Một điều lạ lùng mà ta có thể nhận thấy trong những trường hợp quả báo
về xác thân như đã kể trên, là những quả báo chỉ xuất hiện một hay nhiều
kiếp sau khi cái nhân đã được tạo ra. Người ta tự hỏi, tại sao lại có sự
chậm trễ đó, tại sao nghiệp quả không báo ứng ngay tức khắc như một quả
banh dội lại ngay sau khi được ném vào tường?
Dường như câu hỏi đó có nhiều cách giải đáp. Một là sau khi đã gây nhân
tạo nghiệp, cần phải đợi đến khi có một hoàn cảnh thuận tiện cho cái
nhân kia kết lại thành quả. Có khi phải đợi qua nhiều thế kỷ mới hội đủ
các điều kiện. Trong khoảng thời gian đó, tất nhiên là mỗi người đều có
được những cơ hội để cải thiện tâm tính, tu dưỡng tinh thần, và nhờ đó
có thể giúp cho quả báo trở nên giảm nhẹ hơn.
Người ta tìm thấy một thí dụ về loại quả báo không tức thì này trong
những tập hồ sơ Cayce về những tâm thức trước kia đã từng sinh ra ở châu
Atlantide. Khoa học chưa bao giờ có thể xác nhận hay phủ nhận sự hiện
diện của châu Atlantide vĩ đại và cổ xưa nay đã chìm dưới đáy Đại Tây
Dương, mặc dầu người ta có đủ lý do để tin vào sự kiện ấy trước rất
nhiều bằng chứng lịch sử, khoa học và văn hóa.
Một tài liệu lịch sử quan trọng là bộ sách “Crisias và Timeus” của
Platon. Trong đó, tác giả tường thuật những điều ông đã nghe nói về châu
Atlantide.
Một trong những bằng chứng khoa học thường được nêu ra là sự khám phá
của các nhà bác học, nhân dịp một sợi dây cáp ngầm dưới Đại Tây Dương bị
đứt và chìm xuống đáy biển ở một độ sâu ba ngàn thước. Khi sợi dây cáp
được vớt lên, thì nó dính theo những mẫu phún thạch (lava). Khi người ta
phân tích những mẫu phún thạch này thì thấy rằng ngày xưa chúng đã từng
đông đặc lại trên đất liền trước khi chìm xuống đáy biển.
Trong những bằng chứng văn hóa đáng kể nhất thì trước hết là những huyền
thoại về cuộc đại hồng thủy. Người ta không chỉ gặp những huyền thoại
này trong bộ Kinh Thánh (Bible), mà còn cả trong những truyện thần thoại
tôn giáo và lịch sử của hầu hết những dân tộc cổ xưa trên thế giới.
Kế đó là những điểm tương đồng giữa những ngôn ngữ, văn tự và kiến trúc
của Ai Cập và Trung Mỹ, ở vào một thời kỳ mà người ta không thấy có
những phương tiện giao thông giữa hai lục địa châu Mỹ và châu Phi.
Tất cả những bằng chứng kể trên có thể giúp cho người ta tin tưởng vào
sự hiện diện của châu Atlantide, dù vẫn chưa đủ để đưa đến một kết luận
chắc chắn. Nhưng nếu ta tin vào kết quả những cuộc soi kiếp của ông
Cayce, thì châu Atlantide đã từng hiện hữu một cách hiển nhiên, không
còn nghi ngờ gì nữa.
Theo ông Cayce, một vài gian phòng bí mật hãy còn khóa chặt trong Đại
Kim tự tháp ở Ai Cập, một ngày kia sẽ có thể tiết lộ cho chúng ta một
kho tài liệu đầy đủ về lịch sử và nền văn minh của châu Atlantide. Ông
Cayce cho biết rằng, những tài liệu đó được chôn giấu trong Kim tự tháp
bởi những người dân Atlante ngày xưa di cư qua Ai Cập trong cuộc thiên
tai địa chấn lần thứ ba và cũng là lần cuối cùng đã nhận chìm châu
Atlantide xuống đáy biển vào khoảng chín ngàn năm trăm năm trước Tây
lịch.
Ông Cayce cũng nói rằng, đảo Bimini ở ngoài khơi tiểu bang Florida (Hoa
Kỳ), nguyên là đỉnh một ngọn núi cao ở châu Atlantide ngày xưa. Ông cũng
cho biết rằng tại nơi đó, người ta có thể tìm thấy dưới đáy biển một
ngôi đền cổ của dân Atlante. Mái bầu của ngôi đền được xây cất với những
tấm kiếng thủy tinh theo một kiểu kiến trúc đặc biệt để thâu ánh nắng
mặt trời.
Những cuộc soi kiếp cũng cho biết dân Atlante ngày xưa đã từng đạt tới
một trình độ khoa học tiến bộ hơn cả chúng ta ngày nay. Họ đã từng phát
triển đến một mức độ rất cao trong các ngành điện khí, vô tuyến điện, vô
tuyến truyền hình, những phương tiện di chuyển trên không trung, tàu
ngầm, cùng phương pháp sử dụng năng lượng mặt trời và năng lượng nguyên
tử. Họ đã từng phát minh những kỹ thuật dùng nhiệt lượng để thắp sáng và
vận chuyển tiến bộ hơn chúng ta ngày nay.
Điều đáng ghi nhớ là những cuộc soi kiếp của ông Cayce thường lặp đi lặp
lại nhiều lần rằng dân Atlante ngày xưa bị họa diệt vong vì họ đã lạm
dụng những sức mạnh kinh khủng mà họ chế ngự được. Họ dùng điện lực,
khoa thôi miên và sức mạnh của tư tưởng để đàn áp, chế ngự kẻ khác, hoặc
sai khiến người khác làm việc như những nô lệ, hoặc để cưỡng hiếp phụ nữ
và thỏa mãn sắc dục.
Những sự lạm dụng quyền năng và những hành vi trái đạo kể trên không thể
cứu chuộc được một cách đầy đủ và trọn vẹn cho dù những kẻ phạm lỗi ấy
đã phải trải qua nhiều thời kỳ đớn đau khổ nhục để bù đắp, trong những
thời kỳ mà khoa học chưa được phát triển và người ta chưa có những kiến
thức sâu rộng về khoa tâm lý hoặc khoa huyền môn. Sự thử thách hữu hiệu
nhất để biết một người đã thắng được thói ăn uống vô tiết độ hay chưa là
đặt trước mặt anh ta những món cao lương mỹ vị, để xem anh ta có biết tự
chủ hay không? Người ta không thể biết được một người đã hoàn toàn tự
chủ về sắc dục hay chưa, nếu người ấy chưa gặp phải sự thử thách và bị
cám dỗ mà vẫn không động lòng như thánh Antoine ngày xưa, lòng vẫn thanh
tịnh giữa những giai nhân tuyệt sắc, đáng yêu! Cũng vậy, những kẻ tội
lỗi đã từng lạm dụng những quyền năng phi thường và mầu nhiệm nhờ sự
phát triển khoa học của châu Atlantide thuở xưa, chưa hẳn đã thực sự từ
bỏ thói ích kỷ tham tàn và thay đổi tâm tính, nếu họ chưa gặp những hoàn
cảnh tương tự của một thời kỳ phát triển khoa học và kỹ thuật như thời
đại này để thử thách xem họ có biết dùng những phương tiện đó với một
tinh thần xây dựng, hay là với mục đích ích kỷ hại nhân như thuở trước.
Sự tiến bộ theo từng chu kỳ của lịch sử đã làm cho thế kỷ hai mươi trở
nên một thời kỳ phát triển khoa học như vừa nói trên. Vì thế, những cuộc
soi kiếp của ông Cayce tiết lộ rằng có rất nhiều người dân Atlantide
thời cổ nay đã tái sinh vào thời kỳ hiện tại.
Những tiến bộ về kỹ thuật và khoa học của thời đại này có thể hiểu theo
hai cách. Trước hết, đó là kết quả những kinh nghiệm về phát minh khoa
học mà những người dân Atlantide đã mang theo từ những tiền kiếp quá khứ
xa xăm của họ ở châu Atlantide ngày xưa. Thứ hai, thời kỳ này có thể xem
là giai đoạn thử thách cho những con người đã từng phạm tội đó, để bộc
lộ rõ trong suốt thời gian qua họ đã thâu thập được những đức tính gì
khả dĩ giúp cho họ chống lại sự cám dỗ do thói ích kỷ và tàn bạo còn rơi
rớt lại của thế hệ văn minh khoa học vật chất.
Vì thế, có vẻ như yếu tố căn bản quyết định vấn đề quả báo không tức thì
là việc những ai đã gây nghiệp quả xấu phải chờ đến khi tái sinh vào một
thời kỳ thuận tiện, hội đủ những điều kiện để quả báo xấu của họ thực sự
chín muồi.
Vấn đề này hình như cũng có liên quan đến sự tiến bộ từng chu kỳ của
lịch sử và sự luân phiên của những tâm thức tương đồng trong việc tái
sinh cùng lúc vào những thời kỳ thích hợp. Những trào lưu chủng tộc và
các sắc dân trên địa cầu dường như cũng tái sinh trở lại thế gian theo
từng giai đoạn, ví như những luồng sóng dập dồn nối nhau từng chu kỳ,
theo định luật tuần hoàn của vũ trụ.
Tuy nhiên, có nhiều đoạn ghi nhận trong các cuộc soi kiếp của ông Cayce
chỉ ra rằng sự tái sinh của các nhóm thiểu số trong những nhóm lớn đó,
và thậm chí trường hợp của từng cá nhân trong các nhóm ấy, không phải do
một sự tiền định hoặc theo từng khuôn mẫu hay chu kỳ nhất định. Trường
hợp của mỗi một tâm thức cũng như từng nhóm tâm thức có nghiệp lực tương
đồng không phải bao giờ cũng tái sinh một cách đều đặn như một sự việc
đã định sẵn. Điều này còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác tác động từ
bên ngoài (các duyên) cũng như những thay đổi bên trong của từng tâm
thức riêng biệt.
Về điểm này, cũng như trên những lãnh vực khác của sự sống trong vũ trụ,
con người vốn luôn có quyền tự do ý chí, và mỗi cá nhân hay một nhóm
người đều luôn có quyền tự do chọn lựa những điều kiện liên quan đến sự
tái sinh của mình, nếu họ có đủ sáng suốt. Nhận xét này gợi lên một sự
phức tạp mới nữa: Nếu một tâm thức muốn phát triển những đức tính hay
công hạnh nào đó, tâm thức ấy cần có sự chọn lựa một thời điểm tái sinh
thích hợp, với những điều kiện thích hợp Và sự tu dưỡng của cá nhân mỗi
tâm thức cũng là điều kiện góp phần vào việc tâm thức ấy có phải tức
thời nhận lãnh những quả báo xấu mà mình đã tạo ra hay không.
Những sự kiện kể trên là những yếu tố góp phần giải thích hiện tượng quả
báo không tức thì sự tu dưỡng tinh thần là một yếu tố quan trọng luôn
phải được xét đến, bởi nó vừa mang tính chủ quan của mỗi cá nhân, vừa
tạo ra những tác động khách quan khiến cho mọi hoàn cảnh đều có thể thay
đổi. Với sự tu dưỡng tinh thần, người ta có thể chịu đựng những quả báo
xấu khi chúng xảy đến và xem đó như những cơ hội để rèn luyện, tu dưỡng,
nhằm hoàn thiện tinh thần hơn nữa. Mặc dù không thể tránh khỏi việc nhận
lãnh những quả báo xấu do lỗi lầm đã mắc phải trong quá khứ, nhưng một
người biết tu dưỡng có thể xem đó chính là cơ hội để thâu thập, rèn
luyện những đức tính cần thiết để tiếp tục đương đầu với quả báo khác
nữa khi nó tuần tự xảy đến trong cuộc luân hồi.
Nhiều người bệnh tật khi được ông Cayce soi kiếp và được cho biết rằng
nguồn gốc bệnh trạng của họ được truy nguyên ra từ nhiều kiếp trước, đều
lấy làm tò mò muốn biết lý do của sự kéo dài như thế. Những người muốn
làm sáng tỏ vấn đề này bằng một cuộc soi kiếp thứ nhì, đều nhận được câu
trả lời giống như của cô thiếu nữ què mà chúng tôi đã kể chuyện trong
chương 5. Cô này hỏi:
– Tại sao đến kiếp này tôi mới phải trả nghiệp quả mà tôi đã gây ra từ
thời đế quốc La Mã?
Cô ấy được trả lời như sau:
– Bởi vì không có đủ những điều kiện thích hợp để quả báo của cô chín
muồi vào một thời điểm sớm hơn.
Như vậy, khi một quả báo xấu không đến sớm hơn, đó là vì có những nguyên
do chủ quan bên trong lẫn những điều kiện khách quan bên ngoài. Trong
trường hợp này cũng như nhiều trường hợp bệnh tật khác, một sự nghiên
cứu tỉ mỉ về những kiếp trung gian thường cho thấy rằng đương sự đã có
những chuyển hóa tốt đẹp hơn qua sự tu dưỡng, hoặc biết tận dụng nhiều
cơ hội để phát triển thêm những đức tính và có sự tiến hóa về mặt tinh
thần. Chính vì thế mà những điều kiện nhân duyên thuận lợi cho sự chín
muồi của một quả báo xấu đã không được tạo ra.
Thí dụ, nếu chúng ta xét lại trường hợp của người thiếu niên mười sáu
tuổi, bị thương nặng trong vụ tai nạn xe hơi như đã kể trên, chúng ta
thấy rằng nguyên nhân của nghiệp quả này là do anh ta đã gieo từ thời kỳ
đế quốc La Mã. Tuy nhiên, trong một kiếp trước đây khi tái sinh vào thời
kỳ Cách mạng ở Bắc Mỹ, anh ta cho thấy có sự phát triển nhiều đức tính
như lòng can đảm, yêu đời và khả năng khai thác khía cạnh tốt của mọi
hoàn cảnh. Những đức tính đó hoàn toàn không phải tự nhiên có được, mà
nó biểu lộ sự nỗ lực của các nhân trong sự vươn lên hoàn thiện chính
mình. Và điều đó không phải gì khác hơn mà chính là một trong những hình
thức tu dưỡng tinh thần. Nhờ đó mà những điều kiện thích hợp cho sự chín
muồi của một quả báo xấu đã bị ngăn chặn.
Một thí dụ sau đây có thể giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn về vấn đề này.
Một người vay tiền của ngân hàng để kinh doanh. Anh ta không thể trả hết
số nợ đó trong vài ngày hay một tuần lễ, hoặc một tháng ngay sau khi
vay. Việc kinh doanh của anh ta cần có thời gian, và vì thế sự trả nợ
cũng phải có một thời gian, kỳ hạn nhất định. Những món nợ nghiệp quả
cũng tương tự như thế, cần có một kỳ hạn nhất định trước khi chín muồi
và biểu hiện thành những sự kiện tốt hay xấu trong đời người.
Đó là những lý do khách quan cũng như chủ quan có thể giải thích cho
việc người ta thường không nhận lãnh những quả báo xấu một cách tức thì.
Nếu một ngày kia thuyết luân hồi được tất cả mọi người thừa nhận, và nếu
quan niệm về nhân quả được quần chúng Tây phương cũng như Đông phương
hiểu rõ, ít nhất là trên nguyên tắc đại cương, thì chắc chắn vấn đề quả
báo không tức thì sẽ có ý nghĩa răn đe hữu hiệu đối với rất nhiều người!
Cái ý tưởng rằng một hành động độc ác nào đó trong quá khứ rồi chắc chắn
sẽ dẫn đến những quả báo phải chịu đui mù, tàn tật trong một kiếp tương
lai xa hay gần sẽ là một bản án treo làm cho người ta phải cảm thấy lo
sợ, cân nhắc mỗi khi sắp phạm vào một sự lỗi lầm. Đối với những người
nhạy cảm và có đức tin mạnh mẽ thì một món nợ nhân quả không được biết
rõ cũng ví như một lưỡi gươm của Damoclès treo lủng lẳng phía trên và
chực chờ rơi xuống đầu họ bất cứ lúc nào, và điều đó có tác dụng giúp họ
luôn phải biết lo sửa mình tu dưỡng thay vì sống buông trôi theo lạc
thú.
Đối với một số người thì thuyết nghiệp quả có thể chỉ là một sự dọa dẫm
mơ hồ và hoàn toàn không có cơ sở khoa học, cũng như hình tượng quỷ
Satan và lửa hỏa ngục đã từng là một mối đe dọa làm nhiều người sợ hãi
trong nhiều thế hệ đã qua! Để chống lại cái khuynh hướng sợ sệt mơ hồ
đó, họ đi đến việc phủ nhận toàn bộ vấn đề quả báo, cũng như phong trào
Khoa học Công giáo (Science Christienne) đã từng phủ nhận mọi tội lỗi,
sự lầm lạc... Tuy nhiên, sự phủ nhận vật chất thế gian cũng như vấn đề
tội lỗi và quả báo không có ý nghĩa giải quyết vấn đề! Điều nên làm của
chúng ta không phải là giấu giếm sự thật, như con chim đà điểu vùi đầu
xuống cát để giấu mình, mà là phải thấu hiểu được sự thật để biết tự chế
phục mình và xây dựng cuộc đời này theo những lý tưởng hay khuynh hướng
tâm linh cao cả.
Sự phủ nhận nhân quả chẳng khác nào không thừa nhận những món nợ mà mình
phải trả hay những bài học mà mình cần phải học hỏi, và đó là một thái
độ bất lương. Kẻ nào muốn gạt gẫm hay trốn tránh trách nhiệm, dầu đó là
những trách nhiệm vật chất hay tinh thần, đều không thể gây cho người
khác lòng mến phục.
Thói thường, khi người ta không thích một điều gì, người ta hay lý luận
một cách khôn khéo để phủ nhận điều ấy. Đó cũng là một sự trốn tránh
trách nhiệm. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là mọi sự lý luận hay dẫn
dụ (suggestion) đều là vô ích. Trái lại, sự dẫn dụ có thể rất hữu ích để
chữa những bệnh trạng thuộc về tâm lý. Chúng ta đã thấy trường hợp lý
thú của đứa trẻ bị chứng bệnh đái dầm và phương pháp dẫn dụ để đánh tan
mặc cảm tội lỗi hằn sâu trong tiềm thức, đã chữa cho em ấy được khỏi
bệnh.
Nếu các nhà tâm lý học muốn chữa những chứng bệnh về mặc cảm tội lỗi thì
phương pháp điều trị tốt nhất là làm cho bệnh nhân thành thật nhìn nhận
những tội lỗi đã gây ra; bày tỏ một ý muốn chân thành muốn chuộc lỗi, và
sau cùng phải bày tỏ sự cương quyết làm việc tốt và hướng thiện, nghĩa
là theo hướng ngược lại với tội lỗi đã gây ra. Như vậy, quả báo sẽ dần
dần giảm nhẹ cho đến tiêu tan, và bệnh sẽ thuyên giảm.
Nếu chúng ta chấp nhận thuyết luân hồi thì ta phải nhìn nhận rằng nhân
loại chưa có được sự tiến hóa cao về phương diện tâm linh, vì thế mà con
người còn phải chịu những quả báo xấu trong nhiều kiếp sống tương lai.
Nhưng ta không nên quá băn khoăn lo sợ vì điều đó. Tục ngữ phương Tây có
câu: “Mỗi ngày chỉ chịu đựng vừa đủ sự khổ nhọc của nó!” (A chaque jour
suffit sa peine.) Câu này ngụ ý là ta nên sống mỗi ngày một cách bình
tĩnh, chấp nhận mọi sự việc mà không cần phải băn khoăn lo lắng. Chẳng
những là mỗi ngày mà mỗi kiếp sống cũng vậy; dầu cho ta có bị những khó
khăn đau khổ như thế nào, ta cũng phải sống trọn đời sống của mình với
một niềm tin tưởng chắc chắn rằng những gì xảy đến cho ta là rất công
bình, và ta luôn có đủ sức chịu đựng mọi điều xảy đến. Không gì có thể
xem là quá sức chịu đựng của ta trong đời sống cả.
Hơn nữa, dầu cho ta có tin vào luật nhân quả hay không, ta cũng phải
thừa nhận rằng tương lai là một cái gì mà ta không thể biết được một
cách chắc chắn. Và nếu ta tin rằng những tai họa xảy đến cho ta là do lẽ
nhân quả báo ứng chứ không phải do sự ngẫu nhiên tình cờ hay ý muốn của
một đấng toàn năng, thì những nỗi băn khoăn sợ sệt của ta sẽ tự nó tan
biến, vì lý do giản dị là quả báo luôn xảy đến cho ta theo một định luật
công bằng tuyệt đối.
Con người thường hay sợ sệt những tai họa sẽ đến, nhưng nếu biết rằng sự
việc luôn xảy đến một cách công bằng thì ta sẽ chẳng có gì phải lo sợ
hay trốn tránh. Ngược lại, mỗi tai họa còn có thể là một cơ hội để mang
đến cho ta một bài học hay và mở rộng tầm kiến thức cũng như rèn luyện
và tu dưỡng tinh thần. Như vậy, rõ ràng đó không phải là một điều đáng
sợ.
Một người lương thiện nếu biết mình mắc nợ thì phải cố gắng lo việc trả
nợ; anh ta sẽ làm việc một cách siêng năng chăm chỉ để có thể trả hết
món nợ vào đúng kỳ hạn, nhưng hoàn toàn không cần thiết phải lo lắng sợ
sệt về việc ngày trả nợ sẽ đến. Người ấy chỉ cần đem hết tinh thần, sức
lực, cố gắng làm việc để có thể trả dứt nợ nần, vì đó mới là sự nỗ lực
đúng hướng nhất.
Vì tầm ý thức của chúng ta có giới hạn nên chúng ta không thể biết được
rằng mình đã mắc phải bao nhiêu món nợ quả báo trong những tiền kiếp
thuộc về quá khứ xa xăm. Nhưng dù vậy, chúng ta cần phải có thái độ
thẳng thắn của một người lương thiện, chấp nhận những món nợ của ta với
một thiện chí và chân thành muốn trả nợ. Sự chấp nhận luật nhân quả và
tin tưởng vào sự công bằng tuyệt đối của nó chính là thái độ tích cực
nhất của chúng ta đối với mọi quả báo xảy đến.
Khi có thể đặt niềm tin vào sự tác động công bằng của luật nhân quả thì
chắc chắn ta không thấy có bất cứ điều gì cần phải sợ sệt cả. Những ai
gieo gió sẽ phải gặt bão, và nếu nỗ lực làm thiện thì sẽ được hưởng
những quả báo tốt đẹp. Chỉ có thế thôi!