Bồ Tát Quán Âm thâu Long Nữ và Thiện Tài rồi thì Phổ Đà Sơn, đạo tràng 
		của Ngài trở nên càng ngày càng hưng thịnh, khách hành hương càng ngày 
		càng đông đảo, xa gần ai cũng nghe danh và còn gọi đảo này là Hải Thiên 
		Phật Quốc.
	  Bốn đại Thiên Vương hộ vệ cửa Nam Thiên nghe thế, quyết định chính mắt 
		mình nhìn thấy mới tin, thế là mỗi vị cầm vũ khí của mình, cưỡi mây lành 
		hướng về Phổ Đà Sơn.
	  Bốn đại Thiên Vương còn được gọi là bốn đại Kim Cang. 
	  Quan điểm nhà Phật chia vũ trụ này làm ba cõi là cõi Dục, cõi Sắc và cõi 
		Vô sắc. Ở cõi Dục có Lục dục thiên, và tầng trời thứ nhất của Lục dục 
		thiên, gần với thế gian nhất, chính là Tứ Thiên Vương Thiên, là nơi ngự 
		trị của bốn vị Kim Cang này. Kinh Phật nói các vị này trụ ở lưng chừng 
		núi Tu Di, ở đấy có ngọn Kiên Đà La, và ngọn này có bốn đỉnh tên là Tu 
		Di Tứ Bảo Phong (bốn đỉnh báu của núi Tu Di). 
	  Nhiệm vụ của bốn Đại Thiên Vương là mỗi ngài bảo hộ một phương của thế 
		gian, vì thế bốn Thiên Vương còn được gọi là Hộ thế Tứ Thiên Vương.
	  Vị Thiên Vương ở phương đông tên là Trì Quốc Thiên Vương, âm Phạn là Đa 
		La Sất (Dhṛtarāṣṭra), thân màu trắng, mang áo giáp mũ sắt, tay cầm cây 
		đàn tì bà. Trì Quốc có nghĩa là giữ gìn bảo vệ cho cõi nước, vì ngài lấy 
		từ bi làm đầu, bảo hộ chúng sinh. Vị này là thần âm nhạc nên tay cầm cây 
		đàn tì bà, lấy âm nhạc để cảm hóa chúng sinh quy y Phật giáo. Thiên 
		Vương này có tên khác là “Điều”.
	  Thiên Vương ở phương nam tên là Tăng Trưởng Thiên Vương, âm Phạn là Tỳ 
		Lưu Ly (Virūḍhaka), thân màu xanh, mang áo giáp mũ sắt, tay nắm bảo 
		kiếm. Vị Thiên Vương này có nhiệm vụ là làm cho chúng sinh tăng trưởng 
		thiện căn, hộ trì Phật giáo, nên tay cầm bảo kiếm để bảo vệ cho Phật 
		Pháp không bị xâm phạm. Vị này còn có tên là “Phong”.
	  Thiên Vương của phương tây tên là Quảng Mục Thiên Vương, âm Phạn là Tỳ 
		Lưu Bác Xoa (Virūpākṣa), thân màu đỏ, tay có quấn con rồng. Quảng Mục 
		có nghĩa là dùng tịnh thiên nhãn để luôn luôn quán sát thế gian, hộ trì 
		nhân dân. Tay cầm con rồng, hay cũng có thể coi như sợi dây thừng màu 
		đỏ, nghĩa là dùng dây thừng trói người không tin Phật, khiến cho họ quy 
		y Phật giáo. Vị này còn có tên là “Thuận”.
	  Thiên Vương của phương Bắc tên là Đa Văn Thiên Vương, âm Phạn là Tỳ Sa 
		Môn (Vaiśravaṇa), thân màu đen, mang mũ giáp, tay cầm dù báu. Vị này 
		dùng phúc đức để nghe ngóng khắp bốn phương, dù báu là để chế phục chúng 
		ma, bảo hộ tài sản của nhân gian. Vị này còn có tên là “Vũ”.
	  Bốn vị Thiên Vương, hay còn gọi là bốn đại Kim Cang, hợp nhau để mang 
		lại “phong điều vũ thuận” cho nhân gian.
	  Bốn vị Thiên Vương này là những vị thiên tướng lừng lẫy, người cao lớn, 
		so với bậc thần tiên thường thì cao lớn gấp mười lần. 
	  Bốn vị Kim Cang uy phong lẫm lẫm bước xuống bãi cát Thiên Bộ Sa, lấy 
		đường Vân Đầu, dọc theo đường Ngọc Đường vừa đi vừa ngắm cảnh núi. Họ 
		thấy trên núi tự viện hùng tráng, chùa chiền mọc như rừng, cây cổ thụ 
		cao chọc trời, hoa cỏ xanh rì rậm rạp, sóng biếc, cát vàng bủa quanh tứ 
		bề, nên bị cảnh Hải Thiên Phật Quốc làm cho mê đắm, thật quả danh bất hư 
		truyền, nên trong lòng ngầm thán phục. 
	  Họ vừa đi vừa thưởng ngoạn,vừa đi vừa say sưa nhìn ngắm nên đến giờ ăn 
		cơm trưa lúc nào mà không hay. Họ đã ra đi lúc trời tảng sáng, đi không 
		biết bao nhiêu là dặm đường, đến giờ là đã hơn nửa ngày trời nên cảm 
		thấy bụng đói cồn cào, ruột sôi sùng sục, vội lo tìm xuôi tìm ngược xem 
		có chỗ nào bố thí cơm chay mà tìm mãi không có. Trên thiên giới, bốn đại 
		Kim Cang vốn quen muốn gì được nấy ngay, chưa bao giờ phải chịu cảnh đói 
		khát như thế này nên tìm hoài mà không có gì ăn đâm ra cáu kỉnh, một vị 
		Thiên Vương nổi giận la lên:
	  – Đạo tràng của vị Bồ Tát này chỉ là hư danh, cái gì mà một bát cơm chay 
		cũng không có chỗ nào bố thí cả!
	  Bốn đại Thiên Vương bản tánh vốn nóng nảy, gặp điều không vừa ý là lửa 
		giận bùng lên ngay, thế là cả bốn nhao nhao đả kích:
	  – Đại sĩ với chẳng tiểu sĩ, thật là không biết điều chút nào, bốn đại 
		Kim Cang chúng ta giá lâm mà tại sao lại không ra đón tiếp!
	  – Đại sĩ dỏm, không biết nể mặt anh em chúng ta gì cả, khi nào gặp thì 
		thế nào cũng phải làm cho bà ta biết tay mới xong!
	  Bồ Tát Quán Âm thật ra đã biết sự có mặt của bốn đại Kim Cang từ lâu, 
		nay nghe họ càu nhàu như thế, trong lòng không khỏi buồn cười, lập tức 
		nảy ra một ý kiến.
	  Đương lúc bốn vị Kim Cang đang lớn tiếng mạt sát, bỗng nhiên từ rừng 
		trúc tím trước mặt bay ra một làn khói bếp. Họ bèn rảo bước về phía rừng 
		trúc tím, tìm quanh một lúc mới thấy khói bếp ấy là từ một căn nhà bé 
		nhỏ, vừa thấp vừa hẹp bay ra. Bốn đại Kim Cang nhìn qua khe cửa thì thấy 
		trong nhà có một thiếu phụ đang ngồi trước bếp nhóm lửa thổi cơm. 
	  Thiếu phụ trạc ngoài 30 tuổi, khuôn mặt thanh tú, cử chỉ an tường, trang 
		nhã. Cơm thổi đã chín, từng cụm, từng cụm khói thơm phức bay lọt ra 
		ngoài khiến cho bốn đại Kim Cang càng cảm thấy đói thêm, không chờ được 
		nữa, bèn gõ cửa nói:
	  – Cô nhỏ ơi, chúng tôi là bốn đại Kim Cang từ thiên giới xuống đây, xin 
		cô bố thí cho chúng tôi nồi cơm ấy đi!
	  Người thiếu phụ chẳng tỏ vẻ gì là kinh sợ, trả lời:
	  – Mời quý vị vào nhà. Nồi cơm này là để đãi khách, đủ cho bốn vị dùng.
	  Bốn đại Kim Cang muốn bước vào nhà nhưng người nào cũng cao lớn, nhà lại 
		nhỏ hẹp cao không tới đầu gối của họ, làm sao chui vào cho lọt đây? Họ 
		còn đang lúng túng, người thiếu phụ mỉm cười thúc giục:
	  – Quý vị vào đi chứ, tại sao lại không vào?
	  Bốn vị quá muốn ăn cơm nên đành cúi đầu uốn lưng tiến vào nhà. Kỳ lạ 
		thay, bước vào rồi thì căn nhà bé nhỏ ấy dường như được nới rộng ra, bốn 
		vị Kim Cang có thể cử động thư thái, không thấy nhà nhỏ hẹp nữa mà còn 
		thấy rộng rãi thoải mái là khác.
	  Người thiếu phụ mời họ ngồi xung quanh một cái bàn vuông và nói:
	  – Tôi xới cơm cho quý vị dùng.
	  Một vị Kim Cang nói:
	  – Cô nhỏ à, chúng tôi đói rã rời rồi, anh em chúng tôi lại ăn rất khoẻ, 
		xin cô làm ơn nấu thêm cơm chứ cái nồi bé tí thế kia sợ không đủ cho 
		chúng tôi no.
	  Ba vị còn lại cũng phụ họa:
	  – Đúng rồi, đúng rồi, nồi cơm bé tí ăn không đủ no.
	  – Xin bốn vị tướng quân yên lòng, đừng thấy nồi nhỏ mà lo sợ, cơm trong 
		nồi ấy đủ cho quý vị ăn no bụng.
	  Người thiếu phụ nói rồi, xới cơm vào bốn cái bát đem đến bàn rồi tiếp:
	  – Nồi hãy còn cơm, quý vị dùng xong hãy tự tiện xới thêm, tôi ra ngoài 
		giặt quần áo một chút, không ở lại hầu chuyện với quý vị được. Mời quý 
		vị tự nhiên ăn cơm cho no.
	  Nói xong cô bèn xách một cái giỏ bước ra khỏi nhà. Bốn đại Kim Cang vội 
		vàng nâng bát, vừa ăn vừa canh chừng nồi, ai cũng nghĩ “cái nồi có chút 
		xíu, cơm này thì đủ cho ai ăn, ta nên ăn cho mau để xới trước”. Cả bốn 
		người đều nghĩ như nhau nên ai nấy đều ăn thật mau. Kết quả là vị Kim 
		Cang mặt trắng ăn xong trước, chỉ và mấy cái là cả bát cơm đã vào bụng, 
		thế là vị này chạy mau như bay đến trước bếp lửa mở nồi xúc cơm. Nào ngờ 
		cái vung như thể bị gắn dính vào nồi, không cách nào dở lên. Ông bèn 
		buông bát xuống, dùng hai tay để mở nồi, dùng hết cả sức lực mà cái vung 
		vẫn trơ trơ bất động.
	  Vị Kim Cang mặt trắng đỏ mặt tía tai, đứng ngây người ra. Vị Kim Cang 
		mặt đen cũng vừa ăn xong bát cơm bèn qua xúc thêm, thấy vị Kim Cang mặt 
		trắng mở vung không ra bèn cười chế nhạo và đẩy vị ấy sang một bên, tự 
		mình đến giở nồi. Ông những tưởng việc này dễ như trở bàn tay mà thử mấy 
		lần không xong, bèn đứng dạng hai chân, dồn hết sức mạnh nắm chặt vung, 
		nhưng vì dùng sức quá mạnh, vung đã không nhúc nhích mà nồi lại vuột ra 
		khỏi bàn tay khiến ông ngã lăn đùng xuống đất, giận quá chửi toáng lên.
	  
	  Hai vị Kim Cang còn lại cũng đến thử và cũng thất bại, họ dùng sức đến 
		đâu đi nữa vung vẫn dính chết vào nồi, trơ trơ bất động! 
	  Cuối cùng, bốn vị Kim Cang bèn đứng xếp thành hàng, vị đứng đầu cầm 
		vung, vị đứng sau ôm bụng vị đứng trước, hễ nghe hiệu lệnh thì cùng nhau 
		kéo về phía sau: “dô ta! dô ta!”. Họ dùng hết sức lực để “nhổ” cái vung 
		ra khỏi nồi như người ta nhổ một củ cải ra khỏi đất, nhưng cái vung vẫn 
		không hé ra chút xíu nào! Bốn vị cứ kéo tới kéo lui một hồi lâu, mệt quá 
		nằm dài xuống đất thở phì phò, không còn nhúc nhích được, thật là xấu 
		hổ!
	  Bỗng có tiếng cửa mở, người thiếu phụ bước vào phòng, thấy bốn đại Kim 
		Cang nằm la liệt dưới đất nhăn răng méo miệng, buồn cười quá mà vẫn phải 
		làm bộ kinh ngạc:
	  – Hẳn là bốn vị tướng quân ăn no rồi nên nằm xuống nghỉ ngơi chăng?
	  Vị Kim Cang mặt đỏ vội vàng cải chính:
	  – Không phải, không phải, chúng tôi chưa ăn xong, mới chỉ ăn được có một 
		bát cơm mà thôi!
	  Người thiếu phụ nói:
	  – Tại sao quý vị không ăn cho xong? Hay là quý vị chê nồi nhỏ, cơm trong 
		nồi hãy còn đầy mà, sao quý vị không múc ăn thêm?
	  Vị Kim Cang mặt đỏ đáp:
	  – Vì mở vung không ra!
	  Thiếu phụ nói: 
	  – Sao lạ vậy? Cái vung bé tí ti thế này, bốn vị tướng quân sao lại mở 
		không ra? Bốn vị là thiên tướng lừng danh trên thiên giới, sức mạnh vô 
		địch, làm gì dở không lên một cái vung?
	  Bốn đại Kim Cang không trả lời được, người nào cũng cảm thấy ngượng 
		ngùng, nhìn nhau không nói mà trong lòng phát hoảng.
	  Mọi người còn đang nghĩ ngợi thì người thiếu phụ bước đến trước bếp, đưa 
		tay ra nhẹ nhàng nhấc vung lên và nói:
	  – Vung dễ mở lắm mà, bốn vị tướng quân, xin mời dùng thêm cơm!
	  Bốn đại Kim Cang sững sờ nhìn người thiếu phụ nhấc cái vung một cách ung 
		dung nhẹ nhàng, nghĩ lại ban nãy bốn anh em phí bao nhiêu sức mà giở mãi 
		không ra, cảm thấy thật là bất khả tư nghì! 
	  Vị Kim Cang mặt trắng cuối cùng nhanh trí nhất, trong thoáng chốc hiểu 
		rõ ngọn nguồn, biết người thiếu phụ này không phải là người phàm, sau đó 
		thoắt nhiên tỉnh ngộ la lên:
	  – Ối! Tôi hiểu rồi! Ngài là Quán Âm đại sĩ, anh em chúng con không thấy 
		núi Thái Sơn, xin Bồ Tát thứ lỗi!
	  Ba đại Kim Cang kia cũng lớn tiếng nói:
	  – Bồ Tát thứ lỗi! Xin Bồ Tát tha thứ cho bọn chúng con ngu si!
	  Nói rồi, bốn đại Kim Cang quỳ xuống trước mặt người thiếu phụ dập đầu 
		lạy liên tiếp. Quán Âm Đại sĩ mỉm cười:
	  – Xin bốn đại tướng quân đứng dậy, đứng dậy đi, dùng cơm xong hãy nói 
		chuyện.
	  Ăn cơm xong, bốn đại Kim Cang nói:
	  – Đa tạ Đại sĩ, hôm nay chúng con nhờ ơn từ bi của Bồ Tát, vô vàn cảm 
		tạ, bây giờ xin phép Đại sĩ cho chúng con trở về thiên đình.
	  Quán Âm Đại sĩ nói:
	  – Bốn đại tướng quân còn muốn trở về sao? Bốn vị muốn trở về thì không 
		có vấn đề gì, tuy nhiên uy danh của bốn vị chấn động thiên đình, hôm nay 
		chỉ có một cái vung mà nhấc không lên, chỉ e... thiên binh thiên tướng 
		có còn tôn trọng quý vị chăng? Hay là họ sẽ cười chê? Theo ta nghĩ, hay 
		là các vị ở lại đây theo ta tu hành, các vị nghĩ sao?
	  Sự thật, khi Bồ Tát Quán Âm biết có bốn đại Thiên Vương đến Phổ Đà Sơn, 
		Ngài nghĩ rằng đất này đang thiếu thần hộ Pháp, nếu có cách nào giữ bốn 
		đại Kim Cang này ở lại thì thật là thích hợp! Vì thế Ngài đã lập ra một 
		kế kích thích ngạo khí của họ để giữ họ ở lại. 
	  Bốn đại Kim Cang nghe Quán Âm Đại sĩ nói như thế thì không có lời lẽ nào 
		để trả lời, thật sự họ không còn mặt mũi nào mà trở về thiên đình nữa.
	  
	  Trải qua chuyện này rồi họ mới được thấy uy lực của Phật Pháp và thần 
		thông vô tỉ của Bồ Tát Quán Âm. Họ vô cùng kính phục Đại sĩ, đồng lòng 
		chấp thuận ở lại Phổ Đà Sơn, theo ngài Quán Âm học Phật Pháp và hộ vệ 
		Phổ Đà Sơn.
	  Từ đấy, ở hai bên trái và phải của Thiên vương điện xuất hiện những bức 
		tượng uy vũ hùng tráng của bốn đại Thiên Vương.