Kẻ hung dữ hại người cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt. Nước bọt ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống chính mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Dầu nói ra ngàn câu nhưng không lợi ích gì, tốt hơn nói một câu có nghĩa, nghe xong tâm ý được an tịnh vui thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 101)
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Chư Kinh Yếu Tập [諸經要集] »» Bản Việt dịch quyển số 4 »»

Chư Kinh Yếu Tập [諸經要集] »» Bản Việt dịch quyển số 4

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 1.06 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 1.29 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Thiện Ác Nghiệp Báo

Kinh này có 20 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 |
Việt dịch: Nguyên Trang

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Chủ biên: Thích Nguyên Chơn
IV. NHẬP ĐẠO
IV.1. Lời dẫn
Trộm nghĩ, nhân duyên giả hữu là gốc chấp trước của chúng sinh, các pháp vốn chẳng sinh là lí vi diệu của bậc thánh. Do đó, chúng sinh trong ba cõi, sáu đường luôn tạo nghiệp chướng mà tự mê muội; bậc Bát giải[26], Thập trí[27] đạt đến cội nguồn mà được rỗng lặng. Vì thế, Đức Phật tùy duyên giáo hóa, thương nhà lửa đang bốc cháy, xót cõi Dục mãi mịt mù. Cho nên, Ngài nương vào cung vua Tịnh Phạn thị hiện thân màu vàng ròng; ở trong chốn đầy phiền não mà hiện sắc hình giả huyễn, rồi dạo chơi bốn cửa thành, lại nhàm chán cảnh đời như mây trôi chẳng bền vững, Ngài tự than thở: “Đời người đổi thay bất chợt đến như thế!”. Thế rồi, chư thiên nâng ngựa trắng vượt thành, Xa-nặc mang mão báu về cung khuyết, Ngài đã vứt bỏ tất cả để đi tìm chân lí như thế!
Tuy ở Trung Quốc đời Tần có Tiêu Sử[28], đời Chu có Tử Tấn[29], đời Nghiêu Thuấn có Hứa Do rửa tai ở Ky Sơn, Trang Chu sống an bần thủ đạo ở Bộc Thủy, họ đều từ bỏ thế tục như thế, nhưng đâu có ai khinh thường? [28b] Ngược lại, còn có người ngưỡng mộ đức của họ mà bỏ ác để tu thân, khâm phục phong thái của họ mà giữ mình trong sạch để tu thiện. Cho nên, để thành tựu chí nguyện, mà phải hủy hoại dung mạo, cạo bỏ râu tóc; để lĩnh hội đạo cả, mà phải lìa xa thế tục, từ bỏ ngôi vua; tuy thân không phụng dưỡng cha mẹ, nhưng lòng luôn hiếu thảo; dù không trọn lễ thờ vua, nhưng lòng thường nhớ nghĩa. Ân huệ thấm đượm cả oán thân để thành tựu đại pháp; phúc trạch gội nhuần hai cõi âm, dương, đâu câu nệ lỗi nhỏ nhặt!
Bậc thượng trí y theo lời Phật nên được lợi ích, hàng phàm phu phụ lời Ngài nên bị tổn hại. Trừng ác thì kẻ buông lung tự sửa đổi, khuyến thiện thì cảm hóa được mọi người. Cho nên, rừng Tiên[30] là nơi Thái tử xuất gia, dòng Ni-liên là chốn Bồ-tát tu khổ hạnh. Ngài tắm gội thân vàng trong dòng sông thanh tịnh, đến ngồi tòa cỏ nơi cội bồ-đề ở đạo tràng, thức ăn nhờ cô gái phụng cúng, tòa cỏ được người hiến dâng. Thế mà trí thập lực viên mãn, đầy đủ sáu thần thông, thành đạo Chính giác, quân ma cuốn cờ bỏ chạy.
IV.2. Ưa thích và nhàm chán
Kinh Văn-thù vấn ghi: “Đức Phật bảo:
- Này Văn-thù-sư-lợi! Tất cả các công đức đều không bằng công đức của người xuất gia. Vì sao? Vì người tại gia có vô số khiếm khuyết, còn người xuất gia có vô số công đức; người tại gia có chướng ngại, người xuất gia không có chướng ngại; người tại gia ở chốn trần lao nhiễm ô, người xuất gia không ở chốn trần lao nhiễm ô; người tại gia chìm đắm trong bùn lầy tham dục, người xuất gia ra khỏi bùn lầy tham dục; người tại gia theo phép tắc của người ngu, người xuất gia xa lìa phép tắc của người ngu; người tại gia không giữ được chính mạng, người xuất gia sống đúng chính mạng; người tại gia ở nơi lo âu buồn bã, người xuất gia ở nơi an lạc vui vẻ; người tại gia ở nơi trói buộc, người xuất gia ở nơi giải thoát; người tại gia ở nơi có sự tổn hại, người xuất gia ở nơi không có tổn hại; người tại gia khổ vì tham lợi, người xuất gia không khổ vì tham lợi; người tại gia ở nơi ồn ào, người xuất gia ở nơi vắng lặng; người tại gia ở nơi thấp hèn, người xuất gia ở nơi cao quý; người tại gia bị phiền não thiêu đốt, người xuất gia trừ được lửa phiền não; người tại gia thường làm theo ý người khác, người xuất gia luôn sống vì chính mình; người tại gia lấy khổ làm vui, người xuất gia lấy việc lìa khổ làm vui; người tại gia tăng trưởng phiền não, người xuất gia thường diệt trừ phiền não; người tại gia thành tựu pháp nhỏ, người xuất gia thành tựu pháp lớn; người tại gia không có pháp yếu[31], người xuất gia có pháp yếu; người tại gia bị hàng tam thừa chê trách, người xuất gia được hàng tam thừa khen ngợi; người tại gia sống không biết đủ, [28c] người xuất gia sống thường biết đủ; người tại gia bị ma vương luyến nhớ, người xuất gia làm ma vương sợ hãi; người tại gia phần nhiều buông lung, người xuất gia không buông lung; người tại gia làm tôi tớ cho người, người xuất gia sai khiến người khác; người tại gia ở nơi tối tăm, người xuất gia ở nơi sáng sủa; người tại gia tăng trưởng kiêu mạn, người xuất gia diệt trừ kiêu mạn; người tại gia được ít phúc báo, người xuất gia được nhiều phúc báo; người tại gia phần nhiều tâm tà vạy, người xuất gia tâm ngay thẳng; người tại gia thường lo lắng đau khổ, người xuất gia trong lòng vui vẻ; người tại gia lòng hay dối gạt, người xuất gia sống đời chân thật; người tại gia nhiều tán loạn, người xuất gia không tán loạn; người tại gia lưu chuyển trong sinh tử, người xuất gia không lưu chuyển trong sinh tử; đời tại gia như thuốc độc, hạnh xuất gia như cam lồ; người tại gia không biết tư duy, người xuất gia biết tư duy; người tại gia không nơi nương tựa, người xuất gia có nơi nương tựa; người tại gia nhiều giận hờn, người xuất gia thường thực hành từ bi; người tại gia có gánh nặng, người xuất gia buông bỏ gánh nặng; người tại gia có lỗi lầm, người xuất gia không có lỗi lầm; người tại gia mãi chịu sinh tử, người xuất gia có lúc đoạn dứt sinh tử; người tại gia lấy tài vật làm của báu, người xuất gia lấy công đức làm của báu; người tại gia thuận dòng sinh tử, người xuất gia ngược dòng sinh tử; người tại gia như ở trong biển lớn phiền não, người xuất gia như cưỡi con thuyền lớn; người tại gia bị phiền não trói buộc, người xuất gia xa lìa phiền não trói buộc; người tại gia nhận sự dạy dỗ của vua, người xuất gia được Phật giáo hóa; người tại gia kết bạn tùy tiện, người xuất gia kết bạn nghiêm túc; người tại gia hay gây tổn hại, người xuất gia hay giúp đỡ; người tại gia tăng trưởng phiền não, người xuất gia xa lìa phiền não; người tại gia như ở trong rừng gai, người xuất gia như đã ra khỏi rừng gai.
Này Văn-thù! Nếu Ta chê trách người tại gia, khen ngợi người xuất gia, dù lời nói đầy hư không cũng không kể hết. Đây chính là nói khiếm khuyết của người tại gia và công đức của người xuất gia”.
Lại nữa kinh Niết-bàn ghi: “Người tại gia bị ép ngặt như ở trong tù ngục, tất cả phiền não nhân đó sinh ra. Người xuất gia thong dong như ở nơi trống trải, tất cả pháp lành nhân đó tăng trưởng. Người tại gia, trong thì lo nghĩ vợ con, ngoài thì phải rong ruổi phục dịch cho vua. Nếu là người giàu sang cao quý thì buông lung bừa bãi; nếu người nghèo khổ, hèn hạ thì đói rách, chán nản. Tất cả họ đều bị việc công, việc tư quấy nhiễu, nên ngày đêm cứ đau đáu, bị mọi việc lôi kéo, đâu rảnh mà tu tập”.
[29a] Lại nữa, Kinh Úc-già trưởng giả ghi: “Người tại gia rất nhiều phiền não: bị tình thương yêu của cha mẹ, vợ con trói buộc, thường suy nghĩ tham cầu tiền của, sắc đẹp không biết chán; cầu được rồi lại lo giữ gìn, tăng thêm nhiều lo âu. Thế nên, họ mãi lưu chuyển trong sáu đường ác, xa lìa Phật pháp. Nên khởi tưởng như là oan gia, bạn ác, nên nhàm chán đời sống tại gia, phát tâm xuất gia. Không có người tại gia nào tu tập đạo Vô thượng bồ-đề, tất cả đều nhờ xuất gia mới chứng quả Vô thượng”.
Lại nữa, kinh Xuất gia công đức ghi: “Nếu cho phép tớ gái, tôi trai, hoặc thứ dân xuất gia thì được công đức vô lượng. Nếu có người suốt một trăm năm cúng dường các vị a-la-hán trong khắp thiên hạ, không bằng cúng dường cho một người an trụ Niết-bàn. Một ngày một đêm xuất gia thụ giới thì được công đức vô lượng. Lại nữa, nếu có người dùng bảy báu xây tháp cao đến cõi trời Ba Mươi Ba[32] thì công đức ấy không bằng công đức của người xuất gia”.
Kinh Đại duyên ghi: “Nếu có người một ngày một đêm xuất gia thì trong hai mươi kiếp không rơi vào ba đường ác”.
Luật Tăng-kỳ ghi: “Người một ngày một đêm xuất gia tu Phạm hạnh thì sáu trăm sáu nghìn sáu mươi năm xa lìa cảnh khổ trong ba đường ác”.
Kinh Xuất gia công đức cũng ghi: “Nếu có ai làm khó, gây cản trở, chèn ép không cho người xuất gia, thì người này đã đoạn mất hạt giống Phật, thân sẽ phải chịu nhiều điều xấu, đời hiện tại phải mắc bệnh cùi, sau khi chết sẽ vào địa ngục tối tăm không có ngày ra”.
Lại nữa, kinh Ca-diếp ghi: “Bấy giờ, nghe dạy công đức xuất gia rất sâu rộng, đức vua và thái tử đều phát tâm xuất gia. Sau đó, tất cả nhân dân trong bốn thiên hạ cũng đều phát tâm cầu xin xuất gia. Sau khi xuất gia, họ không cần trồng trọt, mà từ đất tự nhiên sinh các loại lúa gạo, từ cây cối tự nhiên sinh ra quần áo, được tất cả chư thiên cung kính cúng dường”.
Lại nữa, kinh Phật tạng ghi: “Nên nhất tâm tu tập, thực hành theo chính pháp, chớ nghĩ nhớ việc ăn mặc. Về những món cần dùng, nên biết chỉ cần từ một phần tướng lông trắng của Đức Như Lai hiện ra, tất cả đệ tử xuất gia trong thời mạt pháp cũng không bao giờ dùng hết”.
Kinh Hiền ngu ghi: “Ví dụ có một thầy thuốc giỏi cùng lúc trị lành mắt cho một trăm người mù và một người cứu được một trăm kẻ thoát khỏi tội bị móc mắt. Hai người này phúc đức tuy vô lượng nhưng vẫn không bằng phúc đức cho phép người được xuất gia, cho đến tự mình xuất gia; công đức ấy thật to lớn”.
IV.3. Xuất gia
[29b] Người muốn xuất gia, theo luật, trước hết phải thỉnh hai thầy: một, hòa thượng; hai, a-xà-lê (pháp thỉnh đúng như luật).
Luận Tát-bà-đa ghi: “Trước hết, phải thỉnh hòa thượng. Khi đệ tử đang thụ mười giới, hòa thượng vắng mặt thì đệ tử cũng đắc giới. Nếu đệ tử nghe biết hòa thượng mất thì không đắc giới, nếu không nghe tin hòa thượng mất thì đắc giới. Trường hợp a-xà-lê cũng giống như vậy”.
Lại nữa, kinh Thanh tín sĩ độ nhân ghi: “Nếu người muốn cạo tóc, trước hết phải đến chỗ cạo tóc lấy nước thơm rảy trên mặt đất chu vi khoảng bảy thước, treo phan ở bốn góc, xếp một chỗ cao để người cạo tóc ngồi và đặt hai tòa cao đẹp hơn cho hai thầy ngồi. Người muốn xuất gia phải mặc áo quần thế tục, lạy từ biệt cha mẹ, người thân, rồi đọc bài kệ:
Xoay vần trong ba cõi,
Ái ân không thể cởi.
Bỏ ân ái, vào đạo,
Là báo ân chân thật.
Nói kệ xong, người ấy liền cởi bỏ áo quần thế tục”.
Luận Thiện kiến ghi: “Trước khi xuất gia, nên dùng nước thơm tắm gội sạch sẽ để trừ hơi cư sĩ”.
Kinh Độ nhân ghi: “Tuy người mới xuất gia được mặc y phục xuất gia, nhưng chỉ được mặc quần và áo ngắn, chưa được đắp ca-sa. Khi vào giới trường, người mới xuất gia nên đến quỳ thẳng trước hòa thượng. Hòa thượng phải xem đệ tử như con, không được ghét, hoặc khinh rẻ. Đệ tử phải xem hòa thượng như cha, luôn cung kính cúng dường. Sau khi nghe hòa thượng nói giới pháp và khuyên răn xong, đệ tử phải đến ngồi trước mặt a-xà-lê”.
Luận Thiện kiến ghi: “A-xà-lê rưới nước thơm trên đầu đệ tử và đọc bài kệ:
Lành thay! Đại trượng phu,
Biết rõ đời vô thường,
Bỏ tục, hướng niết-bàn,
Ít có, khó nghĩ lường.
Đọc kệ rồi, a-xà-lê dạy đệ tử lạy mười phương chư Phật và nói kệ khen ngợi:
Quy y đấng Thế Tôn,
Hay cứu khổ ba cõi,
Và nguyện các chúng sinh,
Cùng hưởng vui niết-bàn.
Sau đó, a-xà-lê cạo tóc cho người ấy”.
Kinh Độ nhân ghi: “Khi a-xà-lê cạo tóc cho đệ tử, các thầy tôn chứng ở bên cạnh đọc bài kệ xuất gia:
Hủy hình giữ chí hướng,
Cắt ái, lìa người thân,
Xuất gia hoằng Thánh đạo,
Thệ độ các chúng sinh.
Khi cạo tóc, a-xà-lê nên chừa lại một ít tóc trên đầu đệ tử. Sau đó, đệ tử đến quỳ thẳng trước hòa thượng. Hòa thượng bảo:
- Nay ta cạo tóc trên đầu của ông được không?
Đệ tử đáp:
- Dạ được.
Cuối cùng, hòa thượng đắp ca-sa cho đệ tử. Khi đắp ca-sa, theo luận Thiện kiến, lại đọc bài kệ tán thán:
[29c] Đẹp thay! Áo giải thoát,
Áo ruộng phúc không tướng,
Khoác rồi giữ nghiêm giới,
Độ khắp các chúng sinh”.
Kinh Độ nhân ghi: “Sau khi đắp ca-sa, người mới xuất gia phải lễ Phật. Người tại gia đi theo phía sau người ấy nhiễu Phật ba vòng. Người ấy sung sướng, nói kệ:
Tình cờ được gặp Phật,
Người nào lại không vui,
Phúc nguyện đúng thời gặp,
Nay ta được lợi pháp.
Sau khi lễ Phật, lễ tăng chúng và hai thầy, người mới xuất gia đến ngồi ở hàng cuối, nhận lễ mừng của gia đình và họ hàng. Người ấy được xuất gia, lìa xa thế tục, đã vui vẻ, lại còn được cha mẹ và người thân chúc mừng, nên đạo tâm càng phấn khởi. Trước khi cạo tóc nên ăn chay là tốt nhất”.
Luận Tì-ni mẫu ghi: “Sau khi cạo tóc và mặc ca-sa, người mới xuất gia được hòa thượng truyền tam qui và ngũ giới”.
(Ngoài ra, còn những phép tắc khác, không thể trình bày hết được, ngay lúc ấy châm chước mà làm để cho tốt thì càng hay).
IV.4. Dẫn chứng
Kinh Tạp bảo tạng ghi: “Ngày xưa, có một người đàn bà rất xinh đẹp xuất gia tu theo ngoại đạo. Một hôm, có người hỏi:
- Bà xinh đẹp như vậy, lẽ ra phải sống đời thế tục, tại sao lại xuất gia?
Bà ấy đáp:
- Đến nay, tuy tôi vẫn còn xinh đẹp, nhưng thời gian gần đây tôi chán ghét sự dâm dục, do đó, tôi xuất gia. Lúc còn tại gia, vì xinh đẹp, nên tôi phải sớm lấy chồng, sinh một đứa con trai. Con tôi lớn lên xinh đẹp vô cùng, nhưng dần dần, nó bỗng gầy yếu như người bị bệnh. Tôi hỏi nguyên do, nó không chịu nói. Tôi hỏi mãi, nó bất đắc dĩ mới nói: “Cứ im ỉm không nói thì e rằng con sẽ chết. Nhưng con chẳng có mặt mũi nào mà nói ra. Bởi vì con muốn quan hệ tình dục với mẹ mà không được, nên con sinh bệnh thôi”. Tôi bảo nó: ‘Từ xưa đến nay, đâu có việc ấy’. Song tôi lại nghĩ rằng nếu tôi không làm theo ý con thì nó sẽ chết, thà nay tôi làm trái đạo lí để nó được sống. Tôi liền bảo nó cứ làm theo ý nó muốn. Khi nó định lên giường, mặt đất bỗng nứt ra, nó rơi ngay vào địa ngục. Tôi sợ hãi, nhanh tay kéo nó, nhưng chỉ túm được một nắm tóc của nó, đến nay tôi vẫn còn cất giữ. Quá đau lòng vì việc ấy, nên tôi xuất gia”.
Luận Trí độ ghi: “Người xuất gia trong Phật pháp dẫu có phá giới, mắc tội, nhưng khi tội hết, vẫn được giải thoát. Như tì-kheo-ni Ưu-bát-la Hoa mà kinh Bản sinh nói đến. [30a] Vào thời Phật còn tại thế, tì-kheo-ni này chứng được quả A-la-hán, có sáu thần thông. Mỗi khi vào các nhà sang trọng, vị này thường khen ngợi pháp xuất gia và bảo với phụ nữ ở nhà ấy:
- Các chị em nên xuất gia.
Các phụ nữ sang trọng nói:
- Chúng tôi đang trẻ trung, khỏe mạnh, dung mạo xinh đẹp, khó giữ được giới, sẽ phá giới mất.
Tì-kheo-ni bảo:
- Phá giới thì phá, cứ hãy xuất gia đi.
Họ hỏi:
- Phá giới thì sẽ đọa địa ngục, làm sao phá được?
- Đọa địa ngục thì đọa.
Các phụ nữ ấy cười và hỏi:
- Đọa địa ngục phải chịu tội thì làm sao dám đọa được?
Tỳ-kheo-ni bảo:
- Nhớ lại kiếp trước, ta làm nghệ sĩ nữ, đã mặc nhiều kiểu y phục và nói đủ thứ ngôn từ. Có lần ta mặc y phục của tì-kheo-ni để cười đùa, song nhờ nhân duyên ấy, đến đời Phật Ca-diếp ta được làm tì-kheo-ni. Bấy giờ, tự cậy mình xinh đẹp và là con nhà giàu sang, nên ta đã kiêu căng và phá giới cấm. Vì thế, ta bị đọa địa ngục chịu nhiều tội khổ. Sau khi chịu tội xong, ta được gặp Phật Thích-ca Mâu-ni cho xuất gia và chứng được quả A-la-hán. Tuy đời trước phá giới, nhưng đời này ta cũng chứng được đạo quả.
Hơn nữa, khi Phật đang ở tinh xá Kì-hoàn, có một người bà-la-môn say rượu đến chỗ Phật xin xuất gia làm tì-kheo. Phật sai ông A-nan cạo tóc và mặc pháp y cho người ấy. Sau khi tỉnh rượu, người ấy sợ hãi khi thấy mình bỗng trở thành tì-kheo, liền bỏ chạy. Các tì-kheo hỏi Phật vì sao cho người bà-la-môn ấy làm tì-kheo. Phật bảo rằng người bà-la-môn ấy trong vô số kiếp đã không có tâm xuất gia, nay do say rượu nên tạm thời phát tâm trong khoảnh khắc, song nhờ nhân duyên này, người ấy về sau sẽ xuất gia và đắc đạo.
Có nhiều nhân duyên xuất gia được lợi ích và công đức vô lượng như thế, vì vậy, người tại gia dù thụ năm giới, nhưng công đức cũng kém xa người xuất gia”.
Kinh Tạp bảo tạng ghi: “Ngày xưa, tại thành Lư Lưu có vua Ưu-đà-di thông minh, trí tuệ uyên bác. Nhà vua có một vị phu nhân tên Hữu Tướng, xinh đẹp ít ai sánh bằng, lại có đức hạnh, nên nhà vua rất yêu mến. Theo luật nước ấy, người làm vua không được tự tay gảy đàn. Bấy giờ, bà phu nhân ấy đang cùng vui đùa với vua trong hậu cung. Tự cậy được nhà vua sủng ái, bà phu nhân bảo nhà vua gảy đàn cho mình múa. Nhà vua vốn rất giỏi xem tướng, nhìn thấy tướng chết của bà ấy hiện ra khi vừa đưa tay múa. Tính toán biết mạng sống của bà ấy chỉ còn chưa đầy bảy ngày, nhà vua liền buông đàn, buồn bã, thở dài.
Bà phu nhân nói:
- Được hưởng ân sủng của đại vương, nay ở hậu cung, thiếp cả gan xin đại vương gảy đàn cho thiếp múa để đại vương được vui vẻ. Nhưng thiếp đã làm điều gì sai quấy khiến đại vương bỏ đàn, xin đại vương nói cho thiếp biết.
Nhà vua không chịu nói. Phu nhân ân cần hỏi mãi, nhà vua mới nói sự thực. Nghe nhà vua nói xong, bà phu nhân rất lo sợ, liền tâu:
[30b]- Thiếp có nghe một vị tì-kheo-ni trong hang đá nói, nếu người có lòng tin xuất gia được một ngày, chắc chắn được sinh lên trời. Nay thiếp muốn xuất gia, xin đại vương cho phép.
Là người nặng ái tình, nên nhà vua nói:
- Đến sáng ngày thứ sáu, ta sẽ cho nàng đi.
Đến ngày thứ sáu vẫn không làm phu nhân thay đổi ý định được, nhà vua bảo:
- Nàng có thiện tâm cầu xuất gia như vậy, nhưng nếu nàng hứa được sinh lên trời sẽ nhất định đến gặp ta, thì ta mới cho phép xuất gia.
Phu nhân đồng ý và liền được xuất gia, thọ tám trai giới. Ngay hôm ấy, bà bỗng bị đau bụng sau khi uống thạch mật[33], đến sáng sớm hôm sau thì qua đời. Nhờ duyên lành xuất gia ấy, phu nhân được sinh lên trời. Nhớ lời hứa trước kia, phu nhân liền đến chỗ nhà vua, ánh sáng trên người tỏa rực khắp hoàng cung. Nhà vua hỏi:
- Nàng là ai?
Vị trời đáp:
- Thiếp là Hữu Tướng, phu nhân của đại vương đây.
Nhà vua vui mừng nói:
- Xin nàng hãy đến đây ngồi!
Vị trời nói:
- Nay thiếp thấy đại vương hôi bẩn, không thể đến gần được, nhưng vì lời hứa trước đây, nên thiếp mới đến gặp đại vương.
Nghe xong, nhà vua hiểu ngay, liền than thở:
- Vị trời kia trước đây là vợ của ta, sau khi xuất gia một ngày thì được sinh lên trời, trở nên cao quí, nên vị trời ấy thấy ta thấp hèn. Tại sao nay ta không xuất gia? Ta từng nghe nói một móng tay của trời lớn bằng cả cõi Diêm-phù-đề. Đất nước này của ta đâu đáng tham tiếc!
Nói xong, nhà vua thoái vị nhường ngôi cho con, rồi xuất gia học đạo, cuối cùng chứng được quả A-la-hán”.
Luận Đại trí độ có bài kệ:
Chim công dẫu thân hình sặc sỡ,
Chẳng bằng hồng hạc thường bay cao.
Sống tại gia dẫu thật sang giàu,
Chẳng bằng xuất gia công đức cao.
Kinh Tạp thí dụ ghi: “Ngày xưa có hai anh em nhà giàu sang, thế lực lớn, tiền của vô số, cha mẹ đều đã qua đời. Tuy là anh em, nhưng chí hướng của họ rất khác nhau. Người anh thích học đạo nghĩa, còn người em thích mở mang gia nghiệp. Thấy anh mình không tha thiết đến gia nghiệp, người em giận, bảo:
- Cha mẹ qua đời rồi, là anh em với nhau, em siêng năng chăm lo cuộc sống gia đình, ngược lại, anh bỏ bê gia nghiệp, chỉ đi theo các sa-môn nghe giảng kinh Phật. Các sa-môn đâu thể cho anh áo cơm, tiền của? Anh cứ theo họ thì gia đình trở nên nghèo khó, tiền của ngày một tiêu hao, bị người chê cười là bỏ bê gia đình. Chỉ có nối tiếp giữ gìn gia nghiệp của cha mẹ mới là hiếu thôi!
Người anh đáp:
- Thụ năm giới, thập thiện, cúng dường tam bảo, dùng thánh đạo giáo hóa người thân mới là hiếu. Đạo và tục khác nhau là lẽ tự nhiên[34]. Điều người xuất gia ưa thích là điều người tại gia chán ghét. Điều người tại gia quí trọng thì người xuất gia xem thường. [30c] Sự suy tính của người trí và kẻ ngu không giống nhau, như sáng và tối. Người hiểu biết thường bỏ chỗ tối, đến nơi sáng, vì chỉ có thánh đạo là chân thật cùng tột. Điều em ưa thích hôm nay chính là sự trá hình của đau khổ, mà em đâu biết đó là khổ đau!
Người em tỏ vẻ giận, cúi đầu, không tin lời anh. Thấy thế, người anh bảo:
- Em ham mở mang gia nghiệp, nên cho tiền của là quí, còn anh thích tu học giáo pháp, nên cho trí tuệ là quí. Xét ra, mạng người ở đời hư huyễn, như sóng nắng, vô thường chợt đến thì liền bị nghiệp tội vây trói. Vì thế, nay anh muốn lìa bỏ gia đình, lánh xa tham dục, đến nơi yên tĩnh, xuất gia trở thành phúc điền.
Thấy anh có chí hướng đến đạo nghĩa, người em im lặng và càng thêm tức giận. Thế rồi, người anh từ bỏ gia đình, xuất gia làm sa-môn, tinh tiến tu tập, suốt đêm ngồi thiền tư duy, thực hành đúng với giáo pháp, nên chóng thành tựu đạo quả. Còn người em ham mở mang gia nghiệp, không bao giờ để tâm đến Phật pháp. Về sau, người em qua đời, bị đọa làm con bò rất to béo, được một lái buôn mua về dùng để kéo xe chở muối đi bán. Trải qua một số chuyến buôn thì con bò ấy gầy yếu đi, không còn khỏe như trước. Một lần nọ, khi vượt qua sườn núi một cách vất vả, nó khuỵu chân nằm xuống không đứng lên được. Người lái buôn vung roi đánh, lay đầu mãi, nó mới cử động. Bấy giờ, người anh đang đi trên không trung nhìn thấy, liền bảo con bò:
- Nhà cửa, ruộng đất của em ở đâu mà nay lại đọa làm bò ở đây?
Người anh bèn dùng uy thần soi cho con bò biết kiếp trước của nó. Khi nhận biết rồi, nó tuôn nước mắt, tự trách:
- Do làm việc bất thiện, bỏn xẻn, tham lam, ganh ghét, không tin Phật pháp, khinh thường các thánh, không tin lời anh, ngang ngạnh, cho nên mình phải đọa làm thân bò vất vả, khốn khổ. Nay có hối hận cũng đâu kịp!
Biết lòng dạ con bò đang xót đau, tê tái, người anh liền thuật đầu đuôi sự việc cho người chủ bò nghe. Nghe xong, người ấy liền cho người anh con bò. Người anh dắt con bò đến một ngôi chùa, dạy nó nhớ nghĩ đến tam bảo, ăn uống theo giờ giấc. Sau khi chết, con bò được sinh lên trời Đao-lợi[35].
Lúc bấy giờ, các thương nhân đều nghĩ: Chúng ta lâu nay lo làm ăn buôn bán, không biết bố thí, không biết đạo pháp, sợ rằng sau khi chết cũng sẽ giống như vậy! Thế rồi, họ cùng từ bỏ vợ con, của báu và các thú vui để xuất gia làm sa-môn. Họ tinh tiến tu tập nên tất cả đều chứng được đạo quả.
Do đó, có thể thấy của cải, châu báu không có ích gì cho con người, nếu cung kính thờ phụng tam bảo, tu thân, học đạo thì đời đời được an vui”.
Kinh Phó pháp tạng ghi: “A-la-hán Xà-dạ-đa vừa dẫn các đệ tử đến thành Xoa-thi-la thì bỗng tỏ vẻ buồn rầu. Tiến thêm một quãng ngắn nữa, trông thấy một con quạ, tôn giả liền mỉm cười vui vẻ. Một đệ tử xin ngài cho biết nguyên do. Tôn giả đáp:
[31a] - Lúc ta vừa đến đây, có một con quỉ con đang đói lả dưới cửa thành nói với ta: ‘Mẹ tôi vào thành tìm thức ăn cho tôi đã được năm trăm năm rồi, tôi đang bị cơn đói hành hạ sắp chết. Tôn giả vào thành nếu thấy mẹ tôi thì nói giúp rằng tôi hiện đang đói khổ. Xin ngài hãy báo gấp hộ cho’. Vừa vào thành thì thấy con quỉ mẹ, ta liền bảo cho nó biết ý của con nó. Quỉ mẹ nói: ‘Tôi vào thành này đã năm trăm năm mà chưa kiếm được một miếng nước bọt hay nước mũi nào. Tôi vừa mới sinh xong, sức khỏe còn kém, có tìm được chút nước bọt nào thì liền bị các con quỉ khác cướp mất ngay. Hôm nay, tôi vừa tìm được một chút nước bọt của người, định ra ngoài thành cùng ăn với con, nhưng dưới cửa thành có nhiều quỉ thần mạnh mẽ, tôi sợ nên không dám ra. Cúi xin tôn giả đưa giúp tôi ra khỏi thành’. Ta liền đưa quỉ mẹ ra ngoài thành để nó cùng ăn với con nó. Ta hỏi nó sinh vào thời nào, nó đáp rằng nó thấy tòa thành này xây lên và đổ nát đã bảy lần. Nghe quỉ nói, ta xót thương cho cảnh chịu khổ đau triền miên trong sinh tử. Vì thế, ta buồn. Còn con quạ kia, cách đây chín mươi mốt kiếp, vào thời Phật Tì-bà-thi, ta là con một ông trưởng giả, muốn được xuất gia. Thời ấy, người xuất gia chắc chắn chứng được quả A-la-hán. Nhưng cha mẹ ta không cho phép, mà ép ta cưới vợ. Cưới vợ xong, ta lại xin xuất gia. Cha ta bảo nếu ta sinh được một đứa con trai thì sẽ cho phép. Ta đã vâng lời và sinh được một con trai. Khi con ta được sáu tuổi, ta lại muốn đi xuất gia. Bấy giờ, cha mẹ ta bảo đứa bé ôm chân ta, khóc lóc cầu xin: ‘Nếu cha bỏ con thì ai nuôi dạy con đây? Cha nên giết con trước đã, rồi hãy đi xuất gia’. Nghe xong, ta khởi tâm ái nhiễm, bảo nó: ‘Vì con nên ta sẽ không đi xuất gia nữa’. Do ngăn cản ta xuất gia, nên từ đó đến chín mươi mốt kiếp về sau, đứa con ấy phải lưu chuyển trong năm đường ác, không được gặp ta. Nay ta dùng đạo nhãn thấy con quạ kia chính là đứa con ngày trước. Thương xót nó ngu si ở mãi trong sinh tử, cho nên ta mỉm cười. Vì nhân duyên ấy, nếu người nào cản trở người muốn xuất gia thì mắc tội báo phải thường ở mãi trong đường ác chịu đau khổ cùng tột, không được giải thoát. Sau khi hết tội trong đường ác, nếu sinh làm người thì sẽ bị mù bẩm sinh. Do đó, nếu thấy người muốn xuất gia, người trí phải siêng năng dùng các phương tiện khuyến khích, giúp đỡ họ được toại ý, chớ gây khó khăn cho họ”.
Kinh Xuất gia công đức ghi: “Ngày xưa, lúc còn tại thế, một hôm Đức Phật cùng A-nan vào thành Tì-xá-li[36] khất thực, đi ngang qua một tòa lầu cao, nơi vương tử Tì-la-tiễn-na đang vui đùa với các mỹ nữ. Nghe tiếng nhạc, Đức Phật bảo A-nan:
[31b] - Ta biết người này sau bảy ngày nữa sẽ chết. Nếu không xuất gia, người này có thể đọa địa ngục.
Nghe Phật nói thế, A-nan liền đến giáo hóa và khuyên vị vương tử ấy xuất gia. Nghe A-nan khuyên, trong sáu ngày sau đó, vị vương tử tận hưởng thỏa thích các thú vui. Đến ngày thứ bảy, vương tử Tì-la-tiễn-na đến xin Phật cho xuất gia. Tu tập tịnh giới được một ngày một đêm thì vương tử qua đời, được sinh lên cõi trời Tứ Thiên Vương[37] làm con của bắc thiên vương Tì-sa-môn, cùng hưởng thú vui ngũ dục với các mỹ nữ. Sau khi hưởng hết năm trăm tuổi thọ ở cõi trời ấy, vương tử lại sinh lên cõi trời Đao-lợi làm con của Đế Thích, thọ một nghìn tuổi. Kế đó, vị ấy sinh lên làm vương tử ở trời Diêm-ma, thọ hai nghìn tuổi. Rồi vị ấy sinh lên làm vương tử ở trời Đâu-suất, thọ bốn nghìn tuổi. Tiếp theo, vị ấy sinh lên làm con của trời Hóa Lạc, thọ tám nghìn tuổi. Hết tuổi thọ ở trời Hóa Lạc, vị ấy sinh lên cõi trời Tha Hóa Tự Tại làm con của Thiên vương. Niềm vui ngũ dục được hưởng cùng với các mỹ nữ ở đây tuyệt vời hơn ở các cõi trời bên dưới, tuổi thọ ở cõi này là mười sáu nghìn tuổi. Vị vương tử qua lại hưởng thụ thú vui ở sáu cõi trời thuộc Dục giới như thế mà không bị chết yểu.
Một ngày xuất gia thì hai mươi kiếp không bị đọa vào đường ác, thường được sinh lên trời hưởng phúc tự nhiên; kiếp cuối cùng làm người được sinh vào gia đình giàu sang, đầy đủ tiền của, tuổi trẻ sung sướng, về già chán ghét thế tục nên xuất gia tu tập đạo pháp, thành Bích-chi phật hiệu là Tì-lưu-đế-lê, độ khắp vô số trời và người. Vì nhân duyên ấy, nên biết công đức xuất gia lớn vô lượng, không thể ví dụ được. Giả sử có người hết lòng cúng dường đầy đủ bốn thứ cần dùng cho số a-la-hán đầy khắp trong bốn thiên hạ, đến khi các vị này vào niết-bàn thì lại xây tháp cho từng vị, cúng dường các thứ hương, hoa và chuỗi ngọc, thì công đức tạo được cũng không bằng công đức của người xuất gia trì giới một ngày một đêm cầu quả vị Niết-bàn. Vì thế, pháp xuất gia thật đáng tôn quí. Không được vì một chút tài sắc mà tham đắm thế gian để phải trôi giạt trong biển sinh tử, tự chuốc khổ vào thân.
Có bài tụng:
Tam sơn[38] tu đạo cũng chẳng thành,
Ngũ nhiệt[39] đau buồn tự trói thân,
Ở quán, vào lồng phiền lao cả,
Đâu bằng lặng lẽ vượt nguy thành.
Gương trí sáng tròn, thêm tinh sạch,
Giữa trời vằng vặc ánh trăng thanh,
Vết cũ quanh co theo lối hẹp,
Thông Trang, đạt Lão, há đồng hành?”.
V. TÁN TỤNG
Gồm ba phần: Lời dẫn, Dẫn chứng, Khen ngợi công đức.
V.1. Lời dẫn
[31c] Ý khen ngợi thường gửi vào lời thơ, lời thơ lại nương vào âm hưởng. Do đó, lời thơ hay đẹp thì ý khen ngợi rõ ràng; âm hưởng hay thì lời thơ lưu loát; ngôn từ phối hợp với âm hưởng cùng giúp cho nghĩa lí. Xét ra, Ấn Độ có bái, còn Trung Quốc có tán. Tán là văn dùng kết luận một chương. Bái là bài kệ ngắn dùng để truyền tụng. So sánh nội dung ý nghĩa thì bái và tán đúng là đồng nghĩa. Do đó, kinh ghi: “Dùng âm hưởng vi diệu để ca tụng công đức của Phật”.
Ngày xưa, khi Đức Phật nhập định thì tiếng đàn ca chấn động hang đá; khi Bà-đề[40] cất tiếng tụng thì âm thanh vang thấu đến trời Tịnh Cư[41]. Âm thanh cực vi diệu giác ngộ thế gian tất nhiên không thể dùng lời tán dương cùng tận. Đến đời mạt pháp, việc tu tập rất có linh nghiệm; vì thế, Trần Tư[42] chú tâm suy tưởng đã nghe được tiếng Phạn bái ở Ngư Sơn. Bạch Kiều thành tâm thệ nguyện, nên hiểu được diệu âm của Đại sĩ. Dược Luyện siêng tu, nên nghe được pháp âm ở chốn u minh, Văn Tuyên[43] chí thành, nên cảm được diệu âm ở nơi tịnh thất. Tất cả đều diễn theo âm thanh ở cung trời và cõi Phật, âm điệu trầm bổng, giọng văn nhanh chậm. Đó cũng là bằng chứng rõ ràng của tâm cảm, là khuôn thước sáng chói của người học. Lời kinh thâm diệu phát ra tự nhiên, cách đọc có thể tập được, nhưng giọng hay chẳng thể luyện nên. Bởi tuyên giảng pháp âm là để người thế tục nghe, nên phải giữ giọng trong mà không yếu, hùng hồn mà không dữ dội, trôi chảy mà không quá gấp, ngưng mà không trệ, nghĩa lí mang phong thái Ấn Độ, âm vận mang sắc thái Trung Quốc, xa nghe mênh mông mà thanh nhã, gần thì nghe thong dong mà hòa kính. Thật là vĩ đại! Kinh gọi âm giọng của Phật là lôi âm sâu xa, có lẽ do đây chăng?
Nếu kể truyện Liêu trai thì mọi người tụ họp lại nghe đến tận đêm khuya, hương tàn nến tắt. Bởi thùy cái[44] hay che lấp lục tình[45], sự biếng nhác thường vây trói thân thể, cho nên phải chọn người có giọng hay để lên tòa, tuyển người có tiếng tốt để giảng kinh. Khi lời tán tụng như tiếng nhạc cất lên thì khác nào tiếng ngọc tiếng vàng hòa điệu, lan xa khiến bảy chúng xúc động. Lại giống tiếng chim ca-lăng-tần-già, tựa giọng chim loan thần, khiến kẻ mê muội khai mở, người biếng nhác trở nên nghiêm túc, khắp giảng đường đều kinh ngạc, cả pháp hội cùng vui vẻ. Chính ngay lúc ấy, mới biết tiếng kinh là quí.
V.2. Dẫn chứng
Kinh Trường a-hàm ghi: “Âm thanh ấy có năm đặc tính thanh tịnh, nên gọi là Phạm âm. Đó là:
1. Ngay thẳng
2 . Hoà nhã
3. Trong trẻo
4. Sâu lắng, tròn đầy
5. Vang khắp”.
[32a]Lại nữa, kinh Phạm-ma-dụ chép: “Âm thanh thuyết pháp của Đức Phật có tám đặc tính:
1. Rất hay
2. Dễ hiểu
3. Êm dịu
4. Hoà nhã
5. Thông đạt
6. Không nhầm lẫn
7. Sâu lắng
8. Không có âm thanh người nữ, không thiếu sót, không ngắn hụt”.
Luật Thập tụng ghi: “Chư thiên nghe kệ tán, lòng rất vui mừng, nên Đức Phật cho phép tán tụng”.
Kinh Tì-ni-mẫu chép: “Đức Phật bảo các tì-kheo:
- Cho phép các ông tán tụng. Tán tụng là âm từ của lời nói, tuy nghe, nhưng chưa biết nói những pháp gì?
Đức Phật dạy: Từ Tu-đa-la cho đến Ưu-ba-đề-xá, thì tùy ý diễn nói. Nhưng đối với mười hai thể loại kinh, có người sinh tâm nghi ngờ, hoặc muốn diễn nói theo thứ lớp, thì văn rất dài dòng, e sinh tâm nhàm chán; nếu chỉ chọn lọc lấy những lời hay, nêu rõ ràng ý nghĩa, thì không biết thế nào?
Các tì-kheo đem việc này bạch Đức Phật. Đức Phật cho phép trích dẫn những lời hay ý đẹp, diễn đạt ý nghĩa rõ ràng trong kinh.
Lúc ấy, có một tì-kheo, đứng cách Phật không xa, cất tiếng hát lớn để diễn lời kinh. Đức Phật nghe xong, không cho phép tụng kinh bằng âm điệu này. Vì có năm lỗi giống âm điệu thuyết pháp của ngoại đạo.
1. Không tự kềm chế mình.
2. Không hợp với đại chúng.
3. Chư thiên không vui.
4. Lời không đúng, khó hiểu.
5. Lời không rõ, nên cũng khó hiểu nghĩa”.
Kinh Hiền ngu ghi: “Khi Đức Phật còn tại thế, một hôm, vua Ba-tư-nặc dẫn quân lính đến địa phận Kì-hoàn, bỗng nghe âm thanh tán tụng rất hay của một tì-kheo, tất cả quân lính và cả voi ngựa cũng đều dừng lại lắng tai nghe, không chịu đi. Vua dẫn quân lính vào chùa xem, thấy tì-kheo tán tụng, thân hình thấp bé, diện mạo vô cùng xấu xí thì không nỡ nhìn, liền đến hỏi Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn! Tì-kheo này đời trước đã tạo nghiệp gì mà bị quả báo như thế?
Đức Phật bảo vua:
- Sau khi Đức Phật nhập niết-bàn, vua Cơ-lí-tì thâu xá-lợi, định xây tháp cúng dường. Lúc ấy có bốn long vương hóa làm hình người đến hỏi vua:
- Đại vương định xây tháp bằng vật báu hay bằng đất?
Nhà vua đáp:
- Muốn xây tháp lớn, phải cần rất nhiều của báu, nên nay ta chỉ dùng đất để xây, chiều ngang năm dặm, chiều cao hai mươi lăm dặm.
Long vương nói:
- Ta là long vương, hôm nay đến đây hỏi đại vương, nếu dùng vật báu xây tháp thì ta giúp đỡ.
Vua nghe xong, lòng rất vui mừng. Long vương lại nói:
- Ngoài bốn cổng thành có bốn dòng suối, [32b] ta sẽ biến dòng suối phía đông thành con hào toàn bằng lưu li; dòng suối phía nam bằng vàng ròng; dòng suối phía tây toàn bằng bạc; dòng suối phía bắc thì biến thành bạch ngọc trắng.
Vua nghe xong, càng thêm vui mừng, liền cho xây tháp, mỗi tháp đều đặt một vị quan trông coi. Ba vị quan kia siêng năng, nên việc xây dựng sắp xong, chỉ riêng một quan vì biếng trễ, nên chưa hoàn thành. Vua đích thân đến xem xét, thấy thế liền quở trách, vị quan ấy sinh lòng oán hận tâu vua:
- Tháp này quá lớn, làm đến bao giờ mới xong?
Ngay lúc ấy, vua ra lệnh cho nhân công ngày đêm siêng năng làm việc, trong thời gian ngắn, thì công trình xây dựng được hoàn thành. Ngôi tháp cao vút, các báu trang nghiêm, hùng vĩ khác thường. Vị quan ấy thấy thế, vui mừng khôn xiết, liền sám hối và đem chiếc chuông vàng đặt trên đỉnh tháp, phát nguyện:
- Nguyện cho con sinh ra nơi nào, cũng được giọng nói rất hay, tất cả chúng sinh đều thích nghe, tương lai được gặp Đức Phật Thích-ca và thoát khỏi sinh tử.
Vì thuở xưa, ông ta chê tháp quá lớn, nên sinh ra nơi nào cũng thường bị xấu xí. Nhưng nhờ đem chuông vàng đặt lên đỉnh tháp và nguyện gặp Phật, nên từ đó về sau, trải qua năm trăm đời, tì-kheo này được giọng nói tuyệt hảo. Nay lại được gặp Ta, xuất gia tu đạo, chứng quả A-la-hán. Do đó, tất cả chúng sinh thấy người khác làm phúc không nên chê bai, nếu không, sẽ bị quả báo ác, hối hận không kịp”.
V.3. Khen ngợi công đức
Kinh Bồ-tát bản hạnh ghi: “Đức Phật bảo A-nan:
- Ta nhớ thuở xưa, có Đức Phật Phất-sa Đa-đà-a-già-độ a-la-ha tam-miệu tam-phật-đà ra đời. Lúc ấy, Ta nhìn thấy đức Phật ở trong hang núi Tạp Bảo, lòng rất vui mừng, liền chắp tay, đứng một chân suốt bảy ngày bảy đêm và nói kệ khen Phật:
Khắp trời người, không ai bằng Phật,
Mười phương thế giới cũng không sánh,
Những người Ta gặp ở thế gian,
Tất cả đều không ai bằng Ngài.
Này A-nan! Khi Ta nói kệ xong, liền phát nguyện, cho đến khi Đức Phật kia bảo thị giả: ‘Người này trải qua chín mươi bốn kiếp sẽ được thành Phật, hiệu là Thích-ca Mâu-ni’. Ta được thụ kí xong, lại càng thêm tinh tấn, tăng trưởng công đức, trong vô lượng kiếp, thường làm trời Đế Thích, Chuyển luân thánh vương. Nhờ nhân duyên nghiệp lành ấy, [32c] nên Ta được đầy đủ bốn biện tài, không ai sánh kịp, cho đến đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, chuyển pháp luân vô thượng”.
Lại nữa, kinh Niết-bàn ghi: “Bấy giờ, bồ-tát Ca-diếp ở trước Phật nói kệ khen:
Đại Y Vương thương xót thế gian,
Thân và trí tuệ đều vắng lặng,
Trong pháp vô ngã có thật ngã,
Thế nên kính lễ Vô Thượng Tôn,
Sơ phát, rốt sau, tâm không khác,
Hai tâm như thế, tâm trước khó,
Chưa độ cho mình, trước độ người,
Nên con đỉnh lễ Sơ phát tâm”.
Trong luận Phát bồ-đề tâm, luận chủ nói kệ khen Phật:
Nay con kính lễ vô biên Phật,
Quá khứ, vị lai và hiện tại,
Trí tuệ bất động tợ hư không,
Đấng Đại Bi hay cứu giúp đời.
Thầy ta là trời trong các trời,
Chúng sinh ba cõi chẳng bằng người (kinh Phổ diệu).
Vì sao thế giới được trường thọ,
Chứng đắc kim cương bất hoại thân (kinh Niết-bàn).
Sắc thân Như Lai thật vi diệu,
Tất cả trên đời không ai bằng (kinh Thắng man).
Sống nơi thế giới tựa hư không,
Giống như hoa sen không ô nhiễm (kinh Siêu nhật nguyệt tuệ minh).
Đại từ thương xót cả quần sinh,
Ấm cái phiền não khiến vô minh,
Mở mắt người mù nhìn thấy được,
Cứu người điếc tỏ đạo quang vinh,
Ở nơi thế giới tựa hư không,
Lại giống hoa sen nào nhiễm dính,
Vượt hơn cõi kia tâm hằng tịnh,
Cúi đầu đỉnh lễ đấng Đại Minh.
Kể rằng: nước Hán lưu hành lời kinh, rất thích lược bớt, cho nên trong chúng làm kệ tán tụng, phần nhiều chỉ có nửa bài. Do đó trong luận Tì-ni-mẫu chép: ‘Làm nửa bài kệ tụng, bị tội đột-cát-la’. Nhưng chưa biết âm từ Phạn bái này xuất xứ từ kinh điển nào ở Ấn Độ?
Đáp: Chỉ có bậc thánh mới có thể đặt ra kệ tán tụng, theo lời kệ trong kinh mà tán tụng thì không ngại. Ở vùng quan nội và quan ngoại, các triều đại Ngô, Thục, lời tán tụng tùy theo sự ưa thích mà có nhiều loại. Nhưng Phạn, Hán đã khác nhau, nên âm vận cũng không thể dùng lẫn lộn. Đến triều nhà Tống có pháp sư Khương Tăng Hội, người nước Khương Cư, học rộng hiểu nhiều, dịch các kinh điển, giỏi tiếng Phạn, lưu truyền kệ tụng Nê-hoàn, chế ra âm thanh hòa dịu buồn cảm, rất nổi tiếng ở đời; các nhà âm thanh học, đều lấy đó làm phép tắc. Lại thuở xưa, vào đời nhà Tấn có pháp sư Đạo An chế ra ba khoa như thượng kinh, thượng giảng và bố-tát[46]. Các bậc hiền xưa lập ra qui chế, làm phép tắc trong thiên hạ, lưu truyền mãi mọi người đều thực hành.
[33a] Đến thời nhà Ngụy có người con thứ tư của Ngụy Vũ Đế là Trần Tư Vương Tào Thực, tự là Tử Kiến, tuổi nhỏ mà rất giỏi văn chương. Năm lên bảy tuổi, Tào Thực chỉ cần hạ bút là thành văn, hoàn toàn không cần phải sửa chữa. Bao nhiêu nghệ thuật thế gian, ông đều thông suốt. Hàm Đan Thuần nhìn thấy thì vô cùng khâm phục, khen là người cõi trời. Mỗi lần đọc kinh Phật, Tào Thực không ngớt khen ngợi, cho là cốt tủy của chí đạo, bèn chế ra bảy thanh, âm vận trầm bổng, uyển chuyển, đời đều lấy đó làm qui luật phúng tụng. Có lần, Tào Thực đến núi Ngư, bỗng nghe trên hư không phát ra âm thanh Phạm thiên, thanh nhã, bi thương, xúc động lòng người. Tào Thực nghe được một lát, thì những người hầu cận cũng đều được nghe. Ông cảm nhận sâu sắc được diệu lí, càng tỏ ngộ sự ứng nghiệm của Phật pháp, bèn mô phỏng âm thanh tiết tấu, soạn sách tán tụng bằng tiếng Phạn, chọn văn chế âm, truyền lại làm cách thức cho đời sau. Phạn bái xuất hiện ở đời khởi đầu từ đây. Pháp tán tụng này gồm có sáu khế[47]”.
Kinh Bách duyên chép: “Thuở xưa, lúc Đức Phật còn tại thế, có những người sống trong thành Xá-vệ, tự trang điểm và tấu nhạc ca hát. Một hôm, họ lần lượt kéo nhau ra ngoài dạo chơi, vừa đến cổng thành thì gặp Đức Phật và chư tăng đi khất thực, lòng rất vui mừng, liền lễ bái, trỗi nhạc cúng dường và phát nguyện rồi đi.
Đức Phật mỉm cười, bảo A-nan:
- Những người này nhờ công đức trỗi nhạc cúng dường Ta và chúng tăng, vị lai, trải qua một trăm kiếp, họ không rơi vào đường ác, sinh lên cõi trời hay xuống cõi người, cũng đều hưởng thụ sự vui sướng. Trải qua một trăm kiếp sau, họ thành bích-chi phật, đồng một hiệu là Diệu Thanh. Do nhân duyên ấy, nếu có người trỗi nhạc cúng dường tam bảo, thì người ấy sẽ được công đức vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn. Thế nên trong kinh Pháp hoa có bài kệ:
Nếu có người trỗi nhạc,
Đánh trống thổi sừng, ốc,
Tiêu, địch, cầm, không hầu,
Tì bà, nao, đồng, bạt,
Những tiếng hay như thế,
Tất cả dâng cúng dường,
Đều đã thành Phật đạo”.
Lại nữa, kinh Bồ-tát xử thai chép: “Có một khẩn-na-la vương cư trú ở núi Đại Hắc, bên ngoài Tiểu Thiết Vi, phía bắc núi Tu-di, cũng ở trong khoảng mười núi báu. Nơi ấy đều không có Phật pháp, mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Nhưng vị này nhờ sức bố thí mà được ở trong cung điện bảy báu, thọ mạng lâu dài. Thuở xưa, lúc vị khẩn- na-la này còn trong loài người, có một trưởng giả rất giàu phát tâm xây tháp Phật, khẩn-na-la cúng dường một cây cột, giúp hoàn thành ngôi chùa, lại cung cấp thức ăn ngon cho những người thợ. Sau khi mạng chung, ông sinh làm vị thần Hung Ức, sống trong khoảng giữa hai ngọn núi. [33b] Lại thuở xưa khẩn-na-la này ở thế gian, làm một đại trưởng giả rất giàu có, của cải nhiều vô lượng, lúc ấy có một sa-môn đến khất thực, người vợ đem cơm dâng cúng, ông tức giận nói:
- Tại sao người khất thực nhìn vợ ta? Phải làm cho tay chân người này bị đứt lìa!
Vì thế, sau khi mạng chung ông ta phải chịu thân hình xấu xí, trải qua tám mươi bốn kiếp, thường không có tay chân. Chư thiên mở hội yến tiệc, vị này cùng với các càn-thát-bà luân phiên lên xuống. Bấy giờ, chư thiên định tấu nhạc, thì dưới nách đều tiết mồ hôi, họ liền lên trời, thấy một khẩn-na-la tên là Đầu-lâu-ma, đang đàn ca về thật tướng các pháp, khen ngợi Đức Thế Tôn. Lúc ấy, núi Tu-di và các núi rừng khác đều chấn động, ngài Ca-diếp ngồi trên tòa không an, năm trăm tiên nhân đều mê loạn, mất thần thông”.
Lại nữa, trong kinh Đại Thụ khẩn-na-la vương sở vấn ghi: “Lúc bấy giờ, Đại Thụ khẩn-na-la vương dùng hoa lá bằng vàng Diêm-phù-đàn trang trí cây đàn lưu li do nghiệp thiện tịnh tạo ra, lại đến trước Thế Tôn gảy đàn và tấu tám mươi bốn nghìn kĩ nhạc khác cúng dường Đức Phật. Khi vị Đạo Thụ vương này gảy đàn, âm thanh vang lên cao vút đến tận tam thiên đại thiên thế giới. Tiếng đàn và giọng ca tuyệt diệu của vị khẩn-na-la này, lấn át cả âm nhạc của chư thiên ở cõi Dục; tất cả núi, rừng, cây cỏ thảy đều chấn động, trạng thái như người say rượu, bước đi nghiêng ngả, núi Tu-di lắc lư trồi sụt không yên, chỉ trừ những bậc bồ-tát bất thoái chuyển, mới không bị lay động, còn tất cả hễ nghe tiếng đàn và âm nhạc ấy đều không thể ngồi yên, liền đứng dậy nhảy múa. Tất cả thanh văn bỏ hết oai nghi, cùng nhau nhảy múa, đùa giỡn như đứa bé, không thể kiềm chế được. Lúc ấy, bồ-tát Thiên Quang nói với các vị thanh văn như ngài Đại Ca-diếp…
- Đại đức! Các ngài đã lìa phiền não, đạt được tám giải thoát, vì sao hôm nay lại bỏ oai nghi, nhảy múa, ca hát giống như đứa bé vậy?
Các đại đức thanh văn đều đáp:
- Này hiền giả! Lúc ấy chúng tôi không thể tự chủ được, như cơn lốc xoáy, quật ngã cây cối, không có năng lực kiềm giữ, chớ chẳng phải muốn như thế!
Lúc ấy, bồ-tát Thiên Quang nói với ngài Ca-diếp:
- Hôm nay ngài đã tận mắt nhìn thấy oai đức thế lực của bồ-tát bất thoái, bất cứ ai được nhìn thấy như thế, cũng đều phát tâm Vô thượng chính chân bồ-đề! Bởi vì oai lực tiếng đàn này đều phát ra âm thanh giáo pháp, giúp cho tám nghìn bồ-tát đều chứng Vô sinh nhẫn.
Tụng rằng:
Trời trong tỏa khí thanh,
Tiếng thần thấu tai điếc,
[33c] Lên đài vịnh tiếng xuân,
Cao hứng xa dấu vết,
Nương không cảm linh giác,
Núi Ngư chấn Tư Vương,
Mô phỏng tiếng Phạm thiên,
Mong pháp âm rộng khắp,
Du dương không đoạn dứt,
Dìu dặt giữa không gian,
Tì-kheo tụng âm Phạn,
Người, vật động cõi lòng,
Cũng do xướng pháp mầu,
Cảm bầy nhạn trên không,
Sáng ra lòng tỉnh ngộ
Hoát nhiên tự linh thông”.
VI. HƯƠNG ĐĂNG
Gồm bốn duyên: Lời dẫn, Hương hoa, Đốt đèn, Treo cờ.
VI.1. Lời dẫn
Đã nhân nơi sự mà ngộ lí, nhất định nhờ tướng để hiển chân; chiêm ngưỡng dung nghi của bậc Thánh, hoặc phải mượn hương hoa để cúng dường. Thế nên, hoa báu tốt tươi, rực rỡ tợ như sen hồng, hương quí ngạt ngào, nhẹ tỏa lan như sương biếc, mặt trời lên thì màn đêm cuốn, mặt trăng mọc thì bóng tối tan, ánh đèn xua tăm tối, cũng như vậy, trí tuệ diệt trừ vô minh. Vì thế, cung kính Phật Đăng Vương, thành tâm với Đức A-di-đà, gắng sức tiếp nối ánh sáng, cho nên được hiệu là Định Quang Như Lai. Nhờ chút duyên soi sáng, mà gần thì được ánh sáng sắc thân; do nhân thí đuốc đèn, mà xa thì được phúc báu thiên nhãn. Huống gì dùng đại trí này hiển phát, khai mở ánh sáng thù thắng kia ư! Thế nên, vua A-dục đến lúc lâm chung, đã tạo tám mươi bốn nghìn ngọn đèn, chiếu khắp tám mươi bốn nghìn ngôi tháp; lại còn treo thần phan phất phới, mong bay vút lên tận cõi Đại thiên, những hạt châu màu tía xen nhau, tỏa ánh sáng đến trăm ức dặm. Lúc gió trí tuệ thổi lên thì nghiệp thuần thanh hiện; khi luồng gió nhiệm mầu thổi đến, thì được quả báo vô tận của Chuyển luân thánh vương.
VI. 2. Hoa hương
Trong kinh Phật thuyết hoa tụ đà-la-ni ghi: “Đức Phật dạy:
- Sau khi Ta diệt độ, nếu có người đi trên đường trống, thấy tháp miếu của Như Lai, mà dùng một cành hoa, một ngọn đèn, hoặc một viên đất bùn đặt trước tượng để cúng dường, cho đến cúng dường một đồng tiền để sửa sang tượng Phật, hoặc dùng một vốc nước rửa tháp Phật, rồi dùng hoa hương cúng dường, hoặc bước một bước hướng đến chùa tháp, hoặc chỉ một lần xưng nam-mô Phật, [34a] mà muốn người ấy rơi vào ba đường ác trăm nghìn vạn kiếp, thì thật vô lí”.
Lại kinh Chính pháp niệm ghi: “Nếu có chúng sinh dùng hương giới thoa lên tháp Phật, sau khi mạng chung được sinh lên cõi trời Hương Lạc, vui chơi với các thiên nữ, từ cõi trời mạng chung, sanh làm người trong một gia đình giàu có”.
Kinh Thái hoa thụ quyết ghi: “Lúc bấy giờ, vua La-duyệt sai hơn mười người thường xuyên vào rừng hái hoa đẹp dâng cho nhà vua. Một hôm, các cung nữ ra ngoài thành hái hoa, trên đường về thì gặp Đức Phật, họ liền cúi đầu kính lễ và suy nghĩ: ‘Thà bỏ thân mạng, dâng hoa cúng dường Phật và thánh chúng, cho dù bị hại cũng không rơi vào đường ác’. Nghĩ xong, họ liền tung hoa lên cúng dường Phật và thánh chúng rồi tự qui mạng nhất tâm kính lễ. Đức Phật biết ý niệm ấy, nên thương xót thuyết pháp cho họ nghe. Những người hái hoa nghe xong, đều phát đạo tâm, được Đức Phật thụ kí:
- Về sau các ngươi sẽ được thành Phật hiệu là Diệu Hoa.
Lúc bấy giờ, các cung nữ liền trở về nhà từ biệt cha mẹ:
- Mạng con chắc không còn nữa! Vì hôm nay nhà vua sẽ giết con.
Cha mẹ ngạc nhiên hỏi:
- Con có tội lỗi gì mà bị vua giết?
Các cung nữ kể rõ câu chuyện cho cha mẹ nghe và nói:
- Nếu không có hoa dâng lên nhà vua, thì sẽ nguy hiểm đến tính mạng, nên hôm nay con trở về từ biệt cha mẹ!
Cha mẹ nghe xong càng thêm buồn rầu, họ liền mở giỏ ra, thì thấy đầy hoa đẹp, mùi thơm lan tỏa khắp nơi, liền bảo:
- Con hãy đem hoa này dâng lên nhà vua!
Chờ mãi vẫn không thấy hoa mang đến, nhà vua tức giận, sai người bắt trói những người hái hoa phạm tội đem ra chợ xử trảm. Thế nhưng sắc mặt của họ vẫn không biến đổi, lấy làm lạ nhà vua hỏi:
- Tội của các ngươi sẽ bị giết, vì sao không sợ?
Những người hái hoa đáp:
- Con người có sống thì phải có chết, vạn vật có thành ắt có hoại, chúng tôi vì pháp mà phạm tội, nên không tiếc thân mạng. Buổi sáng đi hái hoa, trên đường về gặp Đức Phật, nên đã dâng lên cúng dường, biết làm như thế là trái mệnh vua, tội sẽ bị giết, nhưng thà có đạo mà chết, còn hơn sống mà không đạo. Nhưng khi trở về mở giỏ ra thì thấy hoa vẫn còn như cũ, đều là nhờ ân của Đức Phật chở che.
Nhà vua càng lấy làm lạ, trong lòng không tin, bèn đến hỏi Phật:
Đức Phật bảo:
- Đúng vậy! Những người này chí tâm, muốn độ chúng sinh khắp mười phương, không tiếc thân mạng, nên tung hoa cúng dường Như Lai, lại không có ý cầu quả báo, đã được Ta thụ kí tương lai sẽ thành Phật, hiệu là Diệu Hoa.
Nghe xong, nhà vua rất vui mừng, cởi trói cho họ, hối hận trách mình quá ngu si, không bằng bồ-tát và xin Đức Phật tha thứ. Đức Phật bảo:
- Lành thay! Người biết sửa lỗi lầm, thì đồng với người không có lỗi!
[34b] Kinh Bách duyên ghi: “Một thời, Đức Phật ở Kì Thụ Cấp Cô Độc Viên tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, Ngài đắp y ôm bát cùng các tì-kheo vào thành khất thực, vừa đến một ngõ phố thì thấy một phụ nữ bồng con ngồi dưới đất.
Lúc ấy, đứa bé từ xa thấy Đức Phật thì rất vui mừng, liền đòi mẹ mua hoa dâng cúng dường Đức Phật. Đứa bé được hoa, liền đến chỗ Phật tung lên hư không, biến thành lọng hoa theo che Đức Phật. Thấy thế, nó rất vui mừng, phát nguyện lớn:
- Xin đem căn lành công đức cúng dường này, nguyện đời sau con thành Chính giác, độ thoát chúng sinh giống như Đức Phật!
Bấy giờ, Đức Phật nghe đứa bé phát nguyện thì liền mỉm cười, từ miệng phóng ra một luồng ánh sáng năm màu, xoay quanh Phật ba vòng rồi trở vào đỉnh Ngài.
Khi ấy, ngài A-nan bạch Phật:
- Đức Thế Tôn là bậc cao quí, không bao giờ cười vô cớ, nay có nhân duyên gì lại mỉm cười? Kính xin Đức Thế Tôn chỉ dạy!
Đức Phật bảo A-nan:
- Ông thấy đứa bé tung hoa cúng dường ta chăng?
Ngài A-nan bạch:
- Vâng! Con đã thấy.
Đức Phật dạy:
- Đứa bé này đời vị lai, không rơi vào đường ác, sinh lên cõi trời hay xuống cõi người, thường được vui vẻ, trải qua ba a-tăng-kì kiếp được thành Phật hiệu là Hoa Thịnh, độ thoát chúng sinh không thể tính kể, thế nên ta cười.
Các tì-kheo nghe Đức Phật dạy xong, đều vui vẻ vâng theo”.
Lại trong kinh Bách duyên cũng ghi: “Một thời, Đức Phật ở Kì Thụ Cấp Cô Độc Viên tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, các trưởng giả giàu sang quyền quí trong thành, tụ tập bên bờ suối, mở hội Bà-la hoa, ca hát vui chơi. Họ sai một người vào rừng hái hoa bà-la về kết tràng. Người được sai đi, liền vào rừng hái hoa, trên đường về thấy Đức Phật đủ ba mươi hai tướng quí, tám mươi vẻ đẹp, sáng rực như trăm nghìn mặt trời, lòng rất vui mừng, liền cúi lễ dưới chân và tung hoa cúng dường. Cúng dường xong, người ấy lại vào rừng, leo lên cây định hái hoa, chợt cành cây bị gãy, ông ta rơi xuống đất và qua đời, liền được sinh lên cõi trời Đao-lợi, thân hình xinh đẹp, ở trong cung điện được làm bằng hoa bà-la. Đế Thích hỏi:
- Ông ở đâu, tu phước gì mà được sinh về cõi này?
Người hái hoa đáp:
- Tôi ở cõi Diêm-phù-đề, một hôm vào rừng hái hoa về lập hội vui chơi, trên đường về gặp Đức Phật, liền tung hoa cúng dường, nhờ nhân duyên công đức ấy, nên được sinh về cõi này!
Đế Thích thấy vị trời này, thân hình vô cùng xinh đẹp, liền nói kệ khen:
Thân như sắc vàng ròng,
Tỏa ánh sáng rực rỡ,
Dung mạo rất xinh đẹp,
Vượt hơn cả chư thiên.
Vị trời ấy liền nói kệ đáp:
Tôi nhờ ân Đức Phật,
Cúng dường hoa bà-la,
Do nhân duyên lành này,
Được quả báo tốt đẹp.
[34c] Nói kệ xong, ông ta liền cùng Đế Thích đến chỗ Đức Phật, đỉnh lễ dưới chân rồi ngồi sang một bên, nghe Phật thuyết pháp, tâm ý khai mở, phá tan mười hai ức nghiệp chướng[48], tà kiến[49], chứng quả Tu-đà-hoàn. Do đó, ông vô cùng mừng rỡ, nói kệ khen Phật:
Đại Thánh Tôn vòi vọi,
Vô thượng không ai bằng,
Công cha mẹ, thầy tổ,
Cũng không thể sánh kịp,
Làm khô bốn biển lớn,
Vượt qua núi xương trắng,
Lắp kín ba đường ác,
Mở rộng ba cửa lành”.
Lại kinh Tạp bảo tạng cũng ghi: “Lúc ấy, thiên nữ nói kệ:
Xưa ta dùng vòng hoa,
Cúng tháp Phật Ca-diếp,
Nay sinh lên cõi trời,
Được công đức thù thắng,
Đã sinh lên cõi trời,
Lại được thân sắc vàng”.
Luận Tát-bà-đa ghi: “Đất của tứ phương tăng, không được xây tháp, nên vì Phật pháp mà trồng trọt. Nếu tăng hòa hợp thì được, nếu không hòa hợp thì không được làm; hoặc trong đất chúng tăng có trồng hoa, thì cũng nên để cho tịnh nhân[50] chăm sóc, thu hoạch trao cho tăng tùy ý cúng dường, không được tự ý lấy riêng cúng dường tam bảo. Nếu hoa nhiều, tăng sử dụng không hết, tăng hòa hợp cho phép, thì tuỳ ý mà lấy. Trong tăng phường, không được xây tháp, đúc tượng, vì để gần người thì nhơ bẩn, không thanh tịnh. Nếu nhà nhiều tầng, có thờ tượng Phật ở tầng dưới, thì không được đứng ở tầng trên; không được lấy hoa trồng trên tháp cúng dường tăng, phải nên cúng dường Phật, hoa này cũng được bán để lấy tiền cúng dường tháp. Nếu nước thuộc về phần của tháp thì cúng dường cho tháp, nếu còn dư, mà nước này do công sức của người chăm lo tháp mà có, nên bán phần nước này lấy tiền cúng dường tháp, không được dùng vào việc khác, nếu dùng thì tính theo số tiền mà phạm tội. Hoặc trong tháp không có người, mà phần nước này hoàn toàn do công sức của tăng, số nước dùng cho tháp còn lại bao nhiêu, tăng khéo tính toán mà sử dụng”.
Kinh Văn-thù vấn ghi: “Lúc bấy giờ, ngài Văn-thù-sư-lợi bạch Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn! Các hoa cúng dường xong còn dư, dùng để trị bệnh, thì như thế nào?
Đức Phật bảo ngài Văn-thù-sư-lợi:
- Mỗi hoa đều phải chú nguyện riêng đủ một trăm lẻ tám biến.
Chú hoa Phật:
- Nam-mô Phật-thát-tả-dã sa-ha
[35a] Chú hoa bát-nhã ba-la-mật:
- Na-mạt kha-lô-lí bát-nhã-ba-la-mật-đa-duệ sa-ha
Chú hoa Phật túc:
- Na-mạc ba-đà-chế-điểm-đam-diêm sa-ha
Chú hoa bồ-đề thụ:
- Nam-mô bồ-đề hóa lực khám lam sa-ha
Chú hoa chuyển pháp luân xứ:
- Nam-mô đạt-ma chước-kha-la-dạ sa-ha
Chú hoa tháp:
- Na-mạc thâu-bạt-tà sa-ha
Chú hoa bồ-tát:
- Nam-mô bồ-đề tát-đỏa-dã sa-ha
Chú hoa chúng tăng:
- Na-mạc tăng-già-dã sa-ha
Chú hoa Phật tượng:
- Na-mạc ba-la-để-da sa-ha
Đức Phật lại bảo Văn-thù-sư-lợi:
- Về việc sử dụng hoa này, nếu bốn chúng phát tâm tôn kính tu hành, thì sáng sớm thức dậy tắm gội, súc miệng sạch sẽ, nhớ nghĩ công đức của Phật và cung kính hoa này, không được dẫm lên hoặc bước ngang hoa, phải như pháp cắm hoa vào bình nước sạch. Nếu có người bị bệnh nóng lạnh, nhức đầu, thì giã nát hoa rồi cho vào nước lạnh, dùng thoa vào thân; hoặc có người bị bệnh kiết lị ra máu, hoặc bị đau bụng, cũng dùng hoa giã nát hòa vào nước lạnh rồi cho họ uống, thì liền hết bệnh. Nếu có người bị lở miệng, cũng cho họ ngậm nước hoa giã nát, cũng được lành. Nếu trời mưa không tạnh, nên đến nơi vắng vẻ đốt hoa, mưa liền dứt. Nếu gặp lúc trời khô hạn, cũng nên đến nơi vắng vẻ cắm hoa vào nước rồi chú nguyện trong nước lạnh, rưới lên hoa, trời liền tuôn mưa xuống. Nếu các loài trâu, ngựa…không thuần, thì đem hoa cho chúng ăn, chúng liền điều phục; hoặc các loại cây, hoa, trái không tươi tốt, nên trộn hoa giã nát với phân bò, hòa với nước lạnh rồi rưới lên gốc cây, không được dẫm đạp hay tiểu tiện trên đó thì hoa trái sum sê; hoặc ruộng có nhiều nước làm hư hại lúa mạ, thì giã hoa thành bột rồi đem rải vào ruộng, lúa mạ liền xanh tốt. Nếu trong cõi nước có bệnh tật thì giả nát hoa hòa vào nước lạnh, thoa vào loa hoặc trống, rồi thổi hoặc đánh, người nghe âm thanh này liền khỏi bệnh. Nếu các nước thù địch muốn đến xâm lăng, nên giã nát hoa, hòa vào nước rồi rải lên họ, tất cả liền lui tan Nếu trên núi cao có tảng đá lớn, các tì-kheo mài hoa trên đá rồi cùng nhau lễ bái, ít lâu sau trên đá tự nhiên sinh ra trân bảo.
Đức Phật bảo Văn-thù-sư-lợi:
- Mỗi hoa đều phải tụng đủ một trăm lẻ tám biến, ông cũng nên đi khắp nơi tuyên nói các câu chú này cho mọi người rõ biết. Hoa Phật, hoa pháp và các hoa khác cũng như vậy.
[35b] Kinh Hoa nghiêm ghi: “Thuở xưa trong loài người có một loại hương tên là Đại tượng tạng, do rồng đánh nhau mà có, nếu đốt một viên, thì phóng ra một luồng ánh sáng lớn, tạo thành lưới mây che phủ phía trên, vị ngọt như cam lộ. Trời mưa hương suốt bảy ngày bảy đêm, nếu dính vào thân, thì thân có sắc vàng, nếu dính vào y phục, cung điện, lầu gác, thì tất cả đều biến thành sắc vàng. Nếu có chúng sinh ngửi được mùi hương này, trong bảy ngày bảy đêm thường được vui vẻ, diệt trừ tất cả bệnh khổ, không bị tai nạn bất ngờ, tâm hằng xa lìa sợ hãi, nguy hại, khởi lòng đại từ, nhớ nghĩ khắp chúng sinh. Ta biết rõ tâm họ, nên thuyết pháp, giúp cho vô lượng chúng sinh chứng được quả vị Bất thoái chuyển. Lại hương ngưu đầu chiên-đàn, do lìa cấu nhiễm mà có, nếu đem thoa vào thân, thì lửa không thể thiêu đốt”.
Kinh Bách duyên chép: “Lúc Đức Phật còn tại thế, trong thành Ca-tì-la-vệ có một trưởng giả rất giàu, của cải nhiều vô lượng, không thể tính kể. Ông sinh được một người con, dung mạo xinh đẹp, hiếm có trong đời, các lỗ chân lông trên thân đều tỏa ra mùi hương chiên-đàn, trong miệng thường thoảng ra mùi thơm hoa ưu-bát. Cha mẹ rất vui mừng, nhân đó đặt tên con là Chiên-đàn Hương. Thời gian sau Chiên-đàn Hương lớn lên, cầu Phật xuất gia và chứng quả A-la-hán, các tì-kheo thấy thế liền bạch Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn! Chiên-đàn Hương này đời trước trồng phúc gì mà được sinh vào nhà giàu sang quyền quý, thân và miệng thường thoảng ra mùi thơm, lại được gặp Đức Thế Tôn xuất gia, chứng đạo quả?
Đức Phật bảo các tì-kheo:
- Thuở quá khứ, trải qua chín mươi mốt kiếp, sau khi Đức Phật Tì-bà-thi nhập niết-bàn, vua Bàn-đầu-mạt-đế thâu lấy xá-lợi xây tháp bằng bốn báu, cao một do-tuần để an trí cúng dường. Lúc ấy có một trưởng giả vào tháp Phật, thấy nền tháp bị thủng, ông liền nhồi trộn đất bùn trám lại, lấy bột hương chiên-đàn rải lên, phát nguyện rồi đi. Nhờ công đức ấy, từ đó về sau trải qua chín mươi mốt kiếp, trưởng giả kia không rơi vào đường ác, được sinh lên cõi trời, người, thân và miệng thường thoảng ra mùi thơm, hưởng thụ niềm vui sướng, đến nay được gặp Ta xuất gia chứng đạo quả”.
Lại nữa, trong luận Đại trang nghiêm ghi: “Đức Phật dạy:
- Thuở xưa, vào thời Đức Phật Ca-diếp có một pháp sư thuyết pháp cho đại chúng, thường hay khen ngợi Đức Phật Ca-diếp. Nhờ nhân duyên ấy, nên khi mạng chung, pháp sư ấy được sinh lên cõi trời. Về sau dù sinh vào cõi trời hay cõi người, ông ta cũng thường hưởng thụ niềm vui sướng. Sau khi Đức Phật Thích-ca văn nhập niết-bàn một trăm năm, vào thời vua A-thâu-ca, vị này cũng làm pháp sư, chứng quả A-la-hán, trong miệng thường thoảng ra mùi thơm vi diệu. Lúc ấy, pháp sư ở cách vua không xa, thuyết pháp cho đại chúng nghe, trong miệng tỏa ra mùi thơm bay đến chỗ vua. Nhà vua ngửi được mùi thơm, trong lòng nghi ngờ, liền nghĩ: ‘Tì-kheo này ngậm hương thơm trong miệng chăng, sao lại thơm đến như thế?’. [35c] Nghĩ xong, nhà vua liền bảo pháp sư súc miệng, xem còn có mùi thơm không. Tì-kheo hỏi:
- Sao đại vương bảo tôi súc miệng?
Vua đáp:
- Tôi ngửi được mùi hương, trong lòng nghi ngờ, nên mới bảo ngài làm thế.
Thế là pháp sư liền súc miệng, mùi thơm ấy từ trong miệng pháp sư càng tỏa ra ngào ngạt, không có mùi thơm khác. Vua liền nói:
- Xin pháp sư thuyết pháp cho tôi nghe!
Pháp sư mỉm cười và nói kệ:
Tự tại trong trời đất,
Vì đại vương thuyết pháp,
Chẳng phải hương trầm thủy,
Cũng không phải lá hoa,
Các loại hương chiên-đàn,
Hòa hợp mà có được,
Tôi sinh tâm hi hữu,
Mà nói như thế ấy,
Nhờ khen Phật Ca-diếp,
Nên được mùi hương này,
Khi Phật nhập niết-bàn,
Mùi hương vẫn không khác,
Đêm ngày thường tỏa ra,
Chưa lúc nào đoạn dứt”.
Kinh Nhật vân ghi: “Hương cháy chưa hết mà ném xuống đất thì bị tội việt khí, rơi vào địa ngục Phẩn Thỉ trọn năm trăm năm. Vì sao? Vì tâm thường buông lung”. Lại trong kinh Dạ vấn ghi: “Nếu có người dùng miệng thổi tro bụi trên các vật dụng trang nghiêm, cúng dường, bị đọa vào địa ngục Ưu-bát-la, quả báo làm vua các thần gió”. Lại kinh Yếu dụng tối ghi: “Nếu có người dùng mũi ngửi hương, làm giảm mùi thơm thì không có phúc đức, quả báo rơi vào địa ngục Ba-đầu-ma, đến đời vị lai tỉ căn không thưởng thức được hương thơm”. Kinh Nhật cúng dường cũng ghi: “Khi cúng dường hương mà không ngậm miệng lại, sẽ bị rơi vào địa ngục Hắc Phẩn Thỉ, chịu tội trọn nửa kiếp, quả báo không có trí tuệ. Vì sao? Vì thở ra sẽ làm bốc bụi hương lên”.
Tam thiên oai nghi ghi: “Thắp hương trước Phật, có ba việc: một, thay hương cũ trong lò; hai, tự lấy hương ra; ba, nên chia cho người. Nói về lò hương cũng có ba việc: một, trước hết nên đỗ tro cũ; gom hương trong lò để qua một bên; hai, lau lò hương cho sạch rồi mới thắp hương, lại lấy hương cũ cắm vào; ba, khi hương đang cháy, không được thổi tắt”.
VI. 3. Đốt đèn
[36a] Như kinh Bồ-tát bản hạnh chép: “Đức Phật dạy:
- Thuở quá khứ, vô số kiếp về trước, Ta ở cõi Diêm-phù-đề làm vua một nước lớn, thường bỏ thân mạng ra để bố thí. Có lần Ta cầm dao trao cho quần thần khoét một nghìn lỗ sâu trên thân, lớn như đồng tiền, rồi đỗ dầu vào, làm thành một nghìn ngọn đèn, sau khi đặt tim đèn vào, Ta bảo bà-la-môn:
- Xin ngài nói pháp trước, sau đó hãy đốt đèn!
Thế là, bà-la-môn nói kệ:
Thường rồi cũng phải đoạn,
Cao rồi cũng phải rơi,
Có hợp cũng biệt ly,
Có sinh ắt có tử.
Nghe kệ xong, Ta rất vui mừng, liền phát nguyện: ‘Hôm nay tôi vì cầu pháp, khoét thân làm đèn, không cầu vinh hiển ở đời, cũng không cầu chứng quả Nhị thừa, chỉ đem công đức này nguyện cầu đạo Vô thượng chính chân’. Ta vừa phát nguyện xong, tức thời cõi tam thiên đại thiên chấn động sáu cách, một nghìn ngọn đèn trên thân được thắp lên, tất cả chư thiên, Đế Thích, Phạm vương, Chuyển luân thánh vương... đều đến an ủi thăm hỏi:
- Một nghìn ngọn đèn đang cháy trên thân, Ngài có đau không? Hối hận không?
Ta đáp:
- Không đau, cũng không hối hận!
Đế Thích lại hỏi:
- Lấy gì làm bằng chứng đại vương không hối hận?
Ta liền phát nguyện:
- Tôi dùng thân làm một nghìn ngọn đèn, để cầu đạo Vô thượng, được thành Phật. Nếu đúng như thế, thì xin các vết thương đều lành lại’.
Phát nguyện xong, thân Ta liền bình phục như cũ. Lúc ấy Đế Thích, thiên vương, vua quan và quyến thuộc, cùng vô lượng nhân dân hết lòng khen ngợi và cùng nhau tu tập mười điều lành”.
Trong kinh A-xà-thế vương thụ quyết ghi: “Đức Phật nhận lời thỉnh của vua A-xà thế, sau khi thụ trai xong, Ngài trở về tinh xá Kì-hoàn. Lúc ấy, vua A-xà-thế bàn với Kì-bà:
- Đức Phật đã thụ trai xong, tiếp theo ta phải làm gì?
Kì-bà tâu:
- Nên thắp nhiều đèn để cúng dường!
Thế là vua A-xà-thế liền truyền lệnh đem một trăm hộc dầu vừng, thắp sáng từ cổng cung điện cho đến tinh xá Kì-hoàn. Bấy giờ có một bà già nghèo thấy vua làm công đức ấy, thì cảm động, bà đi xin khắp nơi được hai đồng tiền, liền ra tiệm mua dầu, chủ tiệm hỏi:
- Bà quá nghèo khổ, chỉ xin được hai đồng tiền, sao không mua thức ăn để nuôi thân, lại mua dầu làm gì?
Bà già đáp:
- Rất khó gặp Đức Phật ra đời, trăm kiếp chỉ có một lần, tôi may mắn được gặp Phật mà không cúng dường. Hôm nay thấy nhà vua làm công đức lớn, tuy nghèo khổ, nhưng tôi cũng muốn thắp một ngọn đèn cúng Phật để làm nhân duyên kiếp sau.
Nghe nói thế, chủ tiệm vui mừng. Lẽ ra hai đồng tiền chỉ mua được hai cáp[51] dầu thôi, nhưng ông đặc biệt thêm ba cáp nữa, tổng cộng là năm cáp. Sau đó bà già đem dầu đến trước Phật thắp lên, nhưng lại tính số dầu này không đủ thắp sáng đến nửa đêm, bà liền phát nguyện: ‘Nếu đời sau tôi đắc đạo giống như Đức Phật, thì xin số dầu này được cháy sáng suốt đêm không hết’. Phát nguyện xong, bà đỉnh lễ Phật rồi ra về.
Những ngọn đèn của vua, có ngọn bị tắt, có ngọn bị hết dầu, [36b] nhưng ngọn đèn của bà già vẫn còn cháy sáng hơn các đèn khác suốt đêm không tắt, đến sáng mà chất dầu vẫn không hết. Đức Phật bảo tôn giả Mục-kiền-liên:
- Trời đã sáng, ông nên tắt các ngọn đèn!
Tôn giả Mục-kiền-liên vâng lời Phật dạy, lần lượt tắt hết các ngọn đèn, chỉ còn lại ngọn đèn của bà già, thổi đến ba lần vẫn không tắt. Tôn giả liền vén ca-sa lên quạt cho tắt, nhưng ngọn đèn càng cháy sáng hơn. Tôn giả Mục-kiền-liên bèn dùng uy thần dẫn gió Tùy Lam [52]đến thổi, mà đèn càng cháy mạnh, soi thẳng đến Phạm thiên, cho đến ba nghìn thế giới, đều nhìn thấy ánh sáng ngọn đèn ấy. Đức Phật bảo tôn giả Mục-kiền-liên:
- Thôi thôi! Đây là ánh sáng công đức của Phật đương lai, uy thần của ông không thể dập tắt, bà già này đời trước đã cúng dường tám mươi ức Phật và được Phật thụ kí, nhưng mãi lo tu tập kinh pháp, không rãnh làm việc bố thí, nên nay nghèo cùng không có của cải, trải qua ba mươi kiếp sau bà già này sẽ được thành Phật hiệu là Tu-di Đăng Quang Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chính Giác. Lúc ấy thế giới không có mặt trời mặt trăng, trong thân nhân dân tự phát ra ánh sáng, soi chiếu xen nhau như cõi trời Đao-lợi.
Bà già nghe xong, lòng rất vui mừng, liền đỉnh lễ Phật rồi ra về.
Vua hỏi Kì-bà:
- Ta tạo công đức rộng lớn như thế, Đức Phật không thụ kí. Bà già này chỉ cúng một ngọn đèn, lại được thụ kí?
Kì-bà đáp:
- Đại vương tạo công đức tuy nhiều, nhưng tâm không chuyên nhất, nên không bằng bà già chú tâm về Phật.
Thế là, sau đó vua A-xà-thế đem tâm chí thành dâng dầu và hoa cúng dường Phật. Đức Phật liền thụ kí:
- Đời sau, trải qua tám vạn kiếp, đến một kiếp tên là Hỉ Hoan, đại vương sẽ thành Phật hiệu là Tịnh Kì.
Lúc ấy, thái tử con vua A-xà-thế tên là Chiên-đà-hòa-lợi, mới lên tám tuổi, nghe vua cha được thụ kí, lòng rất vui mừng liền cởi các châu báu trên thân, tung lên Phật và phát nguyện:
- Nguyện con đến thời Đức Phật Tịnh Kì, được làm Kim luân vương, cúng dường Phật, sau khi Đức Phật ấy bát-nê-hoàn, con sẽ được làm Phật kế tiếp.
Đức Phật bảo:
- Ông chắc chắn sẽ toại nguyện và được thành Phật hiệu là Chiên-đàn”.
Kinh Hiền ngu ghi: “A-nan bạch Phật:
- Không biết thuở quá khứ, Đức Thế Tôn đã tạo căn lành gì, mà đến đời này được phúc báo cúng dường Vô cực đăng[53] như thế?
Đức Phật bảo A-nan:
- Thuở quá khứ trải qua hai a-tăng-kì, chín mươi mốt kiếp, cõi Diêm-phù-đề này có một vua nước lớn tên là Ba-tắc-kì, đại phu nhân của vua sinh được một thái tử, thân màu vàng tía, đầy đủ các tướng quí. Thời gian sau, thái tử dần lớn lên, xuất gia và thành Phật, giáo hóa, độ thoát vô số chúng sinh. Bấy giờ, vua cha thỉnh Phật và chúng tăng cúng dường ba tháng, lúc ấy có một tì-kheo tên là A-lê-mật-la nguyện làm đàn-việt cúng dường đèn suốt thời gian ấy. Hằng ngày ông vào thành xin các thứ tô dầu và bấc đèn. [36c] Khi ấy có vương nữ tên là Mâu-ni đứng trên lầu cao, thấy tì-kheo này hằng ngày vào thành xin các thứ cần dùng thì sinh lòng cung kính, sai người đến hỏi tì-kheo cần gì. Tì-kheo đáp:
- Hôm nay tôi làm đàn-việt cúng dường đèn cho Đức Phật và chúng tăng trong ba tháng, nên vào thành xin tô dầu và bấc đèn.
Người được sai đi trở về kể lại cho vương nữ biết, vương nữ rất vui mừng nói:
- Từ nay về sau ngài đừng đi xin nữa, tôi sẽ cung cấp đầy đủ bấc đèn... cho ngài!
Tì-kheo đồng ý, thế là từ đó về sau, vương nữ thường dâng đủ các thứ như tô dầu và bấc đèn cho tì-kheo. Tì-kheo A-lê-mật-la thành tâm thắp đèn cúng Phật, Đức Phật liền thụ kí: ‘Đời sau trải qua a-tăng-kì kiếp, ông sẽ được thành Phật hiệu là Định Quang’. Vương nữ Mâu-ni nghe tì-kheo A-lê-mật-la được thụ kí, liền nghĩ: ‘Những thứ làm thành đèn cúng dường Đức Phật đều là của ta, mà tì-kheo đã được thụ kí, ta còn không được’. Suy nghĩ xong, bà liền đến chỗ Phật, trình bày suy nghĩ của mình. Đức Phật liền thụ kí: ‘Đời sau trải qua hai a-tăng-kì, chín mươi mốt kiếp, ngươi sẽ được thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni, đầy đủ mười hiệu’. Vương nữ nghe Phật thụ kí xong, lòng rất vui mừng, liền hóa thành nam tử, cúi lạy chân Đức Phật, xin làm sa-môn. Đức Phật đồng ý. Từ đó vị sa-môn này tinh tấn tu tập không ngừng, nhờ thuở xưa cúng dường đèn sáng, từ đó đến nay trải qua vô số kiếp, thường được sinh lên cõi trời người, hưởng phúc tự nhiên, thân hình xinh đẹp, hơn hẳn mọi người, nay được thành Phật, phúc báo được cúng dường đèn sáng này”.
Lại trong kinh Thí đăng công đức ghi: “Đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất:
- Nếu có người đến trước hình tượng hoặc chùa tháp Phật mà cúng dường đèn sáng, cho đến dùng một ít bấc đèn, hoặc đốt đèn dầu cúng dường, ánh sáng ấy chỉ soi chiếu được một lối đi hoặc một bậc thềm. Này Xá-lợi-phất, phúc đức của người này tất cả hàng thanh văn, duyên giác đều không thể biết được, chỉ có Phật Như Lai mới có thể biết. Người cầu quả báo thế gian, mà còn được phúc đức như thế, huống gì công đức của tâm thanh tịnh, tin ưa niệm Phật liên tục không gián đoạn. Ánh sáng chỉ chiếu đến một bậc thềm, còn được phúc đức như thế, huống là chiếu cả một lối đi, hoặc hai, ba, bốn lối đi, hoặc một tầng, hai tầng tháp, cho đến nhiều tầng, một phía, hai phía, bốn phía tháp, cho đến chiếu khắp tượng Phật. Này Xá-lợi-phất, ngọn đèn của người kia hoặc tự nhiên vụt tắt, hoặc gió thổi tắt, hoặc dầu hết mà tắt, hoặc do bấc đèn hết mà tắt, hoặc tất cả đều hết mà tắt. Nếu có người trong khoảng thời gian ngắn như thế cúng dường chùa tháp Phật một ít đèn sáng, vì tin Phật pháp tăng, nên phúc điền cúng dường chút ít đèn này, sẽ được quả báo, thành tựu phúc đức, chỉ có Phật mới biết được. [37a] Người kia chỉ cúng dường chút ít đèn sáng mà còn được nhiều phúc đức không thể tính kể như thế, huống là sau khi Ta diệt độ, nếu có người tự mình hoặc dạy người khác đốt một ngọn đèn, hai ngọn đèn hoặc nhiều ngọn đèn cùng hương hoa, chuỗi báu, tràng báu, lọng báu và các thứ thượng diệu khác cúng dường tháp Phật! Lại nếu có người cúng dường tháp Phật một ngọn đèn, sau khi mạng chung sẽ được ba loại ánh sáng: một, người ấy đến khi lâm chung, những phúc đức đã làm trước kia, thảy đều hiện đến, luôn nhớ nghĩ các pháp lành không quên, nhờ nhớ nghĩ các pháp lành mà sinh tâm vui mừng; hai, nhờ đó mà có thể phát tâm niệm Phật, bố thí, tâm hoan hỉ không còn khổ về sự chết; ba, được tâm niệm pháp.
Này Xá-lợi-phất! Khi người kia mạng chung, lại được thấy bốn loại ánh sáng; một, thấy vầng mặt trời tròn sáng xuất hiện; hai, thấy vầng mặt trăng tròn sáng xuất hiện; ba, thấy chư thiên cùng ngồi một chỗ; bốn, thấy Đức Như Lai, Ứng Chính Biến Tri ngồi bên cội bồ-đề sắp chứng đạo quả, lại cũng tự thấy thân mình tôn trọng, chắp tay cung kính Đức Như Lai.
Lại nữa, này Xá-lợi phất! Nếu có người cúng dường tháp Phật một ngọn đèn, khi lâm chung được thấy bốn loại ánh sáng như thế, sau khi qua đời, được sinh lên cõi trời Tam Thập Tam. Đã sinh về cõi trời rồi, liền được năm việc thanh tịnh:
1- Được sức mạnh thanh tịnh
2- Được uy đức thù thắng trong hàng chư thiên
3- Được tuệ niệm thanh tịnh
4- Được nghe âm thanh nhiếp ý
5- Được quyến thuộc vừa ý, nên tâm thường vui vẻ.
Sau khi thọ mạng cõi trời đã hết, không rơi vào đường ác, sinh xuống nhân gian, làm con một gia đình giàu sang quyền quý, kính tin Phật pháp. Thuở ấy, nếu thế gian không có Phật pháp, cũng không sinh vào nhà thấp hèn, tà kiến.
Nhờ cúng dường đèn mà được bốn pháp đáng ưa thích; một, sắc lực; hai, của cải; ba, vui vẻ; bốn, trí tuệ. Nếu có người trụ bậc Đại thừa mà cúng dường tháp Phật một ngọn đèn sáng, sẽ được tám pháp thù thắng:
1- Được nhục nhãn thù thắng
2- Được niệm thù thắng không thể suy lường
3- Được thiên nhãn thù thắng
4- Nhờ tu tập đầy đủ, nên không khuyết giới
5- Đầy đủ trí tuệ, chứng quả Niết-bàn
6- Do những điều lành đã tạo trước kia, nên không sinh vào tám nơi nạn[54]
7- Nhờ những nghiệp lành đã tạo, mà được gặp các Đức Phật, làm mắt sáng cho tất cả chúng sinh
8- Nhờ căn lành ấy, mà được luân bảo của Chuyển luân thánh vương, [37b] không bị người khác làm chướng ngại, thân hình xinh đẹp; hoặc làm Đế Thích có uy đức lớn, đầy đủ nghìn mắt; hoặc làm Phạm vương khéo tu tập, chứng đại thiền định.
Này Xá-lợi-phất! Đem căn lành này hồi hướng bồ-đề sẽ được tám pháp an lạc thù thắng như thế. Này Xá-lợi-phất! Nếu có người thấy người khác đem lòng tin trong sạch cúng dường đèn cho Như Lai, liền chắp tay, khởi tâm tùy hỉ, nhờ căn lành này, được tám pháp tăng thượng:
1- Được sắc thân tăng thượng
2- Được quyến thuộc tăng thượng
3- Được giới tăng thượng
4- Được cuộc sống tăng thượng trong cõi trời người
5- Được niềm tin tăng thượng
6- Được biện tài tăng thượng
7- Được thánh đạo tăng thượng
8- Đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
Này Xá-lợi-phất! Lại có năm pháp khó được:
1- Được thân người
2- Tin ưa chính pháp của Phật
3- Ưa thích xuất gia trong chính pháp của Phật
4- Đầy đủ giới thanh tịnh
5- Được lậu tận.
Tất cả chúng sinh khó được năm pháp này, các ông đã được”.
Kinh Thí dụ ghi: “Lúc Phật còn tại thế, các đệ tử của Ngài có đức hạnh không đồng nhau, như tôn giả Xá-lợi-phất trí tuệ bậc nhất, Đại Mục-kiền-liên thần thông đệ nhất còn A-na-luật thiên nhãn đệ nhất, có thể nhìn thấy ba nghìn đại thiên thế giới, cho đến các vật nhỏ nhiệm, tối tăm cũng đều nhìn thấy. Tôn giả A-nan thấy thế rồi liền bạch Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn! Tôn giả A-na-luật đời trước trồng nghiệp lành gì mà được thiên nhãn như thế?
Đức Phật bảo:
- Thuở quá khứ cách nay chín mươi mốt kiếp, sau khi Đức Phật Tì-bà-thi nhập niết-bàn, bấy giờ có một tên cướp lẻn vào tháp lấy trộm vật, trong tháp có một ngọn đèn để trước tượng Phật, nhưng lại sắp tắt, tên cướp liền lấy mũi tên khêu đèn lên cho sáng, chợt thấy ánh sáng uy nghiêm của Đức Phật thì chấn động tâm thần, liền nghĩ: ‘Người ta còn bỏ của cải để cầu phước, sao ta lại đi trộm’. Nghĩ thế, tên trộm liền bỏ đi, nhờ nhân duyên phúc đức sửa lại ngọn đèn, mà từ đó về sau trải qua chín mươi mốt kiếp, tên trộm ấy thường sinh về cõi lành, dần dần xả bỏ những việc ác, phúc đức càng tăng trưởng, đến nay được gặp ta, xuất gia tu đạo và chứng quả A-la-hán, ở trong chúng được thiên nhãn, nhìn thấu suốt bậc nhất. Huống gì có người sinh tâm buông bỏ, thắp đèn cúng Phật, sẽ được phúc đức không thể suy lường. [37c] Trong luận Trí độ ghi: “Nếu có người trộm hạt châu trong tháp Phật, cho đến trộm đèn trong tháp Phật, sau khi chết sẽ rơi vào địa ngục, nếu được làm người, thì đời đời thường bị đui mù”.
Trong kinh Quán đỉnh[55] cũng ghi: “Bồ-tát Cứu Thoát bạch Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có kẻ nam người nữ nào đau bệnh nằm mãi trên giường, không người cứu giúp, con sẽ khuyến thỉnh chúng tăng trong bảy ngày bảy đêm, nhất tâm trì trai, vâng giữ tám điều giới cấm, sáu thời hành đạo, cho đến tụng đọc kinh điển bốn mươi chín biến, đốt đèn bảy tầng và treo thần phan tục mạng năm màu.
Ngài A-nan hỏi:
- Đèn và phan tục mạng phải làm như thế nào?
Bồ-tát Cứu Thoát nói:
- Thần phan phải làm bằng vải năm sắc, chiều dài bốn mươi chín thước; đèn cũng lại như vậy, phải đốt đèn bảy tầng, mỗi tầng để bảy ngọn đèn, mỗi ngọn lớn như bánh xe. Nếu gặp tai nạn nguy hiểm, hoặc bị giam giữ trong chốn lao tù, gông cùm xiềng xích, thì cũng phải tạo lập thần phan và đèn tục mạng, phóng sinh các loài vật, trong bốn mươi chín ngày, sẽ qua khỏi các ách nạn, không bị các loài ác quỉ não hại”.
Lại trong kinh Siêu nhật minh tam muội ghi: “Nhật Thiên vương và vô số thiên chúng đến chỗ Phật, cúi đầu lễ dưới chân Ngài và bạch:
- Bạch Đức Thế Tôn! Phải tu pháp gì để được làm Nhật Thiên, ánh sáng chiếu khắp tứ thiên hạ, lại do duyên gì được làm Nguyệt Thiên chiếu sáng cảnh đêm tăm tối?
Đức Phật dạy:
- Thực hành bốn việc sẽ được làm Nhật vương:
1- Thường vui vẻ bố thí
2- Tu thân, cẩn thận các hành vi
3- Giữ giới không phạm
4- Đốt đèn nơi chùa Phật, hoặc ở chỗ cha mẹ, sa-môn và đạo nhân; thân, khẩu, ý, thực hành mười điều lành.
Đức Phật dạy tiếp:
- Thực hành bốn việc sẽ được làm Nguyệt vương:
1- Bố thí cho người nghèo thiếu.
2- Giữ gìn năm giới.
3- Cung kính phụng thờ tam bảo.
4- Đốt đèn sáng nơi tăm tối, hoặc chùa miếu, vua chúa, cha mẹ và thầy tổ.
Luật Tăng-kì ghi: “Đức Phật dạy:
- Từ nay về sau, cho phép khi đốt đèn, đặt mồi lửa một bên, rồi lần lượt đốt, trước hết nên để đèn nơi thờ xá-lợi và hình tượng Phật, lễ bái xong, theo thứ lớp mà đốt. Khi đèn tắt, tắt những nơi khác trước, rồi mới tắt đèn trước Phật và xá-lợi, đồng thời nên nói: ‘Các đại đức không được dùng miệng thổi đèn (vì có trùng trong lửa, sợ làm tổn hại hơi thở của người, nên không cho phép thổi), chỉ cho phép dùng tay, hoặc dùng y quạt cho tắt, phải cúi thấp đầu xuống để mồi lửa. Khi vào không được vội vàng, nên xướng lên rằng: “Các đại đức nào muốn thắp đèn mới được vào, nếu không làm như thế, sẽ bị tội việt uy nghi”.
Lại nữa, trong Tam thiên uy nghi ghi: “Đốt đèn có năm việc:
1- Nên lấy khăn lau bên trong và ngoài đèn cho sạch
2- Phải làm sạch bấc đèn
3- Phải tự làm dầu
4- Khi châm dầu không được quá đầy, cũng không được quá ít
5- Phải giữ cho chắc, không được treo, làm trở ngại người đang hành đạo”.
[38a] Ngũ bách vấn sự ghi: “Giữ ánh sáng trước Phật suốt ngày không được tắt. Phật không có sáng tối, vì vốn không, nhưng lời nói và ý nghĩ của chúng sinh đều có giới hạn, nên làm mất ánh sáng là có tội”. Lại trong Đại Đường tam tạng Ba-phả-sư ghi: “Đèn đốt trước Phật, không được lấy, lấy vật cạnh đèn, mà không che mất ánh sáng thì được lấy”.
VI.4. Treo tràng phan
Trong kinh Ca-diếp cáo A-nan ghi: “Thuở xưa, vua A-dục xây dựng trong nước một nghìn hai trăm ngôi tháp. Sau đó vua lâm bệnh nặng, có một sa-môn đến thăm, vua liền nói với vị sa-môn:
- Trước kia, ta có xây một nghìn hai trăm ngôi tháp, muốn tự tay treo các tràng phan được dệt bằng sợi vàng và rải hoa mới thành tựu, nay bị bệnh nặng thế này, e rằng không toại nguyện.
Sa-môn bảo vua:
- Đại vương hãy chắp tay nhất tâm cung kính.
Nói xong, vị sa-môn liền hiện thần túc, tức thời một nghìn hai trăm ngôi tháp hiện ra trước mặt vua, vua A-xà-thế nhìn thấy, lòng rất vui mừng, liền sai lấy tràng phan và hoa bằng vàng treo lên các ngôi tháp, tức thời các ngôi tháp cao thấp đều hiện đến tay vua, vua được toại nguyện và lành bệnh. Sau đó, vua phát tâm rộng lớn, kéo dài tuổi thọ thêm hai mươi lăm năm. Do đó gọi phan này là thần phan tục mạng”.
Lại trong kinh Phổ Quảng ghi: “Nếu bốn chúng tì-kheo, tì-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, có người lâm chung, hoặc đã qua đời, thì ngay trong ngày mất quyến thuộc của họ làm tràng phan màu vàng treo trên tháp, thì người ấy được phúc đức, xa lìa tám nạn khổ, được sinh trong cõi nước của chư Phật ở mười phương. Cúng dường phan lọng, thì được sở nguyện tùy tâm, cho đến thành đạo bồ-đề. Tràng phan tung bay theo gió, rách nát hết, cho đến thành từng hạt bụi nhỏ. Khi tràng phan vừa xoay, sẽ được ngôi vị Chuyển luân thánh vương, cho đến bay một hạt bụi, cũng liền được ngôi vị tiểu vương. Quả báo ấy không thể suy lường. Đốt đèn cúng dường, chiếu sáng những nơi tăm tối, giúp cho chúng sinh đau khổ, nhờ ánh sáng này, mà được thấy nhau, cũng nhờ phúc đức ấy mà các chúng sinh đều được yên ổn.
Hỏi: Vì sao trong kinh dạy phải làm phan màu vàng treo trên mộ tháp cho người chết ?
Đáp: Tuy chưa thấy trong kinh giải thích, nhưng có thể theo nghĩa suy biết. Trong năm màu chính thì màu vàng ở giữa, tiêu biểu cho sự trung thành, tận tâm tu phúc, dẫn tới thân trung ấm không rơi vào đường ác, chẳng sinh biên địa. Lại màu vàng còn giống vàng trang sức, quỉ thần ở chốn u minh đều sử dụng vàng, nên trong nhân gian lúc cúng tế, người ta thường cắt tiền giấy bạc để cúng, thì quỉ nhận tiền giấy sử dụng; khi cắt tiền giấy màu vàng cúng cho quỉ, quỉ liền nhận được tiền giấy vàng để sử dụng.
Hỏi: Làm sao biết được?
Đáp: Trong Minh báo kí và Minh tường kí đã chép đầy đủ, nên biết”.
[38b] Lại trong kinh Thí dụ ghi: “Có người đào hầm chứa được mấy trăm tạ lúa, một hôm có một con vật trộm ngũ cốc đến trộm hết số lúa ấy đi, đến khi người chủ mở kho ra, thì phát hiện không còn một hạt lúa nào, chỉ thấy một con vật rất lớn, ông ta liền bắt tra hỏi:
- Vì sao ngươi lại trộm hết lúa của ta? Ngươi là thần gì?
Trùng đáp:
- Ông hãy đem tôi đến ngã tư đường, sẽ có người biết tên tôi!
Người chủ đồng ý và đưa con vật ấy đến ngã tư đường. Trên đường đi thì gặp một vị quan cưỡi ngựa vàng và mặc áo vàng, tất cả xe cộ và y phục đều đồng một màu vàng. Lúc ấy, vị quan ấy hỏi:
- Loài trộm lúa! Sao ngươi lại ở đây?
Lúc ấy, người chủ mới biết con vật này là kẻ trộm lúa, liền hỏi:
- Người mặc y phục màu vàng và cưỡi ngựa vàng là ai?
Kẻ trộm lúa đáp:
- Đó là tinh tinh của vàng ròng, tôi xin lấy số vàng này để đền lại giá trị số lúa đã mất cho ông.
Người chủ nhờ đó mà được vàng, dùng không hết. Bởi vì người và quỉ khác đường, cảm thấy không giống nhau, nên bậc thánh đã chế ra phan màu vàng, vì người chết mà treo lên mộ tháp, quỉ thần tìm được của báu, liền cứu giúp”.
Kinh Bách duyên ghi: “Khi Đức Phật còn tại thế, trong thành Ca-tì-la-vệ có một trưởng giả rất giàu, của cải nhiều vô lượng, không thể tính kể. Vợ ông sinh được một bé trai khôi ngô tuấn tú, không ai sánh bằng. Lúc mới sinh bé trai ấy, trên hư không có tràng phan lớn che phủ khắp thành, cha mẹ thấy thế thì rất vui mừng, nhân đó mà đặt tên con là Ba-đa-ca.
Thời gian sau, Ba-đa-ca lớn lên, liền xin Phật xuất gia và chứng quả A-la-hán, đầy đủ ba minh, sáu thông và tám giải thoát.
Các tì-kheo thấy thế liền bạch Phật.
- Bạch Đức Thế Tôn! Tì-kheo Ba-đa-ca thuở xưa trồng phúc gì, mà mới sinh ra đã xinh đẹp hơn người, lại có tràng phan lớn che phủ khắp thành, nay được gặp Đức Thế Tôn, xuất gia chứng đạo quả?
Đức Phật bảo các tì-kheo:
- Thuở quá khứ chín mươi mốt kiếp về trước, ở nước Ba-la-nại có Đức Phật Tì-bà-thi ra đời, sau khi Ngài nhập niết-bàn, vua Bàn-đầu-mạt-đế thâu lấy xá-lợi, xây tháp bằng bốn báu cao một do-tuần để tôn thờ. Lúc ấy, có một người mở hội lớn bên tháp để cúng dường. Khi cúng dường xong, ông làm một chiếc tràng phan treo lên tháp, phát nguyện rồi đi. Nhờ công đức này, từ đó về sau trải qua chín mươi mốt kiếp, ông ta không rơi vào ba đường ác, dù sinh lên cõi trời hay vào cõi người, thường có tràng phan theo che, hưởng thụ niềm vui sướng, đến nay gặp Ta, xuất gia chứng đạo quả”.
Kinh Bồ-tát bản hạnh ghi: “Thuở xưa, khi Phật còn tại thế, Ngài dẫn các tì-kheo từ nước Uất-ti-la-diên du hóa khắp nơi.[38c] Bấy giờ, khí trời nóng bức, có người chăn dê thấy Đức Phật đi như thế thì khởi tâm thanh tịnh, bện cỏ làm lọng, theo che cho Đức Phật, đến khi cách đàn dê rất xa, ông ta mới buông chiếc lọng xuống đất và trở về chỗ đàn dê. Đức Phật mỉm cười bảo ngài A-nan:
- Người chăn dê này, với tâm cung kính làm chiếc lọng bằng cỏ che cho Ta, nhờ công đức này, trong ba mươi kiếp, ông ta không rơi vào đường ác, được sinh lên cõi trời; sau khi sinh xuống cõi người, làm con trong một gia đình cao quí, hưởng thụ niềm vui, thường có lọng bảy báu tự nhiên theo che, mãn ba mươi kiếp, ông ta xuất gia tu đạo và thành Bích-chi phật hiệu là A-nậu bồ-đề”.
Tụng rằng:
Nhàm chán cội vô minh,
Sẽ ưa vườn Nại[56] tốt,
Mới vào lối Hương sơn,
Trọn được thân bất hoại,
Hoa định sinh quả trí,
Đèn thần chiếu Phạm thiên,
Tràng phan như sắc gấm,
Ngào ngạt tợ khói hương,
Quyện vút tận không trung,
Toả xuống như sen hồng,
Ngày đêm gió thường thổi,
Chồng chất nhân Luân vương,
Chiêm ngưỡng không nhàm chán,
Kết bạn để ngắm nhìn,
Đâu biết trong sắc ấy,
Được phúc thọ lâu dài.


Chú thích:
[26] Bát giải (Gđ: bát giải thoát 八解脫; S: aṣṭau vimokṣāḥ): tám định lực giúp lìa bỏ tham dục của hai cõi Sắc và Vô sắc. Một, trong có tưởng về sắc dục, quán các sắc để giải thoát; hai, trong không có tưởng về sắc dục, quán sắc để giải thoát; ba, thân thanh tịnh giải thoát chứng Cụ túc; bốn, vượt các sắc tướng diệt hữu đối tưởng, không suy nghĩ mọi cái tưởng, nhập vào Không vô biên xứ, an trụ đầy đủ giải thoát; năm, vượt tất cả Không vô biên xứ, nhập thức vô biên xứ, an trụ đầy đủ giải thoát; sáu, vượt qua tất cả Thức vô biên xứ, nhập vào Vô sở hữu xứ, an trụ đầy đủ giải thoát; bảy, vượt qua tất cả Vô sở hữu xứ, nhập vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ, an trụ đầy đủ giải thoát; tám, vượt qua tất cả Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhập vào tưởng thụ diệt, thân tác chứng trọn vẹn, an trụ đầy đủ giải thoát.
[27] Thập trí 十智 (S: daśa jñānāni): mười thứ trí mà bồ-tát ở Quán đỉnh trụ thành tựu được. Đó là trí làm chấn động vô lượng thế giới; trí chiếu sáng vô lượng thế giới; trí trụ trì vô lượng thế giới; trí biết khắp vô lượng thế giới; trí trang nghiêm và tịnh hóa vô lượng thế giới; trí biết được tâm hạnh vô lượng chúng sinh; trí biết được tùy tâm sở hành của vô lượng chúng sinh; trí biết được các căn của vô lượng chúng sinh; trí phương tiện độ thoát vô lượng chúng sinh; trí điều phục được vô lượng chúng sinh.
[28] Tiêu Sử 簫史: người giỏi thổi tiêu sống vào đời Tần Mục Công, Trung Quốc.
[29] Tử tấn 子晉: tên tự của Vương Tử Cao, là thái tử đời Chu Linh Công. Tương truyền Tử Tấn giỏi thổi sênh làm tiếng phượng hoàng, về sau được Phù Khâu Công đưa đến Tung sơn tu luyện thành tiên.
[30] Rừng Tiên (Lộc Dã uyển 鹿野苑; S: Mṛgadāva): nơi Đức Phật chuyển pháp luân lần đầu tiên, hiện nay chính là Sārnāth, ở cách thành phố Varanasi 6km, thuộc Bắc Ấn Độ.
[31] Pháp yếu 法要: những nghĩa lí cốt yếu trong giáo pháp.
[32] Trời Ba Mươi Ba (Tam Thập Tam thiên 三十三天; S: Trāyastriṃśat-deva): tầng trời thứ hai trong sáu tầng trời cõi Dục, tầng trời này nằm trên đỉnh núi Tu-di, có bốn đỉnh núi, mỗi phía có tám thiên thành, thành Thiện Kiến ở giữa dành cho trời Đế Thích, tất cả là ba mươi ba nơi, nên còn gọi là Tam Thập Tam thiên.
[33] Thạch mật 石蜜 (S: phāṇita): tên gọi khác của đường phèn.
[34] Lẽ tự nhiên (nguyên bản là tự nhiên chi nguyện 自 然 之 願), Pháp uyển châu lâm quyển 12 ghi là tự nhiên chi số 自然之數.
[35] Đao-lợi 忉利 (S: Trāyastriṃśa): tầng trời thứ hai trong sáu tầng trời cõi Dục, tầng trời này nằm trên đỉnh núi Tu-di, bốn phía đỉnh núi, mỗi phía có tám thành, thành Thiện Kiến ở giữa dành cho trời Đế Thích, gồm ba mươi ba nơi, nên gọi là Tam Thập Tam thiên.
[36] Tì-xá-li 毘舍離 (S: Vaiśāli): một nước thuộc Trung Ấn Độ xưa, là nơi ở của bồ-tát Duy-ma-cật.
[37] Trời Tứ Thiên Vương (Tứ Thiên Vương thiên 四天王天): tầng trời thứ nhất của cõi Dục, ở lưng chừng núi Tu-di.
[38] Tam sơn 三山: ba ngọn núi thần trong thần thoại Trung Quốc.
[39] Ngũ nhiệt 五熱: một phái ngoại đạo ở Ấn Độ, chuyên tu khổ hạnh bằng cách phơi mình ngoài nắng mặc cho năm phần thân thể bị nắng thiêu đốt
[40] Bà-đề (婆提; S:Bhadrika): một trong năm vị tì-kheo đầu tiên trong giáo đoàn Đức Phật. Sau khi Đức Phật xuất gia, Bà-đề cùng A-nhã Kiều-trần-như v.v… vâng lệnh vua Tịnh Phạn theo hầu hạ Đức Phật và cùng tu khổ hạnh.
[41] Trời Tịnh Cư (Tịnh Cư thiên 淨居天): tức năm cõi trời Tịnh Cư thuộc đệ tam thiền.
[42] Trần Tư 陳思 (Cg: Trần Tư Vương): người con thứ hai của Tào Tháo, mới lên mười tuổi mà giỏi về văn thơ,
chỉ cần hạ bút là thành thơ, không cần suy nghĩ.
[43] Văn Tuyên 文宣: chỉ cho Khổng Tử. Vào niên hiệu Khai Nguyên thứ 27, vua Huyền Tông nhà Đường phong cho Khổng Tử làm Văn Tuyên Vương.
[44] Thùy cái 垂蓋: buồn ngủ, theo Duy Thức học, là một trong bốn tâm sở bất định.
[45] Lục tình 六情: đây chỉ cho sáu căn. Đó là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.
[46] Bố tát 布薩 (S: poṣadha, upavasatha, upoṣadha, upavāsa): các tì-kheo ở chung, cứ mỗi nửa tháng nhóm họp lại một chỗ, thỉnh vị tì-kheo tinh thông giới luật nói cho nghe giới bản Ba-la-đề-mộc-xoa, để xét lại hành vi của mình trong nửa tháng qua.
[47] Lục khế 六契: sáu âm vận
[48] Nghiệp chướng 業障 (S: karmāvaraṇa): các nghiệp ác do thân, khẩu, ý của chúng sinh tạo ra, ngăn che chính đạo, một trong ba chướng, một trong bốn chướng.
[49] Tà kiến 邪見 (S: mithyā-dṛṣṭi): kiến chấp sai lầm. Chỉ cho những chủ trương phản bác và không chấp nhận đạo lý nhân quả và tứ đế.
[50] Tịnh nhân 淨人: người ở trong chùa, nhưng chưa cạo tóc, chỉ lo làm những nghiệp thanh tịnh.
[51] Cáp 合: tên một đơn vị đo thể tích thời xưa, một cáp bằng 1/10 thăng.
[52] Gió Tuỳ Lam (Tuỳ Lam phong 毘嵐風): trận gió dữ thổi nhanh và mạnh khi vũ trụ bắt đầu hình thành (kiếp Sơ) và khi kết thúc (kiếp Tận).
[53] Vô cực đăng 無極燈: đèn cháy mãi không tắt.
[54] Tám nơi nạn (bát nạn 八難; S: aṣṭāv akṣaṇāḥ): tám nơi khổ nạn chướng ngại chúng sinh đến với đạo pháp. Tám nạn đó là nạn địa ngục; nạn ngạ quỉ; nạn súc sinh; nạn sinh lên cõi trời Trường Thọ; nạn sinh ở cõi Uất-đan-việt; nạn điếc, đui, câm, ngọng; nạn thế trí biện thông; nạn sinh trước Phật và sau Phật.
[55] Kinh Quán đỉnh (Quán đỉnh kinh 灌頂經; S: Mahābhiṣeka-mantra): kinh, mười hai quyển, do ngài Bạch-thi-lê-mật-đa-la dịch vào thời Đông Tấn, Trung Quốc, được xếp vào Đại Chính tạng, tập 21. Kinh này được hình thành do mười hai bộ kinh nhỏ, từ kinh Quán đỉnh tam qui ngũ giới đái bội hộ thần chú, cho đến kinh Quán đỉnh bạt trừ quá tội sinh tử đắc độ. Mười hai bộ kinh này đều căn cứ vào công đức của mỗi kinh mà có bốn chữ “Phật thuyết Quán đỉnh”, nên gọi là Quán đỉnh kinh.
[56] Vườn Nại (Nại viên 柰園): theo Nghệ Lâm Phạt Sơn, vườn Nại tức là chùa Phật. Theo bản cựu dịch thì vườn cây am-la cũng được gọi là vườn Nại.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 20 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 3.143.214.226 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập