Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Nhà lợp không kín ắt bị mưa dột. Tâm không thường tu tập ắt bị tham dục xâm chiếm.Kinh Pháp cú (Kệ số 13)
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận. Kinh Pháp cú
Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Chư Kinh Yếu Tập [諸經要集] »» Bản Việt dịch quyển số 9 »»

Chư Kinh Yếu Tập [諸經要集] »» Bản Việt dịch quyển số 9

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.88 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 1.06 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Thiện Ác Nghiệp Báo

Kinh này có 20 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 |
Việt dịch: Thích Thọ Phước - Quảng Hùng

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Chủ biên: Thích Nguyên Chơn
XVI. CHỌN BẠN KẾT GIAO
Gồm năm phần: Lời dẫn, Thiện tri thức, Ác tri thức, Mắc nợ, Răn lỗi lầm.
XVI.1. Lời dẫn
Tột cùng của lý chỉ có thiện và ác. Xét hai con đường này, thật dễ luận bàn; sâu kín thì có tội phúc, khổ vui; trước mắt thì có hiền ngu, vinh nhục. Thích vinh ghét nhục, theo vui bỏ khổ là tâm lý chung của tất cả chúng sinh.
Con người ngày nay thích vinh mà không biết chuộng hiền, cầu phúc mà không biết tránh lỗi, cũng như gieo giống lép mà đến mùa mong được hạt chắc, cưỡi ngựa yếu què mà mong vượt đường xa, há chẳng phải là việc không tưởng ư? Ví như các loài chim muông, trùng, rắn... khôn ngoan còn biết nhờ gió, mượn sương, nương cao, cậy xa để thành tựu việc của mình; huống là con người, sao không nương bạn hiền để trở thành người tốt?
Thế nên, gần gũi bạn tốt thì danh cao, đức trọng; chơi với kẻ xấu thì danh bại, thân tàn. Vì vậy, phép tắc đáng quí xuất phát từ con người mẫu mực, tâm ý có thiết tha mới giữ được tình thân. Lại như ruồi trâu chỉ có thể bay xa trăm bước, nhưng nếu biết đậu nhờ vào đuôi chim loan thì bay xa cả nghìn dặm. [79b] Đó, há chẳng phải là nhờ vào năng lực của đôi cánh chim loan ư? Cũng vậy, người đời đắm chìm trong đường tăm tối không thể bước lên cõi trời người, nhưng nếu biết nương vào uy lực của chư Phật thì mau chứng Thập địa[1], cùng về cõi Tịnh.
XVI.2. Thiện tri thức
Kinh Niết-bàn ghi: “Tì-kheo A-nan hỏi Phật:
- Người có phân nửa Phạm hạnh có được gọi là thiện tri thức không?
Đức Phật bảo:
- Không được. Người có đầy đủ Phạm hạnh mới được gọi là thiện tri thức.
Phật lại bảo:
- Thiện tri thức là người nói đúng pháp, thực hành đúng như lời nói.
Thế nào là nói đúng như pháp, thực hành đúng như lời nói? Nghĩa là tự mình không sát sinh, dạy người không sát sinh, cho đến tự mình thực hành chính kiến, dạy người thực hành chính kiến. Nếu được như thế thì gọi là thiện tri thức chân chính. Tự mình tu tập bồ-đề, cũng dạy người tu tập bồ-đề, gọi là thiện tri thức. Tự mình tu hành chánh tín, trì giới, bố thí, đa văn, trí huệ, gọi là thiện tri thức.
Thiện tri thức là người có thiện pháp. Thiện pháp là việc làm của họ không mong cầu sự an lạc cho riêng mình, mà mong cầu sự an lạc cho tất cả chúng sinh; thấy người khác có lỗi thì không nói lỗi của họ, mà lúc nào cũng nói tốt về họ. Đây gọi là thiện tri thức.
Này thiện nam tử! Như mặt trăng giữa hư không, từ ngày mồng một sáng dần cho đến ngày rằm. Cũng vậy, thiện tri thức khiến cho người học dần dần xa lìa pháp ác, tăng trưởng pháp thiện.
Này thiện nam tử! Nếu người nào vốn chưa có định tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, khi gần gũi thiện tri thức, thì liền được; còn người chưa đầy đủ thì được tăng trưởng.
Phật lại bảo:
- Thiện tri thức nên quán người này nặng về tham dục hay là sân nhuế, ngu si hay vọng tưởng? Nếu biết người ấy nhiều tham dục, thì nên dạy cho pháp quán bất tịnh; người nhiều sân nhuế, thì nên dạy cho pháp quán từ bi; người nhiều vọng tưởng, thì nên dạy cho pháp quán sổ tức; người nhiều chấp ngã, thì nên giảng giải mười tám giới. Sau khi nghe pháp, vị ấy tu hành, lần lượt chứng đắc bốn pháp niệm xứ[2], mười hai nhân duyên[3], pháp noãn[4], đảnh[5], nhẫn[6], thế đệ nhất[7], cho đến các quả vị như A-la-hán, Bích-chi Phật, Bồ-tát, Phật, cũng nhờ những pháp này mà thành tựu, không bị ngưng trệ. Lợi mình, lợi người, pháp và hạnh viên mãn, gọi là thiện tri thức. Nếu vị pháp sư không đầy đủ các pháp trên, thì không được gọi là thiện tri thức và người học cũng không có pháp tu hành để chứng đắc các quả vị.
[79c] Cho nên, luận Phật tính dẫn bài kệ trong kinh rằng:
Không gặp thiện tri thức,
Bạn xấu phá hạnh lành,
Như nhện rơi vào sữa,
Sữa ấy thành chất độc.
Như vậy, thiện tri thức cần phải làm lợi ích chúng sinh một cách thật sự, trước điều phục bản thân, sau mới dạy người và không có mười lỗi: ít nghe, thối tâm, tán loạn, kiêu mạn, điên đảo, mong cầu, sân hận, tà hạnh, chấp ngã, ác hạnh.
Luận Trang nghiêm có bài kệ:
Đa văn, thấy tứ đế,
Giảng hay và thông đạt,
Người này được bất thoái,
Bồ-tát khéo nương tựa.
Kinh Phật bản hạnh ghi: “Một thời, Đức Phật cùng với trưởng lão Nan-đà đi đến tiệm bán hương. Thấy trong tiệm có nhiều loại hương, Đức Phật bảo trưởng lão Nan-đà:
- Này Nan-đà! Ông hãy đến lấy các loại hương trong tiệm này!
Vâng lời Phật dạy, Nan-đà đến lấy.
Phật lại bảo Nan-đà:
- Ông hãy lấy ít hương để trong lòng bàn tay, sau đó thả xuống đất.
Nghe vậy, Nan-đà cầm một ít hương, chốc lát rồi thả xuống đất.
Đức Phật bảo:
- Nay ông tự ngửi tay xem.
Vâng lời Phật, Nan-đà ngửi tay mình.
Đức Phật hỏi:
- Ông ngửi có mùi gì không?
Nan-đà thưa:
- Bạch Thế Tôn! Tay con có mùi thơm kỳ diệu.
Đức Phật bảo:
- Đúng vậy, đúng vậy! Nếu người gần gũi thiện tri thức, nhờ thường ở chung, tùy thuận, huân tập và thân cận, nên nhất định được tiếng tốt vang xa”.
Nhân việc này, Đức Phật nói kệ:
Nếu trong tay cầm các loại hương,
Hương trầm, hương hoắc[8] cùng hương xạ[9],
Chốc lát mùi thơm thấm vào tay,
Gần gũi thiện tri thức cũng vậy.
Đức Phật lại nói kệ:
Nếu người gần gũi ác tri thức,
Đời này không được tiếng tốt vang,
Cũng vì thân gần với bạn ác,
Đời sau sẽ đọa ngục A-tì.
[80a] Nếu người gần gũi thiện tri thức,
Vâng làm theo những việc tốt lành,
Đời này tuy không được lợi lộc,
Nhưng sau dứt sạch nhân khổ đau.
Luật Tứ phần ghi: “Bạn thân cần phải đủ bảy yếu tố:
1. Làm được việc khó làm.
2. Cho được thứ khó cho.
3. Nhẫn được điều khó nhẫn.
4. Nói với nhau điều bí mật.
5. Cùng giữ kín cho nhau.
6. Gặp khổ không lìa bỏ.
7. Nghèo hèn không khinh thường.
Người thực hành được bảy yếu tố này là bạn tốt, nên gần gũi, học tập”.
Trong luận Đại trang nghiêm, Đức Phật nói kệ:
Không bệnh được lợi nhất,
Biết đủ, giàu bậc nhất,
Bạn lành, đáng gần nhất,
Niết-bàn, vui lớn nhất.
Kinh Thi-ca-la-việt lục hướng bái ghi: “Thiện tri thức có bốn hạng:
1. Ngoài như oan gia, nhưng trong thì thân thiết.
2. Trước mặt thì thẳng thắn can ngăn, sau lưng thì nêu việc tốt.
3. Thấy người bị thua trong việc kiện tụng, thì lo buồn và tìm cách giúp đỡ.
4. Thấy người nghèo khổ, tâm không bỏ rơi, thường muốn giúp họ giàu có.
Lại nữa, thiện tri thức cũng có bốn hạng:
1. Gặp người bị quan bắt dẫn về che dấu, sau đó giải quyết thỏa đáng.
2. Gặp người bị bệnh ốm gầy thì đem về chăm sóc.
3.Hay tin bạn chết thì an táng, lo liệu.
4. Biết bạn đã mất thì đến nhà chia buồn.
XVI.3. Ác tri thức
Kinh Thi-ca-la-việt lục hướng bái ghi: “Ác tri thức có bốn hạng:
1. Trong tâm thì oán thù, nhưng ngoài gắng gượng làm ra vẻ cảm thông.
2. Trước mặt thì nói tốt, sau lưng lại nói xấu.
3. Khi có việc khẩn cấp, trước mặt người tỏ vẻ buồn khổ, nhưng sau lưng lại vui mừng.
4. Ngoài như thân thiết, nhưng trong ngầm làm hại.
Lại nữa, ác tri thức cũng có bốn hạng:
1. Xúc phạm nhỏ, liền giận dữ quá đáng.
2. Không chịu làm những việc đáng làm.
3. Thấy bạn gặp nạn, liền lẫn tránh.
4. Thấy bạn chết, không hề quan tâm thăm viếng.
Kinh Niết-bàn ghi: “Đại Bồ-tát xem ác tri thức giống như voi dữ. Vì sao? Vì cả hai đều làm tổn hại thân mạng. Nhưng đại bồ-tát không sợ hãi voi dữ, mà rất sợ ác tri thức. Vì sao? Vì voi dữ chỉ hại thân chứ không hại tâm, ác tri thức hại cả thân và tâm. [80b] Voi dữ chỉ hại một thân, ác tri thức hại vô lượng thiện thân, vô lượng thiện tâm. Voi dữ chỉ phá hoại thân nhơ uế, ác tri thức phá hoại thân thanh tịnh và tâm thanh tịnh. Voi dữ chỉ hại nhục thân, ác tri thức phá hoại pháp thân. Người bị voi dữ giết chết thì không đọa ba đường ác, còn bị ác tri thức giết hại thì nhất định đọa ba đường ác. Voi dữ chỉ là oán thù của thân, ác tri thức là oán thù của pháp lành”.
Thế nên, bồ-tát thường phải xa lìa các ác tri thức.
Kinh Tăng nhất a-hàm ghi: “Đức Phật nói kệ:
Chớ gần ác tri thức,
Cũng đừng theo người ngu,
Thân cận thiện tri thức,
Bậc nhất trong loài người.
Nếu người tâm hiền lành,
Gần gũi ác tri thức,
Lâu dần gieo giống xấu,
Mãi chìm trong tối tăm”.
Kinh Trung a-hàm ghi: “Bấy giờ, Đức Phật bảo các tì-kheo:
- Có bảy trường hợp gây thành oan gia:
1. Không muốn oan gia có sắc đẹp, cho nên tuy thường tắm gội, dùng danh hương thoa thân, nhưng sắc thân vẫn xấu. Đó là do tâm bị sân giận chi phối mà gây thành oan gia.
2. Không muốn oan gia ngủ nghỉ yên ổn, cho nên tuy nằm giường gối được phủ bằng gấm vóc, lụa là, nhưng giấc ngủ vẫn lo âu, đau khổ. Đó là do tâm bị sân giận chi phối mà gây thành oan gia.
3. Không muốn oan gia được lợi ích lớn, cho nên đáng lẽ được lợi mà không được lợi, đáng lẽ không được lợi lại được lợi. Hai điều này chống trái nhau. Đó là do tâm bị sân giận chi phối mà gây thành oan gia.
4. Không muốn oan gia có bạn bè, cho nên nếu có bạn bè thân thiết, họ cũng tìm cách lánh mặt bỏ đi. Đó là do tâm bị sân giận chi phối mà gây thành oan gia.
5. Không muốn oan gia được tiếng khen, cho nên danh nhơ, tiếng xấu đồn khắp. Đó là do tâm bị sân giận chi phối mà gây thành oan gia.
6. Không muốn oan gia giàu sang, cho nên dù người ấy giàu có vẫn bị mất nhiều tài vật. Đó là do tâm bị sân giận chi phối mà gây thành oan gia.
7. Không muốn oan gia khi mạng chung sinh về nơi hạnh phúc, cho nên người ấy tạo ba nghiệp ác, khi mạng chung nhất định sinh về chỗ đau khổ kịch liệt như địa ngục... Đó là do tâm bị sân giận chi phối mà gây thành oan gia”.
Kinh a-hàm ghi: “Tránh xa bạn ác, thân cận bạn lành”.
Có bốn điều xấu, không nên gần gũi, cách xa một trăm do-tuần[10]. Đó là bạn ác; chúng ác; nói nhiều, cười giỡn; sân giận, đánh nhau”.
[80c] Kinh Thiện sinh ghi: “Có năm nơi không được tổ chức đàn giới là lò mổ; nhà dâm; quán rượu; cung vua; nhà của chiên-đà-la.
Lại có năm nghề không nên làm: bán thuốc độc, nấu rượu, đánh bạc, chơi cờ lục bác[11], ca múa kỹ nhạc”.
Kinh Bảo vân ghi: “Người trì giới không được đến nhà người phá giới khất thực”.
Luận Kim cương tiên ghi: “Người xuất gia không được đến lò mổ, quán rượu, nhà dâm, nơi có voi dữ, chó dữ... khất thực, cũng không được thường tới lui thân cận”.
Kinh Đại phương quảng tổng trì ghi: “Đức Phật bảo:
- Này thiện nam tử! Sau khi ta diệt độ, nếu vị pháp sư nào theo sở thích của người nghe mà khéo thuyết pháp cho họ, có thể khiến cho bồ-tát học kinh điển Đại thừa và các đại chúng phát mảy may tâm hoan hỉ, cho đến cảm động rơi một giọt nước mắt, nên biết đó đều là nhờ thần lực của Phật.
Nếu có người ngu si thật chẳng phải bồ-tát mà tự xưng là bồ-tát, rồi phỉ báng bồ-tát chân thật và các pháp bồ-tát ấy thực hành; lại nói rằng: ‘Người ấy đâu có biết gì, đâu có hiểu gì. Nếu đây kia hòa hợp, thì có thể giữ gìn và lưu truyền giáo pháp của Ta. Nếu đây kia trái nghịch, thì chính pháp không được lưu truyền. Người phỉ báng chính pháp này mắc tội rất lớn, đọa vào ba đường ác, thật khó ra khỏi.
Nếu có người ngu không tin nhận lời Phật dạy, cho dù đọc tụng cả nghìn bộ kinh điển Đại thừa, hoặc giảng nói khiến người chứng được Tứ thiền, nhưng vì tội phỉ báng người khác, nên phải chịu đau đớn cùng cực trong bảy mươi kiếp. Huống gì người ngu si kia thật không hiểu biết, lại còn cống cao ngã mạn, cho đến phỉ báng một bài kệ bốn câu, người này phải đọa địa ngục, vĩnh viễn không được gặp Phật. Do kẻ kia nhìn người phát tâm bồ-đề bằng con mắt hung dữ, nên chịu quả báo không có mắt; lại do phỉ báng người phát tâm bồ-đề bằng lời độc ác, nên chịu quả báo không lưỡi”.
Kinh Hiền ngu ghi: “Thuở xưa, khi Phật còn tại thế, tì-kheo-ni Vi Diệu đã chứng quả A-la-hán kể cho ni chúng nghe quả báo của các nghiệp thiện và ác mà mình đã tạo đời trước.
Tì-kheo-ni kể:
- Vào thời quá khứ, có ông trưởng giả rất giàu, nhưng không có con, nên ông cưới một người vợ nhỏ và rất mực thương yêu. Thời gian sau, cô ta sinh được một đứa bé trai, người chồng càng yêu thương hơn, nhìn hoài không chán. Thấy vậy, người vợ lớn ganh ghét, thầm nghĩ: ‘Đứa bé này lớn lên sẽ nối nghiệp nhà. Ta đây khó nhọc cất chứa có ích gì, chi bằng giết nó đi!’. Suy nghĩ như vậy, bà ta lấy kim chích vào đầu đứa bé, đứa bé chết, vợ nhỏ nghi là do vợ lớn giết con mình, liền hỏi:
- Bà giết con tôi ư?
[81a] Người vợ lớn cho là không có quả báo tội phúc, nên thề rằng: ‘Nếu tôi giết con bà, thì đời đời chồng tôi bị rắn cắn chết; con tôi bị nước trôi, sói cắn; còn tôi tự ăn thịt con và hiện đời sẽ bị chôn sống; cha mẹ tôi ở nhà bị lửa thiêu đốt mà chết!’
Phát lời thề xong, bà ta mạng chung. Do giết đứa bé ấy, nên bà bị rơi vào địa ngục, chịu khổ cùng cực.
Hết tội ở địa ngục, bà sinh làm nữ Phạm chí trong loài người, dần dần khôn lớn, gả chồng, sinh được một đứa con. Sau bà mang thai đứa thứ hai, năm tháng đã đủ, gần đến kì sinh. Một hôm, bà cùng với chồng về thăm cha mẹ. Đi được nửa đường, bà đau bụng, liền sinh. Đêm ấy, hai vợ chồng nghỉ dưới gốc cây, người chồng ngủ riêng. Nay đã đến lúc chịu quả báo theo như lời thề của bà trước đây. Bấy giờ, một con rắn độc đến cắn chết chồng bà. Thấy chồng chết, bà cũng chết giấc, sau mới tỉnh lại. Sáng ra, bà cõng đứa lớn trên vai và bồng đứa nhỏ, tiếp tục lên đường, vừa đi vừa khóc.
Trên đường đi, gặp một con sông sâu và rộng. Bà để đứa lớn ở bờ bên này, rồi bồng đứa nhỏ lội qua bờ bên kia trước, sau mới trở lại đón đứa lớn. Thấy mẹ lội xuống nuớc, đứa bé liền lội theo, thì bị nước cuốn trôi. Người mẹ lập tức bơi theo, nhưng không cứu được. Chốc lát, đứa lớn đã bị chết chìm. Người mẹ trở lại bờ bên kia để đón đứa nhỏ, thì hổ đã ăn mất, chỉ còn thấy vết máu trên đất. Người mẹ chết ngất, hồi lâu mới tỉnh, lại tiếp tục lên đường.
Đi được một đoạn, gặp vị Phạm chí là bạn thân của cha, bà khóc lóc kể đầy đủ nỗi khổ của mình cho Phạm chí nghe, rồi hỏi thăm gia đình của bà có an ổn không. Phạm chí đáp: ‘Hôm trước, một vụ cháy nổi lên, cha mẹ và cả nhà bà đồng loạt bị chết cháy’. Nghe vậy, bà chết ngất, hồi lâu mới tỉnh.
Phạm chí đem về nhà nuôi dưỡng như con, rồi gả chồng. Một hôm, lúc bà sắp sinh, người chồng đi ra ngoài uống rượu. Tối đến, vợ đóng cửa, ở nhà một mình, lại sinh con. Nửa đêm, chồng trở về, ở ngoài kêu cửa. Người vợ đang sinh, nên không có ai ra mở cửa. Chồng phá cửa vào, lôi vợ ra đánh. Vợ nói là đang sinh, chồng nổi giận, liền giết và hầm đứa bé với sữa, rồi bắt vợ ăn. Trong lúc sợ hãi, người vợ ăn con, sau đó hối hận, tự nghĩ: ‘Vì mình phúc mỏng nên gặp phải ông này’.
Thế rồi, bà bỏ trốn sang nước Ba-la-nại. Đến một khu vườn, bà ngồi nghỉ nơi gốc cây. Bấy giờ, con của ông trưởng giả nọ có vợ vừa chết. Mỗi ngày, ông ta đi ra thăm mộ, thương nhớ, khóc lóc. Thấy người nữ này ngồi một mình dưới gốc cây, ông đến hỏi sự tình, rồi hai người trở thành vợ chồng. Mấy ngày sau, người chồng chết. Theo phép nước thời ấy, khi sống thì vợ chồng thương nhau, khi chồng chết, thì vợ cũng bị chôn sống chung với chồng.
[81b] Đêm ấy, có một đám cướp đến đào mộ. Tên tướng cướp thấy bà xinh đẹp, liền bắt mang về làm vợ. Mấy tuần[12] sau, chồng phá mộ nhà người khác, nên bị chủ nhà bắt giết. Bọn giặc đem thây chồng về cho bà, bà phải bị chôn sống lần nữa.
Ba ngày sau, có con sói đến đào mộ, nên bà được thoát. Bà tự trách: ‘Không biết đời trước gây tội gì mà chỉ trong mấy mươi ngày, đã gặp tai họa chết đi sống lại hai lần; nay phải làm sao để bảo toàn tính mạng?’
Khi ấy, nghe Phật Thích-ca đang ở tinh xá Kì-hoàn, bà đến xin Phật xuất gia. Nhờ nguyện lực phát tâm cúng dường thức ăn cho vị bích-chi phật trong đời quá khứ, nên nay bà được gặp Phật, xuất gia tu hành, chứng quả A-la-hán. Nhờ trí tuệ vô lậu, bà biết được đời trước đã tạo nghiệp sát sinh, lại thề đọa địa ngục, nên hiện đời phải chịu quả báo đau khổ thống thiết này, không ai thay thế được.
Tì-kheo-ni Vi Diệu tự nói:
- Người vợ lớn trước đây chính là tôi. Tuy chứng quả A-la-hán, nhưng tôi thường đau nhức như bị kim sắt nóng châm từ đỉnh đầu xuống chân, ngày đêm đau đớn, không thể chịu nổi. Tai họa rành rành như thế, không hề sai chạy”.
Trong luận Nhập đại thừa, bồ-tát Kiên Huệ nói kệ:
Phỉ báng pháp Đại thừa,
Nhất định đọa đường ác,
Thiêu đốt thật thống khổ,
Tội báo thật như thế.
Nếu ra khỏi địa ngục,
Lại phải chịu dư báo,
Các căn không đầy đủ,
Trọn không được nghe pháp.
Nếu được nghe diệu pháp,
Thì sinh lòng phỉ báng,
Do nhân phỉ báng này,
Lại rơi vào địa ngục.
XVI.4. Vay trả
Kinh Pháp cú thí dụ ghi: “Thuở xưa, khi Phật còn tại thế, có một tì-kheo tên là Phất-ca-sa-vương vào thành La-duyệt khất thực.
Ngay tại cửa thành, ông bị con trâu cái mới sinh húc chết. Chủ trâu lo sợ, bèn bán trâu cho người khác. Người chủ mới dẫn trâu ra sông uống nước, cũng bị trâu từ phía sau húc chết. Gia đình người chủ nổi giận, bắt trâu giết, rồi đem thịt ra chợ bán.
Có người làm ruộng mua đầu trâu, xỏ dây mang về. Anh ta ngồi nghỉ nơi gốc cây cách nhà hơn một dặm, rồi treo đầu trâu lên cành cây. Lát sau, dây bị đứt, đầu trâu rơi xuống ngay anh ta, sừng đâm vào người, anh ta chết ngay tại chỗ.
Nghe trong một ngày có ba người bị giết như thế, vua Bình-sa lấy làm lạ, liền cùng quần thần đi đến chỗ Phật, hỏi rõ nguyên nhân.
[81c] Đức Phật bảo nhà vua:
- Ngày xưa, có ba thương gia đến một nước khác để buôn bán, xin ở nhờ nhà của một bà lão cô độc. Bà lão bằng lòng cho thuê nhà, nhưng ba người kia thấy bà đơn độc, nên dối gạt, không muốn đưa tiền. Đợi bà đi vắng, họ lén bỏ đi, không trả tiền. Trở về, không thấy khách, bà lão hỏi nhà hàng xóm. Mọi người đều nói là họ đi rồi. Bà lão nổi giận, liền đuổi theo kịp và khổ nhọc đòi tiền. Ba người khách mắng chửi lại: ‘Trước đây, chúng tôi đưa rồi, sao còn đòi nữa?’ Thế là, họ đồng thanh phản đối, không chịu trả tiền. Bà lão một mình yếu thế không biết làm sao, bèn buồn bã, khóc than và thề độc: ‘Ta nay đã khốn quẫn, sao họ nỡ dối gạt. Ta thề rằng đời sau sinh ở nơi nào, nếu gặp lại, ta sẽ giết chết các ngươi. Giả sử có đắc đạo, ta cũng không buông tha’.
Phật bảo vua Bình-sa:
- Bà lão thuở ấy chính là con trâu cái ngày nay. Ba người khách buôn là Phất-ca-sa v.v… những người bị trâu húc chết”.
Thế rồi, Đức Phật nói kệ:
Lời ác mắng người,
Coi thường, lấn lướt,
Tạo ác như thế,
Oán khổ càng sâu.
Lời hòa khiêm cung,
Tôn trọng người khác,
Bỏ giận, nhẫn ác,
Oán khổ tự tan.
Người sống trên đời,
Búa ở cửa miệng,
Vì nói lời ác,
Nên bị chém thân.
Kinh Xuất diệu ghi: “Xưa có hai anh em ở nước Kế-tân. Người anh xuất gia, chứng quả A-la-hán, người em ở nhà lo gầy dựng gia nghiệp. Bấy giờ, người anh thường về nhà dạy em, khuyên bố thí, trì giới, tu thiện, làm phúc để hiện tại được tiếng thơm, chết thì được sinh về nơi hạnh phúc, nhưng em trả lời:
- Anh nay đã xuất gia, không còn phải lo việc chung việc riêng, không nghĩ đến vợ con, ruộng vườn, của cải, còn em thì phải lo những việc như thế.
Người anh thường khuyên nhắc, nhưng em không chịu nghe. Sau đó, người em bị bệnh mà chết, sinh vào loài trâu, bị người sai khiến, phải chở muối vào thành. Từ trong thành đi ra, người anh trông thấy, liền nói pháp cho trâu nghe. Nghe xong, nó buồn tủi nghẹn ngào. Chủ trâu thấy thế, nói với vị a-la- hán:
- Ông đã nói điều gì mà khiến con trâu của tôi buồn rầu, không vui?
A-la-hán đáp:
- Con trâu này đời trước vốn là em tôi. Ngày xưa, nợ anh một đồng muối, nên nay đọa làm trâu dùng sức để trả nợ cho anh.
Nghe vậy, chủ trâu nói với a-la-hán:
- Đời trước, em của ngài là bạn thân của tôi.
Lúc ấy, người chủ nói với trâu:
- Nay ta thả ngươi ra, chẳng phải làm việc nữa.
Nghe chủ nói vậy, trâu rất xúc động, thành tâm nghĩ đến Phật, rồi tự đâm đầu chết ở khe sâu, thần thức sinh lên cõi trời, hưởng sự vui sướng cùng cực”.
[82a] Từ câu chuyện này, có thể biết rằng, nếu đã mắc nợ người, thì không thể không trả.
Luận Thành thật ghi: “Nếu có người mắc nợ mà không trả, thì đọa vào trong các loài trâu, dê, chương, nai, lừa, ngựa… để trả nợ xưa”.
Luận Tỳ-bà-sa ghi: “Từng nghe, một cô gái nọ bị ngạ quỷ bắt, có người dùng chú thuật hỏi quỷ:
- Vì sao làm hại cô gái ấy?
Quỷ trả lời:
- Cô gái ấy là oan gia của tôi. Trong năm trăm đời, cô ta thường giết hại tôi, tôi cũng năm trăm đời lấy mạng cô ấy. Nếu cô ta có thể bỏ tâm oán thù trước đây, tôi cũng sẽ dứt bỏ.
Khi ấy, cô gái nói:
- Nay tôi đã bỏ tâm thù oán.
Quán thấy cô gái tuy miệng nói bỏ mà tâm không xả, quỷ liền giết cô ta”.
Kinh Tạp bảo tạng ghi: “Ngài Mục-kiền-liên đến bờ sông Hằng, thấy có năm trăm ngạ quỷ đi xuống sông. Bấy giờ, con quỷ giữ sông dùng gậy sắt xua đuổi, không cho bầy quỷ đến gần. Thế rồi, bầy quỷ đi thẳng đến Mục-kiền-liên, lễ dưới chân Ngài và hỏi về tội của mình. Một con quỷ thưa:
- Thân tôi thường chịu khổ nóng khát. Trước đây, nghe nói nước sông Hằng vừa trong vừa mát, nên tôi vui mừng đến đây thì nước sôi hại thân, thử uống vào một ngụm, thì ngũ tạng bị cháy tiêu, hôi thối không chịu nổi. Vì nguyên nhân gì mà phải chịu tội như thế?
Ngài Mục-kiền-liên trả lời:
- Đời trước, ngươi từng làm thầy tướng số, xem tướng lành dữ cho người, nhưng đúng ít, sai nhiều, hoặc chê, hoặc khen, mà tự xưng là lời nói chắc thật để làm người động lòng, dụ dỗ, lừa dối họ để mong cầu tài lợi, mê hoặc mọi người nhưng rốt cuộc họ cũng chẳng được như ý.
Một quỷ khác thưa:
- Tôi thường bị loài chó lớn, răng nhọn, có màu đỏ nhạt, đến ăn thịt, chỉ còn bộ xương. Khi ấy, một cơn gió thổi qua, da thịt sinh ra, lại bị chó đến ăn. Sự khổ như thế là do nhân duyên gì?
Ngài Mục-kiền-liên trả lời:
- Đời trước, ngươi là ông chủ trông coi miếu trời, thường bảo mọi người giết dê để lấy máu tế trời, còn thịt thì ông ăn. Do đó, ngày nay phải lấy thịt để trả.
Một quỷ khác thưa:
- Tôi thường bị phân dơ dính khắp trên thân và cũng phải ăn thứ phân đó. Tội ấy là do nhân duyên gì?
Ngài Mục-kiền-liên trả lời:
- Đời trước, ngươi làm bà-la-môn ác độc, tà kiến, không tin tam bảo. Khi tì-kheo đến khất thực, thì ngươi lấy phân bỏ vào bát, lấy cơm phủ lên trên, rồi đưa cho tì-kheo. Tì-kheo ôm bát trở về, lấy tay bốc cơm ăn, phân dính dơ tay. Vì vậy, ngày nay phải chịu tội như thế.
Một quỷ khác thưa:
[82b] - Bụng tôi lớn như cái vò, mà cổ họng và chân tay thì nhỏ như cây kim, không thể ăn uống. Khổ ấy là do nhân duyên gì?
Ngài Mục-kiền-liên trả lời:
- Đời trước, ngươi là ông trưởng làng, cậy sự giàu sang, uống rượu bừa bãi, khinh khi người khác, đoạt miếng ăn, thức uống của họ, làm cho mọi người đói khổ. Thế nên phải chịu khổ này.
Một quỷ khác thưa:
- Tôi thường muốn đến nhà xí để ăn phân, nhưng có một bầy quỉ rất đông cầm gậy xua đuổi tôi, không cho vào gần nhà xí. Vì vậy, miệng tôi hôi thối, đói khổ, nhưng không biết nhờ ai. Đó là do nhân duyên gì?
Ngài Mục-kiền-liên trả lời:
- Đời trước, ngươi làm chủ một ngôi chùa. Có người tại gia cúng dường chúng tăng đủ các món ăn. Ngươi lấy món dở đem cúng khách tăng, riêng mình ăn món ngon. Thế nên phải chịu khổ này.
Một quỷ khác thưa:
- Toàn thân tôi mọc đầy lưỡi. Có một cái búa đến chặt lưỡi, chặt đứt lại mọc ra, cứ như thế mãi. Đó là do nhân duyên gì?
Ngài Mục-kiền-liên trả lời:
- Đời trước, ngươi làm tì-kheo, chúng tăng sai hòa nước đường phèn. Có một cục đường lớn khó tan, nên ngươi dùng búa chặt nhỏ, rồi khởi tâm trộm lấy ăn một miếng. Do nhân duyên đó, nên nay ngươi lại bị búa cắt lưỡi.
Một quỷ khác thưa:
- Tôi thường bị bảy hòn sắt nóng lăn thẳng vào miệng, rồi chui xuống bụng, làm cho ngũ tạng cháy tiêu, hòn sắt lăn ra, rồi lại lăn vào. Do nhân duyên gì mà phải chịu tội như thế?
Ngài Mục-kiền-liên trả lời:
- Đời trước, ngươi làm sa-di, được sai mang trái cây đến cho thầy, vì kính thầy mình nên sinh tâm thiên vị đưa nhiều hơn bảy quả. Thế nên phải chịu khổ này.
Một quỷ khác thưa:
- Tôi thường bị hai bánh xe sắt nóng nằm dưới hai nách, hễ thân cử động thì liền bị thiêu cháy. Đó là do nhân duyên gì?
Ngài Mục-kiền-liên trả lời:
- Đời trước, ngươi làm bánh cho chúng tăng, khởi tâm trộm lấy hai lần và kẹp vào trong nách. Thế nên phải chịu khổ này.
Một quỷ khác thưa:
- Tôi có cục bướu lớn như cái vò, lúc đi phải vác lên vai, dừng lại thì ngồi lên trên nó, đi đứng đau đớn, khổ sở. Đó là do nhân duyên gì?
Ngài Mục-kiền-liên trả lời:
- Đời trước, ngươi làm chức thị lệnh[13], giao cho người thì cân non, đấu nhỏ, còn cân nặng, đấu lớn lấy về phần mình, lại thường muốn mình được lợi lớn, làm thiệt hại người khác.
Một quỷ khác thưa:
- Hai vai tôi thường có mắt, ngực có mũi miệng, nhưng không có đầu. Đó là do nhân duyên gì?
Ngài Mục-kiền-liên trả lời:
- Đời trước, ngươi thường làm đệ tử của tên đầu đảng giết người. Khi giết người tội, ngươi thường cảm thấy vui sướng, lấy dây buộc vào, rồi lôi kéo đi. Thế nên phải chịu khổ này.
Một quỷ khác hỏi:
- Thân tôi thường bị kim sắt châm vào, rút ra, đau đớn không biết kêu ai. Đó là do nhân duyên gì?
Ngài Mục-kiền-liên trả lời:
[82c] - Đời trước, ngươi làm người huấn luyện ngựa, hoặc huấn luyện voi. Voi ngựa khó trị, ngươi lấy kim sắt đâm vào chân chúng. Những lúc chúng đi chậm, ngươi cũng lấy kim đâm vào. Thế nên phải chịu khổ này.
Một quỷ khác thưa:
- Thân tôi thường có lửa nổi lên thiêu cháy, đau đớn vô cùng. Đó là do nhân duyên gì?
Ngài Mục-kiền-liên trả lời:
- Đời trước, ngươi làm hoàng hậu, lại có một vương phi được vua sủng ái, nên ngươi ghen ghét, rắp tâm làm hại. Gặp lúc nhà vua ngủ dậy, bước ra ngoài, vị thứ phi còn ngủ, chưa dậy mặc áo, ngươi khởi tâm ác, dùng dầu mè còn nóng, đổ lên bụng vương phi. Vương phi bị phỏng bụng mà chết. Thế nên ngày nay ngươi phải chịu khổ này.
Một quỷ khác thưa:
- Tôi thường bị gió xoáy vây bọc lấy thân, không thể tự do đi lại, lòng thường sầu não. Đó là do nhân duyên gì?
Ngài Mục-kiền-liên trả lời:
- Đời trước, ngươi làm thầy bói, có lúc nói thật, có lúc nói dối để mê hoặc lòng người, nhưng họ không được như ý. Thế nên phải chịu khổ này.
Một quỷ khác thưa:
- Thân tôi như cục thịt, không có tay chân, mắt, tai, mũi... lại luôn bị chim, trùng rúc ăn, đau đớn không chịu nổi. Đó là do nhân duyên gì?
Mục-kiền-liên trả lời:
- Đời trước, ngươi thường cho người uống thuốc trục thai, nên phải chịu khổ này.
Một quỷ khác thưa:
- Tôi thường bị lồng sắt nóng chụp giữ quanh thân, thiêu cháy đau đớn. Đó là do nhân duyên gì?
Ngài Mục-kiền-liên trả lời:
- Đời trước, ngươi thường dùng lưới, rớ giăng bắt chim cá, nên phải chịu khổ này.
Một quỷ khác thưa:
- Tôi thường lấy vật tự trùm kín đầu, lại hay sợ người đến giết hại, nên lòng thường lo sợ, không thể chịu được. Đó là do nhân duyên gì?
Ngài Mục-kiền-liên trả lời:
- Đời trước, ngươi tà dâm, thường sợ người thấy, hoặc sợ chồng người kia bắt trói, đánh giết, hoặc sợ phép vua giết bêu thây giữa phố thị, nên lúc nào cũng sợ hãi. Thế nên phải chịu khổ này.
Một quỷ khác thưa:
[83a] - Tôi thường vác một bình nước đồng sôi trên vai, rồi tự tay cầm gáo múc nước đồng ấy xối từ đầu xuống, toàn thân bị cháy rã, chịu khổ vô cùng. Đó là do tội gì?
Ngài Mục-kiền-liên trả lời:
- Đời trước, ngươi xuất gia làm tì-kheo, trông coi về việc ăn uống, bèn lấy một bình bơ sữa để riêng nơi khác. Có khách tăng đến, ngươi không cho ăn, khách tăng đi rồi, thì đem bơ sữa ra cho tăng thường trụ. Bơ sữa này là vật của bốn phương tăng, tất cả đều có phần. Ngươi cất giữ, tuy có phân chia cho tăng thường trụ, nhưng như thế là không bình đẳng. Do nhân duyên đó nên phải chịu tội này”.
Kinh Thí dụ ghi: “Xưa, tại một nước nọ, có một người chết, thần hồn tự lấy roi đánh vào xác chết của mình. Người bên cạnh hỏi:
- Ngươi nay đã chết, vì sao lại tự đánh?
Đáp:
- Đó là thân cũ của tôi, vì tôi làm ác, thấy giới kinh không chịu đọc tụng, lại còn trộm cắp, dối trá, cưỡng hiếp vợ người, bất hiếu với cha mẹ, không kính nhường anh em, tham tiếc tài vật, không chịu bố thí. Nay thân này chết đi, khiến tôi đọa vào đường ác, đau đớn, khổ sở không thể kể xiết. Thế nên, tôi đánh thân mình”.
Kinh Vô lượng thọ ghi: “Trong đời quá khứ, Kiều-phạm-ba-đề từng làm tì-kheo, đã ngắt lấy một gié lúa ở ven ruộng lúa của người để xem lúa chín chưa, thì có vài hạt rơi xuống đất, do đó năm trăm đời thường làm trâu để trả nợ”. Cho nên, luận Đại trí độ ghi: “Vì tập khí cũ, nên khi làm người, lúc sinh ra, miệng tì-kheo này vẫn còn nhơi như trâu, sau được Phật thương xót, độ cho xuất gia, đắc quả A-la-hán”.
XVI.5. Răn lỗi lầm
Kinh Duy-ma-cật ghi: “Cho nên, dùng bao nhiêu lời thống thiết mới có thể đưa người vào khuôn phép”.
Sách Nho chép: “Nghe lời can gián như dòng nước chảy”. Câu nói này đáng ghi. Thông thường, người ta hay chống báng, không nghe theo lời can gián, giống như ngựa chứng khó điều phục. Người hổ thẹn, biết nhìn lại mình thì thường tự răn nhắc, mong có được những lời góp ý chân tình để mở mang tâm trí. Nay muốn ngậm miệng để chỉnh thân, đâu bằng trước kềm chế tâm, sau nhiếp phục ý! Thế nên, kinh chép: “An trụ tâm vào một chỗ thì không việc gì không thành”. Ví như chồn, thỏ đâu dám ở trong hang núi vàng[14]; ếch, nhái nào dám sống nơi vực sâu, biển rộng.
Vì vậy, người biết lắng tâm và định ý thì dứt được quả báo trong ba đường, đầy đủ bốn đức[15]. Những ai giữ ý như giữ thành, giữ miệng như giữ bình thì người ấy đáng nhận lãnh giáo pháp để lại nơi Kim Hà[16], đáng được giao phó việc trị hóa của đế vương[17]. Người giữ gìn ba nghiệp như thế thì có khả năng dứt trừ được bốn nỗi khổ: sinh, già, bệnh, chết”.
Cho nên, kinh Thụ thai ghi: “Lúc thụ thai, chúng sinh chịu đủ mọi thứ khổ sở, mờ mờ mịt mịt giống như đám bụi. [83b] Sắp đủ mười tháng thì thai nhi bắt đầu biết khổ. Bấy giờ, gió nghiệp thúc đẩy đầu đứa bé hướng về cửa mình người mẹ. Vừa lọt lòng mẹ, toàn thân đau đớn như nằm trên núi đao, gió thổi lạnh buốt như băng giá. Ngay khi ấy, sinh là nỗi khổ đích thực”.
Kinh Niết-bàn ghi: “Giống như tim đèn cháy được là nhờ dầu. Nếu dầu hết thì đèn không thể cháy được lâu. Con người cũng thế, chỉ nhờ lúc mạnh khỏe trẻ trung, đến khi sức khỏe cạn kiệt thì đã già yếu, làm sao sống được lâu dài”.
Trong kinh Xuất diệu, Đức Phật nói về nỗi khổ của tuổi già bằng bài kệ:
Tuổi trẻ có sức khỏe,
Về già, khổ bức bách,
Gầy yếu như cây khô,
Kiệt sức, đi nhờ gậy.
Đức Phật nói về nỗi khổ của cái chết bằng bài kệ:
Tắt thở hồn lìa xác,
Hình hài thật lạnh lẽo,
Người vật cũng như nhau,
Có sinh ắt có tử.
Kinh Niết-bàn ghi: “Người chết như vào nơi hiểm nạn mà không có lương thực; đến chốn xa xôi, nguy hiểm mà không có bạn bè, ngày đêm thường đi mà không biết chỗ dừng, tối tăm mờ mịt mà không có đèn sáng, vào nơi không nhà mà lại có nơi chốn, tuy không đau đớn nhưng không thể chữa trị; đến đâu cũng không ngăn ngại nhưng không có lối thoát”.
Kinh Vô lượng thọ ghi: “Sinh một mình, chết cũng một mình; một mình đến, một mình ra đi; chốn khổ vui, riêng mình chịu lấy, không người thay thế, mờ mờ mịt mịt vĩnh viễn cách xa, đường đi không cùng lối, không bao giờ gặp nhau. Khó thay! Khó thay! Nếu được gặp nhau, sinh ra thì vui vẻ, bà con quấn quít, rất mực yêu thương, quí mến. Đến khi chết thì sáng mất chiều chôn, lại lo sợ cảnh chia ly, khóc lóc tiễn đưa mà người chết rồi không hề hay biết. Quyến thuộc trở về thì trong nhà trống trải, vắng vẻ, không còn trông thấy người thân. Còn, mất, có, không thay đổi trong khoảnh khắc”.
Cho nên, kinh Xuất diệu ghi: “Đức Phật nói lại nỗi khổ của sự chết bằng bài kệ:
Mạng sống như quả chín,
Thường sợ phải rụng rơi,
Đã sinh ắt có khổ,
Đời người ai không chết.
Như kẻ tử tù kia,
Bị đưa đến pháp trường,
Biết chắc là phải chết,
Mạng người cũng như vậy.
Như dòng nước chảy xiết,
Trôi đi không trở lại,
Mạng người cũng như thế,
Chết nào sống lại đâu”.
Kinh Hoa nghiêm ghi: “Có mười hành vi được xem là ngã mạn, cần phải tránh xa. Đó là:
[83c] 1. Không tôn trọng, cung kính, cúng dường các phúc điền đáng tôn kính như: hòa thượng, a-xà-lê, cha mẹ, sa-môn, bà-la-môn.
2. Các vị pháp sư đã đạt được pháp vi diệu, biết pháp Đại thừa sâu xa là con đường ra khỏi sinh tử, đắc Đà-la-ni[18], thành tựu đa văn, đầy đủ trí tuệ khéo nói pháp mà ta không tin nhận, cung kính cúng dường.
3. Được nghe pháp mầu, phát tâm ly dục, hoan hỷ vô lượng mà lại không khen ngợi pháp sư, khiến cho đại chúng hoan hỷ.
4. Khởi tâm kiêu mạn, đề cao mình, chê bai người, không xét lỗi mình, không điều phục tâm.
5. Khởi tâm chấp ngã, thấy người có công đức, trí tuệ, không khen ngợi điều tốt đẹp của họ; thấy người không có đức lại khen là hay; hoặc nghe khen ngợi người khác lại sinh lòng ganh tỵ với người ấy.
6. Nếu có pháp sư biết đúng pháp, đúng luật, đúng sự thật, đúng lời Phật dạy; nhưng vì ganh ghét nên nói chẳng phải pháp, chẳng phải luật, chẳng phải sự thật, chẳng phải lời Phật nói, để phá hoại lòng tin của người khác.
7. Tự trải tòa cao, rồi xưng: ‘Ta là pháp sư’ không cần làm các việc, không phải cung kính, cúng dường người khác. Các bậc tôn trưởng tu Phạm hạnh có đức đều phải cung kính, cúng dường ta.
8. Không nhìn người bằng cặp mắt ác cảm, nét mặt cau có, mà thường nhìn chúng sinh bằng ánh mắt hiền hòa, lời nói nhã nhặn, không có vẻ dữ dằn, không có tâm sân hận, nhưng lại tìm lỗi của pháp sư.
9. Vì lòng ngã mạn, thường không cung kính những người học rộng, hiểu nhiều; khi nghe pháp, có điều thắc mắc cũng không chịu hỏi: những gì là thiện, những gì là bất thiện, những gì nên làm, nhũng gì không nên làm, những việc làm nào có lợi ích lâu dài cho tất cả chúng sinh, những việc làm nào không có lợi ích cho chúng sinh, làm những việc nào gọi là từ sáng vào sáng, làm những việc nào gọi là từ tối vào tối. Những người như thế là bị tâm chấp ngã nhận chìm, nên không thể thấy được chính đạo xuất thế.
10. Vì khởi tâm kiêu mạn, nên không được gặp chư Phật, khó được nghe pháp, mất hết các căn lành đã gieo trồng từ nhiều đời trước, nói điều không nên nói, sinh lòng hiềm khích rồi cùng nhau tranh cãi. Người sống theo cách này sẽ bị rơi vào đường tà, đó chỉ là vì tâm bồ-đề yếu kém. Cho dù người ấy không bỏ việc làm của bồ-tát, cũng không bỏ đạo Bồ-tát, nhưng trong vô lượng trăm nghìn vạn kiếp vẫn không được gặp Phật, huống là nghe pháp”.
Kinh Xuất diệu có bài kệ:
Người bị ngã mạn trói,
Đắm nhiễm nơi kiêu căng,
Bị kiến chấp mê hoặc,
Không thoát bờ tử sinh.
[84a] Thế nên biết, phàm phu làm ác tuy ít, nhưng đời sau chịu quả báo khổ đau không cùng. Ví như chất độc ở trong tâm, ý muốn mỗi người đều khác. Người đời thì lo làm ăn không nghĩ đến cái chết, nhưng mạng sống không thể bảo đảm, cái chết đến rất bất ngờ. Tính mạng mong manh này chẳng sớm thì chiều chỉ trong khoảnh khắc đã biến đổi vô thường, vậy mà người ta chỉ chăm lo ruộng vườn nhà cửa, luyến ái vợ con.
Kinh Pháp cú dụ ghi: “Khi Đức Phật ở nước Xá-vệ, trong thành có một bà-la-môn tuổi gần tám mươi, của cải vô số, là người khó hóa độ, không biết đạo đức, chẳng nghĩ đến vô thường, chỉ lo xây nhà đẹp, nào là gian trước, gian sau, nhà mát, phòng ấm, chái đông, chái tây đến mấy chục gian, chỉ còn mặt trước của nhà sau là làm chưa xong.
Bấy giờ, bà-la-môn ấy cứ mãi lo làm ăn và chỉ đạo mọi việc. Phật dùng đạo nhãn thấy ông lão này sẽ chết nội trong ngày nay. Thế mà ông ta không thể tự mình biết điều đó, nên mới lăng xăng tạo dựng, đến nỗi tinh thần mỏi mệt, thật đáng xót thương!
Đức Phật cùng A-nan đi đến nhà bà-la-môn ấy, hỏi thăm:
- Ông có khỏe không? Nay ông xây ngôi nhà này để làm gì?
Ông lão đáp:
- Phòng trước để tiếp khách, phòng sau tôi ở; chái đông, chái tây để con cái, người giúp việc ở và chứa đồ đạc; mùa hạ thì ở nhà mát, mùa đông thì ở phòng ấm.
Đức Phật nói với ông lão:
- Ta nghe danh đức của ông đã lâu, nhưng nay mới đến chuyện trò. Như Lai có bài kệ quan trọng, rất ích lợi cho sự sống chết, nay muốn tặng cho ông. Xin ông gác lại chút việc để cùng nói chuyện, được không?
Ông lão đáp:
- Thật sự hôm nay tôi rất bận, không rảnh để cùng nói chuyện với Ngài. Xin mời hôm sau Ngài đến, chúng ta sẽ cùng chuyện trò, còn bài kệ xin hãy nói đi.
Bấy giờ, Đức Phật liền nói kệ:
Có con, có của,
Kẻ ngu lăng xăng,
Ta còn không thật,
Huống con và của.
Nóng ở chỗ này,
Lạnh ở chốn kia,
Ngu nhiều suy tính,
Chẳng biết vô thường.
Do ngu che lấp,
Tự cho mình trí,
Ngu mà xưng trí,
Ấy là đại ngu.
Bà-la-môn nói:
- Bài kệ này hay lắm, song giờ đây tôi quá bận rộn, xin mời Ngài giảng giải vào khi khác.
Nghe nói vậy, Đức Phật ra về mà xót thương cho ông ấy.
Sau đó, ông lão đỡ cây đòn tay, chẳng may nó rơi xuống trúng vỡ đầu, rồi ông qua đời. Gia đình ông khóc lóc thảm thiết, làm kinh động khắp xóm làng. Đức Phật đi chưa xa đã xảy ra tai nạn này. Đến đầu làng, Ngài gặp mấy mươi người Phạm chí, họ hỏi:
- Ngài từ đâu đến?
Đức Phật bảo:
[84b] - Chúng tôi vừa đến nhà ông lão mới chết kia, nói pháp cho ông ta, nhưng ông ấy không tin Phật pháp, không biết vô thường. Giờ đây, ông ấy đột nhiên đã qua đời.
Bấy giờ, Đức Phật nói lại nghĩa lý của bài kệ trên cho các Phạm chí nghe. Các vị Phạm chí nghe xong vui mừng, đều được kiến đạo. Đức Phật bèn nói kệ:
Kẻ ngu gần bậc trí,
Như bầu chứa đầy rượu,
Dù gần gũi lâu ngày,
Vẫn không hiểu được pháp.
Thông minh gần bậc trí,
Tợ lưỡi nếm mùi vị,
Tuy gần trong chốc lát,
Liền hiểu được pháp mầu.
Kẻ ngu làm việc ác,
Thân tự chuốc tai họa.
Cố ý làm điều ác,
Phải gánh chịu tai ương.
Do làm các điều ác,
Sau hối hận sao kịp,
Khóc lóc và than van,
Khi báo đền nhân cũ.
Các Phạm chí nghe bài kệ này, niềm tin càng thêm sâu sắc. Họ đỉnh lễ Đức Phật và vui vẻ vâng theo”.
Kinh Chính pháp niệm ghi: “Nếu có chúng sinh nào thấy bạn bè đánh đập nhau đưa đến oán thù mà giải hòa cho họ, thì sau khi mạng chung sinh lên cõi trời Dục Ái, tùy tâm nghĩ gì liền có năm dục để tự vui. Nếu có chúng sinh nào thấy người sắp chết hoặc bị người khác bắt đi mà cứu họ được thoát nạn; hoặc ở chốn nguy hiểm chỉ cho họ con đường thoát hiểm; hoặc trong chốn sợ hãi giúp người được an ổn, thì sau khi mạng chung sinh lên cõi trời Chính Hạnh, có thiên nữ hầu hạ và hưởng đầy đủ năm dục lạc; nếu sinh làm người thì được vào nhà trưởng giả giàu sang, có chính kiến. Nếu người có tâm nhu hòa, xa lìa các cấu uế thì dễ dàng đạt được quả Niết-bàn giải thoát trong tầm tay. Người nhu hòa tâm trong sáng như cây nến trắng, được mọi người tin tưởng. Người thô tháo tâm cố chấp như kim cương, thường kết oán thù mãi không quên, tính tình ngang ngược, bị mọi người ghét bỏ, không tin tưởng cũng không thương mến.
Bấy giờ, bồ-tát Khổng Tước nói bài kệ trong kinh Phật:
Người thiện tâm nhu hòa,
Như vàng đã luyện lọc,
Trong ngoài đều tốt đẹp,
Chóng dứt mọi khổ đau.
Nếu người tâm điều phục,
Mọi việc đều hài hòa,
Người này trồng căn lành,
Giống như ruộng phúc tốt”.
Kinh Ha điêu A-na-hàm[19] ghi: “A-na-hàm có tám điều không muốn cho người khác biết. Đó là:
1. Không mong cầu
2. Có niềm tin
3. Xấu hổ với người
4. Tâm tự hổ thẹn
[84c] 5. Tinh tiến
6. Tự quán chiếu
7. Đắc được pháp thiền
8. Trí tuệ sáng suốt
Sở dĩ A-na-hàm không muốn cho người khác biết những điều trên là vì không muốn làm phiền lòng người khác.
Có bài tụng rằng:
Chiêm-bặc[20] hóa cỏ bồng,
Y lan[21] thành cỏ thơm,
Trăng tròn rồi lại khuyết,
Tơ trắng chẳng trắng hoài.
Riêng vui nơi ba ích[22],
Phòng hộ bốn uy nghi[23],
Hãy tự mình cố gắng,
Răn dè mới đáng quý.
XVII. SUY NGHĨ THẬN TRỌNG
Gồm năm phần: Lời dẫn, Thận trọng đối với lỗi lầm, Thận trọng đối với tai họa, Thận trọng đối với hoàn cảnh, Thận trọng đối với vật thụ dụng.
XVII.1. Lời dẫn
Suy nghĩ thận trọng để ngăn ngừa lỗi lầm là nguyên lý tránh tai họa; ngậm miệng không chê bai là nguồn gốc để xa lìa tội ác. Răn trước, ngừa sau là nguyên tắc hàng đầu của người quân tử. Kính già quí trẻ là cốt lõi trong việc nuôi dưỡng sinh linh. Sau đó, xét rõ sự nổi chìm của tội phúc, biết nỗi khổ vui của tốt xấu. Thí như muốn tự thấy mặt mình thì phải nhờ soi gương, tóc rối mà muốn suôn thẳng thì phải nhờ lược chải. Thế nên, thấy được mặt là nhờ gương sáng, tóc được suôn thẳng là nhờ lược tốt, đức hạnh được vang xa là nhờ lời nói hiền thiện, quả báo được thù thắng là nhờ gieo nhân tốt lành. Vì vậy, bản thân phải chịu thất bại hẳn là do không chấp nhận lời khuyên đúng đắn; mạng sắp lìa đời hẳn là do không uống thuốc hay.
XVII. 2. Thận trọng đối với lỗi lầm
Phẩm Tế long trong kinh Đại tập ghi: “Lúc bấy giờ, trong chúng hội, có một con rồng mù tên là Phả-la-cơ-lê-xa lớn tiếng khóc than, thưa rằng:
- Bạch Đại Thánh Thế Tôn, xin Ngài cứu con! Xin Ngài cứu con! Nay thân con chịu nhiều đau khổ, ngày đêm thường bị các loài côn trùng cắn rỉa, ăn thịt, sống trong nước nóng, không lúc nào được tạm vui.
Đức Phật bảo Lê-xa:
- Vào thời quá khứ, ngươi từng làm tì-kheo ở trong Phật pháp, nhưng lại hủy phá giới cấm, trong ngầm dối trá, ngoài hiện tướng hiền lành, tham muốn quyến thuộc đông, đệ tử nhiều, danh tiếng vang khắp, ai ai cũng biết đến, còn tự xưng: ‘Ta là hòa thượng đã đắc quả A-la-hán’. [85a] Do nhân duyên này, ngươi được thí chủ cúng dường rất nhiều, nhưng chỉ riêng mình thụ dụng. Thấy người giữ giới thì ngươi lại nói xấu, khiến họ buồn khổ và thề rằng: ‘Đời đời dù sinh ra nơi nào, ta cũng ăn thịt ông’. Đó là thân đời trước của ngươi. Do nghiệp ác này, sau khi chết, ngươi sinh trong loài rồng. Những người kia vì lời thề nên ăn thịt ngươi, còn ngươi do tạo nghiệp ác nên phải chịu quả báo mù lòa. Lại nữa, trong vô lượng kiếp quá khứ lúc ở nơi địa ngục nước đồng sôi, ngươi cũng thường bị các loài côn trùng cắn rỉa, ăn thịt.
Nghe câu chuyện này, rồng buồn khổ khóc lớn, bạch Phật:
- Chúng con ngày nay đều xin chí thành sám hối, nguyện cho chúng con mau được thoát khỏi nỗi khổ này.
Khi ấy, hai mươi sáu ức con rồng đói kia đều nhớ lại thân quá khứ của mình, khóc lóc thảm thiết, nhớ lại đời trước tuy đã xuất gia ở trong Phật pháp nhưng tạo đủ các nghiệp ác, nên trải qua vô số thân bị đọa vào ba đường ác; do nghiệp báo này chưa hết, nên lại sinh vào loài rồng, chịu khổ cùng cực, chẳng hạn như con rồng mù này vậy.
Bấy giờ, Đức Phật bảo các con rồng:
- Các ngươi hãy lấy nước rửa chân Như Lai thì tội báo của các ngươi dần dần được tiêu trừ.
Ngay đó, tất cả rồng lấy tay vốc nước, thì nước đều biến thành lửa, lại biến thành tảng đá lớn, rồi nổi lửa dữ đỏ rực khắp cả lòng bàn tay, dập tắt thì lại cháy, bảy lần như thế. Thấy vậy, tất cả rồng đều kinh sợ, sầu não, nước mắt đầm đìa. Vâng lời Phật dạy, chúng phát nguyện lớn, lửa dữ đều bị dập tắt. Đến lần thứ tám, chúng lấy tay vốc nước rửa chân Như Lai, chí thành sám hối. Đức Phật thụ ký cho các con rồng này: ‘Vào thời Phật Di-lặc, các ngươi sẽ được làm người, gặp Phật xuất gia, tinh tiến trì giới, đắc quả A-la-hán’.
Bấy giờ, các con rồng đều chứng được túc mạng tâm[24], tự nhớ lại nghịêp đã tạo trong đời quá khứ, từng ở trong Phật pháp, hoặc làm cư sĩ thân cận với chúng tăng, hoặc tới lui nghe pháp. Những người có lòng tin cúng dường các món ăn, thức uống, hoa quả, thì cùng với các tì-kheo ăn uống.
Có rồng nói:
- Tôi thường dùng thức ăn, thức uống và hoa quả của tứ phương chúng tăng.
Có rồng nói:
- Tôi đến chùa cúng dường chúng tăng, hoặc lễ bái và cũng ăn uống như thế.
Rồng khác nói:
- Tôi từng làm người cư sĩ ở trong pháp hội của Phật Tì-bà-thi.
Rồng khác lại nói:
- Tôi từng làm người cư sĩ ở trong pháp hội của Phật Thích-ca Mâu-ni, hoặc do nhân duyên quen biết thăm hỏi, hoặc tới lui nghe pháp mà qua lại chốn chùa chiền. Những người có lòng tin đem các thứ hoa quả, đồ ăn, thức uống cúng dường chúng tăng. [85b] Tì-kheo nhận rồi, trở lại cho tôi, tôi liền thụ. Vì nghiệp duyên ấy, nên tôi bị đọa vào địa ngục trải qua vô số kiếp, hoặc bị thiêu nấu ở trong lửa dữ, hoặc uống nước đồng sôi, hoặc nuốt hòn sắt nóng… Ra khỏi địa ngục, tôi đọa làm súc sinh; bỏ thân súc sinh, lại sinh vào loài ngạ quỷ, chịu nhiều sự thống khổ như thế. Nhưng vì nghiệp ác chưa hết, nên tôi phải sinh trong loài rồng này, thường bị khổ đau.
Đức Phật dạy:
- Những nghiệp ác này không khác gì trộm vật của Phật… Tội này bằng nửa năm tội nghịch. Nay ngươi nên suốt đời quy y tam bảo, dốc lòng tu thiện. Nhờ công đức này, trong đời hiền kiếp, các ngươi sẽ gặp vị Phật cuối cùng hiệu là Lâu-chí[25]. Vào thời Đức Phật ấy, tội lỗi của các ngươi sẽ được dứt trừ.
Sau khi nghe Phật dạy, tất cả rồng đều chí thành, nguyện suốt đời thụ trì tam quy.
Bấy giờ, trong số ấy, có vợ của con rồng mù, miệng bị lở loét, đầy dẫy giòi bọ, hôi thối giống như phân tiểu, cho đến những thứ dơ uế toát từ thân căn của người nữ, thật là khó nhìn. Khi nó ăn uống, thì máu mủ chảy ra. Toàn thân thường bị ruồi muỗi, các loài trùng độc cắn rỉa, ăn thịt. Thân thể hôi thối, chẳng ai dám nhìn.
Lúc ấy, với lòng đại bi, Đức Phật nhìn thấy vợ của rồng kia mù lòa khốn khổ như thế, bèn hỏi:
- Vì sao ngươi phải mang lấy thân xấu xa như vậy, trong quá khứ đã từng làm nghiệp gì?
Rồng vợ đáp:
- Bạch Đức Thế Tôn, thân của con đây phải chịu các thứ khổ bức bách, không có lúc nào tạm dừng, giả sử muốn nói cũng không thể nói được. Con nhớ lại, vào thời quá khứ cách đây ba mươi sáu ức kiếp, trong trăm nghìn năm, con sinh vào loài rồng chịu khổ như thế, suốt cả ngày đêm, không phút giây tạm dừng. Lại trong chín mươi mốt kiếp xa xưa, vào thời Phật Tì-bà-thi, con từng làm tì-kheo ni ở trong Phật pháp, thường nghĩ đến việc dâm dục hơn cả người say. Tuy đã xuất gia, nhưng con không thực hành đúng pháp, trong chốn già-lam trái phạm giới luật, nên thường bị thiêu nướng trong ba đường ác.
Trình bày xong, rồng bạch Phật:
- Xin Ngài cứu con!
Nghe rồng kể lại sự thật như thế, Đức Phật lấy một ít nước đổ vào miệng rồng. Khi ấy lửa và giòi bọ, máu mủ đều tan biến. Miệng được sạch sẽ, rồng lại thưa:
- Đại Thánh Như Lai! Con nhớ thuở quá khứ, thời Phật Ca-diếp, con từng làm người cư sĩ. Một hôm, con đang cày ruộng, có vị tì-kheo đến xin con năm mươi đồng tiền. Khi ấy, con trả lời:
- Đợi khi lúa chín, tôi sẽ cúng cho ngài.
Vị tì-kheo nói:
- Nếu không thể cho năm mươi đồng thì cho xin mười đồng cũng được.
Lúc đó, con tức giận, nói với vị tì-kheo:
- Dù chỉ mười đồng, tôi cũng không cho.
Bấy giờ, vị tì-kheo sinh lòng buồn khổ, ra về.
[85c] Lại một lần khác, con vào vườn cây của chùa trộm lấy mười quả xoài là vật của hiện tiền tăng, rồi ăn một mình. Do nghiệp ác này, nên con chịu khổ trong chốn địa ngục. Nghiệp ác ấy chưa hết, con phải sinh làm rồng đói ở nơi đầm vắng, thường bị các loài côn trùng cắn rỉa, ăn thịt, máu mủ chảy khắp, đói khát khổ não. Còn vị tì-kheo kia do nghiệp ác của lòng sân giận, nên chết đọa làm con rồng độc nhỏ sống trong nách con để hút máu, hơi nóng xông khắp thân, không thể chịu được. Thế nên, thân con nóng bức, máu mủ đầm đìa.
Rồng lại bạch Phật:
- Xin Ngài từ bi thương xót cứu con, để con mau được thoát khỏi rồng độc oan gia này!
Bấy giờ, Đức Phật dùng tay vốc nước, phát nguyện và kể rằng:
- Thuở xưa, gặp thời đói khát, Ta phát nguyện làm một con vật có thân to lớn, dài rộng vô lượng, rồi dùng năng lực thần thông ở giữa hư không xướng lên rằng:
- Trong đầm vắng kia, có một con vật to lớn, tên là Bất Sân, các người nên đến lấy thịt của nó về làm thức ăn cho khỏi đói.
- Người, phi nhân v.v.. nghe lời này, tất cả đều tranh nhau đến ăn thịt nó.
Nghe Phật phát nguyện và kể lại sự thật này, con rồng nhỏ ở dưới nách rồng kia bèn chui ra, cả hai cùng bạch Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn! Đến khi nào chúng con mới hết kiếp rồng, dứt sạch tội báo?
Đức Phật bảo:
- Nghiệp này rất nặng, sẽ bị đọa địa ngục Ngũ Vô Gián[26]. Vì sao? Nếu có vật của tứ phương tăng[27], hoặc vật của hiện tiền tăng[28], vật do đàn-việt có niềm tin sâu dày dâng cúng, như hoa quả, vườn cây, đồ ăn, thức uống, giường chiếu, tọa cụ, thuốc thang… mà mình tự tiện tiêu xài riêng, hoặc mang ra ngoài cho những người cư sĩ, bạn bè quen biết, tội này rất nặng, phải chịu quả báo nơi địa ngục A-tỳ. Vì thế, các ngươi nên thụ trì tam quy. Sau khi quy y tam bảo, các ngươi mới có thể sống trong dòng nước lạnh. Ba lần xưng, ba lần thụ như thế, các ngươi sẽ được an ổn sống trong dòng nước ấy”.
Bấy giờ, Đức Phật liền nói kệ cho các con rồng nghe:
Thà dùng dao bén tự xẻ thân,
Từng đoạn xương khớp, thịt, da, gân,
Tài vật do đàn-việt dâng cúng,
Cư sĩ thế tục chẳng có phần.
Thà nuốt sắt nóng cháy phừng phừng,
Khiến cho miệng lưỡi lửa bốc lên,
Đồ ăn, thức uống của tăng chúng,
Cư sĩ không nên lén tự dùng.
Là người cư sĩ sống tại gia,
Thà đem lửa lớn như Tu-di,
Tự tay bốc lấy bỏ vào miệng,
Chứ không dám dùng vật của tăng.
[86a] Thà dùng dao bén xẻ thân mình,
Tự ăn da thịt của bản thân,
Nếu là người tại gia cư sĩ,
Không nên nhận thức ăn tăng chúng.
Thà tự gieo mình vào ngọn lửa,
Đang cháy phừng phực khắp căn phòng,
Nếu là người tại gia cư sĩ
Chớ ngồi, chớ nằm giường chúng tăng.
Thà dùng chày sắt nung lửa dữ,
Đưa tay cầm lấy bị cháy tiêu,
Nếu là người tại gia cư sĩ,
Không nên lén dùng vật của tăng.
Thà dùng dao chày thật bén tốt,
Tự lóc, giả thịt của bản thân,
Đối với hàng xuất gia thanh tịnh,
Chớ khởi lên một niệm giận sân.
Thà tự tay móc hai mắt mình,
Vứt bỏ, quăng ném xuống nền đất,
Đối với người tu tập pháp lành,
Không nên nhìn bằng tâm sân giận.
Thà lấy tấm sắt nóng quấn thân,
Đi đứng, ngồi nằm thân chẳng yên,
Chớ khởi tâm sân, sinh đố kị,
Mà khoác y thanh tịnh của tăng.
Thà uống nước tro hay nước muối,
Nước sôi phỏng miệng như lửa bỏng,
Không nên ôm lòng tham, sân, ác,
Uống thuốc đàn-việt cúng chúng tăng.
Sau khi Đức Phật nói bài kệ này, bầy rồng một vạn bốn nghìn con đều thụ trì tam quy, tất cả nghiệp báo khổ đau trong quá khứ, hiện tại đều được tiêu trừ, tin sâu tam bảo, tâm không lui sụt. Lại có các bầy rồng khác gồm tám mươi ức con cũng phát tâm quy y tam bảo.
Kinh Đại tập ghi: “Có vị tì-kheo nhận được tất cả những vật dụng cần thiết. Tất cả vật dụng ấy đều do đàn-việt có tín tâm cúng dường. Vậy mà vị này hoặc để mình ăn, hoặc cho người khác, hoặc cùng mọi người lén lấy cất giấu, dùng riêng ở chỗ khuất. Vì những việc làm như thế, nên vị này đọa vào ba đường ác, mãi chịu khổ đau.
Lại có chúng sinh nghèo cùng hèn hạ, không được an ổn, cho nên xuất gia mong được giàu có, an ổn vui sướng. Thế nhưng, sau khi xuất gia, vị ấy biếng nhác, không chịu đọc tụng kinh điển, không siêng năng tu tập thiền định, trí tuệ, chỉ thích tò mò việc của tăng.
Lại có tì-kheo ngày đêm siêng năng tu tập pháp lành, đọc tụng kinh điển, tọa thiền, tu tuệ không phút giây lơ là. Nhờ công đức này, vị ấy được bốn chúng cúng dường đầy đủ. Bấy giờ, vị ấy làm tri sự được nhiều lợi dưỡng, rồi hoặc lấy dùng riêng, hoặc lén cho những người thế tục thân quen. Do nghiệp duyên này, vị ấy ở mãi trong đường ác, ra rồi lại vào. Kẻ ngu si như thế không sợ quả báo đời sau nặng nhẹ ra sao. [86b] Thế nên, nay Ta răn nhắc các đệ tử sa-môn: ‘Hãy nhớ nghĩ đến pháp mà hành trì, không được tự xưng: ‘Tôi là sa-môn, tu hành đúng chính pháp’. Nhờ nương tựa vào chúng tăng, nên các ông được nhận các vật do đàn-việt cúng dường, như bánh, rau, hoa, quả, nhưng đó là vật thực của chúng tăng, không được tự tiện lấy cho người thế tục, cũng không được nói: ‘Đó là vật của tôi’, rồi ăn biệt[29] chúng”.
Lại nữa, cũng không được lấy vật của chúng tăng cất chứa, kiếm lời, mua bán đổi chác… bảo là làm lợi ích, để rồi phải bị người đời chê bai. Lại cũng không được mua rẻ bán đắt, để tranh lợi với đời. Lại cũng không được vì việc ăn uống hay việc tăng mà làm cho chúng sinh bị rơi vào ba đường ác, phải nên khuyên bảo họ an trú trong pháp lành để họ có niềm tin vững chắc vào tam bảo, nhiếp hộ tất cả chúng sinh cho đến cha mẹ, đều được an ổn, đắc ba môn giải thoát[30].
Kinh Thập luân ghi: “Nếu vật của tứ phương tăng, hoặc các vật dụng cần thiết v.v.., mà không chia cho những người trì giới, phá giới, người này sau khi mạng chung, sẽ đọa vào địa ngục A-tì”.
XVII.3. Thận trọng đối với tai họa
Kinh Cựu tạp thí dụ ghi: “Xưa, ở một nước nọ, ngũ cốc được mùa, nhân dân an lạc, không có tật bệnh, ngày đêm ca múa, chẳng ai lo phiền. Bấy giờ, vua hỏi quần thần:
- Trẫm nghe trong thiên hạ có tai họa, đó là gì vậy?
Quần thần trả lời:
- Chúng thần không biết.
Nhà vua bèn sai một vị quan đến nước lân cận tìm mua tai họa. Lúc đó, thiên thần hóa làm người, vào chợ bán một con vật lạ trói bằng dây sắt, hình dáng giống như heo.
Thấy vậy, vị quan hỏi:
- Đây là con gì?
Thiên thần trả lời:
- Là mẹ của tai họa.
- Có bán không?
- Có bán.
- Bao nhiêu tiền?
- Một nghìn vạn.
- Nó ăn những thứ gì?
- Ăn một thăng kim.
Sau khi mua được mẹ tai họa, vị quan ra lệnh mỗi nhà phải đi tìm kim. Thế là mọi người xúm đôi xúm ba cùng nhau tìm kim, khiến cho quận huyện khắp nơi đều rối loạn, người dân chịu nhiều tai họa, đau thương.
Vị quan tâu vua:
- Tuy được mẹ của tai họa, nhưng lại làm cho dân tình rối loạn, nam nữ thất nghiệp. Giờ đây, thần muốn giết chết nó, không biết bệ hạ có cho phép không?
Vua bảo:
- Tốt lắm.
Vị quan liền đem ra ngoài thành định giết, nhưng đâm thì không vào, chém thì không đứt, chặt thì không chết, chất củi đốt thì thân nó đỏ như lửa rồi bỏ chạy. Nó chạy qua làng thì cháy làng, đến chợ thì cháy chợ, vào thành thì cháy thành, vào đất nước thì cháy đất nước, làm cho dân chúng rối ren, đói khát, khốn khổ. Cảnh khổ ấy là do chán vui, rước họa gây ra”.
Câu chuyện này dụ cho người nam thường bị lửa dục nữ sắc thiêu đốt. Người đời tham đắm sắc dục, đến chết vẫn không biết khổ.
XVII.4. Thận trọng đối với hoàn cảnh
[86c] Kinh Chính pháp niệm ghi: “Bồ-tát Khổng Tước bảo đại chúng:
- Nếu tì-kheo nào sợ tiếng xấu thì nên tránh xa những nơi tội lỗi:
Không vào nơi người nữ vui chơi.
Không vào quán rượu.
Không gần gũi cũng không nói chuyện với người bán rượu.
Không gần gũi cũng không nói chuyện với kẻ nghiện rượu.
Không giao du với kẻ trộm cắp.
Không gần người trước đây đã từng làm việc ác.
Không gần kẻ ưa đánh nhau.
Không gần kẻ độc ác, ngầm hại người.
Không gần người đã nhiều lần bỏ đạo.
Không gần kẻ đam mê cờ bạc.
Không gần người ca múa hát xướng.
Không gần gũi trẻ em.
Không gần người say đắm nữ sắc.
Không gần người tính tình nóng nảy.
Không gần người nói năng bừa bãi.
Không gần người tham lam.
Không gần người mua bán dối trá.
Không tới lui với kẻ xảo trá ở đầu đường, xó chợ, bị người khinh ghét.
Không gần người đào ao, vét hồ.
Không gần kẻ hoàng môn, không đi chung đường với người nữ.
Không gần người huấn luyện voi.
Không gần kẻ đâm thuê chém mướn.
Không gần người huấn luyện ngựa.
Không gần người chấp đoạn kiến.
Không gần người chẳng có giới luật”.
Tì-kheo không nên gần gũi những hạng người xấu xa như thế, nếu gần những người này, thì sẽ có hành vi giống như họ.
Vì vậy, tì-kheo phải sợ tiếng xấu, không nên đi chung đường hoặc gần gũi những người có hành vi không chân chính.
Khi ấy, bồ-tát nói kệ:
Nếu gần kẻ xấu ác,
Sẽ thành người bất thiện,
Thế nên phải tránh ác,
Chớ làm điều bất thiện.
Thân cận với người nào,
Hẳn luôn gần gũi họ,
Vì gần nên cùng làm,
Hoặc thiện, hoặc bất thiện.
Những ai chuộng điều tốt,
Nên gần gũi người lành,
Nhờ vậy được an vui,
Thiện không gây ra khổ.
Gần thiện tăng công đức,
Gần ác thêm lỗi lầm,
Công đức và tai họa,
Nay lược nói như vầy.
Nếu thân cận người thiện,
Sẽ được tiếng tốt đẹp,
Còn gần người bất thiện,
Bị mọi người xem thường.
Phải luôn gần người thiện,
Xa lìa bạn bè ác,
Nhờ gần gũi người thiện,
Dứt bỏ các việc ác.
[87a] Kinh Tạp a-hàm ghi: “Bấy giờ, Đức Phật bảo các tì-kheo:
- Ví như cái chày gỗ cứ giã suốt ngày đêm, không lúc nào dừng, thì nó sẽ mau mòn. Cũng vậy, này các tì-kheo! Từ xưa đến nay không phòng hộ các căn, ăn uống không biết tiết độ, đầu hôm, cuối đêm không siêng năng tỉnh giác tu tập pháp lành; nên biết, những người này suốt ngày chỉ làm tổn giảm chứ không làm tăng trưởng pháp lành, cũng như cái chày gỗ kia vậy”.
Lại nữa, kinh Tự ái ghi: “Phật dạy:
- Người sống ở đời, tâm nghĩ điều ác, miệng nói lời ác, thân làm việc ác. Ba nghiệp này xuất phát từ tâm rồi thể hiện ra thân, miệng, tạo thành nghiệp ác, làm tổn hại chúng sinh. Do bị tổn hại, chúng sinh kết thành oán hận, lòng thề muốn báo thù ngay trong đời này. Hoặc sau khi chết, thần thức sinh lên trời, rồi trở xuống báo thù; hoặc sinh làm người, hay đọa làm súc sinh, ngạ quỉ, địa ngục, lại đánh giết nhau. Đây đều là do nghiệp ác đời trước, chứ chẳng phải vô cớ vậy.
Đức Phật nói kệ:
Tâm làm chủ các pháp,
Tâm dẫn đầu, tâm tạo,
Nếu với tâm ngu si,
Nói năng hay hành động,
Thì tội khổ theo sau,
Như xe lăn theo vết.
Tâm làm chủ các pháp,
Tâm dẫn đầu, tâm tạo,
Nếu với tâm hiền thiện,
Nói năng hay hành động,
Thì phúc báo theo sau,
Như bóng luôn theo hình”.
Kinh Cựu tạp thí dụ ghi: “Xưa, gặp lúc hạn hán, ao hồ khô cạn, ba ba không thể đến hồ để tìm thức ăn. Lúc ấy, một con hạc lớn bay đến đậu bên cạnh, ba ba theo van xin, mong được cứu giúp. Chim hạc bèn gắp ba ba bay qua thành ấp, xóm làng. Ba ba không chịu im lặng, cứ hỏi liên tục: ‘Đây là nơi nào?’, hạc liền đáp lời. Vừa lúc hạc mở miệng, ba ba rơi xuống đất, thì bị người bắt ăn thịt”.
Người đời ngu si, không giữ gìn miệng lưỡi, cũng như con ba ba này vậy.
Kinh Pháp cú thí dụ ghi: “Phật bảo bà-la-môn:
- Thế gian, có bốn điều mà con người khó làm được. Nếu người nào thực hành thì được phúc báo, không bị nghèo khổ. Bốn điều ấy là:
1. Tuổi trẻ khỏe mạnh, mà không sinh tâm kiêu mạn
2. Tuổi già tinh tiến, mà không tham lam dâm dật
3. Có của quý giá, thường nghĩ đến bố thí
4. Theo thầy học hỏi, tin nhận lời đúng đắn.
Như ông cụ này không thực hành bốn điều trên, còn cho rằng thân mạng và của cải là thường còn, không tính đến thành hay bại; bỗng chốc chúng sẽ tiêu tan, cũng như con hạc canh giữ ao khô, hoàn toàn không được gì cả. Ngay đó, Đức Phật nói kệ:
Ngày đêm kiêu mạn,
Già vẫn tham dâm,
Có của không thí,
Không vâng lời Phật,
Làm bốn điều xấu,
Là tự hại mình,
Than ôi! Già đến,
Sắc biến, da nhăn,
Trẻ được trọng dụng,
[87b] Già bị xem thường,
Không tu Phạm hạnh,
Lại chẳng giàu sang,
Già như hạc trắng,
Canh giữ ao khô,
Đã không giữ giới,
Cũng không có của.
Già yếu, sức tàn,
Hối hận sao kịp,
Già như lá thu,
Rách rưới, bẩn thỉu,
Cái chết kề bên,
Hối hận sao kịp”.
Kinh Tạp bảo tạng ghi: “Phật bảo:
- Xưa, vua nước Ca-thi tên là Ác Thụ, thường làm điều phi pháp, bạo ngược vô đạo, gây khổ đau cho muôn dân. Nếu có khách buôn từ các nơi đến, tất cả vật quý báu tốt đẹp của họ đều bị vua đoạt lấy, không trả tiền. Do vậy, vật báu trong nước rất đắt. Mọi người truyền tai nhau, tiếng ác của vua vang khắp.
Bấy giờ, chim anh vũ[31] chúa ở trong rừng, nghe người đi đường đều chê trách sự ác độc của vua, liền suy nghĩ: ‘Ta tuy là loài chim mà còn biết đó là điều sai trái, nay ta phải đến chỉ bày con đường lành cho vua. Nếu vua nghe theo lời ta, ắt sẽ cho rằng: ‘Con chim chúa kia còn biết nói lời hiền thiện, còn ta là vua mà để nó chê trách?’, có thể ông ấy sẽ sửa đổi.
Nghĩ xong, anh vũ chúa bay đến vườn của vua, liệng quanh rồi đậu trên một cành cây. Gặp lúc phu nhân nhà vua vào vườn dạo chơi, anh vũ chúa liền vỗ cánh kêu vang, rồi nói: ‘Nay vua thật là bạo ngược vô đạo, tàn sát muôn dân, giết hại cả loài chim thú. Người và vật đều căm phẫn, tiếng ai oán đầy khắp thiên hạ, phu nhân cũng độc ác giống như vua vậy. Là bậc cha mẹ của dân, há lại như thế sao?’.
Nghe vậy, phu nhân vô cùng tức giận, suy nghĩ: ‘Sao con chim bé nhỏ này lại trách mắng ta thậm tệ như thế?’
Thế là, phu nhân sai người đuổi bắt chim anh vũ.
Không chút sợ hãi, anh vũ bèn đậu trên tay người định bắt mình. Phu nhân được chim, liền mang đến cho vua. Vua hỏi anh vũ:
- Vì sao ngươi trách mắng ta?
Anh vũ trả lời:
- Tôi nói những việc làm sai quấy của vua là muốn giúp ích cho vua, chứ tôi đâu dám mắng vua.
Khi ấy, vua hỏi:
- Ta đã làm điều gì sai quấy?
Anh vũ trả lời:
- Vua có bảy điều sai quấy, làm nguy hại đến tính mạng của vua.
Vua hỏi:
- Bảy điều ấy là gì?
Anh vũ kể:
1. Say đắm nữ sắc, không trọng người chính trực.
2. Đam mê rượu chè, không chăm lo việc nước.
3. Ham cờ bạc, không giữ gìn phép tắc.
4. Không có tâm từ, chuyên săn bắn giết hại.
5. Ưa nói lời ác, không nói lời hiền thiện.
6. Sưu cao, thuế nặng, hình phạt khắt khe, gấp bội lệ thường.
7. Bất chấp đạo nghĩa, cướp đoạt tài sản của dân.
Đó là bảy điều làm nguy hại cho vua. Lại có ba điều làm cho đất nước suy đồi.
Vua lại hỏi:
- Ba điều đó là gì?
Anh vũ nói:
1- Gần gũi với những hạng người dua nịnh, độc ác.
[87c] 2- Không thân cận những bậc hiền tài, không học hỏi điều hay, lẽ phải.
3- Thích xâm chiếm nước khác, không chăm lo đời sống của dân.
Nếu đại vương không trừ bỏ ba điều này, thì chẳng bao lâu đất nước sẽ bị diệt vong. Là bậc quân vương, thì cả nước đều hướng về trông cậy. Vua phải như cây cầu, cứu giúp muôn dân. Vua phải như cái cân, thân sơ đều đối xử bình đẳng. Vua phải như con đường, dẫn theo dấu chân của bậc thánh. Vua như mặt trời, chiếu sáng khắp thế gian. Vua như mặt trăng, làm muôn vật mát dịu. Vua như cha mẹ, thương yêu nuôi dưỡng muôn dân. Vua như trời cao, che chở mọi loài. Vua như đất rộng, dưỡng nuôi vạn vật. Vua như ngọn lửa, thiêu rụi tai họa cho trăm họ. Vua như dòng nước, thấm nhuần khắp nơi. Vua phải như các bậc Chuyển luân thánh vương thời quá khứ, dùng pháp thập thiện[32] giáo hóa chúng sinh.
Vua nghe lời này, lòng rất hổ thẹn, cho rằng: ‘Lời chim anh vũ thật chí thành tha thiết, ta là vua một nước mà làm điều vô đạo. Giờ đây, ta phải nghe theo lời khuyên của anh vũ, tu tập chính hạnh và tôn chim làm thầy’”.
Từ đó, trong nước, đường lối đạo đức được ban hành, tiếng xấu không còn. Phu nhân và bá quan văn võ đều hết lòng trung thành kính trọng. Nhân dân cả nước đều vui mừng.
Chim anh vũ thuở ấy chính là Ta. Vua Ác Thụ nước Ca-thi nay là phụ tướng. Phu nhân thuở ấy nay là phu nhân của phụ tướng.
XVII.5. Thận trọng đối với vật thụ dụng
Luật Tăng-kì ghi: “Đức Phật bảo các tì-kheo:
- Vào thời quá khứ, tại thành Ba-la-nại, nước Ca-thi, có vị bà-la-môn đào một cái giếng công cộng ở nơi đồng trống để cho người đi đường và kẻ chăn trâu đến giếng đó lấy nước uống và tắm rửa.
Một hôm, lúc trời về chiều, có bầy dã can đến uống nước còn đọng lại trên đất, nhưng dã can chúa không chịu uống nước bẩn ấy. Nó bèn chui đầu vào cái chum để uống. Uống xong, nó hất cái chum lên cao, rồi giáng xuống đất làm vỡ cái chum, nhưng miệng chum vẫn dính nơi cổ của nó.
Thấy vậy, bọn dã can nói với dã can chúa:
- Lá cây dính nước còn có thể dùng được thì cũng phải giữ gìn, huống là cái chum này có lợi cho người đi đường, sao lại đập vỡ nó đi?
Dã can chúa nói:
- Tôi làm như vậy chỉ để vui thôi, đâu cần nghĩ đến những việc khác.
Bấy giờ, người đi đường mách với vị bà-la-môn:
- Cái chum của ngài đã bị vỡ rồi.
Vị bà-la-môn lại làm cái khác giống như cái trước, rồi cũng bị dã can chúa phá vỡ, cho đến mười bốn lần. Bọn dã can nhiều lần khuyên can, nhưng dã can chúa vẫn không nghe theo.
Khi ấy, bà-la-môn suy nghĩ: ‘Kẻ nào làm vỡ cái chum này, ta sẽ rình xem’, thì biết đó chính là dã can. [88a] Bà-la-môn lại nghĩ: ‘Ta đào giếng để làm điều phúc thiện mà còn gặp nạn’. Thế rồi, ông ta làm một cái chum gỗ chắc chắn, khó vỡ, để dã can chui đầu vào dễ mà khó chui ra và cũng đặt bên cạnh giếng. Sau đó, ông ta cầm gậy, núp ở chỗ khuất rình bắt nó.
Khi người đi đường uống nước xong, dã can chúa cũng đến uống nước như trước. Uống xong, nó cũng đập cái chum xuống đất, nhưng chum không vỡ. Ngay đó, vị bà-la-môn cầm gậy, đánh chết dã can. Bấy giờ, trên không trung có vị trời nói kệ:
Bạn tốt nói lời lành,
Cứng đầu, không chịu nghe,
Ngoan cố nên chuốc họa,
Đó là tự hại mình,
Vì vậy, dã can ngu,
Tự rước họa vào thân.
Phật bảo các tì-kheo:
- Dã can chúa thuở ấy là Đề-bà-đạt-đa ngày nay, bầy dã can thuở ấy nay là các tì-kheo can gián Đề-bà-đạt-đa. Nên biết, vào thời quá khứ, Đề-bà-đạt-đa đã nhiều lần không chịu nghe theo lời can gián của đồng loại để đến nỗi tán thân mất mạng. Ngày nay, ông ấy lại không chịu nghe theo lời khuyên can của các tì-kheo, nên bị rơi vào đường ác, mãi chịu khổ đau.
Có bài tụng rằng:
Luôn luôn thận trọng,
Soi lại chính mình,
Không nói hai lời,
Tâm không vọng tưởng.
Ít muốn, biết đủ,
Đừng xét kia đây,
Canh cánh giữ gìn,
Mọi nỗi buồn vui.


Chú thích:
[1] Thập địa 十地 (S: bhūmi): mười giai vị bồ-tát chứng đắc, được nói trong kinh Hoa nghiêm. Đó là Hoan hỉ địa, Li cấu địa, Minh địa, Diệm địa, Nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa.
[2] Bốn pháp niệm xứ (tứ niệm xứ 四念處; S: catvāri smṛty-upasthānāni; Cg: tứ niệm trụ): bốn chỗ để trụ tâm, một khoa trong bảy khoa thuộc ba mươi bảy phẩm trợ đạo, là bốn phương pháp tập trung tâm niệm vào một điểm, đề phòng và ngăn dứt không cho tap niệm vọng tưởng sinh khởi để đạt được chân lí.
[3] Thập nhị nhân duyên 十二因緣 (S: dvādaśāṅgapratītya-samutpāda): mười hai điều kiện liên kết làm nhân quả cho nhau, hình thành sự sinh tồn và hoại diệt của loài hữu tình.
[4] Noãn 煗: giai vị đầu tiên trong tứ thiện căn. Pháp niệm trú tổng duyên cộng tướng khi đã thành tựu tột bậc thì phát sinh thiện căn thuận quyết trạch phần. Thiện căn này gọi là noãn pháp.
[5] Đỉnh 頂 (S: mūrdhāna): gia vị thứ hai trong bốn thiện căn.
[6] Nhẫn 忍: giai vị tu hành trước kiến đạo, đạt được sau khi đã thành tựu viên mãn đảnh thiện căn.
[7] Thế đệ nhất 世第一: gia hạnh vị thứ tư trong bốn gia hạnh vị, là pháp cùng cực nhất của trí hữu lậu, thù thắng bậc nhất trong các pháp thế tục.
[8] Hương hoắc (hoắc hương 藿香; S: tamālapatra): mùi thơm của cây hoắc.
[9] Hương xạ (xạ hương 麝香; S: kastūrī) : chất thơm lấy trong mình con xạ hương.
[10] Do-tuần 由旬 (S: yojana): đơn vị đo độ dài thời xưa ở Ấn Độ. Theo Đại Đường Tây Vực kí 2, một do-tuần chỉ lộ trình một ngày hành quân của nhà vua.
[11] Cờ lục bác (lục bác kì 陸博棋): một loại cờ thời xưa, có hai người chơi, gồm mười hai quân cờ, sáu quân đen và sáu quân trắng, mỗi bên thủ sáu cờ để đánh với nhau.
[12] Tuần 旬: mười ngày.
[13] Thị lệnh 巿令: người quản lý chợ.
[14] Núi Vàng (kim sơn 金山): tức là núi Tu-di, vì cát ở chân núi ấy thuần bằng vàng.
[15] Bốn đức (tứ đức 四德): bốn đức của pháp thân Như Lai. Đó là thường, lạc, ngã, tịnh.
[16] Kim Hà 金河: địa danh thuộc nước Câu-thi-na, nơi Đức Phật nhập niết-bàn.
[17] Đế vương 帝王 (nguyên văn: ngọc môn 玉門): theo Đại tạng kinh ngọc môn đổi thành vương môn, nghĩa là cửa cung.
[18] Đà-la-ni 陀羅尼 (S: dhāraṇī): năng lực của trí tuệ tóm thâu, giữ gìn vô lượng Phật pháp không để cho quên sót.
[19] Kinh Ha-điêu A-na-hàm (Ha-điêu A-na-hàm kinh 呵鵰阿那含經): kinh, một quyển, do tam tạng Trúc Đàm Vô Lan người Thiên Trúc dịch vào thời Đông Tấn. Nội dung Đức Phật khen ngợi ưu-bà-tắc Ha-điêu A-na-hàm.
[20] Chiêm-bặc 瞻蔔: tên một cây mọc trong rừng sâu và trên đồi núi ở vùng nhiệt đới Ấn Độ. Thân cây cao lớn, lá dài 0,21m, mặt trên bóng láng, mặt dưới có phấn trắng và lông mịn. Hoa màu vàng óng, mùi thơm bay xa đến vài dặm. Vỏ cây có thể ép ra nước thơm; vỏ, lá và hoa đều có thể chế thuốc hoặc làm hương liệu.
[21] Y lan: 伊蘭: một loại thực vật thuộc họ bề-ma (thầu dầu), có mùi hôi, hạt dùng để ép dầu.
[22] Ba ích (tam ích 三益): ba điều lợi ích như được gặp bậc thánh, xa lìa các khổ, tâm được an vui.
[23] Bốn uy nghi (nguyên bản là tứ khích hạnh 四隙行): đi, đứng, nằm, ngồi.
[24] Túc mạng tâm 宿命心(Cg: túc mạng trí): trí biết được những thụ báo sai biệt, thiện ác khổ vui trong một đời hay trong vô lượng đời ở quá khứ.
[25] Lâu Chí 樓至 (S: Rudita, Rucika): vị Phật xuất thế sau cùng trong số một nghìn vị Phật trong kiếp Hiền.
[26] Địa ngục Ngũ Vô Gián (Ngũ Vô Gián địa ngục 五無間地獄): địa ngục có năm quả báo vô gián, tức chỉ cho địa ngục A-tì. Năm quả báo vô gián là thời vô gián, hình vô gián, thụ khổ vô gián, thú quả vô gián và mạng vô gián.
[27] Vật của tứ phương tăng (tứ phương tăng vật 四方僧物): chỉ cho các vật cúng dường đến từ nơi khác và thuộc về vật dùng chung của tất cả tì-kheo, như chùa chiền, kho lẫm, ruộng vườn, cơm gạo, y phục, thuốc men…
[28] Vật của hiện tiền tăng (hiện tiền tăng vật 現前僧物): đồ vật mà chúng tăng hiện tiền có thể thụ dụng theo nhu cầu vật chất trong cuộc sống, như y phục, thực phẩm, thuốc men và những di vật của vị tì-kheo đã mất.
[29] Ăn biệt chúng (biệt chúng thực 別眾食): không cùng ăn chung với chúng tăng.
[30] Ba môn giải thoát (tam giải thoát môn 三解脫門): ba môn giải thoát đạt đến Niết-bàn, bao gồm Không môn, Vô tướng môn và Vô nguyện môn.
[31] Anh vũ 鸚鵡: chim két.
[32] Thập thiện 十善: mười điều lành, tại gia hay xuất gia đều phải gìn giữ thân, miệng và ý không cho trái phạm. Đó là Không sát sinh; Không trộm cướp; Không tà dâm; Không vọng ngữ; Không ỷ ngữ; Không lưỡng thiệt; Không ác khẩu; Không tham; Không sân; Không si.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 20 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Thắp ngọn đuốc hồng


Kinh Dược sư


Tổng quan về Nghiệp


Dưới cội Bồ-đề

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 52.14.234.146 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập