Ngày nay, nhiều người đã quen thuộc với cái tên của bác sĩ Freud và danh
từ tiềm thức. Tuy nhiên, nhiều người không biết rằng bác sĩ Freud đã
khám phá ra khái niệm về tiềm thức trong khi ông theo đuổi những cuộc
nghiên cứu về giấc ngủ thôi miên.
Vì những người ngủ mê trong giấc thôi miên có thể nhớ lại những sự việc
xảy ra từ thuở nhỏ mà họ đã hoàn toàn quên hẳn trong lúc bình thường,
nên ông Freud mới đưa ra giả thuyết rằng trạng thái tiềm thức là một kho
ký ức lưu giữ những ấn tượng đã qua mà người ta không thể nhớ lại bằng
bất cứ cách nào khác.
Về sau, ông Freud không dùng khoa thôi miên như một kỹ thuật chữa bệnh
nữa, vì trong nhiều trường hợp nó không được hoàn mỹ. Nhưng ông vẫn tiếp
tục thí nghiệm những phương pháp khác để thám hiểm vực sâu thẳm của tiềm
thức con người. Tuy thế, người ta cũng xem khoa thôi miên như là nguồn
gốc của khoa Phân tâm học (Psychanalyse) do ông khởi xướng.
Trong lãnh vực tâm lý theo thuyết luân hồi, khoa thôi miên có thể có một
vai trò tương tự. Thần nhãn của ông Cayce dường như cho thấy rằng một
người trong giấc thôi miên có thể khám phá những kiếp trước của người
khác. Một sự kiện quan trọng hơn nữa là dường như người ấy cũng có thể
nhìn thấy và sống lại những tiền kiếp của chính mình.
Những kinh nghiệm lùi về quá khứ trong trạng thái thôi miên cho thấy
rằng trong tiềm thức của một người có sự lưu giữ ký ức của tất cả sự
việc đã từng xảy ra trong quá khứ. Khi một người trong trạng thái thôi
miên được dẫn dụ lùi về quá khứ đến năm lên mười tuổi và được yêu cầu
viết tên mình thì anh ta sẽ viết với tuồng chữ của tuổi thơ ấu vào năm
lên mười. Khi người này lùi về đến năm sáu tuổi, anh ta sẽ viết với
tuồng chữ còn non nớt hơn nữa; và khi anh ta lùi về đến năm lên ba, anh
ta chỉ có thể cầm viết chì vẽ nguệch ngoạc những nét không có ý nghĩa gì
cả!
Hiện tượng lùi về quá khứ trong trạng thái thôi miên như vừa nói trên
thường được thí nghiệm trong những lớp giảng về khoa tâm lý ở các trường
đại học, và những sinh viên tâm lý học đã khá quen thuộc với hiện tượng
ấy. Nhà bác học Pháp De Rochas vào thế kỷ 19 đã tuyên bố rằng với kỹ
thuật lùi về dĩ vãng như trên, ông có thể nhớ lại những kỷ niệm đã qua
trong quá khứ. Quyển sách của ông có nhan đề “Những kiếp sống liên tục”
(Les Vies Successives) không được xem như một tác phẩm khoa học, nhưng
có lẽ một ngày kia nó sẽ được hoan nghênh như một công trình tiền phong
trên địa hạt tâm lý về thuyết luân hồi.
Những trạng thái tâm lý lạ lùng được xem xét bằng hiện tượng thần nhãn
của ông Cayce giải thích tính chất của ký ức và tiềm thức, và có vẻ như
xác nhận rằng tiềm thức con người thật ra còn thâm sâu hơn những gì mà
các nhà phân tâm học hiện nay có thể hiểu được.
Một trong những trạng thái tâm lý lạ lùng nhất là sự sợ hãi. Những nhà
phân tâm học định nghĩa điều này như là một “sự sợ hãi quá độ” mà nguồn
gốc là do nhiều nguyên nhân phức tạp gây nên. Sự sợ hãi khác thường này
làm cho con người sinh lòng thù nghịch, gây hấn, hoặc cảm thấy mình có
tội lỗi rất nặng nề. Những cảm xúc ẩn tàng này về sau biểu lộ dưới hình
thức một sự sợ hãi vô lý và bất thường đối với một vài sự vật ở ngoại
cảnh, thí dụ như sợ những gian phòng kín, sợ trèo cao, sợ mèo hay sợ
chuột, sợ giông mưa, sấm sét, sợ nước v.v...
Có nhiều trường hợp, những sự sợ hãi đó đã được truy nguyên từ một việc
xảy ra trong kiếp trước, làm cho người ấy bị đau khổ hay thiệt mạng.
Một thí dụ lý thú là trường hợp của một người phụ nữ từ thuở thiếu thời
đã sợ những gian phòng kín. Ngồi trong rạp hát, cô phải chọn một chỗ
ngồi gần chỗ cửa ra. Ngồi trên xe buýt, nếu xe chật chỗ và quá đông
người, cô bước xuống để đợi chuyến xe khác. Trong những khi đi nghỉ hè,
dạo chơi ở miền núi, cô rất sợ chui vào những hang động, hầm hố hay bất
cứ chỗ nào bốn bề khép kín, không nhìn thấy lối ra.
Người trong gia đình không ai hiểu lý do của thái độ lạ lùng này, vì
không ai có thể nhớ lại thuở nhỏ đã xảy ra việc gì làm cho cô có sự sợ
sệt như vậy. Cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết rằng trong một kiếp
trước cô từng chui vào một cái hang, thình lình hang bị sụp lở, đè bẹp
cô dưới đống đất đá và cô phải chết ngộp. Ký ức về cái chết rùng rợn này
ngày nay vẫn còn in sâu trong tiềm thức của cô.
Một thí dụ khác là trường hợp của một người đàn bà nọ có hai điều kinh
sợ là sợ dao bén và sợ những loài thú có lông, nhất là những loài thú
nhà. Cô nổi cơn hoảng sợ mỗi khi có một vật bén nhọn ở gần bên mình, hay
khi thấy ai sử dụng dao bén. Cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết là
trong một kiếp trước ở Ba Tư, người đàn bà này bị giết vì một lưỡi gươm
trong lúc chạy loạn.
Còn việc sợ thú có lông thì khó hiểu hơn, vì trong gia đình người nào
cũng có nuôi chó hay nuôi mèo. Nhưng mỗi khi cô nhìn thấy con chó hay
con mèo thì giật mình kinh sợ như người gặp phải rắn độc. Hơn nữa, cô
không khi nào mặc áo choàng bằng da thú, hoặc có cổ áo may bằng lông
thú.
Những nhà tâm lý học có thể tìm căn nguyên sự sợ sệt của cô trong những
sự giao tế với người trong gia đình, thí dụ như lòng ganh ghét đố kỵ đối
với người anh ưa nuôi thú chẳng hạn, và giải đáp vấn đề ấy như là sự
biểu lộ lòng thù nghịch của cô. Tuy nhiên, những cuộc soi kiếp đã truy
nguyên sự sợ sệt này từ một kiếp trước ở châu Atlantide, khi đó cô đã
trải qua một kinh nghiệm khủng khiếp về những loài vật có hình thù ghê
rợn.
Cuộc soi kiếp cũng giải thích nhiều tâm trạng sợ hãi lạ lùng khác và
truy nguyên ra từ những kiếp trước. Sự sợ hãi bóng tối của một người nọ
được giải thích rằng trong kiếp trước anh ta là một tù chính trị dưới
thời vua Louis XVI và bị giam cầm trong một đài cao ở Pháp cho đến khi
chết bỏ xác trong ngục tối. Một người khác sợ dao bén; đến lúc truy
nguyên ra thì được biết rằng kiếp trước anh ta đã trải qua kinh nghiệm
rùng rợn trong một phòng tra tấn ở Pháp, và đã bị tra khảo bằng những
thứ hình cụ khủng khiếp nhất.
Một người khác có những cơn hoảng sợ bất thần, dường như luôn cảm thấy
rằng ngày tận thế sắp đến! Cuộc soi kiếp truy nguyên sự sợ sệt này ở một
kiếp trước, vào thời kỳ một phần châu Atlantide bị sụp lở chìm xuống đáy
biển. Trong khi đó anh ta đang ngồi một mình trên một ngọn đồi cao để
xem sách, thình lình cơn động đất làm rung chuyển trọn cả vùng chung
quanh như trời long đất lở và anh ta nhìn thấy nước biển dâng lên chung
quanh ngọn đồi của anh ta.
Một người đàn bà kia sợ thú dữ một cách lạ thường. Nguyên nhân được biết
là từ một kiếp trước ở La Mã, chồng bà có tội và bị buộc phải đấu sức
với thú dữ trong đấu trường. Bà đã phải chứng kiến cảnh thú dữ xé xác
chồng sau khi vật chết ông.
Hai người kia sợ nước một cách rất vô lý. Truy nguyên ra thì được biết
rằng kiếp trước họ đi tắm sông bị dòng nước xoáy cuốn đi và chết đuối.
Một người nữa cũng rất sợ nước, được biết rằng trạng thái sợ hãi này là
do trong tiền kiếp vào thời đế quốc La Mã đã bị đắm tàu chết đuối trong
một cơn bão giữa biển.
Khi chúng ta xét kỹ những trường hợp này theo quan điểm tâm lý thông
thường, chúng ta có thể tự hỏi rằng phải chăng tất cả những thí dụ trên
đây cũng có thể được giải thích một cách thỏa đáng bằng cách tìm ra một
nguyên nhân trong kiếp hiện tại. Thí dụ, người đàn bà sợ ngồi trong
phòng kín, có thể đã bị nhốt trong một phòng tối lúc lên bốn tuổi, nhưng
ngày nay cô đã quên mất việc đó.
Do sự khêu gợi trong trạng thái thôi miên, người ta có thể đào xới việc
ấy trong ký ức đã lãng quên từ lâu và nhà tâm lý học có thể căn cứ trên
các yếu tố đó mà hiểu được những vấn đề xúc động thường gây nên các
chứng rối loạn thần kinh.
Nhưng nhiều người đã có những kinh nghiệm cùng loại như trên, vì sao lại
không có sự sợ hãi quá đáng một cách vô lý như vậy? Và tại sao có những
người lại có sự thụ cảm quá đặc biệt so với những người khác? Nếu tất cả
những người đã từng trải qua những cơn xúc động tình cảm đều sợ ngồi
trong phòng kín, thì trên thế gian này những người như thế có lẽ sẽ
nhiều đến nỗi người ta phải đóng cửa tất cả các phòng điện thoại công
cộng, buồng ngủ, những gian phòng độc chiếc, và vài loại hộp đêm, như là
những nơi đe dọa sự thăng bằng của tâm hồn, trí não và sức khỏe công
cộng!
Theo tập hồ sơ Cayce, vấn đề này được giải đáp như sau: Sự kiện một đứa
trẻ tỏ ra thụ cảm hơn một đứa trẻ khác trong một tình trạng xúc động tâm
lý nhất định, có thể là do kinh nghiệm ở một kiếp trước. Hoàn cảnh tạo
ra trong kiếp này chỉ là phương tiện làm khơi dậy cái ấn tượng kinh
khủng đã bị vùi lấp trong ký ức.
Theo thuyết nhân quả chúng ta thấy rằng tiềm thức ví như một kho chứa
sâu thẳm, thực sự sâu hơn những gì người ta nhận biết trong trạng thái
bình thường.
Một vài nhà tâm lý học, đặc biệt là Carl Jung, tin rằng những lớp sâu
thẳm trong tiềm thức cần được xem như những nguyên nhân sâu kín để giải
thích những trạng thái tâm lý khác thường mà người ta không thể giải
thích bằng cách nào khác.
Theo quan điểm của ông Cayce, mỗi người đều có những ký ức tiềm tàng đột
khởi từ một quá khứ xa xăm, do những kinh nghiệm đã trải qua trong tiền
kiếp.
Tất cả những sự sợ hãi, thù ghét, thương yêu và những tình cảm trong vô
thức của một người đều là thành phần trong sản nghiệp tinh thần mà người
ấy tự để lại cho mình, chẳng khác nào người ta tích lũy của cải hôm nay
để dùng trong một ngày về sau.
Con người văn minh tân tiến hôm nay đã từng là con người dã man mọi rợ
trải qua nhiều kiếp trong dĩ vãng, và vì thế, thật là một điều tự nhiên
nếu thấy rằng vẫn còn một vài phần thú tính vẫn còn tồn tại trong con
người. Trong cái dĩ vãng xa xăm đó, chính con người đã từng trải qua
những sợ hãi khủng khiếp trong rừng rậm, và những sự tàn nhẫn độc ác của
cuộc sinh tồn. Vậy cũng là điều tự nhiên nếu như ngày nay thỉnh thoảng
một con người vẫn cảm thấy những cơn sợ hãi bất thường, vô lý và những
nỗi lo âu phiền muộn vô căn cứ.
Khi một người đã từng thương yêu, ghét bỏ hay đố kỵ nhiều người khác mà
người ấy tiếp xúc trong quá khứ, thì lẽ tự nhiên là ngày nay người ấy
cũng cảm thấy đối với chính những người đó, đã cùng đầu thai lại trong
kiếp này, những mối thiện cảm, thương yêu, hay thù hận, ghét bỏ một cách
vô lý và không thể giải thích được lý do.
Những ký ức thuộc về tiền kiếp có thể biểu lộ trong kiếp này bằng những
dấu hiệu khác hơn là những sự sợ hãi hay những trạng thái tâm lý khác
thường.
Ông Cayce đã căn cứ vào thuyết luân hồi để giải thích hiện tượng về
những giấc mộng tái diễn nhiều lần. Một thí dụ lạ lùng về vấn đề này là
của một người đàn bà đưa ra câu hỏi sau đây:
– Tại sao lúc nhỏ tôi thường nằm mộng thấy cảnh tận thế với mây đen bao
phủ và hủy diệt toàn cõi thế gian?
Trong một cuộc soi kiếp, ông Cayce trả lời bà ấy rằng, trong một kiếp
trước ở châu Atlantide, bà ấy là một giáo sĩ kiêm y sĩ, và đã chứng kiến
trận thiên tai kinh khủng nhất làm chôn vùi cả châu này dưới lòng biển
sâu. Ấn tượng rùng rợn đó vẫn còn in sâu trong tâm hồn bà đến nỗi nó
thường xuất hiện trong những giấc ngủ.
Một trường hợp lý thú khác là của một bé gái bốn tuổi thường làm cho mẹ
lo âu vì mỗi đêm đều giật mình thức giấc, khóc la bài hãi một cách vô
cùng sợ sệt. Em bé này có sức khỏe tốt, không bệnh tật gì cả. Mẹ em vì
lo lắng nên viết thư cho ông Cayce để xin ông giải thích về trạng thái
kỳ lạ của em.
Cuộc soi kiếp em bé này cho biết rằng kiếp trước em đã chết bất đắc kỳ
tử trong Thế chiến thứ hai ở Pháp. Nhưng chỉ chín tháng sau em đã đầu
thai trở lại trong một gia đình ở Bắc Mỹ. Khoảng thời gian ngắn ngủi
giữa hai kiếp sống không đủ để làm phai mờ những kỷ niệm rùng rợn về
chiến tranh trong ký ức của em và vì thế nó thường xuất hiện trong giấc
ngủ.
Những trường hợp kể trên không khỏi làm cho chúng ta phải nêu ra câu hỏi
về vấn đề trí nhớ. Nhiều người phản đối thuyết luân hồi thường đưa ra
lập luận này: Nếu có luân hồi, tại sao chúng ta không nhớ lại được những
kiếp trước?
Điều này mới nghe qua thì dường như lạ lùng, nhưng thật ra không lạ gì
nếu chúng ta xét lại rằng, đừng nói là những kiếp trước, mà ngay trong
kiếp này chúng ta cũng không nhớ được hết những việc đã xảy ra từ lúc
còn thơ ấu hay thuở thiếu thời. Trí nhớ của con người là một cái gì rất
mong manh, tinh tế, và những sự việc trôi qua trong đời ta chẳng khác
nào như nước chảy giữa dòng. Cho nên khi nói rằng ta không nhớ một việc
gì, không có nghĩa là việc ấy đã không xảy ra.
Nếu chúng ta hỏi ai đó một câu đại loại như là:
– Anh đã làm gì vào 10 giờ 26 phút sáng ngày 19 tháng 4 năm...?
Chúng ta có thể đem hết cả gia tài để đánh cuộc rằng người ấy không thể
nào nhớ lại từng chi tiết rõ ràng như đã xảy ra vào đúng ngày hôm đó,
chẳng hạn như anh ta đã mặc y phục như thế nào, nói những chuyện gì với
ai .v.v... Nhưng việc anh ta không nhớ rõ các sự việc đã xảy ra không có
nghĩa là anh ta đã không trải qua những giờ phút đó.
Vì thế, sự phản bác thuyết luân hồi bằng lập luận như trên không thể
đứng vững. Trước hết, sự lãng quên là một hiện tượng rất thông thường và
tự nhiên của con người. Sau nữa, trí nhớ có một tính chất đặc biệt là
rất chóng quên phần chi tiết mà chỉ giữ lại phần đại cương của sự việc.
Chẳng hạn, những người có học thức đều biết rằng 7 lần 7 là 49, hoặc
bình phương của 12 là 144. Nhưng người ấy không nhớ rằng anh ta đã trải
qua những giờ mệt nhọc vất vả trong lớp học hồi thuở thiếu thời để học
cách làm những bài toán đó. Nhưng khả năng suy tính và sự thông hiểu
toán pháp vẫn còn tồn tại trong trí óc.
Những sự hiểu biết khác của con người cũng được giải thích bằng cách đó,
chẳng hạn như sự cẩn thận đề phòng khi đứng gần lửa, sự dè dặt và sợ chó
khi bước vào nhà người lạ, khả năng về âm nhạc, khiêu vũ, hay sự thông
hiểu, khéo léo về bất cứ một ngành nào... Việc chúng ta biết đi biết
đứng chứng tỏ rằng có một thời kỳ chúng ta đã tập đứng, tập đi, nhưng
trong một vạn người, không có đến một người nhớ rõ những sự cố gắng vất
vả khó khăn đã trải qua trong thuở ấu thơ để có thể đi đứng tự nhiên
được như bây giờ!
Như vậy, sự lãng quên về phần chi tiết vẫn không làm mất đi trí nhớ về
phần đại cương, và tất cả những khả năng và đức tính của con người trên
phương diện luân lý, trí tuệ, đạo đức tâm linh, đều là sự tổng hợp tất
cả những kinh nghiệm đã trải qua trong tiền kiếp mà ngày nay đã quên mất
những chi tiết.
Lý luận thứ hai mà một số người dùng để phản đối thuyết luân hồi lại
càng tế nhị hơn. Họ cho rằng thật vô lý khi buộc một cá nhân phải chịu
trách nhiệm về những hành động mà một cá nhân khác đã làm. Họ cho rằng
quả báo và sự trừng phạt chỉ có ý nghĩa khi kẻ phạm tội ý thức được và
nhìn nhận tội lỗi của mình.
Trả lời cho lập luận này, ta có thể căn cứ vào sự liên quan giữa cá tính
và tâm thức. Tâm thức là dòng tương tục nối liền giữa các kiếp sống của
một chúng sinh, không hề bị mất đi khi xác thân tan rã. Vì thế, tuy một
người không thể nhớ rõ quá khứ trong tiền kiếp, nhưng điều đó không có
nghĩa là họ đánh mất đi sự liên quan giữa hai kiếp sống. Chính điều này
giải thích việc lưu giữ những kinh nghiệm mà một người đã tích lũy được
trong các kiếp trước. Tâm thức của mỗi người luôn chứa đựng toàn bộ ký
ức về tất cả những sự việc đã xảy ra, nhưng do sự si mê che lấp và bị
cuốn hút theo ngoại cảnh nên ta không thể nhớ lại được, trừ phi ta áp
dụng những phương pháp tu tập đặc biệt làm trong sạch và lắng đọng tâm
thức thì ta mới có thể nhớ lại được những sự việc được lưu giữ trong cái
kho ký ức vô tận của tâm thức.
Ngoài những thí dụ về những trạng thái sợ hãi vô lý và những giấc mộng
tái diễn nhiều lần, người ta còn thấy trong những tập hồ sơ của ông
Cayce những trạng thái tâm lý kỳ lạ khác nữa.
Chẳng hạn như những ảo ảnh ẩn hiện chập chờn, trong nhiều trường hợp
thường được truy nguyên từ những ký ức bất thường từ kiếp trước.
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce cho biết là trong nhiều trường hợp,
một sự rối loạn thần kinh có thể có nguyên nhân hoàn toàn thuộc về thể
chất và sẽ được chữa khỏi một cách dễ dàng bằng các phương tiện sinh lý.
Chúng ta đã thấy trong chương 2 trường hợp của cô thiếu nữ được chữa
khỏi bệnh loạn trí nhờ nhổ một cái răng cấm mọc ngược. Một thí dụ điển
hình khác là trường hợp của một người thư ký bưu điện bỗng nhiên thay
đổi tánh tình một cách khác thường, thình lình trở nên gây gỗ, buồn bực
và hung bạo. Gia đình khuyên anh ta đi khám bệnh và vào bệnh viện để
điều trị. Các y sĩ tuyên bố rằng anh ta bị chứng khủng hoảng thần kinh,
cần phải cho nằm riêng trong một buồng kín.
Người vợ anh ta yêu cầu ông Cayce dành cho một cuộc khám nghiệm bằng
thần nhãn. Kết quả khám nghiệm cho biết anh ta đã bị té ngã nặng từ
nhiều năm về trước, chạm mạnh vào xương mông làm tổn thương tủy sống, và
điều này gây ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thần kinh.
Ông Cayce khuyên người này điều trị bằng phương pháp nắn xương và chạy
điện. Gia đình nghe theo lời. Trong sáu tuần lễ, bệnh nhân đã bình phục
trở lại như thường và trở về nhà.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp loạn trí khác, cuộc khám nghiệm mô tả
rằng bệnh nhân bị ám ảnh do tà khí. Theo những niềm tin truyền thống,
người ta cho rằng một vài chứng bệnh loạn thần kinh có nguyên nhân là vì
“ma nhập”. Trong Kinh Thánh có kể lại chuyện đấng Christ đã đuổi tà ra
khỏi xác của một người điên, và những người theo đạo Gia Tô giáo đều
quen thuộc với việc các vị cố đạo Gia Tô thực hành phép đuổi tà
(exorcisme).
Vấn đề này tự nhiên là hoàn toàn xa lạ đối với khoa tâm lý học hiện đại,
và những nhà chữa bệnh thần kinh ngày nay xem đó như một điều dị đoan đã
lỗi thời. Tuy nhiên, nếu người ta chấp nhận rằng tâm thức con người vẫn
tồn tại sau khi chết ở một dạng vô hình thì không có lý do gì mà không
tin vào những sự ám ảnh, khuấy phá hay gây ảnh hưởng của một tâm thức
đối với một tâm thức khác. Chính những tác động tiêu cực này đã tạo ra
cho nạn nhân nhiều ảnh hưởng không tốt về thần trí, và ông Cayce gọi đó
là “tà khí”.
Để chữa những bệnh tà khí, ông Cayce thường dùng phép điều trị bằng nhân
điện và khuyên bệnh nhân nên kết hợp với sự cầu nguyện và tu tập pháp
tham thiền quán tưởng.
Có một trường hợp người bệnh được chữa khỏi trong khoảng vài tháng, chấm
dứt hẳn sự ám ảnh của những giọng nói thì thầm bên tai đã từng làm cho
người này sợ hãi đến phát bệnh. Trường hợp này là do quả báo gây nên, vì
trong một kiếp trước bệnh nhân này đã dùng tà thuật để ám hại kẻ khác.