Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Chủ biên: Thích Nguyên Chơn XXVI. RƯỢU THỊT
Gồm ba phần: Lời dẫn, Uống rượu, Ăn thịt.
XXVI.1. Lời dẫn
Uống rượu là mở cánh cửa buông lung. Các Đức Phật biết rõ đó là gốc khổ, nên tránh quán rượu, lìa duyên về rượu, xa bạn say, gần bạn pháp, ra khỏi nơi tối tăm, vào những nơi sáng sủa.
Ăn thịt là đoạn dứt hạt giống đại từ. Các Đức Phật biết rõ đó là nhân của nghiệp giết hại, nên bỏ những thứ tanh hôi để thân khẩu thanh tịnh, ăn rau quả đạm bạc để lắng tâm thần, thường hành từ thiện để tuổi thọ kéo dài. Cho nên, sách Lễ kí[1] ghi: “Thấy chúng sống, không nỡ nhìn chúng chết; nghe tiếng kêu của chúng, không nỡ ăn thịt”. [155c] Đây cũng là ý nghĩa không giết hại vậy.
Người ăn thịt, uống rượu tức đồng với súc sinh. Sài lang, hổ, báo cũng chính là giết hại quyến thuộc của mình, ăn thịt người thân của mình, oán thù báo ứng trải qua muôn kiếp không có ngày ngừng dứt.
Luận Bà-sa ghi: “Có một người nữ năm trăm đời giết hại sói con, sói con cũng năm trăm đời ăn thịt con bà. Lại có người nữ khác năm trăm đời thường giết ma, ma cũng năm trăm đời lấy mạng bà”.
Thế nên biết chúng sinh luân hồi trong sáu đường chịu biết bao nhiêu oán báo, có khi làm thầy, có lúc làm cha mẹ, anh em, chị em, con cháu, bạn bè. Nay mang thân phàm phu không có đạo nhãn[2], nên không thể phân biệt, lại ăn thịt lẫn nhau mà không tự biết. Khi ăn thịt, con vật ấy có tính linh, liền khởi tâm sân hận, trở lại báo thù. Do đó, cốt nhục thân thiết lại trở thành thù oán. Những việc như thế không đáng suy nghĩ sao? Tạm thời hưởng chút vị ngon ngọt nơi đầu lưỡi mà vĩnh viễn thành kẻ oán người thân, mãi mãi nghịch thù. Thật đau lòng không thể nói!
Cho nên, kinh Niết-bàn ghi: “Tất cả thịt đều không được ăn, đến như thịt của con vật tự chết còn không ăn, huống nữa là thịt do mình giết chết”.
Kinh Lăng-già ghi:
Vì lợi giết chúng sinh,
Vì tiền mà đánh bắt,
Hai nghiệp đều bất thiện
Chết đọa ngục Kêu Gào[3].
Thế nào là vì lợi mà đánh bắt lấy thịt? Đó là trên cạn thì đặt bẫy, dưới nước thì giăng lưới.
Thế nào là vì tiền mà đánh bắt lấy thịt? Đó là người đồ tể vì tiền mà mua bán thịt.
Như nay người ấy không vì tiền mà đánh bắt các loài, thì do quen theo ác luật nghi[4] mà đánh bắt giết hại chúng sinh. Người đó chỉ vì thỏa mãn khẩu vị của mình mà bắt chước kẻ khác. Nếu bắt chước kẻ khác ăn thịt chúng sinh, há không dự phần giết hại ư? Như vậy, đâu thể nói “Tôi không giết hại chúng sinh”. Thế thì rõ ràng trái với kinh văn, đoạn dứt hạt giống từ bi, chướng ngại không được gặp Phật.
XXVI.2. Uống rượu
Giáo pháp này có Quyền giáo[5] và Thật giáo[6]. Quyền giáo thì dạy bảo, từng bước dẫn dắt, từ tội nhẹ mà tránh được tội nặng. Khi Phật chưa chế giới thì không phạm, nhưng xét về lý chướng[7], thì uống rượu không phải là không có lỗi. Nếu căn cứ vào Thật giáo, thì nhẹ hay nặng đều răn cấm, trước sau không phạm mới gọi là trì giới.
Đầu tiên, nói theo Quyền giáo.
Kinh Vị tằng hữu ghi: “Một thời, thái tử Kì-đà nghe Đức Phật dạy pháp thập thiện[8] có quả báo không cùng, liền quỳ gối, chắp tay, bạch Phật:
- Xưa Đức Thế Tôn dạy con thọ trì năm giới, nhưng nay con muốn xả. Vì sao? [156a] Trong năm giới, giới uống rượu khó giữ, nên con sợ phạm tội.
Đức Phật hỏi:
- Khi ông uống rượu có làm gì ác không?
Kì-đà thưa:
- Những nhà cường hào trong nước thường đua nhau bày tiệc rượu, rồi cùng vui vẻ; do được vui vẻ, nên không làm ác. Vì sao? Khi uống rượu, con nghĩ đến giới, nên không buông lung; cho nên, tuy uống rượu mà không làm ác.
Đức Phật bảo:
- Lành thay! Này Kì-đà! Ông nay đã được trí tuệ phương tiện[9]. Nếu người thế gian đều như ông thì trọn đời uống rượu, có gì là ác? Người thực hành như vậy thì được phúc mà không có tội. Nếu người uống rượu không tạo nghiệp ác thì tâm hoan hỷ, không khởi phiền não; nhờ tâm hoan hỷ nên được quả báo thiện. Giữ năm giới như thế thì có lỗi gì! Uống rượu mà nghĩ đến giới thì phúc càng tăng. Vì vậy, trước đã giữ năm giới, nay thụ thêm thập thiện, công đức thù thắng gấp bội so với quả báo chỉ thụ thập thiện.
Một thời, vua Ba-tư-nặc bạch Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn! Như lời Phật dạy, khi tâm hoan hỷ, không tạo nghiệp ác, gọi là thiện hữu lậu[10], điều ấy không đúng. Vì sao? Khi người uống rượu, tâm sinh hoan hỷ; vì tâm hoan hỷ, nên không khởi phiền não; vì không khởi phiền não, nên không gây não hại; vì không hại vật, nên ba nghiệp[11] thanh tịnh. Đạo thanh tịnh tức là nghiệp vô lậu[12].
Bạch Đức Thế Tôn! Con nhớ xưa kia khi vào rừng săn bắn, quên dẫn theo người nấu ăn. Bấy giờ, con cảm thấy đói, muốn ăn uống. Quần thần tâu: ‘Sớm mai khi đi, bệ hạ không ban lệnh dẫn theo người nấu, nên không có thức ăn’. Nghe nói vậy, con phóng ngựa về cung, ra lệnh dọn thức ăn. Lúc ấy, người nấu ăn tên là Tu-ca-la nói: ‘Tâu bệ hạ! Thức ăn chưa được chuẩn bị, xin đợi giây lát’. Khi ấy đói lả, con tức giận không kịp suy nghĩ, nên ra lệnh xử chém người ấy. Bề tôi nhận lệnh, cùng bàn với nhau: ‘Tìm khắp trong nước chỉ có người này làm việc trung thành lương thiện, nay nếu giết đi thì không có người thứ hai hợp ý vua’.
Nghe con truyền lệnh giết Tu-ca-la, phu nhân Mạt-lợi[13] vô cùng thương tiếc. Biết con đang đói, phu nhân sai bày đủ các món thịt ngon rượu quý, rồi tắm gội bằng nước thơm đặc biệt, trang sức thân thể, lại dẫn các kỹ nữ đi đến chỗ con. Thấy phu nhân trang sức đẹp đẽ, lại đem theo các kỹ nữ và những món thịt ngon rượu quý, con liền nguôi giận. Vì sao? Phu nhân Mạt-lợi thụ trì năm giới của Phật, bỏ rượu không uống, vì sự giận dữ của con mà bỗng nhiên mang rượu thịt đến, chung vui với con, nên lòng con được cởi mở. [156b] Con cùng phu nhân uống rượu, ăn thịt, trỗi kỹ nhạc, vui vẻ khoái lạc, cơn giận liền vơi. Biết con đã nguôi giận, phu nhân sai thái giám hãy mau truyền lệnh của con: ‘Bảo các ngoại thần chớ giết người nấu ăn’. Thái giám tuân lệnh.
Sáng hôm sau, con hối hận tự trách, buồn rầu không ăn, dáng vẻ tiều tụy. Thấy vậy, phu nhân hỏi con:
- Vì sao bệ hạ buồn rầu? Người có điều gì lo nghĩ chăng?
Con trả lời:
- Hôm qua, do cơn đói bức bách, ta đã nổi giận, nên giết Tu-ca-la, xét trong cả nước, không ai có thể nấu ăn hợp ý ta như Tu-ca-la. Vì thế ta hối hận, lo buồn.
Phu nhân cười nói:
- Tu-ca-la vẫn còn sống, xin bệ hạ chớ buồn!
- Con lại hỏi:
- Là thật hay là đùa?
Phu nhân đáp:
- Là thật, không dám đùa!
Nghe vậy, con sai bề tôi gọi Tu-ca-la đến. Khi diện kiến Tu-ca-la, con rất vui mừng, không còn lo buồn.
Vua lại bạch Phật:
- Phu nhân Mạt-lợi thụ trì năm giới của Phật, mỗi tháng ăn chay sáu ngày, vậy mà trong một ngày đã phạm hai giới uống rượu và vọng ngữ trong năm giới và bát quan trai giới[14]. Việc ấy thế nào? Những tội đã phạm là nhẹ hay nặng?
Đức Phật bảo:
- Phạm giới như thế là được công đức lớn, không có tội báo. Vì sao? Vì có lợi ích. Như trước đây Ta đã nói người tu thiện có hai hạng là thiện hữu lậu và thiện vô lậu[15]. Những giới mà phu nhân Mạt-lợi đã phạm thuộc thiện hữu lậu. Những giới không phạm gọi là thiện vô lậu. Căn cứ vào ngôn từ mà luận, thì phá giới mà tu thiện gọi là thiện hữu lậu. Căn cứ vào ý nghĩa rốt ráo, thì những thiện pháp từ tâm sinh khởi đều là nghiệp vô lậu.
Vua bạch Phật:
- Như Đức Thế Tôn dạy: ‘Phu nhân Mạt-lợi phạm giới uống rượu mà không khởi ác ý, nên có công đức, không có tội báo’. Vậy thì tất cả mọi người cũng lại như thế. Vì sao? Con nhớ gần đây, những nhà hào tộc, vương công thuộc dòng Sát-đế-lợi trong thành Xá-vệ nhân tranh chấp nhỏ mà dẫn đến oán thù lớn. Họ lập mưu dấy binh đánh nhau. Hai bên vốn là thân thích trong nước, nên không thể xử trị. Họ đánh nhau mãi, không nghe lời can gián, nên con rất đau buồn.
Bấy giờ, nhớ lại trước đây, khi còn là thái tử, có lần con tức giận đại thần Đề-vi-la, lòng hận khó quên, nên có ý giết hại. Nhân lúc ấy, thái hậu dâng rượu, uống vào, lòng cảm thấy dễ chịu. Con liền bảo trung thần bày tiệc rượu quý và các món ngon, và sai truyền lệnh các hào tộc, quần thần và sĩ dân trong nước đều tập hợp lại để [156c] bàn việc lớn của quốc gia. Hai nhóm bề tôi tranh chấp nhau, mỗi nhóm dẫn theo năm trăm quyến thuộc đến dự hội. Khi ấy, trên cung điện, con cho bày đại nhạc[16], lại sai trung thần mang vò lưu li sức chứa ba lít, đựng đầy rượu quý trong những vò báu này. Ở trước mọi người, con uống một vò, rồi nói: ‘Nay bàn việc nước, thiết nghĩ cần phải đồng tâm, mỗi người nên dùng một vò thuốc quý ngon này, sau đó hãy bàn việc’. Tất cả đều tuân lệnh. Thế là, con cho trỗi đại nhạc. Mọi người vừa uống vừa nghe, trong lòng vui vẻ, nên quên thù hận. Như vậy, nhờ rượu mà dứt chiến tranh, trở lại yên bình. Đây há chẳng phải là công dụng của rượu ư?
Thiết nghĩ, những người nghèo cùng, thấp hèn, nô bộc, tỳ nữ trong thế gian này, hoặc nhân ngày lễ, nhóm họp uống rượu nơi quán, vì trong lòng vui vẻ, nên không ai bảo mà mỗi người tự nhảy múa. Khi chưa uống rượu thì không có việc ấy. Thế nên biết, con người nhờ uống rượu mà vui vẻ; khi lòng vui vẻ thì không khởi ác ý; không khởi ác ý tức là thiện tâm; nhân đó nên thụ quả báo thiện. Khỉ uống rượu còn biết nhảy múa, huống nữa là người. Như Đức Phật bảo làm thiện được quả báo thiện, làm ác gặt quả báo ác. Phu nhân Mạt-lợi vì đời trước làm nhiều việc thiện, nên nay được quả báo lành. Vì sao, Thế Tôn lại bảo phu nhân thụ trì năm giới, mỗi tháng ăn chay sáu ngày. Trong sáu ngày trai, không được trang sức hương hoa, ca xướng kỹ nhạc; lại không được phép gần chồng, trau chuốt vẻ đẹp. Rốt cuộc bà đâu có làm gì mà gọi là công đức, há chẳng phải tự làm khổ sao?
Đức Phật bảo:
- Lời đại vương hỏi đúng lắm! Nhưng khi phu nhân Mạt-lợi còn trẻ, nếu Ta không dạy thọ trì giới pháp, tu tập trí tuệ, thì làm sao có được công đức như ngày nay để tự độ và độ đại vương? Như vậy, công đức ấy thuộc về ai?”
Trên đây là trình bày sơ lược về Quyền giáo.
Sau đây là căn cứ vào Thật giáo để trình bày tội nặng hay nhẹ. Không phạm mới gọi là trì giới. Cho nên, các Đức Phật biết thời và xét căn cơ chúng sinh mà có thông hay cấm. Thông tắt tức có khai cấm tùy thời, nhưng trước phải lượng định lợi hại.
Như vua Ba-tư-nặc muốn giết người nấu ăn, thái tử muốn hại đại thần, nhưng nhờ rượu mà quên giận, bảo toàn thân mạng người kia, tránh được tội trọng. Đó là nhờ tội nhẹ mà tránh được tội nặng, không bị tai ương, nhưng không phải là không có lỗi uống rượu, không mắc tội ở đời sau! Không được thấy có khai ở trước (phần Quyền giáo) rồi cho rằng giống nhau mà phạm giới; cần phải suy xét ý giáo, lại quán sát đức hạnh của mình hơn hay kém, đã dự vào hàng thánh nhân chưa! Đối với vua Ba-tư-nặc và phu nhân Mạt-lợi, thì khai cấm [157a] không giống nhau. Ở đây, cần phải y cứ vào kinh văn, dầu mảy may cũng không phạm mới là quí nhất.
Cho nên, luật Tứ phần ghi: “Đệ tử của Ta, cho đến giọt rượu nhỏ trên đầu ngọn cỏ cũng không được dính vào miệng, huống là uống nhiều. Thế nên, dù chỉ nếm cũng phạm”.
Luận Thành thật có đoạn:
Hỏi: Uống rượu có phải là tội không?
Đáp: Không phải. Vì sao? Vì uống rượu không làm tổn hại chúng sinh, nhưng đó là nguyên nhân gây tội. Nếu người uống rượu, thì mở cánh cửa bất thiện, ngăn chướng định và các thiện pháp. Như trồng các loại cây ăn quả, nhất định phải có tường ngăn che. Cho nên biết, lỗi của rượu cũng như cây ăn quả không được trồng trong vườn.
Kinh Ưu-bà-tắc ghi: “Nếu người thích uống rượu, thì hiện đời dễ mất tiền của, thân tâm nhiều bệnh, thường ưa đấu tranh, tiếng xấu vang xa, mất hết trí tuệ, không biết xấu hổ, sức khỏe suy kém, thường bị mọi người chê trách, không ai thích nhìn, không thể tu thiện. Đây là quả báo xấu hiện đời của việc uống rượu. Sau khi xả thân này, đọa vào địa ngục, chịu nhiều thống khổ như đói, khát… Đây là quả của nghiệp ác ở đời sau. Nếu được làm người, tâm thường cuồng loạn, không thể nhiếp niệm tư duy pháp thiện. Sức của nhân xấu này làm cho tất cả vật chất của cải đều bị hủy hoại”.
Kinh Trường a-hàm ghi: “Người uống rượu có sáu lỗi là mất tiền của, bị bệnh, ưa đấu tranh, tiếng xấu đồn khắp, dễ sân hận, trí tuệ tổn giảm”.
Luận Đại trí độ có đoạn:
Hỏi: Uống rượu có ba mươi lăm lỗi. Đó là những lỗi gì?
Đáp:
1. Hiện đời của cải tiêu tan. Vì sao? Uống rượu say làm tâm loạn động, không tiết chế, tiêu xài vô độ.
2. Mở cánh cửa của mọi căn bệnh.
3. Nguồn gốc của đấu tranh.
4. Thân thể bày mà không biết xấu hổ.
5. Tiếng xấu đồn xa, không được mọi người kính trọng.
6. Mất hết trí tuệ.
7. Vật đáng được thì không được, vật đã được thì mất.
8. Những điều bí mật đều nói với người.
9. Tất cả việc làm đều thất bại, không thành tựu.
10. Say là gốc của buồn rầu. Vì sao? Khi say gây nhiều lỗi, tỉnh lại mới xấu hổ, lo buồn.
11. Sức khoẻ dần dần suy giảm.
12. Sắc tướng ngày một suy hao.
13. Không biết kính cha.
14. Không biết kính mẹ.
15. Không kính sa-môn.
16. Không kính bà-la-môn.
17. Không kính chú bác và những người lớn tuổi. Vì sao? Khi say tâm trí mê muội, không phân biệt được.
18. Không tôn kính Phật.
[157b] 19- Không tôn kính pháp.
20. Không tôn kính tăng.
21. Kết bạn với kẻ ác.
22. Xa lánh người hiền.
23. Trở thành người phá giới.
24. Không biết hổ thẹn.
25. Không làm chủ được lục tình.
26. Buông lung theo sắc đẹp.
27. Bị người ghét bỏ, không thích nhìn.
28. Bị họ hàng thân thích và bạn bè ghét bỏ.
29. Làm điều ác.
30. Bỏ điều lành.
31. Người hiểu biết không tin dùng. Vì sao? Vì rượu làm cho buông lung
32. Xa lìa niết-bàn.
33. Gieo nhân cuồng si.
34. Sau khi chết, đọa đường ác, địa ngục.
35. Nếu được làm người, thường sinh vào những nơi cuồng loạn, ngu si.
Uống rượu có những lỗi như thế, nên không được uống.
Kinh Sa-di-ni giới ghi: “Không được uống rượu, không được nhấm rượu, không được nếm rượu. Uống rượu có ba mươi sáu lỗi; mất đạo pháp, phá nhà, nguy thân, hại mạng thảy đều do rượu; nghiêng đông ngã tây, giữ nam vin bắc, không thể tụng kinh, không kính tam bảo, xem thường thầy bạn, bất hiếu cha mẹ, tâm ý tối tăm, đời đời ngu si, không gặp chính đạo, tâm không hiểu biết. Do đó, không được uống rượu. Muốn lìa năm ấm[17], năm dục, năm cái[18], chứng năm thần thông[19], vượt qua năm đường, thì không được uống rượu”.
Kinh Tát-ca Ni-kiền-tử có bài kệ:
Uống rượu tâm buông lung,
Hiện đời bị ngu si,
Muôn việc đều quên mất,
Thường bị người trí chê,
Đời sau lại ngu độn,
Mất hết các công đức,
Vì vậy, người có trí,
Xa lìa lỗi uống rượu.
Luận Thập trụ bà-sa có đoạn:
Hỏi: Nếu người cho rượu, không biết có phạm tội chăng?
Đáp: Cho được phúc, người nhận không được uống.
Cho nên, luận ghi: “Vị bồ-tát này có khi thích xả tất cả; hễ người muốn ăn thì cho thức ăn, người muốn uống thì cho thức uống. Nếu cho rượu thì bồ-tát nên nghĩ: ‘Nay là lúc thực hành bố thí, tùy theo điều người mong cầu mà cho, sau sẽ dùng cách dạy họ lìa rượu để có trí tuệ, không còn phóng dật’. Vì sao? Pháp bố thí ba-la-mật[20] cốt làm thỏa mãn ý nguyện của người. Bồ-tát tại gia cho rượu thì không phạm tội”.
Kinh Phạm võng ghi: “Nếu tự tay trao chén rượu cho người uống, [157c] thì năm trăm đời không tay, huống là tự uống. Cũng không được bảo người và tất cả chúng sinh uống rượu, huống là tự mình uống”.
Kinh Ưu-bà-tắc ngũ giới tướng ghi: “Khi Đức Phật trú tại ấp Bạt-đà-la-bà-đề ở nước Chi-đề, có con rồng dữ tên là Yêm-la-bà-đề-đà hung ác hại người, không ai đến đó được, voi ngựa không thể lại gần, cho đến các loài chim cũng không thể bay ngang. Bấy giờ, đến mùa thu hoạch, lúa chín đều bị tàn phá.
Khi ấy, trưởng lão Sa-ca-đà, vị tì-kheo đã chứng A-la-hán, đi sang nước Chi-đề, dần dần đến ấp Bạt-đà-la-bà-đề. Sáng sớm hôm sau, trưởng lão đắp y, mang bát, vào làng khất thực. Nghe ấp này có con rồng dữ, hung ác hại người, chim thú và tàn phá lúa chín, trưởng lão đến chỗ rồng này, trải tọa cụ và ngồi nơi gốc cây, có những con chim đang đậu. Rồng nghe mùi y phục, liền nổi giận, từ thân phát ra khói, trưởng lão Sa-ca-đà liền nhập tam-muội[21], dùng sức thần thông, từ thân cũng phát ra khói. Rồng càng phẫn nộ, trên thân phát ra lửa, trưởng lão lại nhập Hỏa quang tam-muội[22], thân cũng phát ra lửa. Rồng tuôn mưa đá, trưởng lão biến mưa đá thành các thứ bánh, như bánh thích-câu, bánh tủy[23]… Rồng nổi sấm sét, trưởng lão lại biến thành các viên kẹo hoan hỷ. Rồng tuôn mưa cung tên, giáo mác, trưởng lão lại biến thành các loại hoa, như hoa ưu-bát-la[24], hoa ba-đầu-ma[25]… Rồng biến vô số rắn độc, rắn hổ mang, rít, sâu bọ… trưởng lão lại biến thành chuỗi hoa ưu-bát-la, chuỗi hoa chiêm-bặc[26]…
Cứ như vậy, tất cả năng lực rồng biến hiện ra đều không thể hơn trưởng lão. Bấy giờ, rồng mất hết uy lực và hào quang. Biết sức rồng đã hết, không thể làm gì được, trưởng lão biến thân nhỏ chui vào hai tai rồng, ra từ hai mắt, rồi chui vào mũi, ra từ miệng; lại ra vào lui tới trên đầu rồng, nhưng không làm thương tổn thân nó.
Rồng thấy sự việc như thế, trong lòng kinh hãi, vẩy toàn thân dựng đứng, chắp tay, thưa với trưởng lão:
- Con xin quy y tôn giả.
Trưởng lão bảo:
- Ngươi chớ quy y ta, nên quy y với Đức Phật là thầy của ta.
Rồng thưa:
- Từ nay, con xin quy y tam bảo, nguyện trọn đời làm ưu-bà-tắc[27] theo Phật.
Sau khi thọ tam quy, rồng trở thành đệ tử Phật, không làm những việc bạo ác như trước nữa. Dân chúng, chim muông đều đến nơi ấy, lúa chín không bị phá hoại. Bấy giờ, các nước đều biết trưởng giả Sa-ca-đà đã hàng phục và cảm hóa rồng độc [158a] trở nên thuần thiện. Từ đó danh tiếng của trưởng giả vang xa, mọi người thiết trai tranh nhau thỉnh mời. Trong đó, một cô gái nghèo có lòng kính tín, thỉnh được trưởng giả. Cô ta dâng cúng trưởng giả món cháo tô nhũ[28]. Khi trưởng giả dùng cháo, cô gái suy nghĩ: ‘Vị sa-môn dùng món cháo tô nhũ này, có lẽ sẽ lạnh bụng’. Thế là cô liền lấy rượu trắng dâng lên trưởng giả. Trưởng giả không nhìn mà uống. Uống xong, trưởng giả thuyết pháp, rồi trở về chùa. Đi được nửa đường, hơi men bộc phát, trưởng giả bất tỉnh, té ngã gần bên cổng chùa. Y Tăng-già-lê[29], đãy lọc nước, bình bát, gậy… mỗi thứ một nơi, thân ở một ngả, say mèm, không còn biết gì cả.
Lúc ấy, Đức Phật và tôn giả A-nan đi đến, nhìn thấy tì-kheo Sa-ca-đà. Đức Phật biết nhưng vẫn hỏi:
- Ai vậy?
A-nan thưa:
- Bạch Đức Thế Tôn! Đây là trưởng lão Sa-ca-đà.
Đức Phật liền bảo A-nan:
- Ông hãy trải tòa, lấy nước và nhóm tăng tại đây.
Vâng lời Phật dạy, sau khi làm xong, A-nan liền bạch:
- Bạch Đức Thế Tôn! Chúng tăng đã nhóm.
Đức Phật biết đã đúng giờ, liền rửa chân, ngồi vào tòa rồi hỏi các tì-kheo:
- Các ông đã từng nghe thấy con rồng Yêm-la-bà-đề-đà hung dữ, ác độc không? Trước đây, không ai đến chỗ nó được, cho đến chim thú cũng không đến gần, lúa chín thu hoạch thì bị phá hoại, nhưng nay Sa-ca-đà đã hàng phục, cảm hóa nó trở nên thuần thiện, chim thú có thể đến ở.
Trong đó, những người đã thấy thì thưa ‘thấy’, những người nghe tên thì thưa ‘nghe’. Phật lại hỏi các tì-kheo:
- Các ông nghĩ sao, nay thiện nam tử Sa-ca-đà này có thể hàng phục ễnh ương không?
Thưa:
- Không thể.
Đức Phật bảo:
- Bậc thánh uống rượu còn mất hết năng lực như thế, huống là phàm phu! Những lỗi như vậy đều do uống rượu. Từ nay trở đi, nếu nói là đệ tử của Ta, thì không được uống rượu, cho đến một giọt rượu nhỏ trên đầu ngọn cỏ cũng không được uống”.
Sau đó, Đức Phật dùng nhiều lời quở trách lỗi uống rượu.
Căn cứ theo luận, nhân chuyện của trưởng lão Sa-ca-đà, Phật chế giới không uống rượu cho các tì-kheo.
Hỏi: Xin hỏi trên trời có ai uống rượu không?
Đáp: Thật không có rượu được nấu từ gạo, chỉ có rượu do nghiệp hóa sinh.
Cho nên, kinh Chính pháp niệm ghi: “Đêm nọ, thiên nam ở cõi trời Dạ-ma[30] cùng với các thiên nữ vào hồ vui chơi, cùng uống rượu trời, không làm say người, nên hiện tại thụ hưởng công đức an lạc, vui vẻ, có đủ sắc, hương, vị, xúc. Trong đó, có vị trời dùng chén ngọc để uống rượu, thụ dụng tô-đà[31] có đủ sắc, hương, vị, xúc. Họ nghĩ: ‘Nước này là rượu, để cho ta uống'. Vừa nghĩ như vậy, thì cam lồ biến thành rượu, không làm say người, [158b] họ uống vào, càng thêm khoái lạc. Nhờ sức thiện nghiệp, nên tâm hoan hỷ. Song chư thiên này do nghiệp lực của mình, nên chỉ thụ lạc như thế.
Bấy giờ, có con chim tên Thường lạc, nhìn thấy chư thiên đang uống rượu tại sông Hoan Hỷ, liền nói kệ:
Chìm vào biển phóng dật,
Tham đắm các cảnh giới,
Rượu ấy làm mê tâm,
Đâu cần vui phải uống?
Đó là cảnh lửa thiêu,
Làm, không làm chẳng biết,
Vườn rừng ươm lòng tham,
Cần gì phải uống rượu?
Thấy chư thiên uống rượu trên sông, chim Thường Lạc nói bài kệ trên để cảnh tỉnh họ”.
Kinh Chính pháp niệm ghi: “Vua Diêm-la quở trách người tội:
Rượu làm loạn tâm người,
Khiến họ như súc sinh,
Chẳng biết việc đáng làm,
Và việc không nên làm,
Vì thế nên bỏ rượu.
Nếu là kẻ say rượu,
Chẳng khác gì người chết,
Nếu ai chẳng muốn thế,
Thì phải nên bỏ rượu.
Rượu là gốc tội lỗi,
Không mảy may lợi ích,
Dẫn vào mọi đường ác,
Những cảnh giới tối tăm,
Uống rượu sẽ bị đọa,
Địa ngục và ngạ quỷ,
Tạo các nghiệp súc sinh,
Đều do lỗi uống rượu.
Rượu là độc trong độc,
Ngục dữ trong các ngục,
Bệnh lớn trong các bệnh,
Người trí nói như thế.
Nếu người thường uống rượu,
Bỗng nhiên sinh vui vẻ,
Bất chợt lại nổi sân,
Vô cớ tạo nghiệp ác.
Không phân biệt Phật pháp,
Phá pháp thế, xuất thế,
Như lửa thiêu giải thoát,
Tất cả đều do rượu.
Người có thể bỏ rượu,
Thực hành đúng giới pháp,
Sẽ đến chỗ cao tột,
Không tử cũng không sinh”.
Hỏi: Không bệnh mà uống rượu thì phạm tội, bị bệnh cho uống rượu không?
Đáp: Theo luật Tứ phần, nếu người thật có bệnh, uống thuốc không lành, dùng rượu làm thuốc thì không phạm.
[158c] Hỏi: Cho uống bao nhiêu?
Đáp: Kinh Văn-thù-sư-lợi vấn ghi: “Theo cách pha chế thuốc thang thì thầy thuốc bảo dùng nhiều thuốc hòa vào rượu; tức là rượu ít thuốc nhiều thì được dùng”.
Kinh Xá-lợi-phất vấn ghi: “Xá-lợi-phất bạch Phật:
- Vì sao Thế Tôn nói già giới[32] không được uống rượu, như hạt cây đay[33], đây gọi là phá giới, mở cánh cửa buông lung?
- Bởi vì có tì-kheo ở tinh xá tại vườn tre Ca-lan-đà[34] bị bệnh nhiều năm, nguy kịch sắp chết.
Bấy giờ, Ưu-ba-li nói:
- Thầy cần thuốc gì, tôi sẽ đi tìm. Cho dù đi khắp cõi người hay lên trời, cho đến mười phương, chỗ nào có thuốc tôi sẽ đến lấy.
Tì-kheo thưa:
- Thứ thuốc tôi cần trái với giới luật, nên không thể dùng, do đó mà đến nỗi này, thà mất thân mạng chứ không phạm giới.
Ưu-ba-li hỏi:
- Đó là thuốc gì?
Tì-kheo thưa:
- Thầy thuốc bảo phải dùng năm lít rượu.
Ưu-ba-li nói:
- Nếu vì bệnh thì Như Lai cho phép.
Ưu-ba-li liền xin rượu. Vị tì-kheo uống vào, bệnh lành hẳn, nhưng tì-kheo vẫn hổ thẹn cho rằng mình đã phạm giới, nên đến gặp Phật, tha thiết sám hối. Phật thuyết pháp, vị tì-kheo nghe xong, hoan hỷ, liền chứng quả A-la-hán.
Đức Phật dạy:
- Rượu có nhiều lỗi, mở cánh cửa buông lung. Uống rượu như hạt cây đay, phạm tội chồng chất.
Nếu dứt được bệnh khổ, thì phần trên (Quyền giáo) đã không ngăn cấm.
Không được thấy Phật khai cho mà trường hợp nào cũng đều uống. Phải là bệnh thật nặng, nguy kịch sắp chết, đã dùng các thứ thuốc khác trị mà không lành thì được dùng, nhưng phải hòa với thuốc mới được.
Căn cứ phần khai ở trên, xét thấy người không hiểu biết, thân thể cường tráng mà hằng ngày chỉ lo rong ruổi, không theo luật nghi, hễ có chút bệnh đã khởi lòng tham lớn, không hộ trì đạo nghiệp, lại vọng dẫn kinh luật: ‘Phật cho dùng rượu làm thuốc, y phục tốt đẹp dâng cúng Phật và tăng’. Những người này nhân việc công để làm việc tư, lừa dối tăng tục. Cho nên, người trí giữ giới như quí thân mạng, không dám trái phạm”.
Vì vậy, kinh Tát-già Ni-kiền tử có bài kệ:
Rượu là gốc buông lung,
Không uống, ngăn đường ác,
Thà bỏ trăm nghìn thân,
Không hủy phạm giới pháp,
Thà để thân khô gầy,
Nhất định không uống rượu.
Giả sử hủy phạm giới,
Mà tuổi thọ trăm năm,
Không bằng chết tức thời,
Mà giữ trọn giới cấm.
[159a] Biết chắc là khỏi bệnh,
Ta vẫn không chịu uống,
Huống nay không biết rõ,
Bệnh khỏi hay không khỏi.
Khởi tâm dứt khoát này,
Trong lòng thật hoan hỷ,
Tức thấy được chân đế,
Mọi bệnh đều diệt trừ.
Nên biết, tất cả các bệnh của chúng sinh đều do nhân tham, sân, ngã mạn gây nên; từ nhân đưa đến quả, rồi chuốc lấy khổ đau, chứ chẳng phải do không được thuốc rượu mà bệnh không lành.
Cho nên, kinh Niết-bàn ghi: “Tất cả chúng sinh có bốn mũi tên độc là nhân của bệnh. Đó là tham dục, sân khuể, ngu si và kiêu mạn. Nếu có nhân bệnh thì bệnh phát khởi; như các bệnh nóng phổi, hen suyễn, nôn mửa, mụn nhọt, loạn tâm, tiêu chảy, nấc cụt, đái dầm, đái rắt, tai đau, đau mắt nhức, no hơi đầy bụng, điên cuồng hốc hác, ma quỉ dựa dẫm. Như vậy, nếu biết rõ gốc bệnh của thân tâm, dứt ác tu thiện, thì vĩnh viễn đoạn trừ quả khổ ba đời. Nếu không xét rõ lý này, mà dùng càn các thứ rượu thuốc trên đời để trị, thì bệnh càng tăng, thật khó lành được”.
Kinh Tì-ni mẫu ghi: “Tôn giả Di-sa-tắc nói:
- Tì-kheo Sa-đề lúc nhỏ nhờ rượu mà nuôi lớn thân mạng. Sau đó, ông xuất gia không được uống rượu, tứ đại không điều hòa, nên các tì-kheo bạch Phật.
Đức Phật dạy:
- Bệnh thì cho phép ngửi mùi rượu trên vò, nếu hết bệnh rồi thì không được ngửi. Nếu chưa thì cho phép dùng rượu lau thân, vẫn không thì cho phép dùng rượu trộn với gạo làm bánh để ăn; vẫn không hết bệnh thì cho ngâm mình trong rượu”.
Luận Tân bà-sa ghi: “Như khế kinh nói: ‘Khi tôn giả Xá-lợi Phất ở trong một khu rừng tại nước Kiều-tát-la, có một ngoại đạo xuất gia với mục đích nuôi sống thân mạng cũng ở trong khu rừng này, gần chỗ tôn giả. Mỗi khi người dân trong các thôn xóm cách đó không xa mở lễ hội kéo dài bốn tháng, ngoại đạo đi khắp các thôn xóm, ăn thịt heo no nê, tha hồ uống rượu, trộm lấy thức ăn thừa, rồi trở về rừng. Trên đường đi, gặp tôn giả Xá-lợi Phất ngồi nơi gốc cây, ngoại đạo do say rượu, nên khởi tâm khinh miệt, suy nghĩ: ‘Nay ta và người ấy đều xuất gia, nhưng ta thì giàu sang, còn người ấy thì nghèo khổ’. Ngoại đạo liền đi đến chỗ tôn giả, nói kệ:
Ta đã no rượu thịt,
Lại trộm lấy đem về,
[159b] Cỏ cây cùng đất đá,
Đều xem như vàng ròng.
Nghe vậy, tôn giả Xá-lợi Phất nghĩ: ‘Kẻ ngoại đạo chết tiệt này thật không biết xấu hổ, lại còn ngang ngược nói bài kệ như thế. Ta nay cũng nên đáp lại’. Nghĩ xong, tôn giả nói:
Ta thường no vô tướng,
Hằng trụ không định môn,
Cỏ cây cùng đất đá,
Đều xem như đàm dãi”.
Trong bài kệ này, tôn giả Xá-lợi Phất dùng tiếng rống sư tử thuyết tam giải thoát môn[35]. Câu đầu nói về vô tướng giải thoát môn, câu thứ hai nói về không giải thoát môn, hai câu cuối nói về vô nguyện giải thoát môn.
XXVI.3. Ăn thịt
Pháp này cũng có Quyền và Thật.
Về Quyền giáo, căn cứ vào luật tạng, lúc Đức Thế Tôn mới thành đạo, vì muốn độ hàng phàm phu thô ác, chưa kham nổi lý sâu mầu, nên trong tiệm giáo, Ngài nói ba thứ tịnh nhục[36] là lìa thấy, nghe, nghi. Nghĩa là thịt không phải vì mình mà giết, chim thú già tự chết đều cho phép ăn. Trước thô sau tế, giúp dần lìa xa tội lỗi, đây là ý thú biệt thời[37], là giáo thuyết bất liễu nghĩa[38]. Nếu là Thật giáo, thì từ lúc mới thành đạo cho đến đêm nhập niết-bàn, Đức Phật thiết tha dặn dò, trước sau chẳng cho phép ăn thịt.
Kinh Niết-bàn ghi: “Tất cả chúng sinh nghe mùi thịt của nó đều kinh hãi mà khởi ý tưởng sợ chết. Loài sống trên đất liền, dưới nước hay không trung đều bỏ chạy và nói: ‘Người này là oán thù của chúng ta’. Vì thế, bồ-tát không nên ăn thịt, vì độ chúng sinh mà thị hiện ăn thịt, tuy hiện ăn thịt nhưng kỳ thật chẳng ăn. Chỉ vì chúng sinh chấp vào cái thấy mà chẳng hiểu ý Như Lai vì phương tiện mà nói, rồi chấp chặt vào giáo tì-ni giới hạn, liền bảo Phật cho ăn ba thứ tịnh nhục, lại phỉ báng, cho Như Lai cũng ăn thịt. Kẻ ngu si kia thành tội chướng lớn, mãi mãi đọa vào nơi không có lợi ích, cũng không được gặp đệ tử của thánh hiền trong hiện tại và vị lai, huống là được gặp các Đức Như Lai!
Này Đại Huệ! Các vị thanh văn thường nên ăn những thứ gạo, bún, dầu, mật… có thể nuôi sống thân mạng một cách thanh tịnh. Những vật chứa nuôi phi pháp, của nhận lấy phi pháp, Ta nói là bất tịnh còn không cho ăn, huống gì cho ăn máu thịt bất tịnh? Không chỉ ăn thịt mới phá điều thiện, ngăn đường đạo, mà các việc tà mạn, dối gạt để mưu cầu sự sống cũng đều chướng ngăn thánh đạo”.
[159c] Kinh Văn-thù-sư-lợi vấn ghi: “Nếu con vật ấy vì mình mà bị giết thì không được ăn, nếu là thịt của thú trong rừng tự chết đã thối rã, thì được ăn; nhưng trước khi ăn, phải đọc thần chú này ba lần: Đa-điệt-tha (như thị), a-nại-ma a-nại-ma (vô ngã vô ngã), a-thị-bà-đa a-thị-bà-đa (vô thọ mạng vô thọ mạng), na-xá na-xá (thất thất), đà-a đà-a (thiêu thiêu), bà-phất bà-phất (phá phá), tăng-kha-lật-đa-nhị (hữu vi), tá-ha (trừ sát khứ)”.
Có trường hợp cơm cũng không được ăn. Tại sao? Nếu nghĩ cơm này không đáng ăn thì không nên ăn, huống gì ăn thịt?
Đức Phật bảo Văn-thù Sư-lợi:
- Vì chúng sinh không có lòng từ bi, ưa sát hại, nên cấm ăn thịt. Nếu không có tâm sát hại, có đại từ bi, vì muốn giáo hóa tất cả chúng sinh mà ăn thịt thì không có tội.
Đây cũng là giáo pháp thời kỳ đầu tạm chế như vậy. Tức không được ăn thịt những con vật vì mình mà bị giết. Nếu chúng tự chết hay thối rữa, tưởng như cỏ cây thì khai cho ăn. Trường hợp muốn ăn thì sinh lòng hổ thẹn, tụng chú rồi sau mới được ăn. Thời gian sau, khi đã chế định cấm hẳn, bất luận là thịt con vật tự chết hay chim thú già chết đều không được ăn. Như kinh Vị tằng hữu khai cho uống rượu, kinh Văn-thù-sư-lợi vấn khai cho ăn thịt… Xét các kinh này là Như Lai lúc mới thành đạo, vì thấy căn cơ chúng sinh chẳng thể đoạn ngay, chế ngay mà phải khai dần, chế dần. Về sau, biết căn cơ chúng sinh thuần thục bèn đoạn hẳn, cấm hẳn, mảy may cũng không cho.
Nếu chẳng nêu ra căn nguyên, thì kẻ ngu chỉ đọc kinh này, liền mặc tình hủy phạm, chẳng hiểu việc cho hay ngăn, thông hay tắc đều khác nhau. Do đó, ghi ra những đoạn văn tiệm và đốn để biết được tường tận ngọn ngành, ngõ hầu dứt hẳn nghiệp ác, hiển bày Phạm hạnh.
Hỏi: Rượu là thuốc điều hoà tinh thần, thịt là món ăn ngon cứu đói; xưa nay đều ưa thích, sao lại chê mà không ăn? Giả sử Phật giáo nghiêm cấm như thế, vậy khi gặp lúc tang chế hay lễ tiết, như quốc vương sắc ban ăn theo thế tục, thì chúng tăng cũng kháng cự không ăn được sao?
Đáp: Tham tài hiếu sắc là điều trượng phu khinh bỉ, ham ăn thích đẹp là điều kẻ sĩ ghét chừa, dứt tình theo đạo ấy chuyện bậc hiền ngợi khen, tiết dục mến đức là việc bậc triết ca tụng. Huống là thịt do giết mạng, rượu hay làm loạn tâm, không ăn là phải lẽ, đâu thể cho là sai quấy. Dù gặp cảnh trên bức ép cũng phải dứt tiệt, [160a] tuy trái mệnh vua, nhưng lại thuận lòng Phật.
Hỏi: Thịt do hại mạng mà có nên đoạn là điều đương nhiên, còn rượu thì chẳng tổn hại sự sống, vì sao cấm hẳn? Giả sử không tổn hại mà cho là tội, không lỗi lầm mà nói là quấy thì ăn cơm, canh cũng phải mắc tội. Nhưng thật không phải thế, vì sao lại chỉ cấm rượu?
Đáp: Tùy việc mà chế giới, dựa theo tâm mà luận tội. Tính chất của thịt là do sát hại nên ăn vào liền mắc tội, tính chất của rượu tuy chẳng tổn hại, nhưng lỗi ở chỗ che mờ lí trí mà gây ra tội lỗi. Như vậy, tội lỗi phát sinh là do rượu, dứt rượu thì tội tiêu trừ. Vì thế ngăn cấm chẳng đồng, chứ chẳng phải cho tính chất của rượu là tội lỗi.
Hỏi: Tội có tính tội và già tội[39], đặc tính của rượu hay sinh tội. Nay người có tửu lượng cao, có thể uống không say, lại chẳng loạn tâm, cũng không gây tội, người này uống rượu theo lẽ không mắc tội. Thế thì có thể uống mà không lỗi, vì không chuốc lấy tội, vậy có liên quan gì đến việc dứt rượu mà chế thành giới thiện? Có thể nói: Người có tửu lượng cao được gọi là trì giới, uống ít mà say liền có tội lớn, được không?
Đáp: Ngăn tội ngừa lỗi, vốn là sinh thiện. Giới là dừng mọi điều xấu ác của thân và khẩu. Trong tất cả trường hợp phải chấm dứt cả tính tội và già tội thì mới được gọi là giới thiện. Người có tửu lượng cao đã không loạn tâm, chưa phá giới khác, đúng lý là chẳng phạm tội. Nhưng chỉ vì uống rượu là nguyên nhân sinh ra tội, ngoài thì trái điều Phật cấm, trong thì tạo nhân phạm tội, cho nên vẫn gọi là có tội. Nếu vì chống trái mà không uống thì vẫn chưa cho là giữ giới!
Trước hết, căn cứ vào trường hợp thật có tổn hại; kinh dạy người ăn thịt có mười lỗi:
1. Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay đều là quyến thuộc của mình, nên chẳng nỡ ăn thịt.
Kinh Nhập lăng-già ghi: “Ta quán chúng sinh luân hồi trong năm đường, cùng sinh dưỡng trong vòng sinh tử, thay nhau làm cha mẹ, anh em, chồng vợ, hoặc nam hoặc nữ, lục thân quyến thuộc, nội ngoại, hoặc sinh vào đường khác, dù thiện hay ác cũng thường làm quyến thuộc. Vì nhân duyên ấy, ta thấy chúng sinh đều là quyến thuộc lại ăn thịt nhau; do tham mùi thịt mà lần lượt ăn nuốt lẫn nhau, sinh tâm sát hại, tăng trưởng nghiệp khổ, trôi lăn trong sinh tử không thể ra khỏi.
Khi Đức Phật nói vậy, các quỷ dữ la-sát nghe xong, đều bỏ tâm ác, không còn ăn thịt, lần lượt khuyên nhau phát tâm Bồ-đề, bảo hộ chúng sinh như bảo hộ mình, không ăn tất cả các loại thịt, rồi kêu khóc thống thiết, bạch Đức Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn! Con nghe Ngài nói, xét kỹ chúng sinh trong sáu đường bị con ăn thịt đều là người thân của con. Giờ đây, con mới biết ăn thịt chúng sinh là oán thù lớn, dứt hạt giống đại từ, thêm lớn nghiệp bất thiện, là gốc khổ đau. [160b] Từ hôm nay, con không ăn thịt và quyến thuộc của con cũng không được ăn. Đệ tử của Như Lai vị nào không ăn thịt thì con sẽ ngày đêm gần gũi ủng hộ; vị nào ăn thịt, con sẽ làm cho người đó không có được lợi ích.
Này Đại Huệ! Quỷ dữ la-sát thường ăn thịt, nhưng nghe Ta nói như vậy, liền phát lòng từ bỏ thịt không ăn, huống là đệ tử của Ta tu hành thiện pháp mà ăn thịt ư? Nên biết, nếu ăn thịt liền thành oán thù lớn của chúng sinh, đoạn hạt giống thánh của Ta.
Này Đại Huệ! Nếu đệ tử của Ta đã nghe dạy mà không quán sát kỹ lại ăn thịt thì nên biết đó là hạng chiên-đà-la, chẳng phải là đệ tử của Ta, Ta chẳng phải là thầy của người đó”.
2. Người ăn thịt, chúng sinh thấy đều kinh sợ, nên không được ăn.
Kinh Nhập lăng-già ghi: “Người ăn thịt, chúng sinh nghe mùi đều sợ hãi, bỏ chạy thật xa. Thế nên, bồ-tát tu hạnh như thật, vì hóa độ chúng sinh không nên ăn thịt. Thí như chiên-đà-la, thợ săn, đồ tể, người bẫy chim, đánh cá… đi đến nơi đâu, chúng sinh vừa trông thấy từ xa, liền suy nghĩ: ‘Ta nay chết chắc, người này chính là kẻ đại ác, chẳng biết tội ác, giết mạng chúng sinh mong được lợi trước mắt. Vì muốn ăn thịt, nên họ đến đây tìm chúng ta, bây giờ chúng ta phải chết’.
Này Đại Huệ! Do ăn thịt nên khiến chúng sinh trông thấy đều sợ hãi như thế.
Này Đại Huệ! Tất cả chúng sinh sống trên mặt đất hay không trung thấy người ăn thịt đều sợ hãi và nghi ngờ: ‘Ngày nay, ta chẳng biết là chết hay sống. Kẻ ác như thế chẳng có từ tâm, khác nào lang sói đi khắp thế gian tìm thịt để ăn, như trâu ăn cỏ, như bọ hung nhũi phân, chẳng biết no đủ. Thân ta là thịt, chính là thức ăn của họ, không nên gặp mặt, phải mau tránh xa, giống như người sợ la-sát’”.
3. Người ăn thịt phá hoại tín tâm người khác, do đó không nên ăn thịt.
Kinh Nhập lăng-già ghi: “Nếu người ăn thịt sẽ khiến chúng sinh mất hết tín tâm và cho người trong thế gian không đáng tin. Thế nên, người ăn thịt sẽ bị quả báo đoạn mất niềm tin của chúng sinh”.
Vì vậy, Đại Huệ! Bồ-tát vì bảo vệ tín tâm cho chúng sinh, không được ăn tất cả các thứ thịt. Tại sao? Vì người thế gian thấy có tì-kheo ăn thịt thì sẽ hủy báng tam bảo như vầy: “Ai ngờ những sa-môn, bà-la-môn tu Phạm hạnh chân thật trong Phật pháp, mà bỏ cách ăn của thánh nhân lại ăn thịt chúng sinh giống như la-sát thế sao!”.[160c] Cắt đứt pháp luân của Ta, đoạn tuyệt giống thánh, tất cả đều do lỗi ăn thịt.
Này Đại Huệ! Đệ tử của Ta ngăn người ác hủy báng tam bảo, không được nhớ nghĩ đến thịt, huống là ăn nuốt!
4. Người tu tập từ tâm và thiểu dục không nên ăn thịt.
Kinh Nhập lăng-già ghi: “Vì cầu ra khỏi sinh tử, nên bồ-tát phải luôn nhớ nghĩ đến hạnh từ bi, thiểu dục tri túc, chán nỗi khổ của thế gian, cầu mau giải thoát, lánh xa náo nhiệt, đến nơi thanh vắng, ở rừng Thi-đà[40] hay A-lan-nhã[41], ngồi tư duy một mình ở gốc cây hay gò mã, quán xét tất cả cảnh thế gian chẳng có gì đáng vui, vợ con như gông cùm, đền đài cung điện tợ lao ngục, trân bảo giống phân dãi, xem thức uống ăn như máu mủ, thụ nhận thức ăn uống, phải khởi tưởng như nuôi ung nhọt, để duy trì sự sống chuyên tâm nơi thánh đạo, chứ không vì tham ăn; bỏ hết rượu thịt, không ăn các thứ cay nồng, như hành hẹ, tỏi nén. Người như thế mới thật tu hành, xứng đáng được tất cả trời người cúng dường. Nếu không sinh tâm nhàm chán, xa lìa thế gian mà tham đắm rượu thịt cay nồng, thì không xứng đáng nhận vật cúng của tín thí”.
5. Người ăn thịt đều do quá khứ từng làm la-sát dữ, do tập khí nên nay tham thịt. Vì vậy không nên ăn thịt.
Kinh Nhập lăng-già ghi: “Có các chúng sinh từng tu vô lượng nhân duyên trong quá khứ, nay có chút căn lành được nghe chính pháp, có lòng tin xuất gia trong giáo pháp của Ta. Nhưng vì quá khứ từng làm quyến thuộc của la-sát, hay sinh vào loài cọp, sói, sư tử, mèo, chồn, cho nên, nay tuy ở trong pháp Ta mà vẫn còn tập khí ăn thịt, thấy người ăn thịt thì mừng rỡ đến gần; vào thành ấp, xóm làng, chùa tháp ăn thịt uống rượu để vui thú. Chư thiên và loài người thấy những kẻ ấy như la-sát giành ăn xác chết, mà không tự biết. Người này đã không được dự vào trong chúng của Ta, mà thành quyến thuộc của la-sát. Tuy mặc ca-sa, cạo bỏ râu tóc, nhưng chúng sinh trông thấy đều kinh hãi như sợ la-sát”.
6. Người ăn thịt học chú thuật thế gian cũng không thành, huống là chứng đắc pháp xuất thế! Do vậy, hành giả không nên ăn thịt.
Kinh Nhập lăng-già ghi: “Các thầy chú thuật tà kiến trong thế gian vì muốn thành tựu tà thuật còn không ăn thịt, huống gì đệ tử của Ta vì [161a] cầu thánh đạo vô thượng xuất thế giải thoát của Như Lai? Tu đại từ bi, tinh cần khổ hạnh mà ăn thịt, e rằng còn không được, nói gì đến việc giải thoát! Vì người ngu kia ăn thịt mà dẫn đến như thế.
Thế nên, Đại Huệ! Đệ tử của Ta vì cầu niềm vui giải thoát ra khỏi thế gian thì không nên ăn thịt”.
7. Chúng sinh đều yêu quí thân mạng giống mình không khác. Do vậy, hành giả không nên ăn thịt.
Kinh Nhập lăng-già ghi: “Ăn thịt thì khí lực mạnh, tham ăn uống, cho nên, người nhiều tham đắm. Phải nên xét kỹ, tất cả những loài có mạng sống trong thế gian đều tự quý trọng thân mình và rất sợ chết. Người và vật đều tiếc giữ thân mạng, thà làm thân chồn hoang ghẻ lở chứ quyết không chịu bỏ thân để nhận lấy niềm vui của cõi trời. Tại sao? Vì sợ chết. Do đó, nên xem chết là khổ lớn, là điều đáng sợ. Bản thân sợ chết, vì sao muốn giết loài khác để ăn thịt?
Thế nên, Đại Huệ! Người muốn ăn thịt, trước nên tự quán thân mình, sau nghĩ đến chúng sinh, mà không nên ăn thịt”.
8. Chư thiên, hiền thánh đều xa lìa người ăn thịt, ác thần cũng e sợ. Do đó, hành giả không nên ăn thịt.
Kinh Nhập lăng-già ghi: “Phàm người ăn thịt, chư thiên còn lìa xa huống gì là thánh nhân. Thế nên, bồ-tát vì mong gặp thánh nhân, nên tu tập tâm từ bi, không được ăn thịt.
Này Đại Huệ! Người ăn thịt, lúc ngủ nghỉ cũng khổ, lúc thức dậy cũng khổ. Như khi ngủ nằm mộng thấy các việc ác, kinh hãi dựng tóc, tâm thường bất an. Do không có lòng từ, nên sức thiện yếu kém, nếu một mình ở nơi thanh vắng thì cũng thường bị phi nhân tìm chỗ sơ hở để hại; cọp, sói, sư tử cũng đến rình tìm cách ăn thịt. Cho nên, tâm luôn lo sợ, không được an ổn”.
9. Người tu hành, tịnh nhục còn không nên ăn, huống là bất tịnh nhục. Do đó, hành giả không nên ăn thịt.
Kinh Nhập lăng-già ghi: “Ta nói phàm phu vì cầu mạng sống thanh tịnh mà ăn tịnh nhục, nhưng phải nghĩ tưởng như ăn thịt con, huống gì dùng những thức ăn chẳng phải của thánh nhân. Thánh nhân xa lìa tất cả các loại thịt, vì ăn thịt hay sinh vô lượng tội lỗi, làm mất tất cả công đức xuất thế gian. Vậy sao nói Ta cho các đệ tử ăn những thứ bất tịnh như máu thịt v.v…? Người nào nói Ta cho phép là phỉ báng Ta. Cho nên, luật tạng ghi: Ăn máu thịt sống phạm tội Thâu-lan-giá[42]”.
10. Người ăn thịt sau khi chết sẽ tái sinh vào loài la-sát dữ. Do đó, hành giả không nên ăn thịt.
Kinh Nhập lăng-già ghi: “Những chúng sinh ăn thịt là do [161b] quá khứ từng huân tập nghiệp ăn thịt, nên thường sinh vào trong các loài la-sát, sư tử, cọp, sói, chim cú, kên kên, diều hâu, chim ưng… Những loài có mạng sống đều tự bảo vệ thân, không để mình chịu cảnh khổ đói khát, mà sinh lòng ác, thích ăn thịt loài khác, khi chết đọa vào đường ác, khó được thân người, huống gì được đạo Niết-bàn! Nên biết, người ăn thịt có vô lượng những tội lỗi như thế. Do vậy, hành giả không ăn thịt, tức là gom chứa được vô lượng công đức”.
Kinh Ương-quật-ma ghi: “Văn-thù-sư-lợi bạch Đức Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn! Vì Như Lai tạng mà các Đức Phật không ăn thịt chăng?
Đức Phật dạy:
- Đúng vậy! Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay trôi lăn trong sinh tử, không ai không có cha mẹ, anh chị em, giống như nghệ sĩ hát tuồng thay đổi vai diễn mau chóng. Thịt mình hay các loại thịt khác đều là một thứ thịt. Thế nên, các Đức Phật đều không ăn thịt.
Phật lại bảo Văn-thù-sư-lợi:
- Chúng sinh giới và Phật giới là một, thịt ăn vào cũng đồng một loại. Do đó, các Đức Phật đều không ăn thịt.
Đức Phật bảo Văn-thù:
- Nếu trâu tự chết, người chủ lấy da làm giày dép cúng dường cho người trì giới thì nên nhận chăng? Không nhận là đúng pháp của tì-kheo, nếu nhận thì chẳng từ bi. Tuy không phá giới, nhưng từ đó dần dần đưa đến tội lỗi. Do đó, cần phải lìa xa các nhân duyên sát sinh”.
Kinh Ương-quật-ma ghi: “Trong thân chúng sinh có tám mươi vạn ổ vi trùng, nếu giết hại một chúng sinh tức giết tám trăm nghìn ổ vi trùng. Những lúc nấu nướng, hoặc ngâm phơi đều có trùng nhỏ, bướm bay, ruồi nhặng bám lên, vô tình lạm giết vô lượng sinh mạng, tuy chẳng tự tay mình giết, nhưng đồ tể vì mình mà giết. Nên biết, người ăn thịt chịu cả tội giết hại. Hoặc có tăng ni ở trong chùa mà công nhiên tụ tập người đời uống rượu, ăn thịt hoặc những thứ tạp uế cay nồng, làm ô nhiễm chốn già-lam mà chẳng biết thẹn với Phật. Hỗn tạp như vậy đâu hơn gì ngoại đạo!”
Kinh Ni-la-phù-đà địa ngục mô tả: “Thân giống như khối thịt không hiểu biết. Đây là ai? Đều là các kẻ uống rượu. Tăng ni xuất gia sao chẳng tin sâu kinh điển, sinh tâm hổ thẹn, lại tự bỏ chính pháp, đồng như ngoại đạo ư? Nếu ăn thịt cha của chúng sinh, chúng sinh lại ăn thịt cha mình; nếu ăn thịt mẹ của chúng sinh, chúng sinh lại ăn thịt mẹ mình. Như vậy, anh chị em, lục thân trai gái đều có oán thù nhau, [161c] oan oan tương báo, không thể thoát được”.
Kinh Sa-di-ni giới ghi: “Không được sát sinh, mà phải thương xót chúng sinh như cha mẹ thương con, thương loài trùng nhỏ giống như con đỏ. Thế nào là không sát sinh? Là bảo vệ thân khẩu ý. Trong đó, thân không giết người vật, cho đến các loài côn trùng nhỏ bé, cũng không tự giết hay bảo người giết; thấy giết không ăn, nghe giết không ăn, hoặc nghi vì mình mà giết cũng không ăn. Miệng chẳng nói ‘Nên giết, nên hại’ để báo oán, cũng không được nói: ‘Giết chết thật vui, con này mập, con kia ốm, thịt này ngon, thịt kia dở. Ý cũng không nghĩ đến việc giết chết, thương tưởng chúng sinh như xương tủy của mình, chẳng khác nào cha mẹ, con cái của mình v.v… Một lòng thường nghĩ đến Đại thừa”.
Kinh Hiền Ngu ghi: “Đức Phật nói với vua Ba-tư-nặc: Vào quá khứ lâu xa a-tăng-kỳ kiếp, cõi Diêm-phù-đề này có một đất nước rộng lớn tên là Ba-la-nại. Quốc vương khi ấy là Ba-la-ma-đạt dẫn bốn loại binh vào núi săn bắn. Một mình cưỡi ngựa mãi miết đuổi bắt cầm thú, vua lạc vào rừng sâu. Mệt quá, vua xuống ngựa nghỉ ngơi giây lát. Khi đó, trong rừng có con sư tử cái lòng dục rất mạnh, đang tìm đối tượng giao phối mà không được, chợt gặp vua ngồi một mình giữa rừng, ý dâm bùng mạnh nên muốn giao phối với vua. Nghĩ vậy, sư tử cái đến gần bên vua, ngoắt đuôi quay lưng. Biết ý, vua suy nghĩ: ‘Nó là mãnh thú đủ sức giết mình, nếu không chìu ý ắt nguy hại tính mạng’. Vì sợ hãi, vua liền giao phối cùng sư tử. Việc xong, sư tử bỏ đi thì các đoàn binh mới tìm đến, vua cùng mọi người trở về cung thành.
Sau đó, sư tử mang thai, đủ ngày tháng liền sinh con có hình dạng như người, chỉ ở nơi chân có đốm. Sư tử nhớ lại, biết là con của vua, liền ngậm con mang đến trước vua. Vua cũng nhớ lại, đúng là con mình, bèn nhận lấy nuôi dưỡng; vì chân có đốm nên đặt tên là Ban Túc. Ban Túc càng lớn thì hùng tài, chí dũng và kế vị ngôi sau khi phụ vương băng hà.
Lúc đó, vua Ban Túc có hai người vợ: một xuất thân từ dòng vua, người còn lại thuộc dòng Bà-la-môn. Một hôm, Ban Túc ra thành chơi, bảo hai người vợ: ‘Nếu người nào đến trước thì ta sẽ dành cho một ngày vui thú, người nào tới sau thì ta không đoái hoài’.
Khi đi, phu nhân thứ hai trang điểm lộng lẫy, bước lên xe. Giữa đường, phu nhân thấy một ngôi miếu thờ trời của dòng Phạm chí, liền xuống xe hành lễ, do lễ bái nên đến muộn. [162a] Vua giữ lời hứa, nên không đoái hoài. Vì thế, phu nhân oán giận thiên thần và trách: ‘Do lễ bái ngươi nên đến sau, khiến vua đối xử bạc như vậy. Nếu có sức trời sao chẳng hộ ta?’ Sau đó, phu nhân đập phá miếu thờ. Vị thần giữ miếu buồn rầu, muốn đến phá nát vương cung, nhưng thiên thần ngăn không cho vào.
Có một vị tiên nhân ở trong núi hằng ngày bay vào cung nhận sự cúng dường của vua, không nhận món ngon mà chỉ dùng món dở. Tình cờ ngày kia, tiên nhân không đến. Biết thế, thiên thần biến làm tiên nhân, ngồi vào chỗ tiên nhân thường ngồi, nhưng không ăn mà chỉ mong được thịt cá. Vua liền thuận theo, thiên thần ăn xong rồi đi. Hôm sau, tiên nhân đi đến, vua lại bày toàn thịt cá, tiên nhân nổi cáu. Vua thưa:
- Đại tiên, hôm qua ngài dạy làm thế, sao nay lại không ăn?
Tiên nhân nói:
- Hôm qua, ta bệnh nên không đến. Ai nói với ông, hay là khinh thường mà thử ta? Ta sẽ làm cho ông từ nay thường ăn thịt người trong suốt mười hai năm!
Nói xong, tiên nhân trở về núi. Sau đó, một hôm, quan nấu ăn lại quên chuẩn bị thịt. Sắp đến giờ dâng cơm, chẳng biết xoay sở cách nào, nên người nấu ăn ra ngoài tìm thịt, thấy xác một đứa trẻ trắng mập trên đất. Trong lúc cấp bách, người nấu ăn chặt bỏ đầu và chân, mang về ngự trù, nấu với các thứ thuốc quí, đem dâng cho vua. Ăn vào, vua thấy ngon hơn bội phần nên hỏi:
- Trước giờ, ta chưa được ăn thịt ngon như vậy. Đây là thịt gì?
Quan nấu ăn sợ hãi, phủ phục trước vua mà thành thật tâu rõ, mong vua tha tội. Vua phán:
- Chỉ cần ông nói thật thì ta không hỏi tội.
Quan nấu ăn tâu rõ ngọn ngành. Vua nói:
- Thịt này rất ngon! Từ nay về sau, cứ làm như thế.
Quan nấu ăn tâu:
- Trước đây, tình cờ gặp xác đứa trẻ, nay tìm thì khó được.
Vua lại nói:
- Ông cứ âm thầm tìm lấy, giá như có người phát giác thì ta sẽ phân xử.
Quan nấu ăn nhận chỉ, hàng đêm thường bí mật bắt cóc trẻ con đem giết, lấy thịt dâng cho vua. Bấy giờ, nhân dân trong thành đâu đâu cũng khóc kêu mất trẻ con, lần lượt hỏi thăm duyên cớ thế nào. Khi ấy, các đại thần họp bàn, cử người âm thầm điều tra các nơi để yên lòng dân, thì phát hiện quan nấu ăn của vua bắt cóc trẻ con. Họ bắt được, trói dẫn đến vua tâu hết mọi chuyện. Vua nói:
- Là lệnh của ta!
Quần thần uất hận, nên cùng nhau ra ngoài họp bàn: ‘Vua chính là giặc, ăn thịt con chúng ta. Vua mà ăn thịt người thì làm sao trị vì thiên hạ? Hãy cùng nhau trừ khử tai họa này’. Thế rồi, tất cả quần thần đồng tâm hợp lực tính kế, nhất loạt cùng chống lại, bắt giết nhà vua. Thấy binh bao vây, vua kinh hãi hỏi:
- Tại sao các ngươi bức tử ta?
Quần thần đáp:
[162b] - Phàm người làm vua lấy việc chăm lo cho dân làm chính, thế mà bảo nhà bếp giết người lấy thịt làm thức ăn, chẳng biết dân chúng khổ đau. Do đó, chúng tôi muốn giết ông.
Vua nói với quần thần:
- Từ nay về sau, ta không làm thế, chỉ mong tha thứ, ta sẽ cố gắng sửa đổi.
Quần thần nói:
- Quyết không buông tha, đừng có nhiều lời!
Nghe xong, vua tự biết mình phải chết, liền nói:
- Dù các ông nhất định giết ta, nhưng xin hãy nán giây lát nghe ta nói một lời.
Vua liền lập thệ:
- Từ trước đến nay, ta tu tạo các việc thiện, làm một minh quân, cúng dường tiên nhân. Nay xin hồi hướng tất cả công đức ấy khiến ta biến thành Phi hành la-sát.
Nói lời này xong, vua liền thành la-sát như lời nguyện, bay lên hư không, nhắn với quần thần:
- Các ngươi hợp sức muốn bức tử ta, nhưng nhờ may mắn nên ta có thể tự thoát. Từ nay về sau, các ngươi cố nhẫn chịu, ta sẽ lần lượt ăn thịt vợ con yêu quí của các ngươi.
Nói xong, la-sát bay đi, ẩn trong núi rừng, hàng ngày tìm bắt người mang về ăn thịt. Tất cả nhân dân đều sợ hãi trốn tránh. Càng ngày vua la-sát giết người ăn thịt càng nhiều. Sau đó, các bầy la-sát kết làm quyến thuộc, nên đồ chúng càng đông và sự bức hại càng rộng. Một hôm, bầy la-sát thưa với vua Ban Túc:
- Chúng tôi phụng sự bệ hạ, mong lập thành một nhóm.
Vua liền chấp nhận, rồi ra lệnh:
- Các ngươi hãy bắt đủ năm trăm vị vua để lập thành một hội.
Thế là, các la-sát chia nhau tìm bắt được bốn trăm chín mươi chín vị vua đem nhốt vào núi sâu, nhưng còn thiếu một người. Sau đó, chúng bắt được Tu-đà-tố-di là vị vua có đức lớn. Ông ta xin vua Ban Túc cho hoãn lại bảy ngày. Hết thời hạn, Tu-đà-tố-di trở lại, nói pháp cho các la-sát nghe, chỉ rõ tội sát sinh và quả báo của nó, lại nói phúc báo của tâm từ không sát sinh. Vua Ban Túc hoan hỷ, đỉnh lễ, vâng theo lời dạy, không còn tâm sát hại, liền thả các vị vua về nước. Tu-đà-tố-di liền sai binh chúng đưa Ban Túc về đăng vị nơi nước cũ. Sau khi mãn mười hai năm, vua Ban Túc không còn ăn thịt người, trở về trị vì dân chúng như xưa.
Tu-đà-tố-di thuở ấy chính là Ta, vua Ban Túc là Ương-quật-ma-la[43] ngày nay, còn những người bị Ban Túc ăn thịt trong mười hai năm là những người bị Ương-quật-ma-la giết ngày nay. Những người này đời đời thường bị Ương-quật-ma-la giết hại. Ta cũng đời đời dùng pháp thiện hàng phục Ương-quật-ma-la.
Khi ấy, vua Ba-tư-nặc lại bạch Phật:
- Tì-kheo Chỉ Man giết người ăn thịt nhiều như vậy mà còn đắc đạo, nhưng có bị quả báo không?
Đức Phật dạy:
[162c] - Đại vương! Hễ gây tạo ắt có quả báo. Hiện tì-kheo này đang ở trong phòng mà lửa địa ngục từ lỗ chân lông phát ra, rất đau khổ, kêu gào thảm thiết.
Đức Phật bảo một tì-kheo:
- Ông hãy cầm chìa khóa đến mở cửa phòng Chỉ Man.
Vâng lời dạy, tì-kheo này mở cửa vào phòng, thấy thân xác Chỉ Man tự cháy. Tì-kheo kinh ngạc trở lại bạch Phật. Phật bảo:
- Quả báo như thế!
Vua và chúng hội đều tin hiểu”.
Có bài kệ:
Tài, sắc và rượu,
Là ba thứ độc,
Đại thần nát nhà,
Vua thì mất nước.
Thịt chướng lòng từ,
Ngũ vị[44] tổn đức,
Là bậc chơn tu,
Chẳng ham nhơ này. XXVII. XEM TƯỚNG
Gồm ba phần: Lời dẫn, Xem tướng, Lòng tin.
XXVII.1. Lời dẫn
Phật pháp vốn bình đẳng, bậc cao đức đồng cảm nhận; phàm phu tùy theo nghiệp, nên giáo hóa có nhiều phương. Tâm cảnh trái nhau, nên thọ khổ vui sai khác. Như sáp ấn xuống bùn, ấn xong thì đường nét hiện. Tướng nghiệp đã phân thì nhìn hiện báo có thể biết. Cho nên, người và loài vật có thể nhận biết nhờ tiếng nói, người Hồ và Hán nhận dạng qua vóc hình, kẻ hèn người sang có tôn ti phân biệt, thánh phàm khác nhau ở điều thiện ác.
XXVII.2. Xem tướng
Kinh Chính kiến ghi: “Bấy giờ, trong pháp hội của Đức Phật, có vị tì-kheo tên là Chính Kiến, mới thọ đại giới, nên trong lòng còn nghi: ‘Phật nói có cuộc sống đời sau, nhưng người chết rồi không về báo lại, thì làm sao biết?’. Tì-kheo chưa kịp hỏi, Đức Phật đã biết và bảo:
- Này các tì-kheo! Thí như cây kia sinh ra từ một hạt giống và nhờ bốn đại mà nảy mầm, thành thân, mọc cành ra lá, rồi phát triển thành một cây lớn. Cây lại sinh quả, quả lại thành cây, tăng trưởng theo năm tháng, tạo nên vô số như thế.
Đức Phật hỏi:
- Này các tì-kheo! Nếu muốn gom tất cả thân cành lá, hoa trái trở về hạt giống như ban đầu, liệu có được không?
Các tì-kheo thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không thể được. Cây luôn biến đổi, dần dần sẽ mục nát, thì hạt giống lại sinh, trở thành cây to lớn. Sự sinh trưởng, biến đổi tương tục, cuối cùng mục nát, không thể trở lại thành hạt giống ban đầu.
Đức Phật bảo:
- Này các tì-kheo! Sự sinh tử cũng như vậy,[163a] vốn do ngu si phát sinh, luân chuyển hòa hợp, thần thức biến đổi qua mười hai nhân duyên[45], tùy theo hành nghiệp dẫn dắt nên có cha mẹ, rồi thụ nhận thân thể; nên không thể trở lại thần thức ban đầu và cũng không về báo lại. Thí như người thợ luyện kim, luyện quặng để thành sắt thép, nấu chảy sắt thép để đúc thành vật dụng. Vậy vật dụng ấy có thể trở lại thành quặng được không?
Chính Kiến thưa:
- Thật không thể được.
Đức Phật bảo:
- Thần thức biến chuyển, trụ tại thân trung ấm giống như quặng đã thành sắt thép; thác vào thai mẹ, thụ nhận thân mới giống như sắt thép đã thành vật dụng, hình thể thay đổi, nên không thể trở lại thức ban đầu. Vì vậy, thức thụ nhận thân người lại có cha mẹ; đã có cha mẹ thì có sáu ngăn bít: một là trụ tại thân trung ấm, không thể trở lại; hai là theo nghiệp thụ thân ở trong bào thai; ba là mới sinh ra đau đớn, nên quên hết chuyện xưa; bốn là vừa sinh ra, liền chạm đất, nên những hiểu biết ngày trước không còn, phát sinh nhận thức mới; năm là sinh ra liền đắm trước ăn uống, nên những hiểu biết ngày trước không còn; sáu là sinh ra, lớn lên, huân tập điều mới, quên lãng điều cũ.
Đức Phật lại bảo:
- Này các tì-kheo! Thần thức nương vào thiện ác, khi chết theo nghiệp, nên sự thấy biết chẳng giống như cũ và thân không thể khôi phục cái biết khi xưa; vì vậy, không thể hồi báo với quyến thuộc. Nếu người chưa có đạo ý[46], không có tịnh nhãn, khi chết thì thức lìa thân, biến chuyển tùy theo hành nghiệp, lại thụ thân khác, không thể về báo được. Thí như đêm tối không trăng, đem vật có năm màu để trong chỗ tối, dù nghìn vạn ức người cũng không thể nhìn thấy vật ấy. Nhưng nếu có người cầm đuốc soi sáng, thì tất cả mọi người đều phân biệt rõ ràng năm màu. Như người ngu si bị tối tăm che lấp, chưa chứng tuệ nhãn[47], đọa vào đường ác, xoay vần qua lại, cũng như đêm tối không trăng mà muốn nhìn thấy vật có năm màu, quyết không thể được. Nếu người tu hành tụng kinh, trì giới, thâu nhiếp tâm ý, cũng như cầm đuốc soi chiếu để thấy vật. Thí như không tay mà muốn viết chữ, mù mắt mà đòi nhìn, xâu kim nơi chỗ tối, tìm lửa ở trong nước, hoàn toàn chẳng được.
Này các tì-kheo! Hãy chuyên tâm trì kinh, giữ giới, tư duy kĩ sinh tử vốn từ đâu đến, cuối cùng về đâu thì thân tâm thanh tịnh, phiền não đoạn trừ, điều nghi được giải.
Chính Kiến nghe xong, hoan hỷ thụ trì”.
Kinh A-dục vương thái tử pháp ích hoại mục nhân duyên ghi: “Trong sáu đường, mỗi đường có những tướng trạng khác nhau.
1. Tướng địa ngục:
Căn nguyên con người,
Trôi dạt sinh tử,
Nổi chìm tới lui,
Ở trong năm đường.
Chết kia sinh đây,
Đều có nhân duyên,
Nay ta nói rõ,
Tướng trạng từng người.
Bước đi nghiêng ngã,
Không tự hay biết,
Thích xem huyễn hoặc,
Thường vui, hay quên,
[163b] Cử động nhẹ nhàng,
Rong chơi đồng trống,
Người đó đến từ,
Địa ngục Đẳng hoạt[48].
Cơ khớp đau nhức,
Ngủ hay giật mình,
Mộng thấy điềm dữ,
Là người đến từ,
Địa ngục Dây đen[49].
Mắt trợn, tóc thô,
Răng dài, ưa giận,
Tiếng đục, bệnh nặng,
Là người đến từ,
Địa ngục Hợp hội[50].
Lớn tiếng, cao giọng,
Không biết xấu hổ,
Ưa đánh, chửi nhau,
Chẳng biết thật giả.
Nằm ngủ thở than,
Mộng thường kêu hoảng,
Người đó đến từ,
Địa ngục Khóc la[51].
Thường hay buồn khóc,
Lên cao, nhìn xa,
Gây gổ người nhà,
Không biết quen lạ.
Lời nói sân hận,
Nhịn đói nhiều ngày,
Người đó đến từ,
Địa ngục Khóc lớn[52].
Mình to, chân nhỏ,
Gân cốt yếu suy,
Tiếng thường tắt nghẹn,
Giọng như ngói bể,
Lòng không hiếu thuận,
Tinh thần bất định,
Người này đến từ,
Địa ngục A-tì[53].
Thân thể thô xấu,
Chịu khổ rét lạnh,
Thích nóng, luôn khát,
Ganh ghét, xẻn, tham.
Thấy người bố thí,
Lòng sinh não phiền,
Người đó đến từ,
Địa ngục Thiêu nướng[54].
Thấy lửa sợ hãi,
Nhưng thích sưởi ấm,
Đi đứng tùy tiện,
Chẳng kể thời nghi,
Việc xong hối hận,
Nhưng lại muốn làm,
Người đó đến từ,
Địa ngục Thiêu lớn[55].
Mắt nhỏ, hay sân,
Quên điều đã nhận,
Việc làm thấp hèn,
Tâm địa chẳng rộng,
Thấy lớn sinh sợ,
Nhìn nhỏ lại vui,
Người đó đến từ,
Ngục Ưu-bát-la[56].
Mắt đỏ, mình xấu,
Thường thích đấu tranh,
Phỉ báng thánh hiền,
Và bậc đắc đạo,
Đêm ngày tìm xét,
Việc xấu của người,
Người đó đến từ,
Ngục Bát-đầu-ma[57].
Mắt có ba góc,
Bất hiếu mẹ cha,
Sinh ra đoản mạng,
Là người đến từ,
Ngục Câu-mâu-đà[58].
Thích mang dao nhọn,
Khiêu khích đánh nhau,
Ắt bị người giết,
Là người đến từ,
Địa ngục Bân-trì[59].
Mình đầy ghẻ lác,
Hơi miệng hôi hám,
Không có người thân,
Nên biết người này,
Đến từ ngục Khoáng[60].
Thân hình to lớn,
Bước đi yếu ớt,
Tóc ít, da mỏng,
Bệnh tật liên miên,
Thấy người liền sân,
Tham ăn không chán,
Người này đến từ,
[163c] Địa ngục Đong lửa.
Da trắng, mắt xanh,
Nói phun nước dãi,
Chẳng có ngọn ngành,
Thích chơi đất, cát,
Nhìn thấy bùn lầy,
Ưa nằm lên trên,
Người đó đến từ,
Địa ngục Sông tro.
Đầu rụt, mắt vàng,
Bị người ghét bỏ,
Gặp việc hoảng sợ,
Là người đến từ,
Địa ngục Rừng kiếm.
Tay thường cầm dao,
Nghe đấu liền vui,
Bị dao làm hại,
Là người đến từ,
Địa ngục Núi dao.
Mình đen, cổ nghẹn,
Thích ở phòng tối,
Miệng thốt lời dữ,
Là người đến từ,
Địa ngục Tro nóng.
Sức yếu, hụt hơi,
Không được tùy ý,
Những việc được mất,
Chẳng do mình định.
Nếu gặp đồ tể,
Liền theo sát bên,
Nên biết người này,
Từ ngục Lột da.
Vui giận bất thường,
Tự biết hối cải,
Thường hay tạ tội,
Chẳng để qua đêm,
Khiển trách tâm mình,
Như bị hình phạt,
Người đó đến từ,
Địa ngục Đánh cầu.
Thích ở chỗ dơ,
Ưa ăn thức dở,
Mặc đồ xấu xí,
Là người đến từ,
Địa ngục Phân tiểu.
Dung mạo ghê rợn,
Lời nói hung hăng,
Ưa chê, đánh người,
Từ ngục Hương thơm.
Nên xét hình mạo,
Biết từ đâu đến,
Để rồi xa lìa,
Như tránh kiếp Thiêu[61]
Tướng trạng địa ngục,
Lược nói như thế.
2. Tướng súc sinh:
Nói về súc sinh,
Thụ thân sai khác,
Chuyên tâm xét nghĩ,
Không tạo duyên này.
Nói năng chậm rãi,
Chẳng khởi sân si,
Kính nhường tôn trưởng,
Từ loài voi đến.
Thân lớn hôi nhơ,
Chịu được nóng lạnh,
Sân hận khó trừ,
Từ lạc đà đến.
Đi xa, ăn khỏe,
Chẳng ngại hiểm nguy,
Nhớ việc, biết đúng,
Từ loài ngựa đến.
Độ lượng, biết ơn,
Giỏi chịu nóng lạnh,
Việc làm chẳng nhớ,
Từ loài trâu đến.
To tiếng, chẳng thẹn,
Lòng nhiều luyến ái,
Không phân phải trái,
Từ loài lừa đến.
Không sợ lớn nhỏ,
Thường tham ăn thịt,
Làm việc dễ dàng,
Từ sư tử đến.
Thân lớn, mắt tròn,
Rong chơi đồng trống,
Ghét bỏ vợ con,
Từ loài cọp đến.
Lông dài, mắt nhỏ,
[164a] Ít có giận hờn,
Chẳng ở một nơi,
Từ loài chim đến.
Tính không tráo trở,
Thích việc giết hại,
Chỉ ưa hang gò,
Từ loài chồn đến.
Giọng nhỏ, yếu đuối,
Nhẹ nghiệp dâm dục,
Chẳng thương vợ con,
Từ loài sói đến.
Không thích sắc đẹp,
Rình bắt kẻ gian,
Ngủ ít, hay sân,
Từ loài chó đến.
Thân thấp, lông dài,
Tham ăn, mê ngủ,
Chẳng thích chỗ sạch,
Từ loài heo đến.
Lông vàng, lăng xăng,
Thích ở núi rừng,
Tham ăn hoa quả,
Từ loài khỉ đến.
Mặt mày gian dối,
Không hề ngại khó,
Thường hay phản phúc,
Từ loài quạ đến.
Đam mê sắc dục,
Tình nghĩa chẳng màng,
Tâm không ghi nhớ ,
Từ bồ câu đến.
Tính hay trái nghịch,
Luận biện, nhẫn nại,
Bất hiếu mẹ cha,
Loài tu hú đến.
Chẳng biết phép tắc,
Và điều sai trái,
Suốt đời ngu si,
Từ loài dê đến.
Ưa dối, thích bàn,
Thân gần hào phú,
Mọi người thương mến,
Loài anh vũ đến.
Hành động vội vàng,
Thích chốn đông người,
Nói năng rườm rà,
Loài chim sáo đến.
Bước đi khoan thai,
Lòng đầy mưu kế,
Hại nhiều sinh vật,
Từ loài hạc đến.
Thân nhỏ, háo dâm,
Ý không chuyên định,
Thấy sắc mê đắm,
Từ chim sẻ đến.
Mắt đỏ, răng ngắn,
Nói phun nước bọt,
Nằm thì co thân,
Từ loài rắn đến.
Lời đầy phẫn hận,
Chẳng xét nghĩa ân,
Miệng tuôn lời độc,
Từ chim trấm[62] đến.
Độc cư, tham ăn,
Giọng nói tắt nghẹn,
Đêm thường ít ngủ,
Từ loài mèo đến.
Đào tường trộm cắp,
Tham tiền, sợ hãi,
Chẳng biết lạ quen,
Từ loài chuột đến.
Xem kỹ tướng mạo,
Biết rõ ngọn nguồn.
3. Tướng ngạ quỷ:
Thân cao, hay sợ,
Lông tóc quấn thân,
Áo quần dơ bẩn,
Từ ngạ quỷ đến.
Dâm dật, xan tham,
Ghét người thành tựu,
Chẳng ưa bố thí,
Từ ngạ quỷ đến.
Bất hiếu mẹ cha,
[164b] Lớn nhỏ trong nhà,
Chạm liền tranh cãi,
Từ ngạ quỷ đến.
Tâm không thành tín,
Việc làm vì mình,
Sức yếu, trí hèn,
Từ ngạ quỷ đến.
Tắt tiếng khàn giọng,
Giận dữ bất thường,
Thích ăn đồ nóng,
Từ ngạ quỷ đến.
Của cải ít ỏi,
Nghèo nàn túng thiếu,
Người trí chê cười,
Từ ngạ quỷ đến.
Nhà không thờ Phật,
Chẳng thích nghe pháp,
Dứt đường sinh thiên,
Từ ngạ quỷ đến.
Không dạy vợ con,
Anh em, chị em,
Mọi người ghét bỏ,
Từ ngạ quỷ đến.
Sống đời cô độc,
Không người chăm sóc,
Chung quy thụ báo,
Chẳng lìa duyên xưa,
Ý chí nhỏ hẹp,
Không thích trang sức,
Việc làm kém hèn,
Từ ngạ quỷ đến.
Làm không kết quả,
Chỉ chuốc phiền muộn,
Bị người xua đuổi,
Từ ngạ quỷ đến.
Việc làm thất bại,
Chẳng xét căn nguyên,
Không nghe can gián,
Từ ngạ quỷ đến.
Chẳng thích chỗ vắng,
Ưa ở cầu xí,
Diện mạo bẩn thỉu,
Từ thần gió[63] đến.
Thân lớn, luôn vui,
Ham muốn ăn thịt,
Chỉ thích miếu thần,
Từ dạ-xoa[64] đến.
Hay sân, ưa đấu,
Thấy vật tham đắm,
Không thể lãng quên,
Từ dạ-xoa đến.
Người thấy rợn gáy,
Mắt nhìn đăm đăm,
Như mất vật gì,
Từ la-sát đến.
Thân ốm, da mỏng,
Nhan sắc tươi hòa,
Nghe nhạc vui thích,
Càn-thát-bà[65] đến.
Ý thích phiêu bồng,
Thoa ướp hương thơm,
Có nhiều tài nghệ,
Càn-thát-bà đến.
Thường thích ca múa,
Nam nữ sánh vai,
Nói trước cười sau,
Chân-đà-la[66] đến.
Tính tình mềm mỏng,
Hiểu rõ thời tiết,
Thường đoạn phiền não,
Chân-đà-la đến.
Đây tướng ngạ quỷ,
Dạ-xoa, la-sát.
4. Tướng a-tu-la:
Sau đây lược nói,
Tướng a-tu-la,
Mặt vuông, mắt tròn,
Tóc hoe, thân vàng,
Biết đủ ngành nghề ,
A-tu-la[67] đến.
Nhìn thẳng phía trước,
Dáng vẻ tự tin,
Gặp thù liền đánh,
A-tu-la đến.
[164c] 5. Tướng người:
Biết nơi sinh về,
Chấp chặt không quên,
Hiểu rõ sự nghiệp,
Từ cõi người lại.
Biết rõ hư dối,
Tự mình không làm,
Việc làm bình đẳng ,
Từ cõi người lại.
Lời thiện và ác,
Chẳng hề lãng quên,
Không tin gian dối,
Từ cõi người lại.
Tham dâm, ganh ghét,
Tâm chấp khó bỏ,
Hiểu rõ tập tục,
Từ cõi người lại.
Tín tâm bố thí,
Rõ pháp, phi pháp,
Lòng không thiên vị,
Từ cõi người lại.
Chẳng phí thời gian,
Cũng không biếng nhác,
Cung kính thánh hiền,
Từ cõi người lại.
Nếu gặp sa-môn,
Trì giới, đa văn,
Dốc lòng phụng sự,
Từ cõi người lại.
Cúng dường chư Phật,
Chính pháp, chúng tăng,
Tùy thời nghe pháp,
Từ cõi người lại.
Nghe pháp biết rõ,
Thấy ác không làm,
Mau về niết-bàn,
Từ cõi người lại.
Đây là lược nói,
Tướng mạo cõi người.
6. Tướng trời:
Nương núi Tu-di,
Có năm tầng trời,
Tùy nghiệp đã tạo,
Nên tướng chẳng đồng.
Lưng nhỏ, chân to,
Thường hay cười mĩm,
Nên biết người này,
Từ Khúc thiên[68] đến.
Thích lẽ nhiệm mầu,
Vật chất thiếu thốn,
Sợ thấy đấu tranh,
Thi-khí thiên[69] đến.
Da trắng, cao to,
Dung mạo đoan chính,
Không thích ánh lửa,
Kì-bà thiên[70] đến.
Người luôn vui vẻ,
Nghe ác chẳng sợ,
Cũng không làm ác,
Hóa Lạc thiên[71] đến.
Tư duy nhẫn, khổ,
Khéo phân biệt nghĩa,
Hiếu kính mẹ cha,
Tì-sa thiên[72] đến.
Không thích ngủ nhà,
Vui chơi rừng núi,
Chẳng màng nữ sắc,
Từ nhị thiên[73] đến.
Của cải tuy nhiều,
Sinh nhà ti tiện,
Tâm ưa thanh tịnh,
Cõi tam thiên[74] đến.
Làm theo ý mình,
Công việc chẳng thông,
Mong ước nguyện thành,
Viêm-ma thiên[75] đến.
Thích dâm, bất chính,
Không giữ vợ mình,
Bị quỷ sai khiến,
[165a] Tha Hóa thiên[76] đến.
Cung phụng cha mẹ,
Thường giữ phép tắc,
Theo người học hỏi,
Đâu-suất thiên[77] đến.
Phi pháp cầu đạo,
Tâm không tham tiếc,
Không thích tại gia,
Từ Phạm thiên[78] đến.
Tâm muốn chân thật,
Ý ham ngủ nghỉ,
Không hiểu Phật pháp,
Vô Tưởng thiên[79] đến.
Chúng sinh sáu đường,
Đều có căn nguyên,
Tính, hạnh sai khác,
Ý chí chẳng đồng.
XXVII.3. Lòng tin
Kinh Na-tiên tì-kheo vấn Phật ghi: “Bấy giờ, vua Di-lan hỏi tì-kheo a-la-hán Na-tiên:
- Người thế gian làm ác suốt đời, lúc sắp chết nhờ niệm Phật mà sau đó được sinh lên trời, trẫm không tin lời ấy. Lại nữa, nếu giết một chúng sinh, chết liền đọa địa ngục, trẫm cũng không tin.
Tì-kheo Na-tiên hỏi:
- Như người ném viên đá nhỏ xuống nước, đá nổi hay chìm?
Nhà vua trả lời:
- Đá chìm.
Na-tiên hỏi:
- Nếu chất trăm hòn đá lớn lên thuyền, thì thuyền có chìm không?
Vua đáp:
- Không chìm.
Na-tiên lại hỏi:
- Vì nhờ có thuyền nên đá không chìm. Người tuy tạo ác, nhưng nhờ nhất thời niệm Phật mà không đọa địa ngục, được sinh lên trời, sao lại không tin? Hòn đá nhỏ kia bị chìm cũng như người làm ác mà không biết tụng kinh niệm Phật, sau khi chết liền đọa địa ngục, sao cũng không tin?
Vua nói:
- Tuyệt thay! Tuyệt thay!
Tì-kheo Na-tiên nói:
- Như hai người cùng chết, một người sinh lên cõi Phạm thiên, một người sinh vào nước Kế-tân. Hai người này nơi sinh xa gần tuy khác nhau, nhưng khi chết cùng sinh đến một lúc. Như có hai con chim, một con đậu trên cao, một con đậu ở cành thấp, khi hai con chim cùng bay thì bóng của chúng đều in xuống mặt đất.
Tì-kheo Na-tiên nói tiếp:
- Như người ngu làm ác thì chuốc lấy họa lớn, người trí làm ác thì chịu họa nhỏ. Thí như có thanh sắt nung đang nằm trên đất, một người biết đó là sắt nung, còn một người không biết. Hai người cùng đến lấy thanh sắt, nhưng người không biết thì bị phỏng nặng, người biết không bị phỏng. Làm ác cũng như thế. Người ngu vì không thể tự mình sám hối nên chuốc lấy họa lớn, người trí làm ác, nhưng biết đó là việc không nên làm, hàng ngày sám hối tội lỗi nên chịu họa nhỏ”.
Kinh Tứ phẩm học ghi: “Người đời có kẻ chẳng bằng loài vật, loài vật có con lại hơn người. Vì sao? Người gây tội ác không biết dừng, nên chết đọa vào địa ngục.[165b] Hết tội địa ngục chuyển làm ngạ quỷ, hết tội ngạ quỷ thì chuyển làm súc sinh, hết tội súc sinh mới trở lại làm người. Vì hết tội súc sinh mới được làm người, do đó phải siêng năng làm điều thiện, vâng theo lời dạy của tam bảo, vĩnh viễn xa lìa ba đường ác, hưởng phúc trời người, sau sẽ được giải thoát”.
Kinh Tứ thập nhị chương ghi: “Đức Phật dạy trong đời có năm điều khó:
1. Nghèo cùng bố thí là khó
2. Giàu sang học đạo là khó
3. Giữ mạng không chết là khó
4. Thấy được kinh Phật là khó
5. Gặp Phật ra đời là khó”.
Kinh Tạp thí dụ ghi: “Trong đời có mười tám điều khó:
1. Gặp Phật ra đời là khó
2. Giả sử gặp Phật, nhưng được làm người là khó
3. Giả sử được làm người, nhưng sinh ở thành thị là khó
4. Giả sử sinh ở thành thị, nhưng sinh trong gia đình giòng dõi cao quý là khó
5. Giả sử sinh trong gia đình giòng dõi cao quý, nhưng được thân căn đầy đủ là khó
6. Giả sử thân căn đầy đủ, nhưng có nhiều tài sản là khó
7. Giả sử có nhiều tài sản, nhưng gặp thiện tri thức là khó
8. Giả sử gặp thiện tri thức, nhưng có trí tuệ là khó
9. Giả sử có trí tuệ, nhưng có thiện tâm là khó
10. Giả sử có thiện tâm, nhưng hay bố thí là khó
11. Giả sử hay bố thí, nhưng muốn trở thành người hiền thiện, gặp bậc có đức là khó
12. Giả sử trở thành người hiền thiện, gặp bậc có đức, nhưng đến nương tựa được là khó
13. Giả sử đến được, nhưng được thích nghi là khó
14. Giả sử đã thích nghi, nhưng để nghe thuyết pháp là khó
15. Giả sử được nghe thuyết pháp, nhưng có trí tuệ hiểu đúng là khó
16. Giả sử hiểu đúng, nhưng thụ trì được kinh có nghĩa lý sâu xa là khó
17. Giả sử thọ trì được kinh có nghĩa lý sâu xa, nhưng y kinh tu hành là khó
18. Giả sử thọ trì được kinh có nghĩa lý sâu xa, y kinh tu hành, nhưng chứng đắc thánh quả là khó”.
Kinh Tội nghiệp báo ứng có bài kệ:
Dòng chảy thường không đầy,
Lửa mạnh chẳng cháy lâu,
Mặt trời mọc rồi lặn,
Trăng tròn rồi lại khuyết,
Dù giàu sang, quyền quý,
Cũng thoáng chốc qua mau.
Thế nên, thân người khó được mà dễ mất, vì dễ mất nên không sinh tâm tham đắm. Nên biết, thân người đến gần cái chết trong từng niệm, như heo, dê bị dẫn đến lò mổ. Vì vậy, kinh Niết-bàn ghi: “Quán thân mạng này thường bị vô số oán thù nhiễu hại, mạng sống giảm dần trong từng niệm, giống như nước chảy xiết không thể dừng lại, [165c] cũng như sương sớm chóng tan, lại như kẻ tử tù bị dẫn đến pháp trường, từng bước từng bước đến gần cái chết”.
Kinh Ma-na có bài kệ:
Thí như Chiên-đà-la[80],
Lùa trâu đến lò mổ,
Mỗi bước gần chỗ chết,
Mạng người còn mau hơn.
Kinh Thúc-ca ghi: “Bà-la-môn Thúc-ca bạch Phật:
- Người tại gia có thể tu phúc đức, gieo trồng căn lành thì sẽ hơn người xuất gia, việc ấy thế nào?
Đức Phật dạy:
- Vấn đề này không nhất định. Người xuất gia nào không tu căn lành thì không bằng người tại gia thường gieo trồng căn lành”.
Tam thiên oai nghi ghi: “Những việc người xuất gia thường làm là tọa thiền, tụng kinh, khuyến hóa. Nếu đầy đủ ba việc này thì đó là người xuất gia đúng pháp, nếu không thực hành thì đó là kẻ sống thừa chết uổng, chỉ gây nhân đau khổ mà thôi”.
Kinh Bách dụ ghi: “Xưa có người cần dùng đến lửa và nước lạnh. Anh ta liền bắt một nồi nước lạnh lên trên đống lửa ủ qua đêm. Sau đó, anh ta muốn lấy lửa thì lửa đã tắt, muốn lấy nước lạnh thì nước đã nóng. Cả nước lạnh và lửa đều không được. Người thế gian xuất gia cầu đạo trong Phật pháp, còn nghĩ đến vợ con và năm dục, nên mất lửa công đức và cả nước giữ giới. Người tu hành nghĩ đến ái dục cũng lại như vậy”.
Có bài tụng:
Thiện ác khác nhau,
Thánh phàm chung cõi,
Năm ấm dẫu đồng,
Sáu đường khác lối.
Xem xét tướng trạng,
Tự biết nghiệp xưa,
Khổ vui khác hình,
Đâu thể ngăn dứt? Chú thích:
[1] Lễ kí 禮記: gọi chung ba bộ sách Nghi lễ, Chu lễ và Lễ kí của Trung Hoa thời cổ, quy định cách đối xử giữa người này với người khác.
[2] Đạo nhãn 道眼: chỉ mắt quán xét đạo pháp.
[3] Địa ngục kêu gào (Khiếu Hô địa ngục 叫呼地獄): một trong mười tám tầng địa ngục. Tội nhân trong ngục này kêu gào thảm thiết, nên địa ngục này được gọi là Kêu Gào.
[4] Ác luật nghi 惡律儀: đối lập thiện luật nghi, ác luật nghi chỉ cho vô biểu sắc bất thiện sinh khởi do tham lợi hoặc do cuộc sống mà làm các nghiệp sát sinh.
[5] Quyền giáo 權教: giáo pháp quyền xảo phương tiện, vì ứng hợp cơ duyên của chúng sinh mà phương tiện tuyên thuyết.
[6] Thật giáo 實教: giáo pháp chân thật, không mắc kẹt nơi phương tiện quyền giả.
[7] Lý chướng 理障: mê lầm về lý, làm chướng ngại chính tri kiến, không thông đạt được bản giác chân như.
[8] Thập thiện 十善: mười hành vi thiện do ba nghiệp thân, khẩu, ý tạo ra. gồm có không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không lưỡng thiệt, không ác khẩu, không ỷ ngữ, không tham dục, không sân khuể, không tà kiến.
[9] Trí tuệ phương tiện (phương tiện trí tuệ 智慧方便): quyền trí phân biệt các pháp.
[10] Thiện hữu lậu (hữu lậu thiện 有漏善): bạch pháp, thuộc việc thiện của thế gian, chưa đoạn phiền não. Ngũ giới, thập thiện và thiện căn từ địa vị Kiến đạo trở xuống đều là thiện hữu lậu. Tu theo thiện pháp hữu lậu này có công năng chiêu cảm quả báo hữu lậu trời, người.
[11] Ba nghiệp (tam nghịêp 三業; S: trīni-karmāṇi): thân nghiệp, ngữ nghiệp và ý nghiệp.
[12] Nghiệp vô lậu (vô lậu nghiệp 無漏業; S: anāsravaḥ): tính không ô nhiễm, cũng không chiêu cảm quả dị thục. Đây là nghiệp thanh tịnh vô lậu, không có xen lẫn tướng hắc, bạch, tức là sự tu tập để đạt đến cảnh giới niết-bàn.
[13] Phu nhân Mạt-lợi (Mạt-lợi phu nhân 末利夫人; S: Mallikā): phu nhân của vua Ba-tư-nặc, là người sinh ra thái tử Ác Sinh (tức thái tử Tì-lưu-li).
[14] Giới bát quan trai (bát quan trai giới 八關齋戒): tám pháp trai giới, học xứ cho hàng đệ tử tại gia tập sự xuất gia do Đức Phật chế định. Người thọ phải tạm rời gia đình một ngày một đêm đến ở trong tăng đoàn để học tập cách sinh hoạt của người xuất gia. Tám pháp trai giới là không sát sinh, không trộm cắp, không dâm dục, không vọng ngữ, không uống rượu, không dùng hương hoa trang sức nơi thân hay xem nghe ca múa, không ngồi nằm giường rộng cao đẹp, không ăn phi thời. Trong tám giới thì bảy phần trước là giới, một phần sau không ăn phi thời là trai, hợp lại gọi là bát quan trai.
[15] Thiện vô lậu (vô lậu thiện 無漏善): loại thiện sinh khởi ở bậc thánh từ Kiến đạo trở lên, cũng là loại thiện được bồ-đề niết-bàn.
[16] Đại nhạc 大樂: âm nhạc trang trọng thanh nhã, dùng vào các dịp lễ nghi như cúng tế, triều thần vào chầu và chúc mừng vua, yến tiệc vua đãi các bề tôi.
[17] Năm ấm (ngũ ấm 五陰): sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
[18] Năm cái (ngũ cái 五蓋; S: pañca āvaraṇāni): năm thứ phiền não che lấp tâm tính, làm cho pháp lành không phát sinh được. Đó là tham dục, sân khuế, thùy miên, trạo hối, nghi.
[19] Năm thần thông (ngũ thần thông 五神通): năm năng lực siêu việt tự nhiên đạt được do tu bốn tĩnh lự căn bản. Thần nghĩa là không nghĩ bàn; thông nghĩa là tự do tự tại. Một, thần túc thông, có thể tự tại đi đến bất cứ nơi nào; hai, thiên nhãn thông, có thể thấy những cái mà mắt người thường không thể thấy được; ba, thiên nhĩ thông, có thể nghe được những âm thanh mà người thường không thể nghe được; bốn, tha tâm thông, có thể thấu rõ ý nghĩ trong tâm người khác; năm, túc mạng thông, có thể biết rõ việc quá khứ.
[20] Bố thí ba-la-mật (đàn ba-la-mật 檀波羅蜜; S: Dānapāramitā): một trong sáu hạnh rốt ráo mà bồ-tát Đại thừa phải thực hành để đạt đến Phật quả. Bố thí ba-la-mật nghĩa là bố thí một cách rốt ráo, viên mãn, gồm có tài thí, pháp thí và vô úy thí.
[21] Tam-muội 三昧 (Cg: đẳng trì, định, chính định; S: samādhi): an trụ tâm vào một chỗ, một cảnh, tức chỉ cho trạng thái thiền định.
[22] Hỏa quang tam-muội 火光三昧: thiền định từ thân mình phát ra lửa.
[23] Bánh tủy (tủy bính 髓餅): loại bánh được làm bằng bột mì trộn với mỡ, mật.
[24] Hoa ưu-bát-la (ưu-bát-la hoa 優鉢羅華; S: utpala): hoa sen xanh.
[25] Hoa ba-đầu-ma (ba-đầu-ma hoa 波頭摩華): hoa sen đỏ. Người Ấn Độ cho hoa này là loại hoa quý nhất trong các loài thực vật sống dưới nước.
[26] Hoa chiêm-bặc (chiêm-bặc hoa 瞻蔔華): hoa màu vàng óng, mùi thơm bay xa đến vài dặm, có thể dùng để chế thuốc hoặc làm dầu thơm.
[27] Ưu-bà-tắc 優婆塞 (S: upāsaka): cư sĩ nam tại gia gần gũi phụng thờ tam bảo, thụ trì ngũ giới, là một trong hai chúng tại gia, một trong bốn chúng hoặc bảy chúng đệ tử Phật.
[28] Cháo tô nhũ (tô nhủ mi 蘇乳糜): cháo được nấu với sữa bò.
[29] Y Tăng-già-lê (Tăng-già-lê y 僧伽梨衣; S: saṅghātī): pháp y chín điều trở lên của tì-kheo. Y này được đắp mặc khi vào cung vua, vào tụ lạc khất thực, lên tòa thuyết pháp, hàng phục ngoại đạo.
[30] Trời Dạ-ma (Dạ ma thiên 夜摩天): tầng trời thứ ba trong sáu tầng trời cõi Dục.
[31] Tô-đà 蘇陀 (S: sudhā): thức ăn được làm từ nhựa cây, là vật thực ở cõi trời.
[32] Già giới (già đạo pháp 遮道法): những giới cấm thuộc về tội nhẹ, thông thường xã hội không cho là tội ác, nhưng Phật giáo vì phòng ngừa sự chê bai của người đời và tránh phạm những tội khác nên chế ra giới này.
[33] Cây đay (đình lịch 葶藶): hạt độc, nhỏ như hạt gạo, có màu vàng đen, dùng làm vị thuốc.
[34] Vườn tre Ca-lan-đà (Ca-lan-đà trúc lâm 迦蘭陀竹林; S: (Veṇuvana-kalandakanivāsa): vườn tre ở phía bắc thành Vương Xá, nước Ma-kiệt-đà, thuộc Trung Ấn Độ.
[35] Tam giải thoát môn 三解脫門 (S: vimokṣa-mukhāni): ba môn giải thoát. Một, không giải thoát là quán tất cả pháp đều do nhân duyên sinh, tự tính vốn không, không người tạo tác, không người thụ nhận, chứng nhập Niết-bàn; hai, vô nguyện giải thoát là đối với tất cả pháp sinh tử, mong cầu xa lìa ý niệm tạo tác, không mong cầu tái sinh ở đời sau, nên chứng nhập Niết-bàn; ba, vô tướng giải thoát là biết rõ bốn đại, năm uẩn đều không, căn thân là tướng giả hợp, xa lìa tướng chấp nhân ngã mà chứng nhập tịch tịnh niết-bàn.
[36] Ba thứ tịnh nhục (tam chủng tịnh nhục 三種淨肉): ba thứ thịt tì-kheo được phép ăn mà không phạm giới. Đó là không thấy nó bị giết, không nghe tiếng kêu la của nó khi bị giết, không nghi là giết để đãi ta ăn.
[37] Ý thú biệt thời (biệt thời chi ý 別時之意): ý thú biệt thời để thuyết pháp, tức ý nghĩa lợi ích ở thời gian khác.
[38] Giáo thuyết bất liễu nghĩa (bất liễu chi thuyết 不了之說): giáo pháp thuận theo trình độ chúng sinh mà dùng phương tiện, giáo tướng dẫn dắt.
[39] Tính tội và già tội (tội hữu già tính 罪有遮性): tính tội là tội lỗi thuộc về tự tính, bất luận ở hoàn cảnh nào, nếu người phạm thì thành tội mà không đợi giới luật chế định. Ngược lại, do giới luật chế định mới thành tội thì gọi là già tội.
[40] Rừng Thi-đà (Thi-đà lâm 尸陀林; S: śītavana): khu rừng rậm ở phía bắc thành Vương Xá nước Ma-kiệt-đà thuộc Trung Ấn Độ. Khu rừng này âm u lạnh lẽo, vốn là nơi nhân dân trong rừng bỏ tử thi, về sau là nơi ở của tội nhân.
[41] A-lan-nhã 阿蘭若 (S: araṇya): nơi tĩnh mịch thích hợp với người tu hành, tức nơi vắng vẻ, cách xóm làng khoảng 2,5 km.
[42] Thâu-lan-giá 偷蘭遮 (S: thullaccaya): các tội thuộc về ngũ thiên, ngoài tội đột-cát-la thì tất cả nhân tội, quả tội nặng hoặc nhẹ đều gọi chung là thâu-lan-giá.
[43] Ương-quật-ma-la 央掘摩羅 (S: Aṅguli-mālya; Hd: Chỉ Man): một người hung ác, sống trong thành Thất-la-phạt-tất-để, tôn thờ Ma-ni-bạt-đa-la làm thầy, nhưng bị sư mẫu vu khống tội làm nhục bà ta, nên thầy bảo ông giết một nghìn người, mỗi người chặt một ngón tay xỏ xâu mới được truyền pháp Niết-bàn. Ương-quật-ma-la nghe theo. Khi giết người thứ chín trăm chín mươi chín, ông định giết mẹ mình để đủ một nghìn. Đức Phật biết việc này, khởi lòng thương xót, đến hóa độ ông. Ông Liền sám hối tội lỗi và xin xuất gia, về sau cũng chứng quả A-la-hán.
[44] Ngũ vị (tân giá tịnh đức 幸遮淨德): năm thứ cay nồng là hành, hẹ, tỏi, nén và kiệu (hoặc hưng cừ).
[45] Mười hai nhân duyên (thập nhị nhân duyên十二因緣; S: dvādaśāṅgapratītya-samutpāda): mười hai điều kiện liên kết làm nhân quả cho nhau hình thành sự sinh tồn và hoại diệt của loài hữu tình. Đó là vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử.
[46] Đạo ý 道意 (Cg: đạo tâm, bồ-đề tâm): tâm cầu đạo Vô thượng.
[47] Tuệ nhãn 慧眼 (S: prajñā-cakṣus): mắt trí tuệ của hàng nhị thừa chứng được, cũng tức là trí tuệ rõ suốt được các pháp bình đẳng, tính không, chiếu rõ được chân tướng của các pháp, cứu độ chúng sinh đến bờ giác.
[48] Địa ngục Đẳng hoạt (Đẳng hoạt địa ngục 等活地獄; S:Saṃjīva): địa ngục sống chết liên tục. Tội nhân trong ngục này mỗi khi gặp nhau thì cấu xé bằng móng sắt, làm cho thân thể tả tơi mà chết, gặp cơn gió mát thổi qua, phút chốc sống lại, rồi tiếp tục chịu khổ. Đây là địa ngục thứ nhất trong tám địa ngục nóng.
[49] Địa ngục Dây đen (Hắc Thằng địa ngục 黑繩地獄; S:Kāla-sūtra): địa ngục có dây sắt làm dấu trên thân thể tội nhân, theo đó mà cưa xẻ. Đây là địa ngục thứ hai trong tám địa ngục nóng.
[50] Địa ngục Hợp Hội (Hợp Hội địa ngục 合會地獄; Cg: địa ngục Chúng hợp): nơi có những hình phạt đặc biệt là ép cho xương thịt tội nhân nát nhừ ra. Đây là địa ngục thứ ba trong tám địa ngục nóng.
[51] Địa ngục Khóc la (Đế khốc địa ngục 啼哭地獄): địa ngục thứ tư trong tám địa ngục nóng.
[52] Địa ngục Khóc lớn (Đại Đế Khốc địa ngục 大啼哭地獄): địa ngục thứ năm trong tám địa ngục nóng.
[53] Địa ngục A-tì (A-tì địa ngục 阿鼻地獄): địa ngục thứ tám trong tám địa ngục nóng.
[54] Địa ngục Thiêu nướng (Nhiệt địa ngục 熱地獄): địa ngục thứ sáu trong tám địa ngục nóng.
[55] Địa ngục Thiêu lớn (Đại Nhiệt địa ngục 大熱地獄): địa ngục thứ bảy trong tám địa ngục nóng.
[56] Địa ngục Ưu-bát-la (Ưu-bát-la địa ngục 優鉢羅地獄; S: Utpala): một trong tám địa ngục lạnh. Địa ngục này khí lạnh rất dữ dội, toàn thân tội nhân đều bị bầm xanh như màu hoa Ưu-bát-la, nên gọi là địa ngục Ưu-bát-la.
[57] Địa ngục Bát-đầu-ma (Bát-đầu-ma địa ngục 鉢頭摩地獄; S: Padma): một trong tám địa ngục lạnh. Trong ngục này toàn là màu đỏ như màu hoa Bát-đầu-ma.
[58] Địa ngục Câu-mâu-đà (Câu-mâu-đà địa ngục 拘牟陀地獄; Cg: Câu-vật-đầu địa ngục): một trong tám địa ngục lạnh. Trong ngục này toàn là màu hồng như màu hoa Câu-vật-đầu.
[59] Địa ngục Bân-trì (Bân-trì địa ngục 邠持地獄; Cg: địa ngục Phân-đà-lợi): một trong tám địa ngục lạnh. Ngục này toàn là màu trắng như màu hoa phân-đà-lợi.
[60] Địa ngục Khoáng (Khoáng địa ngục 曠地獄): địa ngục nằm rải rác trong hư không hay đồng trống tùy theo tội nghiệp của mỗi người chiêu cảm mà có.
[61] Kiếp Thiêu 劫燒: thời kỳ hỏa tai, trên trời xuất hiện bảy mặt trời, các tầng trời từ Sơ thiền trở xuống đều bị kiếp hỏa thiêu đốt.
[62] Trấm 鴆: tên một loài chim, lông có chất cực độc.
[63] Thần gió (phong thần 風神): vị thần quyến thuộc của đức Thiên Thủ Quán Âm, được xếp vào hai mươi tám bộ chúng. Hình tượng của thần gió thì trên lưng có mang cái túi, hiện dáng vẻ như đang phát động ra gió.
[64] Dạ-xoa 夜叉 (S: yakṣa): loài quỷ ở trên mặt đất hoặc trong hư không, dùng oai thế não hại người hoặc giữ gìn chính pháp. Đây là một trong tám bộ chúng.
[65] Càn-thát-bà 乾闥婆 (Cg: càn-đạp-hoà; S: gandharva): vị thần chuyên tấu nhạc trong các bữa tiệc ở thiên đình. Theo truyền thuyết, vị thần này có vua và quyến thuộc rất đông, không ăn thịt uống rượu, chỉ hưởng mùi hương.
[66] Chân-đà-la 甄陀羅: bộ thứ bảy trong tám bộ chúng.
[67] A-tu-la 阿修羅( S: Asura): một loại quỷ thần hiếu chiến của Ấn Độ bị xem là ác thần và thường tranh đấu với trời Đế Thích.
[68] Khúc thiên 曲天: vị trời thổi sáo, trụ ở viện Kim Cương bộ, ngoài mạn-đồ-la Thai Tạng giới, mật giáo.
[69] Thi-khí thiên 尸棄天: vua cõi trời Đại Phạm thuộc Sơ thiền, cõi Sắc. Phạm Thiên vương tên là Thi-khí, rất tin chính pháp, thường gặp Phật ra đời.
[70] Kì-bà thiên 耆婆天: vị trời có thọ mạng dài lâu, hầu cận hai bên trời Đế Thích.
[71] Hóa Lạc thiên 化樂天 (S: Nirmāṇarati-deva): cõi trời thứ năm trong sáu tầng trời cõi Dục.
[72] Tì-sa thiên 毘沙天 (S: Vaiśravaṇa): vị trời thủ hộ Phật pháp, trụ ở phía bắc núi Tu-di, trấn giữ phương bắc cõi Diêm-phù-đề.
[73] Nhị thiền thiên 二禪天 (S: dvitīya-dhyāna): tầng trời thứ hai trong bốn tầng trời cõi Sắc.
[74] Tam thiên 三天 (Gđ: Tam Thiền thiên): tầng trời thứ ba trong bốn tầng trời cõi Sắc. Vì lìa Hỉ của cõi thiền thứ hai, lại sinh lạc tĩnh diệu, nên gọi là Li hỉ diệu lạc địa. Ý thức của cõi này rất tĩnh diệu nên gọi là Lạc thụ.
[75] Viêm-ma thiên 炎摩天 (S: Yama): cõi trời thứ ba trong sáu tầng trời cõi Dục.
[76] Tha Hóa thiên 他化天 ( S: Para-nirmita-vaśa-vartin): cõi trời thứ sáu trong sáu tầng trời cõi Dục.
[77] Đâu-suất thiên 兜率天 (S: Tuṣita): cõi trời thứ tư trong sáu tầng trời cõi Dục.
[78] Phạm thiên 梵天 (S: brahmā): vị trời ở tầng thứ ba thuộc Sơ thiền ở cõi Sắc.
[79] Vô Tưởng thiên 無想天 (S: Asaṃjñisattvāḥ): một trong các tầng trời cõi Sắc, tức quả báo dị thục do tu vô tưởng định chiêu cảm.
[80] Chiên-đà-la 旃陀羅 (S: caṇḍāla): giai cấp thấp nhất trong xã hội Ấn Độ, luôn làm nô lệ cho ba chủng tính Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Phệ-xá. Ba chủng tính trên có quyền tụng niệm Phệ-đà và cúng tế, và cho là sau khi chết, họ được đầu thai lại nhân gian, còn Thủ-đà-la không được tụng kinh cúng tế, cũng không được đầu thai chuyển sinh.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.118.2.68 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.