Vào thời Đông chinh, vua Đường Thái Tông mỗi lần đi hay về cũng đều
ngừng chân lại ở Kế Châu. Về tới Trường An rồi, để chứng tỏ sự lưu tâm
của mình đối với dân chúng ở Kế Châu, vua đặc biệt phái Uất Trì Kính
Đức đến đấy trông coi việc xây cất một ngôi chùa.
Lệnh của vua là phải xây một ngôi chùa to nhất nước, và khắc một pho
tượng Phật cũng lớn nhất nước, toàn quốc không có ngôi chùa nào hay pho
tượng Phật nào lớn bằng. Uất Trì Kính Đức phụng mệnh vua, bèn triệu tập
hơn mười người thợ nổi tiếng, bảo họ phác thảo mô hình một cái lầu Quán
Âm cho chùa Đại Phật. Ông đòi hỏi rằng:
– Tượng Phật cao nên lầu cũng phải cao. Không được dùng đinh, không được
dùng ốc. Bây giờ các ông cũng như Bát Tiên sang sông vậy, mỗi người hãy
về thi thố tài năng của mình đi!
Một tháng sau, những người thợ trình lên cho ông một vài mô hình, nhưng
ông xem một lúc, lắc đầu không ngừng, không có cái nào được ông chấm cả.
Cái thì bắt chước những kiến trúc bằng gỗ đã từng xây ở chỗ khác rồi nên
không có cá tính gì cả; cái thì quá cứng ngắc, không đủ đẹp mắt và trang
nhã; cái thì tạm có thể gọi là tinh xảo nhưng lại không thể chứa được
một pho tượng Phật cao năm, sáu trượng.
Một tháng lại trôi qua, đám thợ lại trình lên một vài mô hình khác. Uất
Trì Kính Đức mới thoạt nhìn đã giận quá, râu xõa ra hết, vì mấy cái mô
hình ấy, cái nào cũng như cái nấy, chỉ là những đồ bỏ đi không hơn không
kém! Ông lớn tiếng quát lên:
– Đồ ngu! Đồ ngu!
Không có mô hình nào của lầu Quán Âm làm cho Uất Trì Kính Đức vừa ý,
khiến ông lo lắng sủi cả bọt mép, ăn thì nuốt không xuống, ngủ thì không
chợp mắt được.
Buổi chiều hôm ấy, ông ngồi nốc một mình hai lượng rượu giải sầu, mê mê
tỉnh tỉnh dựa vào chồng mền được xếp ngay ngắn đằng sau lưng, đột nhiên
thấy một ông lão râu đen đẩy cửa bước vào phòng, tay cầm một cái lồng
dế. Uất Trì Kính Đức nhìn cái lồng, nó không giống một cái lồng dế bình
thường mà lại tinh xảo đặc thù, hình dáng như một cái lầu các, từ ngoài
nhìn thì thấy có hai gian, từ trong nhìn thì thấy có ba tầng, ở giữa
trống không thông lên tới đỉnh. Mắt ông chợt sáng lên, đây đúng là một
mô hình của lầu Quán Âm mà ông thấy trúng ý mình nhất. Ông vội hỏi:
– Sư phụ à, cái lồng dế này bao nhiêu tiền?
Ông lão râu đen đáp:
– Bao nhiêu cũng không bán.
Uất Trì Kính Đức lo quá:
– Tôi đặc biệt cần một cái lồng dế như thế này.
– Tôi đặc biệt đem cái lồng này đến tặng ngài đó chứ!
Nói xong ông lão râu đen đặt lồng dế lên bàn, quay người bỏ đi ra ngoài.
– Ông ơi khoan đi đã, để tôi trả tiền cho ông!
Uất Trì Kính Đức đưa chân lên toan chạy đuổi theo thì “huỵch” một tiếng,
ông từ giường lăn xuống đất, thì ra đó chỉ là một giấc mộng!
Ông đứng dậy, lượt qua một lần trong óc những gì đã mộng thấy, mừng rỡ
quá chạy ra khỏi phòng và ngay đêm ấy, cho gọi bọn thợ đến, tả lại cho
họ nghe tỉ mỉ hình dáng cái lồng dế mà ông đã thấy trong mộng.
Bọn thợ nghe xong thì hiểu ý ông một cách rõ ràng. Họ làm việc ngày đêm
không ngừng, chẳng lâu sau đã tạo được một cái mô hình của lầu Quán Âm.
Uất Trì Kính Đức nhìn qua là vừa lòng ngay, thế là chỉ mấy ngày sau họ
khởi công xây cất.
Ba tháng nữa trôi qua, sườn cốt của lầu Quán Âm đã được dựng lên, họ bắt
đầu đóng cái rui. Một buổi trưa nọ, bọn thợ đang ngồi dưới đất vừa ăn
cơm vừa cười nói vui vẻ, thì có một ông lão râu đen bước đến vái chào và
nói:
– Tôi là thợ mộc, đi cùng với gia đình ngang qua đây nhưng hết tiền lộ
phí, xin quý ông vui lòng cho tôi xin một chút cơm.
Bọn thợ nói:
– Mời ông ngồi xuống đây ăn chung với chúng tôi.
Ông lão đưa chén lên, và mấy và cơm rồi gắp một gắp rau bỏ vào miệng,
vừa nhồm nhoàm nhai vừa nói:
– Thiếu muối!
– Ông ăn mặn quá nhỉ, chúng tôi đã bỏ muối vào rau nhiều rồi đấy!
Một người thợ vừa nói vừa đưa cho ông một nhúm muối.
Ông lão lại gắp rau rồi nói một lần nữa:
– Thiếu muối!
Một người thợ khác lại bốc muối đưa cho ông. Sau một lúc ông lại gắp rau
ăn, dùng tay lau mồm, ngẩng cổ lên nhìn lầu Quán Âm, lắc đầu bước ra
ngoài bỏ đi, vừa đi vừa lầu bầu:
– Thiếu muối! Thiếu muối!
Sau đó bọn thợ kể lại chuyện này cho Uất Trì Kính Đức nghe, ông này giật
mình và nhận ra ngay: vóc người cùng mặt mũi của ông lão râu đen này
giống y hệt với ông lão đã đem lồng dế lại cho mình trong mộng, không
phải là thầy Lỗ Ban hiển thánh đó sao?
Ông đứng trước lầu Quán Âm, một mặt nhìn cái rui đã đóng xong, một mặt
suy nghĩ đến hai chữ “thiếu muối”. Thật lâu sau, ông chợt tìm ra đáp số
cho bài toán đố trên: thì ra cái rui đỡ mái hiên ngắn quá! Chữ
diêm (鹽) là muối đồng âm với chữ diêm (檐) là cái mái hiên, cũng đọc là
thiềm; chữ đoản (短) là thiếu, cũng có nghĩa là ngắn. Ông lão luôn miệng
chê “thiếu muối” là ý muốn nói mái hiên quá ngắn.
Ông bảo thợ leo lên giàn, nối cái rui dài ra một xích.
Ôi! Tuyệt vời! Chống cái đấu xong thì mái hiên lầu dường như muốn cất
cánh bay lên vậy! Thế là Uất Trì Kính Đức ra lệnh chỗ nào của rui mái
hiên có dáng hất lên như nét “khiêu” thì đều nối dài ra một xích.
Một năm sau, lầu Quán Âm xây xong, Uất Trì Kính Đức muốn mời người đến
viết cho một tấm biển, nhưng những nhà thư pháp nổi danh không phải dễ
tìm.
Đêm hôm ấy ông vừa chợp mắt ngủ thì Lỗ Ban lại đến trong mộng bảo rằng:
– Chuyện viết biển đó, ông khoan hãy gấp. Hiện nay có một ngôi sao Thái
Bạch vừa mới giáng trần, sinh ra sẽ là một nhà thơ rất lừng danh, hãy
đợi ông ta viết biển cho!
Thế là Uất Trì Kính Đức không làm biển, và quả nhiên về sau khi nhà thơ
Lý Bạch nổi tiếng rồi thì có người mời viết cho bốn chữ “Quán Âm chi
Các” trên một tấm biển vuông.
Uất Trì Kính Đức cung kính lễ lạy Lỗ Ban, vị thợ tài ba ấy. Xây xong lầu
Quán Âm rồi, ông bèn dặn thợ lập một cái miếu cho Lỗ Ban ở phía đông
cách đó không xa. Vì Lỗ Ban tên thật là Công Thâu Ban, là người nước Lỗ
nên dân chúng quen gọi là Lỗ Ban, do đó miếu có tên là “Công Thâu tử
miếu”.
Hiện nay cái miếu tinh xảo, đặc thù ấy hãy còn tồn tại.