Sáu nguyên tắc hòa kính được đức Phật chỉ dạy từ cách đây hơn 25 thế kỷ. 
		Tuy nhiên, từ xưa nay lại chỉ được vận dụng chủ yếu trong đời sống Tăng 
		đoàn nhằm tạo ra môi trường hòa hợp để chư tăng cùng nhau tu tập. Việc 
		vận dụng các nguyên tắc này vào cuộc sống gia đình cũng như trong cộng 
		đồng xã hội có vẻ như còn rất xa lạ đối với nhiều người. Điều đó vốn có 
		lý do riêng của nó.
	  Trước hết, những nguyên tắc này có thể nói là quá lý tưởng đối với cuộc 
		sống của những người bình thường, khi chưa có những sự chuẩn bị nền tảng 
		về đạo đức, nhân cách nhất định. Khi chúng ta chưa hình thành được 
		khuynh hướng tu dưỡng theo một số chuẩn mực đạo đức cơ bản, thì việc vận 
		dụng những nguyên tắc hòa kính vào cuộc sống sẽ rất khó khăn, nếu không 
		nói là sẽ có phần xa lạ, không phù hợp. Chẳng hạn như, nếu chúng ta nói 
		đến việc sống hòa hợp và chia sẻ với nhau mọi lợi ích vật chất, hầu hết 
		những người bình thường đều sẽ thấy là không hợp lý, vì rõ ràng là năng 
		lực cũng như hiệu quả làm việc của mỗi người trong tập thể đều không 
		giống nhau, làm sao có thể chia sẻ đồng đều như nhau? Nguyên tắc này chỉ 
		có thể được chấp nhận khi đời sống của mọi người đều dựa trên chuẩn mực 
		của những giá trị tinh thần như lòng từ bi, đức nhẫn nhục... mà không 
		phải là các giá trị vật chất nhìn thấy được.
	  Đời sống của chư tăng hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu đó. Các vị đều đã 
		buông bỏ đời sống thế tục, buông bỏ mọi tài sản vật chất của thế gian để 
		bước vào đời sống xuất gia. Mục tiêu theo đuổi của các vị không phải là 
		những sự hưởng thụ vật chất tầm thường, mà là sự tôi luyện một tinh thần 
		hướng thiện, tu dưỡng mọi đức tính để đạt đến đời sống an vui, giải 
		thoát. Xuất phát từ nền tảng đó, các vị mới có thể tiếp nhận và thực 
		hành các nguyên tắc hòa kính một cách phù hợp và hiệu quả. Đây là lý do 
		giải thích vì sao từ xưa đến nay Lục hòa kính chỉ được vận dụng chủ yếu 
		trong Tăng đoàn.
	  Nhưng điều đó hoàn toàn không có nghĩa là những người bình thường không 
		thể thấy được giá trị tích cực của những nguyên tắc hòa kính. Vấn đề ở 
		đây là, chúng ta cần biết vận dụng chúng như thế nào cho phù hợp với đời 
		sống thực tế của mỗi người, trong gia đình cũng như trong cộng đồng xã 
		hội.
	  Trước hết, như đã nói, các nguyên tắc hòa kính là quá lý tưởng trong đời 
		sống thế tục. Và vì quá lý tưởng nên tuy chúng ta vô cùng ngưỡng mộ, tôn 
		kính nhưng lại rất khó làm theo. Bởi vậy, để vận dụng các nguyên tắc 
		này, chúng ta nên xem đây là những nguyên tắc, những định hướng để noi 
		theo mà không phải là những quy định, khuôn thước phải khép mình vào. 
		Nhận thức theo cách này, chúng ta sẽ thấy là các nguyên tắc hòa kính đều 
		có thể được vận dụng tốt trong đời sống thế tục.
	  Khi chúng ta chấp nhận Lục hòa kính như là kim chỉ nam của cuộc sống 
		chung giữa mọi người, chúng ta sẽ luôn hướng đến sự hòa hợp. Ngay cả khi 
		ta chưa thực sự đạt được sự hòa hợp - và không nên đòi hỏi điều đó một 
		cách tuyệt đối - thì chắc chắn chúng ta cũng luôn có thể làm cho cuộc 
		sống ngày càng tốt đẹp hơn, và quan hệ giữa mọi người với ta cũng ngày 
		càng gắn bó, cảm thông nhau nhiều hơn.
	  Trong quan hệ giữa mọi người trong gia đình, nếu chúng ta luôn ý thức 
		được mục tiêu của đời sống hạnh phúc là sự hiểu biết lẫn nhau, đối diện 
		với mọi bất đồng để cùng nhau giải quyết và hướng đến cuộc sống chung 
		hòa hợp, chúng ta sẽ luôn tránh xa thái độ sống cách biệt, thiếu cảm 
		thông và thờ ơ lạnh nhạt. Chúng ta biết rằng khi đã cùng chung sống dưới 
		một mái gia đình thì không thể có hạnh phúc riêng cho mỗi người nếu mọi 
		người không cùng nhau tạo ra được một môi trường sống hòa hợp và gắn bó. 
		Cách hiểu như thế không phải gì xa lạ mà chính là nguyên tắc “thân hòa 
		cộng trú” chúng ta đã bàn đến. Hơn thế nữa, chúng ta còn có thể vận dụng 
		cách hiểu này trong quan hệ với mọi người ở nơi làm việc hay bất cứ tập 
		thể nào mà chúng ta tham gia.
	  Thận trọng và khéo léo trong lời nói, hạn chế mọi sự tranh cãi và luôn 
		tôn trọng, lắng nghe người khác, đó chính là khuynh hướng mà chúng ta 
		phải noi theo khi thực hiện “khẩu hòa vô tranh”. Lời nói hòa hợp không 
		chỉ cần thiết cho một gia đình hạnh phúc, mà cũng là nhân tố thiết yếu 
		cho bất cứ tập thể hòa hợp nào. Vì thế, nếu chúng ta có thể luôn noi 
		theo khuynh hướng này trong việc nói năng, tiếp xúc cùng mọi người quanh 
		ta, điều tất nhiên là chúng ta sẽ góp phần tạo ra môi trường hòa hợp 
		chung cho tất cả mọi người. Cho dù chúng ta chưa tạo ra được một tập thể 
		hoàn toàn hòa hợp, nhưng sự đóng góp tích cực của khuynh hướng này là 
		không thể phủ nhận.
	  Quan tâm giúp đỡ và phục vụ lẫn nhau trong công việc, tạo ra được sự 
		đồng lòng nhất trí trong mọi công việc chung của gia đình hoặc tập thể, 
		đó là noi theo nguyên tắc “ý hòa đồng sự” mà chúng ta đã đề cập đến. Nếu 
		mọi người trong gia đình đều noi theo khuynh hướng này, công việc dù có 
		khó khăn đến đâu cũng đều có thể cùng nhau vượt qua, và ngay cả khi có 
		thất bại cũng không vì thế mà tổn hại đến hòa khí trong gia đình. Mỗi 
		người đều biết nhận lấy phần trách nhiệm về mình, không đổ lỗi cho nhau 
		nên sẽ không bao giờ có sự trách móc lẫn nhau. Đối với một tập thể, mối 
		quan hệ gắn bó lẫn nhau theo khuynh hướng này cũng là yêu cầu tất yếu để 
		có thể tạo ra được sự hòa hợp và đoàn kết.
	  Nói đến nguyên tắc “giới hòa đồng tu”, chúng ta thường nghĩ ngay đến sự 
		giới hạn trong phạm vi những người xuất gia. Tuy nhiên, khái niệm này 
		thật ra hoàn toàn có thể - và cần phải - mở rộng để vận dụng vào đời 
		sống thế tục. “Giới” không chỉ là giới luật của người xuất gia, mà có 
		thể được hiểu rộng hơn như là mọi khuôn thước, chuẩn mực mà những người 
		trong một gia đình hay tập thể phải tuân theo. Hiểu theo cách này thì 
		trong mọi môi trường, mọi hoàn cảnh, chúng ta đều có những “giới” khác 
		nhau để tuân theo. Khi tham gia giao thông, ta phải tuân thủ luật đi 
		đường; khi làm việc phải tôn trọng những quy định về an toàn lao động; 
		khi về nhà phải tuân theo nền nếp sinh hoạt chung trong gia đình... Tất 
		cả những chuẩn mực, khuôn thước đó đều là “giới”, bởi vì nếu mọi người 
		trong cùng một môi trường, hoàn cảnh mà không nghiêm túc tuân theo những 
		chuẩn mực, khuôn thước ấy thì điều tất yếu là tập thể đó sẽ phải bị rối 
		loạn, xung đột. Chẳng hạn, khi có người tham gia giao thông không đúng 
		luật, khi có người cùng làm việc lại vi phạm quy định về an toàn lao 
		động, hoặc khi trong gia đình có người không tuân theo nền nếp sinh hoạt 
		chung... tất cả đều sẽ là nguyên nhân gây ra xáo trộn và bất an cho 
		những người khác chung quanh họ. Vì thế, môi trường nào cũng đều có 
		những “giới” nhất định cần phải tuân theo.
	  Mặt khác, khái niệm “tu” cũng không chỉ dành riêng cho người xuất gia. 
		Theo nguồn gốc chữ Hán, tu (修) có nghĩa là sửa chữa, là điều chỉnh sự 
		sai lầm, làm cho trở nên tốt hơn, hoàn thiện hơn. Hiểu theo nghĩa như 
		vậy thì tất cả chúng ta cũng đều đang tu, không chỉ là các vị xuất gia. 
		Chỉ có điều là các vị xuất gia tu học theo điều kiện và môi trường, chí 
		hướng thoát trần của họ. Còn chúng ta chỉ tu để sửa chữa, loại bỏ dần 
		những sai lầm, khuyết điểm trong đời sống của mình mà thôi.
	  Như vậy, “giới hòa đồng tu” cũng là một nguyên tắc vô cùng tích cực đối 
		với đời sống thế tục của chúng ta. Nếu mọi người trong gia đình hay một 
		tập thể đều nghiêm túc tuân thủ, tôn trọng những khuôn thước, nền nếp 
		hay chuẩn mực chung và cùng khuyến khích nhau sửa chữa mọi sai lầm, 
		khuyết điểm, thì gia đình hay tập thể đó chắc chắn sẽ sớm trở thành một 
		môi trường hòa hợp, gắn bó mọi người với nhau để cùng tiến bộ.
	  Hai nguyên tắc cuối cùng là “kiến hòa đồng giải” và “lợi hòa đồng quân” 
		có vẻ như rất khó đạt được sự tán thành của quan điểm thế tục. Trong khi 
		mọi người đều cho rằng vốn liếng tri thức là tài sản của mỗi cá nhân, 
		thì đối với việc chia sẻ kiến thức tất nhiên không phải ai cũng có thể 
		đồng ý. Hơn thế nữa, vấn đề đặt ra là nếu chúng ta chấp nhận việc chia 
		sẻ kiến thức trong khi những người khác lại không làm như thế thì sao? 
		Mặt khác, làm sao chúng ta có thể chia sẻ đồng đều lợi ích với mọi người 
		nếu như những người khác không chịu nỗ lực góp sức tương đương với chúng 
		ta? Câu trả lời ở đây là: chúng ta cần phải thuyết phục mọi người thấy 
		được giá trị chân thật của đời sống không nằm ở các giá trị vật chất, và 
		vì thế mà cái gọi là “thiệt thòi” về mặt vật chất chưa hẳn đã là thua 
		thiệt. Nhưng làm thế nào để thuyết phục những người khác tin tưởng và 
		thực hiện theo những nguyên tắc mà chúng ta cho là đúng đắn? Chúng ta sẽ 
		đề cập đến nội dung này trong phần tiếp theo đây bàn về Tứ nhiếp pháp - 
		bốn phương pháp thu phục lòng người.