa mãn.”

Kinh văn phẩm này nói chung được chia làm 2 đoạn. Đoạn thứ nhất là thỉnh Phật thụ ký và đoạn thứ hai là được Phật thụ ký.

Đoạn thứ nhất thỉnh Phật thụ ký lại có 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất nêu việc 2 vị [A-nan và La-hầu-la] thỉnh Phật thụ ký; tiểu đoạn thứ hai nêu việc 2.000 người cùng thỉnh Phật thụ ký.

Tiểu đoạn thứ nhất nêu việc hai vị thỉnh Phật thụ ký lại có 2 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất là thầm lặng thỉnh cầu trong ý niệm; phân đoạn thứ hai là nói ra lời thỉnh cầu.

Phân đoạn thứ hai nói ra lời thỉnh cầu lại có 2 ý.

Ý thứ nhất là nêu lẽ thông thường, theo đó các vị nên được dự phần trong việc thụ ký; ý thứ hai là nêu ra sự ngưỡng vọng. Hai vị là người thân thiết nhất [đối với đức Phật] nên đại chúng khi ấy đều ngưỡng vọng. Ngài La-hầu-la là con Phật, xét theo thế tục là thân thiết nhất; ngài A-nan giữ gìn kho tàng chánh pháp của Phật, xét trong đạo pháp là thân cận hơn hết. Hai vị thân thiết gần gũi như vậy, nếu không được Phật thụ ký riêng cho thì sự ngưỡng vọng của đại chúng không được thỏa mãn.

Hỏi: Nếu [2 vị này] là thân thiết gần gũi nhất thì lẽ ra phải được dự vào hàng trên, [xếp ở phẩm trước,] nay có ý gì mà đưa xuống ở phẩm này?

Đáp: Khi thụ ký chung cho 1.200 vị thì 2 vị này vốn đã thuộc hàng trên, chỉ là nay thưa thỉnh xin được thụ ký riêng mà thôi. Ngài A-nan là bậc hữu học, ngài La-hầu-la là địa vị con em [thân thuộc], cho nên đưa vào phẩm “hữu học và vô học”.

KINH VĂN

Khi ấy, 2.000 vị đệ tử Thanh văn hữu học và vô học đều từ chỗ ngồi đứng dậy, trần vai áo bên phải, tiến đến trước Phật, chắp tay một lòng chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, đồng một tâm nguyện như các ngài A-nan và La-hầu-la, rồi đứng sang một bên.

[Tiểu đoạn thứ hai nêu việc] 2.000 người thỉnh Phật thụ ký chỉ có sự lặng yên thỉnh cầu trong ý niệm theo lệ trước. Tâm ý tương đồng[26] cho nên nói “đồng một tâm nguyện như các ngài A-nan và La-hầu-la”. [Các vị này] không nói ra lời, vì không nêu những việc như thân thiết, gần gũi…

KINH VĂN

Bấy giờ, đức Phật bảo ngài A-nan: “Trong tương lai ông sẽ thành Phật hiệu là Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Ông sẽ cúng dường 62 ức chư Phật, bảo vệ giữ gìn kho tàng Chánh pháp, rồi sau đó mới thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, giáo hóa chư Bồ Tát nhiều như số cát của 20.000 muôn ức con sông Hằng, khiến cho đều thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Cõi nước ấy tên là Thường Lập Thắng Phan, toàn cõi nước thanh tịnh, mặt đất bằng lưu ly, thời đại ấy tên là Diệu Âm Biến Mãn. Đức Phật ấy có tuổi thọ vô lượng ngàn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp, nếu như có người trong suốt ngàn muôn ức vô lượng a-tăng-kỳ kiếp tính toán đếm kể cũng không thể biết được số kiếp chính xác. Thời gian chánh pháp tồn tại ở đời còn lâu hơn gấp bội. Thời gian tượng pháp tồn tại ở đời, so với chánh pháp lại lâu hơn gấp bội.

Này A-nan! Đức Phật Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Phật ấy được chư Phật Như Lai khắp mười phương nhiều như số cát của vô lượng ngàn muôn ức con sông Hằng cùng ngợi khen, xưng tán công đức.

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:

Ta nay bảo chúng tăng,
A-nan, người giữ pháp,
Sẽ cúng dường chư Phật,
Sau đó thành Chánh giác,
Hiệu là “Sơn Hải Tuệ
Tự Tại Thông Vương Phật”.
Cõi Phật ấy thanh tịnh,
Tên “Thường Lập Thắng Phan”,
Giáo hóa chư Bồ Tát,
Nhiều như cát sông Hằng.
Phật có uy đức lớn,
Danh vang khắp mười phương,
Tuổi thọ không thể lường,
Vì thương xót chúng sanh,
Chánh pháp trụ lâu hơn,
Tượng pháp lâu hơn nữa.
Có vô số chúng sanh,
Nhiều như cát sông Hằng,
Đều ở trong Phật pháp,
Gieo nhân duyên Phật đạo.

Đoạn thứ hai nêu việc được Phật thụ ký lại cũng có 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất nêu việc thụ ký cho 2 vị [A-nan và La-hầu-la], tiểu đoạn thứ hai nêu việc thụ ký cho 2.000 vị.

Trong tiểu đoạn thứ nhất, nói việc thụ ký cho ngài A-nan lại có 5 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất là kinh văn trường hàng; phân đoạn thứ hai là kệ tụng.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, trong pháp hội có 8.000 vị Bồ Tát vừa mới phát tâm đều suy nghĩ rằng: “Chúng ta thậm chí còn chưa nghe các vị Đại Bồ Tát được thụ ký [lớn lao đến] như vậy, nay có nhân duyên gì mà các vị Thanh văn lại được thụ ký như vậy?”

Khi ấy, đức Thế Tôn rõ biết suy nghĩ trong tâm các vị Bồ Tát nên bảo họ rằng: “Này các thiện nam tử! Ta cùng với những người như ông A-nan đây từng ở nơi đức Phật Không Vương cùng lúc phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. A-nan thường ưa thích nghe nhiều, trong khi ta thường chuyên cần tinh tấn tu tập, cho nên nay ta đã thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, còn A-nan thì giữ gìn bảo vệ chánh pháp của ta, lại cũng bảo vệ kho tàng chánh pháp của chư Phật trong tương lai, thành tựu việc giáo hóa các vị Bồ Tát. Vì tâm nguyện thuở trước như vậy nên nay A-nan được thụ ký như vậy.”

Ngài A-nan ở trước Phật, tự mình nghe Phật thụ ký cùng nói rõ về cõi nước trang nghiêm, tâm nguyện được trọn đủ, trong lòng hết sức mừng vui hoan hỷ, được việc chưa từng có, liền tức thời nhớ lại được kho tàng Phật pháp trong quá khứ của vô lượng ngàn muôn ức chư Phật, thông suốt không ngăn ngại như vừa mới được nghe hôm nay, đồng thời cũng nhớ biết được tâm nguyện thuở trước.

Khi ấy, ngài A-nan liền đọc kệ rằng:

Thế Tôn thật hy hữu,
Khiến con nhớ quá khứ,
Pháp của vô số Phật,
Như vừa nghe hôm nay.
Nay con không còn nghi,
Trụ yên trong Phật đạo,
Phương tiện làm thị giả,
Hộ trì pháp chư Phật.

Phân đoạn thứ ba nêu việc 8.000 vị Bồ Tát khởi sanh lòng nghi; phân đoạn thứ tư là đức Như Lai nêu rõ hình tích [của ngài A-nan] để giải thích điều nghi; phân đoạn thứ năm là ngài A-nan hiển bày thuật lại việc trước đây rồi xưng tán Phật.

Nói về mối nghi [của các vị Bồ Tát], đó là nghi chung đối với tất cả các vị Thanh văn, vì sao ngày nay vừa mới phát tâm liền được Phật thụ ký cho [ngày sau thành Phật với] cõi nước thanh tịnh lớn lao đến như thế… Còn trong thời Phương đẳng, Phật thụ ký cho các vị Bồ Tát thì đều đã phải trải qua vô lượng kiếp tu hành mới được Phật thụ ký.

Đức Phật liền nêu rõ hình tích [của ngài A-nan] để giải thích mối nghi đó. “Ta cùng với những người như ông A-nan đây từng ở nơi đức Phật Không Vương cùng lúc phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”, tức là bạn đồng học. “Ta thường chuyên cần tinh tấn tu tập, cho nên nay ta đã thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” Lại do “A-nan thường ưa thích nghe nhiều” cho nên ngày nay còn lo việc giữ gìn kinh điển.

A-nan thị hiện hình tích làm thị giả [cho Phật], nguyên do thuở xưa là như thế, vậy thì nay nhận được sự thụ ký tốt đẹp lớn lao này đâu có gì đáng để khởi nghi?

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài La-hầu-la: “Trong tương lai ông sẽ thành Phật, hiệu là Đạo Thất Bảo Hoa Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Ông sẽ cúng dường chư Phật Như Lai nhiều bằng số hạt bụi nhỏ trong 10 thế giới, thường làm con trưởng của chư Phật, cũng giống như ngày nay. Đức Phật Đạo Thất Bảo Hoa sẽ có cõi nước trang nghiêm, về tuổi thọ, số đệ tử giáo hóa được, cho đến thời gian tồn tại của chánh pháp, tượng pháp đều giống như đức Phật Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai không khác, lại cũng là con trưởng của đức Phật ấy. Trải qua thời gian đó rồi sẽ thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Khi ấy, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:

Khi ta là Thái tử,
La-hầu làm con trưởng.
Nay ta đã thành Phật,
Ông trở thành pháp tử.
Trong những đời vị lai,
Gặp vô lượng ức Phật,
Đều làm con trưởng Phật,
Một lòng cầu Phật đạo.
Mật hạnh của La-hầu,
Chỉ Phật mới rõ biết.
Thị hiện con trưởng Phật,
Để chỉ bày chúng sanh.
Vô lượng muôn ngàn ức
Công đức không thể lường,
Trụ yên nơi Phật pháp,
Để cầu đạo Vô thượng.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nhìn thấy 2.000 vị đệ tử hữu học và vô học tâm ý đều nhu thuận nhuần nhuyễn, thanh tịnh vắng lặng, đang một lòng chiêm ngưỡng Phật. Đức Phật bảo ngài A-nan: “Ông có thấy 2.000 vị đệ tử hữu học và vô học ở đây không?”

Ngài A-nan thưa: “Dạ, con có thấy.”

Phật dạy: “Này A-nan! Những vị này rồi sẽ cúng dường chư Phật Như Lai nhiều như số hạt bụi trong năm mươi thế giới, tôn trọng cung kính, bảo vệ giữ gìn kho tàng chánh pháp, cho đến sau cùng sẽ ở nơi các cõi nước trong mười phương mà cùng lúc thành Phật, đồng một danh hiệu là Bảo Tướng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, tuổi thọ là một kiếp, cõi nước đều trang nghiêm, chúng Bồ Tát, Thanh văn, cho đến thời gian tồn tại chánh pháp, tượng pháp của chư Phật ấy cũng đều như nhau.

Khi ấy, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:

Hai ngàn Thanh văn này,
Nay ở trước mặt ta,
Thụ ký cho tất cả,
Tương lai đều thành Phật.
Sẽ cúng dường chư Phật,
Nhiều như số hạt bụi,
Đều hộ trì pháp Phật,
Rồi sau sẽ thành Phật,
Trong cõi nước mười phương,
Đều cùng một danh hiệu,
Cùng lúc ngồi đạo tràng,
Đạt trí tuệ Vô thượng,
Đồng một hiệu Bảo Tướng.
Cõi nước và đệ tử,
Chánh pháp cùng tượng pháp,
Cũng dài lâu không khác.
Đều dùng sức thần thông,
Độ chúng sanh mười phương,
Khắp nơi đều nghe danh,
Rồi dần nhập Niết-bàn.

Lúc bấy giờ, 2.000 vị đệ tử hữu học và vô học được nghe Phật thụ ký thì vui mừng phấn khích, cùng đọc kệ rằng:

Thế Tôn soi đèn tuệ,
Chúng con nghe thụ ký,
Tâm ngập tràn hoan hỷ,
Như được rưới cam lộ.

© Những sự thụ ký khác trong phẩm này đều có thể y theo kinh văn mà hiểu được.

10. Giải thích phẩm Pháp Sư

KINH VĂN


Phẩm Pháp sư, thứ mười

Giải thích tên phẩm

Trong phẩm này nói có 5 loại pháp sư. Thứ nhất là [pháp sư] thọ trì kinh; thứ hai là đọc kinh; thứ ba là tụng kinh; thứ tư là thuyết giảng kinh và thứ năm là sao chép kinh.

Trong luận Đại Trí độ nêu rõ về 6 loại pháp sư. Thứ nhất, do sức mạnh niềm tin nên thọ nhận; thứ hai, do sức nhớ nghĩ cho nên trì giữ; thứ ba, xem kinh văn là đọc; thứ tư, [xem rồi] không quên là tụng; thứ năm, tuyên giải rộng truyền là thuyết giảng; thứ sáu, kinh văn của bậc Thánh khó hiểu nên cần giải thích.

Sáu loại pháp sư, nay trong kinh này gộp các loại thọ trì làm thứ nhất; gộp thuyết giảng giải thích làm thứ hai, chia đọc tụng thành thứ ba và thứ tư, cộng với sao chép là thứ năm.

Nếu luận chi tiết thì có 4 hạng pháp sư là tự mình tu hành, 1 hạng là giáo hóa người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn phân chia [những người thọ trì kinh điển Đại thừa] có 9 phẩm vị.[27] Trong đó 4 phẩm vị đầu tiên “không thể vì người khác phân biệt giảng rộng”[28] nên là ở cương vị đệ tử, 5 phẩm vị sau đó có thể giảng giải cho người khác nên là cương vị bậc thầy.

Nếu luận chung thì tự mình noi theo 5 pháp [thọ trì, đọc, tụng, thuyết giảng và sao chép kinh này], tức là hạng pháp sư tự thực hành; nếu dạy cho người khác noi theo 5 pháp ấy tức là hạng pháp sư giáo hóa người khác. Tự mình noi theo nên gọi chung là đệ tử, giáo hóa người khác nên gọi chung là pháp sư. Nay theo nghĩa chung đó nên gọi tên là phẩm Pháp sư.

Nếu theo thuyết giảm bớt thì 5 hạng giảm còn lại 4, tức là [4 hạng pháp sư tu tập] theo 4 hạnh an vui như kinh văn phần sau sẽ nói.[29] Hoặc nếu giảm 4 hạng còn 3 thì [hạng pháp sư] thụ trì [kinh điển] là [tu tập] ý nghiệp, hạng đọc, tụng, giảng thuyết [kinh điển] là [tu tập] khẩu nghiệp, hạng sao chép [kinh điển] là [tu tập] thân nghiệp.

Nếu luận chi tiết thì [hạng pháp sư tu tập] khẩu nghiệp là giáo hóa người khác; [hạng pháp sư tu tập] thân nghiệp và ý nghiệp là tự mình thực hành.

Nếu luận chung thì tự mình [tu tập] ước thúc được 3 nghiệp theo đúng pháp tức là hạng pháp sư tự thực hành; dạy bảo chỉ bày [cho người khác tu tập] 3 nghiệp tức là hạng pháp sư giáo hóa người khác, cho nên gọi là phẩm Pháp sư.

Lại cũng gọi đây là 3 cửa [vào đạo]. Dùng sự thực hành 5 pháp [thọ trì, đọc, tụng, thuyết giảng và sao chép kinh] này để tự huân tu, tức là cửa phước đức; giảng giải truyền rộng 5 pháp này làm lợi ích cho nhiều người, tức là cửa hóa tha; [nhờ thực hành 5 pháp này mà] việc tự tu tập hay làm lợi ích cho người khác đều thuận theo lời Phật dạy, tức là cửa báo ân.

Nếu luận chi tiết thì tự mình tu tập báo ân gọi là tự thực hành; làm lợi ích cho người khác tức là giáo hóa chúng sanh.

Nếu luận chung thì tự mình tu tập theo khuôn phép hay hướng dẫn người khác tu tập theo khuôn phép đều gọi là pháp sư. Cho nên gọi là phẩm Pháp sư.

Lại nữa, đọc, tụng, sao chép là hành vi biểu lộ ra bên ngoài, tức là “đắp y Như Lai”; thụ trì là tu hành bên trong, tức là “ngồi tòa Như Lai”; thuyết giảng làm lợi ích cho người khác, tức là “vào nhà Như Lai”.

Luận chi tiết thì “nhà Như Lai” tức là làm khuôn mẫu cho người khác noi theo; “y Như Lai” và “tòa Như Lai” là tự làm khuôn mẫu cho chính mình.

Luận theo nghĩa chung thì không phải như vậy. Lòng từ bi che chở khắp chúng sanh, ban ân huệ lợi ích [chúng sanh cũng là] cho mình gọi đó là như “nhà”; ngăn ngừa điều xấu ác của người khác, che lấp xú uế của tự thân mình nên gọi là “y”; tự tâm mình an ổn nơi pháp không thì mới có thể giúp an tâm người khác; an ổn cho mình, an ổn cho người khác nên gọi là “tòa”. Như vậy tức là tự mình noi theo khuôn phép ba pháp [vào nhà Như Lai, đắp y Như Lai, ngồi tòa Như Lai], cũng gọi là pháp sư.

Làm lợi ích chúng sanh ắt phải dùng tâm từ bi, nên lấy việc “vào nhà Như Lai” [đại từ bi] là trước nhất. Vượt qua ba cõi[30] phải có nhẫn nhục làm nền tảng, [nên “đắp y Như Lai” nhu hòa nhẫn nhục]. Cứu giúp chúng sanh lấy sự quên mình làm gốc, [nên “ngồi tòa Như Lai” hết thảy pháp không]. Có thể thực hành 3 pháp như vậy thì giáo pháp Đại thừa truyền rộng thông suốt, tức là chỗ để thế gian nương theo, dựa vào, cho nên gọi là pháp sư.

Lại nếu giảm bớt còn 2 [hạng pháp sư] tức là nói hạng tự thực hành và hạng giáo hóa chúng sanh. Thuyết này dễ hiểu, không cần ghi chép ở đây.

Nếu lại giảm còn một [hạng pháp sư], tức là nói công hạnh Như Lai đầy đủ mọi sự thực hành. [Nhà Như Lai với] lòng bi mẫn cứu vớt hết thảy mọi sự khổ đau, tức là nói chung mọi sự khổ não trong 4 đường,[31] 3 cõi, cho đến những nỗi khổ của hàng nhị thừa hoặc Bồ Tát; với lòng từ mang đến hết thảy mọi niềm vui, tức là nói chung những niềm vui trong cõi người, cõi trời, cho đến vui Niết-bàn thường trụ. Y [Như Lai] nhu hòa che lấp mọi sự xú uế, tức là nói chung những xú uế của 4 trụ địa phiền não, của sự không hiểu biết cho đến vô minh. Tòa Như Lai hết thảy các pháp đều không, không tất cả tướng, tức là nói tướng có, tướng không, tướng, tướng chẳng phải có chẳng phải không. Đây là ý nghĩa theo Thông giáo.

Giải thích theo ý nghĩa của Biệt giáo thì [nhà Như Lai] từ bi làm sanh khởi hết thảy mọi điều lành, [y Như Lai] nhu hòa ngăn chặn tất cả các việc ác, [tòa không Như Lai] quét sạch hết thảy các tướng.

Lại nữa, từ bi nhẫn nhục gầy dựng nên tất cả phước đức, tòa [Như Lai các pháp đều] không thành tựu tất cả trí tuệ. Trí tuệ là mắt nhìn, đó là nói 5 loại mắt;[32] phước đức là chân đi, đó là nói là 6 pháp ba-la-mật.

Lại nữa, tâm từ bi [vào nhà Như Lai] vượt thắng hết thảy Thanh văn, Duyên giác; [đắp y Như Lai] nhẫn nhục nhu hòa vượt thắng tất cả phàm phu, ngoại đạo; [ngồi tòa Như Lai”] các pháp đều không vượt thắng tất cả các hàng Bồ Tát tích không, thể không, thiên lệch.[33] Cho nên, kinh Tịnh Danh nói: “Thắng được kẻ oán địch mới là dũng mãnh.”

Lại nữa, [vào nhà Như Lai] từ bi phá trừ ma cõi trời Tha hóa tự tại, [đắp y Như Lai] nhu hòa nhẫn nhục phá trừ ma 5 ấm, [ngồi tòa Như Lai] các pháp đều không phá trừ ma phiền não, ma sự chết.

Đại phẩm Bát-nhã nói: “Giáo hóa tất cả chúng sanh, quán chiếu hết thảy các pháp đều không thì chúng ma không thể dễ dàng [não loạn].” Đại lược là như thế.

Lại nữa, [vào nhà Như Lai] từ bi, [đắp y Như Lai] nhẫn nhục nên có khả năng nêu hỏi, ngồi tòa [Như Lai] tất cả pháp đều không nên có khả năng giải đáp. [Như vậy là] trọn đủ [phước, tuệ] trang nghiêm.

Lại nữa, quán các pháp đều không nên có khả năng nêu hỏi; đủ từ bi nhẫn nhục nên có khả năng giải đáp. Từ bi, nhẫn nhục nên có thể gieo trồng, có thể gầy dựng, có thể giúp đỡ; trí tuệ quán không nên có thể nhổ bật, có thể phá trừ, có thể dẫn dắt.

Lại nữa, [vào nhà Như Lai] từ bi nên không có gì ngăn cách, [đắp y Như Lai] nhu hòa nhẫn nhục nên không có gì chướng ngại, [ngồi tòa Như Lai] các pháp đều không nên không có gì tranh chấp.

[Kinh này] vượt ngoài 3 chân đế[34] nên gọi là ngọn cờ chiến thắng; bao quát hàm chứa, thâu nhiếp khắp cùng cho nên gọi là Đại thừa; là công hạnh của Như Lai nên gọi là Vua Tam-muội.

Trong kinh nói, hết thảy các pháp lành, tâm từ là căn bản; nhẫn nhục là đường tu bậc nhất; vô tướng là tối thượng. Nếu bàn về công hạnh viên mãn thì không thể nói hết. Đại lược là như vậy.

Hỏi: Vì sao dựa vào 3 pháp [vào nhà Như Lai, đắp y Như Lai, ngồi tòa Như Lai] để nêu rõ về pháp sư?

Đáp: Theo sự tướng mà nói thì một khi đi đến chỗ luận bàn thuyết giảng, tất nhiên phải vào nhà, chỉnh trang y phục, ngồi yên trên tòa, sau đó mới có thể mở bày thuyết rộng, cho nên dựa vào 3 pháp như vậy.

Lại nữa, nếu hợp cả sự và lý mà nói thì sự mê hoặc nhìn chung không ra ngoài 3 loại. Thứ nhất là do nhận chịu quả khổ đau mà khởi lên nghi hoặc; thứ hai là do nghiệp trói buộc mà khởi lên nghi hoặc; thứ ba là do xét lý mà khởi lên nghi hoặc. Vì thế nên dùng 3 pháp như vậy để chỉ bày dẫn dắt.

Lại nữa, theo lý mà nói thì vì mê muội không thấu hiểu chân đế nên sa đọa vào khổ não, do vậy phải [vào nhà Như Lai] vận dụng đại từ bi; vì mê muội không thấu hiểu tục đế nên chìm đắm trong lẽ không mà thọ nhận niềm vui, do vậy phải [đắp y Như Lai] vận dụng nhu hòa nhẫn nhục; vì mê muội không thấu hiểu trung đế nên che chướng trí tuệ, do vậy phải [ngồi tòa Như Lai] vận dụng các pháp đều không.[35] Đại lược là như thế.

[Về 2 chữ pháp sư thì] “pháp” là quy tắc, cách thức phải làm theo, “sư” là thầy dạy dỗ, giảng giải. Pháp tuy có thể làm theo, nhưng tự nó không thể truyền rộng. Truyền rộng thông suốt được là do con người. [Cho nên] 5 hạng người [thọ trì, đọc, tụng, thuyết giảng và sao chép] giúp truyền rộng thông suốt kinh điển đều được gọi là “sư”.

Nêu ra pháp, vì những ai tự mình tu hành thành tựu đều do lấy diệu pháp làm thầy. Thầy là người tự mình tu hành theo diệu pháp mà được thành tựu, cho nên gọi là pháp sư.

Lại nữa, 5 hạng người [thọ trì, đọc, tụng, thuyết giảng và sao chép kinh điển] đều có thể dùng diệu pháp để dạy dỗ, nêu gương cho người khác, cho nên nêu “pháp” để gọi tên “sư”, gọi là phẩm Pháp sư.

Tự mình tu hành theo pháp, hoặc y theo pháp mà giáo hóa người khác đều gọi là pháp sư. Đây là giải thích tên phẩm theo nhân duyên.

Nói chung có nhiều cách giải thích, phần nhiều đều dựa theo pháp môn Viên giáo để giải thích phẩm này.

Phần trước 3 vòng [thuyết chánh pháp, nhân duyên và thí dụ] là nêu Tích môn gồm chánh thuyết, trình bày nhận hiểu và thụ ký, đến đây đã trọn vẹn. Từ đây về sau gồm 5 phẩm là nêu Tích môn thuộc phần lưu thông.

[Kinh này] không chỉ che chở làm lợi ích cho người đương thời, mà còn muốn thấm nhuần truyền rộng đến đời sau, cho nên mới có 5 phẩm lưu thông. Hai phẩm Pháp sư và Hiện bảo tháp là nêu rõ công đức sâu xa, phước báu lớn lao của việc hoằng truyền kinh điển, cùng lợi ích cực lớn của việc lưu thông kinh này đến với những người chưa được nghe. Phẩm Đề-bà-đạt-đa thì nêu dẫn việc hoằng truyền kinh này được lợi ích cho cả chính mình và người khác để chứng minh công đức rất sâu xa. Phẩm Trì có 80.000 vị Bồ Tát do sức nhẫn nhục được thành tựu, ở nơi cõi này truyền rộng kinh này, còn những vị vừa mới được thụ ký thì ở những cõi khác truyền rộng kinh này. Riêng một phẩm Hạnh An lạc, các nhà cựu giải cho là “lưu thông của phần tiếp dẫn những người thối tâm [Đại thừa]”. Hoặc cứ cho là như vậy, nhưng chưa hẳn đã hoàn toàn trọn nghĩa. Các giai vị sơ tâm ngoại phàm thì vui mừng với phước đức thù thắng vừa đạt được, nhìn thấy hàng Thanh văn sợ hãi, nghe việc Bồ Tát phải nhận chịu chê bai hủy nhục, nhìn lại mình sức lực còn yếu ớt, chẳng làm được gì ích lợi cho bản thân và người khác, liền sanh tâm thối lui. Đức Phật vì hạng thối lui này mà thuyết dạy các hạnh an lạc, y theo đó mà truyền rộng pháp thì không lo gặp nguy hiểm khổ não.

Lại nữa, trong phẩm Pháp sư, đức Thích Tôn tự nói ra công đức, phước báu của việc rộng truyền kinh này, dạy thính chúng phải mến mộ lưu thông;[36] trong phẩm Hiện bảo tháp thì [đức Phật Đa Bảo] vì chứng minh [sự chân thật của] kinh này mà hiện ra, vô số phân thân [của Phật Thích-ca] vì trợ giúp việc mở tháp nên tập hợp đến. Do có sự chứng minh và trợ giúp như vậy nên thính chúng mến mộ [kinh này] mà lưu thông.

Tổng đoạn thứ nhất của phẩm Pháp sư gồm có kinh văn trường hàng và kệ tụng, ngợi khen xưng tán 5 hạng pháp sư là những người có khả năng gìn giữ lưu truyền giáo pháp.

Tổng đoạn thứ hai cũng gồm có kinh văn trường hàng và kệ tụng, ngợi khen xưng tán giáo pháp được gìn giữ lưu truyền, đồng thời cũng chỉ bày nguyên tắc, phương thức lưu thông kinh này.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nhân nơi Bồ Tát Dược Vương để nói với 80.000 vị Bồ Tát:[37] “Này Dược Vương! Ông hãy nhìn xem tất cả đại chúng nơi đây, có vô số chư thiên, long vương, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và các loài phi nhân, các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, những người cầu quả vị Thanh văn, cầu quả vị Phật Bích-chi, hoặc cầu Phật đạo, hết thảy những chúng sanh như thế đều đang ở trước Phật, được nghe một bài kệ hay một câu kinh Diệu Pháp Liên Hoa này, cho đến chỉ khởi lên một ý niệm hoan hỷ vui theo, ta đều thụ ký cho trong tương lai sẽ được thành tựu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

© Tổng đoạn thứ nhất có 2 đoạn. Đoạn thứ nhất nêu việc đệ tử thọ nhận kinh này được nhiều công đức, phước báu sâu dày. Đoạn thứ hai nêu việc các bậc pháp sư lưu truyền kinh này được nhiều công đức, phước báu sâu dày.

Đoạn thứ nhất nêu việc đệ tử lại có 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất nói về các đệ tử khi Phật còn tại thế. Tiểu đoạn thứ hai nói về các đệ tử sau khi Phật diệt độ.

Trong đoạn thứ nhất nói “nhân nơi Bồ Tát Dược Vương để nói với 80.000 vị Bồ Tát”. “Nhân nơi” là ý nói dựa vào đó để giao phó. Đức Phật muốn đem diệu pháp giao phó, dựa vào Bồ Tát Dược Vương, khiến cho nhận lãnh. “Nói với 80.000 vị Bồ Tát”, là nói tất cả đều tham gia lưu thông kinh điển. Phật chỉ người trong đại chúng mà nói “Ông hãy nhìn xem tất cả đại chúng nơi đây”, chính là chỉ đến những người thọ trì kinh này được phước báu.

Tiểu đoạn thứ nhất nói về các đệ tử khi Phật còn tại thế lại có 2 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất là từ câu “Này Dược Vương” trở đi, nêu loại ra các loài trong thính chúng [chưa được thụ ký].

Phân đoạn thứ hai từ câu “đều đang ở trước Phật” trở đi, nói về các duyên được thụ ký. Nếu là đang ở trước Phật[38] thì có chúng đương cơ khéo ngộ đạo mầu, chính là 2.500 vị từng nghe nhiều kinh điển và thấu hiểu sâu xa, hiện đang có mặt trong pháp hội, đã được Phật thụ ký chung cũng như thụ ký riêng, nhưng nay nói đến những thính chúng bị nêu loại ra [chưa được thụ ký][39] là 8 bộ chúng[40] hoặc là [hàng đệ tử trong] bốn chúng ba thừa đang vướng víu ngồi trong hội Pháp hoa.[41]

“Đều đang ở trước Phật” là nêu rõ thời điểm cơ duyên, được gặp Phật ngay nơi pháp tòa. “Một bài kệ hay một câu kinh”, là nói nghe pháp ở mức ít nhất; “cho đến chỉ một ý niệm”, là nói thời gian ngắn ngủi nhất. “Đều thụ ký cho trong tương lai sẽ được thành tựu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”, là nêu rõ ý nghĩa cho dù nghe pháp rất ít trong thời gian rất ngắn ngủi, hoặc có công đức hoan hỷ vui theo, cuối cùng cũng đều đạt được quả Phật quả, huống chi là [những ai] được nghe đầy đủ [trọn bộ kinh] và thọ trì đến suốt đời, hoặc thuộc vào 5 hạng pháp sư lưu thông kinh này, tức là cúng dường với 3 nghiệp [thân, khẩu, ý].[42] Đại lược là như vậy.

Nói “nghe một bài kệ hay một câu kinh”, tức là nói [những người] nghe pháp rất ít, nhận hiểu rất cạn cợt mà nay cũng đều được thụ ký cho [thành Phật]. Nghe pháp ít như vậy mà còn được thụ ký, huống chi là những người nghe nhiều, hiểu sâu. Dùng mức độ ít mà suy cho đến nhiều, phổ cập rộng khắp như thế. Trong vòng thuyết nhân duyên này đã [phổ cập rộng khắp] như vậy thì trong các vòng thuyết chánh pháp ở trước và thuyết thí dụ ở giữa cũng đều như thế,[43] có thể dựa theo ý kinh để hiểu, không cần phải nói rõ.

Theo kinh Kiến thật Tam-muội[44] thì đức Phật thụ ký riêng cho các vị Tứ thiên vương [khi thành Phật có] cùng một danh hiệu là Hỏa Trì, chư thiên cõi trời Tam thập tam[45] [khi thành Phật có] cùng một danh hiệu là Nhân-đà-la Tràng vương, [các vị Thiên vương] Đế thích[46] [khi thành Phật có] cùng một danh hiệu là Vô Trước, chư thiên cõi trời Dạ-ma[47] [khi thành Phật có] cùng một danh hiệu là Tịnh Trí, chư thiên cõi trời Đâu-suất [khi thành Phật có] cùng một danh hiệu là Thích Pháp Vương. Hai cõi trời trên nữa[48] cũng được thụ ký chung, không nêu rõ danh hiệu riêng. Phạm thiên [được thụ ký khi thành Phật sẽ có] danh hiệu là Đại Trí Lực. Đây là nhóm những vị nghe nhiều, hiểu sâu. Nay lại cũng thụ ký cho những vị nghe ít, hiểu cạn. Các nhà cựu giải cho rằng Phật Bích-chi và Bồ Tát không được thụ ký. Kinh văn ở đây nói ba thừa đều được thụ ký, không nên nghi ngờ.

“Một bài kệ hay một câu kinh”, Tăng nhất tập[49] nói rằng: “Tùy ý chọn ra trong kinh một bài kệ thiết yếu, như nhóm các pháp tứ đế chẳng hạn.” Luận Thập trụ Tỳ-bà-sa nói rằng: “Khinh ghét gọi là chán bỏ, không mong cầu gọi là vô dục, tâm không cấu nhiễm gọi là giải thoát, buông bỏ gánh vác[50] gọi là Niết-bàn.” Chán ghét tập (nguyên nhân của khổ), không mong cầu nơi khổ, không cấu nhiễm là đạo, buông bỏ gánh vác là diệt. Lại nói rằng, Phật bảo tỳ-kheo Mãn Túc[51] “Ta có 4 câu”, đó là nói 4 chân đế, 4 niệm xứ v.v.

Giải thích theo quán tâm thì [nói một câu kinh là] dùng hết thảy mọi câu kinh, [nói một bài kệ là] dùng hết thảy mọi bài kệ; không câu không kệ mà chẳng phải một... Đại lược là như thế.

Nếu chọn lấy trong phần tích môn một câu thiết yếu “khai, thị, ngộ, nhập” thì đó là câu “Ngồi trên cỗ xe quý, dạo chơi khắp bốn phương”, hoặc 4 hạnh an lạc khuyên phát khởi 4 ý v.v.

“Khởi lên một ý niệm hoan hỷ vui theo” là nói tự mình chưa thực hành được, chỉ hoan hỷ vui theo giáo pháp và người [thực hành pháp] mà công đức, phước báo còn nhiều, huống chi là tự mình thực hiện được.

Tâm hoan hỷ vui theo có 2 loại. Nếu nghe được nghĩa khai thị trừ bỏ quyền thừa, hiển bày chân thật, liền ngay trong một niệm khởi tâm thấu hiểu sâu xa lẽ thật vốn chẳng phải quyền chẳng phải thật, tin chắc vào tri kiến Phật, lại có thể nhận hiểu cả quyền và thật sự lý viên dung, tuy vẫn còn đủ tánh phiền não nhưng có thể rõ biết tạng bí mật của Như Lai. Đây tức là luận về tùy hỷ tuần tự theo thời gian.

Lại nếu như được nghe ý nghĩa khai thị trừ bỏ quyền thừa, hiển bày chân thật, tức thời liền từ nơi một tâm mà rộng hiểu được tất cả tâm cùng hết thảy các pháp đều là Phật pháp, không có gì chướng ngại, nếu cần phân biệt thì biện thuyết không cùng tận, trong một tháng, 4 tháng cho đến suốt năm xoay chuyển giảng giải cũng không hết ý. Tuy còn chưa được đạt đến chân thật nhưng tâm tùy hỷ mà có thể hiểu được như thế. Pháp đã như thế, người lại cũng như thế. Đây tức là luận về tùy hỷ tức thời theo không gian.[52] Lại ngay nơi không gian đó chính là thời gian, ngay nơi thời gian cũng chính là không gian. Cho nên kinh Đại Bát Niết-bàn nói “Nguyện thà nghe ít hiểu được nhiều ý nghĩa; [không muốn được nghe nhiều mà không hiểu rốt ráo ý nghĩa]”,[53] chính là ý này. Phần sau sẽ nói rõ.

KINH VĂN

Rồi Đức Phật bảo ngài Dược Vương: “Lại nữa, sau khi Như Lai diệt độ, nếu có ai được nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thậm chí chỉ một bài kệ, một câu kinh, hoặc khởi lên một ý niệm hoan hỷ vui theo, ta cũng đều thụ ký cho được thành tựu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

“Nếu như lại có người thọ trì, tụng, đọc, giảng thuyết, sao chép kinh Diệu Pháp Liên Hoa, dù chỉ một bài kệ, đối với quyển kinh này cung kính như Phật, dùng đủ mọi cách cúng dường như hương hoa, chuỗi ngọc, hương bột, hương thoa, hương đốt, lọng che bằng lụa, cờ phướn, y phục, âm nhạc… hoặc thậm chí chỉ chắp tay cung kính. Này Dược Vương! Ông nên biết rằng người như vậy đã từng cúng dường mười muôn ức Phật, ở nơi đạo trường chư Phật thành tựu tâm nguyện lớn, vì thương xót chúng sanh nên mới sanh vào cõi thế gian này.

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Đức Phật bảo ngài Dược Vương: Lại nữa sau khi Như Lai diệt độ…” trở đi nói về các đệ tử sau khi Phật diệt độ, có 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất nêu ra các loại đệ tử, đây chỉ lược nói trong cõi người, cứ theo như đoạn trước thì có thể rõ biết [về các loài chúng sanh khác]. Phân đoạn thứ hai nói “Ta cũng đều thụ ký cho” là nêu công đức, phước báo, cũng giải thích giống như phần trước.

Đoạn thứ hai từ câu “Nếu như lại có người…” trở đi, nói về các vị pháp sư lưu thông kinh, có 2 phần trường hàng và kệ tụng.

Phần trường hàng có 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất nêu chi tiết, tiểu đoạn thứ hai nói tổng quát. Phần chi tiết nói về pháp sư có bậc cao và bậc thấp, nói về thời gian có hiện tại và vị lai; phần nói tổng quát thì không bàn đến thấp hay cao, hiện tại hay vị lai, chỉ nói chung là chướng nghịch [kinh này] thì tạo tội, tin thuận [lưu hành] thì được phước.

Tiểu đoạn thứ nhất nêu chi tiết lại có 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất nói về đời hiện tại và phân đoạn thứ hai nói về đời sau.

Phân đoạn thứ nhất nói về đời hiện tại lại có 2 ý, trước tiên nói về các vị pháp sư bậc thấp, sau đó nói về các vị pháp sư bậc cao.

Ý thứ nhất nói về các vị pháp sư bậc thấp lại có 2 tiểu ý, trước tiên nêu rõ tướng trạng của pháp sư, sau đó nói về công đức, phước báo.

Tiểu ý thứ nhất nói về tướng trạng của vị pháp sư tức là nêu rõ 5 hàng pháp sư,[54] 10 loại cúng dường.[55]

Tiểu ý thứ hai từ câu “Này Dược Vương! Ông nên biết rằng người như vậy đã từng cúng dường…” là nêu rõ công đức, phước báo [của vị pháp sư] bậc thấp.

“Đã từng cúng dường” là nói tạo nhân đời trước sâu xa, vì thương xót chúng sanh nên mới sanh về cõi người ở thế gian này, nêu rõ công đức lớn lao trong hiện tại.

KINH VĂN

“Này Dược Vương! Nếu như có người hỏi: ‘Những chúng sanh nào trong tương lai sẽ được thành Phật?’, ông nên chỉ cho biết rằng những người như vừa nói trên trong tương lai chắc chắn sẽ được thành Phật. Vì sao vậy? Nếu như có thiện nam hoặc thiện nữ, đối với kinh Diệu Pháp Liên Hoa này, dù chỉ một câu kinh, biết thọ trì, tụng đọc, giảng thuyết, sao chép, dùng mọi cách cúng dường như hương hoa, chuỗi ngọc, hương bột, hương thoa, hương đốt, lọng che bằng lụa, cờ phướn, y phục, âm nhạc… hoặc chắp tay cung kính, thì đối với người này hết thảy thế gian đều nên chiêm ngưỡng kính phụng, nên dùng cách thức cúng dường Như Lai mà cúng dường cho người này.

“Nên biết rằng người như vậy đã là Đại Bồ Tát, thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vì thương xót chúng sanh nên phát nguyện sanh vào thế gian này để phân biệt giảng rộng kinh Diệu Pháp Liên Hoa, huống chi là có thể đem hết khả năng mà thọ trì, dùng đủ mọi cách cúng dường kinh này?

“Này Dược Vương! Nên biết rằng đó là người đã tự xả bỏ nghiệp báo thanh tịnh, nên sau khi ta đã diệt độ rồi, vì thương xót chúng sanh mà sanh vào cõi đời xấu ác để giảng rộng kinh này.

Từ câu “Này Dược Vương! Nếu có người hỏi…” trở đi là nêu rõ phước báo trong tương lai sâu dày [của vị pháp sư].

Ý thứ hai từ câu “huống chi là có thể đem hết khả năng mà thọ trì” là nói về những vị pháp sư bậc cao, lại có 2 tiểu ý. Tiểu ý thứ nhất nói “huống chi…” là nêu tướng trạng của vị pháp sư. Tiểu ý thứ hai từ câu “Này Dược Vương! Nên biết rằng đó là người đã tự xả bỏ nghiệp báo thanh tịnh”, nêu rõ công đức và phước báo của vị pháp sư bậc cao.

KINH VĂN

“Nếu như có thiện nam hoặc thiện nữ, sau khi ta diệt độ rồi có thể riêng vì một người mà giảng thuyết kinh Pháp hoa, dù chỉ một câu, nên biết rằng người ấy đã là sứ giả của Như Lai, do đức Như Lai sai khiến đến, thi hành việc của Như Lai, huống chi là ở giữa đại chúng rộng vì người khác thuyết giảng?

Phân đoạn thứ hai từ câu “Nếu như có thiện nam hoặc thiện nữ, sau khi ta diệt độ rồi có thể riêng vì một người…” trở đi, nêu rõ sau khi Phật diệt độ thì pháp sư [lưu thông kinh Pháp hoa] cũng có 2 ý nói về 2 bậc thấp và cao. Trong bậc thấp lại có 2 tiểu ý.

Ý thứ nhất nói về pháp sư thuộc bậc thấp, tức là chỉ có thể tuần tự nhận hiểu được ý kinh, có trí tuệ nhưng không học hỏi nhiều,[56] chỉ có thể giảng nói với một người, chưa đủ khả năng thuyết giảng trước đại chúng.

Cho nên, [tiểu ý thứ nhất nói] hạng pháp sư bậc thấp này chỉ riêng vì một người giảng giải một câu kinh. Tuy có thể hiểu được một câu, nhưng vì không có sự học nhiều nghe rộng các ý nghĩa khác nhau, nên không thể thuyết giảng giữa nơi đông người. Đối với hết thảy những câu hỏi khó đều không [thể trả lời] thông suốt, do vậy khiến cho giáo lý chân chánh không được truyền rộng. Như trong Pháp hoa luận thích có giải thích trí tuệ không học hỏi nhiều là giống như cơn mưa nhỏ không có tiếng sấm. Nếu muốn trình bày một câu [kinh Pháp hoa] này thì chỉ có thể nói riêng [với một người] mà thôi.

Tiểu ý thứ hai từ câu “Nên biết rằng người ấy đã là sứ giả của Như Lai”, tức là nêu rõ công đức và phước báo của vị pháp sư [bậc thấp] này. Kinh này là do trí tuệ “như” nói ra, là nói về lý “như”. Ngày nay có người tu hành đem giáo pháp “như” này tuyên giảng đúng lý “như”, nên tức là “do đức Như Lai sai khiến đến”.

“Thi hành việc của Như Lai”, đó là nói trí “như” soi chiếu lý “như” là việc. Nay người tu hành y theo giáo pháp, thực hành đúng như lý, tức là thi hành việc của Như Lai.

Trí nhất như, lý nhất như, giáo hóa chúng sanh là việc. Nay người tu hành có tâm đại bi, đem lý chân như ở trong kinh này vì chúng sanh thuyết giảng, khiến cho được lợi ích, nên cũng gọi là “thi hành việc của Như Lai”.

Giải thích theo quán tâm thì nói “sứ giả của Như Lai” vì dùng trí tâm quán cảnh thì cảnh ấy tức là chân như, cảnh hiện ra thì trí phát khởi, trí là do “như” sai khiến.

“Do đức Như Lai sai khiến đến” là nói trí quán chiếu từ trong “như” mà đến.

“Thi hành việc của Như Lai” là nói trải qua hết thảy các pháp, không một pháp nào không phải chân như; chân như tức là Phật sự.

Ý thứ hai từ câu “Huống chi là ở giữa đại chúng” trở đi là nói về hàng pháp sư bậc cao, lược bớt không so sánh công đức phước báo nhưng ý này có thể ngầm hiểu được.

KINH VĂN

Này Dược Vương! Nếu có người xấu ác, dùng tâm bất thiện trong suốt một kiếp ở trước đức Phật, thường hủy báng nhục mạ đức Phật, tội lỗi đó vẫn xem là nhẹ nếu so với người dùng một câu xấu ác chế giễu chê bai người tại gia hay xuất gia tụng đọc kinh Pháp hoa, vì tội lỗi này rất nặng.

Này Dược Vương! Như có người tụng đọc kinh Pháp hoa, nên biết rằng người ấy đang dùng sự trang nghiêm của Như Lai để tự trang nghiêm mình, được Như Lai gánh vác trên vai. Người ấy đi đến nơi nào, [mọi người] nên hướng theo mà lễ bái, một lòng chắp tay cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen xưng tán, dùng các loại hoa, hương, chuỗi ngọc, hương bột, hương thoa, hương đốt, lọng che bằng lụa, cờ phướn, y phục, các món ăn ngon, các loại âm nhạc, các món cúng dường thượng hạng trong cõi người để cúng dường người ấy, nên dùng châu báu cõi trời rải quanh để tỏ lòng tôn kính, nên gom góp các báu vật trên cõi trời mà phụng hiến cho người ấy. Vì sao vậy? Vì người ấy hoan hỷ thuyết pháp, nên người được nghe chỉ trong thoáng chốc liền đạt được rốt ráo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Này Dược Vương! Nếu có người xấu ác…” trở đi, nêu tổng quát về 5 hàng pháp sư, những ai chướng nghịch là tạo tội, tin thuận thì được phước báu. [Tiểu đoạn này có 2 phân đoạn.]

Phân đoạn thứ nhất nói về tội phước, không bàn đến việc ruộng phước được gieo trồng đó là tốt hay xấu,[57] chỉ nói tùy theo [người tu hành] mới phát tâm hay phát tâm đã lâu mà phân biệt nặng nhẹ.

Người mới phát tâm tu học vốn đã còn đầy dẫy phiền não, nếu [ai chế giễu chê bai] tạo thêm chướng ngại ắt [sẽ làm cho họ] từ bỏ việc tu học, cho nên phải chịu tội rất nặng. Chư Phật có tâm bình đẳng, đối với việc xấu ác [hủy báng] không hề liên can bức bách, há có thể gây chướng ngại [cho Phật] được sao? Cho nên nói rằng [hủy báng Phật] chịu tội nhẹ hơn.

Đối với việc cúng dường cũng vậy. Người mới phát tâm tu học mong đợi [sự cúng dường], nếu được cúng dường thì việc tu học sẽ thành tựu, cho nên người cúng dường được phước lớn lao. Chư Phật vốn không mong đợi cúng dường, mọi thứ đều đã tự đầy đủ, tuy dâng hiến cúng dường cũng chẳng thêm được gì cho Phật, cho nên nói rằng phước báo kém hơn.

Cũng giống như con vua [lưu lạc] gặp lúc khó khăn, nếu ai cung cấp phụng hiến những thứ cần dùng thì công lao thật lớn; nếu [lúc ấy lại hủy báng] làm nhục con vua thì phải chịu tội không nhẹ; cho nên nói rằng tội phước đều nặng.

Còn đối với đức vua, nếu có dâng lên thức ăn, y phục thì tất nhiên cũng chỉ là chuyện rất nhỏ nhặt; nếu người muốn xâm hại nhục mạ đức vua cũng chẳng thể làm cho vua tổn hại, cho nên nói rằng tội phước đều nhẹ.

Phân đoạn thứ hai từ câu “Này Dược Vương! Như có người tụng đọc…” trở đi, nêu việc đọc tụng kinh này như [được dùng sự] trang nghiêm của Phật, tức là tin thuận theo kinh này thì được phước báu. Chư Phật dùng định và tuệ để trang nghiêm, người [đọc tụng kinh] này có thể tu tập định và tuệ, cho nên nói như vậy.

“Được Như Lai gánh vác trên vai.” Chịu sức nặng trên lưng là gánh, đặt trên vai là vác.[58] Tu tập thể của pháp thân chẳng phải quyền chẳng phải thật, tức là được Như Lai gánh; có thể vận dụng hai trí quyền, thật, tức là được Như Lai vác.

“Người ấy đi đến nơi nào, nên hướng theo mà lễ bái.” Phần trước nêu việc [người thọ trì kinh này] lấy pháp làm thầy, ở đây nêu việc có thể kham nhận làm thầy chúng sanh. Những người [thọ trì kinh] này có tôn chỉ hướng về, ắt sẽ tương ưng với thật tướng, nên đều đáng để cung kính thuận theo. Thuận theo tức là “hướng theo”, cung kính tức là “lễ bái”. Do cung kính mà thuận theo, cho đến khởi lên những sự cúng dường... Đại lược là như thế.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:

Nếu muốn trụ Phật đạo,
Thành tựu trí tự nhiên,
Nên siêng năng cúng dường,
Người thọ trì Pháp hoa.
Nếu người muốn nhanh chóng,
Được Nhất thiết chủng trí,
Nên thọ trì kinh này,
Cúng dường người trì kinh.

Phần kệ tụng có 16 khổ kệ, chia làm 3 tiểu đoạn.

Tiểu đoạn thứ nhất gồm 2 khổ kệ, không tụng lại ý nghĩa trong kinh văn trường hàng mà đặc biệt khen ngợi khuyến khích việc tự thực hành tu tập kinh này làm lợi lạc chúng sanh.

vTiểu đoạn thứ hai gồm 13 khổ kệ, tụng lại nội dung phần kinh văn trường hàng ở trước nói về các vị pháp sư lưu truyền kinh này, gồm cả chi tiết cũng như khái quát.

vTiểu đoạn thứ ba gồm 1 khổ kệ xưng tán kinh này.

KINH VĂN

Nếu ai thường thọ trì,
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa,
Đó là sứ giả Phật,
Thường thương xót chúng sanh.
Người thường xuyên thọ trì,
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa,
Từ bỏ cõi thanh tịnh,
Thương chúng sanh, đến đây.
Nên biết người như vậy,
Tự tại, tùy ý sanh.
Có thể nơi cõi ác,
Rộng thuyết pháp Vô thượng.
Nên dùng hương, hoa trời,
Cùng y phục, châu báu,
Kho bảo vật cõi trời,
Cúng dường người giảng kinh.
Sau Phật diệt, đời ác
Ai thường trì kinh này,
Nên chắp tay kính lễ,
Như cúng dường Thế Tôn.
Dùng món ngon thượng hạng,
Cùng đủ loại y phục,
Cúng dường Phật tử ấy,
Cầu nghe kinh chốc lát.
Người nào trong đời sau,
Có thể trì kinh này,
Là Phật sai khiến đến,
Thi hành việc Như Lai.

Tiểu đoạn thứ hai tụng chi tiết và khái quát về các vị pháp sư lại có 2 phân đoạn. §Phân đoạn thứ nhất gồm 7 khổ kệ tụng chi tiết. §Phân đoạn thứ hai gồm 6 khổ kệ tụng khái quát.

Phần tụng chi tiết trong kinh văn trường hàng ở trước chia ra nói về pháp sư hiện tại và vị lai. Trong kệ tụng này cũng có 2 ý, tụng về pháp sư hiện tại và pháp sư vị lai. wÝ thứ nhất có 4 khổ kệ tụng về pháp sư hiện tại. wÝ thứ hai có 3 khổ kệ tụng về pháp sư vị lai.

Trong kinh văn trường hàng ở trước, cả 2 phần nói về pháp sư hiện tại và pháp sư vị lai đều có chia ra nói về 2 bậc pháp sư cao và thấp. Nay trong phần kệ tụng này, ý thứ nhất [cũng gồm đủ 2 tiểu ý].

Tiểu ý thứ nhất từ câu “Nếu ai thường thọ trì” trở đi, gồm 1 khổ kệ, tụng về hàng pháp sư bậc thấp [trong hiện tại, có 2 điều]. £Điều thứ nhất gồm nửa khổ kệ trước nêu tụng về pháp sư. £Điều thứ hai từ câu “Đó là sứ giả Phật” trở đi nửa khổ kệ sau nói về công đức phước báo.

Tiểu ý thứ hai từ câu “Người thường xuyên thọ trì” trở đi gồm 3 khổ kệ, tụng về hàng pháp sư bậc cao trong hiện tại, [có 2 điều]. £Điều thứ nhất gồm nửa khổ kệ đầu nêu tụng về vị pháp sư bậc cao. £Điều thứ hai từ câu “Từ bỏ cõi thanh tịnh” trở đi gồm 2 khổ rưỡi kệ, tụng về công đức, phước báo.

Ý thứ hai từ câu “Sau Phật diệt, đời ác” trở đi gồm 3 khổ kệ, tụng về hàng pháp sư vị lai. [Phần này có 2 tiểu ý].

Tiểu ý thứ nhất gồm 2 khổ kệ đầu tụng vượt sang[59] nghĩa nêu hàng pháp sư bậc cao, có 2 điều. £Điều thứ nhất từ câu “Sau Phật diệt, đời ác…” trở đi, gồm nửa khổ kệ tụng nêu về hàng pháp sư [bậc cao]. £Điều thứ hai, trong kinh văn trường hàng thiếu phần nói về công đức, phước báo, nay kệ tụng có đủ, từ câu “Nên chắp tay kính lễ” trở đi gồm 1 khổ rưỡi kệ là nói về công đức, phước báo.

Tiểu ý thứ hai từ câu “Người nào trong đời sau” trở đi gồm 1 khổ kệ, tụng ngược[60] về nghĩa nêu hàng pháp sư bậc thấp, [chia ra 2 điều]. £ Điều thứ nhất gồm nửa khổ kệ đầu tụng nêu về pháp sư. £ Điều thứ hai từ câu “Là Phật sai khiến đến” trở đi gồm nửa khổ kệ tụng về công đức, phước báo.

KINH VĂN

Nếu người trong suốt kiếp,
Thường ôm lòng bất thiện,
Hung hăng mắng chửi Phật,[61]
Tạo tội nặng vô lượng;
Nhưng với người tụng đọc,
Giữ gìn kinh Pháp hoa,
Mà xúc phạm chốc lát,
Tạo tội còn nặng hơn.
Nếu người cầu Phật đạo,
Nên suốt trong một kiếp,
Chắp tay đứng trước Phật,
Đọc vô số kệ khen.
Người ấy xưng tán Phật,
Được công đức vô lượng;
Nhưng khen người trì kinh,
Công đức còn lớn hơn.
Trong tám mươi ức kiếp,4
Dùng thanh, sắc tốt đẹp,
Cùng hương, vị, xúc chạm,
Cúng dường người trì kinh.
Cúng dường như vậy rồi,
Được nghe kinh chốc lát,
Ắt sẽ tự mừng vui:
“Ta được lợi ích lớn!”
Dược Vương! Nay nói rõ,
Ta đã thuyết nhiều kinh,
Nhưng trong những kinh ấy,
Pháp hoa là bậc nhất.

Phân đoạn thứ hai từ câu “Nếu người trong suốt kiếp” trở đi gồm 6 khổ kệ, tụng chung về phần nói khái quát trong kinh văn trường hàng. Phần nói khái quát trong kinh văn trường hàng có 2 phân đoạn, kệ tụng cũng chia thành 2 ý.

Ý thứ nhất có 2 khổ kệ, tụng ý nghĩa chướng nghịch người trì kinh này tạo tội.

Ý thứ hai từ câu “Nếu người cầu Phật đạo” trở đi gồm 4 khổ kệ, tụng về việc tin thuận người trì kinh này được phước báu.

Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Dược Vương! Nay nói rõ” trở đi gồm 1 khổ kệ, xưng tán khen ngợi kinh này là tôn quý vi diệu.

KINH VĂN

Khi ấy, đức Phật lại bảo Đại Bồ Tát Dược Vương rằng: “Trong vô số ngàn muôn ức kinh điển mà ta thuyết dạy, những kinh đã thuyết, hiện đang thuyết và sẽ thuyết, thì kinh Pháp hoa này là khó tin khó hiểu nhất.

“Này Dược Vương! Kinh này là kho tàng tinh yếu bí mật của chư Phật, không thể đưa ra phân bố rộng rãi, truyền trao không đúng người. Kinh này được chư Phật Thế Tôn giữ gìn bảo vệ, từ xưa đến nay chưa từng thuyết giảng chung cho đại chúng không chọn lọc.[62] Kinh này trong lúc Như Lai tại thế mà còn có nhiều kẻ oán ghét,[63] huống chi là sau khi Phật diệt độ?”

© Từ câu “Khi ấy, đức Phật lại bảo...” là tổng đoạn thứ hai, ngợi khen xưng tán việc giữ gìn chánh pháp và nêu phương pháp truyền rộng kinh điển giáo pháp. Giữ gìn chánh pháp là nói việc tự noi theo tu tập chánh pháp. Truyền rộng kinh điển giáo pháp là dạy cho người khác tu tập noi theo chánh pháp. Phần này có kinh văn trường hàng và kệ tụng.

Kinh văn trường hàng chia làm 2 đoạn. Đoạn thứ nhất xưng tán khen ngợi kinh điển giáo pháp. Đoạn thứ hai nêu phương thức nguyên tắc.

Đoạn thứ nhất lại có 5 tiểu đoạn. Thứ nhất là nêu pháp để xưng tán dựa theo pháp, lại có so sánh số lượng để xưng tán. Thứ hai là nêu người để xưng tán. Thứ ba là nêu nơi chốn để xưng tán. Thứ tư là nêu nhân [tu tập] để xưng tán. Thứ năm là nêu quả để xưng tán. Vì pháp vi diệu nên người [trì pháp] đáng quý; vì người [trì pháp] đáng quý nên nơi chốn [có pháp] được tôn trọng; vì nơi [có pháp] được tôn trọng nên nhân [tu tập pháp] được trọn đủ; vì nhân [tu tập] được trọn đủ nên quả đạt đến rốt ráo.

Tiểu đoạn thứ nhất nêu pháp để xưng tán. [Kinh văn nói] “những kinh đã thuyết, hiện đang thuyết và sẽ thuyết, thì kinh Pháp hoa này là khó tin khó hiểu nhất”.

Có vị thầy lý giải rằng, “đã thuyết” là kinh Bát-nhã, “sẽ thuyết” là kinh Niết-bàn, trước [khi thuyết] kinh Pháp hoa thì Tiểu thừa và Đại thừa ngăn cách nhau, sau [khi thuyết] kinh Pháp hoa thì mới có chỗ hội tụ tương đồng. Kinh [Pháp hoa] này chính là khởi đầu hội tụ của ba thừa. Vì là khởi đầu sự quy tụ [ba thừa] về một thừa nên nói là đệ nhất. Kinh văn xưng tán Pháp hoa vốn nằm ngoài các kinh đã thuyết, đang thuyết và sẽ thuyết. [Cho nên, lý giải của] vị thầy này thiếu đi một điểm. Đại lược là như thế.

Nay trước tiên nói về các kinh “đã thuyết”, tức là các kinh thuyết giảng về tiệm giáo, đốn giáo[64] từ Đại phẩm Bát-nhã trở về trước. Kinh “đang thuyết” là được thuyết giảng trong cùng một pháp hội [với Pháp hoa], tức là kinh Vô lượng nghĩa. Kinh “sẽ thuyết” là nói kinh Đại Bát Niết-bàn.

Các kinh đã thuyết từ Đại phẩm Bát-nhã về trước nói pháp tiệm, đốn, tất cả đều giữ nghĩa phương tiện nên dễ tin nhận. Kinh Vô lượng nghĩa hiện nay thì chỉ nói từ một pháp sanh vô lượng pháp, chưa nói đến vô lượng pháp quay về một pháp, cho nên cũng dễ tin nhận. Nay kinh Pháp hoa này luận về pháp thì hết thảy mọi sự sai biệt đều dung thông, quy về một pháp; luận về người thì cả thầy cùng đệ tử xét theo bản, tích đều hiện hữu từ rất lâu xa [trong quá khứ]. [Như vậy, kinh Pháp hoa nói về] cả pháp và người[65] so với những kinh trước đây đều ngược lại, cho nên khó tin, khó hiểu. Đột phá vào sự khó khăn đó,[66] nên đã thuyết giảng kinh Pháp hoa rồi thì về sau thuyết kinh Đại bát Niết-bàn ắt sẽ dễ tin nhận.

“Kho tàng tinh yếu bí mật”, vì chân như thật tướng bị che lấp sâu xa khó biết nên gọi là “kho tàng”, bao quát hết thảy nên gọi là “tinh yếu”, giữ lại chưa nói ra nên là “bí mật”.

“Không thể đưa ra phân bố rộng rãi”, vì pháp vi diệu khó tin, trí tuệ sâu xa mới có thể trao truyền, kẻ không có trí tuệ [nếu dạy cho họ] chỉ thêm tội lỗi, cho nên không thể sai lầm thuyết giảng không chỗ.

“Từ xưa đến nay chưa từng thuyết giảng chung cho tất cả đại chúng.” Trong kinh điển Tạng giáo không nói việc hàng nhị thừa có thể thành Phật, cũng không nêu rõ bản, tích của thầy và đệ tử. Phương đẳng, Bát-nhã tuy là những kinh thuyết dạy về thật tướng, cũng chưa nói việc người trong 5 thừa[67] có thể thành Phật, cũng chưa nêu ra hình tích chỉ rõ bản nguyên.

Các kinh nói pháp đốn, tiệm đều chưa có sự dung thông hội tụ, cho nên nói là bí mật. Kinh này thuyết dạy đầy đủ những pháp bí mật trước đây, tức là khai mở kho tàng bí mật, lại cũng chính là kho tàng bí mật; kho tàng bí mật này “chưa từng thuyết giảng chung cho tất cả đại chúng”.

“Kinh này trong lúc Như Lai còn tại thế mà còn nhiều kẻ oán ghét”, là nói [chờ đợi] trong hơn 40 năm, không thể tức thời nói ra, nay chỉ vừa sắp nói ra mà đã có 5.000 người lập tức thối lui ra khỏi pháp hội. Phật còn tại thế mà đã như vậy, huống chi là trong tương lai. Đây là ý nói chúng sanh rất khó giáo hóa.

KINH VĂN

“Này Dược Vương! Nên biết rằng sau khi Như Lai diệt độ, những ai đối với kinh này có thể sao chép, giữ gìn, tụng đọc, vì người khác giảng thuyết, ắt sẽ được Như Lai dùng y che chở, lại cũng được chư Phật hiện tại ở các phương khác nhớ nghĩ che chở. Người ấy sẽ có sức tin chắc mạnh mẽ cùng sức chí nguyện và sức của các căn lành. Nên biết rằng người này cùng sống một nơi với Như Lai, được đức Như Lai dùng tay xoa đầu.”

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Này Dược Vương! Nên biết rằng sau khi Như Lai diệt độ, những ai đối với kinh này có thể sao chép, giữ gìn…” trở đi là nêu người để xưng tán. Giáo pháp này ở nơi người nào thì đó là người đáng tôn quý.

“Được Như Lai dùng y che chở”, là nói dùng sự tu học nhẫn nhục lớn lao làm y phục, giống như kinh văn phần trước nói “dùng sự trang nghiêm của Phật để tự trang nghiêm mình”.

“Được chư Phật hiện tại ở các phương khác nhớ nghĩ che chở.” Tướng chân thật là Phật, trí tuệ chân thật là con; kính chuộng tướng chân thật liền phát sanh trí tuệ chân thật, tức là được chư Phật nhớ nghĩ che chở.

“Sức tin chắc mạnh mẽ” là nói niềm tin vào chân như và Tam bảo;[68] “sức chí nguyện” là nói 4 thệ nguyện rộng lớn;[69] “sức của các căn lành” là nói trí tuệ lớn lao.

Sức tin chắc tức là tin vào lẽ thật, lẽ thật tức là pháp thân; sức chí nguyện tức là xác lập công hạnh, tu hành tức là giải thoát; sức của các căn lành là cội gốc kiên cố, cho nên khó lay động, đây tức là Bát-nhã. Nên biết rằng 3 sức này tức là ba đức [của chư Phật],[70] là kho tàng bí mật. Người tu hành mới phát tâm dừng trụ được ở chỗ này thì so với Phật không khác, cho nên nói rằng “cùng sống một nơi với Như Lai”.

Lại nữa, người có sức tin chắc tu tập trí tuệ Như Lai quán xét hết thảy các pháp rốt ráo đều là không. Như Lai lấy chỗ rốt ráo đều không đó làm nhà an trụ. Người có sức tin chắc lại học biết các pháp rốt ráo đều không cho nên “cùng sống một nơi với Như Lai”.

“Được đức Như Lai dùng tay xoa đầu”, là nói người trì kinh này dùng sức chí nguyện, sức căn lành tự mình thực hành 2 pháp quyền thật, lấy đó làm cơ duyên chiêu cảm; cơ duyên chiêu cảm ấy gọi là đầu. Đức Như Lai dùng 2 trí quyền thật giáo hóa chúng sanh gọi là tay. Khai phát trước đầu người tự thực hành 2 pháp quyền thật, có sự cảm ứng giao hòa trong đạo nên gọi là xoa đầu. Xoa đầu tức là thụ ký.

KINH VĂN

“Này Dược Vương! Ở bất cứ nơi nào có sự thuyết giảng, tụng đọc, sao chép hoặc cất giữ kinh Pháp hoa này, đều nên xây tháp thật cao rộng bằng bảy báu, trang nghiêm đẹp đẽ, không cần an trí xá-lợi bên trong. Vì sao? Vì trong tháp như đã có toàn thân Như Lai. Đối với tháp ấy, nên dùng hết thảy các loại hoa, hương, chuỗi ngọc, lọng che bằng lụa, cờ phướn, âm nhạc, thơ ca mà cúng dường cung kính, tôn trọng, ngợi khen xưng tán. Nếu có người được nhìn thấy tháp ấy, lễ bái cúng dường, nên biết rằng những người như vậy đều đã đến gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Này Dược Vương! Ở bất cứ nơi nào…” trở đi, nêu nơi chốn để xưng tán. Giáo pháp này ở tại nơi nào tức là nơi đó đáng tôn quý.

Nói chung những nơi như Phật đản sanh, nơi Phật thành đạo, nơi Phật chuyển pháp luân, nơi Phật nhập Niết-bàn,[71] những nơi đấng Pháp vương từng đi qua, tất cả đều nên dựng tháp thờ kính. Kinh này là nơi đản sanh của pháp thân, là đạo tràng thành đạo, là chánh thể pháp luân, là nơi dung chứa Đại Niết-bàn.[72] [Cho nên,] kinh này ở nơi đâu thì đều nên dựng tháp cúng dường.

“Không cần an trí xá-lợi bên trong.” Thích luận nói rằng: “Xương cốt nát ra là xá-lợi sanh thân; kinh điển là xá-lợi pháp thân.” Kinh này là xá-lợi pháp thân nên không cần phải an trí thêm xá-lợi sanh thân. Sanh thân và pháp thân đều có đủ xá-lợi toàn thân và xá-lợi toái thân. Điều này có thể hiểu được.

KINH VĂN

“Này Dược Vương! Có nhiều người tại gia cũng như xuất gia, tu hành đạo Bồ Tát, nếu như chưa được thấy nghe, tụng đọc, sao chép, thọ trì, cúng dường kinh Pháp hoa này, nên biết là những người ấy chưa tu tập tốt theo đạo Bồ Tát. Nếu như được nghe kinh này rồi, mới có thể tu tập tốt theo đạo Bồ Tát.”

Tiểu đoạn thứ tư từ câu “Này Dược Vương! Có nhiều người tại gia cũng như xuất gia…”[73] trở đi, nêu nhân tu tập để xưng tán. Nếu “chưa tu tập tốt theo đạo Bồ Tát” là vì y theo 3 giáo pháp [Tạng, Thông, Biệt] tức là xá-lợi toái thân của pháp thân, chưa thể khéo léo hóa độ [chúng sanh]. Nếu thể nhập Viên giáo tức là xá-lợi toàn thân, ắt có thể khéo léo hóa độ. Khéo độ chúng sanh tức là tu tập tốt.

KINH VĂN

“Nếu như có chúng sanh nào cầu Phật đạo, được thấy nghe kinh Pháp hoa này, nghe rồi liền tin hiểu, thọ trì, nên biết rằng người ấy đã đến gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Tiểu đoạn thứ năm từ câu “Nếu như có chúng sanh nào…” trở đi là nêu quả để xưng tán. Tiểu đoạn này có 5 phân đoạn. Thứ nhất là nêu việc đến gần quả vị; thứ hai là nêu ra thí dụ; thứ ba là tương hợp thí dụ; thứ tư là giải thích ý nghĩa “đến gần quả vị” và thứ năm là gạn lọc những trường hợp sai lệch.

Phân đoạn thứ nhất nêu việc đến gần quả vị, nói “nên biết rằng người ấy đã đến gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”. Trong phẩm Hạnh an vui gọi là cận xứ. Quả Bồ-đề này lấy chỗ thấy biết của mắt Phật, của trí tuệ Phật làm tự thể, vốn có 2 loại. Một là quả Bồ-đề của hàng sơ tâm, hai là quả Bồ-đề của tâm về sau đó. Ở đây nói “gần quả vị” chính là nói gần với quả Bồ-đề của hàng sơ trụ. Lại nữa, do hướng đến quả viên mãn mà tu nhân viên mãn nên được sự nhận hiểu tương tự, gọi là “đến gần”. Phần trước nêu nhân tu tập để xưng tán, có nói rằng tu nhân theo Thông giáo, Biệt giáo là chưa tu tập tốt [đạo Bồ Tát] nên còn cách quả viên mãn rất xa. Nếu tu nhân theo Viên giáo tức là tu tập tốt [đạo Bồ Tát], đã đến gần quả viên mãn. Nay dùng trí như thật của Viên giáo làm nhân, lại cũng lấy đó làm quả. Chân như trước khi tu tập tức là chánh nhân. Chân như đang lúc tu tập tức là duyên nhân, cũng là liễu nhân. Chân như sau khi tu tập [thành tựu] tức là quả viên mãn. Cho nên, kinh Quán Phổ Hiền nói rằng: “Nhân Đại thừa là tướng chân thật, quả Đại thừa cũng là tướng chân thật.” Thích luận nói rằng: “Ban đầu quán tướng chân thật gọi là nhân, quán thành tựu rồi gọi là quả.” Cứ theo lý mà luận thì tướng thật của chân như không có nhân quả đương thời, cũng không phải trước sau. Nếu nói theo sự tu hành của chúng sanh thì có trước sau, cũng có nhân quả.

KINH VĂN

“Này Dược Vương! Ví như có người đang khát cần nước, ở nơi gò cao đào xuống để tìm, vì đất còn khô nên biết rằng nước vẫn còn xa; tiếp tục đào xuống không ngừng, liền thấy đất ẩm, rồi đến đất bùn, trong lòng biết chắc đã gần có nước.”

Phân đoạn thứ hai từ câu “Này Dược Vương! Ví như có người đang khát cần nước…” trở đi là khai mở thí dụ. Phần này có 2 cách giải thích. Thứ nhất là giải thích dựa theo quán tâm, thứ hai là giải thích dựa theo giáo nghĩa.

Giải thích theo quán tâm thì tâm của chúng sanh còn đầy dẫy phiền não gọi là “gò cao”, tu tập quán chiếu trí tuệ gọi là “đào xuống”, vừa chứng được đạo vị thật lý như được nước trong mát.

Nếu dựa theo pháp quán của Thông giáo thì Càn tuệ địa ví như đất khô, Tánh địa là đất bùn ẩm thấp, [Kiến địa] thấy biết chân lý tức là được nước trong.[74]

[Nếu giải thích theo] pháp quán của Biệt giáo thì khi từ chỗ giả thể nhập vào không, chỉ thấy các pháp là không, chưa thấy được chỗ chẳng phải không. [Khi ấy] dứt trừ được 4 trụ địa phiền não, ví như đang đào đất khô, còn cách nước rất xa. Từ chỗ không ấy vượt thoát ra khỏi giả, trước đây biết được là không phải giả, nay lại biết được cũng chẳng phải không. Nhân nơi 2 pháp quán [chẳng phải giả, chẳng phải không] này mà thể nhập được vào trung đạo, có thể hàng phục vô minh, tức là chuyển dần sang thấy được đất ẩm, đã gần đến nước.

Theo pháp quán của Viên giáo thì quán trung đạo, chẳng phải không, chẳng phải giả mà soi chiếu không giả, giống như dần dần đào đến đất bùn. Khi ấy đã dứt trừ hết 4 trụ địa phiền não, đã hàng phục được vô minh, đã đạt được trung đạo, tương tự như chỗ nhận hiểu viên mãn, cho nên nói giống như đất bùn. Khi thể nhập vào sơ trụ, phát khởi sự nhận hiểu chân chánh về trung đạo, tức là phá trừ được vô minh, giống như bùn đã lắng trong, được thấy trung đạo như thấy nước trong mát. Luận Pháp hoa nói: “Tánh Phật như nước, phải biết được trình tự đạt đến.”

Nếu giải thích dựa theo giáo nghĩa thì đất ví như kinh điển giáo pháp, nước [nằm sâu dưới đất] ví như trung đạo. Giáo pháp chuyển tải trung đạo cũng giống như trong lòng đất hàm chứa nước. Giáo pháp Tạng giáo chưa chuyển tải được trung đạo nên giống như đất khô. Giáo pháp Phương đẳng, Bát-nhã vẫn giữ phương tiện mà nói nghĩa trung đạo, giống như thấy đất ẩm. Giáo pháp Pháp hoa chân chánh thẳng tắt, chỉ bày rõ ràng, thuyết đạo vô thượng, giống như thấy được đất bùn. Nhân nơi giáo pháp Pháp hoa mà khởi sanh văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ, liền tỏ ngộ trung đạo, thấy biết chân thật tánh Phật, phát khởi trí tuệ chân thật không cần dựa vào kinh văn, giống như lấy được nước trong không còn tướng của bùn đất. Cho nên kinh Hoa nghiêm nói rằng: “Bồ Tát Thập trụ có pháp thân trí tuệ, chẳng phải do người khác mà tỏ ngộ.”

Có người nói: “Giáo pháp ban đầu như đất khô trên gò cao; giáo pháp Đại phẩm Bát-nhã như đất ẩm; giáo pháp Pháp hoa như đất bùn; quả Phật như nước trong.”

Có người lại nói: “Các kinh Duy-ma, Tư Ích như đất khô; kinh Vô lượng nghĩa như đất ẩm; kinh Pháp hoa như đất bùn; quả Phật như nước.”

Có người lại nói: “Đại phẩm Bát-nhã như đất khô; Vô lượng nghĩa như đất ẩm; Pháp hoa như đất bùn; quả Phật như nước trong.”

Cả 3 thuyết như trên đều dựa vào 5 thời giáo pháp.

Ngài Trúc Đạo Sinh[75] nói: “Thọ trì kinh Pháp hoa cầu Phật đạo, mong muốn đạt được như người khát cần nước. Hàng tam thừa đối với nhất thừa rất khó tin nhận, mong cầu hiểu được Pháp hoa cũng giống như [người đào giếng] còn trên gò cao; thọ trì, đọc tụng kinh giống như đang đào xuống, chưa thể nhận hiểu đúng như kinh văn. Lúc chưa được nghe kinh ví như đất khô; có thể hiểu rõ nghĩa kinh ví như đào xuống đến chỗ đất bùn.” Các nhà chú giải cũng giải thích giống như vậy. Có người nói rằng: Lập luận này [có 2 ý,] một là giải thích ý nghĩa còn xa quả Phật và hai là giải thích ý nghĩa đã gần quả Phật.

Giải thích của 3 vị thầy ở trước là nêu việc các kinh khác còn xa quả Phật, nói giáo pháp Pháp hoa đã gần quả Phật. Hai cách giải thích sau chỉ dựa vào nội dung trong kinh Pháp hoa để luận việc xa hay gần [quả Phật].

Xét ngay trong kinh này lẽ ra đã có 2 nghĩa, một là nêu các kinh khác so với Pháp hoa để nói rõ chỗ xa hay gần quả Phật, hai là dùng ý nghĩa của Pháp hoa để luận việc xa hay gần quả Phật. Các vị thầy [giải thích như trên] đã làm mất đi tông chỉ của kinh.

Hỏi: Những kinh khác [với Pháp hoa] vì sao còn cách xa quả Phật?

Đáp: Vì chưa khai thị trừ bỏ quyền thừa, nên người cầu quả Phật chưa quyết định. Pháp hoa nói chỉ có duy nhất một thừa, không có ba thừa, vĩnh viễn không còn tâm thối lui cho nên đến gần quả Phật. Kinh văn nói: “Nghe kinh thâm sâu này, dứt sạch pháp Thanh văn.”

Hỏi: Kinh Bát-nhã vì sao còn xa quả Phật?

Đáp: Vì chưa khai thị trừ bỏ ranh giới quyền thừa nên là còn xa. Ban sơ tu hành đạo Bồ Tát, không biết rằng Bát-nhã ngấm ngầm giáo hóa [cũng như Pháp hoa] giao phó gia tài [chánh pháp], nên đối với quả Phật là xa.

Thế nhưng trí tuệ chân thật và phương tiện của Bát-nhã vốn là cha mẹ sanh ra pháp thân ba đời chư Phật. Người cầu quả Phật giống như người bệnh già yếu, nếu được 2 người khỏe mạnh[76] dìu đỡ thì mới có thể đi khắp nơi xa, cho nên biết rằng giáo pháp Bát-nhã là thù thắng nhất. Sự khai thị trừ bỏ quyền thừa của giáo pháp Pháp hoa không khác với sự hiển bày chân thật của giáo pháp Bát-nhã. Không phải riêng ngoài Bát-nhã mà có Pháp hoa; Pháp hoa chỉ là tên gọi khác của Bát-nhã mà thôi. Chỉ do các bậc thầy đã giải thích khác nhau cho nên phải đề cập đến ở đây.

KINH VĂN

“Bồ Tát cũng giống như vậy, nếu như chưa nghe, chưa hiểu, chưa thể tu tập kinh Pháp hoa này, nên biết rằng người ấy hãy còn cách xa quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; nếu như được nghe, hiểu, suy ngẫm, tu tập theo kinh này, thì biết là đã đến gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Phân đoạn thứ ba từ câu “Bồ Tát cũng giống như vậy” trở đi là nói nghĩa tương hợp thí dụ. Đối với giáo nghĩa trong kinh Pháp hoa này đạt được sự nghe biết, suy ngẫm, tu tập theo, tức là ba trí tuệ[77] quán chiếu viên mãn, mới có thể đến gần quả Phật, không phải những sự nghe biết, suy ngẫm, tu tập trong các giáo pháp khác chỉ giống như “đất khô”, “đất ẩm”, [chưa được đến gần nước].

KINH VĂN

Vì sao vậy? Hết thảy pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của hàng Bồ Tát đều có đủ trong kinh này. Kinh này mở ra cửa phương tiện, chỉ bày tướng chân thật. Kho tàng kinh Pháp hoa này thâm sâu kiên cố, kín đáo sâu xa, không ai có thể thấu triệt, nay Phật vì giáo hóa chư Bồ Tát cho thành tựu nên mới khai mở chỉ bày.

Phân đoạn thứ tư từ câu “Vì sao vậy” trở đi là giải thích ý nghĩa đến gần quả Phật. Nói hết thảy hàng Bồ Tát là nêu nhân tu tập quyền thừa, Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác là nêu tất cả quả quyền thừa. Nhân quyền thừa và quả quyền thừa, tất cả đều được thâu nhiếp vào trong kinh này. Cũng giống như các loại đất khô hay đất ẩm đều là dựa theo nước mà xác định, cho nên nói là “đều có đủ trong kinh này”.

“Mở ra cửa phương tiện, chỉ bày tướng chân thật.” Ngài Quang Trạch nói: “Thuở xưa ở Lộc uyển, vì căn cơ [của thính chúng] xen tạp nên [Phật] chú trọng thuyết giảng Tạng giáo, chưa nêu một lẽ chân thật. Đó là lúc dùng pháp quyền, che giấu pháp thật, một lẽ chân thật vì giáo hóa quyền thừa nên đóng lại. Nay ở thành Vương Xá dạy cho người có căn cơ lớn nên mới hiển bày pháp chân thật. Đã hiển bày chân thật tức là trừ bỏ giáo pháp quyền thừa trước đây. Giáo pháp quyền thừa đã bỏ tức là pháp môn phương tiện dứt trừ. Một lẽ chân thật đã nêu ra thì tướng chân thật hiển bày.”

Nay theo ý riêng tôi[78] cho rằng cách giải thích như vậy là phá trừ phương tiện, không phải “mở ra cửa phương tiện”.

Ngài Đạo Lãng[79] ở Hà Tây nói: “Gọi thẳng 3 thừa là phương tiện, tức là mở cửa phương tiện. Vì trước đây không nói 3 thừa là phương tiện, cho nên cửa phương tiện đóng. Nay gọi 3 thừa là phương tiện, tức là chỉ bày một thừa chân thật.”

Nay theo ý riêng tôi, cách giải thích này phù hợp với kinh văn.

Có người giải thích rằng: “Khai mở 2 phương tiện là giáo và thân; chỉ bày 2 chân thật là giáo và thân; pháp quyền và thật của ba đời chư Phật chỉ có hình sắc và âm thanh.”[80] Theo nghĩa khai mở và chỉ bày như vậy thì 12 bộ kinh, 84.000 pháp tạng[81] đều sáng tỏ rõ ràng cả rồi.

Theo ý riêng tôi cho rằng, 2 vị thầy trước dựa vào “giáo” để giải thích nghĩa khai mở và chỉ bày, vị sau này thêm vào ý “thân”. Đây là trộm lấy nghĩa lý của ngài Long Ấn làm của mình, nên vẫn là nghĩa phá trừ phương tiện, chẳng phải nghĩa khai mở.

Hỏi: Nói phương tiện là cửa vào, không biết đó là do ngay nơi tự thể gọi là cửa vào, hay do thông suốt được thật tướng mà gọi là cửa vào?

Đáp: Theo ý riêng tôi thì đủ cả 2 nghĩa ấy. Phương tiện là cửa vào thật tướng, ý nghĩa ấy có thể hiểu được. Nói ngay nơi tự thể là cửa vào thì như trong kinh Hoa Nghiêm, [đồng tử Thiện Tài] tìm cầu thiện trí thức, học được đủ mọi pháp môn như đếm cát, quán biển v.v.

[Thứ nhất,] cả 2 cửa chân thật và phương tiện đều có mở có đóng. Trước đây đức Phật không nói ba thừa là phương tiện, cho nên cửa phương tiện đóng. Nay Phật dạy ba thừa là phương tiện, cho nên cửa phương tiện khai mở. Trước đây Phật không nói một thừa là chân thật, nên cửa chân thật đóng. Nay Phật dạy một thừa là chân thật, cho nên cửa chân thật khai mở.

Thứ hai là phương tiện này lại cũng thông suốt với thật tướng, cho nên phương tiện ba thừa là cửa vào nhất thừa. Thật tướng lại có 2 nghĩa. Thứ nhất là ngay nơi tự thể thông suốt rỗng không, cho nên gọi là cửa vào, như cửa bất nhị của kinh Tịnh Danh, cửa pháp giới của kinh Hoa Nghiêm v.v. Thứ hai là nhờ nơi phương tiện mà được thông suốt nên lấy đó làm cửa.

Ngài Lưu Cầu[82] nói: “Thông suốt muôn vật do nơi Nhất thừa, cho nên Nhất thừa là cửa vào phương tiện. Hiệu quả dẫn dắt phải dựa vào ba thừa, cho nên ba thừa là tướng biểu hiện của chân thật. Phật nói rằng không có ba thừa, tức là cửa phương tiện được mở ra; Phật dạy rõ chỉ có một thừa duy nhất, tức là tướng chân thật có thể chỉ bày.”

Có người nói, nếu luận bàn đầy đủ thì có 3 nghĩa. Nghĩa thứ nhất dùng ba thừa làm phương tiện, lấy Nhất thừa làm chân thật. Nghĩa thứ hai là cả ba thừa với Nhất thừa đều là phương tiện, chẳng phải ba thừa chẳng phải Nhất thừa mới là chân thật. Nghĩa thứ ba nói có ba thừa, có Nhất thừa là phân biệt chia hai; chẳng phải ba thừa chẳng phải Nhất thừa mới là không phân biệt, là bất nhị. Nhị và bất nhị đều là pháp quyền thừa, chẳng phải nhị chẳng phải bất nhị là pháp chân thật.

Ba ý nghĩa này có thể làm rõ được ý nghĩa phương tiện làm cửa vào. Như lấy ba thừa dùng làm 1 cửa, tức là dùng pháp quyền để thông suốt pháp thật. Nếu dùng Nhất thừa làm 3 cửa tức là từ pháp thật khởi lên pháp quyền. Cho đến nhị và bất nhị, phân biệt và không phân biệt cũng đều như vậy, đều hỗ tương làm cửa vào cho nhau. Nhưng hỗ tương cho nhau để hiển lộ hình tướng, chỉ không thể hỗ tương cho nhau làm pháp quyền hay pháp thật.

Theo ý riêng tôi cho rằng, như lấy ba thừa làm cửa [phương tiện] để vào Nhất thừa, thì ba thừa có đồng là thật tướng hay chăng? Nếu không đồng là thật tướng, tức là không phải cửa vào. Cần phải khai thị trừ bỏ ba thừa rồi mới bắt đầu vào được cửa này. Nhưng nếu đã khai thị trừ bỏ ba thừa rồi, tức không còn là ba thừa nữa, vì sao lại lấy ba thừa làm cửa vào thật tướng? Lại nữa, ba thừa chẳng phải nhân tố thành tựu Phật quả, sao có thể là cửa vào thật tướng. Ở đây chỉ bác bỏ một nghĩa này, 2 nghĩa còn lại cũng dựa theo như thế mà bác bỏ. Đại lược là như vậy.

Hỏi: Pháp phương tiện và pháp chân thật có thể hỗ tương làm cửa vào cho nhau, vậy có thể nào dùng phương tiện làm cửa vào phương tiện, dùng thật tướng làm cửa vào thật tướng được chăng?

Đáp: Việc này xét ra có 4 trường hợp. Hai trường hợp đầu là như trước đã nói. Trường hợp thứ ba là thật tướng làm cửa vào thật tướng. Trường hợp thứ tư là phương tiện làm cửa vào phương tiện. Giống như danh xưng dẫn vào ý nghĩa, ý nghĩa dẫn vào danh xưng. Do danh xưng phương tiện giúp hiển bày ý nghĩa, cho nên gọi danh xưng là cửa vào. Do ý nghĩa phương tiện tương ứng với danh xưng, cho nên nói ý nghĩa là cửa vào. Đối với thật tướng cũng như thế. Lời tựa của Trung luận nói: “Cái thật nếu không có danh xưng thì không do đâu tỏ ngộ được, cho nên phải gửi gắm vào trong danh tự để tuyên xưng”, chính là nói ý nghĩa này.

Hỏi: Có thể dùng ba thừa hiển bày ba thừa, dùng Nhất thừa hiển bày Nhất thừa được chăng?

Đáp: Việc này lại cũng có 4 trường hợp. Hai trường hợp đầu là như trước đã nói. Nói dùng ba thừa hiển bày ba thừa, đó là trước đây Phật thuyết ba thừa khác với hiện nay thuyết Nhất thừa, ba thừa ấy nằm ngoài Nhất thừa. [Lại nói] Nhất thừa hiện nay khác với ba thừa trước đây, Nhất thừa này nằm ngoài ba thừa. Cho nên nếu nói Nhất thừa chẳng phải là Nhất thừa từ nơi ba thừa, ba thừa chẳng phải là ba thừa từ nơi Nhất thừa, hết thảy những cách nghĩ như vậy đều là quan điểm cố chấp.

Vì phá trừ bệnh cố chấp này cho nên Phật nói: “Từ nơi một Phật thừa mà phân biệt thuyết thành ba thừa.” Cho nên ba thừa đó là ba thừa từ nơi Nhất thừa. [Kinh văn nói:] “Những gì các ông làm, đều là đạo Bồ Tát.” Cho nên Nhất thừa đó là Nhất thừa từ nơi ba thừa. Ba thừa với Nhất thừa vốn không khác biệt nhau.

Nói theo nghĩa nhân duyên thì dùng nhân duyên ba thừa với Nhất thừa để hiển bày tự tánh của ba thừa với Nhất thừa; lại dùng tự tánh ba thừa với Nhất thừa để hiển bày nhân duyên của ba thừa với Nhất thừa. Cho nên nói rằng dùng ba thừa để hiển bày Nhất thừa, dùng Nhất thừa để hiển bày ba thừa.

Có người dẫn ra 15 chỗ trong kinh Pháp hoa này để nêu rõ nghĩa cửa vào. Trong phẩm Phương tiện có 2 chỗ, phẩm Thí dụ có 6 chỗ, phẩm Tin hiểu có 3 chỗ, phẩm Thí dụ hóa thành có 2 chỗ, phẩm Pháp sư có 1 chỗ, phẩm Bồ Tát Quán Âm[83] có 1 chỗ.

Phẩm Phương tiện có 2 chỗ [nêu nghĩa cửa vào]. Thứ nhất là nói cửa vào trí tuệ, dùng trí quyền thừa làm cửa vào trí tuệ chân thật. Ngài Trúc Đạo Sinh nói: “Lời giảng dạy là cửa vào. Lời giảng dạy chỉ rõ trí chân thật, cho nên lời giảng dạy là cửa vào trí tuệ chân thật.” Luận Pháp hoa cũng nói giống như vậy. Thứ hai là nói rằng: “Dùng đủ mọi pháp môn, để chỉ bày Phật đạo.” Đây là nói dùng giáo pháp Đại thừa làm cửa vào.

Phẩm Thí dụ có 6 chỗ. Thứ nhất là nói “nhà của ông hết sức rộng lớn nhưng chỉ có duy nhất một cửa ra vào”. Đây cũng là lấy giáo pháp Đại thừa làm cửa vào. Thứ hai là nói [“xuyên qua] cửa bị cháy”. Đây là lấy giới hạn cương vực của ba cõi làm cửa vào, cũng như gọi nhà là cửa. Thứ ba là nói “nhà này chỉ có một cửa, lại nhỏ hẹp”. Đây cũng là lấy giáo pháp Đại thừa làm cửa vào. Thứ tư là nói “ba xe đang ở ngoài cửa”. Đây lại cũng là lấy ba cõi làm cửa vào. Thứ năm là nói “dùng các pháp môn Phật dạy mà thoát ra khỏi khổ não trong ba cõi”. Đây là dùng giáo pháp Tiểu thừa làm cửa vào. Thứ sáu là nói “ông trưởng giả chủ nhà, còn đang đứng ngoài cửa”. Đây là dựa theo Đại thừa dùng giới hạn của 2 loại sanh tử làm cửa vào; nếu theo Tiểu thừa thì ra khỏi tất cả phiền não, tập nhân đã dứt hết gọi là “đứng ngoài cửa”.

Phẩm Tin hiểu [có 3 chỗ]. Thứ nhất là nói “đứng ở ngoài cửa”, tức là lấy giáo lý Đại thừa làm cửa vào. Thứ hai là nói “vẫn còn ở ngoài cửa”, cũng giống như trước. Thứ ba là nói “ông trưởng giả ở bên trong cửa”, ý nghĩa cũng như trước.

Phẩm Thí dụ hóa thành [có 3 chỗ]. Thứ nhất là nói “thường mở cửa cam lộ”, cũng là dùng giáo pháp Đại thừa và Tiểu giáo thừa làm cửa vào. Thứ hai là nói “cửa nhiều lớp, lầu cao”, cũng là dùng đến 3 cửa không của Tiểu thừa làm cửa vào. Thứ ba là nói “cửa phương tiện” thì như trước đã giải thích.

Phẩm Bồ Tát Quán Âm [có 1 chỗ] cũng lấy giáo pháp Đại thừa làm cửa vào.

Nay giải thích về ý nghĩa “mở ra cửa phương tiện”. Những gì trước đây Phật không thuyết dạy thì nay đều thuyết dạy. Như trước đây nói đến hết thảy nghề nghiệp sinh nhai hay tài sản ở thế gian, chưa từng xem đó là phương tiện, nay đều khai mở đó chính là thật tướng, không có gì khác biệt trái nghịch nhau.

Trước đây nói phương tiện Tiểu thừa dẫn đến quả vị Tiểu thừa; đến như quả vị Tiểu thừa mà còn không phải cửa vào thật tướng, huống chi là phương tiện của Tiểu thừa sao có thể xem là cửa vào? Nay đều khai mở chỉ ra tất cả đều là thật tướng. [Cho nên kinh văn nói] “những gì các ông làm, đều là đạo Bồ Tát”, [lại nói “nghe kinh thâm sâu này,] dứt sạch pháp Thanh văn, là vua trong các kinh”.

Trước đây nói nhị thừa là cửa phương tiện, nay đều khai thị trừ bỏ, chỉ rõ đó chính là thật tướng, không còn là cửa vào, khiến cho hết thảy chúng sanh đều được khai mở, chỉ bày, nhận hiểu và thể nhập tri kiến Phật. [Như vậy thì] hết thảy mọi hình sắc, mùi hương[84]… chẳng có gì chẳng phải là Phật pháp, dù là cửa vào hay chẳng phải cửa vào, tất cả đều khai mở chỉ bày tướng chân thật, hiển lộ nước tánh Phật. Nếu không khai mở thì “thâm sâu kiên cố, kín nhiệm xa xôi, không ai có thể thấu đáo”, nay được khai mở rồi liền gặp được nước, không còn là đất khô.

Lại nếu giải thích theo 3 loại trí tuệ [là văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ,] thì kinh văn nói “đều có đủ trong kinh này” tức là văn tuệ viên mãn, “kinh này mở ra cửa phương tiện” tức là tư tuệ viên mãn, “chỉ bày tướng chân thật” tức là tu tuệ viên mãn. Ba loại trí tuệ này đều “kín nhiệm xa xôi”, nay Phật khai mở chỉ bày liền thấy được chân thật.

KINH VĂN

“Này Dược Vương! Nếu có Bồ Tát nào nghe kinh Pháp hoa này lại khởi tâm kinh hãi, nghi ngờ, nên biết đó là Bồ Tát mới phát tâm. Nếu có Thanh văn nào nghe kinh này lại khởi tâm kinh hãi, nghi ngờ, sợ sệt, nên biết đó là kẻ tăng thượng mạn.

Phân đoạn thứ năm từ câu “Này Dược Vương! Nếu có Bồ Tát nào nghe kinh Pháp hoa này…” trở đi là gạn lọc những trường hợp sai lệch.

“Nếu Bồ Tát nghe kinh Pháp hoa này lại khởi tâm kinh hãi nghi ngờ…” [cho đến] “Thanh văn… là kẻ tăng thượng mạn” thì đó đều là [hạng còn ở] đất khô, còn chưa đến đất ẩm huống gì là gặp được nước.

KINH VĂN

“Này Dược Vương! Nếu có thiện nam hoặc thiện nữ, sau khi Như Lai diệt độ rồi, muốn vì bốn chúng thuyết giảng kinh Pháp hoa này, nên thuyết như thế nào? Người ấy phải vào nhà Như Lai, đắp y Như Lai, ngồi tòa Như Lai, như vậy rồi mới nên vì bốn chúng mà thuyết rộng kinh này. Nhà Như Lai tức là tâm đại từ bi của hết thảy chúng sanh; y Như Lai tức là tâm nhẫn nhục nhu hòa; tòa Như Lai tức là hết thảy các pháp đều không. Trụ yên trong chỗ như thế rồi, mới dùng tâm không biếng nhác, vì chư Bồ Tát và bốn chúng mà thuyết rộng kinh này.

Đoạn thứ hai từ câu “Này Dược Vương! Nếu có hàng thiện tín nam nữ, sau khi Như Lai diệt rồi…” trở đi, sơ lược chỉ bày phương pháp truyền rộng kinh này. Đoạn này chia làm 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất là chỉ bày phương pháp, tiểu đoạn thứ hai là nêu rõ lợi ích.

Tiểu đoạn thứ nhất chỉ bày phương pháp lại có 3 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất nêu rõ ý nghĩa muốn nói, phân đoạn thứ hai là giải thích ý nghĩa và phân đoạn thứ ba là khuyến khích tu tập.

Phân đoạn thứ nhất, nói tu tập “vào nhà Như Lai” tức là tâm đại từ bi. Nếu theo nghĩa đồng thể [đại từ bi] tức là pháp thân, theo nghĩa che chở chúng sanh tức là giải thoát, theo nghĩa thường giúp chúng sanh thể nhập đồng thể tức là Bát-nhã.[85]

Tu tập “đắp y Như Lai”, nếu theo nghĩa được che đắp tức là pháp thân, theo nghĩa có khả năng che đắp làm trang nghiêm thân tức là pháp nhẫn tịch diệt, theo nghĩa nhu hòa soi sáng làm lợi ích chúng sanh tức là giải thoát.

[Tu tập “ngồi tòa Như Lai”,] nếu theo nghĩa người ngồi lên tòa tức là Bát-nhã, theo nghĩa chỗ tòa để ngồi tức là pháp thân, theo nghĩa thân với tòa ngồi ngấm ngầm tương xứng tức là giải thoát.

[Phân đoạn thứ hai từ câu “Nhà Như Lai tức là tâm đại từ bi…” trở đi là giải thích ý nghĩa.] [Tu tập] tâm đại từ [giúp chúng sanh] an vui[86] tức là giúp cho thành tựu; [tu tập] nhẫn nhục nhu hòa tự điều phục sân hận, dứt trừ mê hoặc tức là quán chiếu; [tu tập] ngồi tòa [Như Lai] tức là pháp thân. Trong phẩm Hạnh an vui sẽ tiếp tục giảng rộng 3 pháp này.

[Phân đoạn thứ ba từ câu “trụ yên trong chỗ như thế rồi…” trở đi là khuyến khích sự tu tập.] Kinh văn phần trước nói “dùng sự trang nghiêm của Như Lai” tức là y áo [của người thuyết pháp]; lại nói “được Như Lai gánh vác trên vai”, [vai của Như Lai] tức là tòa ngồi [của người thuyết pháp]; gánh vác là gánh vác việc chuyển vận [chánh pháp], tức là nói [người ấy] vào trong giảng đường [để thuyết pháp].

KINH VĂN

“Này Dược Vương! [Khi ấy] ta ở cõi khác[87] sai khiến người được biến hóa ra, vì người ấy mà tụ tập người đến nghe pháp, lại sai khiến các tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di được biến hóa ra đến nghe người ấy thuyết pháp. Những người được biến hóa ra đó, khi nghe pháp liền tin nhận, thuận theo không trái nghịch.

“Nếu như người thuyết pháp ở nơi vắng vẻ yên tĩnh, khi ấy ta sẽ mở rộng sai khiến chư thiên, loài rồng, quỷ thần, càn-thát-bà, a-tu-la… đến nghe người ấy thuyết pháp. Tuy ta đang ở cõi khác, vẫn thường khiến cho người thuyết pháp ấy được nhìn thấy thân Phật. Nếu như khi thuyết kinh này có quên sót câu nào, ta lại sẽ vì người ấy thuyết, khiến cho được trọn đủ.”

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Này Dược Vương! Ta ở nơi cõi khác…” trở đi nêu ra 5 sự lợi ích, khuyến khích khen ngợi việc lưu thông kinh này. Lợi ích thứ nhất là [được Phật sai khiến người do Phật biến hóa ra đến nghe pháp], lợi ích thứ hai là Phật sai khiến bốn chúng được biến hóa ra, lợi ích thứ ba là Phật sai khiến tám bộ chúng được biến hóa ra. Lợi ích thứ tư là được thấy thân Phật. Lợi ích thứ năm là được Phật giúp cho nhớ và thuyết kinh đầy đủ không thiếu sót.[88]

Nếu người vừa mới phát tâm, tâm tánh chưa thuần thì chỉ có thể sai khiến người được biến hóa ra [đến chỗ họ nghe pháp], chưa thể sai khiến bốn chúng hoặc tám bộ chúng [đến chỗ họ]. Nếu người ấy nhìn thấy chư thiên, loài rồng [đến nghe pháp], sẽ dựa vào đó mà sanh tâm tự cao, tổn hại đến việc tu tập đạo, cho nên không thể cho người ấy nhìn thấy. Nếu tâm không còn bám chấp dựa dẫm thì có thể gặp Phật [mà không bị tổn hại vì tự cao],[89] huống chi là việc thấy chư thiên, loài rồng; huống chi là được pháp tổng trì ghi nhớ trọn đủ bộ kinh, tự chứng biết được lợi ích.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:

Muốn trừ bỏ biếng nhác,
Nên lắng nghe kinh này.
Kinh này khó được nghe,
Lại cũng khó tin nhận.
Như người khát tìm nước,
Trên gò cao đào xuống,
Vẫn thấy đất khô ráo,
Nên biết nước còn xa.
Dần thấy ẩm, đất bùn,
Biết chắc đã gần nước.
Dược Vương! Ông nên biết,
Như đối với những người,
Không nghe kinh Pháp hoa,
Trí tuệ Phật còn xa.
Nghe kinh thâm sâu này,
Dứt sạch pháp Thanh văn,
Là vua trong các kinh,
Nghe rồi suy ngẫm kỹ,
Nên biết người như vậy,
Đã gần trí tuệ Phật.

Phần kệ tụng có 18 khổ rưỡi kệ, chia làm 3 đoạn.

Đoạn đầu tiên 1 khổ kệ là lời khuyên tổng quát, không tụng lại ý nghĩa trong kinh văn trường hàng.

Kế đến [đoạn thứ hai] 16 khổ rưỡi kệ là tụng lại ý nghĩa kinh văn trường hàng ở trước. Cuối cùng [đoạn thứ ba] có 1 khổ kệ nêu nghĩa tóm kết để khuyến khích tu tập.

[Đoạn thứ hai có 2 tiểu đoạn.]

[Tiểu đoạn thứ nhất gồm 4 khổ kệ.] Trong kinh văn trường hàng ở trước, phần nêu quả vị để xưng tán có 5 phân đoạn. Nay [tương ứng theo đó] nhưng trong tiểu đoạn thứ nhất này chỉ có 2 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất gồm 1 khổ rưỡi kệ từ câu “Như người khát tìm nước” trở đi tụng về việc nêu ra thí dụ.

Phân đoạn thứ hai từ câu “Dược Vương! Ông nên biết” trở đi gồm 2 khổ rưỡi kệ, tụng về nghĩa tương hợp với thí dụ. Như vậy lược bớt không tụng ý nghĩa 3 phân đoạn còn lại nêu việc đã gần quả Phật, giải thích [việc đã gần quả Phật] và gạn lọc những trường hợp sai lệch.

KINH VĂN

Người muốn thuyết kinh này,
Nên vào nhà Như Lai,
Và đắp y Như Lai,
Ngồi trên tòa Như Lai,
Giữa đại chúng, không sợ,
Rộng vì người giảng thuyết.
Đại từ bi là nhà,
Áo nhu hòa nhẫn nhục,
Tòa là các pháp không,
Trụ trong đó thuyết pháp.
Nếu khi thuyết kinh này,
Có người xấu mắng chửi,
Ném gạch, đá, dao, gậy,
Niệm Phật nên nhẫn nhục.
Ta ở muôn ức cõi,
Hiện thân tịnh, kiên cố,
Trong vô lượng ức kiếp,
Vì chúng sanh thuyết pháp.
Sau khi ta diệt độ,
Người thường thuyết kinh này,
Ta hóa hiện bốn chúng,
Tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
Cùng nam, nữ cư sĩ,
Cúng dường pháp sư ấy,
Lại dẫn dắt chúng sanh,
Tụ tập đến nghe pháp.
Nếu người muốn hãm hại,
Dùng dao, gậy, gạch, đá,
Phật sai người biến hóa,
Đến bảo vệ người ấy.
Nếu như người thuyết pháp,
Đang ở nơi vắng vẻ,
Yên tịnh, không tiếng người,
Khi tụng đọc kinh này,
Ta vì người ấy hiện
Thân sáng ngời thanh tịnh,
Nếu quên câu kinh nào,
Ta giúp thuyết thông suốt.
Người đủ các đức trên,1
Khi thuyết cho bốn chúng,
Hoặc tụng đọc một mình,
Đều được thấy thân Phật.
Nếu ở chỗ vắng vẻ,
Ta khiến chư thiên, rồng,
Cùng dạ-xoa, quỷ thần,
Đến đó cùng nghe pháp.
Người ấy vui thuyết pháp,
Phân biệt không ngăn ngại,
Nhờ chư Phật hộ niệm,
Khiến đại chúng hoan hỷ.
Nếu gần gũi pháp sư,
Nhanh đạt đạo Bồ Tát,
Theo học với pháp sư,
Được gặp vô số Phật.

[Tiểu đoạn thứ hai có 12 khổ rưỡi kệ.] Trong kinh văn trường hàng ở trước, phần nói về phương thức lưu thông kinh có 2 đoạn, chia ra nói về phương thức lưu thông và lợi ích của việc lưu thông kinh. Nay trong kệ tụng thì tiểu đoạn này cũng có 2 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất có 3 khổ rưỡi kệ tụng về phương thức lưu thông kinh. [Phân đoạn thứ hai gồm 9 khổ kệ, nói về lợi ích của việc lưu thông kinh.]

Trong kinh văn trường hàng, phần này có 3 tiểu đoạn, nay trong kệ tụng có 3 ý tương ứng.

Phân đoạn thứ hai từ câu “Ta ở muôn ức cõi” trở đi gồm 9 khổ kệ, có 6 ý tụng về sự lợi ích của việc lưu thông kinh này.

Ý thứ nhất 1 khổ kệ nói tổng quát việc đức Như Lai dùng nêu ra 5 sự lợi ích. Ý chính là do nơi ứng thân Phật đầy khắp trong 10 phương nên có thể dùng 5 việc nêu ra ở đây để bảo vệ giúp đỡ người tu hành [truyền bá kinh này].

Ý thứ hai từ câu “Sau khi ta diệt độ” trở đi gồm 1 khổ rưỡi kệ, tụng lại lợi ích thứ hai nói việc “sai khiến bốn chúng được hóa ra”.

Ý thứ ba từ câu “Lại dẫn dắt chúng sanh” trở đi gồm 1 khổ rưỡi kệ, tụng lại lợi ích thứ nhất nói việc “sai khiến người được hóa ra”.

Ý thứ tư từ câu “Nếu như người thuyết pháp” trở đi gồm 2 khổ kệ, tụng lại lợi ích thứ năm được Phật giúp cho ghi nhớ trọn đủ bộ kinh.

Ý thứ năm từ câu “Người đủ các đức trên” trở đi gồm 1 khổ kệ, tụng lại lợi ích thứ tư là được Phật giúp cho nhìn thấy Phật.

Ý thứ sáu từ câu “Nếu ở chỗ vắng vẻ” trở đi gồm 2 khổ kệ, tụng lại lợi ích thứ ba nói việc “sai khiến tám bộ chúng”.

Đại lược là như thế.

11. Giải thích phẩm Hiện tháp báu

KINH VĂN

Phẩm Hiện tháp báu, thứ mười một

Giải thích tên phẩm

Tiếng Phạn là stupa, phiên âm là tháp-bà (塔婆), cũng đọc là thâu-bà (偷婆), Hán ngữ dịch ý là phương phần (方墳), hoặc cũng dịch là linh miếu (靈廟). Cũng gọi là chi-đề (支提), nghĩa là không có xương thân [Như Lai] trong đó. Tháp báu [trong phẩm này] này có toàn thân [Như Lai] không tan rã cho nên không gọi là chi-đề.

Kinh A-hàm nêu 4 nơi làm chứng tích [trong cuộc đời đức Phật], tức là nơi Phật đản sanh, nơi Phật thành đạo, nơi Phật chuyển pháp luân và nơi Phật nhập Niết-bàn, là 4 nơi dựng tháp thờ. Nay tháp báu này là chứng tích nơi đức Phật [Đa Bảo] trước đây nhập diệt.

Trong kinh nói rằng:[90] “Ba thân Phật đều từ kinh này sanh ra.” Chư Phật ở nơi kinh này mà ngồi đạo tràng [chứng thành đạo quả]; chư Phật ở nơi kinh này mà chuyển pháp luân; chư Phật ở nơi kinh này mà nhập Niết-bàn. Cho nên kinh Pháp hoa này tức là 4 chứng tích của ba đời chư Phật.

1. Phật trước đây ở trong tháp này, Phật hiện nay cùng ngồi trong tháp này, chư Phật tương lai lại cũng sẽ như vậy. Tháp này xuất hiện để nêu rõ việc ấy, bốn chúng đều nhìn thấy, cho nên gọi là phẩm Hiện tháp báu.

2. Trong kinh Anh Lạc, ngài Tu-bồ-đề[91] thưa hỏi rằng: “[Cúng dường] sanh thân Phật, [xá-lợi] toàn thân và [xá-lợi] toái thân Phật,[92] công đức có đồng nhau chăng?” Phật dạy là không đồng nhau. Sắc thân Phật dùng lời giáo hóa, dạy dỗ chúng sanh, [khiến cho] 3 nghiệp [thân, khẩu và ý đều] trọn đủ thanh tịnh, đến được đạo trường; còn xá-lợi toàn thân hoặc toái thân của Phật thì oai thần quang minh sáng tỏa, chúng sanh cúng dường được phước, cho nên chẳng đồng như nhau. [Cũng trong kinh Anh Lạc, ngài Tu-bồ-đề] lại thưa hỏi: “[Kinh Bản sanh nói] đức Như Lai Đảnh Vương trải qua 12 na-do-tha[93] kiếp thuyết pháp giáo hóa, [sau khi diệt độ lưu lại] xá-lợi [toàn thân, người đời cúng dường được nghe thuyết pháp giáo hóa qua 12 na-do-tha kiếp] cũng giống như thế, [vậy công đức cúng dường sanh thân Phật với toàn thân xá-lợi Phật] theo lẽ có phải là giống nhau chăng?” Phật dạy: “Tất cả [những việc ấy] đều là do thần lực của đức Như Lai Đảnh Vương tạo ra.” Kinh [Anh Lạc] cho rằng, xét kỹ thì xá-lợi toàn thân, xá-lợi toái thân đều do thần lực của sanh thân Phật mà có. Kinh Pháp hoa này cho rằng, xét theo ý nghĩa rốt ráo thì sanh thân Phật, xá-lợi toàn thân, xá-lợi toái thân, cho đến xá-lợi pháp thân thiên lệch tương đối hay pháp thân viên mãn tuyệt đối cũng đều từ kinh này lưu xuất, cho nên làm rõ công đức giữ gìn truyền rộng kinh này có sức mạnh rất lớn. [Tháp báu] từ dưới lòng đất vọt lên chứng minh cho việc này, bốn chúng đều nhìn thấy, cho nên gọi là phẩm Hiện tháp báu.

3. Các vị thầy phái Địa luận ở phương bắc nói rằng: “Vào lúc đức Phật vì ngài Xá-lợi-phất thuyết giảng kinh này, [lẽ ra] tháp báu đã phải xuất hiện để chứng minh. Nếu đã thuyết kinh xong rồi thì còn chứng minh gì nữa? Đây là do các vị chép kinh sắp xếp thứ tự, mới đặt [phẩm Hiện tháp báu] này sau 3 sau vòng thuyết pháp. Như vậy là theo ý của người [chép kinh], tất nhiên không thể tin được.”

Nay dựa theo trong kinh Tát-đàm Phân-đà-lợi[94] có nói, khi đức Phật thuyết vô số bài kệ của kinh Pháp hoa, có tháp 7 báu từ trong lòng đất vọt lên, bên trong tháp có tòa ngồi bằng vàng,[95] trên tòa có vị Phật hiệu là Bão-hưu-la-lan,[96] Hán dịch là Đại Bảo, xưng tán đức Thế Tôn Thích-ca và nói: “Ta vì vậy đến đây để cúng dường. Xin cùng ngồi trên tòa này rồi vì ta mà thuyết kinh Diệu Pháp Liên Hoa.” Như vậy, y theo kinh Tát-đàm Phân-đà-lợi này thì việc [hiện tháp báu] tức là chứng minh 3 vòng thuyết pháp [trước đó], sau lại thỉnh [thuyết về] thọ lượng. Kinh văn nêu rõ thánh ngôn [của Phật] còn không vận dụng, những lời xuyên tạc sai lệch của người khác lại có thể tin theo được sao? Tháp này chính là vì chứng minh cho phần thuyết giảng trước, thưa thỉnh phần [sẽ thuyết giảng] sau, nên mới từ trong lòng đất vọt lên. Bốn chúng đều thấy, cho nên gọi là phẩm Hiện tháp báu.

4. Các vị thầy phái Địa luận nói: “Đa Bảo là pháp thân Phật.” Luận Đại trí độ[97] nói: “Phật Đa Bảo có thệ nguyện nên hóa thân hiện đến để chứng minh cho kinh này.” Kinh văn ở đây cũng nói như vậy. Đại sư Nam Nhạc Tuệ Tư[98] nói: “Pháp thân không đi đến, không xuất hiện; báo thân oai nghiêm rực rỡ; ứng hóa thân ứng hiện khắp thảy. Nhưng nếu theo đó gọi là 3 thân Phật thì chưa nêu hết được bản thể, chỉ là biểu hiện cho thấy được mà thôi.” Cho nên, Phật Đa Bảo biểu hiện cho pháp thân Phật; đức Thế Tôn Thích-ca biểu hiện cho báo thân Phật; các vị phân thân Phật biểu hiện cho ứng hóa thân Phật. Ba thân Phật như vậy, tuy là ba mà không khác với một. Nên giải thích theo cách như vậy, nên tin hiểu đúng như vậy.

Bốn cách lập luận như trên chính là dựa theo 4 tất đàn để giải thích tên phẩm Hiện tháp báu. Đại lược là như vậy.

[Kinh văn nói việc] tháp báu xuất hiện chia làm 2 phần. Phần thứ nhất nêu việc [từ trong tháp] phát ra tiếng nói để chứng minh [phần kinh văn đã thuyết giảng] ở trước. Phần thứ hai nêu việc mở cửa tháp để dẫn khởi phần kinh văn về sau. Chứng minh phần trước có nghĩa là chứng minh 3 vòng thuyết pháp, [gồm thuyết chánh pháp, thuyết nhân duyên, thuyết thí dụ] đều là chân thật.

Nếu lược nói về chân thật thì đó là tất cả đều tương ưng với thật tướng. Nếu nói rộng về chân thật thì lìa cả 4 trường hợp xác định, dứt hết trăm sự phủ định.[99]

Hoặc theo trung đạo mà nói thì “bát bất”[100] gọi là chân thật. Tháp từ trong lòng đất vọt lên là “bất diệt” (không diệt mất); [Phật Đa Bảo] phân chia tòa ngồi để [2 Phật] cùng ngồi là “bất sanh” (không sanh ra); [Phật Thích-ca] vào bên trong tháp là “bất thường” (không thường còn); tháp hiện ra là “bất đoạn” (không đoạn dứt); phân thân [Phật] là “bất nhất” (không phải một); toàn thân [Phật] là “bất dị” (không khác biệt); Phật Đa Bảo nhường tòa ngồi là “bất lai” (không đi đến); Phật Thích-ca ngồi nửa tòa là “bất xuất” (không hiện ra). “Bát bất” rõ ràng như vậy nên là chân thật. Lại nữa, chứng minh tích môn gìn giữ lưu thông kinh này công đức sâu dày, giảng giải truyền rộng sức lực mạnh mẽ, tất cả đều chân thật.

Hỏi: [Trong tên kinh nói] Bình Đẳng Đại Tuệ so sánh với Bát-nhã thì thế nào?

Đáp: Luận Đại trí độ, quyển 79[101] nói: “Bát-nhã là diệu pháp của 3 đời chư Phật.” Cũng giống như chỉ một cửa thành [nhưng người từ] 4 hướng đều có thể theo đó vào thành. Nên biết rằng Bát-nhã cũng gọi là Diệu Pháp [giống như kinh này]. Cho nên kinh này gọi là Bình Đẳng Đại Tuệ [thì so với Bát-nhã] là 2 cách gọi cùng chỉ một ý nghĩa có thể biết được.

Nêu ý dẫn khởi phần [thuyết giảng] về sau là nói việc muốn mở cửa tháp thì phải tập hợp phân thân, tức là nói nghĩa huyền diệu của sự phó chúc. Âm thanh [từ đây] thấu triệt phương dưới triệu tập đệ tử thuở xưa để luận bàn về thọ lượng [Như Lai].

Tháp báu từ xa xưa, nay “từ trong lòng đất bỗng dưng vọt lên” là khai mở sức thần thông tự tại, tức là hiển bày việc làm lợi ích chúng sanh trong đời quá khứ. “Phát ra âm thanh rất lớn” là khai mở sức tinh tấn dũng mãnh như sư tử, tức là hiển bày [chư Phật] hiện tại trong 10 phương đang khai thị trừ bỏ quyền thừa, hiển lộ chân thật. “Có phát đại nguyện… …nếu nơi nào thuyết giảng kinh Pháp hoa thì tháp miếu của ta sẽ vì nghe kinh ấy mà từ trong lòng đất vọt lên phía trước người giảng kinh để chứng minh”, là khai mở sức mạnh mẽ uy thế lớn lao, tức là hiển bày sự thường trụ bất diệt trong tương lai.

Lại nữa, “tháp báu lớn trụ yên giữa không trung” cũng là nghĩa chứng minh phần [thuyết giảng] trước, dẫn khởi phần [thuyết giảng] sau. Người trong bảy hạng phương tiện khi còn bị che lấp ẩn tàng bởi vô minh chưa khai mở [tri kiến] giống như tháp ở trong lòng đất. Sau khi được nghe 3 vòng thuyết pháp, khai thị trừ bỏ ba thừa, hiển bày chân thật, khai mở tri kiến Phật, pháp thân hiển lộ như tháp vọt lên hư không. Đây tức là chứng minh phần [thuyết giảng] trước. Tu tập đã đạt được pháp thân sáng tỏ từ lâu, như tháp trụ yên giữa không trung không ai có thể mở [cửa tháp ra], đây là biểu trưng bản địa thành tựu từ lâu nhưng đại chúng không biết. Nếu [được Phật] nêu rõ hình tích, hiển lộ bản nguyên thì thấu đạt rõ ràng không còn nghi ngại. Đây tức là dẫn khởi phần [thuyết giảng] về sau.

Nếu như tháp từ trong lòng đất hiện lên là biểu trưng cho sự hiển lộ pháp thân thì so với những kinh khác có chỗ tương đồng, cũng có chỗ khác nhau. Như [theo giáo pháp] Bồ Tát hiển lộ pháp thân là tương đồng, [theo giáo pháp] nhị thừa hiển lộ pháp thân thì lại khác.

Nếu tháp trụ yên giữa không trung, mở cửa tháp thấy Phật là biểu trưng cho việc nêu rõ hình tích, hiển lộ bản nguyên thì so với những kinh khác vĩnh viễn khác nhau.

Nếu tháp hiện ra là để chứng minh phần [thuyết giảng] trước thì sẽ bị che đậy việc này đã quá rõ ràng, không có gì nghi ngại.

Nếu tháp hiện ra là để dẫn khởi phần [thuyết giảng] về sau thì đó là hàm ý ngấm ngầm đại chúng còn chưa biết. Nay chọn ý nghĩa sau để đưa vào giải thích cũng không có gì sai.

Giải thích theo quán tâm, y theo kinh tu quán, cùng với pháp thân tương ưng thì cảnh và trí sẽ hợp nhau, như tháp hiện đến để chứng minh cho kinh. Cảnh và trí đã hợp nhau thì quả báo lớn lao trọn vẹn đầy đủ, như Phật Thích-ca và Phật Đa Bảo cùng chung một tòa ngồi. Do quả báo lớn lao đã trọn vẹn nên tùy cơ duyên mà xuất hiện tương ứng, như tất cả phân thân [Phật] đều tập hợp. Do Phật Đa Bảo xuất hiện cho nên ba thân Phật đều hiển bày. Do thọ trì kinh này cho nên trọn đủ ba thân. Kinh Quán Phổ Hiền nói “Ba loại thân Phật đều từ nơi kinh Phương đẳng sanh ra”, tức là nghĩa này.

Có người phân chia từ phẩm này trở đi gồm 11 phẩm là thân luân của Phật, dùng thần thông khai mở ý nghĩa bản nguyên xa xưa và hình tích thị hiện. [Phần trước từ chỗ] ngài Di-lặc thưa hỏi trở đi là khẩu luân của Phật, thuyết pháp khai mở ý nghĩa bản nguyên xa xưa và hình tích thị hiện. Nhưng ý nghĩa bản tích chưa sáng tỏ rõ ràng, từ chỗ này phân chia kinh văn thì quá sớm. Đại lược là như thế.

Phẩm này có 2 phần: kinh văn trường hàng và kệ tụng. Kinh văn trường hàng lại chia làm 3 tổng đoạn. Thứ nhất, nêu việc tháp báu của Phật Đa Bảo xuất hiện. Thứ hai, nêu việc phân thân Phật từ xa tập hợp về. Thứ ba là nêu việc đức Phật Thích-ca kêu gọi người thọ trì lưu truyền kinh này.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, ngay trước đức Phật, bỗng từ trong lòng đất phóng vọt lên một tòa tháp bảy báu, cao năm trăm do-tuần, chiều ngang và chiều dọc đều hai trăm năm mươi do-tuần, trụ yên lơ lửng giữa không trung, có đủ mọi vật báu trang nghiêm tô điểm. Bao quanh tháp có năm ngàn dãy lan can, tầng dưới có ngàn muôn bệ thờ, có vô số cờ phướn trang nghiêm làm đẹp, muôn ức chuỗi ngọc quý và chuông báu nhỏ được treo ở phần trên tháp. Từ bốn phía quanh tháp có mùi hương chiên-đàn đa-ma-la-bạt[102] lan tỏa thơm ngát khắp thế giới. Bên trên tháp có những lọng che bằng bảy báu: vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, chân châu và ngọc mai khôi, cao vút lên tận cung trời Tứ thiên vương.

© Tổng đoạn thứ nhất có 6 đoạn. Đoạn thứ nhất nói về tướng tháp báu xuất hiện. Đoạn thứ hai nói việc chư thiên cúng dường. Đoạn thứ ba nêu việc Phật Đa Bảo ngợi khen xưng tán. Đoạn thứ tư nói việc đại chúng khi ấy kinh ngạc, khởi tâm nghi ngờ không biết. Đoạn thứ năm nêu việc Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết thưa hỏi. Đoạn thứ sáu là đức Như Lai giải đáp.

Đoạn thứ nhất, “tòa tháp bằng bảy báu” là nói địa vị pháp thân do tánh thể mà đạt được tài bảo quý báu là 7 giác chi,[103] 7 thánh tài.[104] “Tháp” là cảnh bên ngoài của thật tướng, là chỗ nương vào của pháp thân. “Cao 500 do-tuần” tức là 2 muôn dặm, nói theo thời gian là trong việc tạo nhân có muôn công hạnh, trong thành tựu quả có muôn phẩm đức. “Ngang dọc 250 do-tuần” tức là 1 muôn dặm, nói theo không gian là dùng muôn điều thiện để trang nghiêm.

“Từ trong lòng đất” là chỉ tâm địa vô minh. Dùng pháp không có chỗ phá mà phá trừ vô minh; dùng pháp không có chỗ trụ mà trụ nơi nghĩa không đệ nhất. “Đủ mọi thứ vật báu”, là có nhiều loại định tuệ trang nghiêm làm đẹp. “Lan can” tức là các pháp tổng trì. “Ngàn muôn bệ thờ” là nói từ bi vô lượng làm nhà, lại cũng là căn nhà tánh không vô lượng. “Cờ phướn” là tướng trạng thù thắng của thần thông. “Chuỗi ngọc quý” là công đức của 40 giai vị Bồ Tát, trang nghiêm pháp thân bên trên, che chở chúng sanh bên dưới. “Muôn vạn chuông báu nhỏ” là 8 loại âm thanh [chư Phật dùng để thuyết pháp] và 4 biện tài vô ngại. “Bốn phía quanh tháp có mùi hương... lan tỏa” là gió đạo 4 chân đế thổi ra mùi hương 4 phẩm đức [thường, lạc, ngã, tịnh]. “Cao vút lên tận cung trời Tứ thiên vương” là tột cùng lý 4 chân đế.

KINH VĂN

Chư thiên cõi trời Đao-lợi[105] mưa xuống hoa trời mạn-đà-la để cúng dường tháp báu ấy, trong khi những chư thiên khác cùng các loài rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và loài phi nhân, số đông đến ngàn muôn ức, tất cả đều dùng hết thảy các loại hoa, hương thơm, chuỗi ngọc, lọng che, âm nhạc để cúng dường tháp báu, tỏ lòng tôn trọng, ngợi khen xưng tán.

Đoạn thứ hai từ câu “Chư thiên cõi trời Đao-lợi” trở đi, nói việc chư thiên cúng dường. Về sự tướng thì việc này có thể rõ biết được, nay lại dựa theo lý [để luận bàn]. Giai vị tam thập tâm là 30, Thập địa là 1, Đẳng giác là 1, Diệu giác là 1, hợp chung là 33,[106] tất cả đều là nương vào cảnh ngoài của thật tướng.

“Mưa xuống hoa trời mạn-đà-la”, là nói hàng Bồ Tát sơ tâm đã trọn đủ công đức của 42 giai vị, cho đến tâm về sau lại cũng như vậy, tất cả đều dùng loại hoa là nhân tu tập 40 giai vị để quy hướng về pháp thân.

Từ câu “những chư thiên khác cùng các loài rồng, dạ-xoa…” trở đi tức là nói hàng nội phàm, ngoại phàm, cũng đều nương vào thật tướng, tu hành các nhân để hướng đến quả.

KINH VĂN

Khi ấy, từ trong tháp báu vang ra âm thanh rất lớn xưng tán rằng: “Lành thay! Lành thay! Đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni có thể vì đại chúng thuyết giảng kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Bình Đẳng Đại Tuệ, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm. Đúng vậy, đúng vậy! Đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni! Những điều ngài thuyết giảng đó đều là chân thật.”

Đoạn thứ ba từ câu “Khi ấy, từ trong tháp báu phát ra…” trở đi, nói việc đức Phật Đa Bảo ngợi khen xưng tán, nêu ý chính là chứng minh phần [thuyết pháp] trước khai thị trừ bỏ quyền thừa, hiển bày pháp thật không hề hư dối.

“Bình đẳng đại tuệ” tức là trí tuệ của chư Phật, ý nghĩa cũng giống như trong kinh văn phần trước nói [trâu trắng có] “bước đi ngay ngắn”. “Bình đẳng” lại có 2 nghĩa. Thứ nhất là pháp bình đẳng, tức là lý trung đạo; thứ hai là chúng sanh bình đẳng, tức là tất cả chúng sanh đều [có thể] đạt được trí tuệ Phật như nhau. “Đại” tức là nghĩa “cao rộng” như trong kinh văn phẩm trước đã nói. Nếu dựa theo quán tâm thì pháp quán không là bình đẳng trong thời gian, pháp quán giả là bình đẳng trong không gian, pháp quán trung đạo là bình đẳng trong cả không gian và thời gian. Bình đẳng soi chiếu [cả 2 trí quyền thật] tức là “bình đẳng đại tuệ”.

“Đúng vậy, đúng vậy”, thứ nhất là tướng pháp đúng như vậy, thứ hai là căn tánh đúng như vậy, tất cả đều chân thật, vì đúng như tướng pháp mà thuyết giảng cho nên chân thật.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, bốn chúng nhìn thấy tháp báu lớn trụ yên giữa không trung, lại nghe tiếng nói phát ra từ bên trong tháp, thảy đều có được niềm vui đúng pháp, đều cho là việc kỳ lạ chưa từng có, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cung kính chắp tay, lùi lại đứng sang một bên.

Khi ấy có vị Đại Bồ Tát hiệu là Đại Nhạo Thuyết,[107] biết được lòng nghi của hết thảy chư thiên, loài người, a-tu-la trong thế gian, liền thưa hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà có tháp báu này từ trong lòng đất bỗng dưng vọt lên, bên trong lại có tiếng nói phát ra như vậy?”

Đoạn thứ tư từ câu “Lúc bấy giờ, bốn chúng nhìn thấy…” trở đi, nói việc đại chúng khi ấy kinh ngạc, khởi tâm nghi ngờ không biết. Đoạn này có 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất nói đại chúng “có được niềm vui đúng pháp”. Tiểu đoạn thứ hai nêu việc khởi tâm nghi vì thấy việc lạ lùng.

Đoạn thứ năm từ câu “Khi ấy có vị Đại Bồ Tát…” trở đi, nêu việc Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết nhân nơi lòng nghi [của đại chúng] mà thưa hỏi.

Nếu dựa theo phần giải đáp theo sau để hiểu thì câu hỏi này nêu ra 3 ý. Thứ nhất là hỏi do nhân duyên gì mà có tháp này? Thứ hai là hỏi vì sao tháp lại từ trong lòng đất vọt lên? Thứ ba là hỏi vì sao [trong tháp] phát ra tiếng nói?

KINH VĂN

Bấy giờ, đức Phật nói với Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết: “Trong tháp báu này có toàn thân đức Như Lai. Trong quá khứ, cách đây vô số ngàn muôn ức a-tăng-kỳ thế giới về phương đông[108] có cõi thế giới tên là Bảo Tịnh. Nơi thế giới ấy có đức Phật hiệu là Đa Bảo. Khi đức Phật ấy còn tu hành đạo Bồ Tát có phát đại nguyện rằng: ‘Nếu ta thành Phật, sau khi diệt độ rồi, trong khắp các cõi nước mười phương, nếu nơi nào thuyết giảng kinh Pháp hoa thì tháp miếu của ta sẽ vì nghe kinh ấy mà [từ trong lòng đất] vọt lên phía trước người giảng kinh để chứng minh, nói lời xưng tán: ‘Lành thay!’

“Vị ấy thành Phật rồi, đến lúc sắp diệt độ, ở giữa đại chúng chư thiên và loài người mà bảo các vị tỳ-kheo rằng: ‘Sau khi ta diệt độ, muốn cúng dường toàn thân ta thì nên xây một tòa tháp lớn.’ Do thần thông nguyện lực của Phật Đa Bảo nên ở khắp mọi nơi trong mười phương thế giới, nếu có người thuyết giảng kinh Pháp hoa thì đều có tháp báu của Phật từ trong lòng đất vọt lên ngay phía trước, toàn thân Phật bên trong tháp phát lời xưng tán: ‘Lành thay, lành thay!’

“Này Đại Nhạo Thuyết! Hôm nay tháp của đức Như Lai Đa Bảo vì nghe thuyết giảng kinh Pháp hoa nên từ trong lòng đất vọt lên nói lời xưng tán ‘Lành thay, lành thay!’”

Đoạn thứ sáu từ câu “Bấy giờ, đức Phật nói với Bồ Tát…” trở đi, đức Phật giải đáp 3 điều thưa hỏi trên.

Trước hết là giải đáp điều thứ hai, nói việc đức Phật [Đa Bảo] có lời nguyện chứng minh cho [sự thuyết giảng] kinh Pháp hoa, cho nên [tháp báu] từ trong lòng đất vọt lên.

Thứ hai, từ câu “Vị ấy thành Phật rồi…” trở đi là giải đáp trở lại điều thứ nhất, nói nguyên do Phật Đa Bảo khuyên dạy nên [bốn chúng] tạo ra tháp báu này.

Thứ ba, từ câu “Do thần thông nguyện lực của Phật Đa Bảo…” trở đi là giải đáp điều thứ ba, nói việc vì để chứng minh cho [sự thuyết giảng kinh Pháp hoa] nên phát ra tiếng nói [của Phật Đa Bảo].

Luận Đại trí độ nói rằng đức Phật Đa Bảo không thuyết pháp mà chọn cách diệt độ. Đại sư Nam Nhạc[109] giảng giải là không phải vậy. [Kinh văn có nói] Phật Đa Bảo “bảo các vị tỳ-kheo”, mà tỳ-kheo tức là những vị được Phật giáo hóa, sao có thể nói là không thuyết pháp? Nên hiểu là Phật Đa Bảo cũng đã thuyết giảng khai mở ba thừa nhưng chưa hiển bày pháp thật [Nhất thừa], cho nên luận Đại trí độ mới nói rằng “không thuyết pháp”. Do ý nghĩa đó nên tuy Phật đã diệt độ nhưng ở bất cứ nơi đâu có thuyết giảng kinh Pháp hoa thì đều hoan hỷ vui theo mà làm việc chứng minh [cho việc thuyết giảng kinh].

KINH VĂN

Khi ấy, Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết nương thần lực của Như Lai nên thưa rằng: “Bạch Thế Tôn! Chúng con ước nguyện được nhìn thấy toàn thân đức Phật Đa Bảo.”

Đức Phật bảo Đại Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết: “Đức Phật Đa Bảo có lời nguyện sâu nặng rằng: ‘Khi tháp báu của ta vì nghe kinh Pháp hoa mà hiện ra ở trước chư Phật, nếu có vị Phật nào muốn chỉ bày cho bốn chúng thấy được toàn thân của ta thì tất cả những vị Phật phân thân của Phật ấy đang thuyết pháp trong khắp mười phương đều phải tập hợp về một nơi, sau đó toàn thân ta mới hiện ra.’ Này Đại Nhạo Thuyết! Các vị Phật phân thân của ta đang thuyết pháp trong các thế giới mười phương nay sẽ tập hợp về đây.”

Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết thưa: “Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng ước nguyện được gặp chư Phật phân thân của Thế Tôn để lễ bái cúng dường.”

© Tổng đoạn thứ hai từ câu “Khi ấy, Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết nương thần lực của đức Như Lai…” trở đi, nêu việc phân thân Phật từ xa đều tập hợp về. Tổng đoạn này có 7 đoạn. Đoạn thứ nhất là Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết thưa thỉnh, nguyện được thấy Phật Đa Bảo. Đoạn thứ hai nói việc [đức Phật Thích-ca] đồng ý triệu tập các phân thân. Đoạn thứ ba nói việc Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết thưa thỉnh muốn gặp chư Phật phân thân tập hợp. Đoạn thứ tư là [đức Phật Thích-ca] phóng hào quang triệu tập [chư Phật phân thân] từ xa. Đoạn thứ năm là chư Phật cùng đến. Đoạn thứ sáu là [đức Phật Thích-ca hóa ra] cõi nước trang nghiêm thanh tịnh. Đoạn thứ bảy là [chư Phật phân thân] đồng muốn mở cửa tháp báu.

Nay giải thích đoạn thứ nhất, kinh văn nói “nương thần lực của đức Như Lai”, vì muốn mở cửa tháp báu phải tập hợp chư Phật [phân thân]. Tập hợp chư Phật tức là phó chúc, [giao phó chánh pháp về sau]. Phó chúc tức là triệu thỉnh chư Phật ở phương dưới. [Chư Phật] phương dưới xuất hiện tức là khai thị trừ bỏ pháp gần, hiển bày pháp xa. Đây là nguyên do của việc lớn lao, lẽ nào lại không phải do thần lực của Phật khiến cho phải thưa hỏi? Các đoạn [thứ hai và thứ ba] y theo kinh văn có thể hiểu được, không cần giảng giải.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, đức Phật phóng ra một đạo hào quang từ tướng bạch hào ở giữa hai chân mày, đại chúng liền nhìn thấy chư Phật đang dùng âm thanh hết sức nhiệm mầu thuyết pháp trong các cõi Phật nhiều như số cát của 500 muôn ức na-do-tha con sông Hằng về phương đông; tất cả những cõi Phật ấy đều có mặt đất bằng pha lê, trang nghiêm bằng những loại cây báu, những tấm vải quý,[110] lại có vô số ngàn muôn ức vị Bồ Tát khắp nơi, có màn báu giăng che, bên trên có lưới báu, lại cũng thấy vô số ngàn muôn ức vị Bồ Tát đầy khắp các cõi Phật ấy, đều đang vì chúng sanh thuyết pháp.

Về phương nam, phương tây, phương bắc, 4 phương phụ và phương trên, phương dưới, những nơi được hào quang từ tướng bạch hào của Phật soi chiếu đến cũng đều hiện ra như vậy.

Khi ấy, chư Phật [phân thân của Phật Thích-ca Mâu-ni] trong mười phương, mỗi vị đều nói với chúng Bồ Tát rằng: “Các thiện nam tử! Nay ta phải đến chỗ đức Phật Thích-ca Mâu-ni ở thế giới Ta-bà, cũng để cúng dường tháp báu của đức Như Lai Đa Bảo.”

Lúc bấy giờ, thế giới Ta-bà lập tức hóa ra thanh tịnh, mặt đất bằng lưu ly, có cây báu trang nghiêm, đường đi về tám hướng[111] đều có dây bằng vàng ròng giăng theo ven đường để ngăn cách, không còn có xóm làng, thôn ấp, thành thị, biển lớn, núi sông, khe suối hay rừng rậm; có lò hương quý rất lớn được đốt lên, hoa mạn-đà-la trải khắp trên mặt đất, có lưới báu giăng che, phủ khắp bên trên, treo các chuông báu nhỏ, và chỉ giữ lại hội chúng trong pháp hội này, còn tất cả chư thiên và người bên ngoài đều di chuyển sang cõi khác.

Khi ấy, mỗi vị phân thân Phật khi đến thế giới Ta-bà đều mang theo một vị Đại Bồ Tát làm thị giả, đến dưới những cây báu, mỗi cây đều cao 500 do-tuần, cành lá hoa trái thứ lớp trang nghiêm đẹp đẽ. Bên dưới mỗi cây báu đều có tòa sư tử cao năm do-tuần, cũng được trang trí bằng châu báu rất đẹp. Lúc bấy giờ, mỗi vị Phật đều ngồi kết già trên một tòa sư tử dưới gốc cây báu, cứ như vậy mà trải đầy khắp cõi thế giới đại thiên mà số Phật phân thân của Phật Thích-ca Mâu-ni ở một phương vẫn còn chưa hết.

Bấy giờ, đức Phật Thích-ca Mâu-ni muốn dung chứa hết các vị Phật phân thân, nên về mỗi phương trong tám phương đều biến hóa ra 200 muôn ức na-do-tha cõi nước, đều làm cho thanh tịnh, không có các cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh cũng như a-tu-la, lại di chuyển hết chư thiên và loài người sang cõi nước khác. Mỗi cõi nước được biến hóa ra đó cũng đều có mặt đất bằng lưu ly, có cây báu trang nghiêm cao 500 do-tuần, cành lá hoa trái thứ lớp trang nghiêm đẹp đẽ, dưới gốc cây có tòa sư tử cao năm do-tuần, có đủ mọi loại châu báu để trang nghiêm làm đẹp, lại cũng không có biển lớn, sông ngòi cho đến các núi chúa như núi Mục-chân-lân-đà, núi Ma-ha Mục-chân-lân-đà, núi Thiết vi, núi Đại Thiết vi, núi Tu-di. Tất cả những cõi nước được biến hóa ra đó lại thông nhau thành một cõi Phật, đất báu bằng phẳng, có màn che bằng các loại châu báu xen nhau che phủ bên trên, treo đầy các loại cờ phướn, lọng che, có lò hương quý rất lớn được đốt lên, có hoa quý của các cõi trời trải khắp mặt đất.

Đức Phật Thích-ca Mâu-ni vì chư Phật phân thân còn sắp đến ngồi nên về mỗi phương trong tám phương lại biến hóa ra thêm 200 muôn ức na-do-tha cõi nước, đều làm cho thanh tịnh, không có các cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh cũng như a-tu-la, lại di chuyển hết chư thiên và loài người sang cõi khác. Mỗi cõi nước được biến hóa ra đó cũng đều có mặt đất bằng lưu ly, có cây báu trang nghiêm cao 500 do-tuần, cành lá hoa trái thứ lớp trang nghiêm đẹp đẽ, dưới gốc cây có tòa sư tử cao năm do-tuần, có đủ mọi loại châu báu để trang trí làm đẹp, lại cũng không có biển lớn, sông ngòi cho đến các núi chúa như núi Mục-chân-lân-đà, núi Ma-ha Mục-chân-lân-đà, núi Thiết vi, núi Đại Thiết vi, núi Tu-di. Tất cả những cõi nước được biến hóa ra đó lại thông nhau thành một cõi Phật, đất báu bằng phẳng, có màn che bằng các loại châu báu xen nhau che phủ bên trên, treo đầy các loại cờ phướn, lọng che, có lò hương quý rất lớn được đốt lên, có hoa quý của các cõi trời trải khắp mặt đất.

Lúc bấy giờ, các vị Phật phân thân của đức Phật Thích-ca Mâu-ni đang thuyết pháp trong những cõi nước về phương đông nhiều như số cát của trăm ngàn muôn ức na-do-tha con sông Hằng, đều tập hợp về nơi đây. Cũng giống như vậy, chư Phật phân thân trong mười phương đều lần lượt tập hợp đến ngồi ở khắp tám phương, mỗi phương đều đầy khắp 400 muôn ức na-do-tha[112] cõi nước [đã được đức Phật Thích-ca Mâu-ni biến hóa ra].

Đoạn thứ tư từ câu “Lúc bấy giờ đức Phật phóng ra một đạo hào quang…” trở đi, nói việc Phật phóng hào quang triệu tập [chư Phật phân thân] ở xa.

[Đoạn thứ năm nói] đức Phật ba lần biến hóa ra cõi nước thanh tịnh, việc này chính là nhờ sức tam-muội.

Tam-muội [ở đây] lại có 3 loại.

Lần đầu tiên Phật biến cõi Ta-bà [thành cõi thanh tịnh], đây là [tam-muội] bội xả,[113] có công năng biến uế nhiễm thành thanh tịnh.

Lần thứ hai [Phật] biến hóa ra 200 [muôn ức] na-do-tha [cõi nước thanh tịnh], đây là [tam-muội] thắng xứ, [có công năng] chuyển biến tự tại [theo ý muốn].

Lần thứ ba, [đức Phật] biến hóa ra [thêm] 200 [muôn ức] na-do-tha [cõi nước thanh tịnh], đây là [tam-muội] nhất thiết xứ, [có công năng] đối với ngoại cảnh không còn ngăn ngại.

Lại nữa, một lần đầu tiên biến hóa [cõi Ta-bà thành cõi] thanh tịnh là biểu trưng cho sự thanh tịnh dứt trừ 4 trụ địa [phiền não]. Một lần thứ hai biến hóa ra cõi thanh tịnh là biểu trưng cho sự thanh tịnh dứt trừ trần sa hoặc. Một lần thứ ba biến hóa ra cõi thanh tịnh là biểu trưng cho sự thanh tịnh dứt trừ vô minh hoặc.

KINH VĂN

Khi ấy, mỗi vị Phật phân thân đều ngồi trên tòa sư tử dưới gốc cây báu, sai thị giả đến vấn an đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Mỗi vị đều trao cho vị thị giả một bụm đầy hoa quý và dặn rằng: “Thiện nam tử! Ông hãy đến chỗ đức Phật Thích-ca Mâu-ni ở núi Kỳ-xà-quật, chuyển lời của ta thưa hỏi rằng: ‘Thế Tôn có được ít bệnh ít phiền, khí lực an vui, cùng các vị Bồ Tát, chúng Thanh văn hết thảy đều được an ổn chăng?’ Hãy dùng bụm hoa quý này tung rải để cúng dường Phật rồi thưa rằng: ‘Đức Phật nơi kia có danh hiệu như vậy, đồng lòng muốn mở cửa tháp báu này ra.’” Tất cả các vị Phật phân thân đều sai khiến thị giả làm giống như vậy.

[Đoạn thứ sáu nói chư Phật cùng đến, y theo kinh văn có thể hiểu được, không cần giảng giải.]

Đoạn thứ bảy từ câu “Khi ấy, mỗi vị Phật phân thân đều ngồi trên tòa sư tử...”, nói việc [chư Phật phân thân] đều muốn mở cửa tháp. Đoạn này lại có 5 tiểu đoạn.

Tiểu đoạn thứ nhất nói việc chư Phật [phân thân sai thị giả đến] thăm hỏi [Phật Thích-ca] và nói việc cùng muốn mở cửa tháp. Tiểu đoạn thứ hai nói việc đức Phật Thích-ca mở cửa tháp. Tiểu đoạn thứ ba nói việc 4 chúng đều cùng được thấy nghe. Tiểu đoạn thứ tư nói việc 2 đức Phật phân chia tòa rồi cùng ngồi. Tiểu đoạn thứ năm nêu việc 4 chúng thỉnh [Phật] gia trì [để được lên cao].

[Tiểu đoạn thứ nhất, kinh văn nói] chư Phật [phân thân] “đồng lòng muốn mở cửa tháp báu”, ý nghĩa cũng giống như trong tăng chúng thực hành pháp “dữ dục”,[114] [gửi ý kiến của mình đến trước đại chúng].

Kinh Đại tập[115] nói “có biết bao nhiêu Phật dữ dục”; kinh Hoa nghiêm cũng nói “trong mười phương có biết bao nhiêu Phật cùng thuyết kinh Hoa Nghiêm”; Đại phẩm Bát-nhã cũng nói “ngàn vị Phật cùng thuyết giảng Bát-nhã”. Nhưng những kinh ấy đều không nói chư Phật ấy là phân thân của đức Phật Thích-ca. Dựa theo kinh Pháp hoa này thì nên hiểu chư Phật đó đều là phân thân [của Phật Thích-ca]. Vì những kinh ấy còn mang giữ phương tiện [chưa phá trừ], cho nên trong lúc thuyết giảng không nêu rõ điều đó. Nay trong kinh Pháp hoa này không chỉ là nêu số lượng Phật rất nhiều, lại cũng nói rõ đó đều là phân thân [của Phật Thích-ca] và đều hiện đến để bày tỏ ý muốn [mở cửa tháp].

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, đức Phật Thích-ca Mâu-ni thấy tất cả các vị Phật phân thân đều đã tập hợp đến ngồi trên tòa sư tử, lại nghe hết thảy chư Phật đều đồng lòng muốn mở cửa tháp báu, nên liền từ chỗ ngồi đứng dậy rồi bay lên trụ yên giữa không trung. Hết thảy bốn chúng đều đứng yên chắp tay, một lòng chiêm ngưỡng Phật.

Khi ấy, đức Phật Thích-ca Mâu-ni dùng ngón tay trỏ bên phải mở cửa tháp bảy báu, liền vang lên âm thanh rất lớn, giống như lúc tháo chốt khóa mở cửa thành lớn. Ngay lập tức, toàn thể hội chúng đều nhìn thấy đức Như Lai Đa Bảo bên trong tháp báu, ngồi trên tòa sư tử, toàn thân không hư rã, như đang nhập thiền định, lại nghe tiếng Phật nói rằng: “Lành thay, lành thay! Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thuyết giảng kinh Pháp hoa này thật vui thích thay! Ta vì nghe kinh này nên mới đến nơi đây.”

Khi ấy bốn chúng thấy việc đức Phật đã diệt độ từ vô số ngàn muôn ức kiếp nói ra lời như vậy thì đều ngợi khen là chưa từng có, liền dùng rất nhiều hoa báu cõi trời tung rải lên trên thân Phật Đa Bảo và Phật Thích-ca Mâu-ni.

Bấy giờ, đức Phật Đa Bảo bên trong tháp báu liền phân chia một nửa tòa ngồi cho đức Phật Thích-ca Mâu-ni, nói rằng: “Phật Thích-ca Mâu-ni! Có thể đến đây ngồi trên tòa này.” Tức thời, đức Phật Thích-ca Mâu-ni liền vào bên trong tháp báu, ngồi kết già trên nửa tòa ngồi ấy.

Khi ấy, đại chúng nhìn thấy hai đức Như Lai cùng ngồi kết già trên tòa sư tử bên trong tháp báu thì mỗi người đều khởi lên ý nghĩ rằng: “Tòa Phật ngồi cao xa quá, kính nguyện đức Như Lai dùng sức thần thông giúp chúng con cũng được bay lên trụ yên trên cao như vậy.” Tức thời, đức Phật Thích-ca Mâu-ni dùng sức thần thông đón lấy đại chúng đưa cả lên không trung.

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Lúc bấy giờ đức Phật Thích-ca Mâu-ni thấy…” trở đi, nói việc mở cửa tháp, tức là khai thị trừ bỏ quyền thừa. Nhìn thấy Phật [Đa Bảo bên trong tháp] tức là hiển bày pháp chân thật, cũng tức là chứng minh cho phần thuyết giảng trước, lại sắp sửa mở ra thuyết giảng phần sau. “Như lúc tháo chốt khóa”, là nói căn cơ [Đại thừa] phát khởi, tháo gỡ che chướng.

[Từ tiểu đoạn thứ ba đến tiểu đoạn thứ năm, y theo kinh văn có thể hiểu được, không cần giảng giải.]

KINH VĂN

Rồi Phật cất tiếng rền vang bảo khắp bốn chúng rằng: “Những ai có thể ở cõi Ta-bà này rộng thuyết kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì nay chính là lúc thích hợp. Không bao lâu nữa Như Lai sẽ nhập Niết-bàn, nên Phật muốn có người để giao phó kinh Diệu Pháp Liên Hoa này.”

© Tổng đoạn thứ ba[116] từ câu “Rồi Phật cất tiếng rền vang bảo khắp bốn chúng…” trở đi, nêu việc đức Phật Thích-ca kêu gọi tìm người thọ trì, lưu thông kinh này.

Tổng đoạn này lại chia làm 3 đoạn. Đoạn thứ nhất là Phật cất tiếng rền vang nêu lên việc Như Lai chẳng còn ở đời lâu dài. Đoạn thứ hai nêu rõ thời điểm phó chúc, giao phó chánh pháp đã đến. Đoạn thứ ba từ câu “Phật muốn có người…” trở đi, nêu việc phó chúc cần có người. Nói “có người” nghĩa là những người mà khi Phật tại thế có thể tùy cơ duyên làm lợi ích chúng sanh, tự mình thuyết giảng chánh pháp, không cần đến người khác. Nay cơ duyên giáo hóa của Phật đã hết, muốn cho chánh pháp này tiếp tục làm lợi ích vô cùng [cho chúng sanh], nên cần phải phó chúc để lưu thông truyền rộng về sau.

Nói “có người để giao phó” lại bao gồm 2 ý. Thứ nhất là giao phó có người ở gần, tức là giao phó việc giảng thuyết truyền rộng cho 8 muôn, 2 muôn Bồ Tát[117] từ xưa đã trụ ở cõi thế giới này. Thứ hai là giao phó có người ở xa, tức là giao phó cho những đệ tử bản nguyên ở phương dưới, nhiều như số hạt bụi nhỏ trong cả ngàn thế giới, để làm cho kinh này được lưu truyền thông suốt đến khắp mọi nơi, cũng là để phát khởi ý nghĩa thọ lượng [của Như Lai].

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:

Bậc Thế Tôn Thánh Chủ,
Tuy diệt độ đã lâu,
An vị trong tháp báu,
Còn vì pháp đến đây.
Vậy đại chúng tại sao,
Không chuyên cần vì pháp?
Phật Đa Bảo diệt độ,
Đã vô số kiếp rồi,
Vẫn nghe pháp khắp nơi,
Vì chánh pháp khó gặp.
Phật xưa vốn có nguyện:
“Sau khi ta diệt độ,
Nơi nào có ta đến,
Đều chỉ vì nghe pháp.”
Lại phân thân của ta,
Là vô số chư Phật,
Nhiều như cát sông Hằng,
Đều muốn đến nghe pháp,
Cùng gặp Phật diệt độ:
Đức Như Lai Đa Bảo,
Nên bỏ cõi tốt đẹp,
Cùng các chúng đệ tử,
Chư thiên, người, long thần,
Và những việc cúng dường,
Vì chánh pháp dài lâu,
Nên cùng đến nơi này.
Vì tòa ngồi chư Phật,
Ta đã dùng thần thông,
Dời chuyển vô số chúng,
Làm cõi nước thanh tịnh.
Và hết thảy chư Phật,
Đến ngồi dưới cây báu,
Như hồ nước thanh tịnh,
Có hoa sen trang nghiêm.
Dưới gốc mỗi cây báu,
Đều có tòa sư tử,
Chư Phật ngồi trên tòa,
Trang nghiêm, đẹp, sáng tỏa,
Như giữa đêm tối tăm,
Bừng lên ngọn đuốc lớn.
Thân tỏa hương nhiệm mầu,
Khắp cõi nước mười phương,
Chúng sanh được xông ướp,
Vui không thể tự chế,
Giống như cơn gió mạnh,
Thổi lay nhánh cây nhỏ.
Dùng phương tiện như vậy,
Để pháp trụ lâu dài.

Phần kệ tụng có 48 khổ kệ, [cũng chia làm 3 tổng đoạn,] tụng lại ý nghĩa 3 tổng đoạn trong kinh văn trường hàng. Tổng đoạn thứ nhất có 3 khổ rưỡi kệ, tụng về đức Phật Đa Bảo đã diệt độ. Tổng đoạn thứ hai có 8 khổ rưỡi kệ, tụng về việc [chư Phật] phân thân [của đức Phật Thích-ca] đều tập hợp. Tổng đoạn thứ ba có 36 khổ kệ, tụng về việc đức Phật Thích-ca giao phó chánh pháp.

© Tổng đoạn thứ nhất và thứ hai đều có thể y theo kinh văn mà hiểu được, không cần giảng giải.

KINH VĂN

Thế Tôn hỏi đại chúng:
“Sau khi ta diệt độ,
Ai có thể giữ gìn,
Tụng đọc, thuyết kinh này?
Hôm nay ở trước Phật,
Nên tự phát thệ nguyện.
Như đức Phật Đa Bảo,
Tuy diệt độ đã lâu,
Nhưng do đại thệ nguyện,
Phát tiếng hộ trì pháp.
Đức Như Lai Đa Bảo,
Cùng phân thân của ta,
Các hóa Phật tựu về,
Ắt rõ thệ nguyện ấy.
Nay hết thảy Phật tử,
Ai có thể hộ pháp,
Nên phát đại thệ nguyện,
Giữ chánh pháp lâu dài.
Ai có thể giữ gìn,
Bản kinh Pháp hoa này,
Tức là đã cúng dường,
Ta và Phật Đa Bảo.
Đức Phật Đa Bảo này,
Trụ yên trong tháp báu,
Thường hiện khắp mười phương.
Ai giữ gìn kinh này,
Cũng là đã cúng dường,
Chư hóa Phật đến đây,
Làm trang nghiêm sáng đẹp,
Khắp thảy các thế giới.
Nếu thuyết giảng kinh này,
Ắt sẽ được thấy ta,
Cùng Như Lai Đa Bảo,
Và tất cả hóa Phật.

© Tổng đoạn thứ ba từ câu “Thế Tôn hỏi đại chúng” trở đi, chia thành 2 đoạn. Đoạn thứ nhất có 8 khổ rưỡi kệ, nêu ra “ba Phật” gồm Phật Đa Bảo, Phật Thích-ca và các vị phân thân Phật, để khuyến khích việc lưu thông kinh này. Đoạn thứ hai có 27 khổ rưỡi kệ, nêu việc thọ trì giữ gìn kinh Pháp hoa này là rất khó để khuyến khích lưu thông.

Đoạn thứ nhất lại có 3 tiểu đoạn.

Tiểu đoạn thứ nhất gồm 1 khổ rưỡi kệ nêu việc đức Phật kêu gọi tìm người [giao phó lưu truyền kinh này].

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Như đức Phật Đa Bảo” trở đi gồm 3 khổ kệ, cũng nêu “ba Phật” để khuyến khích việc thọ trì gìn giữ kinh này.

Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Ai có thể giữ gìn” trở đi gồm 4 khổ kệ, nói việc thường thọ trì kinh này tức là cúng dường “ba Phật” cùng được thấy “ba Phật” để giải thích ý nghĩa khuyến khích thọ trì kinh này.

KINH VĂN

Này các thiện nam tử!
Hãy suy xét thật kỹ,
Việc này rất khó khăn,
Cần phát khởi đại nguyện.
Bao nhiêu kinh điển khác,
Nhiều như cát sông Hằng,
Tuy thuyết giảng tất cả,
Chưa đủ gọi là khó.
Nắm lấy núi Tu-di,
Mang đặt ở phương khác,
Cách vô số cõi Phật,
Cũng chưa gọi là khó.
Hoặc dùng một ngón chân,
Hất tung cõi đại thiên,
Văng xa đến cõi khác,
Cũng chưa gọi là khó.
Lên cõi trời Hữu đỉnh,1
Vì đại chúng thuyết giảng,
Vô số những kinh khác,
Cũng chưa gọi là khó.
Sau khi Phật diệt độ,
Ở trong đời xấu ác,
Có thể thuyết kinh này,
Mới thực sự là khó.
Ví như có một người,
Tay nắm được hư không,
Mang đi khắp đó đây,
Cũng chưa gọi là khó.
Sau khi ta diệt độ,
Tự sao chép kinh này,
Hoặc bảo người khác chép,
Mới thực sự là khó.
Có thể đặt cõi đất,
Trên đầu một móng chân,
Bay lên cõi Phạm thiên,
Cũng chưa gọi là khó.
Sau khi Phật diệt độ,
Ở trong đời xấu ác,
Đọc kinh này chốc lát,
Mới thực sự là khó.
Gặp tai kiếp lửa thiêu,
Mà gánh vác cỏ khô,
Vào lửa không bị cháy,
Cũng chưa gọi là khó.
Sau khi Phật diệt độ,
Nếu trì tụng kinh này,
Vì một người giảng thuyết,
Mới thực sự là khó.
Nếu trì tụng tám muôn
Với bốn ngàn pháp tạng,
Mười hai thể loại kinh,
Vì người khác giảng thuyết,
Giúp cho người nghe kinh,
Đều được sáu thần thông.
Tuy làm được như vậy,
Cũng chưa gọi là khó.
Sau khi Phật diệt độ,
Nghe, tin nhận kinh này,
Thưa hỏi về nghĩa lý,
Mới thực sự là khó.
Như có người thuyết pháp,
Giúp cho ngàn muôn ức,
Đến vô số chúng sanh,
Nhiều như cát sông Hằng,
Đều chứng A-la-hán,
Đầy đủ sáu thần thông.
Dù hữu ích như thế,
Cũng chưa gọi là khó.
Sau khi Phật diệt độ,
Nếu kính vâng thọ trì,
Bản kinh Pháp hoa này,
Mới thực sự là khó.
Ta vì truyền Phật đạo,
Ở vô số cõi nước,
Từ thuở xưa đến nay,
Rộng thuyết nhiều kinh điển,
Nhưng trong những kinh ấy,
Pháp hoa là bậc nhất.
Nếu gìn giữ kinh này,
Là giữ gìn thân Phật.

Đoạn thứ hai từ câu “Này các thiện nam tử” trở đi, có 27 khổ rưỡi kệ nêu việc thọ trì gìn giữ kinh này là rất khó để khuyến khích sự lưu thông.

Đoạn này lại có 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất gồm 20 khổ kệ, nêu ý chính khuyến khích [sự lưu thông kinh]. Tiểu đoạn thứ hai gồm 7 khổ rưỡi kệ, giải thích ý nghĩa phần khuyến khích.

Tiểu đoạn thứ nhất lại có 3 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất gồm 1 khổ kệ nêu ý khuyên răn.

Phân đoạn thứ hai từ câu “Bao nhiêu kinh điển khác” trở đi có 17 khổ kệ, nêu ý chính là việc thọ trì giữ gìn kinh này rất khó để khuyến khích lưu thông.

Phân đoạn thứ ba từ câu “Ta vì truyền Phật đạo” trở đi có 2 khổ kệ, giải thích ý nghĩa việc thọ trì giữ gìn kinh này rất khó. Nếu ai có thể thọ trì giữ gìn kinh này tức là giữ gìn thân Phật, ý nghĩa như vậy thì làm sao có thể là dễ dàng được.

KINH VĂN

Này các thiện nam tử!
Sau khi ta diệt độ,
Ai có thể thọ trì,
Tụng đọc kinh điển này,
Thì nay ở trước Phật,
Hãy tự phát thệ nguyện.
Kinh này khó thọ trì,
Ai thọ trì chốc lát,
Đủ làm ta hoan hỷ,
Chư Phật cũng đều vui.
Người làm được như vậy,
Chư Phật đều khen ngợi.
Đó chính là dũng mãnh,
Đó chính là tinh tấn,
Cũng chính là trì giới,
Là tu hạnh đầu đà,1
Ắt sẽ được nhanh chóng,
Thành tựu đạo Vô thượng.
Ở trong đời tương lai,
Đọc, thọ trì kinh này,
Đúng thật là Phật tử,
Ở địa vị thuần thiện.
Sau khi Phật diệt độ,
Thường giảng giải kinh này,
Thì là mắt nhìn thay
Cho trời, người thế gian.
Giữa đời nhiều khiếp sợ,
Thuyết kinh này chốc lát,
Cũng đủ để trời, người,
Đều nên đến cúng dường.

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Này các thiện nam tử” trở đi gồm 7 khổ rưỡi kệ, nêu việc có thể thọ trì giữ gìn [kinh này vốn] khó thọ trì giữ gìn thì có thể thành tựu công đức thù thắng, để giải thích ý nghĩa khuyến khích.

Tiểu đoạn này lại có 3 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất có 1 khổ rưỡi kệ, lặp lại lời kêu gọi khuyên người thọ trì kinh.

Phân đoạn thứ hai từ câu “Kinh này khó thọ trì” trở đi gồm 1 khổ rưỡi kệ nêu rõ việc ai có thể thọ trì pháp khó thọ trì ắt sẽ được chư Phật hoan hỷ ngợi khen xưng tán.

Phân đoạn thứ ba từ câu “Đó chính là dũng mãnh” trở đi, có 4 khổ rưỡi kệ, nêu rõ việc có thể thọ trì chánh pháp khó thọ trì tức là thành tựu công hạnh thù thắng. Công hạnh thù thắng lại có 2 ý nghĩa là tự mình được thù thắng và giúp người khác trở nên thù thắng.

“Giữa đời nhiều khiếp sợ”, tiếng Phạn gọi là sa-bội, Hán ngữ dịch là “khủng úy”, nhiều khiếp sợ. Cũng như tiếng Phạn gọi là bạt-đà, Hán ngữ dịch là Hiền kiếp,[118] chỉ là cách gọi tên khác nhau.

12. Giải thích phẩm Đề-bà-đạt-đa

KINH VĂN

Phẩm Đề-bà-đạt-đa, thứ mười hai

Giải thích tên phẩm

Khi Đề-bà-đạt-đa sanh ra, hàng trời, người đều thấy trong lòng nóng bức, nhân đó mà đặt tên như vậy.[119] Đây là giải thích tên gọi theo nhân duyên.

Tạo tác nhân trái nghịch nhưng theo lý thì thuận, tức là giải thích theo Viên giáo, không phải ý nghĩa theo các giáo pháp khác.

Bản địa từ xưa vốn trong trẻo mát mẻ, hình tích thị hiện chư thiên nóng bức, là để cho đồng với bịnh của chúng sanh.

Mục lục kinh điển của ngài Bảo Xướng[120] nói kinh Pháp hoa có 4 bản dịch, hiện còn 2 bản, đã mất 2 bản. Một bản do ngài Đàm-ma-la-sa (Dharmarakṣa), Hán dịch là Pháp Hộ (法護), dịch tại Trường An vào đời Tây Tấn (265-316), gọi là kinh Chánh Pháp hoa.[121] Ngài Pháp Hộ [chuyển dịch kinh này có] nhiều chỗ diễn giảng rộng, lại chọn lựa cắt bỏ một số nơi.

Ngài Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva), Hán dịch là Đồng Thọ (童壽), người nước Quy Tư, niên hiệu Hoằng Thủy thứ năm (403), vào ngày 23 tháng 4, tại Tiêu Dao Viên ở Trường An dịch xong Đại phẩm Bát-nhã.[122] Đến mùa hè niên hiệu Hoằng Thủy thứ tám (406), tại chùa Thảo Đường dịch kinh Diệu Pháp Liên Hoa này, bảo ngài Tăng Duệ giảng giải. Ngài Tăng Duệ [khi giảng giải] phân chia toàn kinh ra 9 khoa mục.[123] Vào thời ấy kinh này có 28 phẩm, vì cung nhân trong cung Trường An thỉnh riêng phẩm [Đề-bà-đạt-đa] này lưu giữ trong nội cung, nên khi lưu truyền đến Giang Đông chỉ còn 27 phẩm, [không có phẩm này].[124]

Đời nhà Lương (502-557) có Mãn Pháp sư giảng kinh này 100 lượt, rồi tự thiêu ở quận Trường Sa. [Pháp sư giảng kinh] vẫn đặt phẩm này ở trước phẩm Khuyến khích thọ trì, nhưng đây chỉ là tự sắp xếp theo ý riêng, chưa được lưu hành rộng rãi. Đến đời Trần (557-589), có thiền sư Nam Nhạc[125] xếp phẩm này ngay sau phẩm Hiện tháp báu. Về sau, đối chiếu với kinh Chánh Pháp hoa thì hoàn toàn tương hợp. Ngày nay thiên hạ thống nhất,[126] tìm lại được bản dịch cũ ở Trường An [thấy sắp xếp đúng như vậy], nên mới biết 2 bậc thầy nói trên đều hiểu sâu ý kinh.

Đề-bà-đạt-đa (Devadatta) cũng phiên âm là Đề-bà-đạt-đâu (提婆達兜), Hán dịch là Thiên Nhiệt. Đề-bà-đạt-đa phá hoại tăng đoàn, dẫn 500 vị tỳ-kheo đi nơi khác. Ngài Xá-lợi-phất làm cho Đề-bà-đạt-đa ngủ say, Rồi ngài Mục-kiền-liên [đặt 500 vị tỳ-kheo này lên bàn tay] mang trở về tinh xá.[127] Lúc Đề-bà-đạt-đa thức giấc liền phát lời thề phải báo mối thù này. Về sau, Đề-bà-đạt-đa lăn tảng đá lớn đến 30 khuỷu tay, chiều ngang 15 khuỷu tay [từ trên núi xuống] để hại Phật. Thần núi đưa tay chặn lại, có viên đá nhỏ văng ra trúng vào chân Phật làm chảy máu. Đề-bà-đạt-đa còn xúi giục vua A-xà-thế thả con voi say ra để giẫm chết Phật [nhưng voi chạy đến quỳ trước Phật]. Đề-bà-đạt-đa cũng dùng tay đánh chết tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắc. Đề-bà-đạt-đa lại bôi thuốc độc vào 10 đầu móng tay, dự định khi đảnh lễ sát dưới chân Phật sẽ [dùng móng tay] gây thương tích cho Phật [để Phật nhiễm độc mà chết, nhưng chân Phật không hề thương tổn].

[Những việc Đề-bà-đạt-đa làm] là 5 tội nghịch, nếu kể là 3 tội nghịch thì những việc xúi giục vua [thả voi say,] bôi thuốc độc vào đầu móng tay cùng việc [lăn đá] để hại Phật có thể gộp chung thành một tội.[128] Do những việc này mà gọi là việc làm trái nghịch.

Vào lúc Đề-bà-đạt-đa sanh ra, chư thiên và loài người đều thấy trong lòng nóng bức, theo đó mà đặt tên nên gọi là Thiên Nhiệt. Đây là hình tích thị hiện. Nếu giải thích theo bản nguyên thì chúng sanh nhiều phiền não nên Bồ Tát thị hiện nóng bức, đồng bệnh như chúng sanh để cứu độ.

Phẩm này có dụng ý dẫn việc truyền bá kinh Pháp hoa từ thuở xưa đã lợi ích, không phải việc sai lầm, chứng minh cho việc ngày nay tuyên giảng giáo hóa là chứng nghiệm được, không hề hư dối. Nêu việc thuở trước để khuyến khích việc ngày nay, khiến cho kinh này được lưu truyền thông suốt rộng khắp.

Kinh văn chia làm 2 phần.

Phần thứ nhất từ đầu phẩm cho đến hết câu “nếu sanh ra trước Phật thì hóa sanh từ hoa sen”, nêu việc ngày xưa Đề-bà-đạt-đa truyền bá lưu thông kinh này, [nhờ đó] đức Phật Thích-ca thành đạo.

Phần thứ hai từ câu “Lúc bấy giờ, có vị Bồ Tát từ phương dưới theo hầu đức Thế Tôn Đa Bảo” trở đi, nêu việc hiện tại ngài Văn-thù-sư-lợi truyền bá lưu thông kinh này, [nhờ đó] Long nữ thành Phật.

Việc thọ nhận tu hành theo giáo pháp này còn được như vậy, thì lợi ích và công đức của việc giảng giải truyền bá lưu thông kinh này có lẽ nào lại không lớn lao? Cho nên Đề-bà-đạt-đa được thụ ký [sẽ thành Phật]. Trường hợp ngài Văn-thù-sư-lợi, cứ dựa theo ý nghĩa đó có thể biết được. Đại lược là như vậy.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo các vị Bồ Tát cùng chư thiên, loài người và bốn chúng: “Trong quá khứ, ta trải qua vô số kiếp tìm cầu kinh Pháp hoa này, không hề biếng trễ mỏi mệt.[129] Trong nhiều kiếp ta thường sanh làm bậc quốc vương, phát nguyện cầu đạo Vô thượng Bồ-đề, tâm không thối chuyển. Vì muốn tu tập trọn đủ sáu pháp ba-la-mật nên ta chuyên cần tu hạnh bố thí với tâm không tham tiếc keo lận, từ voi ngựa, bảy món báu, đất nước, thành quách, vợ con, nô tỳ, người hầu hạ, cho đến đầu, mắt, tủy, não, thân thể, xương thịt, tay chân, thậm chí không tiếc cả mạng sống.

“Vào thời ấy, người dân sống lâu đến vô số kiếp. Ta vì cầu pháp nên từ bỏ ngôi vua, giao việc trị nước cho thái tử, đánh trống truyền rao khắp bốn phương để cầu chánh pháp: ‘Nếu ai có thể vì ta thuyết giảng pháp Đại thừa, ta sẽ suốt đời lo việc cung cấp, phục dịch cho người ấy.’

“Lúc bấy giờ có một vị tiên đến nói rằng: ‘Ta có pháp Đại thừa là kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Nếu vua không trái lời, ta sẽ thuyết giảng cho nghe.’ Vua nghe vị tiên ấy nói thì vui mừng phấn khích, lập tức đi theo, cung cấp đủ mọi nhu cầu, phục dịch mọi việc như hái trái cây, lấy nước, nhặt củi, dọn ăn, cho đến dùng chính thân mình để làm giường ghế, thân tâm không hề mỏi mệt. Phụng sự như vậy trải qua ngàn năm. Vua vì cầu pháp nên tinh tấn chuyên cần hầu hạ, cung cấp cho vị tiên không để thiếu thốn.”

Phần thứ nhất có 3 tổng đoạn. Tổng đoạn thứ nhất, nêu tướng trạng thầy trò truyền nhận kinh [Pháp hoa] này thuở trước. Tổng đoạn thứ hai, nêu mối liên kết giữa thuở xưa và ngày nay. Tổng đoạn thứ ba là khuyến khích sự tin nhận.

© Tổng đoạn thứ nhất có kinh văn trường hàng và kệ tụng.

Kinh văn trường hàng lại có 4 đoạn. Đoạn thứ nhất nêu chung về thời điểm cầu pháp. Đoạn thứ hai, từ câu “trải qua vô số kiếp” trở đi nêu rõ về việc cầu pháp. Đoạn thứ ba là từ câu “Lúc bấy giờ có một vị tiên” trở đi, nêu việc tìm cầu được pháp sư. Đoạn thứ tư từ câu “Vua nghe vị tiên ấy nói…” trở đi nêu việc thọ nhận giáo pháp, cung kính y theo đó tu hành.

Đoạn thứ nhất y theo kinh văn có thể hiểu được, [không cần giải thích].

Đoạn thứ hai từ câu “ta trải qua vô số kiếp” trở đi, chia làm 2 tiểu đoạn.

Tiểu đoạn thứ nhất nêu việc phát nguyện [cầu pháp].

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “vì muốn tu tập trọn đủ” trở đi, nêu rõ việc tu hành, lại có 2 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất nói việc vì muốn trọn đủ pháp bố thí ba-la-mật nên chuyên cần thực hành bố thí, y theo kinh văn có thể hiểu được [không cần giảng giải].

Phân đoạn thứ hai từ câu “Vào thời ấy, người dân sống lâu đến vô số kiếp” trở đi, nêu việc vì muốn trọn đủ pháp Bát-nhã [ba-la-mật] nên cố tìm cầu diệu pháp.

KINH VĂN

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:

Ta nhớ đời quá khứ,
Vì cầu pháp Đại thừa,
Nên tuy làm quốc vương,
Không tham năm món dục.
Truyền rao khắp bốn phương,
Ai biết pháp Đại thừa,
Nếu vì ta thuyết giảng,
Sẽ theo làm tôi tớ.
Có vị tiên A-tư,
Tìm đến bảo vua rằng:
“Ta có pháp nhiệm mầu,
Thế gian này hiếm có.
Nếu có thể tu tập,
Ta sẽ vì vua thuyết.”

Phần kệ tụng có 7 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa trong kinh văn trường hàng, [chia làm 5 đoạn].

Đoạn thứ nhất gồm 2 câu đầu, tụng lại ý nghĩa đoạn thứ nhất trong kinh văn trường hàng, nêu thời điểm cầu pháp.

Đoạn thứ hai gồm 1 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa đoạn thứ hai ở trước, nêu rõ việc cầu pháp.

Đoạn thứ ba từ câu “Có vị tiên A-tư” trở đi, gồm 1 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý nghĩa đoạn thứ ba ở trước, nói việc gặp được bậc thầy thuyết pháp.

KINH VĂN

Vua nghe vị tiên nói,
Trong lòng rất mừng vui,
Lập tức đi theo hầu,
Cung cấp đủ mọi thứ,
Nhặt củi, hái trái cây,
Thường cung kính phụng sự.
Lòng mong cầu diệu pháp,
Thân tâm không mỏi mệt.
Rộng vì khắp chúng sanh,
Chuyên cần cầu Đại thừa.
Không vì tự thân mình,
Không tham năm món dục.
Nên làm đại quốc vương,
Chuyên cần được pháp này,
Dần đạt đến quả Phật,
Nay vì các ông thuyết.

Đoạn thứ tư từ câu “Vua nghe vị tiên nói” trở đi, gồm 2 khổ rưỡi kệ, tụng về việc thọ nhận giáo pháp, vâng làm theo.

Đoạn thứ năm từ câu “Không vì tự thân mình” trở đi, gồm 1 khổ rưỡi kệ, tóm kết lại để chứng minh và khuyến khích tin nhận.

KINH VĂN

Đức Phật bảo các vị tỳ-kheo: “Đức vua thời ấy nay chính là ta, vị tiên thời ấy nay chính là Đề-bà-đạt-đa. Nhờ bậc thiện tri thức Đề-bà-đạt-đa nên ta mới tu tập được trọn đủ sáu pháp ba-la-mật, [bốn tâm vô lượng] từ bi hỷ xả, đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, thân thể sáng đẹp màu vàng tía,[130] đủ mười trí lực, bốn pháp vô sở úy, bốn pháp nhiếp phục,[131] mười tám pháp không chung cùng,[132] đủ thần thông đạo lực, thành bậc Chánh đẳng giác, rộng độ chúng sanh. Tất cả đều nhờ thiện tri thức Đề-bà-đạt-đa mà đạt được.”

© Tổng đoạn thứ hai từ câu “Đức Phật bảo các vị tỳ-kheo: Đức vua thời ấy nay chính là ta…” trở đi, nêu mối liên kết giữa thuở xưa và ngày nay. Kinh văn chia làm 2 đoạn.

Đoạn thứ nhất nêu rõ mối liên kết giữa xưa và nay, y theo kinh văn có thể hiểu được.

Đoạn thứ hai từ câu “Nhờ bậc thiện tri thức Đề-bà-đạt-đa…” trở đi, nêu rõ công đức, quả báo của thầy và đệ tử đều được trọn đủ. Đoạn này lại có 2 tiểu đoạn.

Tiểu đoạn thứ nhất nêu việc đệ tử tạo nhân [tu hành] được quả báo trọn đủ.

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Đức Phật nói với bốn chúng…” trở đi, nêu quả nhiệm mầu của pháp sư là sẽ thành tựu [quả Phật].

Tiểu đoạn thứ nhất nêu việc đệ tử lại có 3 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất nêu việc tu nhân trọn đủ.

Phân đoạn thứ hai từ câu “đủ 32 tướng tốt…” trở đi, nêu rõ việc được quả viên mãn.

Phân đoạn thứ ba, từ câu “Tất cả đều nhờ thiện tri thức Đề-bà-đạt-đa…” là kết luận chứng minh lợi ích thành tựu là nhờ việc lưu truyền thông suốt kinh này.

Phân đoạn thứ nhất, kinh văn nói “trọn đủ 6 pháp ba-la-mật”. [Ba-la-mật, Hán dịch là] độ (度), có rất nhiều ý nghĩa. Như luận Đại trí độ nói: “Xả bỏ cả y báo, chánh báo gọi là bố thí [ba-la-mật]; ngăn ngừa, chặn đứng 7 nghiệp xấu ác[133] gọi là trì giới [ba-la-mật]; [bị người khác] đánh đập chửi mắng không đáp trả gọi là nhẫn nhục [ba-la-mật]; làm việc gì đã khởi sự thì theo đuổi đến cùng gọi là tinh tấn [ba-la-mật]; tu tập 4 tầng thiền,[134] 8 loại định[135] gọi là thiền [ba-la-mật]; dứt hết phân biệt gọi là bát-nhã [ba-la-mật].”

Lại nữa, nếu gom 10 nghiệp thiện thành 6 điều thì [tương ứng] từ không giết hại đến không nói dối là bố thí [ba-la-mật]; không nói hai lưỡi là trì giới [ba-la-mật]; không nói lời ác độc là nhẫn nhục [ba-la-mật]; không nói lời thêu dệt là tinh tấn [ba-la-mật]; không tham, không sân là thiền [ba-la-mật]; không tà kiến là bát-nhã [ba-la-mật].

Kinh Bồ Tát Thiện Giới, quyển 10[136] nói rằng: “Sáu ba-la-mật có 3 loại.

“Thứ nhất là nghĩa đối trị, tức là [dùng bố thí ba-la-mật để đối trị với] tham lam keo kiệt, [trì giới ba-la-mật đối trị] hung ác, [nhẫn nhục ba-la-mật đối trị] sân hận, [tinh tấn ba-la-mật đối trị] lười nhác, [thiền định ba-la-mật đối trị] tán loạn, [bát-nhã ba-la-mật đối trị] ngu si v.v.

“Thứ hai là nghĩa tương sanh, tức là vì từ bỏ gia đình nên trì giới; gặp việc sỉ nhục nên nhẫn chịu; do nhẫn được nên tinh tấn; nhờ tinh tấn nên điều hòa được 5 căn; nhờ căn điều phục nên rõ biết pháp giới.

“Thứ ba là nghĩa quả báo, tức là [do tu tập 6 ba-la-mật mà được quả báo] giàu có, đầy đủ hình sắc, sức lực, thọ mạng lâu dài, đời sống an ổn, có tài biện luận...”

Lại nữa, các kinh khác nói rằng quả báo của bố thí là giàu có, quả báo của giữ giới là sanh vào cõi tốt lành, quả báo của nhẫn nhục là [thân hình] đoan chánh, quả báo của tinh tấn là thần thông, quả báo của thiền định là sanh cõi trời, quả báo của trí tuệ là phá trừ phiền não.

Như trên đều là dựa theo Tạng giáo để nêu hình tướng của 6 ba-la-mật.

Nếu [thực hành bố thí mà] người bố thí, người nhận bố thí và tài vật bố thí, cả 3 việc ấy đều là không nên gọi là bố thí [ba-la-mật]; không thấy có việc trì giới, phạm giới nên gọi là trì giới [ba-la-mật]; người nhẫn nhục với đối tượng nhẫn nhục đều không thể nắm bắt nên gọi là nhẫn nhục [ba-la-mật]; thân tâm không dao động gọi là tinh tấn [ba-la-mật]; tâm không tán loạn, không đắm chấp thiền vị gọi là thiền; không phải trí, chẳng phải ngu gọi là bát-nhã. Giải thích như vậy tức là nêu hình tướng của 6 ba-la-mật trong Thông giáo.

Nếu nói về bố thí thì có 10 lợi ích: điều phục tâm tham lam keo kiệt, phiền não; duy trì được tâm buông xả không bám chấp; có đủ vốn liếng sản nghiệp như chúng sanh; thường được sanh vào nhà giàu có; đời đời sanh ra đều sẵn có tâm bố thí; được bốn chúng yêu mến ưa thích; ở giữa đại chúng không khiếp sợ; thanh danh tốt đẹp vang khắp mọi nơi; hình thể tay chân mềm mại; cho đến trước khi ngồi đạo tràng [thành Chánh giác], thường được gặp gỡ gần gũi những bậc thiện tri thức.

Trì giới có 10 lợi ích: đầy đủ tất cả trí; theo chỗ học của Phật; trí sáng suốt không hủy; thệ nguyện kiên cố không thối thất; an trụ nơi hạnh nguyện; xả bỏ sanh tử; vui chuộng Niết-bàn; được tâm không trói buộc; đạt được pháp tam-muội thù thắng; không thiếu thốn tài sản quý là đức tin.

Nhẫn nhục có 10 lợi ích: các nạn lửa cháy, đao binh, nước lụt, thuốc độc đều không thể gây hại; được hàng phi nhân theo giúp đỡ bảo vệ; được thân tướng trang nghiêm; không sanh vào các cảnh giới xấu ác; được sanh lên cõi trời Phạm thiên; ngày đêm tâm thường an ổn; thân lúc nào cũng được an vui.

Tinh tấn có 10 lợi ích: không thể bị người khác khuất phục; được chư Phật giúp đỡ; được hàng phi nhân theo bảo vệ; nghe chánh pháp không quên mất; những pháp chưa nghe có thể được nghe; tài biện luận phát triển; đạt được tánh Tam-muội; ít bệnh tật phiền não; ăn món gì cũng có thể tiêu hóa tốt; được sự tăng trưởng tốt đẹp như hoa ưu-bát-la.

Thiền định có 10 lợi ích: an trụ nơi nghi thức; thực hành trong cảnh giới của tâm từ; không nóng nảy bức rức vì hối hận lỗi lầm; thường giữ gìn bảo vệ các căn [không buông thả]; có được [thức ăn là] niềm vui [thiền định] không cần ăn uống; xa lìa được ái dục; tu tập thiền định nhưng không rơi vào chỗ trống không; giải thoát khỏi sự trói buộc của ma; an trụ trong cảnh giới Phật; thành thục sự giải thoát.

Trí bát-nhã có 10 lợi ích: giúp buông xả không bám chấp nơi hình tướng bố thí; không phụ thuộc vào giới; không trụ nơi sức nhẫn nhục; không lìa sự tinh tấn nơi thân tâm; thiền không có chỗ trụ; ma không thể nhiễu hại; không dao động vì lời nói luận bàn của kẻ khác; thấu suốt đến tận cội nguồn sanh tử; phát khởi tâm từ lớn rộng; không ham thích các quả vị Nhị thừa.

Có 4 lý do nên thực hành bố thí. Thứ nhất là người tu tập bố thí phá trừ được tâm tham lam keo kiệt; thứ hai là [dùng công đức đó] trang nghiêm quả vị Bồ-đề; thứ ba là cả mình và người khác đều được lợi ích: từ lúc khởi tâm, lúc bố thí, cho đến lúc bố thí xong, trong lòng đều hoan hỷ, nên gọi là lợi mình, giúp cho người đói khát không còn đói khát, nên gọi là lợi cho người khác; thứ tư là đời sau được quả báo tốt lành lớn lao, địa vị tôn quý, dồi dào tài sản của cải.

Có 4 lý do nên thực hành trì giới. Thứ nhất, [người trì giới] là tự mình tu tập thiện lành, diệt trừ những điều xấu ác trái giới luật; thứ hai là [dùng công đức ấy] trang nghiêm quả vị Bồ-đề, nhiếp hóa chúng sanh; thứ ba, khi ngủ lúc thức đều yên ổn, trong tâm không có sự hối hận; thứ tư là đối với chúng sanh không có tâm hãm hại, đời sau thọ nhận quả báo nơi 2 cõi trời người, được hưởng niềm vui Niết-bàn.

Có 4 lý do nên thực hành nhẫn nhục. Thứ nhất, người tu nhẫn nhục trừ được tâm không nhẫn chịu; thứ hai, [dùng công đức ấy] trang nghiêm quả vị Bồ-đề, nhiếp hóa chúng sanh; thứ ba, dù ở nơi đâu cũng không sợ sệt; thứ tư, đời sau sanh ra không có tâm sân hận, quyến thuộc không chia rẽ, không phải chịu khổ não, được hưởng những niềm vui trong cõi người, cõi trời và cảnh giới Niết-bàn.

Có 4 lý do nên tu tập tinh tấn. Thứ nhất, [người tu tập] tinh tấn phá trừ được sự giải đãi lười nhác, [dùng công đức ấy] trang nghiêm quả vị Bồ-đề, nhiếp hóa chúng sanh; thứ hai, pháp lành được tăng trưởng là tự lợi; thứ ba, không gây não hại người khác là lợi tha; thứ tư, về sau được sức lực lớn lao đạt đến quả vị Bồ-đề.

Có 4 lý do nên tu tập thiền định. Thứ nhất, [người tu tập] thiền định phá trừ được tâm tán loạn, [dùng công đức ấy] trang nghiêm quả vị Bồ-đề, nhiếp hóa chúng sanh; thứ hai, đạt được thân tâm tịch tĩnh là tự lợi; thứ ba, không gây não hại chúng sanh là lợi tha; về sau đạt được thân thanh tịnh, an ổn đạt đến Niết-bàn.

Có 4 lý do nên tu tập trí bát-nhã. Thứ nhất, [người tu tập] trí tuệ bát-nhã phá trừ vô minh, [dùng công đức ấy] trang nghiêm quả vị Bồ-đề, nhiếp hóa chúng sanh; thứ hai, trí tuệ tự mình đạt được niềm vui là tự lợi; thứ ba, có thể giáo hóa chúng sanh là lợi tha; thứ tư, có thể diệt trừ phiền não, trí chướng... là được kết quả lớn lao.

Những giải thích như trên là dựa theo Biệt giáo để nêu hình tướng của 6 ba-la-mật.

Kinh Đại tập, phần Nguyệt Tạng, phẩm thứ nhất[137] nói rằng: “Nếu chúng sanh chỉ duy nhất dựa vào sự tụng đọc để cầu quả vị Bồ-đề thì đó là người đắm chấp trong thế tục, phiền não của tự thân mình còn không thể điều phục, làm sao có thể điều phục phiền não của người khác? Người như vậy đắm chấp danh lợi, phú quý, ganh ghét, đố kỵ, tâm tánh cao ngạo, tự cho mình đúng, khinh mạn hủy báng người khác, đối với căn lành nơi cõi Dục còn không đạt được, huống chi là căn lành ở cõi Sắc hay cõi Vô sắc, huống chi là quả vị Bồ-đề của hàng Nhị thừa, huống chi là quả Vô thượng Bồ-đề?”

Cũng như sức nóng của ngôi sao không thể làm khô biển cả, luồng hơi từ miệng thổi ra không thể làm lay động ngọn núi, cọng tơ ngó sen không thể dùng cân sức nặng của núi lớn, những gì là thế tục không thể làm cho trọn đủ quả vị Bồ-đề. Những gì là đệ nhất nghĩa? Đó là nói tạo tác tất cả những việc phước lành. Nếu người tu sửa thân, tu sửa tâm, tu trí tuệ mà vận dụng đệ nhất nghĩa để kiên trì tu tập thì sẽ mau chóng trọn đủ 6 pháp ba-la-mật. Trong khi đi đứng nằm ngồi thường buông xả mọi phan duyên, vọng tưởng, đó là bố thí ba-la-mật; buông xả phan duyên chẳng phạm là trì giới ba-la-mật; ở nơi cảnh giới chẳng sanh ung bướu nhọt độc là nhẫn nhục ba-la-mật; không xả bỏ chỗ xa lìa là tinh tấn ba-la-mật; ở trong sự việc không lúc nào buông lung tâm ý là thiền ba-la-mật; đối với các pháp thể tánh không sanh là bát-nhã ba-la-mật.

Lại nữa, đối với 5 ấm trong tâm thường buông xả là bố thí ba-la-mật, không tính kể nhớ nghĩ là trì giới ba-la-mật, không khởi ý tưởng tự ngã là nhẫn nhục ba-la-mật, luôn khởi ý tưởng xem 5 ấm như kẻ oán địch là tinh tấn ba-la-mật, không bị nóng nảy thiêu đốt bởi 5 ấm là thiền ba-la-mật, buông bỏ rốt ráo 5 ấm là bát-nhã ba-la-mật.

Đối với 18 giới thường buông xả là bố thí ba-la-mật, không để cho các giới nhiễu loạn nhiễm trược là trì giới ba-la-mật, buông xả mọi nhân duyên với các giới là nhẫn nhục ba-la-mật, đối với mỗi giới trong 18 giới đều buông xả là tinh tấn ba-la-mật, đối với các giới không khởi phát là thiền ba-la-mật, đối với cảnh giới khởi ý tưởng xem như huyễn hóa là bát-nhã ba-la-mật.

Những điều như trên gọi là pháp tinh yếu hết sức thâm sâu của đệ nhất nghĩa đế, phương tiện khéo léo, có thể làm cho trọn đủ 6 ba-la-mật. Dùng pháp này để tự thực hành và làm cho người khác. Các vị Bồ Tát trong quá khứ, hiện tại và tương lai đều tu tập pháp này mà thành tựu quả vị Bồ-đề, cho nên không phải pháp thế tục. Pháp này có công năng dứt trừ phiền não của chúng sanh, dẫn dắt chúng sanh từ con đường khổ đau đi đến đạo Bồ-đề.

Kinh Hoa Nghiêm đến giai vị thất địa mới nêu việc [hành giả] trong mỗi một niệm đều trọn đủ 10 ba-la-mật. Tu tập tất cả pháp Phật, đem căn lành cầu Phật đạo, ban cho tất cả chúng sanh, đó là bố thí ba-la-mật. Có khả năng diệt trừ tất cả nóng nảy phiền não là trì giới ba-la-mật. Không gây tổn hại đối với tất cả chúng sanh là nhẫn nhục ba-la-mật. Thường cầu việc lành không chán mệt là tinh tấn ba-la-mật. Tu tập đạo pháp tâm không tán loạn, thường hướng đến cầu Nhất thiết trí là thiền định ba-la-mật. Tu tập pháp môn nhẫn chịu các pháp không sanh là bát-nhã ba-la-mật. Thường sanh khởi vô lượng môn trí tuệ là phương tiện ba-la-mật. Cầu chuyển hóa trí tuệ thù thắng là nguyện ba-la-mật. Oán ma tà đạo không thể ngăn trở là lực ba-la-mật. Đối với tất cả tướng của pháp đều nói đúng thật là trí ba-la-mật. Như vậy là trọn đủ 10 ba-la-mật.

Trong mỗi một niệm đều trọn đủ bốn nhiếp pháp, các đạo phẩm, ba phẩm tính giải thoát, cùng hết thảy các pháp trợ giúp đạo Bồ-đề; trong mỗi một niệm đều trọn đủ các giai vị tu tập; đạt được giai vị như vậy là thù thắng.

Những giải thích như trên là dựa theo Viên giáo để nêu hình tướng của 6 ba-la-mật.

Phân đoạn thứ hai từ câu “đủ 32 tướng tốt” trở đi là nêu quả tu hành viên mãn. 32 tướng là bao gồm các tướng như sau.

Lòng bàn chân bằng phẳng như đáy hộp;[138] mu bàn chân cong nhô lên như mu rùa.[139] Hai tướng này đều do tu một hạnh lành là kiên cố bố thí.

Dưới lòng bàn chân có xoáy hình bánh xe ngàn nan hoa.[140] Tướng này chỉ do tu một hạnh lành là an ủi người đang khiếp sợ, kinh hãi.

Gót chân tròn, đầy đặn;[141] ngón tay dài;[142] thân thể ngay ngắn cân đối, dang tay ra có chiều ngang bằng thân mình.[143] Ba tướng này cùng do tu một hạnh lành là giữ giới không giết hại.

Bảy chỗ trên thân đầy đặn, tức là dưới 2 chân, nơi 2 tay, 2 vai và ở cổ.[144] Tướng này do tu một hạnh lành là thường làm thí chủ [cúng dường].

Ngón tay và ngón chân có màng mỏng nối lại,[145] tay chân đều mềm mại.[146] Hai tướng này đều do tu một hạnh lành, tức là bốn nhiếp pháp.

Gót chân thẳng; mắt cá chân không nhô ra; lông trên người xoay xoắn về bên phải.[147] Ba tướng này đều do tu một hạnh lành là thường dùng các pháp lành để làm lợi ích cho chúng sanh.

Chân thon dài như nai chúa.[148] Tướng này do tu một hạnh lành là đem kinh sách dạy cho người khác không hề tiếc giữ.

Da mỏng mịn không dính bụi dơ.[149] Tướng này do tu một hạnh lành là thường y theo câu hỏi [về chánh pháp] của người khác mà giải đáp [thỏa đáng].

Thân tướng có màu sáng đẹp như vàng ròng.[150] Tướng này do tu một hạnh lành là thường nhẫn nhục, vui thích cung cấp y phục cho người khác.

Nam căn ẩn tàng,[151] do tu một hạnh lành là giữ gìn sự hòa hợp, không tranh tụng.

Thân thanh tịnh, cao ngang cân đối;[152] tay buông dài quá đầu gối.[153] Hai tướng này cùng do tu một hạnh lành là dùng tâm từ bình đẳng giáo hóa, dẫn dắt chúng sanh.

Hai vai đầy đặn,[154] thân phát hào quang,[155] ngực như ngực sư tử.[156] Ba tướng này do cùng một hạnh tu là thường làm cho pháp bố thí được tăng trưởng.

Tướng chữ vạn là do tu một hạnh lành không làm não hại chúng sanh.

Mắt xanh như màu hoa sen xanh;[157] lông mi ngay ngắn như mắt trâu chúa.[158] Hai tướng này do tu cùng một hạnh lành không sân hận, luôn dùng ánh mắt thương yêu từ ái để nhìn chúng sanh.

Trên đỉnh đầu có nhục kế;[159] tóc màu xanh. Hai tướng này do tu một hạnh lành, gặp người khác thường tạo công đức.

Mỗi lỗ chân lông có một sợi lông;[160] có lông trắng ở khoảng giữa hai chân mày.[161] Hai tướng này cùng do tu một hạnh lành là không nói dối.

Hàm răng có 40 chiếc răng trắng đẹp;[162] răng có kích thước đều đặn, nằm sít sao không có kẽ hở.[163] Hai tướng này do tu cùng một hạnh lành là không nói hai lưỡi

Tướng lưỡi dài rộng;[164] tiếng nói thanh tao vang xa như tiếng Phạm thiên.[165] Hai tướng này đều do tu một hạnh lành là chẳng nói lời thô thiển độc ác.

Hai má đầy đặn như sư tử,[166] tướng này do tu một hạnh lành là không nói lời thêu dệt vô nghĩa.

Bốn răng nanh trắng như tuyết đều nhau,[167] do tu một hạnh lành là lìa xa tà mạng.[168]

Công đức của tất cả chúng sanh bằng với công đức một sợi lông của Phật. Công đức của những sợi lông của Phật bằng với công đức của một vẻ đẹp [trong 80 vẻ đẹp của Phật]. Công đức của 80 vẻ đẹp bằng với công đức một tướng tốt của Phật. Công đức của các tướng [hợp lại] bằng với công đức của 2 tướng bạch hào giữa 2 chân mày và nhục kế trên đỉnh đầu của Phật. Công đức của trăm ngàn vạn ức tướng bạch hào, nhục kế mới thành tựu được tướng tiếng nói như Phạm thiên. Nhân lành tạo thành 32 tướng tốt tuy mỗi loại đều khác biệt nhau, nhưng nếu luận bàn đến nguyên nhân thật sự thì là do tinh tấn trì giới. Nếu tinh tấn mà không trì giới thì cho đến thân người, thân chư thiên cõi trời còn không thể đạt được, huống chi là những tướng tốt? Đây là nói về nguyên do của các tướng theo Tạng giáo.

Vận dụng các lẽ không, vô sanh [làm nhân] là nói về nguyên do các tướng theo Thông giáo.

Lấy Đạo chủng trí làm nhân là nói về nguyên do các tướng theo Biệt giáo.

Lấy Thật tướng làm nhân là nói về nguyên do các tướng theo Viên giáo.

Về 80 vẻ đẹp,[169] bao gồm:

- 20 ngón tay chân [là 20 vẻ đẹp];

- bên trong và bên ngoài của 2 bàn tay, 2 bàn chân đều đầy đặn, là 8 vẻ đẹp;

- 2 mắt cá chân, 2 đầu gối và 2 bắp đùi là 6 vẻ đẹp;

- trên mỗi cánh tay có 3 nơi là 2 vai, 2 khuỷu tay, 2 cổ tay đều đầy đặn, là 6 vẻ đẹp;

- 2 xương chậu với chỗ tiếp giáp xương sống là 3 vẻ đẹp;

- 2 bên xương cùng là 2 vẻ đẹp;

- nam căn ẩn kín là 1 vẻ đẹp;

- 2 bắp tay và 2 bên eo lưng là 4 vẻ đẹp;

- 2 bên sườn, 2 bên nách và 2 vú là 6 vẻ đẹp;

- bụng, ngực, lưng, cổ là 4 vẻ đẹp;

- 2 hàm răng trên dưới là 2 vẻ đẹp;

- 2 môi trên dưới, vòm miệng trên dưới là 4 vẻ đẹp;

- 2 bên má, 2 chỗ tóc mai, 2 mắt là 6 vẻ đẹp;

- 2 bờ mi, 2 lỗ mũi là 4 vẻ đẹp;

- 2 thái dương trên trán, 2 thùy tai là 4 vẻ đẹp.[170]

Nếu muốn phân biệt 4 cách luận nghĩa [theo Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo] về 80 vẻ đẹp thì dựa theo phần nói về 32 tướng có thể biết được.

KINH VĂN

Đức Phật nói với bốn chúng: “Đề-bà-đạt-đa về sau trải qua vô số kiếp rồi sẽ thành Phật hiệu là Thiên Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Thế giới ấy tên là Thiên Đạo, đức Phật Thiên Vương trụ thế 20 trung kiếp,[171] rộng vì chúng sanh thuyết giảng diệu pháp, chúng sanh chứng quả A-la-hán nhiều như số cát sông Hằng, vô số chúng sanh phát tâm cầu quả vị Duyên giác, chúng sanh phát tâm cầu đạo Vô thượng nhiều như cát sông Hằng, đều đạt được pháp nhẫn vô sanh, cho đến được giai vị không còn thối chuyển. Sau khi đức Phật Thiên Vương nhập Niết-bàn, chánh pháp trụ thế 20 trung kiếp, xá lợi toàn thân Phật được đại chúng xây tháp bảy báu thờ kính, cao 60 do-tuần, hai chiều ngang dọc 40 do-tuần, chư thiên cùng người dân dùng đủ các loại hoa, hương bột, hương đốt, hương thoa cùng các thứ y phục, chuỗi ngọc, cờ phướn, lọng báu, âm nhạc, tụng ca dâng lên cúng dường tháp bảy báu tốt đẹp này; rồi có vô số chúng sanh chứng quả A-la-hán, vô số chúng sanh giác ngộ thành Phật Bích-chi, và số chúng sanh phát tâm Bồ-đề cho đến đạt giai vị không còn thối chuyển nhiều đến mức không thể nghĩ bàn.”

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Đức Phật nói với bốn chúng” trở đi, nêu rõ việc vị thầy [truyền bá kinh Pháp hoa] sẽ thành tựu diệu quả. Tiểu đoạn này lại có 3 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất nêu việc chánh quả thành tựu. Kinh Tát-đàm Phân-đà-lợi[172] nói Đề-bà-đạt-đa khi thành Phật hiệu là Đề-hòa-la-da, Hán dịch là Thiên Vương; cõi nước tên là Đề-hòa-việt, Hán dịch là Thiên Địa.

Phân đoạn thứ hai từ câu “đức Phật Thiên Vương trụ thế 20 trung kiếp” trở đi, nêu sự hóa độ [của Phật Thiên Vương].

Phân đoạn thứ ba từ câu “Sau khi đức Phật Thiên Vương nhập Niết-bàn” trở đi, nêu những sự lợi ích sau khi Phật diệt độ.

KINH VĂN

Đức Phật bảo các vị tỳ-kheo: “Trong tương lai nếu có thiện nam, thiện nữ nào được nghe phẩm Đề-bà-đạt-đa trong kinh Pháp hoa này, trong lòng thanh tịnh cung kính tin theo, không sinh nghi hoặc, người ấy sẽ không còn đọa vào các cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, được tái sanh về trước chư Phật mười phương, và dù sanh ra ở nơi nào cũng thường được nghe kinh này. Người ấy nếu sanh trong cõi trời người sẽ được thụ hưởng niềm vui thù thắng nhiệm mầu; nếu sanh ra trước Phật thì hóa sanh từ hoa sen.”

© Tổng đoạn thứ ba từ câu “Đức Phật bảo các vị tỳ-kheo…” trở đi là nội dung khuyến khích sự tu tập, y theo kinh văn có thể hiểu được.

“Hóa sanh từ hoa sen”, kinh Bồ Tát xử thai nói rằng: “Hóa sanh từ hoa sen không phải là cách hóa sanh thuộc về 4 cách sanh: thai sanh, noãn sanh, thấp sanh, hóa sanh. Đây không phải hóa sanh mà tạm gọi là hóa sanh, thật ra không giống như cách hóa sanh thuộc về 4 cách sanh.”

Sách Thỉnh Quan Âm[173] nói rằng: “Hóa sanh từ hoa sen, đó là cha mẹ.” Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Ở lâu trong đài hoa là thai sanh, nhưng thật ra chẳng phải thai.” Cũng giống như vậy, sanh từ hoa sen cũng gọi là thấp sanh, noãn sanh nhưng không phải là thấp sanh, noãn sanh. Đại lược là như thế.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, có vị Bồ Tát từ phương dưới theo hầu đức Thế Tôn Đa Bảo, hiệu là Trí Tích, thưa với Phật Đa Bảo: “Bạch Thế Tôn! Chúng ta nên quay về.”

Đức Phật Thích-ca Mâu-ni liền bảo Bồ Tát Trí Tích: “Này thiện nam tử! Hãy chờ trong giây lát. Ở đây có Bồ Tát hiệu là Văn-thù-sư-lợi, các ông có thể gặp nhau luận bàn diệu pháp rồi sau đó hãy quay về.”

Khi ấy, Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi ngồi trên tòa sen ngàn cánh lớn như bánh xe, với những vị Bồ Tát đi cùng cũng ngồi trên tòa sen báu, từ Long cung Sa-kiệt-la trong lòng biển lớn tự nhiên vọt lên, trụ giữa không trung rồi bay đến núi Linh Thứu, từ trên tòa sen bước xuống đến chỗ Phật, cúi đầu chạm mặt kính lễ dưới chân hai đức Thế Tôn. Sau khi kính lễ liền đến chỗ Bồ Tát Trí Tích, cùng thăm hỏi nhau rồi ngồi sang một bên.

Phần thứ hai từ câu “Lúc bấy giờ có vị Bồ Tát từ phương dưới…” trở đi, nêu việc hiện tại Bồ Tát Văn Thù truyền bá lưu thông kinh Pháp hoa mang lại lợi ích. Phần này có 2 tổng đoạn.

Tổng đoạn thứ nhất nêu việc Bồ Tát Văn Thù truyền bá lưu thông kinh Pháp hoa. Tổng đoạn thứ hai từ câu “Ngài Văn-thù-sư-lợi nói: “Tôi đến [giáo hóa] trong lòng biển…” trở đi, nêu sự lợi ích.

© Tổng đoạn thứ nhất có 5 đoạn.

Đoạn thứ nhất nêu việc Bồ Tát Trí Tích thỉnh [Phật Đa Bảo] quay về. Kinh Tát-đàm Phân-đà-lợi nói rằng: “Vị Bồ Tát ở phương dưới theo hầu Phật Đa Bảo tên là Bát-nhã Câu-la, Hán dịch là Trí Tích.

Đoạn thứ hai từ câu “Đức Phật Thích-ca Mâu-ni liền bảo Bồ Tát Trí Tích…” trở đi, nêu việc đức Thích Tôn ngăn giữ [Bồ Tát Trí Tích] lại để chờ xem sự chứng minh lợi ích của việc lưu thông kinh [Pháp hoa này]. Bồ Tát Trí Tích cho rằng Phật Đa Bảo vì chứng minh [sự chân thật của] kinh Pháp hoa mà xuất hiện, nay việc khuyến khích chúng sanh lưu thông kinh này đã xong, nên thỉnh Phật quay về. Đức Phật Thích-ca ngăn giữ lại vì tuy hình tích sự việc nhìn thấy đã xong nhưng phần bản nguyên còn chưa hiển bày rõ rệt, cho nên ủy thác việc này cho Bồ Tát Văn Thù để lưu giữ Phật Đa Bảo. Mật ý của Phật không phải là điều Bồ Tát có thể biết được.

Đoạn thứ ba từ câu “Khi ấy, Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi ngồi trên tòa sen…” trở đi, nêu việc Bồ Tát Văn-thù bỗng dưng xuất hiện.

KINH VĂN

Bồ Tát Trí Tích hỏi Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi: “Ngài đến Long cung giáo hóa được bao nhiêu chúng sanh?”

Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi nói: “Con số ấy không thể suy lường, không thể tính kể, không thể nói ra bằng lời, không thể dùng tâm suy lường, xin chờ trong giây lát sẽ tự thấy biết.”

Ngài Văn-thù-sư-lợi nói chưa dứt lời thì đã thấy vô số Bồ Tát ngồi trên tòa sen báu từ trong lòng biển vọt lên, cùng đến núi Linh Thứu, trụ giữa không trung. Các vị Bồ Tát này đều là do ngài Văn-thù-sư-lợi giáo hóa, đều đã trọn đủ công hạnh Bồ Tát, đều cùng nhau luận thuyết về sáu pháp ba-la-mật. Những vị vốn trước đây là Thanh văn, ở giữa không trung nói về công hạnh Thanh văn, nay đều tu hành theo nghĩa không của Đại thừa.

Ngài Văn-thù-sư-lợi nói với Bồ Tát Trí Tích: “Tôi đến [Long cung] trong lòng biển giáo hóa, sự việc là như vậy.”

Đoạn thứ tư từ câu “Bồ Tát Trí Tích hỏi…” trở đi, nêu việc Bồ Tát Trí Tích hỏi về số lượng chúng sanh được giáo hóa.

Đoạn thứ năm từ câu “Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi nói…” trở đi, Bồ Tát Văn-thù đáp rằng con số ấy “không thể nói ra bằng lời”. Đoạn thứ năm này lại chia thành 7 tiểu đoạn.

Tiểu đoạn thứ nhất nêu lời đáp rằng [việc thuyết pháp] làm lợi ích cho rất nhiều chúng sanh.

Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Ngài Văn-thù-sư-lợi nói chưa dứt lời…”, những chúng sanh đã được lợi ích tập hợp về để chứng minh.

Tiểu đoạn thứ ba từ câu “Các vị Bồ Tát này…” trở đi, nêu rõ tất cả [những Bồ Tát này] đều là do ngài Văn-thù hóa độ.

Tiểu đoạn thứ tư từ câu “Những vị vốn trước đây là Thanh văn…” trở đi. Những vị vốn là Thanh văn, nghĩa là trước đây học theo giáo pháp quyền thừa, trụ nơi đạo Nhị thừa. Kinh Tát-đàm Phân-đà-lợi nói rằng: “Hoa sen từ dưới hồ [của Long vương] bay lên, nếu là trước đây phát tâm Bồ Tát thì hoa ở giữa không trung, thuyết giảng những việc Đại thừa. Nếu là trước đây phát tâm Thanh văn thì hoa ở giữa không trung chỉ thuyết giảng việc chấm dứt sanh tử.”1

Tiểu đoạn thứ năm từ câu “nay đều tu hành theo nghĩa không…” trở đi, nêu việc [những vị nói trên] nay được nghe giáo pháp chân thật, nên tất cả đều trụ nơi giáo pháp Đại Thừa.

Tiểu đoạn thứ sáu từ câu “Ngài Văn-thù-sư-lợi nói với Bồ Tát Trí Tích…” trở đi, ngài Văn-thù kết luận về lợi ích [của sự giáo hóa].

KINH VĂN

Bấy giờ, Bồ Tát Trí Tích liền nói kệ khen ngợi rằng:

Bậc trí đức mạnh mẽ,
Độ chúng sanh vô số,
Nay trong đại hội này,
Cũng như tôi, đều thấy.
Tuyên giảng nghĩa thật tướng,
Mở bày pháp Nhất thừa,
Rộng dẫn dắt chúng sanh,
Khiến mau thành quả Phật.

Tiểu đoạn thứ bảy từ câu “Bấy giờ, Bồ Tát Trí Tích…” trở đi, nêu việc Bồ Tát Trí Tích đọc kệ để ngợi khen xưng tán.

KINH VĂN

Ngài Văn-thù-sư-lợi nói: “Tôi đến [giáo hóa] trong lòng biển, chỉ thường tuyên thuyết kinh Diệu Pháp Liên Hoa.”

Bồ Tát Trí Tích liền hỏi Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi: “Kinh này rất thâm sâu mầu nhiệm, là quý báu trong các kinh, thế gian hiếm có, vậy có chúng sanh nào nhờ chuyên cần tinh tấn tu hành kinh này mà nhanh chóng được thành Phật chăng?”

Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi nói: “Có người con gái Long vương Sa-kiệt-la là Long nữ, mới vừa tám tuổi, là người có trí tuệ, căn tánh nhanh nhạy, khéo rõ biết căn cơ và hành nghiệp của chúng sanh, được pháp tổng trì,[174] có khả năng thọ nhận giữ gìn tất cả những pháp tạng sâu xa bí mật mà chư Phật đã thuyết giảng, thâm nhập sâu vào thiền định, thấu đạt rõ ràng các pháp, chỉ trong khoảnh khắc một sát-na đã phát tâm Bồ-đề, đạt được giai vị không còn thối chuyển, biện tài không ngăn ngại, tâm từ mẫn nhớ nghĩ chúng sanh như cha mẹ thương con đỏ, trọn đủ mọi công đức, ý niệm và lời nói đều vi diệu lớn lao, từ bi, nhân đức, nhún nhường, tâm chí hòa nhã, có thể đạt đến quả Phật.”

Bồ Tát Trí Tích nói: “Tôi thấy đức Như Lai Thích-ca trải qua vô số kiếp tu hành khổ hạnh khó khăn, tích lũy công đức cầu đạo Bồ-đề chưa từng dừng nghỉ, nay quán xét trong khắp cõi thế giới đại thiên, không một nơi chốn nào dù nhỏ như hạt cải mà không phải nơi Bồ Tát đã từng xả bỏ thân mạng vì chúng sanh, như vậy rồi sau mới thành tựu quả Phật. Thật không tin được người con gái này chỉ trong khoảnh khắc liền thành bậc Chánh giác.”

© Tổng đoạn thứ hai từ câu “Ngài Văn-thù-sư-lợi nói: ‘Tôi đến [giáo hóa] trong lòng biển…” trở đi, nêu lợi ích [sự giáo hóa bằng kinh Pháp hoa của Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi]. Tổng đoạn này có 9 đoạn.

Đoạn thứ nhất là ngài Văn-thù-sư-lợi tự trình bày. Đoạn thứ hai là Bồ Tát Trí Tích nêu câu hỏi. Đoạn thứ ba, [ngài Văn-thù-sư-lợi] đưa ra lời giải đáp. Đoạn thứ tư, Bồ Tát Trí Tích chấp theo ý nghĩa Biệt giáo nêu ra chỗ nghi. Đoạn thứ năm, Long nữ làm rõ ý nghĩa Viên giáo để giải thích chỗ nghi. Đoạn thứ sáu, ngài Xá-lợi-phất phân tích [việc thành đạo theo] Tạng giáo quyền thừa để vặn hỏi. Đoạn thứ bảy, Long nữ dùng pháp chân thật duy nhất để phá trừ lòng nghi. Đoạn thứ tám, đại chúng khi ấy nghe biết, nhìn thấy đều được lợi ích. Đoạn thứ chín, Bồ Tát Trí Tích và ngài Xá-lợi-phất im lặng tin nhận, kính phục.

KINH VĂN

Những lời bàn luận còn chưa dứt, bỗng dưng đã thấy Long nữ hiện ra ngay trước, cúi đầu chạm mặt kính lễ Phật rồi đứng sang một bên, đọc kệ xưng tán rằng:

Thấu suốt tướng tội, phước,
Soi chiếu khắp mười phương.
Pháp thân tịnh, nhiệm mầu,
Đủ ba mươi hai tướng,
Dùng tám mươi vẻ đẹp,
Để trang nghiêm pháp thân.
Trời, người đều kính ngưỡng,
Thần, rồng cùng cung kính,
Và muôn loài chúng sanh,
Đều tôn kính phụng thờ.
Lại nghe: “Thành quả Phật,
Chỉ Phật mới chứng biết.”
Con mở bày Đại thừa,
Độ thoát chúng sanh khổ.

Giải thích về đoạn thứ năm, Long nữ làm rõ ý nghĩa Viên giáo để giải thích chỗ nghi, [chia làm 2 tiểu đoạn].

Tiểu đoạn thứ nhất là lời người chép kinh thuật lại sự việc, nêu việc Long nữ hiện thân lễ Phật cung kính.

Tiểu đoạn thứ hai gồm 3 khổ rưỡi kệ tụng, chia làm 3 phân đoạn.

Phân đoạn thứ nhất gồm nửa khổ kệ đầu tiên, nêu việc thọ trì kinh này đạt được sự nhận hiểu.

Phân đoạn thứ hai gồm 2 khổ kệ nêu việc thành tựu 2 thân [Phật là báo thân và ứng hóa thân].

Phân đoạn thứ ba gồm 1 khổ kệ, viện dẫn đức Phật để chứng minh cho sự thành tựu quả vị của mình.

Nói về “tội, phước”, đó là dựa theo sự tạo tác truyền nối trong 7 hạng phương tiện. Nay 2 câu kệ này nêu sự thấu suốt sâu xa đến chỗ không tội không phước, thể nhập vào thật tướng duy nhất nên gọi là “thấu suốt”.

“Mười phương” tức là nói 10 pháp giới,[175] đều dùng một trí tuệ chân thật mà soi chiếu, cho nên nói là “soi chiếu khắp”.

“Đủ ba mươi hai tướng” là nói thấu đạt sâu xa lý của pháp thân cho nên đầy đủ các tướng tốt, các vẻ đẹp. Như kinh Đại phẩm Bát-nhã nói rằng: “Muốn đạt được hết thảy các pháp thì nên học Bát-nhã. [Đạt được trí tuệ Bát-nhã thì] giống như có được hạt châu như ý [nên muốn gì cũng được như ý].” Hàng Nhị thừa chỉ đạt được pháp không, vì không nên không có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Đại lược là như thế.

KINH VĂN

Bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất nói với Long nữ: “Cô nói rằng không bao lâu sẽ thành đạo Vô thượng, việc đó thật khó tin. Vì sao vậy? Thân nữ uế nhiễm, không phải pháp khí,[176] làm sao có thể đạt được Vô thượng Bồ-đề? Phật đạo sâu rộng xa thẳm, phải trải qua vô số kiếp chuyên cần khó nhọc tu tích công hạnh, trọn đủ các pháp ba-la-mật, sau đó mới được thành tựu. Lại nữa, thân nữ còn có năm điều chướng ngại là không làm được Phạm thiên vương, Đế thích, Ma vương, Chuyển luân Thánh vương và thân Phật. Như vậy làm sao thân nữ có thể nhanh chóng thành Phật?”

Lúc bấy giờ, Long nữ có một viên ngọc quý giá trị bằng cả thế giới đại thiên, mang ra dâng lên đức Phật. Đức Phật liền thọ nhận. Long nữ nói với Bồ Tát Trí Tích và ngài Xá-lợi-phất: “Tôi dâng ngọc quý, đức Thế Tôn thọ nhận, việc ấy có nhanh chăng?”

Hai vị cùng đáp: “Rất nhanh.”

Long nữ liền nói: “Nếu dùng thần lực của các vị để xem việc tôi thành Phật thì cũng nhanh như vậy.”

Lúc bấy giờ tất cả hội chúng đều nhìn thấy Long nữ bỗng trong khoảnh khắc biến thành thân nam, trọn đủ hạnh Bồ Tát, tức thời đi sang thế giới Vô Cấu ở phương nam, ngồi trên tòa sen báu, thành bậc Chánh Đẳng Giác, đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, rộng vì hết thảy chúng sanh trong mười phương thuyết giảng diệu pháp.

Đoạn thứ sáu, Xá-lợi-phất lại gạn hỏi [về việc thành Phật của Long nữ]. Trước tiên nói tổng quát về việc [thành Phật của Long nữ là rất] khó tin, sau đó giải thích rõ bằng cách nêu ra 5 sự chướng ngại [của thân nữ].

Đoạn thứ bảy Long nữ hiện việc thành Phật, chứng minh rõ ràng. Đoạn này lại có 2 tiểu đoạn.

Tiểu đoạn thứ nhất nói việc dâng hạt châu quý [lên đức Phật], biểu trưng cho sự nhận hiểu [giáo pháp] đã được tròn đầy trọn vẹn. Hạt châu tròn là biểu trưng cho sự tu hành của Long nữ đã tạo được nhân tròn đầy. Dâng lên đức Phật tức là dùng nhân ấy để đạt được quả. Phật thọ nhận nhanh chóng tức là đạt quả nhanh chóng, tức là chỉ trong một niệm đã [hiện thân] ngồi nơi đạo tràng [dưới cội Bồ-đề], chứng đắc thành tựu quả Phật, không hề hư dối.

Tiểu đoạn thứ hai nêu việc nhân tu hành tròn đầy, quả thành tựu trọn vẹn. Kinh Bồ Tát giáng thần mẫu thai[177] nói rằng: “Dù là Ma vương, Phạm thiên, Đế thích, nữ nhân đều không có việc xả thân hay thọ thân, tất cả đều ở ngay nơi thân hiện tại mà thành tựu quả Phật.”

[Sau đó đức Phật nói] kệ rằng:

Tánh pháp như biển lớn,
Chẳng có việc đúng sai.
Phàm phu, bậc hiền thánh,
Bình đẳng không cao thấp.
Cấu nhiễm trong tâm diệt,
Lật tay, chứng Niết-bàn.[178]

KINH VĂN

Khi ấy ở thế giới Ta-bà, hết thảy Bồ Tát, Thanh văn, tám bộ chúng, người và loài phi nhân đều từ xa nhìn thấy Long nữ thành Phật, rộng vì khắp chúng hội chư thiên và loài người nơi ấy thuyết pháp, liền hết sức hoan hỷ cùng kính lễ từ xa. Vô số chúng sanh nghe pháp được nhận hiểu tỏ ngộ, đạt địa vị không còn thối chuyển; vô số chúng sanh được thụ ký đạt đạo. Thế giới Vô Cấu chấn động sáu lượt. Tại thế giới Ta-bà có 3.000 chúng sanh trụ ở địa vị không còn thối chuyển, 3.000 chúng sanh phát tâm Bồ-đề rồi được thụ ký.

Bồ Tát Trí Tích và ngài Xá-lợi-phất cùng hết thảy chúng hội đều lặng yên tin nhận.

Đoạn thứ tám từ câu “Khi ấy ở thế giới Ta-bà…” trở đi, nêu việc đại chúng đương thời được nhìn thấy, nghe biết. Đoạn này lại có 2 tiểu đoạn.

Tiểu đoạn thứ nhất nêu việc thấy nghe.

Tiểu đoạn thứ hai nêu việc chư thiên và nhân loại đều hoan hỷ, cả thế giới phương nam kia và thế giới Ta-bà ở đây đều được lợi ích.

Thế giới [Vô Cấu] về phương nam cơ duyên đã thuần thục, nên ở nơi ấy hiện tám tướng thành đạo,[179] còn ở thế giới Ta-bà nơi đây, cơ duyên hóa độ còn mỏng manh nên chỉ dùng hình tướng Long nữ để giáo hóa. Đây là sức phương tiện quyền xảo, đạt đến chỗ một thân tướng là hết thảy các thân tướng, tức là pháp tam-muội Phổ hiện sắc thân.

13. Giải thích Phẩm
Khuyến khích thọ trì

KINH VĂN

Phẩm Khuyến khích thọ trì, thứ mười ba

Giải thích tên phẩm

Có 20.000 vị Bồ Tát kính vâng lời Phật dạy truyền rộng này, cho nên [Hán ngữ] gọi là phẩm Trì (持), [nghĩa là gìn giữ], sau đó lại khuyến khích 80 muôn ức na-do-tha [Bồ Tát] truyền rộng kinh này, cho nên [Hán ngữ cũng] gọi là phẩm Khuyến trì (勸持), [nghĩa là “khuyến khích thọ trì”].

Hỏi: Vì sao lại nói như vậy?

Đáp: Vì có 20.000 vị Bồ Tát được nói ở đầu phẩm Pháp Sư là được Phật đặc biệt có lời dạy riêng, nên vâng lời Phật mà thọ trì kinh này. Còn số 80 muôn ức na-do-tha vị Bồ Tát đều là trước đây không có lời dạy riêng, Phật chỉ nêu chung [việc thọ trì kinh] trong đại chúng. Nay Phật đưa mắt nhìn khiến cho các vị này phát khởi thệ nguyện sẽ ở cõi này truyền bá lưu thông kinh. Suy xét việc truyền bá lưu thông kinh này thì tự có sự chứng nghiệm sâu xa quan trọng, hiểu được tâm ý ân cần giao phó của đức Phật, cho nên nhận lời khuyến khích mà phát tâm truyền rộng kinh này.

Phẩm này có 2 ý nghĩa nên kinh văn chia làm 2 phần. Phần thứ nhất nêu việc thọ trì, phần thứ hai nêu việc khuyến khích thọ trì.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, Đại Bồ Tát Dược Vương và Đại Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết cùng với 20.000 vị Bồ Tát thân cận cùng đi đều cùng nhau ở trước Phật phát lời thệ nguyện rằng: “Nguyện đức Thế Tôn đừng lo nghĩ việc này. Sau khi Phật diệt độ, chúng con sẽ cung kính giữ gìn, tụng đọc, thuyết giảng kinh điển này. Chúng sanh trong đời xấu ác về sau căn lành dần ít đi, phần nhiều đều là những kẻ hết sức kiêu căng ngạo mạn, tham mối lợi cúng dường, những việc bất thiện tăng thêm, xa lìa con đường giải thoát. Tuy rằng khó giáo hóa được họ, nhưng chúng con sẽ phát khởi sức nhẫn nhục lớn lao, tụng đọc kinh này, hành trì, thuyết giảng, sao chép nhân rộng, thực hiện mọi sự cúng dường, không tiếc cả thân mạng.”

Khi ấy ở giữa đại chúng, 500 vị A-la-hán đã được thụ ký liền bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng xin tự phát lời thệ nguyện ở nơi cõi thế giới khác giảng rộng kinh này.”

Lại có 8.000 vị đã được thụ ký ở trong hàng [Thanh văn] hữu học và vô học, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng Phật, phát thệ nguyện rằng: “Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng sẽ ở nơi cõi thế giới khác giảng rộng kinh này. Vì sao vậy? Vì trong cõi Ta-bà này con người phần nhiều xấu xa hung ác, ôm lòng kiêu căng ngạo mạn, công đức mỏng manh cạn cợt, sân hận uế trược, gian trá dua nịnh, lòng không chân thật.”

Bấy giờ, di mẫu của đức Phật là tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề[180] cùng với 6.000 vị tỳ-kheo-ni thân cận cùng đi thuộc hàng hữu học và vô học, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, một lòng chắp tay chiêm ngưỡng tôn nhan Phật không hề chớp mắt.

Khi ấy, đức Thế Tôn nói với bà Kiều-đàm-di: “Vì sao bà lại nhìn Như Lai với ánh mắt u buồn như vậy? Hẳn trong lòng bà cho rằng ta đã không nhắc đến tên, không thụ ký quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho bà? Này Kiều-đàm-di! Trước đây ta đã nói chung rằng hết thảy hàng Thanh văn đều được thụ ký. Nay bà muốn biết cụ thể, thì đời tương lai bà sẽ làm bậc đại pháp sư trong chánh pháp của 68.000 ức vị Phật, cùng với 6.000 tỳ-kheo-ni thuộc hàng hữu học và vô học ở đây cũng đều sẽ là bậc pháp sư. Cứ như vậy rồi bà sẽ dần dần trọn đủ [công hạnh] đạo Bồ Tát, sẽ thành Phật hiệu là Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Này Kiều-đàm-di! Tiếp theo đức Phật Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến, 6.000 vị Bồ Tát sẽ lần lượt được thụ ký quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Bấy giờ, mẹ của ngài La-hầu-la là tỳ-kheo-ni Da-du-đà-la khởi lên ý nghĩ rằng: “Đức Thế Tôn trong khi thụ ký chỉ riêng tên ta là không nhắc đến.”

Đức Phật bảo Da-du-đà-la: “Trong tương lai bà sẽ tu hạnh Bồ Tát trong chánh pháp của trăm ngàn muôn ức đức Phật, làm vị đại pháp sư, rồi dần dần trọn đủ Phật đạo, ở trong cõi nước tốt lành[181] mà thành Phật hiệu là Cụ Túc Thiên Vạn Quang Tướng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, tuổi thọ đến vô số a-tăng-kỳ kiếp.”

Khi ấy, tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề và tỳ-kheo-ni Da-du-đà-la cùng những người thân cận cùng đi thảy đều hết sức mừng vui hoan hỷ, được điều chưa từng có, liền ở trước Phật cùng đọc kệ rằng:

Đấng Đạo sư Thế Tôn,
Giúp trời, người an ổn.
Chúng con được thụ ký,
Tâm an vui trọn đủ.

Các vị tỳ-kheo-ni đọc kệ như vậy rồi cùng bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng có thể ở những cõi thế giới khác truyền bá giảng rộng kinh này.”

Phần thứ nhất chia làm 3 đoạn. Đoạn thứ nhất nói về 20.000 vị Bồ Tát kính vâng lời Phật ở nơi cõi [Ta-bà] này gìn giữ lưu thông kinh. Đoạn thứ hai nêu việc 500 vị và 8.000 vị Thanh văn phát thệ nguyện ở nơi các cõi thế giới khác truyền bá lưu thông kinh này. Đoạn thứ ba nêu việc các vị tỳ-kheo-ni muốn được nghe Phật thụ ký.

Hỏi: Những vị Thanh văn ấy đã thành Bồ Tát, vì sao không thể ở cõi Ta-bà để lưu thông truyền rộng kinh này?

Đáp: Vì muốn nói cho biết rằng việc hàng sơ tâm mới đầu tu hạnh Bồ Tát thì chưa thể có khả năng ở trong đời xấu ác chịu khổ nhọc mà truyền bá lưu thông kinh này. Lại nữa, đây là muốn dẫn khởi để mở ra phẩm Hạnh An vui theo sau.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đưa mắt nhìn 80 muôn ức na-do-tha các vị Đại Bồ Tát. Các vị Bồ Tát này đều đã đạt địa vị không còn thối chuyển, chuyển bánh xe pháp không thối chuyển, đạt được các pháp tổng trì. Các vị liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước đức Phật, một lòng chắp tay rồi có ý nghĩ rằng: “Nếu đức Thế Tôn dạy bảo chúng con thọ trì giảng thuyết kinh này, chúng con sẽ y theo lời Phật dạy mà truyền bá giảng rộng.” Rồi các vị ấy lại suy nghĩ: “Nay Phật lặng yên không ban lời dạy bảo, chúng ta nên làm thế nào?”

Rồi các vị Bồ Tát kính thuận ý Phật cũng như muốn tự làm trọn đủ tâm nguyện từ trước, liền ở trước Phật dùng tiếng uy nghiêm như sư tử gầm mà phát lời thệ nguyện rằng: “Bạch Thế Tôn! Sau khi Như Lai diệt độ, chúng con qua lại trong các thế giới ở khắp mười phương, nếu có thể khiến cho chúng sanh sao chép kinh này, thọ trì, tụng đọc, giảng thuyết nghĩa kinh, y theo giáo pháp trong kinh tu hành, nghĩ nhớ chân chánh, đều là nhờ nơi oai lực của Phật. Kính nguyện đức Thế Tôn ở phương xa nhìn thấy mà che chở bảo vệ cho.”

Phần thứ hai khuyến khích thọ trì gồm có kinh văn trường hàng và kệ tụng. Kinh văn trường hàng chia làm 5 đoạn. Thứ nhất nêu việc đức Phật dùng mắt xem thấy. Thứ hai, các vị Bồ Tát muốn được Phật dạy [việc lưu truyền kinh này]. Thứ ba, nói việc Phật yên lặng [không nói việc lưu hành kinh]. Thứ tư, các vị Bồ Tát tự biết ý Phật. Thứ năm là các vị Bồ Tát phát lời thệ nguyện truyền bá lưu thông kinh này.

“Đức Thế Tôn đưa mắt nhìn” là lặng yên mà khuyến khích, không nói ra thành lời. Trước đó tuy không có lời chỉ dạy sai bảo riêng, nhưng đã nêu công đức sâu dày của việc thọ trì kinh, có dẫn chứng rõ ràng, lại thêm đức Phật Đa Bảo và chư Phật phân thân từ phương xa tập hợp đến đều khuyến khích phát tâm [thọ trì]. Những việc này thật đã chi ly cặn kẽ, ý nghĩa sự việc đã đầy đủ, nếu có ai muốn thuận theo ý Phật tức nhiên phát khởi thệ nguyện, không cần phải nhọc sức nói ra. Lại nữa, vì muốn hộ trì cho thệ nguyện của hàng Thanh văn ở những phương khác, cho nên Phật không nói rõ ra [với các Bồ Tát].

KINH VĂN

Tức thời, các vị Bồ Tát đều đồng thanh đọc kệ rằng:

Nguyện Phật đừng lo nghĩ,
Sau khi Phật diệt độ,
Trong đời ác đáng sợ,
Chúng con sẽ giảng rộng.
Dù có kẻ ngu si,
Dùng lời ác mắng chửi,
Lại thêm dùng dao gậy,
Chúng con đều nhẫn chịu.
Tỳ-kheo đời xấu ác,
Trí tà vạy, dua nịnh,
Chưa chứng nói đã chứng,
Tâm kiêu ngạo tràn đầy.
Hoặc ở nơi vắng vẻ,
Dùng y phục xấu tệ,
Tự xưng tu chánh đạo,
Khinh miệt người thế gian.
Hoặc tham đắm lợi dưỡng,
Thuyết pháp với cư sĩ,
Được người đời cung kính,
Như La-hán lục thông.
Hoặc ôm lòng xấu ác,
Thường nghĩ việc thế tục,
Giả xưng bậc ẩn dật,
Bới móc lỗi chúng con.
Họ nói lời thế này:
“Những ông tỳ-kheo đó,
Chỉ vì tham lợi dưỡng,
Thuyết dạy pháp ngoại đạo.
Tự nghĩ ra kinh này,
Để lừa gạt người đời.
Vì cầu được danh tiếng,
Nên giảng giải kinh này.”
Họ ở giữa đại chúng,
Muốn làm nhục chúng con,
Đến chỗ vua, đại thần,
Cư sĩ, bà-la-môn,
Và những tỳ-kheo khác,
Rồi phỉ báng, chê bai:
“Bọn chúng là tà kiến,
Nói toàn thuyết ngoại đạo.”
Chúng con cung kính Phật,
Nên nhẫn chịu tất cả.
Những kẻ khinh miệt ấy,
Sau đều sẽ thành Phật,
Nên bao lời khinh miệt,
Chúng con đều nhẫn chịu.1

Phần kệ tụng có 20 khổ kệ, nêu ý nguyện [của các vị Bồ Tát] muốn bảo vệ gìn giữ kinh này, không cần phải phân chia chi tiết, chỉ y theo kinh văn có thể hiểu được.

Đoạn thứ nhất gồm 17 khổ kệ, nêu việc mặc áo nhẫn nhục để lưu hành truyền rộng kinh này.

Đoạn thứ hai gồm 1 khổ kệ, nêu việc thâm nhập vào nhà cửa [trong thôn ấp, thành thị] để lưu hành truyền rộng kinh này.

Đoạn thứ ba gồm 1 khổ kệ, nêu việc ngồi trên pháp tòa để giảng thuyết truyền rộng kinh này.

Đoạn thứ tư gồm 1 khổ kệ, tổng kết vấn đề, thỉnh cầu chư Phật gia hộ.

Kinh Trung A-hàm, quyển 6, dịch chữ a-lan-nhã là vô sự.[182] Đầu-đà, phiên âm là đẩu-tẩu.”[183]

Kinh Bảo Vân, quyển 6,[184] nói rằng: “Vị tỳ-kheo ở chốn a-lan-nhã, khi thấy vua, con vua, bà-la-môn hoặc bất cứ ai tìm đến thì đều nói lớn: ‘Lành thay! Quý vị có thể đến đây cùng ngồi.’ Người ấy sẽ bước đến cùng ngồi. Nếu người ấy không ngồi, vị tỳ-kheo cũng đứng không ngồi, rồi vì người ấy mà thuyết pháp, khiến cho được hoan hỷ.”

Sau khi Phật diệt độ, trong đời xấu ác về sau, các tỳ-kheo không giữ theo nghi thức, tuy thuyết giảng giới luật và giáo pháp có thể lưu loát, nhưng đối với giới luật và giáo pháp không thích hành trì. Lần lượt xét qua 5 phần pháp thân,[185] cho đến hết thảy các phần đạo pháp khác cũng đều thuyết giảng theo cách như vậy.

Giống như người bị nghẹt mũi nói về gỗ chiên đàn, đã nói [với người khác là] không có mùi thơm, lại cũng tự mình không ngửi được mùi thơm. Chư thiên, loài người, loài rồng, quỷ thần, cưu-bàn-trà… không bao giờ cúng dường cho những người không giữ giới. Đối với 4 phần [định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến] cũng vậy. Nếu không có khả năng mang giáo pháp nhiệm mầu đến cho người khác thì trước hết là do giới hạnh không thanh tịnh. Đối với 4 phần [định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến] cũng đều như vậy.

[Kinh Nguyệt đăng tam-muội, quyển 1, nói rằng:]

Nếu gặp kẻ bệnh nặng sắp chết,
Đau đớn bức bách, quá buồn khổ,
Tam-muội niệm Phật thường miên mật,
Không để khổ não chế ngự tâm.
Người ấy tự hiểu được pháp này,
Liền biết các pháp đều là không.[186]

KINH VĂN

Đời xấu ác, uế trược,
Có nhiều điều đáng sợ,
Quỷ ác nhập thân người,
Mắng, làm nhục, chúng con,
Chúng con tin kính Phật,
Mặc áo giáp nhẫn nhục.
Vì thuyết giảng kinh này,
Nhẫn chịu mọi khó khăn.
Con không tiếc thân mạng,
Chỉ trân quý Phật đạo,
Chúng con trong tương lai,
Giữ kinh như lời Phật.
Thế Tôn tự rõ biết,
Các tỳ-kheo đời ác,
Không biết phương tiện Phật,
Thuyết pháp cho thích hợp.
Nhăn mặt, nói lời ác,
Xô đuổi người thuyết kinh,
Phải xa lìa chùa tháp.
Bao việc ác như vậy,
Chúng con nhớ lời Phật,
Nên nhẫn nhục được hết.
Khắp xóm thôn, thành thị,
Nếu có người cầu pháp,
Chúng con đều tìm đến,
Thuyết dạy theo lời Phật.
Làm sứ giả Thế Tôn,
Giữa đại chúng không sợ,
Chúng con khéo thuyết pháp,
Kính nguyện Phật an lòng.
Chúng con ở trước Phật,
Cùng chư Phật mười phương,
Phát lời thệ nguyện này,
Phật biết lòng chúng con.

“Mặc áo giáp nhẫn nhục”, như kinh Trung A-hàm, quyển 5, chép rằng: “Tỳ-kheo Hắc Xỉ tố cáo với Phật rằng: ‘Xá-lợi-phất mắng chửi con.’ Đức Phật lập tức gọi ngài Xá-lợi-phất đến hỏi: ‘Ông có mắng chửi thật chăng?’ Ngài Xá-lợi-phất thưa: ‘Bạch Thế Tôn! Người tâm tán loạn mới có khi chửi mắng [người khác]; tâm con đã an định, làm sao con có thể mắng chửi người khác? Như con trâu đã gãy sừng không thể đâm húc, quấy nhiễu con người; như đứa trẻ tàn tật xấu hổ không quấy nhiễu người khác; tâm con hiện nay như đất, như nước, như gió, như lửa, dù những thứ sạch hoặc không sạch như phẩn uế, nước tiểu, đờm dãi, nước bọt, tất cả đều đón nhận không hề có sự khó chịu mắng chửi. Tâm con như cái chổi quét, những thứ sạch hay không sạch cũng đều quét đi. Lại như vật chứa đã bị rạn nứt, dùng đựng chất mỡ rồi đặt ngoài trời nắng nóng, [mỡ tan chảy nên] thường rỉ ra theo khe nứt, nay con tự quán xét thấy chín lỗ của thân mình[187] cũng thường rỉ chảy ra những chất dơ nhớp, làm sao con có thể mắng chửi người khác? Lại cũng giống như đem xác rắn chết, chó chết buộc vào cổ của đứa trẻ trong sạch, đã tự thấy xấu, tự hổ thẹn nên không thể mắng chửi nói xấu người khác.’

“Phật lại hỏi: ‘Đối với những người xấu ác như vậy thì ông quán xét thế nào?’

“[Ngài Xá-lợi-phất] thưa rằng: ‘Có 5 loại người. Loại người thứ nhất có hành vi hiền thiện mà lời nói, ý nghĩ không hiền thiện, chỉ nên nghĩ đến chỗ hiền thiện của họ, không nghĩ đến những điều bất thiện. Như vị tỳ-kheo nhặt vải may y, thấy tấm vải phủ trên đống phân dơ, tay trái nhặt lên, tay phải căng ra rồi cắt bỏ chỗ dơ, giữ lại chỗ sạch [để dùng]. Nghĩ đến hành vi hiền thiện của người ấy là để hành vi của mình noi theo; bỏ đi không nghĩ đến lời nói, ý nghĩ bất thiện của người ấy là để răn nhắc ngăn ngừa lời nói, ý nghĩ của chính mình.

“‘Loại người thứ hai có lời nói hiền thiện nhưng hành vi và ý nghĩ bất thiện, chỉ nên nghĩ đến lời nói hiền thiện, bỏ đi hành vi và ý nghĩ bất thiện.[188] Giống như người đang nóng khát gặp hồ nước nhiều cây cỏ, liền dùng tay khoác cỏ ra để vốc nước mát lên uống, thân thể được mát mẻ giải trừ cơn khát.

“‘Loại người thứ ba có ý nghĩ hiền thiện tịnh nhưng hành vi và lời nói bất thiện, cũng chỉ nên nghĩ về ý nghĩ hiền thiện, bỏ đi những hành vi và lời nói bất thiện. Giống như người đi đường nóng khát, chỉ gặp được chút nước đọng trong dấu chân trâu, nếu dùng tay vốc nước ắt sẽ khuấy bùn lên đục, nên phải quỳ gối thật thấp, chống 2 tay và cúi sát miệng xuống để hớp lấy nước uống, dứt được cơn khát.

“‘Loại người thứ tư có 3 nghiệp [thân, khẩu và ý] đều bất thiện, tuy không có gì để vận dụng noi theo, nhưng nên hết lòng nghĩ nhớ đến họ, ví như trên đường đi gặp người bệnh nặng, nên đưa đến chỗ yên ổn nghỉ ngơi. Nghĩ nhớ đến sự bất thiện của họ, mong sao cho gặp được bậc thiện tri thức, dạy dỗ chuyển hóa 3 nghiệp xấu ác của họ, không để phải đọa vào 3 cảnh giới xấu ác.

“‘Loại người thứ năm có 3 nghiệp đều hiền thiện, nên thường nghĩ nhớ đến để tự răn dạy mình noi theo [đã là tốt đẹp], huống chi là nghĩ đến sao cho sánh bằng người ấy, mong cho được bằng người ấy. Cũng giống như hồ nước trong mát lại thêm có nhiều hoa cỏ xinh đẹp, đang khi nóng khát chỉ vừa bước đến đã tự nhiên cảm thấy tỉnh táo dễ chịu ngay.’”

Thường nghĩ nhớ đến cảnh bên ngoài để so sánh trừ bỏ những điều xấu ác của mình, đây là cách theo Tạng giáo vận dụng những yếu tố “khổ, không, vô thường, bất tịnh, vô ngã” làm áo giáp nhẫn nhục.

Luận Tỳ-bà-sa, quyển 9, nói rằng: “Mắng chửi, trong Phạn ngữ nói là a-câu-lô-xa (ākrośa). Bỏ đi một chữ a, còn lại câu-lô-xa (krośa) chỉ có nghĩa là tiếng gọi. Ví như bị mắng chửi mà đừng nghĩ đến chữ a thì chỉ là nghe tiếng gọi. Dù suốt ngày nghe tiếng gọi cũng không có gì phải sinh tâm bực tức.”[189]

“Lại nữa, nên nghĩ rằng những lời mắng chửi xúc phạm ở nơi đây thì ở nơi khác lại là lời ngợi khen tốt đẹp.[190] Nếu ta ở đây nghe mắng chửi thì buồn khổ, ở nơi khác nghe khen ngợi thì thích thú mừng vui, như vậy thì chính tự nơi ta thường vui thường khổ, đâu có ai mang khổ đến cho ta?[191]

“Lại nữa, nên nghĩ rằng lời mắng chửi đó, cũng là những từ ngữ mà đảo ngược sắp xếp lại sẽ thành lời ngợi khen xưng tán.[192] [Nghĩ như vậy thì không có gì phải sanh tâm sân hận.]

“Lại nữa, nên nghĩ rằng những lời mắng chửi đó đến với ta chỉ là số ít, chỉ là 1 giới trong 18 giới, chỉ là 1 nhập trong 12 nhập, chỉ là 1 ấm trong 5 ấm,[193] những ấm, nhập, giới còn lại đều không phải là sự mắng chửi, nên phần mắng chửi là ít, phần không mắng chửi là rất nhiều.[194] [Như vậy thì đâu có gì phải sanh tâm sân hận.]

“Lại nữa nên nghĩ rằng, ai đã tạo thành sự mắng chửi, là người mắng chửi hay người bị mắng chửi? Suy xét như vậy thì thấy rằng do người mắng chửi tạo thành. Như vậy tức là người ấy tự mắng chửi, nào có gì để ta phải sanh tâm sân hận?

“Lại nữa nên nghĩ rằng, chỉ nói ra một chữ thì không thành câu mắng chửi, phải từ hai chữ mới thành câu mắng chửi. Nhưng không thể nào cùng lúc nói ra được 2 chữ, vì khi nói ra chữ sau thì chữ trước đã mất rồi. [Như vậy chỉ là do ta khởi ý phân biệt nên gọi đó là mắng chửi. Nghĩ như vậy thì không có gì phải sanh tâm sân hận.]

“Lại nữa nên nghĩ rằng, người mắng chửi với ta đều cùng lúc diệt mất trong một sát-na, sau đó là các ấm khác sanh ra, trong đó không có người mắng chửi cũng không có người bị mắng chửi, sự mắng chửi cũng không thể tìm thấy hoặc nắm bắt. Nghĩ như vậy nên không sanh tâm sân hận.”

Những quán chiếu như trên tức là vận dụng lẽ “không” làm áo giáp nhẫn nhục.

[Cũng trong luận này], quyển 17[195] nói: Phàm phu với bậc thánh đều có đủ 3 cảm thọ [khổ, vui và không khổ không vui], vì sao lại khác nhau?

[Đáp rằng:] Phàm phu trong cảm thọ khổ có 2 phần, một là thân thọ nhận sự khổ, hai là tâm thọ nhận sự buồn lo đau đớn. [Ba cảm thọ đối với phàm phu] như 3 mũi tên độc [nên gây hại], bị mất sự vui thích liền khởi lên sân hận; được sự vui thích liền khởi lên mừng vui tham đắm; không khổ không vui ắt rơi vào si mê. Bậc thánh chỉ có cảm thọ của thân mà không có cảm thọ của tâm; đối với sự khổ chẳng khởi tâm sân, đối với việc sự vui chẳng sanh tham ái, đối với sự không khổ không vui cũng không rơi vào si mê; ba kết sử [tham, sân, si] ấy không thể trói buộc sai khiến được, đối với kết sử được giải thoát, cho nên giữa phàm phu với bậc thánh có khác biệt.”

Những lập luận dùng lẽ có không để chế phục như vậy tức là vận dụng theo Biệt giáo để làm áo giáp nhẫn nhục.

Kinh này nói “mặc áo giáp nhẫn nhục” là lấy việc nghĩ nhớ đến Phật làm áo giáp, tức là nhớ nghĩ đến pháp, đệ nhất nghĩa của Phật. Phật tức là pháp, nên kinh văn nói “Chúng con nhớ lời Phật”, đó tức là pháp. Phật tức là Tăng, Tăng tức là sự và lý đều hòa hợp, tức là pháp thân biến hiện khắp mọi nơi. [Vận dụng] áo giáp như vậy thì một áo giáp là hết thảy áo giáp. Đây tức áo giáp nhẫn nhục theo Viên giáo.

14. Giải thích phẩm Hạnh an vui

KINH VĂN

Phẩm Hạnh an vui, thứ mười bốn

Giải thích tên phẩm

Việc giải thích phẩm này dựa theo 3 ý nghĩa. Thứ nhất là theo sự việc, thứ hai là dựa vào ý nghĩa kinh văn, thứ ba là theo ý nghĩa pháp môn.

[Giải thích theo] sự việc thì do thân không gặp nguy hiểm nên gọi là “an”; tâm không lo buồn sầu khổ nên gọi là “vui”; thân được an, tâm được vui nên “hạnh” tu tập có thể tăng tiến.

[Giải thích] dựa theo ý nghĩa] kinh văn là nói đắp y Như Lai nên pháp thân “an”; vào nhà Như Lai nên tâm giải thoát “vui”; ngồi tòa Như Lai nên “hạnh” đạo Bát-nhã tăng tiến. Đây là dựa vào ý nghĩa kinh văn của phẩm [Pháp sư] ở trước để giải thích.

[Lại nữa, dựa theo ý nghĩa kinh văn trong phẩm này nói] “trụ nơi giai vị nhẫn nhục” cho nên thân được “an”, “không hấp tấp thô bạo” cho nên tâm được “vui”, “quán xét thấy đúng tướng như thật” của các pháp cho nên “hạnh” tu tập tăng tiến.

Lại nữa, giải thích theo ý nghĩa pháp môn thì “an” là không động chuyển, “vui” là không cảm thụ, “hạnh” là không có gì để làm.

Giải thích về không động chuyển, đó là những gì thuộc về 6 cảnh giới trong sanh tử,[196] 2 cảnh giới Niết-bàn của bậc thánh[197] đều không thể làm cho động chuyển. Vì không vướng mắc chạy theo sự bám chấp vào 2 bên có, không[198] nên thân không động chuyển. Kinh văn phần trước [trong phẩm Thí dụ hóa thành] nói: “Thân thể cùng tay chân, đều an nhiên không động; trong tâm thường an tĩnh, chưa từng có tán loạn.”[199] Tức là trụ yên không động chuyển như đỉnh núi Tu-di. Đây là pháp môn thường trụ bất động.

Giải thích về niềm vui [chân thật], tức là sự vận dụng rộng lớn của pháp tam-muội không cảm thụ. Không cảm thụ 5 loại cảm thụ[200] của phàm phu, cho đến 5 loại cảm thụ của Viên giáo, khởi sanh kiến chấp cũng đều không cảm thụ.

Có cảm thụ tất nhiên sẽ có khổ, nếu không cảm thụ tất nhiên không có khổ. Không khổ không vui mới gọi là niềm vui lớn lao chân thật.

Giải thích về “không có chỗ làm”, đó là nếu có chỗ cảm thụ tất nhiên có chỗ làm, nếu không có chỗ cảm thụ tức không có chỗ làm. Không làm theo hạnh phàm phu, không làm theo hạnh hiền thánh, cho nên nói là không có chỗ làm; nhưng làm theo trung đạo cho nên nói là “hạnh”. Đây là giải thích theo ý nghĩa pháp môn.

Bây giờ lại giải thích rộng hơn dựa theo sự việc. Nói về an vui tức là cảnh giới Đại Niết-bàn. Đây là dựa theo quả đạt được mà gọi tên. “Hạnh” tức là con đường đi đến Niết-bàn. Đây là dựa theo nhân tạo tác mà gọi tên. Ngoài [nhân Niết-bàn và quả Niết-bàn] ra thì tất cả những nhân và quả khác đều là khổ. Như hàng ngoại đạo chấp thường mà thực hành khổ hạnh chỉ đạt đến quả khổ. Hoặc nếu nói nhân vui mà quả khổ thì như hàng ngoại đạo chấp đoạn, buông thả dục tình phóng túng thụ hưởng dục lạc, sau chịu quả báo khổ. Nếu nói về nhân khổ mà quả vui thì như hàng Nhị thừa phân tích chia chẻ các pháp, vận dụng không khéo léo lẽ vô thường nên phải khổ nhọc rất nhiều cho đến khi thể nhập Niết-bàn [Tiểu thừa].

Nay [phẩm này] nói “hạnh an vui” là theo nghĩa nhân quả đều an vui, tức là như trong Đại phẩm Bát-nhã nói “vận dụng khéo léo lẽ như thật”.[201] Kinh Đại Bát Niết-bàn nói rằng: “Hạnh lúc nào cũng khổ là hàng phàm phu; hạnh có khổ có vui là hàng Thanh văn, Duyên giác; hạnh lúc nào cũng vui là hàng Bồ Tát.”[202] Tất cả [hành giả trong] 7 hạng phương tiện đều là tạo nhân thô thiển, được quả thô thiển, đều không phải là hạnh an vui; chỉ có nhân vi diệu, quả vi diệu mới gọi là hạnh an vui.

Lại giải thích rộng hơn dựa theo ý nghĩa kinh văn thì hạnh an vui là con đường đi đến Niết-bàn. Niết-bàn lại có 3 nghĩa, tức là 3 phẩm đức[203] của kho tàng bí mật.

Hạnh lại có 3 nghĩa, đó là thực hành pháp chỉ, thực hành pháp quán và thực hành từ bi.

Thực hành pháp chỉ là thực hành 3 nghiệp nhu hòa, đối với sự việc dù trái nghịch hay thuận theo đều tịch lặng, nghĩa là thực hành theo thể của [phẩm đức] pháp thân. Đây là ý nghĩa kinh văn phần trước [trong phẩm Pháp sư] nói “đắp y Như Lai”.

Thực hành pháp quán là thực hành trí tuệ soi thấy một thật tướng, chiếu ánh sáng không phân biệt, tức là thực hành theo thể của [phẩm đức] Bát-nhã. Đây là ý nghĩa kinh văn phần trước [trong phẩm Pháp sư] nói “ngồi tòa Như Lai”.

Thực hành từ bi là thực hành bốn thệ nguyện lớn lao, rộng độ khắp thảy chúng sanh, tức là thực hành theo thể của [phẩm đức] giải thoát. Đây là ý nghĩa kinh văn phần trước [trong phẩm Pháp sư] nói “vào nhà Như Lai”.

Cả 3 pháp thực hành ấy là con đường đến Niết-bàn, cả 3 phẩm đức ấy là cảnh giới của “hạnh”; cảnh giới ấy gọi là “an vui”, con đường [đến Niết-bàn] ấy gọi là “hạnh”.

Luận Đại trí độ nói: “Bồ Tát từ khi mới phát tâm thường quán Niết-bàn, khi tạo nhân tu hành đạo thì vận dụng 3 pháp thực hành này dẫn dắt 3 nghiệp, lấy đó làm hạnh.” Ba nghiệp thanh tịnh ắt làm thanh tịnh 6 căn; 6 căn thanh tịnh thì phát khởi sự nhận hiểu tương tợ mà thể nhập được cảnh giới chân thật. Khi thành tựu quả vị thì [6 căn thanh tịnh ấy] gọi là mắt Phật, tai Phật...

Nhân tu tập là thực hành pháp chỉ, quả thành tựu gọi là phẩm đức dứt trừ phiền não (đoạn đức). Nhân tu tập là thực hành pháp quán, quả thành tựu gọi là phẩm đức trí tuệ soi chiếu (trí đức). Nhân tu tập là thực hành từ bi, quả thành tựu gọi là phẩm đức ban ân giáo hóa khắp thảy chúng sanh (ân đức).[204]

Lại nữa, nhân tu tập là 3 nghiệp, quả thành tựu là 3 mật;[205] khi tu tập nhân là từ bi dẫn dắt 3 nghiệp làm lợi ích chúng sanh, khi thành tựu quả là 3 luân[206] giáo hóa [chúng sanh] không thể nghĩ bàn.[207]

Quán xét như vậy thì không còn phân biệt, trong hết thảy các pháp đều tự có tánh an vui, hết thảy chúng sanh tức là đại Niết-bàn, không thể lại còn có sự diệt độ. [Kinh Duy-ma-cật nói: “Bồ Tát] thực hành điều không phải đạo là thông đạt Phật đạo.”[208] Đây chính là dứt hết mọi đối đãi mà nêu “hạnh an vui”. [Ý nghĩa] thực hành này tương hợp với ý nghĩa trong kinh Đại Bát Niết-bàn.[209] Kinh Đại bát Niết-bàn nói rằng:[210] “Lại có một hạnh, là hạnh Như Lai.”[211] Như Lai là nói người, an vui là nói pháp; Như Lai là người an vui, an vui là pháp của Như Lai. Nói khái quát thì ý nghĩa trong 2 kinh không khác biệt, nói chi tiết cũng không khác biệt. Kinh này nói việc [đắp y Như Lai] là pháp nhẫn tịch diệt, [nói ngồi tòa Như Lai] là trụ nơi pháp không, lại nói vào nhà Như Lai; kinh Đại Bát Niết-bàn nói “cây báu bằng vàng bạc”, cây báu tức là rừng cây báu vô lậu; vô lậu so với pháp không, pháp nhẫn tịch diệt là tương hợp. Kinh Đại Bát Niết-bàn nói “có sông lớn Kim sa[212] không uốn khúc, chảy thẳng vào biển phía tây”, tức là ý nghĩa một trí tuệ chân thật, so với nghĩa “các pháp đều không” là tương hợp. [Lại nói] người phụ nữ đạt đạo thì không còn gian dối quanh co, tức là ý nghĩa tâm đại từ vô duyên, so với ý nghĩa “nhà Như Lai” là tương hợp. Kinh Đại Bát Niết-bàn gọi là nghĩa vô dư, kinh Pháp hoa này gọi là nghĩa vô thượng đạo. Lại nữa, ý nghĩa của 5 hạnh [trong kinh Đại Bát Niết-bàn][213] so với các nghĩa đắp y Như Lai, ngồi tòa Như Lai, vào nhà Như Lai [trong kinh này] là tương đồng.[214]

Hỏi: Kinh Đại Bát Niết-bàn nêu việc [người hộ trì chánh pháp] thân cận đức vua, mang cung tên đi khuất phục kẻ ác;[215] kinh này thì nói phải xa lìa những người có quyền thế, sống khiêm hạ với tâm hiền thiện từ ái; [hai bên] cứng rắn với nhu hòa thật khác nhau quá xa, sao lại nói là không khác biệt?

Đáp: [Trong 2 pháp khuất phục và nhiếp thụ,][216] kinh Đại Bát Niết-bàn nói thiên về sự khuất phục, [nhưng cũng nói Bồ Tát] trụ ở giai vị Nhất tử[217] [thương chúng sanh như con một của mình], như vậy đâu phải là không có sự nhiếp thụ? Kinh [Pháp hoa] này nói thiên về sự nhiếp thụ, [nhưng trong phẩm Đà-la-ni cũng nói “ai quấy nhiễu người thuyết pháp] đầu người ấy sẽ bị vỡ làm 7 mảnh”,[218] như vậy đâu phải là không có sự khuất phục? Chẳng qua mỗi kinh đều chỉ nêu ra một manh mối thích hợp đúng thời mà thôi. Nếu xét về lý thì [cả 2 kinh] đều có đủ 4 [pháp tất đàn]. Vì sao có thể nói như vậy? Vì nêu việc thích hợp đúng thời tức là ý thế giới tất đàn, nói nghĩa nhiếp thụ tức là ý vị nhân tất đàn, nói nghĩa khuất phục tức là ý đối trị tất đàn, [đưa đến sự] chứng ngộ Phật đạo tức là ý đệ nhất nghĩa tất đàn.

Lại nữa, giải thích theo ý nghĩa pháp môn thì “an” là không động chuyển, “vui” là không cảm thụ, “hạnh” là không có gì để làm.

Giải thích [tên phẩm] rộng hơn theo ý nghĩa pháp môn thì lẽ ra phải nói về pháp môn không động chuyển [là nghĩa “an”], pháp môn không cảm thụ [là nghĩa “vui”] và pháp môn không có chỗ làm [là nghĩa “hạnh”], nhưng nay lược bớt những phần này không ghi ra.

Phẩm này là ý thứ tư thuộc phần tích môn lưu thông. Nếu là đối với 20.000 Bồ Tát [trong nhóm của Bồ Tát Dược Vương] hoặc 80 muôn ức na-do-tha Đại Bồ Tát đã vâng lời Phật dạy để lưu thông truyền rộng kinh này, thì các vị đều đã nhận thức sâu xa các pháp quyền thật, hiểu rộng về các giáo pháp tiệm đốn, lại thấu đạt cơ duyên, có sức thần tự tại, dù trong đời uế trược phiền não rối loạn cũng không thể ngăn cản các vị lưu thông truyền rộng kinh này, không cần phải đợi Phật chỉ bày phương pháp [mới thực hành được]. Nhưng đối với những người mới phát tâm nương theo Phật pháp, muốn tu tập viên mãn hạnh nguyện lợi tha[219] nên vào đời uế trược để lưu thông truyền rộng kinh này, bị uế trược quấy nhiễu não loạn, tự mình thực hành không được vững vàng, cũng chưa có công đức giáo hóa người khác, đức Phật vì những người này nên phải chỉ bày phương pháp hạnh an vui, cho nên mới có phẩm này.

Hạnh an vui [trong phẩm này] có thứ lớp không? Xét như sự thực hành viên mãn theo kinh Pháp hoa này thì một công hạnh đã là vô số công hạnh, không thể nghĩ bàn, làm sao có sự phân định thứ lớp trước sau? Nay chỉ tạm nêu một đầu mối, trong phẩm Pháp sư chỉ bày sơ lược việc truyền rộng kinh này, lấy việc lợi ích chúng sanh làm gốc, cho nên trước tiên nói “vào nhà Như Lai” [khởi tâm từ bi]. Trong phẩm [Hạnh an vui] này thì nói việc truyền rộng kinh điển trong đời xấu ác, giúp làm an ổn những phiền não bức bách, cho nên trước tiên nói “đắp y Như Lai” [nhu hòa nhẫn nhục]. [Hai cách sắp xếp] trước sau như vậy là hỗ trợ cho nhau để làm rõ vấn đề.

Nếu dựa theo thứ lớp thực hành thì [kinh văn nói] “các pháp từ xưa nay, tướng thường tự tịch diệt”, nếu trái nghịch với tánh thường tịch diệt ấy liền khởi lên các pháp tương ưng, nên trước phải dùng trí tuệ Bát-nhã dứt trừ những pháp ấy, tức là trước tiên phải “ngồi tòa Như Lai” [các pháp đều không]. Từ chỗ các pháp không sanh mà trí Bát-nhã khởi sanh đồng thể từ bi,[220] thương xót chúng sanh nên thực hành đạo pháp, tức là tiếp theo “vào nhà Như Lai” [khởi tâm từ bi]. Đã vận dụng tâm từ bi để giáo hóa người đời, tất nhiên phải trải qua những điều thuận nghịch, nhất định cần phải an ổn nhẫn chịu, cho nên tiếp đến là “đắp y Như Lai” [nhu hòa nhẫn nhục].

Tuy nói có thứ lớp tuần tự như vậy, nhưng chẳng qua chỉ là về mặt giáo thuyết, không phải lúc thực hành. Một khi thực hành [“ngồi tòa Như Lai”] thể nhập các pháp đều không, tức là đã đầy đủ tất cả các pháp, huống chi là từ bi với nhẫn nhục [mà lại chưa có] hay sao?

Về 4 hạnh an vui [trong phẩm này], các nhà cựu giải nói rằng, hạnh thứ nhất lấy việc quán xét các pháp giả, thật đều không làm thể; hạnh thứ hai lấy việc thuyết pháp làm thể; hạnh thứ ba lấy việc xa lìa lỗi lầm làm thể; hạnh thứ tư lấy tâm từ bi làm thể.

Cơ sư giải thích rằng, hạnh thứ nhất là không; hạnh thứ hai là lìa kiêu mạn; hạnh thứ ba là trừ tâm ganh ghét đố kỵ; hạnh thứ tư là tâm đại từ bi.

Long sư nói, hạnh thứ nhất là thân xa lìa những việc xấu ác, tâm dần dần đến gần lẽ không; hạnh thứ hai là trừ những lỗi lầm trong lời nói; hạnh thứ ba là trừ tâm ý ganh ghét đố kỵ; hạnh thứ tư là khởi tâm từ bi.

Đại sư Nam Nhạc Tuệ Tư[221] nói rằng, hạnh thứ nhất là trí tuệ chân chánh không bám chấp; hạnh thứ hai là miệng không nói lỗi người khác; hạnh thứ ba là cung kính người trên, dẫn dắt kẻ dưới; hạnh thứ tư là tâm đại từ bi.

Đại sư Thiên Thai[222] nói rằng, đó là ba hạnh thực hành chỉ, quán và từ bi dẫn dắt 3 nghiệp, cùng với hạnh thứ tư là thệ nguyện.

Về nghiệp của thân, nhờ thực hành pháp chỉ nên xa lìa nghiệp thô xấu của thân, thực hành pháp quán nên không có thân sau, không có nghiệp của thân, không thể xa lìa. Vì không có chỗ được nên không đọa vào cảnh giới phàm phu.

Vì có tâm từ bi nên chuyên cần tu tập nghiệp của thân, rộng làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh, do đó không rơi vào các giai vị nhị thừa.

Thực hành pháp chỉ nên “đắp y Như Lai” nhẫn nhục nhu hòa, thực hành pháp quán nên “ngồi tòa Như Lai”, có tâm từ bi nên “vào nhà Như Lai”.

Thực hành pháp chỉ, xa lìa lỗi lầm tức thành tựu phẩm đức dứt trừ phiền não (đoạn đức); thực hành pháp quán, không còn bám chấp tức thành tựu phẩm đức trí tuệ soi chiếu (trí đức); tâm từ bi lợi tha tức thành tựu phẩm đức ban ân giáo hóa khắp thảy chúng sanh (ân đức). Nhờ “ân đức” giúp thành tựu “trí đức”, nhờ trí đức có thể thông đạt “đoạn đức”.

Trên đây là nói về hạnh an vui của thân nghiệp. Ngoài ra, đối với lời nói (khẩu nghiệp), tâm ý (ý nghiệp) và thệ nguyện cũng đều như vậy.

KINH VĂN

Lúc bấy giờ, Đại Bồ Tát Pháp Vương tử Văn-thù-sư-lợi thưa với Phật: “Bạch Thế Tôn! Những vị Bồ Tát này thật vô cùng hiếm có, kính thuận ý Phật nên phát lời thệ nguyện lớn lao, trong đời xấu ác về sau sẽ bảo vệ giữ gìn, tụng đọc thuyết giảng kinh Pháp hoa này. Bạch Thế Tôn! Các vị Đại Bồ Tát trong đời xấu ác về sau làm thế nào để có thể thuyết giảng kinh này?”

Kinh văn phẩm này có 2 phần, thưa hỏi và giải đáp. Phần thứ nhất là thưa hỏi, trước tiên ngợi khen các vị Bồ Tát trong phẩm trước công hạnh sâu xa, có thể rộng truyền kinh điển như lời Phật dạy. Sau đó thưa hỏi về việc các vị Bồ Tát công hạnh còn non kém thì trong đời xấu ác về sau phải thuyết giảng truyền rộng kinh này như thế nào?

KINH VĂN

Đức Phật bảo ngài Văn-thù-sư-lợi: “Nếu Đại Bồ Tát trong đời xấu ác về sau muốn thuyết giảng kinh này, nên trụ yên trong 4 pháp.

“Thứ nhất, trụ yên trong phạm vi thực hành và thân cận của hàng Bồ Tát thì có thể vì chúng sanh diễn giải, thuyết giảng kinh này.

“Này Văn-thù-sư-lợi! Thế nào gọi là phạm vi thực hành của hàng Bồ Tát? Nếu vị Đại Bồ Tát trụ nơi giai vị nhẫn nhục,[223] luôn nhu hòa, khéo léo tùy thuận mà không hấp tấp thô bạo, trong lòng không sợ sệt, lại đối với các pháp không có chỗ làm, chỉ quán xét thấy đúng tướng như thật, cũng không thực hành sự không phân biệt, đó gọi là phạm vi thực hành của hàng Bồ Tát.”

Phần thứ hai là giải đáp, từ câu “Đức Phật bảo ngài Văn-thù-sư-lợi…” trở đi, có 3 tổng đoạn. Tổng đoạn thứ nhất nêu các phần trong 4 hạnh an vui. Tổng đoạn thứ hai là giải thích phương pháp tu hành. Tổng đoạn thứ ba nêu tổng quát tướng trạng thành tựu của các hạnh.

© Tổng đoạn thứ nhất nêu các phần, ý nghĩa y theo kinh văn [có thể hiểu được].

© Tổng đoạn thứ hai từ câu “Thứ nhất, trụ yên trong phạm vi thực hành và thân cận của hàng Bồ Tát…” trở đi là giải thích phương pháp, tức là nói 4 pháp khác biệt, [chia ra 4 đoạn].

Đoạn thứ nhất lại có 2 tiểu đoạn. Thứ nhất là giải thích phương pháp, thứ hai là kết lại thành tựu của công hạnh.

Tiểu đoạn thứ nhất nói phương pháp tu hành, gồm có kinh văn trường hàng và kệ tụng. Phần kinh văn trường hàng lại có 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất từ câu “Thứ nhất, trụ yên …” trở đi, nêu phạm vi thực hành thân cận. Phân đoạn thứ hai từ câu “Này Văn-thù-sư-lợi!...” trở đi là giải thích phạm vi thực hành thân cận.

Phân đoạn thứ nhất nêu 2 vấn đề thực hành và thân cận, y theo kinh văn có thể hiểu được.

Phân đoạn thứ hai, trong sự giải thích lại có 2 ý, tức là nêu chỗ thực hành (hành xứ) và chỗ thân cận (cận xứ).

Ý thứ nhất, có người nói chỗ thực hành ban đầu của các giai vị nội phàm[224] gọi là hành xứ; tu tập lâu ngày thuần thục, dần dần có thể đến gần lẽ thật nên gọi là cận xứ. Lập luận này viện dẫn việc thực hành cận quả trong phẩm trước làm tiền lệ để noi theo.

Có người nói hành xứ là dựa vào nhân tạo tác, cận xứ là dựa vào quả thành tựu. Hành xứ nêu trí tuệ, cận xứ nêu cảnh ngoài.

Ngài Đàm Dao nói rằng, [hàng Bồ Tát] từ giai vị thất trụ[225] trở lên, tâm thể nhập nơi thật lý, gọi là hành xứ, vì đã vượt qua sanh tử phần đoạn. Từ giai vị này trở về trước chưa đạt vô sanh, chưa [giác ngộ] hiện tiền, đang dần dần tiến đến gần với thật lý nên là cận xứ, cũng là sanh tử phần đoạn. Hai loại [hành xứ và cận xứ] này đều là chỗ thực hành ban đầu, nên đều xếp chung là một hạnh an vui.

Theo ý riêng tôi cho rằng,[226] lập luận của 2 vị trước[227] cho hành xứ là chỗ [thực hành] còn nông cạn hơn, nhưng kinh Đại Bát Niết-bàn nói rằng: “Hàng Bồ Tát Thập địa còn dựa vào chỗ hành, cho nên thấy biết [tánh Phật] chưa rõ ràng.”[228] Như vậy thì biết là hành xứ không phải còn nông cạn. Lập luận sau đó của ngài Đàm Dao thì cho rằng cận xứ là nông cạn hơn, nhưng kinh Tịnh Danh nói [về các Đại Bồ Tát] là “đã đến gần trí tuệ tự tại của Phật không gì sánh bằng”,[229] như vậy tức là cận xứ ấy rốt lại rất sâu xa.

Nếu nói cả hai [cận xứ và hành xứ] đều sâu xa thì lại trở thành công hạnh sâu xa của các vị Bồ Tát [nhận lãnh việc] lưu thông truyền rộng kinh điển trong phẩm trước, không liên quan đến phương pháp [chỉ bày cho] hàng Bồ Tát mới phát tâm. Còn nếu nói cả hai đều nông cạn thì đó là chỗ thực hành của [hành giả trong] 7 hạng phương tiện, không liên quan đến phương pháp thực hành công hạnh viên mãn. Cho nên không thể thiên lệch dựa vào sự sâu xa hay nông cạn.

Tuy nhiên, hành tức là phát triển khuynh hướng, cận gọi là tự thân tu tập. Tu tập cho nên phát triển, phát triển cho nên tu tập, đâu có sự sâu xa hay nông cạn?

Lại nữa, chỗ thực hành và chỗ thân cận cũng là phương pháp [đã nói trong phẩm Pháp sư] ở trước. Hành xứ là “đắp y Như Lai”, cận xứ là “ngồi tòa Như Lai”, tòa và y đã không có sâu cạn, hành xứ và cận xứ làm sao lại có chỗ hơn kém?

Lại nữa, nhẫn nhục ắt trong lòng luôn hướng đến thật lý, trải qua ngoại duyên mà nhẫn chịu mọi việc, xem đó là chỗ thực hành. Ngồi tòa [Như Lai] muôn pháp đều không ắt thể đạt ngoại duyên mà dừng bặt nơi cảnh chân thật, xem đó là chỗ thân cận. Thế thì sự với lý cùng hỗ trợ cho nhau mà hiển hiện, làm sao có cạn với sâu?

Nhưng nếu đã như vậy thì tại sao lại phân biệt hành xứ với cận xứ? Thấu đạt lý[230] nhưng lược thuyết gọi là hành xứ, nương theo sự mà giảng rộng nên gọi là cận xứ. Thuyết giảng có rộng có lược, nhưng thật lý không có sâu cạn.

Nay lược nói 3 pháp để giải thích về hành xứ.

Thứ nhất là nêu tương duyên trực tiếp với một chân lý rốt ráo. Một chân lý rốt ráo là chỗ quy về của tất cả các pháp, là căn bản của tất cả mà cùng khắp không phân biệt.

1. Chỗ quy về của tất cả các pháp tức là nhẫn nhục địa. “Địa” là trung đạo, nơi các pháp quy về cho nên gọi là địa. Những chỗ thực hành đều dừng nghỉ nên gọi là nhẫn nhục. Đây tức là hạnh làm mà không làm.

2. Căn bản của tất cả pháp là cũng giống như muôn vật nhờ có đất mà sanh trưởng. Những chỗ thực hành đều do thấu đạt thật lý mà thành tựu. Nếu đạt đến cội nguồn của lý thì ở nơi cứng rắn có thể nhu hòa, ở nơi trái nghịch có thể đồng thuận, ở nơi bạo loạn có thể trị yên, ở nơi kinh sợ có thể an ổn. Vô lượng công đức đều từ nơi đất trung đạo mà sanh ra. Đất không sanh ra gì nhưng sanh công đức. Đây tức là hạnh không làm mà làm.

3. Cùng khắp không phân biệt tức là không phân biệt tướng trạng sai khác giữa làm với không làm, cho nên [kinh văn] nói “cũng không thực hành sự không phân biệt”. Đây tức là hạnh chẳng phải làm chẳng phải không làm.

Không có ba hạnh như trên mà đầy đủ ba hạnh, cho nên gọi là “hành”. Đồng nhất một chân lý rốt ráo cho nên gọi là “xứ”. Đúng như hành xứ này là tương hợp với kinh văn phẩm [Pháp sư ở] trước. Những chỗ thực hành đều dừng bặt, tương hợp với “đắp y Như Lai”, công đức theo đó sanh ra là tương hợp với “vào nhà Như Lai”, cùng khắp không phân biệt là tương hợp với “ngồi tòa Như Lai”. Đây gọi là vận dụng một pháp để giải thích hành xứ, cũng là phương pháp, nguyên tắc của việc lưu thông truyền rộng kinh điển.

Thứ hai là dựa vào 2 pháp [để giải thích], tức là 2 nhẫn: sanh nhẫn và pháp nhẫn, cũng tức là 2 không: sanh không và pháp không.

Hai không này khác với 2 không của hàng nhị thừa. Vì sao vậy? Vì nhân không và pháp không [của hàng nhị thừa] là dựa vào chân tục, giả thật. Nêu 2 không là 2 nhẫn, đều là thấy được trung đạo cho nên không đồng với nhị thừa.

Nếu lại mở rộng thêm thì là 4 nhẫn.[231] Nếu nói 5 nhẫn[232] thì [kinh văn nói] “khéo léo” tức là thêm tín nhẫn. Nếu nói 6 nhẫn[233] thì [kinh văn nói] “luôn nhu hòa” tức là thêm hòa tùng nhẫn. Nếu xét theo các giai vị [Bồ Tát] thì mở rộng ra đến 42 nhẫn. Mỗi một giai vị Bồ Tát còn có đủ công đức của 41 giai vị khác,[234] lẽ nào một nhẫn lại không có đủ 41 pháp nhẫn khác hay sao? Nay chỉ lược nói 4 nhẫn để hiểu ý nghĩa kinh văn, tức là phục nhẫn, thuận nhẫn, vô sanh nhẫn và tịch diệt nhẫn. Bốn nhẫn này so với [các pháp nhẫn của] Biệt giáo là khác biệt. Theo Biệt giáo thì phục nhẫn và thuận nhẫn thuộc về sanh nhẫn, tức còn nông cạn; vô sanh nhẫn và tịch diệt nhẫn thuộc về pháp nhẫn, tức là sâu xa. Nay theo Viên giáo thì sanh nhẫn, pháp nhẫn đều thông nên 4 nhẫn cũng thông. Vì sao vậy? Vì lý 2 không tức là trung đạo. Hàng Bồ Tát sơ trụ tu tập 4 nhẫn, thể nhập trung đạo thấy lý 2 không, cho đến các tâm về sau cũng là thấu đáo tột cùng lý 2 không đó. Kinh Đại Bát Niết-bàn nói rằng: “Khi mới phát tâm cho đến tu tập rốt ráo, 2 tâm ấy không hề khác biệt.”

Nếu dựa vào lý không có cạn sâu mà phân biệt 4 nhẫn thì từ lúc mới phát tâm đến khi điều phục trọn vẹn 5 trụ địa phiền não,[235] cho đến lúc trụ Kim Cang đảnh, tất cả đều gọi là phục nhẫn.

Từ ban đầu cho đến về sau, tất cả đều không sai biệt với thật tướng nên gọi là thuận nhẫn.

Từ ban đầu cho đến về sau đều không khởi tâm phân biệt hai bên nên gọi là vô sanh nhẫn.

Từ ban đầu cho đến về sau đều dừng bặt mọi thực hành nên gọi là tịch diệt nhẫn.

Nghe việc sanh tử không vội vàng sanh tâm sợ khổ, nghe được Niết-bàn không vội vàng thể chứng sự vui. Nghe những việc như Phật là thường hoặc vô thường, nhị thừa có thể làm Phật hoặc không làm Phật; nghe sanh tử với Niết-bàn là khác nhau hoặc không khác, nghe con đường thành Phật lâu dài hay ngắn ngủi, khó khăn hoặc dễ dàng, hoặc không dài không ngắn, không khó không dễ... cũng đều không kinh hãi sợ sệt.

Thực hành hạnh như thế là từ ban đầu cho đến sau cuối đều vận dụng lý 2 không, sanh không và pháp không, để nhẫn chịu các pháp, tức là “đắp y Như Lai”; trụ yên trong lý nhị không tức là “ngồi tòa Như Lai”; thương xót hết thảy chúng sanh tức là “vào nhà Như Lai”.

Hai pháp không, bốn pháp nhẫn gọi là “hành”, thật lý tức là “xứ”. Đây gọi là dựa vào 2 pháp để giải thích hành xứ, cũng là phương pháp, nguyên tắc của việc lưu thông truyền rộng kinh điển.

Thứ ba là dựa theo ba pháp [để giải thích]. Ba pháp tức là ba chân đế không thể nghĩ bàn: [giả đế, không đế và trung đế]. Trụ nơi giai vị nhẫn nhục để luận khái quát về ba chân đế cũng giống như đứng vững vàng trên mặt đất, rồi mới có thể thực hành nhẫn nhục.

“Nhu hòa, khéo léo tùy thuận” là nói khéo léo tùy thuận chân đế nên có thể nhẫn chịu những điều hư vọng như [2 loại phiền não:] kiến phiền não và ái phiền não,[236] [cùng những điều không thích ý như] lạnh, nóng v.v. Do vậy nên nói là “khéo léo tùy thuận”.

“Mà không hấp tấp thô bạo” là nói tâm không kinh sợ, trụ yên nơi chân lý thế tục mà nhẫn chịu các căn duyên [trái nghịch], ứng phó thích hợp tùy cơ nghi, cho nên nói là “không hấp tấp thô bạo”. Đặt mình vào chỗ nhẫn chịu mọi điều thuận nghịch cho nên tâm không kinh sợ.

“Đối với các pháp không có chỗ làm…” tức là trụ yên nơi chân lý trung đạo, có thể nhẫn chịu được sự thiên lệch về 2 bên, cho nên nói là “không có chỗ làm”. Trụ yên đúng nơi trung đạo cho nên nói là “chỉ quán xét thấy đúng tướng như thật”, nhưng không bám giữ chỗ trung đạo ấy, cho nên nói là “cũng không thực hành sự không phân biệt”.[237]

Giải thích như trên là dựa vào “mặt đất” 3 chân đế: [giả đế, không đế và thật đế] nên gọi là “xứ”; nhẫn chịu sự khổ nhục của 5 trụ địa phiền não nên gọi là “hành”.

“Hành” [với nghĩa thực hành] lại có 3 loại, tức là nói thực hành pháp chỉ, đó là hạnh làm mà không làm; thực hành pháp quán, đó là hạnh chẳng phải làm chẳng phải không làm; thực hành từ bi, đó là hạnh không làm mà làm. Những ý nghĩa này tương hợp với [kinh văn trong phẩm Pháp sư] phần trước nói về các nghĩa “đắp y Như Lai, ngồi tòa Như Lai, vào nhà Như Lai”.

Đây là vận dụng 3 pháp để giải thích về hành xứ, nêu rõ phương pháp, nguyên tắc lưu thông truyền rộng kinh điển.

Long sư giải thích rằng: “Trụ nơi giai vị nhẫn nhục” là nói chung sanh nhẫn và pháp nhẫn, tiếp theo nêu riêng về 2 loại nhẫn này. “Nhu hòa, khéo tùy thuận” là nêu thân nghiệp; “mà không hấp tấp thô bạo” là nêu khẩu nghiệp; “trong lòng không sợ sệt” là nêu ý nghiệp. Đây là nêu 3 nghiệp để nói về tu tập sanh nhẫn. “Đối với các pháp không có chỗ làm”, là nói không thực hành pháp “hữu tướng”; “chỉ quán xét thấy đúng tướng như thật”, là nói thực hành pháp “không” bình đẳng; “cũng không thực hành sự không phân biệt”, là nói không thực hành pháp “vô tướng”. [Như vậy] có và không đều mất nên lãnh hội được trung đạo. Ba câu này là nói việc tu tập pháp nhẫn. Đạt được 2 loại nhẫn này, kết lại là “hành xứ”.

Cách giải thích này nêu sanh nhẫn và pháp nhẫn nhưng không biết là nói theo giáo pháp nào? Nếu là 2 nhẫn theo Tạng giáo thì hoàn toàn không phải nghĩa của Pháp hoa, còn nếu nói theo Viên giáo thì lẽ ra không nên có sự cách biệt chẳng dung thông. Đại lược là như thế.

KINH VĂN

“Thế nào gọi là phạm vi thân cận[238] của hàng Bồ Tát?

“Vị Đại Bồ Tát không thân cận với hàng vua chúa, con vua, đại thần, tướng quân;[239] không thân cận với hàng ngoại đạo xuất gia cũng như tại gia,[240] cùng những người viết văn chương thế tục, ca ngâm tán vịnh thế gian;[241] những kẻ luyện chú thuật thế tục hoặc nghiên tầm triết lý thế gian;[242] cũng không thân cận những kẻ chơi trò hung hiểm đâm nhau, đánh nhau,[243] cùng những kẻ diễn trò nhảy múa,[244] biểu diễn ảo thuật biến hóa;[245] cũng không thân cận hạng chiên-đà-la, những người làm nghề ác hại như nuôi súc vật heo, dê, gà, chó, những người săn bắn, đánh cá…[246] Những người như trên nếu có lúc tìm đến thì Bồ Tát vì họ thuyết pháp nhưng không mong cầu gì.

“Lại không thân cận hàng Thanh văn tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, hàng cư sĩ nam, cư sĩ nữ,[247] cũng không tới lui thăm hỏi. Dù trong phòng ốc hay nơi kinh hành, hoặc trong giảng đường, đều không ở chung với những người này. Nếu có khi họ tìm đến thì Bồ Tát vì họ thuyết pháp nhưng không mong cầu gì.

“Này Văn-thù-sư-lợi! Vị Đại Bồ Tát đối với thân thể người nữ không vì đó là tướng có thể làm khởi sanh ý tưởng tham dục nên thuyết pháp cho họ, cũng không ưa thích ngắm nhìn.

“Nếu vào nhà người khác, không cùng trò chuyện với thiếu nữ, phụ nữ chưa chồng hoặc phụ nữ góa chồng; cũng không gần gũi thân thiết với năm loại đàn ông không đủ nam tính.[248]

“Đại Bồ Tát không một mình vào nhà người khác. Nếu có nhân duyên cần phải vào thì trong lúc ấy một lòng chú tâm niệm Phật.

“Nếu vì phụ nữ thuyết pháp thì không cười để lộ răng, không lộ ngực trần. Đó là vì pháp mà còn không thân thiết sâu đậm, huống chi là với những việc khác.

“Bồ Tát không ưa thích nuôi dưỡng đệ tử nhỏ tuổi, sa-di, trẻ con, cũng không thích theo học cùng thầy.

“Bồ Tát thường ưa thích ngồi thiền ở nơi vắng vẻ, tu tập nhiếp phục tâm mình.

“Văn-thù-sư-lợi! Như vậy là phạm vi thân cận thứ nhất của hàng Bồ Tát.

Ý thứ hai từ câu “Thế nào gọi là phạm vi thân cận…”, giải thích về cận xứ. Kinh văn phần này có 3 tiểu ý. Thứ nhất, nêu 10 điều gây phiền não rối loạn nên lìa xa, tức là nêu xa để luận nghĩa “gần”, cũng là dựa vào tu học giới để trợ giúp cho pháp quán. Thứ hai, nói “tu tập nhiếp phục tâm” tức là nêu gần để luận nghĩa “gần”, cũng là dựa vào tu học định để trợ giúp cho pháp quán. Thứ ba, nói “quán xét hết thảy các pháp đều là không”, tức là nêu chẳng phải gần chẳng phải xa để luận nghĩa “gần”, cũng là dựa vào tu học trí tuệ để trợ giúp cho pháp quán.

Tiểu ý thứ nhất, kinh văn phần trước nêu lý tương duyên trực tiếp trụ nơi giai vị nhẫn nhục, phần này nói rộng việc tu tập giới, nêu rõ các ngoại duyên thấp hèn nên lìa xa. Không nắm giữ dao gậy cũng không vất bỏ, chỉ dùng trí tuệ chân chánh mà xa lìa. Nên biết rằng, nêu xa để luận nghĩa “gần” tức là nói rộng hạnh làm mà không làm ở phần trước.

Tiểu ý thứ hai, kinh văn phần trước nói “không hấp tấp thô bạo, trong lòng không sợ sệt”, phần này nói rộng việc tu tập định, nêu rõ chỗ tu định, tinh yếu của việc tu định. Nhờ có sức định nên ở nơi rối rắm thô bạo mà được yên ổn, ở nơi đáng sợ mà được an lành. Nên biết rằng, nêu gần để luận nghĩa “gần” tức là nói rộng hạnh không làm mà làm ở phần trước.

Tiểu ý thứ ba, kinh văn phần trước nói thẳng là “không có chỗ làm”, phần này nói rộng ra “quán xét hết thảy các pháp đều là không”, trải qua trọn vẹn hết thảy các cảnh giới, không có hạn lượng, không có tận cùng, không ngăn ngại, không che chướng. Nên biết rằng, nêu chẳng phải xa chẳng phải gần để luận nghĩa “cận” tức là nói rộng hạnh chẳng phải làm chẳng phải không làm ở phần trước.

Tóm lại trong tiểu ý thứ nhất có 10 điều nên xa lìa:

- Thứ nhất là nên xa lìa những kẻ có quyền thế, giàu có.

- Thứ hai là nên xa lìa người theo tà đạo, pháp của tà đạo.

- Thứ ba là nên xa lìa những kẻ chơi trò hung hiểm.

- Thứ tư là nên xa lìa hạng chiên-đà-la.

- Thứ năm là nên xa lìa hàng nhị thừa.

- Thứ sáu là nên xa lìa tư tưởng tham dục.

- Thứ bảy là nên xa lìa hạng đàn ông không đủ nam tính.

- Thứ tám là nên xa lìa những nơi dễ gây nguy hại [cho sự tu tập].

- Thứ chín là nên xa lìa những kẻ ganh ghét đố kỵ với người có tâm lành.

- Thứ mười là nên xa lìa những người nuôi súc vật vì lợi ích.

Giải thích về Phạn ngữ lộ-già-da-đà (lokayāta),[249] Hán dịch là “ác luận”, cũng dịch là “phá luận”. Nghịch lộ-già-da-đà (vāmalokayāta) tức là trái nghịch với [luận thế gian, nghĩa là] đạo nghĩa vua tôi, cha con. Lại nữa, “lộ” là khéo biện luận, cũng gọi là thầy chế phục được đệ tử; “nghịch lộ” là biện luận xấu ác, cũng gọi là đệ tử luận giải ngược với thầy.

Phạn ngữ na-la (naṭa)[250] chỉ hạng người nhảy múa giúp vui, cũng gọi là người hóa trang với nhiều màu sắc, thân thể biến đổi hình dạng kỳ lạ [để làm diễn trò], lại cũng chỉ chung những người làm xiếc khéo léo nhào lộn trên cao.

Mười điều nên xa lìa như nói trên lại phân ra thành 2 nhóm, 9 điều thuộc trong sanh tử thế gian và 1 điều là Niết-bàn [nhị thừa]. Xa lìa cả 2 tức là tên gọi khác của tịch diệt.

Theo quán tâm cũng có cách giải thích khác về 10 điều nên xa lìa. Đại lược là như vậy.

Ý thứ hai về chỗ nên thân cận có 3 tiểu ý… Đại lược là như thế.[251]

________________________________


CHÚ THÍCH

[1] Bản Anh dịch của H. Kern nói là “trông giống như được hình thành từ nhiều ngàn cõi nước nhiều như số cát của con sông Hằng” (…will look as if formed by thousands of spheres similar to the sands of the river Ganges).

[2] Kinh văn nói “無女人 - vô nữ nhân”, nghĩa là không có nữ giới, nhưng như vậy thì cũng không có sự phân biệt để gọi là “nam giới”, như câu kinh tiếp theo nói “không có sự dâm dục”, cho nên có thể hiểu sự mô tả ở đây như là “không có giới tính”. Tất cả chúng sanh đều hóa sanh nên không có sự khác biệt giới tính.

[3] Kinh văn chỉ nói là 32 tướng (三十二相 - tam thập nhị tướng), bản Anh dịch của H. Kern nói đủ hơn là “32 tướng của bậc đại nhân” (thirty-two characteristics of a great man). Bản Hán dịch Chánh Pháp hoa kinh cũng nói đủ là “32 tướng biểu lộ của bậc đại nhân” (三十二表大人之相 - tam thập nhị biểu đại nhân chi tướng). Theo cách hiểu thông thường thì ở đây chỉ đến 32 tướng tốt giống như của đức Phật.

[4] Ở đây Văn Cú nói quá giản lược nên hơi khó hiểu. Tham khảo sách Pháp hoa nghĩa sớ (法華義疏) của ngài Cát Tạng (吉藏), trong quyển 9 nói chi tiết hơn, rằng có 2 cách giải thích. Thứ nhất, nói “đất bằng như lòng bàn tay” vì khi đang thuyết kinh đức Phật chỉ vào lòng bàn tay của Phật để nêu ví dụ. Thứ hai, vì dưới đáy biển có một tảng đá vuông vức mỗi bề rộng đến 4.000 dặm bằng phẳng như mặt kính, được gọi là “chưởng thạch - 掌石” (đá lòng bàn tay), cho nên đức Phật nêu ra để so sánh.

[5] Vì kinh văn nói không có các đường ác, tức là không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Thuần các đường lành tức là chỉ có các cảnh giới chư thiên và loài người.

[6] Văn Cú gọi là Nguyệt tạng kinh (月藏經), quyển 9, nay tìm thấy là một phần trong Đại phương đẳng Đại tập kinh (大方等大集經), quyển 55, tức là Nguyệt tạng phần (月藏分). Trong các bản Mục lục cũng còn thấy ghi Nguyệt tạng kinh, 10 quyển, nhưng hiện không còn thấy phiên bản này, chỉ còn tìm được phần in chung trong kinh Đại tập. Nội dung trích dẫn ở đây được tìm thấy trong Đại Chánh tạng, Tập 13, số 397, trang 363, tờ a.

[7] Văn Cú chỉ nói lược, phần kinh văn được trích dẫn nêu đầy đủ 10 công đức này là: thứ nhất, không sợ sệt đối với tất cả chúng sanh; thứ hai, khởi tâm đại từ đối với tất cả chúng sanh; thứ ba, dứt trừ hết tập khí xấu ác; thứ tư, ít bệnh khổ, ít phiền não, làm việc quyết đoán; thứ năm, được tuổi thọ lâu dài; thứ sáu, được các loài phi nhân theo bảo vệ; thứ bảy, ngủ nghỉ an ổn, không có ác mộng; thứ tám, không có người thù oán; thứ chín, không sợ sệt các đường ác; thứ mười, sau khi mệnh chung được tái sinh vào cảnh giới lành. (Xem Đại Chánh tạng, Tập 13, kinh số 397, trang 327, tờ b, dòng 8 đến dòng 13.)

[8] Phần nội dung này trong kinh Đại tập trình bày riêng và nói rõ, nếu có thể đem công đức giữ giới không giết hại này hồi hướng về quả vị Bồ-đề, tinh tấn tu tập thành tựu quả Phật, thì khi ấy cõi Phật của vị này không có nỗi lo sợ đánh đạp làm hại, và những chúng sanh nào được tuổi thọ dài lâu sẽ sanh về cõi ấy. Văn Cú lược dẫn nên có vẻ như những điều này thuộc về công đức thứ mười. Chúng tôi đã tách ra theo đúng nội dung kinh văn. Sự tách riêng này cũng cho thấy rõ, việc giữ giới không phải nhân tạo thành quả Phật, mà chỉ mang lại thêm một phần tốt đẹp nếu người giữ giới có nỗ lực tu tập thành Phật. Đối với các điều còn lại tiếp theo sau đây cũng tương tự như vậy. (Xem Đại Chánh tạng, Tập 13, kinh số 397, trang 327, tờ b, dòng 13-17.)

[9] Tương tự như điều trên, ở đây theo kinh văn kể ra đầy đủ 10 công đức là: thứ nhất, được quả báo đầy đủ lớn lao, làm việc quyết đoán; thứ hai, có được tài sản riêng, không phải chung cùng với người khác; thứ ba, tài sản không sợ bị tiêu tán bởi 5 mối họa: vua quan, trộm cướp, hỏa hoạn, lụt lội và con cái hư hỏng; thứ tư, luôn được mọi người thương yêu kính trọng không hề chán ghét; thứ năm, dạo chơi khắp nơi đều không gặp ngăn trở; thứ sáu, đi lại không sợ sệt; thứ bảy, thường vui thích bố thí; thứ tám, tiền tài vật báu tuy không mong cầu mà tự nhiên nhanh chóng có được; thứ chín, tài sản có được rồi không bị tiêu tán; thứ mười, sau khi mệnh chung được tái sanh về cảnh giới lành. Câu cuối cùng nói về cõi Phật trang nghiêm nếu người giữ giới này tinh tấn tu tập thành tựu quả Phật. (Xem Đại Chánh tạng, Tập 13, kinh số 397, trang 327, tờ b, dòng 18 đến dòng 28.)

[10] Văn Cú nói “不婬- bất dâm” (không dâm dục), nhưng trong kinh Nguyệt tạng, tức bản kinh được trích dẫn, lại nói là “休息邪婬 - hưu tức tà dâm” (ngưng dứt việc tà dâm). Xét bối cảnh ở đây trình bày 10 nghiệp lành dạy cho người cư sĩ nên đề cập đến “tà dâm” hợp lý hơn là đoạn dứt dâm dục. (Xem Đại Chánh tạng, Tập 13, kinh số 397, trang 327, tờ b, dòng 29.)

[11] Kinh văn nói đủ 10 công đức của người không tà dâm là: thứ nhất, được các căn đầy đủ tốt đẹp, làm việc quyết đoán; thứ hai, được an trú trong sự thanh tịnh xa lìa tham dục; thứ ba, không quấy nhiễu, gây buồn khổ cho người khác; thứ tư, thường khiến cho mọi người hài lòng; thứ năm, mọi người đều ưa thích ngắm nhìn; thứ sáu, thường phát khởi sự chuyên cần tinh tấn; thứ bảy, thấy được sự đáng sợ của vòng sanh tử; thứ tám, thường vui thích làm việc bố thí; thứ chín, thường ưa thích tìm cầu chánh pháp; thứ mười, sau khi chết được tái sanh về cảnh giới lành. (Xem Đại Chánh tạng, Tập 13, kinh số 397, trang 327, tờ c, dòng 1 đến dòng 4.)

[12] Kinh văn nêu đủ 10 công đức của việc không nói dối là: thứ nhất, được mọi người tin tưởng, nói ra điều gì cũng được tin cậy; thứ hai, dù ở bất cứ nơi đâu, thậm chí đối với chư thiên, nói ra điều gì cũng đúng; thứ ba, mở miệng nói thì có hương thơm tỏa ra như hương hoa sen xanh; thứ tư, ở giữa hàng trời người có thể một mình làm chứng để sáng tỏ sự việc; thứ năm, được mọi người thương yêu cung kính, không còn nghi hoặc; thứ sáu, thường nói ra những lời chân thật; thứ bảy, tâm ý luôn thanh tịnh; thứ tám, thường không nói những lời siểm nịnh, nói ra điều gì luôn thích hợp; thứ chín, thường được nhiều niềm vui; thứ mười, sau khi chết được tái sanh vào cảnh giới lành. (Xem Đại Chánh tạng, Tập 13, kinh số 397, trang 327, tờ c, dòng 9 đến dòng 15.)

[13] Kinh văn nêu đủ 10 công đức của việc không nói hai lưỡi là: thứ nhất, thân thể được an ổn không thể làm hại; thứ hai, quyến thuộc được an ổn hòa thuận không thể phá hoại; thứ ba, bạn bè thân hữu an ổn không lừa dối phá hoại; thứ tư, niềm tin kiên định không bị phá hoại; thứ năm, được pháp bình đẳng không hư hoại; thứ sáu, oai nghi bình đẳng không thể phá hoại; thứ bảy, thiền quán an ổn không thể phá hoại; thứ tám, chánh định an ổn không thể phá hoại; thứ chín, đạt sức nhẫn nhục an ổn không thể phá hoại; thứ mười, sau khi chết tái sanh về cảnh giới lành. (Xem Đại Chánh tạng, Tập 13, kinh số 397, trang 327, tờ c, dòng 20 đến dòng 25.)

[14] Kinh văn nêu đủ 10 công đức của người không nói lời độc ác là: thứ nhất, lời nói êm dịu dễ nghe; thứ hai, lời nói thông tuệ lưu loát; thứ ba, luôn nói lời hợp lý lẽ; thứ tư, luôn nói lời tốt đẹp; thứ năm, nói ra lời nào đều đúng đắn, chính xác; thứ sáu, luôn nói lời chính trực, thẳng thắn; thứ bảy, luôn nói lời không sợ sệt; thứ tám, không nói những lời khinh miệt, xúc phạm; thứ chín, nói lời phân biện chánh pháp rõ ràng sáng tỏ; thứ mười, sau khi chết được tái sanh về cảnh giới lành. (Xem Đại Chánh tạng, Tập 13, kinh số 397, trang 328, tờ a, dòng 2 đến dòng 5.)

[15] Văn Cú không có ý này, nhưng kinh văn nói “離諸惡語 - ly chư ác ngữ”.

[16] Kinh văn nêu đủ 10 công đức của người không nói lời thêu dệt là: thứ nhất, được chư thiên và loài người yêu kính; thứ hai, được những người sáng suốt tán thành vui theo; thứ ba, thường yêu thích sự thật; thứ tư, không phải thường sống chung với những kẻ mà người trí không ưa thích; thứ năm, nghe được điều gì đều có thể nhận hiểu lãnh hội; thứ sáu, thường được người khác tôn trọng yêu kính; thứ bảy, thường ưa thích và được sống nơi yên tĩnh vắng vẻ; thứ tám, thành ưa thích sự tịch lặng an nhiên của bậc hiền thánh; thứ chín, thường lìa xa kẻ xấu ác, gần gũi bậc hiền thánh; thứ mười, sau khi chết được sanh vào cảnh giới lành. (Xem Đại Chánh tạng, Tập 13, kinh số 397, trang 328, tờ a, dòng 9 đến dòng 14.)

[17] Văn Cú chỉ nói “強記不忘 - cường ký bất vong” nhưng kinh văn đoạn này nói là “端正眾生來生其國強記不忘樂住離欲 - đoan chánh chúng sanh lai sanh kỳ quốc cường ký bất vong nhạo trụ ly dục”.

[18] Kinh văn nêu đủ 10 công đức của người không tham lam là: thứ nhất, các căn của thân không khiếm khuyết; thứ hai, khẩu nghiệp được thanh tịnh; thứ ba, tâm ý không tán loạn; thứ tư, được quả báo thù thắng; thứ năm, được giàu có sang quý; thứ sáu, được mọi người ưa thích ngắm nhìn; thứ bảy, những quả báo đã đạt được thì quyến thuộc không thể phá hoại; thứ tám, thường được gặp gỡ với những người sáng suốt; thứ chín, thường không xa lìa âm thanh thuyết pháp; thứ mười, sau khi chết được tái sanh vào cảnh giới lành. (Xem Đại Chánh tạng, Tập 13, kinh số 397, trang 328, tờ a, dòng 19 đến dòng 23.)

[19] Kinh văn nêu đủ 10 công đức của người không sân hận là: thứ nhất, xa lìa hết thảy mọi sự sân hận; thứ hai, không tham muốn tích chứa tài vật; thứ ba, các bậc thánh đều vui thích hài lòng; thứ tư, thường được gặp gỡ các bậc hiền thánh; thứ năm, thường được những sự lợi ích; thứ sáu, thường được dung nhan đoan chánh; thứ bảy, nhìn thấy chúng sanh vui mừng liền sanh tâm hoan hỷ; thứ tám, đạt được chánh định; thứ chín, thân, miệng và ý đều được nhu hòa điều thuận tốt đẹp; thứ mười, sau khi chết được tái sanh về cảnh giới lành. (Xem Đại Chánh tạng, Tập 13, kinh số 397, trang 328, tờ a, dòng 28 đến tờ b dòng 4.)

[20] Kinh văn nêu đủ 10 công đức của người không tà kiến là: thứ nhất, tâm tánh hiền thiện nhu hòa, bạn bè hiền lành; thứ hai, dù có nghiệp báo đến, thậm chí khiến phải mất mạng cũng không khởi sanh các niệm xấu ác; thứ ba, hết lòng kính tin Tam bảo, ví như có được thiên thần cứu sống cũng không tin theo; thứ tư, giữ theo chánh kiến, không kinh sợ những điều quái dị, cũng không theo việc lựa chọn ngày giờ tốt xấu; thứ năm, thường được sanh trong hai cõi trời, người, lìa xa các cảnh giới xấu ác; thứ sáu, thường vui thích với những việc tạo phúc đức, được người sáng suốt có trí tuệ ngợi khen xưng tán; thứ bảy, từ bỏ các lễ nghi của thế tục, thường cầu Thánh đạo giải thoát; thứ tám, xa lìa các quan điểm đoạn kiến và thường kiến, thể nhập được pháp nhân duyên sanh; thứ chín, thường được gặp gỡ với những người có sự phát tâm và khuynh hướng chân chánh; thứ mười, sau khi chết sẽ được tái sanh về cảnh giới lành. (Xem Đại Chánh tạng, Tập 13, kinh số 397, trang 328, tờ b, dòng 9 đến dòng 16.)

[21] Văn Cú vẫn dùng tên dịch nghĩa là Mãn Nguyện (滿願), chúng tôi điều chỉnh thống nhất một tên gọi theo trong kinh Pháp hoa để độc giả tiện theo dõi.

[22] Văn Cú dường như có sự nhầm lẫn khi phân chia cấu trúc ở đây. Chúng tôi đã bổ sung 1 phân đoạn để phù hợp với giảng giải thực tế ở phần sau.

[23] Nguyên tác dùng “độc cổ nhĩ”, lấy ý từ ví dụ trong kinh Đại Bát Niết-bàn. Có người dùng chất độc bôi lên mặt trống. Trống ấy khi đánh lên thì hàng Thanh văn nghe tiếng trống đêu chết cả. Đây là ví trống như pháp thân bình đẳng, chất độc như tâm từ bi vô duyên, đều là những phẩm tính của Đại thừa, không thích hợp với hàng Thanh văn.

[24] Nguyên tác nói “ngũ Phật chương - 五佛章”, tức là chỉ đến 5 lượt giảng giải về chư Phật, bao gồm thứ nhất là chư Phật nói chung, thứ hai nói về chư Phật quá khứ, thứ ba nói về chư Phật vị lai, thứ tư nói về chư Phật trong hiện tại và thứ năm nói về đức Phật Thích-ca.

[25] Văn Cú chỉ nói tam quả (三果), tứ hướng (四向). Tam quả (3 quả) là chỉ các quả vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm và A-na-hàm, tức là các quả vị trước khi đạt đến quả A-la-hán. Tứ hướng (4 hướng) chỉ các giai đoạn Hướng Tu-đà-hoàn, Hướng Tư-đà-hàm, Hướng A-na-hàm và Hướng A-la-hán. Giai đoạn trước khi chứng đắc mỗi quả vị đều gọi là hướng (向), với ý nghĩa hướng đến, hướng về.

[26] Nguyên tác Văn Cú chỉ nói “二意同 - nhị ý đồng”, hàm ý là suy nghĩ của 2.000 vị này cũng giống như ngài A-nan và La-hầu-la trước đó.

[27] Đoạn giải thích này dựa theo ý nghĩa trong quyển 6, kinh Đại Bát Niết-bàn. Trong phần này, đức Phật dạy rằng người nào đã từng “ở nơi chư Phật nhiều như số cát sông Hy-liên mà phát tâm bồ-đề” thì mới có thể tin nhận thọ trì kinh điển Đại thừa. Tương tự, nếu người muốn có khả năng “phân biệt giảng rộng” kinh điển Đại thừa cần phải đã từng “ở nơi chư Phật nhiều như số cát 1 con sông Hằng”, cho đến “nhiều như số cát 8 con sông Hằng”. Do vậy tính ra có 9 phẩm vị phát triển dần tùy theo thời gian “đã từng ở nơi chư Phật mà phát tâm Bồ-đề”.

[28] Tức là nói các hạng người “đã từng ở nơi chư Phật nhiều như số cát sông Hy-liên mà phát tâm Bồ-đề” và tương tự với số cát của từ 1 đến 3 con sông Hằng. Kinh Đại Bát Niết-bàn nói những hạng người này tuy tin nhận kinh điển nhưng “không thể vì người khác mà phân biệt giảng rộng”.

[29] Kinh văn phần sau, trong phẩm Hạnh An vui nói về “四安樂行 - tứ an lạc hạnh”, bao gồm thân an lạc hạnh (身安樂行), khẩu an lạc hạnh (口安樂行), ý an lạc hạnh (意安樂行) và thệ nguyện an lạc hạnh (誓願安樂行).

[30] Nguyên tác dùng “涉有 - thiệp hữu”. Chữ “hữu” chỉ chung các cõi hiện hữu, như nhị thập ngũ hữu, cũng tức là ba cõi.

[31] Bốn đường: chỉ các cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và a-tu-la, được xem là 4 đường nhiều khổ não nhất.

[32] Ngũ nhãn: 5 loại mắt, tức bao gồm nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn.

[33] Ở đây chỉ các hàng Bồ Tát của Tạng giáo (quán xét phân tích các pháp thấy được lẽ không), Bồ Tát Thông giáo (quán xét bản thể các pháp thấy được lẽ không), Bồ Tát Biệt giáo (quán xét bám chấp lẽ không nên còn thiên lệch). Riêng Bồ Tát Viên giáo đã đạt được trung đạo nên không còn rơi vào thiên chấp.

[34] Ở đây chỉ Không đế, Giả đế và Trung đế.

[35] Trong đoạn này Văn Cú dùng các khái niệm “mê chân” (迷真), “mê tục” (迷俗 ), “mê trung” (迷中). Mê chân là không hiểu được chân đế, nên rơi vào khổ. Mê tục là không hiểu được tục đế, đắm chấp nơi lẽ không, cho đó là niềm vui chân thật. Mê trung là không hiểu được trung đế, chưa vượt khỏi giả đế, không đế và trung đế nên không thể đạt đến đệ nhất nghĩa đế, do vậy mà nói trí tuệ bị che chướng. Các khái niệm này đều được hiểu theo giáo lý tông Thiên Thai.

[36] Trong đoạn này, Văn Cú 2 lần dùng cụm từ “命覓流通 - mệnh mịch lưu thông” và “勸覓流通 - khuyến mịch lưu thông” đều rất tối nghĩa, nhưng so sánh thì Văn Cú Ký dùng chữ “慕 - mộ” (mến mộ, ngưỡng mộ) chứ không phải chữ “覓 - mịch” (tìm kiếm). Chữ “mộ” có ý nghĩa phù hợp hơn, có lẽ Văn Cú đã chép nhầm. Chúng tôi chuyển dịch có điều chỉnh dựa theo Văn Cú Ký.

[37] Kinh văn dùng “đại sĩ” là một cách danh xưng khác để gọi các vị Bồ Tát. Vì trước đây đã gọi 80.000 vị này là Bồ Tát nên chúng tôi dùng lại như trước để dễ hiểu. Bản Anh ngữ của Kern: “...addressed the eighty thousand Bodhisattvas Mahasattvas by turning to Bhaishajyaraja as their representative...“ (...nói với 80.000 vị Bồ Tát bằng cách hướng đến Bồ Tát Dược Vương như người thay mặt cho họ...)

[38] Bản Đại Chánh tạng viết là “苦於佛前 - khổ ư Phật tiền”, không có nghĩa. Tham khảo Càn Long tạng và Vĩnh Lạc Bắc tạng đều viết là “若於佛前 - nhược ư Phật tiền”. Như vậy là chữ “nhược” (若) đã bị nhầm thành chữ “khổ” (苦).

[39] Văn Cú dùng chữ “giản” (揀) nghĩa là chọn lựa để loại bỏ ra. Chữ này đã được dùng trong phần trước để nói về 5.000 người rời khỏi pháp hội trước khi Phật thuyết kinh Pháp hoa, nay cũng được dùng với những đối tượng trong đoạn kinh văn này. Tuy họ có đủ niềm tin để nghe kinh mà không hoài nghi phỉ báng, nhưng thực sự chưa phải là chúng đương cơ có thể nhận hiểu để được lợi ích hiện tiền, cho nên nói là “nêu loại ra” khỏi những người đã được thụ ký.

[40] Tám bộ chúng: chỉ chung các bộ chúng gồm chư thiên, loài rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già.

[41] Văn Cú dùng chữ “quái” (絓), Văn Cú Ký giải thích rằng chữ này đồng như chữ “dự” (預), nghĩa là tham dự. Chúng tôi cho rằng Văn Cú Ký đã muốn đơn giản hóa để làm cho câu văn dễ hiểu, vì chữ “quái” với nghĩa trở ngại, che chướng còn có hàm ý muốn nói những đối tượng này không thật sự là thính chúng của Pháp hoa, bởi tuy họ tham dự trong pháp hội nhưng không thể hiểu hoặc hiểu rất ít những lời Phật dạy, như kinh văn đoạn tiếp theo có nói rõ.

[42] Đoạn này nhắc lại ý nghĩa đã giảng giải ở phần trước. 5 hạng pháp sư là nói những người có thể thực hành 5 việc: thọ trì, đọc, tụng, thuyết giảng và sao chép kinh này. Trong đó thọ trì là cúng dường bằng ý nghiệp, đọc, tụng, thuyết giảng là cúng dường bằng khẩu nghiệp và sao chép kinh là cúng dường bằng thân nghiệp.

[43] Văn Cú dùng hạ chu (下周), thượng chu (上周) và trung chu (中周), tức chỉ 3 vòng thuyết pháp như trước đã nói, tức là thuyết chánh pháp cho hàng thượng căn, thuyết thí dụ cho hàng trung căn và thuyết nhân duyên cho hàng hạ căn.

[44] Kinh Kiến thật tam-muội (見實三昧經), được ghi nhận trong các bản mục lục kinh điển hiện còn, có 14 hoặc 15 quyển, do ngài Na-đề Da-xá (那連提耶舍) Hán dịch. Tuy nhiên, bản biệt hành hiện nay không còn thấy, chỉ còn tìm được nội dung tương đương của kinh này là hội thứ 16 trong kinh Đại Bảo Tích với tên là Bồ Tát kiến thật hội (菩薩見實會-第十六). Xem Đại Chánh tạng, Tập 11, kinh số 310, trang 351.

[45] Tam thập tam thiên (三十三天), cũng gọi là cõi trời Đao-lợi (忉利天). Sở dĩ có tên “tam thập tam” (33) vì cõi trời này ở 8 hướng mỗi hướng đều có 4 thành, cộng là 32 thành, cộng với một thành trung tâm, nơi cư ngụ của Thiên Đế thích, nên có tất cả là 33 thành.

[46] Văn Cú dùng tên Câu-dực (拘翼), theo Huyền ứng âm nghĩa (玄應音義) thì đây là tên khác của Thiên vương Đế thích (帝釋). Mỗi thế giới đều có một vị Đế thích, cho nên ở đây nói việc thụ ký cho “cùng một danh hiệu”.

[47] Văn Cú gọi là Diễm thiên (焰天), nói đủ là Diễm-ma thiên (焰摩天), nhưng thường gặp hơn là Dạ-ma thiên (夜摩天), phiên âm từ tên cõi trời Yāma, tức cõi trời thứ ba trong 6 cõi trời thuộc Dục giới.

[48] Dục giới có 6 tầng trời, trước đó đã lần lượt nói đến 4 tầng trời là Tứ vương thiên (四王天), Tam thập tam thiên (三十三天) tức Đao lợi thiên (忉利天), Dạ-ma thiên (夜摩天) và Đâu-suất thiên (兜率天). Hai tầng trời cao hơn được nói ở đây là Lạc biến hoá thiên (樂變化天) và Tha hoá tự tại thiên (他化自在天).

[49] Tăng nhất tập (增一集), theo Pháp hoa huyền nghĩa thích tiêm (法華玄義釋籤) thì do ngài Đạt-ma-uất-đa-la (達磨欝多羅) soạn, gồm 30 quyển, theo thể thức giống như kinh Tăng nhất A-hàm, nghĩa là gồm các số mục tăng dần từ 1 pháp cho đến 5 pháp. Về ngài Đạt-ma-uất-đa-la, sách này cũng gọi là Pháp Thượng (法尚), hiện đa số tài liệu gọi là Đạt-ma-đa-la (達磨多羅), phiên âm từ Dharmatrāta, dịch nghĩa là Pháp Cứu (法救). Ngài cũng là tác giả của Tạp A-tỳ-đàm tâm luận (雜阿毘曇心論), 11 quyển. Xem Đại Chánh tạng, Tập 33, kinh số 1717, trang 907, tờ a, dòng 9 đến dòng 14.

[50] Văn Cú dùng chữ “捨檐 - xả diêm”, ở đây là cách dùng xưa thay cho chữ “đam” (儋) hoặc chữ “đảm” (擔), có nghĩa là gánh vác, mang vác.

[51] Mãn Túc (滿宿), là vị tỳ-kheo thuộc nhóm Lục quần tỳ-kheo.

[52] Trong đoạn này, Văn Cú dùng 2 chữ “thụ” (豎) và “hoành” (橫), hiểu theo nghĩa đen là dọc và ngang, hoặc theo chiều đứng, chiều nằm. Tuy nhiên, Văn Cú dùng 2 chữ này để chỉ sự việc diễn ra theo thời gian (thụ), tức là tăng tiến dần, và trong không gian (hoành), nghĩa là tức thời diễn ra rộng khắp. Hai khái niệm này đã được dùng nhiều lần trong những phần trước của sách này.

[53] Đoạn này dẫn kinh Đại Bát Niết-bàn ở quyển 28, theo bản Hán dịch của ngài Đàm-vô-sấm. Nguyên văn kinh là: “寧當少聞多解義味, 不願多聞於義不了。” (Ninh nguyện thiểu văn đa giải nghĩa vị, bất nguyện đa văn ư nghĩa bất liễu.) Xem Đại Chánh tạng, Tập 12, kinh số 374, trang 534, tờ a, dòng 3 và 4.

[54] Năm hàng pháp sư, phân chia theo cách tiếp cận kinh này, bao gồm: 1. Thọ trì; 2. Tụng; 3. Đọc; 4. Giảng thuyết; 5. Sao chép.

[55] Mười loại cúng dường theo kinh văn là: 1. Cúng dường hoa; 2. Cúng dường hương thơm; 3. Chuỗi ngọc; 4. Hương bột; 5. Hương thoa; 6. Hương đốt; 7. Lọng che bằng lụa; 8. Y phục; 9. Âm nhạc; 10. Chắp tay cung kính.

[56] Văn Cú nói là “有慧無聞 - hữu tuệ vô văn”. Vô văn là chỉ người không học rộng nghe nhiều, để nói nghĩa trái lại với “đa văn” là người học rộng nghe nhiều. Cho nên “vô văn” không có nghĩa là không nghe, không học, mà chỉ có thể hiểu là ít học, không học rộng.

[57] Nguyên tác nói “福田濃瘠 - phước điền nùng tích” (ruộng phước tốt hoặc xấu), hàm ý phân biệt đối tượng của việc tạo phước. Như các kinh luận khác thường nói, cúng dường bậc tu hành đạo đức thì công đức lớn hơn cúng dường kẻ phàm phu, vì đối tượng cúng dường như vậy được xem như mảnh ruộng tốt hơn nên gieo trồng thu hoạch được nhiều hơn.

[58] Văn Cú dùng chữ “檐” (diêm) nhưng thật ra là chữ “đảm” (擔) như trong kinh văn. Đây có lẽ là cách dùng xưa kia.

[59] Văn Cú nói “超頌 - siêu tụng” (tụng vượt sang) là ý nói tụng nghĩa này trước, so với kinh văn trường hàng ở trước thì tụng nghĩa này về sau.

[60] Văn Cú nói “追頌 - truy tụng” (tụng ngược về) là ý nói trong kinh văn trường hàng nghĩa này được nói trước, nhưng kệ tụng nêu ra sau.

[61] Nguyên tác kinh văn là “作色 - tác sắc”, dịch sát nghĩa là thay đổi sắc mặt, trong ngữ cảnh này được hiểu là lộ rõ vẻ hung hăng.

[62] Kinh văn dùng chữ “未曾顯說 - vị tằng hiển thuyết”, hiểu theo nghĩa đen là chưa từng thuyết giảng công khai, không che giấu. Các bản dịch hiện có dịch là “chưa hề nói đến một cách minh bạch (HT Trí Quang)”, hoặc “chưa từng bày nói” (HT Trí Tịnh). Bản Anh dịch của H. Kern là “never divulged” (chưa bao giờ công khai). Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng hàm ý trong ngữ cảnh ở đây là chỉ thuyết giảng cho một số thính chúng chọn lọc, thích hợp, không thuyết giảng chung cho tất cả mọi người. Việc đức Phật đợi cho 5.000 người có căn cơ không thích hợp rời khỏi pháp hội rồi mới thuyết kinh này là một thí dụ minh họa cho ý nghĩa này. Ngay câu kinh trước cũng nói rằng kinh này không được “truyền trao không đúng người” (妄授與人 - vọng thụ dữ nhân). Và ý nghĩa phải chọn đúng người thích hợp mới thuyết giảng kinh này đã được nói rất rõ trong phần cuối phẩm Thí dụ.

[63] Kinh văn dùng chữ “怨嫉 - oán tật”, nghĩa là oán ghét. So sánh với bản Anh dịch ở vị trí này là “rejected” (từ chối, không chấp nhận), về mặt ý nghĩa có vẻ như hợp lý hơn. Như câu kinh trước nói kinh này “khó tin khó hiểu nhất” nên thính chúng ít người tin nhận. Trong khi đó, ý nghĩa “oán ghét” có lẽ chỉ đến hàng ngoại đạo, kẻ xấu.

[64] Tiệm giáo là các giáo pháp chỉ dạy sự tu tập từ thấp lên cao, theo tuần tự, ở đây là chỉ giáo pháp được thuyết trong các thời A-hàm, Phương đẳng… Đốn giáo là giáo pháp chỉ thẳng vào sự đốn ngộ quả Phật, như giáo pháp Hoa nghiêm…

[65] Văn Cú chỉ nói “二門 - nhị môn”, tức là chỉ ngược về “pháp” và “người” như vừa nói.

[66] Văn Cú dùng “當鋒難事 - đương phong nan sự”, Văn Cú Ký giải thích rằng: “當鋒者, 法華在前如大陣難破, 涅槃在後如餘黨不難。 - Đương phong giả, Pháp hoa tại tiền như đại trận nan phá, Niết-bàn tại hậu như dư đảng bất nan.” (“Đương phong” là muốn nói Pháp hoa được thuyết giảng trước như trận thế lớn khó phá được, Niết-bàn được thuyết giảng sau chỉ như dư đảng còn lại không khó.) Cho nên hiểu là Văn Cú muốn so sánh việc thuyết kinh Pháp hoa trước để đột phá vào sự khó tin khó hiểu của thính chúng, thì về sau việc thuyết kinh Niết-bàn trở nên dễ dàng hơn. (Xem Đại Chánh tạng, Tập 34, kinh số 1719, trang 306, tờ c, dòng 3 và 4.)

[67] Văn Cú dùng “五乘 - ngũ thừa”, tức bao gồm nhân thừa, thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ Tát thừa.

[68] Văn Cú dùng “四信 - tứ tín”, chỉ niềm tin vào chân như, Phật, Pháp và Tăng.

[69] Bốn thệ nguyện rộng lớn (Tứ hoằng thệ nguyện), bao gồm: 1. Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ; 2. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn; 3. Pháp môn vô lượng thệ nguyện học; 4. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

[70] Ba đức của chư Phật, tức Tam đức (三德), bao gồm Pháp thân đức, Giải thoát đức và Bát-nhã đức.

[71] Tức là tứ thánh địa (四聖地), cũng gọi là tứ động tâm, tứ thánh tích, là 4 thánh tích quan trọng trong cuộc đời đức Phật.

[72] Ở đây Văn Cú muốn so sánh với tứ thánh địa vừa nói trên để giải thích việc những nơi nào có kinh này đều nên dựng tháp thờ kính.

[73] Văn Cú trích dẫn câu này là “若出家 - nhược xuất gia…”, nhưng trong kinh văn là “多有人在家, 出家 - đa hữu nhân tại gia, xuất gia”. Chúng tôi chuyển dịch theo kinh văn.

[74] Đoạn giải thích này sử dụng các giai vị trong Thập địa bao gồm: Càn tuệ địa (乾慧地), Tánh địa (性地), Bát nhân địa (八人地), Kiến địa (見地), Bạc địa (薄地), Ly dục địa (離欲地), Dĩ biện địa (己辨地), Bích-chi Phật địa (辟支佛地), Bồ Tát địa (菩薩地) và Phật địa (佛地).

[75] Văn Cú dùng “Sinh sư”, tức chỉ ngài Trúc Đạo Sinh (竺道生), sinh vào khoảng năm 355, mất khoảng năm 434, là cao tăng uyên bác đồng thời với ngài Cưu-ma-la-thập. Ngài có dịch và giảng kinh Pháp hoa nên kiến giải của ngài được dẫn ở đây.

[76] Hai người khỏe mạnh, ở đây ví cho 2 trí Bát-nhã quyền và thật vừa nói, tức là trí tuệ chân thật và trí tuệ phương tiện quyền thừa.

[77] Ba trí tuệ, tức Tam tuệ (三慧), bao gồm văn tuệ (聞慧), tư tuệ (思慧) và tu tuệ (修慧) vừa được đề cập đến.

[78] Những chỗ nói “theo ý riêng tôi” đều là chỉ ý của Đại sư Trí Khải.

[79] Đạo Lãng (道朗), sống vào đời Đông Tấn, không rõ năm sinh năm mất, từng giúp ngài Đàm-vô-sấm phiên dịch kinh Đại Bát Niết-bàn, viết lời tựa và soạn nghĩa sớ. Về sau, người giảng kinh Niết bàn phần nhiều đều căn cứ theo bản sớ giải này. Ngoài ra, ông còn soạn bài tựa Trung luận, khảo chứng văn nghĩa luận A-tì-đàm Tì-bà-sa do ngài Phật-đà-bạt-ma dịch sang Hán văn.

[80] Hình sắc ở đây chỉ thân Phật, sắc thân là quyền, pháp thân là thật; âm thanh chỉ giáo pháp được thuyết giảng, gồm giáo pháp quyền thừa và giáo pháp chân thật rốt ráo.

[81] Văn Cú chỉ nói “十二八萬 – thập nhị bát vạn”, Văn Cú ký giải thích: “十二八萬者, 秖是十二 部八萬藏耳 – Thập nhị bát vạn giả, kỳ thị thập nhị bộ, bát vạn tạng nhĩ.” Thập nhị bộ chỉ 12 bộ kinh, tức 12 thể loại kinh điển; bát vạn tạng là cách nói tắt của “bát vạn tứ thiên tạng”. Tạng là pháp tạng, chỉ một phần giáo pháp cụ thể, cho nên hiểu đúng nghĩa là 84.000 pháp tạng. Đây cũng chỉ là cách nói mang tính biểu trưng, không phải con số chính xác.

[82] Lưu Cầu (劉虬) (437- 495), cư sĩ Phật giáo Trung quốc, tự là Linh Dự, Đức Minh, trước có làm quan, sau chú tâm nghiên cứu kinh Phật. Ông ăn chay trường, tụng kinh, lễ bái, thông suốt kinh tạng, hiểu rõ pháp Thiền, thường giảng kinh Niết-bàn, kinh Bát-nhã. Ông có chú giải kinh Pháp hoa nhưng đã bị thất lạc, chỉ còn thấy trích dẫn trong Pháp hoa văn cú, Pháp hoa huyền luận, Pháp hoa nghĩa sớ…

[83] Văn Cú nói “觀音品 - Quán Âm phẩm”, tức là chỉ đến “觀世音菩薩普門品 - Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ môn phẩm”, là phẩm thứ 25 trong kinh này.

[84] Văn Cú nói “一色一香 - nhất sắc nhất hương”, (một hình sắc, một mùi hương), hàm ý là chỉ chung hết thảy mọi hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, xúc chạm và ý tưởng, nghĩa là dùng “hương sắc” để chỉ chung hết thảy trần cảnh.

[85] Đoạn này nói về Tam đức của chư Phật, tức là Pháp thân đức, Giải thoát đức và Bát-nhã đức.

[86] Văn Cú nói “大慈安樂 - đại từ an lạc” là cách nói tắt với những hàm ý mặc định rằng người đọc tự hiểu. Đại từ là chỉ đại từ bi, vì ngữ cảnh này đang nói đến cả 2 phẩm đức từ và bi; kinh điển dạy “từ năng dữ lạc, bi năng bạt khổ”, lòng từ là ban vui, giúp chúng sanh được vui; lòng bi là cứu khổ, giúp chúng sanh được an ổn. Cho nên tuy chỉ nói “đại từ an lạc” mà phải hiểu là “giúp chúng sanh được an vui”.

[87] Nguyên tác kinh văn là “我於餘國 - ngã ư dư quốc”. Chữ “dư quốc” được giải thích ở nhiều phần kinh văn trước là cảnh giới không thuộc về ba cõi (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới).

[88] Văn Cú dùng “總持 - tổng trì” tức là nắm giữ được đầy đủ tất cả. Chúng tôi chuyển dịch dựa theo ý kinh.

[89] Văn Cú nói “堪見佛 - kham kiến Phật” (chịu được việc thấy Phật). Đây là nói tiếp theo ý trước, khi tâm người tu tập chưa thuần thục, được thấy chư thiên sẽ sanh ra tự cao, tổn hại đến việc tu tập; nay tâm đã thuần thục thì “chịu được việc thấy Phật” có nghĩa là dù thấy Phật cũng không sanh tâm tự cao như trước. Nếu không hiểu theo sự liên kết ý nghĩa như vậy thì nói “chịu được việc thấy Phật” sẽ rất khó hiểu.

[90] Văn Cú nói: “經云: 佛三種身從此經生。 - Kinh vân: Phật tam chủng thân tùng thử kinh sanh.” Kinh được trích dẫn ở đây là kinh Phật Thuyết Quán Phổ Hiền Bồ Tát hành pháp (佛說觀普賢菩薩行法經), nguyên văn là: “佛三種身從方等生 - Phật tam chủng thân tùng Phương đẳng sanh.” (ĐCT, T9, 277, tr.393a, d.10).

[91] Văn Cú nói “瓔珞經 - Anh Lạc kinh”, tức “Bồ Tát Anh Lạc Kinh - 菩薩瓔珞經” gồm 14 quyển. Nội dung trích dẫn nằm trong quyển 11, phẩm thứ 31 là “供養舍利品 - Cúng dường xá-lợi phẩm”. Văn Cú nói “善吉問 - Thiện Cát vấn” nhưng trong kinh dùng tên “須菩提 - Tu-bồ-đề”, cả 2 danh xưng này đều chỉ đến một người.

[92] Sanh thân Phật tức là thân Phật đang sống, cũng tức là sắc thân. Xá-lợi toàn thân là trường hợp sau khi Phật diệt độ nhưng thân thể vẫn nguyên vẹn không hư rã. Xá-lợi toái thân là xá-lợi còn lại sau khi trà-tỳ (hỏa thiêu) thân Phật, gồm những phần nhỏ không nguyên vẹn.

[93] Văn Cú dùng “那術 - na-thuật”, tức là na-do-tha (那由他), đều phiên âm từ Phạn ngữ nayuta, để chỉ một con số rất lớn.

[94] Văn Cú nói “薩雲分陀利經 – Tát-vân Phân-đà-lợi kinh” là bị nhầm, vì đúng ra là “薩曇分陀利經 - Tát-đàm Phân-đà-lợi kinh”, 1 quyển, đã mất tên người Hán dịch. Tên kinh này là được phiên âm từ Phạn ngữ “Saddharma Puṇḍarīka”, tức là kinh Pháp hoa, như trong chính nội dung kinh này có nói: “薩曇分陀利, 漢言法華 – Tát-đàm Phân-đà-lợi, Hán ngôn Pháp hoa”. Quyển kinh này có khả năng là bản lược dịch ban đầu của ngài Pháp Hộ (6 quyển), đã thất bản. Đây có thể là một trong 6 quyển còn sót lại, hiện được xem là mất tên người dịch. Xem Đại Chánh tạng, Tập 9, kinh số 265, trang 197, tờ a, dòng 12.

[95] Y theo trong kinh Tát-đàm Phân-đà-lợi nói là “金床 - kim sàng” (giường bằng vàng), nhưng đối chiếu nội dung kinh này thì đây là tòa ngồi của Phật. Có thể do cách dịch sang Hán ngữ thời kỳ đầu chưa chính xác như về sau nên gọi đây là “giường”.

[96] Văn Cú trích dẫn kinh Tát-đàm Phân-đà-lợi nói là “袍休蘭羅 - Bão-hưu-lan-la”, nhưng y theo kinh ấy thì là “抱休羅蘭 - Bão-hưu-la-lan”. Đây là danh hiệu Phật được phiên âm từ Phạn ngữ Prabhūtaratna. Các bản dịch về sau đều dịch nghĩa là Đa Bảo (多寶) thay vì Đại Bảo (大寶).

[97] Nguyên tác dùng Thích luận (釋論), thật ra là chỉ đến luận Đại trí độ, như chúng tôi đã dẫn chứng ở trước.

[98] Văn Cú nói “師云 - sư vân”, theo Văn Cú Ký là chỉ đến thầy của ngài Trí Khải, tức là Đại sư Nam Nhạc Tuệ Tư (南嶽慧思).

[99] Nguyên tác là “離四句絕百非 - ly tứ cú, tuyệt bách phi”. “Tứ cú” (4 câu) là chỉ 4 trường hợp xác định của bất kỳ luận đề nào, bao gồm: có, không, cũng có cũng không và chẳng phải có chẳng phải không; “bách phi” (trăm sự phủ định) thật ra là chỉ tất cả mọi trường hợp phủ định, vì được dùng theo cách nói biểu trưng, “trăm” để chỉ số lượng rất nhiều. Trong phạm vi tranh luận dựa trên ngôn thuyết, khái niệm thì bất kỳ vấn đề nào được xác định cũng không thể ra ngoài 4 trường hợp vừa nêu. Hoặc vấn đề đó được xác định là có, hoặc là không, hoặc cũng có cũng không, hoặc chẳng phải có cũng chẳng phải không. Lìa cả 4 trường hợp này có nghĩa là vượt ngoài ngôn thuyết, khái niệm, không thuộc về mọi sự xác định mới thực sự là ý nghĩa chân thật rốt ráo, và do đó cũng dứt hết mọi sự phủ định.

[100] Nguyên tác là “八不 - bát bất”, chỉ bát bất trung đạo (八不中道), bao gồm 8 trường hợp xếp thành 4 cặp phạm trù đối đãi được đề cập đến trong Trung luận của ngài Long Thụ, bao gồm: bất sanh diệc bất diệt - 不生亦不滅 (không sanh cũng không diệt), bất thường diệc bất đoạn -不常亦不斷 (không thường cũng không đoạn), bất nhất diệc bất dị - 不一亦不異 (không phải một cũng không phải khác, và bất lai diệc bất xuất - 不來亦不出 (không đi đến cũng không xuất hiện). Trong thế giới của nhận thức tương đối thì tất cả sự vật đều rơi vào một trong hai bên của các cặp phạm trù này, chẳng hạn như một vật không còn sống (sanh) thì phải là chết (diệt), không thường hằng thì phải đoạn diệt, không đồng nhất thì phải khác biệt… Nhận thức chân thật không rơi vào một trong hai bên như thế gọi là trung đạo, cho nên pháp chân thật thì không sanh cũng không diệt, không thường cũng không đoạn v.v. Do đó, “bát bất” có thể hiểu là 8 điều không, không rơi vào 4 cặp phạm trù đối đãi nói trên.

[101] Văn Cú dùng tên Thích luận (釋論) để chỉ Đại trí độ luận thích (大智度論釋). Câu trích dẫn này nằm ở quyển 79, phẩm Chúc lụy thứ 66 (囑累品第六十六). Nguyên văn: “般若是十方三世諸佛妙法。 - Bát-nhã thị thập phương tam thế chư Phật diệu pháp.” Xem Đại Chánh tạng, Tập 25, số 1509, trang 620, tờ b, dòng 18.

[102] Đa-ma-la-bạt (tamālapa), một loại chiên-đàn quý, có mùi hương rất thơm.

[103] Văn Cú dùng “七覺 - thất giác”, tức thất giác chi (七覺支), là nhóm thứ sáu trong 37 đạo phẩm. Thất giác chi bao gồm: 1. Niệm giác chi; 2. Trạch pháp giác chi; 3. Tinh tấn giác chi; 4. Hỷ giác chi; 5. Khinh an giác chi; 6. Định giác chi; 7. Xả giác chi. Bảy pháp này góp phần đưa đến sự giác ngộ nên được xem là tài sản quý báu của người tu tập.

[104] Văn Cú dùng “七聖財 - thất thánh tài”, tức là 7 tài sản quý báu của bậc thánh, bao gồm: 1. Tín tài; 2. Giới tài; 3. Tàm tài; 4. Quý tài; 5. Văn tài; 6. Thí tài; 7. Định tuệ tài. Tín chỉ niềm tin, đức tin; giới là phẩm hạnh trì giới; tàm là tự hổ thẹn về việc xấu mình làm; quý là xấu hổ với người khác; văn là được nghe chánh pháp, nghe nhiều học rộng các pháp môn; thí là tu tập bố thí; định tuệ là tu tập đạt được định tuệ.

[105] Văn Cú dùng “三十三天 - tam thập tam thiên” (Trāyastriṃśat-deva), tức là cõi trời Đao-lợi (忉利天). Vì cõi trời này có tất cả 33 thiên cung nên được gọi là cõi trời Tam thập tam (ba mươi ba). Đây là tầng trời thứ hai trong 6 tầng trời thuộc Dục giới.

[106] Phần lý giải này nêu đến số 33 là tương ứng với danh xưng “tam thập tam thiên” như đã giải thích, tức là cõi trời Đao-lợi.

[107] Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết (大樂說), được dịch từ tên Phạn ngữ là Mahā Pratibhāna. Tên gọi này có liên quan đến một trong Tứ vô ngại biện là Nhạo thuyết vô ngại biện, tức là biện tài không ngăn ngại, có thể thuyết pháp tùy theo sự ưa thích của chúng sanh. Do vậy, tuy chữ 樂 có thể đọc theo cả 2 âm là “lạc” (niềm vui) hoặc “nhạo” (ưa thích), nhưng đọc là “nhạo” mới phù hợp với tên của vị này.

[108] Theo bản Anh dịch của H. Kern thì là về phương dưới (in the point of space below). Điều này phù hợp với phần kinh văn sau trong phẩm Đề-bà-đạt-đa nói Bồ Tát Trí Tích, thị giả của Phật Đa Bảo, đến từ phương dưới.

[109] Văn Cú dùng chữ “師 - sư” để chỉ ngài Nam Nhạc, thầy của Đại sư Trí Khải.

[110] Kinh văn dùng chữ “寶衣 - bảo y”, thông thường hiểu là “áo quý”, nhưng trong ngữ cảnh này không phải y áo để mặc mà là những tấm vải quý. Bản Anh dịch của H. Kern là “decorated with strings of fine cloth” (trang hoàng bằng những tấm vải đẹp).

[111] Kinh văn dùng “八道 - bát đạo” (8 con đường), tức chỉ các con đường đi về tám hướng, tức là các hướng đông, tây, nam, bắc và 4 hướng phụ là đông nam, đông bắc, tây nam và tây bắc.

[112] Kinh văn phần trên nói đức Phật Thích-ca Mâu-ni 2 lần biến hóa ra các cõi nước, mỗi lần là 200 muôn ức na-do-tha cõi nước, cho nên ở đây nói tổng cộng là 400 muôn ức na-do-tha.

[113] Văn Cú dùng “背捨 - bội xả”, tức là bát bội xả (八背捨), 8 sự buông xả dứt bỏ, cũng gọi là bát giải thoát (八解脫), bao gồm: bao gồm: 1. Nội hữu sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát: Ở trong sắc giới, quán nội sắc và ngoại sắc, trừ bỏ tâm ham thích sắc thể; 2. Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc giải thoát: Không quán nội sắc, quán ngoại sắc, nhận ngoại sắc là ô nhiễm; 3. Tịnh thân tác chứng cụ túc tác giải thoát: Quán tưởng về thanh tịnh nhưng không chấp giữ; 4. Không vô biên xứ giải thoát: Vượt qua sắc thể, quán tưởng rằng hư không là vô biên; 5. Thức vô biên xứ giải thoát: Đạt đến ý niệm thức là vô biên; 6. Vô sở hữu xứ giải thoát: Đạt địa vị trong tâm không còn có vật gì; 7. Phi tưởng Phi phi tưởng xứ giải thoát: Đạt đến mức định Phi tưởng phi phi tưởng xứ; 8. Diệt tận định giải thoát: Đạt mức định Diệt thọ tưởng xứ.

[114] Dữ dục (與欲) là một nghi thức được thực hiện khi vị tỳ-kheo không thể trực tiếp đến tham dự một buổi họp bàn của tăng chúng. Vị ấy có thể gửi ý kiến của mình về vấn đề đang bàn thảo cho một vị tỳ-kheo khác đến trình bày trước đại chúng. Người nhận việc truyền đạt ý kiến đó gọi là “thụ dục” (受欲), và mang ra trình bày trước đại chúng gọi là “thuyết dục” (說欲).

[115] Tức là Đại phương đẳng Đại tập kinh (大方等大集經).

[116] Văn Cú nói “第二 - đệ nhị”, nhưng theo phân chia ở phần trước thì đây là tổng đoạn thứ ba.

[117] Ở đây nói 8 muôn Bồ Tát là số lượng được nêu ở đầu phẩm Pháp sư (80.000), 2 muôn Bồ Tát là số Bồ Tát được nêu ở đầu phẩm Khuyến khích thọ trì (20.000).

[118] Văn Cú dùng “颰陀 - bạt-đà” là phiên âm từ Phạn ngữ Bhadrā, nói đủ là Bhadrā-kalpa, tức là Hiền kiếp, danh xưng của thời đại chúng ta đang sống hiện nay. Trong Hiền kiếp này sẽ có tất cả là 1.000 vị Phật lần lượt ra đời. Văn Cú dùng chữ “沙悖 - sa-bội” cũng là phiên âm từ Phạn ngữ để chỉ “khủng úy thế”, nghĩa là “đời nhiều khiếp sợ”.

[119] Đề-bà-đạt-đa (提婆達多), phiên âm từ Phạn ngữ Devadatta, dịch nghĩa là Thiên Thọ (天壽), Thiên Nhiệt (天熱) hay Thiên Dữ (天與). Giải thích của Văn Cú ở đây dựa theo cách dịch là “thiên nhiệt” (chư thiên nóng bức).

[120] Văn Cú nói “寶唱經目 - Bảo Xướng kinh mục”, tức là bộ Kinh luật dị tướng (經律異相) gồm 50 quyển, do ngài Bảo Xướng và đồng sự biên soạn, cũng gọi là Bảo Xướng lục (寶唱錄), được đưa vào Đại Chánh tạng ở Tập 53, số 2121.

[121] Chánh Pháp hoa kinh (正法華經), 10 quyển, đưa vào Đại Chánh tạng thuộc Tập 9, kinh số 263, do ngài Trúc Pháp Hộ (竺法護) người nước Nguyệt Chi (月氏國) dịch vào đời Tây Tấn.

[122] Tức Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Kinh (摩訶般若波羅蜜經), 27 quyển, hiện còn trong Đại Chánh tạng, Tập 8, kinh số 223. Gọi là Đại phẩm để phân biệt với Tiểu Phẩm Bát Nhã Ba La Mật Kinh (小品般若波羅蜜經), 10 quyển, cũng do Cưu-ma-la-thập dịch, hiện còn trong Đại Chánh tạng, Tập 8, kinh số 227.

[123] Văn Cú dùng “九轍 - cửu triệt”, tức 9 khoa mục, bao gồm: 1. Hôn thánh tương khấu triệt: phẩm Tựa; 2. Thiệp giáo quy chân triệt: phẩm Phương tiện, đức Phật nói pháp cho hàng thượng căn; 3. Hưng loại tiềm chương triệt: phẩm Thí dụ, đức Phật nói pháp cho hàng trung căn; 4. Thuật cùng thông tích triệt: phẩm Tín giải, nói về những điều mà bốn vị đại đệ tử ngộ giải; 5. Chương nhân tiến ngộ triệt: phẩm Hóa thành và phẩm Thụ kí, đức Phật nói pháp cho hàng hạ căn; 6. Tán dương hành lý triệt: phẩm Pháp sư; 7. Bản tích vô sanh triệt: phẩm Hiện Bảo Tháp; 8. Cử nhân trưng quả triệt: phẩm Tùng địa dũng xuất và phẩm Như Lai Thọ lượng; 9. Xưng dương vĩnh tế triệt: từ phẩm Tùy hỷ công đức trở xuống là phần lưu thông của toàn kinh. Tuy nhiên, sách Pháp hoa huyền luận, quyển 1, nói cách phân chia kinh Pháp hoa thành “cửu triệt” là do ngài Đạo Dung (道融) khởi xướng. (Xem Đại Chánh tạng, Tập 34, số 1720, trang 363, tờ c, dòng 11-13.) Tuy sống cùng thời kỳ, nhưng ngài Tăng Duệ là đệ tử của ngài Cưu-ma-la-thập, còn ngài Đạo Dung là người được vua Diêu Hưng mời đến hợp tác với ngài Cưu-ma-la-thập trong việc dịch kinh.

[124] Theo trình bày ở đây, có thể hiểu là kinh văn lúc này vừa được chuyển dịch và chỉ có duy nhất một bản chép tay, chưa được in ấn số lượng nhiều.

[125] Đây là nói đến ngài Nam Nhạc Tuệ Tư (南嶽慧思), thầy của Đại sư Trí Khải. Ngài sanh năm 515, viên tịch vào năm 577, người Vũ Tân (nay là huyện Thượng Thái, Hà Nam), xuất gia từ thuở nhỏ, thường chuyên tâm tụng kinh Pháp hoa.

[126] Văn Cú dùng “四瀆混和 - tứ độc hỗn hòa”, tứ độc chỉ 4 con sông là Trường giang, Hoàng hà, Hoài hà và Tế thủy. Văn Cú Ký giải thích rằng đây là muốn nói đến cảnh “天下大同 - thiên hạ đại đồng”, tức là không còn phân chia như trước đó. Sự thống nhất này là kể từ đời nhà Đường.

[127] Chỗ này Văn Cú có sự lẫn lộn, vì trong quyển 1 khi kể về chuyện ngài Mục-kiền-liên đã có nói rõ việc này, theo đó thì chính ngài Mục-kiền-liên dùng thần thông khiến cho Đề-bà-đạt-đa ngủ say như chết, ngài Xá-lợi-phất nhân đó mới thuyết pháp với 500 tỳ-kheo, chỉ rõ sự sai lầm để thuyết phục họ quay về. Sau đó, ngài Mục-kiền-liên dùng thần thông đặt đại chúng lên bàn tay rồi bay về lại tinh xá.

[128] Ở đây Văn Cú kể 5 tội nghịch là 5 việc Đề-bà-đạt-đa đã làm, bao gồm: phá tăng, giết tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắc và 3 lần mưu hại Phật. Tuy nhiên, xét theo định nghĩa về 5 tội nghịch thì gồm: phá hòa hợp tăng, giết A-la-hán, giết cha, giết mẹ, làm thân Phật chảy máu, nên mới nói rằng 3 việc hãm hại Phật được gộp chung thành một tội, và như vậy Đề-bà-đạt-đa xem như phạm vào 3 tội nghịch.

[129] Bản Đại Chánh chép chỗ này là “懈惓 - giải quyền”, có lẽ nhầm. Chúng tôi tham khảo bản Càn Long chép là “懈倦 - giải quyện” hợp lý hơn, vì chữ quyền (惓 – bộ tâm) mang nghĩa là thành khẩn, chân thành, trong khi chữ quyện (倦 – bộ nhân) mang nghĩa là mệt mỏi, chán mệt. Đây mới là ý nghĩa thích hợp trong ngữ cảnh này. Cũng có thể theo cách dùng xưa kia thì 2 chữ thông nghĩa lẫn nhau.

[130] Văn Cú dùng “紫磨金色 - tử ma kim sắc” (màu vàng tử ma). Vàng tử ma là loại vàng ròng có màu vàng pha sắc tía, được cho là loại vàng tốt nhất, quý nhất. Trong một số kinh luận cũng gọi loại vàng này là vàng diêm-phù-đàn (閻浮檀).

[131] Bốn pháp nhiếp phục, tức Tứ nhiếp pháp (H. 四攝法, S. catvāri-saṃgrahavastūni), bao gồm: 1. Bố thí (H. 布施, S. dāna), dùng pháp bố thí để nhiếp phục, dẫn dắt; 2. Ái ngữ (H. 愛語, S. priyavāditā), dùng lời nhu hòa, êm ái để nhiếp phục, dẫn dắt; 3. Lợi hành (H. 利行, S. arthacaryā), dùng việc làm có lợi cho người khác để nhiếp phục, dẫn dắt; 4. Đồng sự (H. 同事, S. samānārthatā), cùng chung công việc để nhiếp phục, dẫn dắt.

[132] Kinh văn dùng “thập bát bất cộng”, tức thập bát bất cộng pháp (H. 十八不共法, S: aṣṭādaśāveṇikabuddhadharmāḥ), chỉ 18 phẩm tính siêu việt chỉ có ở chư Phật, không có ở hàng Thanh văn, Duyên giác, cho nên gọi là “bất cộng” (không chung cùng). Các pháp này gồm có: 1. Thân vô thất (身無失): thân chân chánh, không có lỗi lầm; 2. Khẩu vô thất (口無失): lời nói chân chánh, không có lỗi lầm; 3. Niệm vô thất (念無失): Tâm niệm không có lỗi lầm; 4. Vô dị tưởng (無異想): Không có ý tưởng phân biệt, đối đãi bình đẳng với tất cả; 5. Vô bất định tâm (無不定心): Tâm thường trong định, không tán loạn; 6. Vô bất tri kỷ xả tâm (無不知己捨心): Luôn rõ biết những tâm niệm buông xả, luôn an trụ trong tâm xả, không khổ không vui; 7. Dục vô giảm (欲無減): Tâm nguyện, ý muốn độ sinh không suy giảm; 8. Tinh tấn vô giảm (精進無減): Tinh tấn không thối chuyển, thường dùng phương tiện độ sinh; 9. Niệm vô giảm (念無減): Tâm niệm không suy giảm, không thối thất; 10. Tuệ vô giảm (慧無減): Trí tuệ viên mãn, viên mãn không khuyết thiếu, không suy giảm; 11. Giải thoát vô giảm (解脱無減): Giải thoát không suy giảm, đầy đủ các giải thoát hữu vi và vô vi, dứt mọi phiền não, tập khí; 12. Giải thoát tri kiến vô giảm (解脱知見無減): Thấy biết các tướng giải thoát không ngăn ngại nên tri kiến giải thoát không suy giảm; 13. Nhất thiết thân nghiệp tùy trí tuệ hành (一切身業隨智慧行): Mọi hành động của thân đều được trí tuệ soi chiếu, phù hợp; 14. Nhất thiết khẩu nghiệp tùy trí tuệ hành (一切口業隨智慧行): Hết thảy mọi lời nói đều xuất phát từ trí tuệ; 15. Nhất thiết ý nghiệp tùy trí tuệ hành (一切意業隨智慧行): Tất cả ý nghĩ khởi lên đều có sự soi chiếu của trí tuệ; 16. Trí tuệ tri kiến quá khứ thế vô ngại vô chướng (智慧知見過去世無閡無障): Trí tuệ thấy biết các đời quá khứ không có chướng ngại; 17. Trí tuệ tri kiến vị lai thế vô ngại vô chướng (智慧知見未來世無閡無障): Trí tuệ thấy biết tương lai không có chướng ngại. 18. Trí tuệ tri kiến hiện tại thế vô ngại vô chướng (智慧知見現在世無閡無障): Trí tuệ thấy biết trong hiện tại không có chướng ngại..

[133] Văn Cú dùng “七支 - thất chi”, chỉ 4 nghiệp xấu ác của miệng (nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi và nói lời độc ác) và 3 nghiệp xấu ác của thân (giết hại, trộm cướp và tà dâm).

[134] Bốn tầng thiền, bao gồm sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền.

[135] Tám loại định, bao gồm 1. Sơ thiền thiên định; 2. Nhị thiền thiên định; 3. Tam thiền thiên định; 4. Tứ thiền thiên định; 5. Không xứ thiên định; 6. Thức xứ thiên định; 7. Vô sở hữu xứ thiên định; 8. Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên định. Người nhập định thì tâm thức đi vào cảnh giới của các tầng trời tương ứng nên gọi là thiên định (天定).

[136] Bồ Tát thiện giới kinh (菩薩善戒經), 9 quyển, do Cầu-na-bạt-ma Hán dịch vào đời Lưu Tống. Có lẽ Văn Cú trích dẫn từ bản khác nên mới có quyển 10.

[137] Văn Cú nói “Nguyệt Tạng đệ nhất”, tức là kinh Phương đẳng Đại tập (大方等大集經), phần Nguyệt Tạng (月藏分), phẩm Thần chú Nguyệt Tràng, thứ nhất (月幢神呪品第一), bắt đầu từ quyển 46. (ĐCT, T13, 397, tr.298a)

[138] Gọi là “túc hạ an bình lập tướng” (足下安平立相).

[139] Gọi là “túc phu cao mãn tướng” (足趺高滿相).

[140] Gọi là “túc hạ nhị luân tướng” (足下二輪相).

[141] Gọi là “túc cân quảng bình tướng (足跟廣平相).

[142] Gọi là “trường chỉ tướng” (長指相).

[143] Gọi là “thân quảng trường đẳng tướng” (身廣長等相).

[144] Gọi là “thất xứ long mãn tướng” (七處隆滿相).

[145] Gọi là “thủ túc chỉ man võng tướng” (手足指縵網相).

[146] Gọi là “thủ túc nhu nhuyễn tướng” (手足柔軟相).

[147] Gọi là “mao thượng hướng tướng” (毛上向相).

[148] Gọi là “y-nê-diên bác tướng” (伊泥延膊相).

[149] Gọi là “tế bạc bì tướng” (細薄皮相).

[150] Gọi là “kim sắc tướng” (金色相).

[151] Gọi là “âm tàng tướng” (陰藏相).

[152] Gọi là “đại trực thân tướng” (大直身相).

[153] Gọi là “chánh lập thủ ma tất tướng” (正立手摩膝相).

[154] Gọi là “kiên viên hảo tướng” (肩圓好相).

[155] Gọi là “trượng quang tướng” (丈光相), Văn Cú gọi là hạng quang (項光). Chúng tôi hiểu rằng Văn Cú dùng chữ “hạng - 項” với nghĩa lớn lao, mà tướng này cũng gọi là “大光相 - đại quang tướng” nên là tương đồng.

[156] Gọi là “thượng thân như sư tử tướng” (上身如獅子相).

[157] Gọi là “chân thanh nhãn tướng” (眞青眼相).

[158] Gọi là “ngưu nhãn tiệp tướng” (牛眼睫相).

[159] Gọi là “đỉnh kế tướng” (頂髻相).

[160] Gọi là “nhất nhất khổng nhất mao sinh tướng” (一一孔一毛生相).

[161] Gọi là “bạch mao tướng” (白毛相), bạch hào tướng (H. 白毫相, S. uṇṇa-lakkhaṇa)

[162] Gọi là “tứ thập xỉ tướng” (四十齒相).

[163] Gọi là “xỉ tề tướng” (齒齊相).

[164] Gọi là “đại thiệt tướng” (大舌相).

[165] Gọi là “phạm thanh tướng” (梵聲相).

[166] Gọi là “sư tử giáp tướng” (獅子頰相).

[167] Gọi là “nha bạch tướng” (牙白相).

[168] Trong mỗi đoạn mô tả Văn Cú đều có xác nhận là một tướng (nhất tướng), hai tướng (lưỡng tướng) hoặc ba tướng (tam tướng). Cứ theo đó mà tính thì Văn Cú đã kể ra đến 34 tướng. Văn Cú Ký ở chỗ này so sánh với sách Pháp giới thứ đệ sơ môn (法界次第初門) cũng do ngài Trí Khải soạn và nói là “剩有二 相 – thặng hữu nhị tướng” (thừa ra 2 tướng). Nếu so sánh với 32 tướng được liệt kê trong luận Đại trí độ (大智度論), quyển 4, thì trong số này có 4 tướng không tìm thấy là 1. tướng gót chân thẳng (足跟直 - túc căn trực), 2. tướng mắt cá chân không nhô ra (踝不現 - khoả bất hiện), 3. tướng chữ vạn (萬字相 - vạn tự tướng) và 4. tướng tóc xanh (青髮 - thanh phát). Như vậy, nếu trừ 4 tướng này thì Văn Cú đã kể ra 30 tướng, còn thiếu 2 tướng nữa là “lưỡng dịch hạ long mãn tướng” (兩腋下隆滿相) và “vị trung đắc thượng vị tướng” (味中得上味相). (ĐCT, T25, 1509, tr.90a, d.27- tr.91a, d.18)

[169] Văn Cú gọi là “八十種好 - bát thập chủng hảo”, kinh Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa (大般若波羅蜜多經), quyển 381, liệt kê và giải thích đầy đủ về các vẻ đẹp này, gọi là “八十隨好 - bát thập tùy hảo”, thường được hiểu là 80 vẻ đẹp, 80 tướng phụ hay 80 tiểu tướng, đều có ý nghĩa rằng các vẻ đẹp này là phụ theo với 32 tướng tốt của đức Phật. Xem Đại Chánh tạng, Tập 6, kinh số 220, trang 968, tờ a, dòng 9 đến trang 969, tờ a, dòng 7.

[170] Văn Cú không dẫn nguồn ở đây nhưng chúng tôi so sánh thấy rất có thể nội dung 80 vẻ đẹp này đã được trích từ kinh Bồ Tát thiện giới (菩薩善戒經), quyển 9, tuy là có một vài khác biệt nhỏ. (ĐCT, T30, 1582, tr.1009c, d.8-22)

[171] Trung kiếp: là khoảng thời gian bằng 20 tiểu kiếp. Mỗi tiểu kiếp là khoảng thời gian tuổi thọ con người trải qua đủ một chu kỳ tăng và giảm, theo luận Câu-xá (quyển 10) là 16.800.000 năm. Do đó, một trung kiếp là thời gian 336.000.000 năm. Thời gian 80 trung kiếp hợp thành một đại kiếp.

[172] Kinh Tát-đàm Phân-đà-lợi (薩曇分陀利經), Hán dịch là Pháp hoa, mất tên người dịch, đã được trích dẫn ở một phần trước. (ĐCT, T9, 265)

[173] Tức là sách Thỉnh Quán Âm kinh sớ (請觀音經疏), 1 quyển, do ngài Trí Khải thuyết giảng, đệ tử là Quán Đảnh ghi lại, hiện còn trong Đại Chánh tạng, Tập 39, kinh số 1800.

[174] Kinh văn dùng chữ “陀羅尼 - đà-la-ni”, phiên âm từ Phạn ngữ dhāraṇī, Hán dịch là “tổng trì” (總持), có nghĩa là thâu nhiếp, nắm giữ được tất cả, không bỏ sót.

[175] Theo ý nghĩa của từ ngữ thì “mười phương” chỉ phương hướng, tức là khắp cùng không gian. Ở đây giải thích là “10 pháp giới” tức là chỉ cho khắp thảy các loài chúng sanh, bao hàm cả 6 cõi phàm, 4 cõi thánh.

[176] Pháp khí: vật chứa đựng chánh pháp, dùng với ý nghĩa biểu trưng để chỉ người có thể học hỏi và truyền bá chánh pháp, như các vị tăng giáo hóa nhiều người thường được tôn xưng là bậc pháp khí.

[177] Văn Cú nói là “胎經 - Thai kinh”, theo nội dung trích dẫn ở đây thì được dẫn từ kinh Bồ Tát tùng Đâu-suất thiên giáng thần mẫu thai thuyết Quảng phổ (菩薩從兜術天降神母胎說廣普經), Văn Cú đã gọi tắt thành Thai kinh. Xem Đại Chánh tạng, Tập 12, kinh số 384, trang 1035, tờ c.

[178] Nguyên văn bài kệ trong kinh văn là: “法性如大海, 不記有是非。凡夫賢聖人, 平等無高下。唯在心垢滅, 取證如反掌。 - Pháp tánh như đại hải, bất ký hữu thị phi. Phàm phu, hiền thánh nhân, bình đẳng vô cao hạ. Duy tại tâm cấu diệt, thủ chứng như phản chưởng.” Văn Cú dẫn câu thứ 2 là chữ “說 - thuyết” thay vì chữ “記 - ký”.

[179] Tám tướng thành đạo, chỉ 8 sự tướng quan trọng nhất khi một vị Phật ra đời, đó là các tướng: 1. Giáng thần; 2. Nhập thai; 3. Đản sanh; 4. Xuất gia; 5. Hàng ma; 6. Thành đạo; 7. Thuyết pháp; 8. Nhập Niết-bàn.

[180] Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề (H. 摩訶波闍波提, S. Mahā Prajāpatī). Bà là em gái của Hoàng hậu Ma-da, tức dì của thái tử Tất-đạt-đa. Hoàng hậu Ma-da sau khi sanh thái tử được 7 ngày thì qua đời, bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề đã thay thế làm người nuôi dưỡng, chăm sóc thái tử Tất-đạt-đa, cho nên bà thường được gọi một cách cung kính là di mẫu của Phật. Bà cũng được gọi là Kiều-đàm-di (憍曇彌) hoặc Cù-đàm-di (瞿曇彌).

[181] Kinh văn nói “於善國中 - ư thiện quốc trung”, theo ngữ cảnh ở đây không phải nói tên cõi nước là “Thiện Quốc”, vì những nơi khác trong kinh khi Phật thụ ký về tên cõi nước sẽ dùng “國名 - quốc danh” (cõi nước tên là…). Hơn nữa, ở đây nếu hiểu chữ “quốc” để chỉ cõi nước thì trong tên cõi nước chỉ còn lại một chữ “thiện”, không hợp lý. Do vậy chỉ có thể hiểu là “ở trong cõi nước tốt lành”. Bản Anh dịch của H. Kern cũng hoàn toàn không đề cập đến tên cõi nước trong lời thụ ký này.

[182] Trong kinh Trung A-hàm gọi vị tỳ-kheo tu hạnh A-lan-nhã là “vô sự tỳ-kheo”. A-lan-nhã (阿蘭若), phiên âm từ Phạn ngữ là araṇya, về sau cũng thường dịch là “không nhàn xứ” (空閒處), dùng để chỉ những nơi vắng vẻ như rừng núi, đồng hoang, thích hợp cho người tu hành tịch tĩnh. Văn Cú Ký cũng giải thích theo nghĩa là “vô tranh” (無諍), nghĩa là không tranh giành với người khác.

[183] Đầu-đà (頭陀), phiên âm từ Phạn ngữ dhūta, “đẩu-tẩu” (抖擻) cũng là một cách phiên âm khác, dịch nghĩa là rũ bỏ, trừ bỏ, chỉ các hạnh tu tập hạn chế tham dục, kiềm chế và diệt trừ ham muốn.

[184] Văn Cú Ký cho rằng chỗ này có nhầm lẫn vì phần trích dẫn nằm trong quyển 5. Chúng tôi cũng đã tìm thấy đoạn trích dẫn này đúng là nằm trong quyển 5 của kinh Bảo Vân (寶雲經). Kinh này có 7 quyển, do ngài Mạn-đà-la-tiên (曼陀羅仙) Hán dịch vào đời Lương. Xem Đại Chánh tạng, Tập 16, kinh số 658, trang 232, tờ a, từ dòng 15.

[185] Năm phần pháp thân: tức chỉ giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến.

[186] Văn Cú trích dẫn 6 câu kệ này từ kinh Nguyệt đăng tam-muội (月燈三昧經) nhưng không dẫn chú. Kinh này có 10 quyển, do ngài Na-liên-đề-da-xá (那連提耶舍) Hán dịch. Văn Cú đã trích dẫn 6 câu trong quyển 1 là: “若遇垂死最重病, 痛惱逼迫極無瘳, 念佛三昧常不捨, 一切苦切奪其心, 彼人自解是法故, 則知一切諸法空。 - Nhược ngộ thùy tử tối trọng bệnh, thống não bức bách cực vô sưu, niệm Phật tam-muội thường bất xả, nhất thiết khổ thiết đoạt kỳ tâm, bỉ nhân tự giải thị pháp cố, tắc tri nhất thiết chư pháp không.” Tuy nhiên, Nguyên tác kinh văn 6 câu này là: “若遇垂死最重疾, 痛惱逼迫極無聊, 念佛三昧常不捨, 不令苦切奪此心, 彼人自解是法故, 則知一切諸法空。 - Nhược ngộ thùy tử tối trọng tật, thống não bức bách cực vô liêu, niệm Phật tam-muội thường bất xả, bất linh khổ thiết đoạt thử tâm, bỉ nhân tự giải thị pháp cố, tắc tri nhất thiết chư pháp không.” Ngoài một vài chữ không khác biệt như”bệnh” và “tật”, hoặc khác biệt không quá xa như “vô sưu” (không khỏi bệnh) và “vô liêu” (buồn khổ)… riêng câu thứ tư đã sai lệch đến mức trở thành vô nghĩa “nhất thiết khổ thiết đoạt kỳ tâm”, trong khi Nguyên tác kinh văn là “bất linh khổ thiết đoạt thử tâm”. Chúng tôi đã chuyển dịch theo đúng kinh văn vì tin rằng sai sót trong Văn Cú chỉ là do lỗi sao chép. Xem Đại Chánh tạng, Tập 15, kinh số 639, trang 553, tờ b, dòng 22 đến dòng 24.

[187] Cửu khổng (九孔), 9 lỗ, chỉ thân thể con người có 9 lỗ thông ra bên ngoài, gồm 2 lỗ mắt, 2 lỗ mũi, 2 lỗ tai, 1 lỗ miệng và 2 lỗ đại tiểu tiện.

[188] Văn Cú trong đoạn trước đã dùng “thiện” và “bất thiện”, từ chỗ này lại chuyển sang dùng “tịnh” và “bất tịnh”, nhưng ý nghĩa giống nhau nên chúng tôi chuyển dịch nhất quán với đoạn trước để độc giả tiện theo dõi.

[189] Văn Cú nói là “毘婆沙第八 - Tỳ-bà-sa đệ bát” (Tỳ-bà-sa, quyển 8). Tuy nhiên, phần trích dẫn này là từ luận A-tỳ-đàm Tỳ-bà-sa (阿毘曇毘婆沙論), quyển 9, phẩm Kiền-độ trí, thứ năm. Luận này do 2 vị Phù-đà-bạt-ma (浮陀跋摩) và Đạo Thái (道泰) Hán dịch, gồm 60 quyển. (ĐCT, T28, 1546, tr.57a, d.20-25) Chúng tôi căn cứ nội dung trong luận để hiểu và dịch đoạn này, vì Văn Cú nói tóm lược đến mức không đủ nghĩa. Ví dụ như câu “念罵是一語餘皆喚聲 - Niệm mạ thị nhất ngữ dư giai hoán thanh” thì không thể nào hiểu được như chúng tôi đã chuyển dịch ở trên. Đây là nội dung được giải thích rõ trong nguyên tác bộ luận.

[190] Lập luận trong câu này muốn nói rằng ngôn ngữ chỉ là quy ước, nên ở các địa phương, xứ sở khác nhau thì quy ước có khi trái ngược nhau. Chẳng hạn như người Ấn Độ lắc đầu là đồng ý trong khi ở nhiều nơi khác thì lắc đầu là không đồng ý.

[191] Văn Cú nói rất ngắn và không đủ nghĩa: “我若念此卑語無處得樂 - ngã nhược niệm thử ti ngữ vô xứ đắc lạc.” Chúng tôi chuyển dịch theo nội dung đầy đủ hơn trong nguyên văn bộ luận.

[192] Văn Cú Ký giải thích về ý này bằng cách đưa ra các thí dụ, như khi có khách đến chơi, nếu chủ nhà nói “去早 - khứ tảo” (đi sớm thế) tức là có ý muốn lưu giữ khách, nhưng nói “早去 - tảo khứ” (đi ngay đi) lại là có ý đuổi khách; hoặc như đang bữa ăn gặp khách đến chơi, nếu chủ nhà nói “來早 - lai tảo” (đến sớm thế) tức là có ý bực dọc xúc phạm, nhưng nếu nói “早來 - tảo lai” (đến đây đi) tức là vui mừng hoan nghênh.

[193] Câu này đề cập đến “ấm, nhập, giới”, tức là 5 ấm bao gồm sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm; 12 nhập bao gồm 6 căn thiệp nhập với 6 trần; 18 giới bao gồm sự tiếp xúc giữa 6 căn bên trong, 6 trần bên ngoài và 6 thức ở khoảng giữa. Chuỗi âm thanh của lời mắng chửi thật ra cũng chỉ là một phần nhỏ thuộc về các ấm, nhập và giới.

[194] Chúng tôi vẫn phải dựa vào nội dung trong nguyên văn bản luận để trình bày phần này, vì Văn Cú nói không đủ nghĩa. Trong Nguyên tác luận nói chi tiết hơn nữa “có 17 giới không mắng chửi so với 1, 11 nhập không mắng chửi so với 1, 4 ấm không mắng chửi so với 1 v.v.

[195] Văn Cú Ký cho rằng chỗ này nhầm lẫn, vì phần trích dẫn nằm trong quyển 10. Chúng tôi chưa tìm thấy phần này.

[196] Nguyên văn dùng “六道生死 - lục đạo sanh tử” (6 đường sanh tử), chỉ 6 cảnh giới tái sanh của tất cả chúng sanh trong vòng sanh tử, bao gồm các cảnh giới chư thiên, nhân loại, a-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Tất cả chúng sanh tùy theo nghiệp thiện ác đã tạo, đều phải tái sanh vào một trong 6 cảnh giới này.

[197] Nguyên văn dùng “二聖涅槃 - nhị thánh Niết-bàn”, chỉ 2 cảnh giới Niết-bàn hữu dư và Niết-bàn vô dư.

[198] Nguyên văn dùng “不緣二邊 - bất duyên nhị biên” (không duyên theo 2 bên). Hai bên ở đây chỉ 2 quan điểm chấp có và chấp không. Người hiểu lẽ trung đạo thì không rơi vào một trong 2 bên này mà luôn nhận hiểu về các pháp đúng như thật tướng.

[199] Đây là đoạn kệ tụng nói về việc đức Phật Đại Thông Trí Thắng nhập thiền định ngồi yên bất động suốt trong 10 tiểu kiếp.

[200] Nguyên văn dùng “五受 - ngũ thụ”, chỉ 5 loại cảm thụ là khổ thụ, lạc thụ, ưu thụ, hỷ thụ và xả thụ. Văn Cú Ký diễn giải khác hơn, cho rằng cả 4 trường hợp bám chấp của ngoại đạo như có, không, chẳng phải có chẳng phải không, vừa có vừa không đều dứt bỏ, cho đến tự thân sự dứt bỏ đó cũng dứt bỏ luôn tức là không cảm thụ 5 loại cảm thụ. Văn Cú Ký cũng cho rằng đối với Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo, mỗi giáo đều có 4 cửa vào đạo (tứ môn), cũng tức là có, không, chẳng phải có chẳng phải không và cũng có cũng không. Dứt bỏ hết các môn này, cho đến sự dứt bỏ cũng dứt bỏ luôn, tức là không cảm thụ 5 loại cảm thụ. Viên giáo cũng dứt trừ 4 môn, cho đến nếu chưa chứng được thật tánh khởi sinh bám chấp kiến giải cũng dứt trừ luôn, gọi là không cảm thụ 5 loại cảm thụ.

[201] Nguyên tác Văn Cú dùng “無常拙度 - vô thường chuyết độ” để chỉ sự tu tập vận dụng lẽ vô thường của hàng Nhị thừa là không khéo léo; ngược lại hàng Bồ Tát thì “如實巧度 - như thật xảo độ”, tức là vận dụng khéo léo lẽ như thật để hướng đến sự giác ngộ, giải thoát.

[202] Phần trích dẫn này nằm ở quyển 27, kinh Đại Bát Niết-bàn, theo Bắc bản do ngài Đàm-vô-sấm Hán dịch. Kinh văn nói “定苦 - định khổ” để chỉ trường hợp nhất định là khổ, lúc nào cũng khổ…; “定樂 - định lạc” để chỉ trường hợp nhất định là vui, lúc nào cũng vui. Xem Đại Chánh tạng, Tập 12, kinh số 374, trang 523, tờ b, dòng 24 đến 28.

[203] Ở đây chỉ 3 phẩm đức là Pháp thân, Bát-nhã và Giải thoát. Ba phẩm đức này được xem là đức tướng của Niết-bàn, là 3 phẩm đức chung của chư Phật.

[204] Đoạn này đề cập đến 3 phẩm đức của chư Phật là đoạn đức (斷德), trí đức (智德) và ân đức (恩德).

[205] Tức tam mật (三密) của chư Phật, bao gồm thân mật (身密), khẩu mật (口密) và ý mật (意密).

[206] Tức tam luân (三輪) của chư Phật, bao gồm thần thông luân (神通輪), thuyết pháp luân (說法輪) và ý luân (意輪).

[207] Văn Cú Ký giải thích rằng tam nghiệp, tam mật, tam luân đều là những tên gọi khác của tam đức; ý mật tức là bát-nhã, khẩu mật tức là giải thoát, thân mật tức là pháp thân. (Xem Đại Chánh tạng, Tập 34, kinh số 1719, trang 317, tờ a, dòng 7-8.) Điều này cho thấy những cách giải thích, gọi tên như trên chỉ là những sự biểu đạt khác nhau về 3 phẩm đức chung của chư Phật.

[208] Văn Cú dẫn từ kinh văn nhưng không nêu rõ. Đây là câu kinh trong Duy-ma-cật sở thuyết kinh: “若菩薩行於非道, 是為通達佛道。- Nhược Bồ Tát hành ư phi đạo, thị vi thông đạt Phật đạo.” Xem Đại Chánh tạng, Tập 14, kinh số 475, trang 549, tờ a, dòng 1 và 2.

[209] Văn Cú nói “與涅槃義合 - dữ Niết-bàn hợp nghĩa”, Niết-bàn ở đây là chỉ kinh Đại Bát Niết-bàn, với nội dung tương hợp đang được so sánh.

[210] Văn Cú chỉ nói “彼云 - bỉ vân” (kia nói rằng), nhưng theo ngữ cảnh và nội dung nên biết được “kia” là chỉ “kinh kia”, và “kinh kia” tức là kinh Đại Bát Niết-bàn với nội dung được trích dẫn tiếp theo.

[211] Nguyên văn kinh: “復有一行是如來行。 - Phục hữu nhất hạnh, thị Như Lai hạnh.” Xem Đại Chánh tạng, Tập 12, kinh số 374, trang 432, tờ a, dòng 12.

[212] Nguyên văn trong kinh Đại Bát Niết-bàn nói: “有河端直不曲名娑婆耶喻如繩墨直入西海。 - Hữu hà đoan trực bất khúc danh Ta-bà-da, dụ như thằng mặc trực nhập tây hải.” (Có con sông tên là Ta-bà-da, chảy không uốn khúc, thẳng như dây mực, chảy thẳng vào biển phía tây.) Văn Cú không dùng tên phiên âm Phạn ngữ Ta-bà-da mà dịch nghĩa tên sông này là “金沙大河 - Kim sa đại hà” (sông lớn Kim sa). Xem Đại Chánh tạng, Tập 12, kinh số 374, trang 426, tờ a, dòng 23-24.

[213] Trong kinh Đại Bát Niết-bàn nói về 5 hạnh, bao gồm thánh hạnh (聖行), phạm hạnh (梵行), thiên hạnh (天行), anh nhi hạnh (嬰兒行) và bệnh hạnh (病行). Văn Cú Ký giải thích về sự tương đồng cụ thể hơn, cho rằng thánh hạnh là tương đồng với “ngồi tòa Như Lai”, thiên hạnh là tương đồng với “đắp y Như Lai” và 3 hạnh còn lại là tương đồng với “vào nhà Như Lai”.

[214] Những nội dung trích dẫn để so sánh ở đây là trong kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 10. Xem Đại Chánh tạng, Tập 12, kinh số 374, từ trang 422.

[215] Nội dung trích dẫn này được tìm thấy ở nhiều nơi trong quyển 3, kinh Đại Bát Niết-bàn, cụ thể như câu kinh này: “護持正法者… 應持刀劍弓箭鉾槊守護持戒清淨比丘。 - Hộ trì chánh pháp giả… ưng trì đao kiếm cung tiễn mâu sóc thủ hộ trì giới thanh tịnh tỳ-kheo.” (Người hộ trì chánh pháp… nên cầm đao kiếm, cung tên, giáo mác theo bảo vệ vị tỳ-kheo giữ giới thanh tịnh.) Xem Đại Chánh tạng, Tập 12, kinh số 374, trang 383, tờ b, dòng 22-24.

[216] Tức là 2 phương pháp chiết phục (折伏) và nhiếp thụ (攝受). Chiết phục có nghĩa là khuất phục kẻ tà ác, khiến cho họ không thể chống lại mà phải quay về chánh đạo. Nhiếp thụ nghĩa là thâu nhận, nhiếp hóa người hiền thiện, giúp cho họ tiếp tục phát triển căn lành, tăng tiến trên đường tu tập.

[217] Văn Cú nói “一子地 - Nhất tử địa”, tức là Cực ái nhất tử địa (極愛一子地), gọi tắt là giai vị Nhất tử, là giai vị của hàng Bồ Tát đã phát khởi tình thương đối với tất cả chúng sanh, giống như chúng sanh thương yêu đứa con duy nhất của mình.

[218] Văn Cú chỉ nói “頭破作七分 - đầu phá thất phần”, đây là trích dẫn từ phẩm Đà-la-ni trong kinh này nói: “惱亂說法者, 頭破作七分 – não loạn thuyết pháp giả, đầu phá tác thất phần” (quấy nhiễu người thuyết pháp, đầu vỡ làm 7 phần). Xem Đại Chánh tạng, Tập 9, kinh số 262, trang 59, tờ b, dòng 12-13.

[219] Văn Cú nói là “圓行 - viên hạnh”, Văn Cú Ký giải thích là: “欲修圓行, 欲利他 - dục tu viên hạnh, dục lợi tha cố” (muốn tu hạnh viên mãn, tức là muốn làm lợi ích chúng sanh). Cũng có thể hiểu là hạnh tu tập theo Viên giáo. Tuy nhiên, xét ngữ cảnh ở đây thì ý nghĩa lợi tha phù hợp hơn.

[220] Đồng thể từ bi (同體慈悲), cũng gọi là đồng thể đại bi (同體大悲), chỉ tâm từ bi khởi sanh vì thấy biết tất cả chúng sanh đều cùng một thể tánh với mình. Do trí tuệ Bát-nhã dẫn đến sự thấy biết này nên nói rằng “trí Bát-nhã khởi sanh đồng thể từ bi”.

[221] Văn Cú chỉ nói “南岳師 - Nam Nhạc sư”, chỉ Đại sư Nam Nhạc Tuệ Tư (南嶽慧思) là thầy của Đại sư Trí Khải. Chúng tôi ghi rõ để tránh nhầm lẫn với thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng (南嶽懷讓).

[222] Văn Cú nói “天台師 - Thiên Thai sư”, chỉ Đại sư Trí Khải. Đây có lẽ là một lỗi biên tập không thích hợp của người đời sau khi ghi chép vì toàn bộ sách này đã là của Đại sư Trí Khải nên không cần chỉ ra như vậy. Một số nơi khác trong sách đều dùng “私謂 - tư vị” (tôi cho rằng) khi nêu ý riêng của Đại sư.

[223] Giai vị nhẫn nhục: tức nhẫn nhục địa (忍辱地), một trong các giai vị tu tập thành tựu của hàng Bồ Tát, bao gồm thành tựu được sanh nhẫn (生忍) và pháp nhẫn (法忍). Sanh nhẫn là nhẫn chịu được tất cả những điều trái ý do chúng sanh hữu tình gây ra cho mình, như bị mắng chửi, đánh đập, vu oan v.v.; pháp nhẫn là nhẫn chịu được tất cả những điều trái ý do hoàn cảnh bên ngoài gây ra như nóng bức, rét lạnh, đói khát v.v.

[224] Nội phàm (內凡) có nhiều cách hiểu, nhưng theo các tông phái Đại thừa nói chung thì chỉ các giai vị đã vào bậc Tam hiền, tức Thập trụ, Thập hành và Thập hồi hướng. Khái niệm này để phân biệt với ngoại phàm (外凡) là những giai vị thấp hơn trước đó.

[225] Thất trụ (七住), giai vị thứ bảy trong thập trụ (十住) của hàng Bồ Tát, được gọi là Bất thối trụ (不退住).

[226] Nguyên tác là “私謂 - tư vị” (ý riêng cho rằng), vì là tác phẩm giảng giải của Đại sư Trí Khải nên đây là cách tự xưng của ngài. Điều này cho thấy những trích dẫn trước nêu tên ngài là cách trình bày nhầm lẫn.

[227] Văn Cú nói “初家 - sơ gia”, Văn Cú Ký giải thích rằng “即初兩家 - tức lưỡng sơ gia”. Phần trên đã nêu 3 cách giải thích, và “sơ gia” ở đây chỉ cho 2 cách giải thích trước.

[228] Ở đây Văn Cú dựa theo ý kinh để dẫn lại, không phải nguyên văn. Kinh văn Nguyên tác trong quyển 27 là “菩薩摩訶薩智慧因故見不了了 - Bồ Tát ma-ha-tát trí tuệ nhân cố kiến bất liễu liễu”. Kinh văn đoạn này đang nói về sự thấy biết tánh Phật. Xem Đại Chánh tạng, Tập 12, kinh số 374, trang 527, tờ c, dòng 25-26.

[229] Văn Cú dẫn từ kinh Duy-ma-cật sở thuyết (維摩詰所說經), quyển 1, phẩm Phật quốc. Nguyên văn kinh là “近無等等佛自在慧 – cận vô đẳng đẳng Phật tự tại tuệ”. Xem Đại Chánh tạng, Tập 14, kinh số 475, trang 537, tờ a, dòng 24-25.

[230] Văn Cú dùng “詣理 - nghệ lý”, Văn Cú Ký giải thích rằng đây là dựa theo kinh văn nói trụ ở giai vị nhẫn nhục. (言詣理者, 以經云住忍辱地故也。 - Ngôn nghệ lý giả, dĩ kinh vân trụ nhẫn nhục địa dã.)

[231] Văn Cú dùng “四忍 - tứ nhẫn”, lược dùng 4 nhẫn trong 5 pháp nhẫn nói ở kinh Nhân vương, bao gồm phục nhẫn (伏忍), thuận nhẫn (順忍), vô sanh nhẫn (無生忍), tịch diệt nhẫn (寂滅忍).

[232] Văn Cú nói “五忍 - ngũ nhẫn” tức là 5 loại nhẫn được nói trong kinh Nhân vương hộ quốc Bát-nhã ba-la-mật-đa (仁王護國般若波羅蜜多經), quyển thượng, bao gồm: phục nhẫn (伏忍), tín nhẫn (信忍), thuận nhẫn (順忍), vô sanh nhẫn (無生忍), tịch diệt nhẫn (寂滅忍). Xem Đại Chánh tạng, Tập 8, kinh số 246, trang 836, tờ b, dòng 14 - 17.

[233] Văn Cú dùng “六忍 - lục nhẫn” tức là 5 loại nhẫn được nói trên, thêm vào hòa tùng nhẫn (和從忍).

[234] Ở đây đề cập đến 42 giai vị của hàng Bồ Tát từ Thập trụ trở lên, bao gồm Thập trụ (十住), Thập hành (十行), Thập hồi hướng (十迴向), Thập địa (十地), Đẳng giác (等覺) và Diệu giác (妙覺).

[235] Văn Cú dùng “五住 - ngũ trụ” (5 trụ), chỉ 5 trụ địa phiền não, bao gồm Kiến nhất xứ trụ địa, Dục ái trụ địa, Sắc ái trụ địa, Hữu ái trụ địa và Vô minh trụ địa. Vì là gốc sanh ra phiền não nên gọi là các trụ địa.

[236] Kiến phiền não là những phiền não do mê muội không rõ thật lý, như ngã kiến, tà kiến, v.v. Ái phiền não là những phiền não do mê muội về sự việc, như tham dục, sân hận v.v. Hai loại phiền não này đều do hư vọng khởi sanh.

[237] Văn cú chỗ này dẫn kinh văn là “亦不分別 - diệc bất phân biệt”, có lẽ nhầm lẫn, vì kinh văn nói “亦不行不分別 - diệc bất hành bất phân biệt”.

[238] Hán văn dùng chữ “親近 - thân cận” có lẽ để diễn đạt một ý nghĩa trong Phạn ngữ rộng hơn nhiều, vì ngoài ý nghĩa là gần gũi còn hàm ý có sự chia sẻ mật thiết, có mối quan tâm chung. Bản kinh Chánh Pháp hoa thì dịch là “tùng sự” (從事). Bản Anh dịch của H. Kern diễn đạt những ý nghĩa này phức tạp hơn là “not serve, not court, not wait upon… nor keep any intercourse with them” (không phục vụ, không lấy lòng, không mong đợi… cũng không có bất cứ mối quan hệ nào với họ). Do vậy, nên hiểu từ ngữ này theo một nghĩa mở rộng là không có mối quan hệ gần gũi, thân thiết, không nhờ cậy, không mua chuộc lấy lòng, không cộng tác...

[239] Nguyên tác Hán văn dùng “大臣, 官長 - đại thần, quan trưởng” có lẽ muốn phân biệt các vị quan lớn (đại thần) và quan chức nói chung (quan trưởng).

[240] Hán văn dùng “外道梵志, 尼揵子等 - ngoại đạo Phạm chí, ni-kiền tử đẳng”. Chữ Phạm chí được dịch từ Phạn ngữ brāhmaṇa, thường đọc theo âm thành bà-la-môn, chỉ những người theo đạo thờ Phạm thiên. Trong ngữ cảnh này, Phạm chí chỉ người xuất gia theo ngoại đạo, trong khi ni-kiền tử chỉ cho những người theo ngoại đạo nhưng không xuất gia. Văn Cú Ký giải thích ngược lại, rằng ni-kiền tử chỉ người xuất gia và Phạm chí là người tại gia. Dù hiểu theo cách nào thì trong câu này cũng chỉ chung 2 hạng xuất gia và tại gia theo ngoại đạo. Ni-kiền tử ở đây không dùng để chỉ phái ngoại đạo Ni-kiền tử, vì trước đó đã nói chung tất cả ngoại đạo rồi.

[241] Hán văn dùng chữ “外書 - ngoại thư”, không phải chỉ kinh sách ngoại đạo, mà chỉ chung những loại sách không thuộc về đạo Phật, tương tự như sự phân biệt nội điển (kinh sách đạo Phật) và ngoại điển (sách vở nói về những kiến thức thế tục). Bản Anh dịch của H. Kern chỉ nói chung là “literature” (văn chương).

[242] Nguyên tác Hán văn là “路伽耶陀, 逆路伽耶陀 - lộ-già-da-đà, nghịch lộ-già-da-đà”. Lộ-già-da-đà (lokayāta) dịch nghĩa là thuận theo thế tục, nghịch lộ-già-da-đà (vāmalokayāta) dịch nghĩa là ngược với thế tục. Tuy nhiên, Từ điển Phật Quang bản Hán ngữ dẫn Phạn văn kinh Pháp hoa hiện còn cùng với bản Tạng ngữ, cho rằng lokayāta là tương đương với lokāyatamantradhāraṇā (trì thế chú thuật), và như vậy vāmalokayāta là nghịch lại với chú thuật, chỉ cho các triết lý thế gian. Bản Anh dịch của H. Kern chỗ này cũng dịch là “adepts at worldly spells, and votaries of a worldly philosophy” (những người giỏi chú thuật thế tục và những người sùng bái triết lý thế gian). Chúng tôi cho rằng các ý nghĩa này phù hợp hơn với ngữ cảnh của kinh văn đang đề cập. Đặc biệt ở đây không thể hiểu là danh xưng của các phái ngoại đạo, vì trước đó đã đề cập chung tất cả ngoại đạo rồi.

[243] Ở đây chỉ các trò biểu diễn cho nhiều người xem như đấu kiếm, đấu vật v.v.

[244] Nguyên tác Hán văn là “那羅 - na-la”, phiên âm từ Phạn ngữ naṭa, chỉ chung những người biểu diễn nhảy múa, khiêu vũ v.v.

[245] Nguyên tác Hán văn là “種種變現之戲 - chủng chủng biến hóa chi hý”, chỉ tất cả các trò biến hóa lạ lùng để mua vui, tức là các trò biểu diễn ảo thuật.

[246] Kinh văn gọi chung những nghề nghiệp này là “諸惡律儀 - chư ác luật nghi”, chỉ đến những nghề nghiệp gây hại chúng sanh, tạo nghiệp xấu ác.

[247] Ở đây chỉ chung những người có tâm cầu quả Thanh văn trong bốn chúng, xuất gia cũng như tại gia.

[248] Nguyên tác Hán văn là “五種不男 - ngũ chủng bất nam”, cũng gọi là “五種不能男 - ngũ chủng bất năng nam”, Phạn ngữ là pañca paṇḍakāḥ, chỉ 5 trường hợp tuy mang hình thể nam giới nhưng không có khả năng hành dâm hoặc hành dâm bất thường. Năm loại này bao gồm: 1. Sanh bất năng nam (生不能男 - jāti-paṇḍaka): người sanh ra đã không có khả năng hành dâm; 2. Bán nguyệt bất năng nam (半月不能男 - pakṣa-paṇḍaka): người mỗi tháng đều bị mất khả năng hành dâm trong nửa tháng; 3. Đố bất năng nam (妒不能男 - īrṣyā-paṇḍaka): người nhìn thấy người khác hành dâm khởi tâm ghen tức rồi mới tự mình khởi tâm dâm. 4. Tinh bất năng nam (精不能男 - āsaktaprādurbhāvī-paṇḍaka): người mỗi khi hành dâm thì nam căn tự nhiên biến mất. Cũng có chỗ giải thích rằng đây là người hành dâm thụ động, tùy thuộc vào người khác. 5. Bệnh bất năng nam (病不能男 - āpat-paṇḍaka): người do bệnh hoặc vì lý do khác phải cắt bỏ nam căn.

[249] Văn Cú dẫn từ kinh văn nhưng chỉ nói lược là “lộ-già-da”, trong kinh văn là “lộ-già-da-đà”.

[250] Kinh văn dùng chữ “那羅 - na-la” nhưng Văn Cú chỗ này dẫn là na-la-diên (那羅延), nhầm với chữ nārāyaṇa chỉ vị lực sĩ cõi trời, cũng gọi là kim cang lực sĩ, có sức mạnh vô song.

[251] Đến đây là hết quyển 8 của Văn Cú, bắt đầu quyển 9.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 10 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Kinh Duy-ma-cật (Hán-Việt)


Gọi nắng xuân về


Vua Là Phật, Phật Là Vua


Gió Bấc

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.108 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập