Thử tưởng tượng có một ngày nào đó bạn trôi dạt đến một đảo hoang hoàn 
		toàn không có bóng người. Điều gì sẽ là khủng khiếp nhất đối với bạn vào 
		lúc ấy? Không tiện nghi đời sống? Thiếu ăn? Thiếu mặc? Không phương tiện 
		giao thông liên lạc?...
	  Thật ra, tất cả mọi thứ trong cuộc sống thường ngày của chúng ta khi 
		thiếu vắng đi đều sẽ làm cho ta cảm thấy khó khăn, bất ổn. Nhưng mọi khó 
		khăn, bất ổn đều sẽ qua đi sau một thời gian, khi ta thích nghi được với 
		hoàn cảnh mới. Chỉ có một điều duy nhất mà chúng ta sẽ không bao giờ 
		thích nghi được, đó là sự thiếu vắng của những con người quanh ta. Vì 
		thế, điều khủng khiếp nhất trong hoàn cảnh giả định của chúng ta chính 
		là sự cô độc, không còn có bất cứ ai quanh mình!
	  Chúng ta sinh ra đời vốn dĩ đã luôn tồn tại theo cách phụ thuộc lẫn 
		nhau. Không chỉ là vì những nhu cầu vật chất của mỗi người luôn được đáp 
		ứng nhờ có những người khác, mà còn có một điều quan trọng hơn nữa là sự 
		nuôi dưỡng và phát triển đời sống tinh thần. Mọi nhu cầu vật chất của 
		chúng ta, nếu trong hoàn cảnh khó khăn bắt buộc vẫn có thể sẽ tự mình 
		giải quyết được. Câu chuyện Robinson lạc trên hoang đảo tuy chỉ là hư 
		cấu nhưng có thể nói lên ý nghĩa này: khả năng con người khi rơi vào 
		hoàn cảnh cô độc vẫn có thể tự mình tồn tại. 
	  Nhưng với sự phát triển tinh thần thì không như thế. Khi không có điều 
		kiện tiếp xúc cùng người khác, chúng ta sẽ hoàn toàn không thể rèn luyện 
		để phát triển nội tâm của chính mình. Ngay cả các bậc ẩn cư xưa kia cũng 
		chỉ là chọn một giai đoạn thích hợp nhất định nào đó để sống cô độc, 
		nhưng họ vẫn phải có phần lớn thời gian trong cuộc đời sống chung cùng 
		người khác!
	  Mỗi người chúng ta đều mang trong lòng rất nhiều thói hư, tật xấu, những 
		tâm niệm chẳng lành như tham lam, sân hận... Điều kiện để chúng ta dứt 
		trừ những thói hư, tật xấu, những tâm niệm chẳng lành... lại chính là sự 
		tiếp xúc cùng người khác. Khi bạn tránh né mọi người để sống một cách cô 
		độc, bạn có thể tưởng chừng như mọi thói xấu đều biến mất. Không còn 
		tham lam, sân hận, ghen ghét, đố kỵ... Nhưng thật ra thì tất cả chỉ là 
		đang ngủ yên, chờ ngày thức giấc: chúng hoàn toàn không bị diệt mất.
	  
	  Chỉ khi nào bạn có thể ngay trong điều kiện giao tiếp với mọi người 
		chung quanh mà nhận ra và trừ bỏ dần được những thói hư tật xấu, những 
		tâm niệm chẳng lành... thì đó mới thực sự là sự trưởng thành, phát triển 
		nội tâm theo chiều hướng thiện.
	  Khả năng lớn nhất của con người xét cho cùng chính là khả năng giao tiếp 
		cùng người khác, bởi vì chính qua khả năng này mà chúng ta có thể học 
		hỏi được những điều chưa biết cũng như rèn luyện bản thân để đạt đến sự 
		trưởng thành và hoàn thiện. Nếu không phát triển được khả năng giao tiếp 
		hoặc không có điều kiện giao tiếp, cho dù bạn có sống đến trăm tuổi hay 
		lâu hơn thế nữa cũng chẳng có sự trưởng thành! 
	  Cùng chung sống với con người chúng ta trên hành tinh này có đến hơn 2 
		triệu loài động vật khác nhau đã được biết đến, nhưng theo những phân 
		tích khoa học hiện nay thì khả năng giao tiếp với đồng loại của con 
		người vẫn là cao nhất, thông qua bản năng tự nhiên cũng như thông qua 
		những ngôn ngữ do chính con người sáng tạo. Chúng ta không chỉ có thể 
		giao tiếp với những con người đồng thời, mà còn có khả năng tìm hiểu 
		những thế hệ đã qua, truyền lại tri thức của mình cho những thế hệ sắp 
		đến, bằng vào phương tiện ghi chép cũng như rất nhiều phương tiện khác 
		như hội họa, âm nhạc, phim ảnh, băng ghi âm, ghi hình... Chính khả năng 
		giao tiếp với những con người quanh ta là điều kiện quan trọng nhất giúp 
		con người có thể đứng đầu trong muôn loài, kiểm soát và chi phối được 
		đời sống của hết thảy mọi sinh vật khác trên hành tinh này.
	  Vì thế, chúng ta nên biết rằng được sống giữa những con người quanh ta 
		là điều hết sức may mắn. Hơn thế nữa, mỗi một con người mà ta có cơ hội 
		để làm quen đều là món quà vô cùng quý giá mà cuộc sống đã trao tặng cho 
		ta, cần phải hết sức trân trọng. Trên hành tinh này hiện có hơn 6 tỷ 
		rưỡi con người, những người quen biết của bạn liệu chiếm được bao nhiêu 
		phần trong đó? 
	  Hơn thế nữa, mỗi một tập thể mà chúng ta được tham gia cũng đều là nhờ 
		vào những duyên may ít có, vì thông qua đó mà chúng ta mới có thể học 
		hỏi để thực sự trưởng thành. Nếu chúng ta hiểu được điều này, môi trường 
		sống và làm việc chung với những người khác sẽ trở nên dễ dàng và có 
		nhiều thú vị hơn, thay vì khô khan và đầy những thử thách hoặc bất đồng. 
		Sở dĩ như vậy là vì mọi việc sẽ luôn được chúng ta nhìn từ một góc độ 
		tích cực xây dựng, loại trừ được tâm trạng bực dọc, bất mãn vốn luôn làm 
		cho mọi việc trở nên tồi tệ hơn.
	  Những người quanh ta bao giờ cũng là những tấm gương phản chiếu giúp ta 
		soi rọi được nội tâm của chính mình theo nhiều cách khác nhau. 
	  Trước hết, vì bản thân ta cũng là một con người, nên qua việc nhận biết 
		những biểu hiện của người khác chúng ta cũng nhận biết được chính bản 
		thân mình. Chẳng hạn, thật khó khăn để chúng ta có thể quan sát được 
		biểu hiện giận dữ của chính bản thân mình, vì mỗi khi nổi giận thì hầu 
		như ta không thể có đủ bình tĩnh và sáng suốt để làm được điều đó. Tuy 
		nhiên, ta hoàn toàn có thể quan sát cơn giận của một người khác biểu lộ 
		ra như thế nào và qua đó hiểu được cơn giận của chính bản thân mình. 
		Tương tự như vậy, chúng ta có thể hiểu được những tình cảm yêu, ghét, 
		giận, hờn, buồn, vui... được biểu lộ ra bên ngoài như thế nào, nhờ vào 
		sự tiếp xúc, quan sát người khác.
	  Ngoài ra, việc giao tiếp với người khác giúp chúng ta có thể hiểu được 
		chính bản thân mình thông qua những phản ứng của người khác. Vì phản ứng 
		của người khác đối với ta như thế nào đều là do cung cách ứng xử của ta 
		đối với họ, nên chúng ta có thể thông qua những phản ứng của người khác 
		mà hiểu được bản thân mình như thế nào. Chỉ cần ta có thể sáng suốt và 
		khách quan nhận định, thì mỗi một biểu hiện của người khác trong giao 
		tiếp với ta đều có thể xem là sự phản ánh, là thước đo để đánh giá cung 
		cách ứng xử của ta.
	  Mặt khác, có thể nói là hết thảy mọi tình cảm buồn, vui, mừng, giận... 
		của chúng ta đều gắn bó với những người quanh ta. Họ không chỉ là đối 
		tượng của những tình cảm đó, mà còn là điều kiện để phát sinh và nuôi 
		dưỡng chúng. Hiểu được điều này thì có thể biết là hết thảy mọi quá 
		trình tu dưỡng đều không thể thực hiện được nếu không có những con người 
		quanh ta. Không có người khác là đối tượng thì chúng ta không thể nuôi 
		dưỡng những tình cảm tốt đẹp, không thể trừ bỏ những cảm xúc tiêu cực, 
		cũng như hoàn toàn không thể đạt đến một đời sống an vui, hạnh phúc.
	  
	  Chính trong ý nghĩa này mà Phật giáo Đại thừa luôn nêu cao ý nghĩa “hòa 
		quang đồng trần”, không chấp nhận sự trốn tránh những phiền não, khổ đau 
		trong đời sống, mà phải đối mặt để vượt qua ngay chính trong cuộc sống 
		trần tục với những con người quanh ta. Vì thế mà hình tượng các vị Bồ 
		Tát trong Phật giáo Đại thừa bao giờ cũng gần gũi với con người phàm 
		tục, thậm chí có vị còn phát nguyện xả thân vào nơi địa ngục để cứu vớt 
		hết thảy mọi chúng sinh trong đó. Kinh Duy-ma-cật nói: “Phiền não thị 
		đạo trường” cũng không ngoài ý nghĩa này.
	  Cuộc sống trần tục với tất cả những con người và vô số thói hư tật xấu 
		quanh ta chính là môi trường tôi luyện, là điều kiện tất yếu để chúng ta 
		đạt đến một đời sống an vui hạnh phúc chân thật. Lìa khỏi những 
		con người quanh ta, sẽ không có bất cứ đức tính nào có thể trau dồi, 
		không có bất cứ hạnh phúc nào có thể đạt đến.
	  Vì thế, đời sống an vui hạnh phúc chỉ có thể đạt đến khi chúng ta biết 
		sống vui hòa hợp với những con người quanh ta, mà không phải là sự tránh 
		né những gì xấu xa để chạy theo những gì được gọi là thánh thiện, cao 
		quý. Bởi vì ngay trong mỗi con người chúng ta đều đã sẵn có hết thảy mọi 
		hạt giống tốt cũng như xấu, mà điều kiện để nuôi dưỡng hay trừ bỏ những 
		hạt giống ấy lại chính là môi trường giao tiếp với những con người quanh 
		ta.
	  Xuất phát từ những ý nghĩa này mà đời sống hạnh phúc chính là phải bắt 
		đầu từ việc sống hòa hợp với mọi người quanh ta. Đây không phải là việc 
		dễ dàng, nhưng lại là việc hoàn toàn có thể làm được. Hầu hết chúng ta 
		sở dĩ không làm được điều này chẳng qua chỉ là vì chúng ta không thực sự 
		hiểu hết được ý nghĩa của nó mà thôi. Một khi đã nhận hiểu được tầm quan 
		trọng của việc “sống chung” cùng người khác, chắc chắn chúng ta sẽ có 
		thể học được cách sống hòa hợp.
	  Khi Tôn giả Phú-lâu-na, một trong 10 vị đại đệ tử của Phật, xin đến xứ 
		Du-na để giáo hóa, đức Phật hỏi: “Dân chúng nơi đó tánh tình hung bạo, 
		chưa từng nghe biết đến đạo pháp. Ông không sợ nguy hiểm hay sao?” 
	  Tôn giả đáp: “Bạch Thế Tôn! Ánh sáng Phật pháp cần được soi rọi khắp 
		nơi, như vậy mới có thể chuyển hóa được sự mê muội, tà ác. Dù nguy hiểm 
		đến đâu con cũng xin được đến đó truyền bá Phật pháp.”
	  Đức Phật hỏi: “Khi ông đến đó, nếu người dân ở đó mắng chửi ông thì 
		sao?”
	  Tôn giả Phú-lâu-na đáp: “Con cho rằng như thế là tâm địa của họ vẫn còn 
		tốt, vì họ chỉ mắng chửi mà không đánh đập con.”
	  Đức Phật lại hỏi: “Nếu như họ lại đánh đập ông thì sao?”
	  Tôn giả đáp: “Con cho rằng như thế là tâm địa của họ vẫn còn tốt, vì họ 
		chỉ đánh đập mà không đâm chém con.”
	  Đức Phật hỏi: “Nếu như họ lại đâm chém ông thì sao?”
	  Tôn giả đáp: “Con cho rằng như thế là tâm địa của họ vẫn còn tốt, vì họ 
		chỉ đâm chém mà không giết chết con.”
	  Đức Phật lại hỏi: “Nếu như họ lại giết chết ông thì sao?”
	  Tôn giả thưa: “Bạch Thế Tôn! Con sẽ rất biết ơn vì họ đã giải thoát cho 
		con khỏi xác thân ô trược này.”
	  Qua những câu trả lời của Tôn giả Phú-lâu-na, đức Phật rất hài lòng và 
		đồng ý cho Tôn giả đến giáo hóa tại xứ Du-na. Quả nhiên, mặc dù gặp phải 
		không ít khó khăn trong bước đầu truyền bá Phật pháp, nhưng với tâm hạnh 
		từ bi, nhẫn nhục và vị tha, Tôn giả đã thành tựu công việc hoằng pháp 
		một cách nhanh chóng. Trong khoảng thời gian chưa được một năm, xứ này 
		đã có đến 50 ngôi chùa và khoảng 500 người xuất gia theo Phật, gia nhập 
		Tăng đoàn. 
	  Quan điểm ứng xử của Tôn giả Phú-lâu-na là một khuôn mẫu quý giá đáng để 
		chúng ta suy ngẫm và học hỏi. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ngài vẫn không 
		nghĩ xấu về đối tượng, cho dù bản thân mình bị tổn hại. Chính thái độ 
		bao dung này đã có hiệu quả rất cao trong việc thuyết phục người khác 
		đặt sự tin tưởng vào những lời thuyết dạy của mình.
	  Trong cuộc sống, hầu hết chúng ta thường có thái độ ngược lại khi ứng xử 
		với người khác. Khi bị người khác mắng chửi, ta lập tức nghĩ rằng người 
		ấy sắp đánh đập mình. Khi bị người khác đánh đập, ta lập tức cho rằng 
		người ấy sắp đâm chém mình. Và khi bị người khác đâm chém, ta lập tức 
		tin chắc rằng người ấy rồi sẽ giết chết mình...
	  Chính quan điểm ngược lại đó của chúng ta luôn có khuynh hướng làm cho 
		vấn đề ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn thay vì là lắng dịu đi. Bởi vì 
		bất cứ hành vi nào xuất phát từ sự nóng giận cũng đều có khuynh hướng tự 
		nhiên là dần dần lắng dịu đi khi không gặp phải sức phản kháng. Nếu 
		chúng ta chấp nhận những thái độ thù nghịch, giận dữ bằng sự nhẫn nhục, 
		bao dung, điều chắc chắn là những thái độ ấy sẽ không thể gia tăng mà 
		chỉ có thể dần dần lắng dịu. Như lưỡi dao chém xuống mặt nước, lực chém 
		chỉ có thể giảm dần đi chứ không thể tăng thêm, và cũng không gây ra 
		được bất cứ sự tổn hại nào. Ngược lại, nếu gặp phải bất cứ vật cản nào, 
		chắc chắn nó sẽ phát huy tác dụng hủy hoại của nó.
	  “Chồng giận thì vợ bớt lời.” Đó là một lời khuyên có giá trị rất sâu sắc 
		xuất phát từ ý nghĩa trên. Bất cứ sự phản kháng nào, cho dù là rất hợp 
		lý, trong một cơn nóng giận cũng đều là những vật cản, và do đó chắc 
		chắn sẽ chỉ có thể làm cho cơn giận bùng lên một cách dữ dội hơn thay vì 
		lắng dịu đi. Ngược lại, nếu chúng ta có thể cảm thông được tâm trạng 
		giận dữ hay thù nghịch của đối tượng và đáp lại bằng sự nhẫn nhục, bao 
		dung, thì sự giận dữ hay thù nghịch kia sẽ chỉ có thể dừng lại ở mức 
		hiện có mà không có điều kiện để phát triển thêm, và sau đó chắc chắn sẽ 
		phải lắng dịu đi theo khuynh hướng tự nhiên.
	  Sống chung hòa thuận giữa những người khác vừa là phương tiện vừa là mục 
		đích của chúng ta trên con đường vươn đến một đời sống hạnh phúc. Bởi vì 
		chúng ta không chỉ sống hòa thuận để có hạnh phúc, mà chính bản thân 
		cuộc sống chung hòa thuận đó đã là hạnh phúc mà ta hướng đến.
	  Vì thế, đừng bao giờ nghĩ rằng bạn đang gìn giữ sự hòa thuận trong gia 
		đình hay trong cộng đồng là vì người khác. Điều đó cũng đúng, nhưng lại 
		là một ý nghĩa thứ yếu. Ý nghĩa quan trọng hơn là bạn đang làm điều đó 
		vì hạnh phúc của chính bản thân mình. Tuy nhiên, xét cho cùng thì khi 
		mỗi người đều được hạnh phúc, chắc chắn gia đình cũng phải có hạnh phúc, 
		và toàn thể cộng đồng cũng sẽ được an vui, hạnh phúc.
	  Khi bạn hiểu được điều này, bạn mới thấy là những con người quanh ta có 
		vai trò quan trọng như thế nào trong việc tìm kiếm một đời sống hạnh 
		phúc cho chính bản thân mình. Và chính nhờ đó mà bạn bắt đầu có một cách 
		nhìn khác hơn đối với người khác. Bạn biết rằng sự quan tâm giúp đỡ, 
		chia sẻ khó khăn với người khác chính là yếu tố cần thiết để giúp bản 
		thân mình có được một đời sống hạnh phúc.
	  Trong sáu phương pháp hòa kính, “thân hòa cộng trú” không chỉ là một 
		nguyên tắc sống hay một lời khuyên, mà còn phải xem là một điều kiện tất 
		yếu để đạt được cuộc sống an vui và hạnh phúc giữa những con người quanh 
		ta. Khi mọi hành vi ứng xử của bạn đều hướng đến việc giữ gìn cuộc sống 
		chung hòa thuận với mọi người chung quanh, thì chính bản thân bạn sẽ trở 
		thành một khuôn mẫu lý tưởng cho cuộc sống hạnh phúc của chính mình và 
		người khác.