Tương truyền rằng thời xưa, ở trong biển lớn phía đông của Phổ Đà Sơn có
một hải đảo với phong cảnh diệu kỳ, trên bờ thì trăm chim thi nhau ca
hót, dưới biển thì cá tôm bơi lội thành đoàn, trai thì bắt cá, gái thì
đan lưới, tất cả đều sống một đời sống tự do tự tại nên được gọi là đảo
Bồng Lai.
Đến một năm nọ, có một ông vua tham lam hung ác lên ngôi trị vì, muốn
xây hoàng cung nên nay thì bức bách dân chúng phải lên núi đốn cây đập
đá, mai thì ức hiếp trăm họ bắt xuống biển sâu mò san hô, ngọc trai...
Nếu có ai tỏ ý phản kháng thì nhẹ nhất cũng bị roi đòn, nặng hơn thì
chém đầu. Từ đấy chim muông bay đi hết, cá tôm cũng bỏ trốn, và trăm hoa
đều tàn tạ. Dân chúng không chịu đựng nổi những khổ nạn như thế nữa nên
cũng rầm rộ kéo nhau đi tìm đất khác mà nương thân.
Vua thấy như vậy thì nổi trận lôi đình, sai một đại tướng quân dẫn binh
đi bắt dân chúng phải trở lại, đồng thời phải tìm chim, cá và hoa tươi
mang về đảo. Đại tướng quân nọ lên tàu lênh đênh trên biển cả tìm kiếm
khắp nơi nhưng chẳng kiếm được gì.
Một hôm, đại tướng quân đột nhiên thấy trên mặt biển xa xa có một hòn
đảo nhỏ, bầu trời ở phía trên hòn đảo ấy lác đác những đám mây ngũ sắc,
ráng trời đủ màu chói sáng cả mắt. Ông vội vàng giương buồm, cho tàu
chạy mau về nơi ấy. Lên đảo hỏi han rồi mới biết đây là Phổ Đà Sơn.
Ông thấy trên đảo cây cao chọc trời tỏa hương ngào ngạt, trăm hoa nở rộ,
từng bầy chim tung bay xòe cánh khoe màu, tranh nhau hót líu lo. Bên
cạnh biển xanh thì cát vàng óng ánh, trúc tím thành rừng, và dưới đất
thì có những búp măng non vàng ngậy hấp dẫn.
Đại tướng quân mừng quá chạy xồng xộc vào rừng trúc tím lắc những búp
măng hấp dẫn ấy để kéo chúng lên. Nhưng lắc tới lắc lui, lắc đến mồ hôi
ướt đẫm cả lưng mà búp măng không hề suy suyển, ông tức qua xoay qua nhổ
trúc tím, nhổ tới nhổ lui, nhổ tới đau lưng mỏi tay mà trúc tím không hề
lay động.
Đại tướng quân tức giận quá độ, “xoẹt” một tiếng rút dao ra bổ bên phải,
chém bên trái, “phập, phập, phập”, chém vào măng vàng, măng vàng bắn ra
những ngôi sao chói lọi, bổ vào trúc tím, trúc tím tóe ra những tia sáng
rực rỡ. Ông đã dùng hết sức lực mà măng vàng chém không đứt, trúc tím bổ
không ngã, mệt quá bèn ngồi bệt xuống đất thở phù phù.
Ở đầu bên kia của rừng trúc tím có một ni cô đang ngồi giặt áo. Khi cô
nghe tiếng dao chém vào thân trúc thì đứng dậy hỏi:
– Ai chém thần trúc loạn lên vậy?
Đại tướng quân hướng theo âm thanh tiếng nói mà nhìn thì thấy một ni cô
vô cùng xinh đẹp, bèn bước tới gần gân cổ lên hét:
– Ta là đại tướng quân của vua đảo Bồng Lai sai đến đây tìm kỳ hoa dị
thảo, phượng hoàng chim chóc đem về!
Ni cô nói:
– Núi này là thánh địa, là đất Phật, dẫu một nhánh cây hay một cọng cỏ
cũng được tưới tẩm bằng nước cam lồ, xin ông đừng xúc phạm vào lề lối
nhà Phật!
Đại tướng quân cười gằn:
– Lề lối nhà Phật cái gì? Quốc vương đã tuyền lệnh hoa nào tươi đẹp
nhất, cô nương nào diễm lệ nhất cũng đều phải đem về cống hiến lên cung
vua. Một cô gái đẹp như cô chắc chắn sẽ làm cho quốc vương vừa lòng lắm
đấy!
Ni cô nào có ai khác lạ, chính là hóa thân của Bồ Tát Quán Âm. Ngài thấy
ông đại tướng quân vô lễ quá, hơi bực mình bèn nhổ trên đầu mình một sợi
tóc đen nhánh, đặt xuống một khối đá bằng phẳng và nói:
– Nếu ông nhặt được sợi tóc này lên thì trăm loài chim muông trong rừng
này ông đều có quyền lựa, trăm loài hoa tươi trên núi ông đều có quyền
hái.
Đại tướng quân nghe thế thì ôm bụng cười ngất:
– Ta có sức mạnh nhấc được ngàn cân, xá gì một sợi tóc cỏn con như vậy!
Một sợi tóc như vậy mà nhặt không lên thì sao gọi là đại tướng quân!
Không nói thêm lời nào, ông đưa tay ra nhặt. Nhưng bàn tay của ông
thô kệch như cán xẻng, bốc tới bốc lui mà nhặt không lên khiến ông nóng
nảy mồ hôi dầm dề.
Ngài Quán Âm đứng một bên lạnh lùng nhìn, lúc ấy mới thổi nhẹ một hơi,
sợi tóc nọ vờn bay lên trước mặt đại tướng quân, bay thẳng lên đầu Ngài
trở lại.
Đại tướng quân mở banh hai con mắt to như cái chén uống rượu, hoảng hốt
nói:
– Cái này không tính! Tay ta hơi lớn mà sợi tóc thì quá nhỏ nên ta mới
nhặt không lên!
Ni cô cười một cách châm biếm, chỉ một bồn nước rửa chân sơn màu vàng
óng ánh trên mặt đất mà nói:
– Nếu ông có thể bưng được bồn nước này lên mà không đổ nước ra ngoài
thì trăm loài chim muông trong rừng này ông đều có quyền lựa, trăm loài
hoa tươi trên núi ông đều có quyền hái.
Tên đại tướng quân ngây thơ liếc xéo ni cô một cái rồi mừng rỡ trở lại,
nghĩ bụng rằng bồn nước rửa chân bé nhỏ như thế làm gì mà đại tướng quân
ta không bưng lên nổi!
Ông không thèm nói lời nào, đưa tay ra bưng.
Nào ngờ bồn nước rửa chân sơn vàng này vừa trơn vừa bóng, nếu ông quá
dùng sức với tay phải thì nước sẽ đổ xuống hết qua bên trái, còn nếu quá
dùng sức với tay trái thì nước sẽ đổ hết lên tảng đá. Ông tìm thế bưng
tới bưng lui mà nước cứ tròng trành một cách nguy hiểm. Ông đỏ mặt tía
tai, tròng mắt lòi ra ngoài mà chỉ bưng bồn nước lên tới lưng bàn chân,
lên cao hơn nữa thì không nổi.
Bồ Tát Quán Âm thấy bộ dạng lố bịch của ông ta bất giác cười phì một
tiếng. Nghe tiếng cười, đại tướng quân ngước mặt lên nhìn, người ni cô
ban nãy không còn nữa mà đứng trước mặt ông là Bồ Tát Quán Âm, với chuỗi
anh lạc đầy người, phóng ánh sáng huyền diệu. Ông sợ quá sững cả người,
hai tay run bần bật, hai chân mềm nhũn, “bình” một tiếng, ông quỵ xuống,
nguyên cái đầu ụp vô chậu nước rửa chân. Vị đại tướng quân đần độn ấy
kinh hãi ú ớ muốn kêu lên nên bị uống mấy hớp nước lạnh.
Ngài Quán Âm đưa chân ra nhẹ khều chậu nước, cả đại tướng quân cả chậu
nước đều bị lật ngửa. Mà lạ thay, nước trong chậu sao chảy hoài không
ngừng, càng chảy càng mạnh, chẳng mấy chốc như cả vạn thác nước đổ xuống
biển Đông. Trong chớp mắt thủy triều dâng cao lên, cuồng phong đẩy những
ngọn sóng lên thật cao rồi “ầm” một tiếng, đổ xuống cung điện ở đảo Bồng
Lai.
Ngay lúc ấy nhà vua đang vui hưởng ngũ dục trong một buổi yến tiệc linh
đình với rượu ngon thịt béo, bỗng nhiên thấy cuồng phong rồi nước biển
ào ạt đổ xuống, những ngọn sóng khổng lồ cuốn sập bức tường rào xung
quanh cung điện. Nhà vua sợ quá há hốc miệng, các đại thần cũng sợ quá
ôm đầu chạy trốn, tạo nên một cảnh vô cùng hỗn loạn. Thủy triều mỗi lúc
mỗi to, mỗi lúc một cao, thêm một tiếng động long trời lở đất, ngọn sóng
thần đã nhận chìm cả cung điện xuống đáy đại dương mênh mông.
Ông vua tàn ác đã theo cung điện của mình chìm xuống đáy biển. Cái chậu
rửa chân sơn vàng ban nãy biến thành một con tàu lớn, cứu vớt dân lành
đáng thương trên đảo Bồng Lai, nương theo gió rẽ sóng lướt đến gần Phổ
Đà Sơn rồi thoắt biến thành một hòn đảo. Dân chúng xây nhà đắp vườn trên
hòn đảo này, và sinh sôi nảy nở tạo lập một cuộc sống mới.
Bởi vì hòn đảo này do một con tàu biến thành nên người dân di cư đến đấy
đặt tên cho nó là “Châu Đảo”.