Ở Đại Phật Loan, huyện Đại Túc, tỉnh Tứ Xuyên, có một bức tượng Quán Âm 
		Thiên Thủ Thiên Nhãn nổi tiếng khắp hoàn cầu.
	  Trên một bức tường vuông vắn mỗi bề mười trượng, có khắc tượng Ngài Quán 
		Âm ngồi, cao khoảng ba thước và sau lưng Ngài, duỗi ra một ngàn cánh tay 
		dài ngắn không đều, không cùng góc độ, không cùng vị trí, xen lẫn với 
		nhau không theo thứ tự nào nhưng rất hài hòa.
	  Mỗi một bàn tay trong một ngàn bàn tay ấy đều có khắc một con mắt, và 
		tay nào cũng cầm một pháp khí khác nhau, thiên hình vạn trạng, không tay 
		nào giống tay nào, to lớn một cách tự nhiên.
	  Toàn bộ đều màu hoàng kim và màu bích ngọc, huy hoàng chói lọi khiến ai 
		nhìn cũng phải kinh dị tán thán, khen rằng đó là một đại kỳ quan trong 
		lịch sử điêu khắc thế giới.
	  Tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn này làm sao mà khắc được như vậy?
	  Ở huyện Đại Ấp có nhiều câu chuyện được lưu truyền về bức tượng này, và 
		sau đây là một trong những câu chuyện ấy.
	  Tương truyền rằng lúc công trình điêu khắc tượng Phật bằng đá ở Đại Phật 
		Loan mới hoàn thành được phân nửa thì vị pháp sư trụ trì chùa Bảo Đỉnh 
		tên là Triệu Trí Thông quyết tâm tạo một bức tượng Bồ Tát Quán Âm với đủ 
		1.000 cánh tay.
	  Quyết định này của ngài làm cho người thợ điêu khắc là Lưu Tư Cửu cảm 
		thấy khó xử vô cùng. Lưu Tư Cửu đã từng theo anh là Lưu Bát Lang đi chu 
		du đó đây và đã từng thấy rất nhiều tượng đá, trong đó có ít nhất là 10 
		tượng Thiên thủ Quán Âm, nhưng những bức tượng này, ít thì có 7 cánh 
		tay, nhiều thì 49, nhưng chưa hề thấy tượng nào có tới 1.000 cánh tay! 
		Vì tuy nói là 1.000 cánh tay nhưng thông thường chỉ cần thêm một vài 
		cánh tay tượng trưng là đủ chứ không ai đòi hỏi là phải có đúng 1.000 
		cánh tay bao giờ. Điều mà trưởng lão Triệu Trí Thông đòi hỏi thật là 
		viển vông và thái quá. Lưu Tư Cửu hỏi:
	  – Sư phụ, bức tường chỉ cao có chừng đó, sắp xếp một ngàn cánh tay, cánh 
		tay này bên cạnh cánh tay kia thì sẽ không đủ chỗ. Nhiều quá thì sẽ thấy 
		chật, mà chật thì sẽ thấy lộn xộn, và lộn xộn thì không còn tổ chức kết 
		cấu gì nữa. Theo tôi nghĩ ta nên lấy một tượng trưng cho mười, sư phụ 
		bằng lòng không?
	  – Không! 
	  Quyết tâm của ngài Triệu Trí Thông chắc như bàn thạch. Phải làm đúng 
		1.000 cánh tay và 1.000 bàn tay, trong lòng mỗi bàn tay phải có một con 
		mắt huệ, và mỗi bàn tay phải cầm một pháp khí khác nhau, có thế mới hiển 
		bày được pháp lực vô biên của Bồ Tát Quán Âm đại từ đại bi.
	  Lưu Tư Cửu lùi lại:
	  – Trừ phi Bồ Tát hiển linh, phải mời anh tôi về thì mới làm nổi một bức 
		tượng như thầy muốn.
	  Lưu Bát Lang là một điêu khắc sư lừng danh đời nhà Tống, một đời đem tâm 
		huyết và tài trí cống hiến cho nghệ thuật điêu khắc đá. Nhưng năm ngoái, 
		đương lúc làm việc trên một vách núi cao, muốn làm cho kịp công việc nên 
		ông đã phải thức thật khuya, quá mệt mỏi ông đã từ giàn tre ngã xuống 
		chân núi và lìa đời.
	  Trưởng lão Triệu Trí Thông có giữ một bức họa của Lưu Bát Lang. Hôm sau, 
		ngài đưa cuộn hình cho Lưu Tư Cửu mà nói:
	  – Tạ ơn Bồ Tát hiển linh, đưa anh Bát Lang của ông về đây!
	  Lưu Tư Cửu nhìn hình của anh mà cảm thấy xấu hổ. Ông biết rằng nghệ 
		thuật của mình không đến nỗi dở, nhưng thiếu hẳn cái linh hồn, cái tinh 
		thần mà người ta có thể cảm nhận được trong những tác phẩm của anh mình. 
		Ông đem bức hình treo trong lều chỗ đang tá túc trong lúc làm việc và 
		thấy là lúc nào anh cũng có mặt để thúc giục, khuyến khích mình. 
	  “Trong thiên hạ không có việc gì khó, chỉ sợ người không quyết tâm làm 
		mà thôi”, đó là câu mà anh ông thường nói lúc còn sinh tiền.
	  Đêm ấy, Lưu Tư Cửu không ngủ được thẳng giấc, trong lúc nửa thức nửa 
		ngủ, ông bỗng thấy mông lung dưới ánh sáng trăng có một con công bay đến 
		và đậu dưới cửa sổ, xoè rộng đôi cánh để khoe bộ lông rực rỡ của nó. 
		Những đốm hoa trên từng chiếc lông của nó lấp lánh dao động, màu sắc 
		chan hòa, huyễn hoặc thay đổi bất định. Phảng phất đâu đây như có ai chỉ 
		bày cho Lưu Tư Cửu: Mỗi chiếc lông là một cánh tay, mỗi đốm màu là một 
		con mắt trong lòng bàn tay, cao thấp không đồng, xen lẫn hài hòa, tạo 
		nên hình một cái quạt bầu dục, khéo léo như một nữ thần diễm lệ với 
		1.000 cánh tay.
	  Lưu Tư Cửu giật mình thức giấc, chợt hiểu ra rằng chính Bồ Tát Quán Âm 
		Thiên Thủ Thiên Nhãn đến ứng mộng cho mình! Dưới ánh trăng, ông ngước 
		mắt nhìn lên hình của Bát Lang, và dường như anh của ông cũng đang mỉm 
		cười nhìn lại.
	  Hôm sau, Lưu Tư Cửu bắt đầu vẽ sơ đồ của công trình, làm việc ngày đêm 
		vì công trình này đòi hỏi rất nhiều công phu. Bản phác thảo này không 
		đẹp thì ông làm ngay một bản khác, lần thứ chín thất bại thì ông vẽ lại 
		lần thứ mười. 
	  Sau 7 ngày 7 đêm khổ công vùi đầu không ăn không nghỉ như thế, cuối cùng 
		ông cũng thành công, đưa ra một mô hình của Ngài Thiên Thủ Thiên Nhãn 
		Quán Âm rất hoàn mỹ, cấu trúc chặt chẽ. Trưởng lão Triệu Trí Thông cũng 
		rất vừa ý.
	  Vẽ sơ đồ đã không dễ, mà khắc tượng lại còn khó hơn! Tường đá cứng chắc 
		không phải là bùn, một bức tượng bằng bùn mà thất bại thì có thể phá đi 
		khắc lại, còn tường đá mà hư thì rất khó có thể sửa đổi.
	  Lưu Tư Cửu cùng ba người đệ tử tâm phúc ra công điêu khắc, thể theo các 
		chiều dài ngắn mà đẽo mà đục, dùng chùy dùng búa mà chẳng khác gì dùng 
		kim thêu lên đá... và như thế ròng rã suốt 9 mùa xuân hạ thu đông, một 
		bức tượng Bồ Tát Quán Âm chưa từng có trên thế gian xuất hiện: Đó là một 
		bức tượng Bồ Tát ngồi với đầy đủ 1.000 cánh tay và 1.000 bàn tay!
	  Hãy nhìn xem một ngàn cánh tay của Bồ Tát: những cánh tay ấy hoặc duỗi 
		ra, hoặc cong lại; hoặc ngay, hoặc nghiêng; hoặc đưa lên, hoặc buông 
		xuống; hoặc dơ cao, hoặc đưa ngang; hoặc vòng, hoặc rũ; hoặc thẳng, hoặc 
		uốn.. thật là cả trăm cả ngàn tư thế khác nhau mà tư thế nào cũng hoàn 
		mỹ và vi diệu. Trên mỗi lòng bàn tay có một con mắt huệ sáng ngời, và 
		tay nào cũng có một pháp khí như cung tên, gương báu, rìu, kiếm, nhạc 
		khí v.v..., muôn hình muôn vẻ, sắc màu tươi thắm, đặc biệt là sau khi 
		được tô màu và giát vàng rồi thì hai màu vàng ròng cùng màu ngọc bích 
		làm cho bức tượng càng thêm huy hoàng rực rỡ, tăng vẻ trang nghiêm và từ 
		bi, pháp lực vô cùng của Bồ Tát, thu hút cả vạn hương khách đến triều 
		bái dâng hương, còn du khách thì bị nhiếp phục và chấn động, trở nên 
		thành tâm và tin kính.
	  Tương truyền rằng khi tượng của kim thân Thiên Thủ Quán Âm ở lầu Đại Bi, 
		Đại Phật Loan, Bảo Đỉnh Sơn được hình thành thì có chúng tăng vân tập về 
		rất đông để dự lễ khai quang. Thiện nam tín nữ cũng đông như kiến, hương 
		khói mịt mù, chuông trống vang trời, thật là linh đình nhiệt náo. Đêm ấy 
		vừa vặn rơi đúng rằm tháng bảy, tức là hội Ô Thước, cầu được bắc ngang 
		sông Ngân Hà để Ngưu Lang Chức Nữ có thể gặp nhau. Bảy tiên cô có phận 
		sự hộ tống Chức Nữ cũng nhân dịp đó xuống trần, thấy lễ lớn cũng chen 
		vào tham dự.
	  Đứng trước tượng Thiên Thủ Quán Âm xán lạn hùng vĩ, bảy vị tiên cô kinh 
		ngạc tán thán không ngừng. Vị tiên cô lớn nhất nói:
	  – Thật là tuyệt vời! Đúng là một kiệt tác! Dư một cánh tay không được mà 
		thiếu một cánh tay cũng không xong!
	  Cô út Thất tiên nữ phụng phịu không đồng ý:
	  – Nhưng em cứ muốn thêm vào một cánh tay nữa cơ!
	  Nói xong cô chọn vị trí, và thêm vào một cánh tay bằng vàng ròng một 
		cách tinh xảo. Sáu tiên cô còn lại ngắm nghía và công nhận rằng bức 
		tượng không những đã không bị hư hoại mà còn tăng thêm vẻ đẹp. Thế là 
		sáu cô tiên chị cũng muốn mỗi người thêm một cánh tay vào kiệt tác ấy. 
		Thật là vi diệu, mỗi cô thêm một cánh tay một cách quá khéo léo nên bức 
		tượng càng thêm tuyệt mỹ, thần quang của những cánh tay bằng vàng ròng 
		khiến bức tượng như tỏa ánh sáng vạn dặm, chói lọi rực rỡ.
	  Truyền rằng tượng Thiên Thủ Quán Âm của Đại Phật Loan, Bảo Đỉnh Sơn được 
		tạo thành như thế, tổng cộng là có 1.007 cánh tay, trong số đó có 7 cánh 
		tay bằng vàng ròng. Nếu không tin, mời quý vị đến đấy đếm thử.
	  Nếu ai đếm được và phân biệt được 7 cánh tay bằng vàng ròng ấy, thì 
		người đó phải là người thông minh nhất và may mắn nhất trần gian này!