Những tiết lộ của ông Cayce về khả năng của con người và sự phát triển
khả năng một cách liên tục từ kiếp này sang kiếp khác có ảnh hưởng rất
sâu xa về phương diện thực tế. Trước hết, điều này cho ta thấy được
những triển vọng vô hạn về sự nỗ lực vươn lên của con người và vai trò
chủ động của mỗi cá nhân trong sự hoàn thiện chính mình.
Theo cách nhận thức này thì điều tất nhiên là năng lực và đức tánh của
mỗi người đều hoàn toàn tùy thuộc vào những cố gắng mà người ấy đã thực
hiện trong quá khứ và đã tích lũy trong kho tàng tâm thức. Nhưng điều
này cũng đúng với những khả năng của mỗi người trong tương lai. Vì cũng
như những khả năng của chúng ta bây giờ là do sự cố gắng tích lũy từ quá
khứ, thì những khả năng mà ta sẽ có trong tương lai cũng phải là do
những cố gắng trau giồi, tu dưỡng của ta trong hiện tại.
Vì thế, những công sức, thời gian và sự khó nhọc mà chúng ta đang bỏ ra
hôm nay sẽ không bao giờ mất đi, mà chắc chắn sẽ mang lại kết quả tương
xứng cho ta trong những kiếp tương lai.
Trên thế gian này luôn có hàng trăm nghìn người dành suốt cuộc đời để âm
thầm cố gắng theo đuổi một chí hướng nào đó, mặc dầu biết chắc rằng
không thực hiện được. Xét theo lối thường tình thì đó thật là một việc
đáng buồn và vô ích. Nhưng sự cố gắng của họ thật ra không phải là hoài
công vô ích nếu ta nhìn vấn đề từ góc độ của thuyết nhân quả luân hồi.
Một ông lão cố gắng vun trồng những khóm hoa trong vườn nhà, có lẽ không
mong ước chiếm giải quán quân về một cuộc thi trồng hoa đẹp; hoặc sẽ
được khen tặng và biểu dương trên những tạp chí nông nghiệp. Tuy nhiên
trong lúc hiện tại, ông ta đang xây đắp mầm mống cho sự hiểu biết về
ngành thực vật học, để rồi trong một kiếp tương lai, nó sẽ đâm chồi nẩy
lộc thành những kiến thức sâu rộng về ngành này và giúp ông ta trở thành
một nhà trồng trọt trứ danh hay một nhà thực vật học uyên bác.
Những cố gắng thô thiển và vụng về của một người đàn bà đứng tuổi đang
tập vẽ tranh, không chỉ là đề tài chế giễu của bạn bè thân quyến trong
gia đình như người ta nhìn thấy, mà chính là những bước đầu tiên trên
con đường hướng đến một trình độ nghệ thuật cao hơn và chắc chắn sẽ giúp
cô trở thành một họa sĩ tài danh vào một kiếp nào đó trong tương lai.
Ông giáo sư âm nhạc trải qua nhiều năm tận tụy với nghề dạy đàn dương
cầm, vẫn cố gắng hành nghề một cách âm thầm, không tên tuổi. Với thời
gian trôi qua, năm tàn tháng lụn, ông không còn nuôi hy vọng trở thành
một nhạc sĩ tài danh nữa, nhưng có lẽ ông ta sẽ tự an ủi nếu biết rằng
mình đang dấn bước trên con đường sự nghiệp vẻ vang trong những kiếp
tương lai.
Nói tóm lại, theo thuyết luân hồi nhân quả thì không có một sự cố gắng
nào là mất đi. Nếu luật nhân quả luôn tác động một cách khách quan và
chính xác để hình thành những quả báo tương xứng cho những hành vi bất
chính, thì nó cũng mang lại phần thưởng xứng đáng cho những ai biết nỗ
lực xây dựng.
Nếu chúng ta thật sự tin tưởng nơi điều rất quan trọng này thì chúng ta
sẽ không bao giờ bị thất vọng trên đường đời. Mỗi giờ phút trôi qua,
chúng ta đều đang tạo dựng tương lai của chính mình. Cái tương lai đó
được tốt đẹp hay không là tùy nơi những cố gắng tốt lành của ta trong
hiện tại, và nếu chúng ta lãng phí thời giờ vô ích để tìm những thú vui
vật chất phù du giả tạm của cuộc đời trần thế thì chắc chắn ta sẽ không
thể mong đợi có một tương lai huy hoàn xán lạn.
Hiểu như thế, người ta sẽ không còn cho rằng giai đoạn cuối cùng của đời
người là một giai đoạn bất lực và vô dụng, chỉ có thể nghỉ ngơi, an phận
và không làm được gì cả. “Tuổi già” hiểu như thế là một sự bi quan và
tiêu cực.
Theo các cuộc soi kiếp của ông Cayce, ở xứ cổ Ai Cập cách đây độ mười
ngàn năm, đời sống trung bình của con người là trên một trăm tuổi. Sự ăn
uống tiết độ, đúng phép vệ sinh, và bí quyết giữ cho tư tưởng được lành
mạnh trong sạch giúp cho con người sống rất lâu, và thậm chí khi tuổi
già họ cũng không đến nỗi run rẩy lụm cụm.
Khoa học hiện đại cũng đã chứng minh điều này. Khoa Tâm bệnh học
(Psychosomatique) cũng khám phá rằng sự già nua một phần lớn do bởi một
bệnh trạng tâm lý của đương sự, theo đó người ta tự nghĩ rằng mình đã là
một người vô ích, vô dụng cho xã hội, và đã đến lúc cần phải được thay
thế bởi những người trẻ. Sở dĩ họ có thái độ đó là bởi vì họ quan niệm
theo “chiều ngang” về cuộc đời, tức là một thói quen hay so sánh mình
với những kẻ khác trên cùng bình diện thời gian và không gian.
Nhưng theo thuyết luân hồi nhân quả thì quan niệm đúng thật về cuộc đời
phải là một quan niệm theo “chiều dọc”. Tự so sánh mình với những người
trẻ tuổi hơn không những là một điều vô lý, mà còn là vô ích vì chúng ta
chỉ hoạt động để tự vươn mình và hoàn thiện chính mình, sự tiến bộ của
chúng ta không phải là sự tương đối so với kẻ khác, mà là sự so sánh với
chính bản thân mình qua từng thời điểm.
Hiểu như thế, ta sẽ không còn thắc mắc ganh tị với những người ở vào một
hoàn cảnh tốt lành và thuận tiện hơn hoàn cảnh của ta trong hiện tại. Sự
ganh tỵ chỉ là một ảo tưởng vật chất. Trên phương diện tâm linh, ta
không ganh tỵ với ai cả. Mỗi người đều tự chịu trách nhiệm về những gì
mình làm và không liên quan gì đến sự tốt đẹp hay xấu xa của người khác.
Dầu sao, nói một cách tích cực thì người già không bao giờ nên tự xem
mình như một phế nhân bên lề xã hội. Trái lại, chính trong sự lắng đọng
và tĩnh lặng của độ tuổi xế chiều mà ta càng nên dành tất cả thời gian
còn lại để trau dồi và tu dưỡng tâm tính, như sự chuẩn bị tích cực nhất
trước khi bước sang một đời sống khác, và nỗ lực học hỏi những điều cao
cả trong đời sống mà trước kia vì bận rộn công việc hoặc vì bổn phận gia
đình mà ta đã không có thời gian để theo đuổi một cách tận tâm và trọn
vẹn.
Nếu một người già có thể ý thức và thực hiện được như vậy, người ấy sẽ
xây đắp nền tảng cho sự tiến bộ tâm linh của mình trong kiếp sau, thay
vì chỉ sống những tháng ngày tẻ nhạt và vô vị cuối cùng trước khi chấm
dứt đời sống. Chỉ xét riêng về điểm này không thôi, rõ ràng quan điểm
luân hồi nhân quả đã có thể mang lại cho ta một sức sống mới và một niềm
vui sống vô biên trong lúc tuổi già mà những ai có cái nhìn giới hạn đời
sống trong một kiếp này thôi sẽ không có được.
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce thường nói rằng, chúng ta nên sống một
cách tích cực và nỗ lực xây dựng cho đến giây phút cuối cùng của đời ta.
Dưới đây là một vài đoạn rất có ý nghĩa đã được ghi lại:
– Anh hãy sống điều độ trong tất cả mọi việc, không nên làm bất cứ điều
gì thái quá. Được như vậy, anh sẽ sống đến trăm tuổi một cách dễ dàng.
Nhưng điều quan trọng hơn là anh sẽ phải sống cách nào để xứng đáng với
tuổi thọ đó. Anh làm được những gì cho người khác? Nếu anh không làm
được gì để giúp đỡ người khác, thì sự sống của anh chẳng có ý nghĩa gì
khác hơn là chỉ làm chật đất!
Hỏi: Tôi phải làm sao để tự chuẩn bị cho lúc tuổi già?
Đáp: Cô hãy tự chuẩn bị ngay từ lúc này, rồi tuổi già sẽ giúp cho cô
khôn ngoan già dặn hơn nữa. Hãy tỏ ra dịu dàng, khả ái và biết thương
yêu mọi người. Như thế, tâm hồn cô sẽ được trẻ trung mãi mãi...
Hỏi: Tôi phải làm gì để không cảm thấy cô đơn khi tuổi già sắp đến?
Đáp: Anh hãy bắt tay ngay vào một việc gì đó để giúp đỡ người khác. Hãy
làm cho người khác được vui vẻ hạnh phúc, và hãy tự quên mình để giúp đỡ
mọi người quanh ta. Mối liên hệ được tạo ra giữa cá nhân và cộng đồng sẽ
giúp anh không còn sợ sệt lo âu về những gì có thể xảy đến cho mình và
sẽ không cảm thấy buồn chán, cô đơn.
Hỏi: Tôi phải làm gì để được yên ổn trong lòng và tìm thấy sự an tịnh?
Đáp: Anh hãy tận tình giúp đỡ người khác. Hãy quyết định mỗi ngày phải
làm một điều thiện nào đó, cho dù rất nhỏ, hoặc nâng đỡ cho những ai cần
đến mình, cho dù đó là người chưa quen biết. Chẳng hạn, anh có thể viếng
thăm một người bệnh và trò chuyện an ủi họ. Sự quan tâm thực sự đến
người khác sẽ giúp anh thấy trong lòng yên ổn, không có gì cần phải thắc
mắc, nghĩ ngợi, lo âu.
Như vậy đời sống của chúng ta mới trở nên thực sự có ý nghĩa và bất cứ
lúc nào ta cũng biết chắc rằng mình đang tích lũy được một điều gì đó
tốt đẹp hơn cho những kiếp sống tương lai. Hiểu được chân lý đó, người
ta sẽ không còn có sự ganh tị đối với kẻ khác, vì sự ganh tị là một điều
vô ích, không mang đến cho ta bất cứ kết quả tốt đẹp nào.
Triết gia Emerson nói: “Sẽ có lúc người ta nhận định rằng thói ganh tị
là do sự ngu dốt mà ra.”
Điều ấy rất đúng, nhưng nó chỉ được hiểu rõ nhất khi ta hiểu và tin vào
luật nhân quả. Những kẻ ganh tị là những người không biết rằng bất cứ
điều gì người khác làm được ta cũng có thể làm được; tất cả những gì
người khác có được, như sắc đẹp, tài năng, danh vọng, giàu sang, đức
hạnh, v.v... ta cũng có thể có được, chỉ cần ta thực sự cố gắng làm
những việc tốt lành để gieo nhân mà thôi. Kết quả tốt đẹp chắc chắn sẽ
tự nó tìm đến.
Một thái độ xử thế thích nghi về điểm này đã được diễn tả trong cuộc đời
của nhạc sĩ trứ danh Paganini. Người ta thuật lại rằng nhạc sĩ này có
lần bị hai năm tù vì mắc nợ không trả được. Trong khi bị giam, hằng ngày
ông vẫn chơi một cây đàn vĩ cầm cũ, chỉ có ba dây. Sau khi được ra tù,
ông trình diễn đàn vĩ cầm trước công chúng với một ngón đàn tuyệt diệu
hơn trước, làm cho cử tọa phải ngạc nhiên về tài nghệ xuất chúng của
ông.
Ngón đàn đặc biệt của ông là mỗi khi đến những đoạn nhạc khó khăn nhất
thì ông bèn cắt đứt sợi dây dưới của cây đàn vĩ cầm và tiếp tục kéo đàn
chỉ có ba dây! Ngón đàn tuyệt luân này, ông đã học được trong thời gian
hai năm ngồi tù. Việc bị giam cầm là một điều chướng ngại khó khăn và là
một nghịch cảnh, nhưng Paganini đã phản ứng một cách tích cực chứ không
thối chí hay thất vọng.
Ngày nào con người còn sống giữa thế gian thì chắc chắn vẫn còn có những
nghịch cảnh do quả báo đưa đến. Nhưng chúng ta không nên để cho nghịch
cảnh đè bẹp hoặc làm cho ta điêu đứng khổ sở; mà trái lại, ngay trong
những nghịch cảnh chúng ta cũng vẫn có thể vui sống với một niềm hy vọng
và lạc quan.
Khi nghịch cảnh xảy đến không thể tránh khỏi, chúng ta có thể chấp nhận
nó một cách kiên nhẫn, can đảm và vui vẻ; và như thế chính là ta đang
xây đắp nền tảng cho sự thành công vẻ vang trong tương lai.