Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình.
Kinh Pháp cú
Sự nguy hại của nóng giận còn hơn cả lửa dữ. Kinh Lời dạy cuối cùng
Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Kẻ hung dữ hại người cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt. Nước bọt ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống chính mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương
Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Phẩm Hai Mươi Ba
HÀNH TRÚ
Giải thích:
Đã nói công đức của Bồ tát, kế nói năm sắc thái Bồ tát.
[0656c18] Kệ tụng:
Nội tâm có lân mẫn
Ái ngữ và dũng kiện
Khai thủ và thích nghĩa
Năm sắc thái Bồ tát.
Giải thích:
Bồ tát có năm sắc thái: 1. Thương xót; 2. Lời nói từ ái; 3. Dũng mãnh; 4. Mở bàn tay; 5. Giải thích nghĩa lý.
Thương xót, là dùng tâm bồ-đề nhiếp hóa lợi ích chúng sanh.
Lời nói từ ái, là làm cho chúng sanh có chánh tín nơi Phật pháp.
Dũng mãnh, là không thoái lui, khuất phục trước những khổ hạnh khó làm.
Mở bàn tay, là lấy tiền của mà nhiếp hóa.
Giải thích nghĩa lý, là lấy giáo pháp mà nhiếp hóa.
Năm sắc thái này cần phải biết, sắc thái đầu là tâm, bốn sắc thái sau là hành.
Đã nói năm sắc thái Bồ tát, kế nói phần Bồ tát tại gia và Bồ tát xuất gia.
[0656c22] Kệ tụng:
Bồ tát tất cả thời
Hằng sống luân vương vị
Làm lợi ích chúng sanh
Phần tại gia như vậy.
Giải thích:
Bồ tát tại gia thường làm như vị luân vương, phụng hành giáo hóa mười điều thiện, rời xa mười điều ác, đó là làm lợi ích [cho chúng sinh].
[0657a03] Kệ tụng:
Thọ đắc và pháp đắc
Cùng với thị hiện thành
Ba thứ phần xuất gia
Ở trong tất cả địa.
Giải thích:
Bồ tát xuất gia có ba phần:
1. Phần thọ đắc, là từ người mà tiếp nhận sự phòng hộ;
2. Phần pháp đắc, là được sự phòng hộ vô lưu;
3. Phần thị hiện, là làm ra sự biến hóa.
Phần thọ đắc là Bồ tát ở tín giải hành địa; phần pháp đắc và phần thị hiện là Bồ tát đã nhập đại địa.
[0657a09] Kệ tụng:
Nên biết phần xuất gia
Đủ vô lượng công đức
So với phần tại gia
Tối thắng không đồng bậc.
Giải thích:
So sánh hai phần thì phần xuất gia hơn hẳn, do đầy đủ vô lượng công đức.
Đã nói phần Bồ tát tại gia và Bồ tát xuất gia, kế nói năm tâm cực đại của Bồ tát.
[0657a14] Kệ tụng:
Quả khả ái, thiện căn
Niết-bàn muốn có được
Chưa tịnh, tịnh, cực tịnh
Là ở trong các địa.
Giải thích:
Năm tâm cực đại là:
1. Tâm cực đại an vui;
2. Tâm cực đại lợi ích;
3. Tâm cực đại chưa thanh tịnh;ch
4. Tâm cực đại đã thanh tịnh;
5. Tâm cực đại cực thanh tịnh.
Quả khả ái là tâm cực đại an vui, nghĩa là làm cho các chúng sanh được quả khả ái ở đời sau.
Thiện căn là tâm cực đại lợi ích, nghĩa là làm cho các chúng sanh thực hành các điều thiện trong hiện tại và được niết-bàn.
Chưa tịnh là tâm cực đại chưa thanh tịnh, chỉ cho Bồ tát ở tín hành địa.
Tịnh là tâm cực đại đã thanh tịnh, chỉ cho Bồ tát từ địa đầu tiên đến địa thứ bảy.
Cực tịnh là tâm cực đại cực thanh tịnh, chỉ cho Bồ tát ở ba địa sau cùng.
Đã nói năm tâm cực đại của Bồ tát, kế nói bốn thứ nhiếp thọ chúng sanh của Bồ tát.
[0657a25] Kệ tụng:
Dục lạc và bình đẳng
Tăng thượng và đồ chúng
Bốn tâm nơi các địa
Nhiếp thọ các chúng sanh.
Giải thích:
Bốn thứ nhiếp thọ chúng sanh là:
1. Nhiếp thọ bằng tâm dục lạc, là lấy tâm bồ-đề để nhiếp hóa;
2. Nhiếp thọ bằng tâm bình đẳng, là nhập địa đầu tiên, được tâm bình đẳng mình người để nhiếp hóa;
3. Nhiếp thọ bằng tâm tăng thượng, là ở cư chủ vị, lấy tự tại lực để nhiếp hóa;
4. Nhiếp thọ bằng tâm đồ chúng, là nhiếp hóa để thành đệ tử của mình.
Đã nói bốn thứ nhiếp thọ chúng sanh của Bồ tát, kế nói bốn thứ thọ sanh của Bồ tát.
[0657b03] Kệ tụng:
Nghiệp lực và nguyện lực
Định lực và thông lực
Nương bốn thứ lực này
Mà Bồ tát thọ sanh.
Giải thích:
Bốn thứ thọ sanh là: 1. Nghiệp lực thọ sanh; 2. Nguyện lực thọ sanh; 3. Định lực thọ sanh; 4. Thông lực thọ sanh.
Nghiệp lực thọ sanh là Bồ tát ở tín hành địa, có nghiệp lực tự tại, tùy ý chọn lựa xứ sở thọ sanh.
Nguyện lực thọ sanh là Bồ tát nhập đại địa, có nguyện lực tự tại, vì thành thục chúng sanh mà có thể thọ sanh loài súc sanh v.v…
Định lực thọ sanh là Bồ tát chứng đắc các định, có định lực tự tại, xả cảnh giới bậc cao thọ sanh cảnh giới bậc thấp.
Thông lực thọ sanh là Bồ tát chứng đắc thần thông, có thông lực tự tại, có thể thọ sanh ở cung trời Đâu-suất v.v... thị hiện các sắc tướng.
Đã nói bốn thứ thọ sanh của Bồ tát, kế nói mười một sắc thái an trú của Bồ tát.
[0657b13] Kệ tụng:
Chứng không, chứng nghiệp quả
Trú thiền, trú giác phần
Quán đế, quán duyên khởi
Vô tướng, vô công dụng
Hóa lực, tịnh hai môn
Cùng thanh tịnh bồ-đề
Với những gì được nói
Lập sắc thái các địa.
Giải thích:
Mười một sắc thái an trú tức là mười một địa, vì an trú còn được gọi là địa.
Chứng không, hiển thị sắc thái an trú đầu tiên, là phần nhiều an trú nhân vô ngã và pháp vô ngã.
Chứng nghiệp quả, hiển thị sắc thái an trú thứ hai, là chứng nghiệp và chứng quả bất hoại thì có năng lực phòng hộ tịnh giới.
Trú thiền, hiển thị sắc thái an trú thứ ba, là năng lực thọ sanh cõi Dục mà không thoái lui các thiền định.
Trú giác phần, hiển thị sắc thái an trú thứ tư, là năng lực đi vào sanh tử mà không xả giác phần.
Quán đế, hiển thị sắc thái an trú thứ năm, là lấy [vô lượng] ánh sáng trí giác mà giáo hóa chúng sanh, rằng chỉ có cái tâm bị phiền não [nhiễm ô] chứ không có tự ngã.
Quán duyên khởi, hiển thị sắc thái an trú thứ sáu, là năng lực không khởi nhiễm tâm mà vẫn y theo duyên khởi thọ sanh.
Vô tướng, hiển thị sắc thái an trú thứ bảy, là sự tu hành tuy có dụng công, nhưng trên hết thể nhập con đường duy nhất mà phần nhiều là an trú tu tập vô tướng.
Vô công dụng, hiển thị sắc thái an trú thứ tám, là tuy làm sạch thế giới của Phật mà không khởi lên tác ý, phần nhiều an trú tu tập vô công dụng.
Hóa lực, hiển thị sắc thái an trú thứ chín, là bốn biện tự tại vô ngại có năng lực thành thục tất cả chúng sanh.
Thanh tịnh hai môn, hiển thị sắc thái an trú thứ mười, là tam-muội môn và đà-la-ni môn thì cực kỳ thanh tịnh.
Thanh tịnh bồ-đề, hiển thị sắc thái an trú thứ mười một, là diệt trừ vĩnh viễn tất cả trí chướng.
Đã nói mười một sắc thái an trú của Bồ tát, kế nói dựa vào các địa mà thiết lập danh xưng của Bồ tát.
[0657c04] Kệ tụng:
Đầu ba, ba hành tịnh
Kế ba, ba mạn đoạn
Sau ba, giác, xả, hóa
Thứ mười có bốn tên.
Giải thích:
Ở trong mười địa thiết lập mười tên gọi Bồ tát.
Đầu ba, ba hành tịnh: Ở địa đầu tiên gọi là Bồ tát kiến tịnh, vì có được cái trí đối trị hai kiến chấp [sai lầm] về nhân và pháp. Ở địa thứ hai gọi là Bồ tát giới tịnh, vì mọi sự phạm giới dơ bẩn rất nhỏ vĩnh viễn không tồn tại. Ở địa thứ ba gọi là Bồ tát định tịnh, vì các thiền và tam-muội chứng đắc thì không thoái chuyển.
Kế ba, ba mạn đoạn: Ở địa thứ tư gọi là Bồ tát đoạn pháp môn dị mạn, vì phá hủy được sự sanh khởi mạn sai biệt đối với các kinh pháp. Ở địa thứ năm gọi là Bồ tát đoạn tương tục dị mạn, vì nhập mười tâm bình đẳng nên trong mọi sự tương tục đều thấy bình đẳng. Ở địa thứ sáu gọi là Bồ tát đoạn nhiễm tịnh dị mạn, vì đặc tánh chân như có hai mặt là bản tịnh và khách trần, cho nên ở mặt nhiễm ô, Bồ tát có thể an trú nơi pháp duyên khởi; ở mặt chân như, Bồ tát không khởi cái thấy sai biệt trắng đen.
Sau ba, giác, xả, hóa: Ở địa thứ bảy gọi là Bồ tát đắc giác, vì an trú trong năng lực vô tướng nên trong mỗi ý nghĩ có thể tu tập ba mươi bảy giác phần. Ở địa thứ tám gọi là Bồ tát hành xả, vì an trú vô công dụng đối với vô tướng; cũng gọi là Bồ tát làm sạch quốc độ, vì những diệu hạnh phương tiện [ở địa thứ bảy] thích hợp với Bồ tát bất thoái địa. Ở địa thứ chín gọi là Bồ tát giáo hóa chúng sanh, vì có năng lực thành thục tất cả chúng sanh. Ở địa thứ mười có bốn tên gọi Bồ tát: 1. Bồ tát đại thần thông, vì chứng đắc đại thần thông; 2. Bồ tát viên mãn pháp thân, vì đầy đủ tam-muội môn và đà-la-ni môn; 3. Bồ tát năng hóa hiện thân, vì trú ở cung trời đâu suất v.v…, thị hiện các sắc tướng và thân hình; 4. Bồ tát thọ chức, vì được thọ chức từ Phật.
Đã nói dựa vào các địa mà thiết lập danh xưng của Bồ tát, kế nói sự tu học và quả của sự tu học dựa theo các địa của Bồ tát.
[0657c25] Kệ tụng:
Tuần tự theo sáu trước
Thấy tánh tu ba học
Tuần tự theo bốn sau
Được quả có bốn thứ.
Giải thích:
Tuần tự theo sáu trước, thấy tánh tu ba học: Bồ tát ở địa đầu tiên thông đạt chân như; ở địa thứ hai tu học giới tăng thượng; ở địa thứ ba tu học tâm tăng thượng; ở địa thứ tư, địa thứ năm và địa thứ sáu tu học tuệ tăng thượng.
Tuệ có hai đối cảnh: 1. Sự thật của các pháp, là bốn đế khổ, tập, diệt, đạo; 2. Duyên khởi, là quán sát thuận nghịch mười hai nhân duyên. Hai cảnh này cũng có trong địa thứ hai và địa thứ ba, cho nên hai địa này cũng được xây dựng bởi tuệ tăng thượng.
Tuy nhiên, ở địa thứ tư là tuệ tăng thượng về ba mươi bảy bồ-đề phần pháp, ở địa thứ năm là tuệ tăng thượng về quán bốn đế, ở địa thứ sáu là tuệ tăng thượng về quán duyên khởi, vì vậy ba địa này được xây dựng trên nền tảng của tu học tuệ tăng thượng.
Tuần tự theo bốn sau, được quả có bốn thứ: Theo địa thứ bảy, Bồ tát được sự an trú hữu công dụng đối với vô tướng, là quả thứ nhất. Theo địa thứ tám, Bồ tát được sự an trú vô công dụng đối với vô tướng, là quả thứ hai. Theo địa thứ chín, Bồ tát được sự thành thục chúng sanh, là quả thứ ba. Theo địa thứ mười, Bồ tát được hai môn thành thục, là quả thứ tư.
Đã nói sự tu học và quả của sự tu học dựa theo các địa của Bồ tát, kế nói sự tu tập năm uẩn vô lưu dựa theo các địa của Bồ tát.
[0658a11] Kệ tụng:
Thấy tánh sạch ba thân
Cũng ở sáu địa trước
Địa khác sạch hai khác
Rời xa năm chướng vậy.
Giải thích:
Sự thấy tánh ở địa đầu tiên đã giải thích. Ở địa thứ hai, Bồ tát được giới thân thanh tịnh. Ở địa thứ ba, Bồ tát được định thân thanh tịnh. Ở địa thứ tư, địa thứ năm và địa thứ sáu, Bồ tát được tuệ thân thanh tịnh. Bốn địa còn lại và Phật địa, Bồ tát được giải thoát thân và giải thoát tri kiến thân thanh tịnh, do rời xa năm chướng ngại.
Năm chướng ngại là, ở địa thứ bảy lấy sự không biết chấp tướng làm chướng ngại; ở địa thứ tám lấy sự không biết công dụng làm chướng ngại; ở địa thứ chín lấy sự không biết không có năng lực giáo hóa chúng sanh làm chướng ngại; ở địa thứ mười lấy sự không biết chưa thanh tịnh hai môn làm chướng ngại; ở Phật địa lấy sự không biết sự trở ngại làm chướng ngại; sự trở ngại ấy là sự không biết cảnh giới trí tuệ của Thanh văn và Duyên giác có thể làm sự trở ngại; chư Phật biết tất cả cảnh giới không có trở ngại nên giải thoát chướng ngại này.
Đã nói sự tu tập năm uẩn vô lưu dựa theo các địa của Bồ tát, kế nói sự thành tựu và chưa thành tựu dựa theo các địa của Bồ tát.
[0658a24] Kệ tụng:
Chưa thành tựu, thành tựu
Thành có chưa thành, thành
Như thiết lập địa biết
Phân biệt, vô phân biệt.
Giải thích:
Chưa thành tựu, thành tựu: Bồ tát ở tín hành địa gọi là chưa thành tựu. Từ tín hành địa trở lên các địa gọi là thành tựu.
Thành có chưa thành, thành: Ở trong các địa được gọi là thành tựu lại có hai loại là chưa thành tựu và thành tựu. Bồ tát từ địa thứ bảy trở xuống gọi là chưa thành tựu, vì còn hữu công dụng hành; từ địa thứ tám trở lên gọi là thành tựu, vì được vô công dụng hành.
Hỏi: Trước có nói Bồ tát ở Hoan hỷ địa cũng được gọi là thành tựu, nghĩa ấy như thế nào?
Đáp: Như thiết lập địa biết, phân biệt, vô phân biệt: Đó là do trong sự thiết lập địa này, Bồ tát biết chỉ là sự phân biệt [ngã chấp và pháp chấp]; nơi sự phân biệt ấy cũng không có phân biệt, nghĩa là sở chấp và năng chấp đều không có tự thể. Căn cứ theo nghĩa ấy mà nói [Bồ tát ở Hoan hỷ địa] là thành tựu.
[0658b05] Kệ tụng:
Nên biết trong các địa
Tu tập và thành tựu
Hai đây không nghĩ bàn
Là cảnh giới chư Phật.
Giải thích:
Bồ tát ở trong mỗi địa đều có sự tu tập và sự thành tựu; nên biết sự tu tập và sự thành tựu ở mỗi địa đều không thể nghĩ bàn, vì các Bồ tát tự chứng tuệ giác tự nội, chính là sở tri của chư Phật, không phải cảnh giới của các bậc khác.
Đã nói sự thành tựu và chưa thành tựu dựa theo các địa của Bồ tát, kế nói mười sắc thái nhập địa của Bồ tát.
[0658b11] Kệ tụng:
Minh tín, không thấp kém
Không khiếp sợ, không đợi
Thông đạt và bình đẳng
Rời thiên lệch, dính mắc
Cùng với biết phương tiện
Đồ chúng từ Phật sanh
Như vậy mười sắc thái
Mỗi địa đều viên mãn.
Giải thích:
Bồ tát nhập địa ở mỗi địa đều có mười sắc thái. Những gì là mười? 1. Minh tín; 2. Không thấp kém; 3. Không khiếp sợ; 4. Không đợi; 5. Thông đạt; 6. Bình đẳng; 7. Rời thiên lệch; 8. Rời dính mắc; 9. Biết phương tiện; 10. Đồ chúng từ Phật sanh.
Minh tín là ở địa của mình thì có được sáng suốt, vì trừ được sự vô tri đối với các pháp; đối với địa khác thì có được đức tin, vì sanh ước nguyện ưa thích đối với các địa ở sau.
Không thấp kém là nghe được giáo pháp vi diệu sâu xa mà không kinh sợ.
Không khiếp sợ là thực hành rất dũng mãnh hạnh khó làm.
Không đợi là khởi sự tu hành địa của mình mà không đợi dạy bảo.
Thông đạt là có năng lực sanh khởi phương tiện của địa khác.
Bình đẳng là chúng sanh khắp cả cùng một tự tâm.
Rời thiên lệch là tai nghe khen chê mà tâm không có cất cao hay hạ thấp.
Rời dính mắc là được các địa vị như chuyển luân vương v.v… vẫn không lưu luyến và nhiễm ô.
Biết phương tiện là biết các pháp không thể thủ đắc làm phương tiện của Phật.
Đồ chúng từ Phật sanh là đồ chúng luôn được sanh ra từ chư Phật.
Mười sắc tướng này mỗi một địa đều có đủ.
Đã nói mười sắc thái nhập địa của Bồ tát, kế nói sắc thái của mười ba-la-mật ở các địa của Bồ tát.
[0658b28] Kệ tụng:
Có dục, không sáu chướng
Tiếp đến không loạn tuệ
Không nổi, không trở lui
Thờ thiện hữu, cúng dường
Hồi hướng, sanh thù thắng
Tu thiện, du hý thông
Tạng công đức như vậy
Phật tử mười sáu tướng.
Giải thích:
Các Bồ tát ở trong các địa có mười sáu sắc thái tu tập mười ba-la-mật. Những gì là mười sáu?
1. Có dục tâm, là ưa thích thực hành các độ;
2. Không keo lẫn, là rời xa chướng ngại của thí;
3. Không trái phạm, là rời xa chướng ngại của giới;
4. Không giận dữ, là rời xa chướng ngại của nhẫn;
5. Không biếng nhác, là rời xa chướng ngại của tiến;
6. Từ bi, là rời xa chướng ngại của định; từ bi có năng lực cho vui cứu khổ, là phương cách đối trị giận dữ và bực tức, từ bi do định mà có được;
7. Không ác tuệ, là rời xa chướng ngại của tuệ; ác tuệ có ba loại: phân biệt tự tánh, phân biệt tùy ức và phân biệt hiển thị, ba loại này có thể đoạn trừ;
8. Không loạn tuệ, là rời xa tâm hướng về thừa khác;
9. Không nổi trôi, là không bị ngũ dục của con người và thắng lạc của cõi trời làm cho tâm mình say đắm;
10. Không trở lui, là không bị cái khổ vì không thành tựu và cái khổ vì khó thực hành làm cho tâm mình thoái chuyển;
11. Thờ thiện hữu, là nương tựa sự thị hiện như bậc thiện tri thức của Phật để được nghe pháp Đại thừa;
12. Cúng dường, là cúng dường Tam bảo;
13. Hồi hướng, là phương tiện thiện xảo;
14. Sanh thù thắng, là hiển thị sắc thái của nguyện ba-la-mật, là rời xa tám nạn xứ, không rời xa chư Phật Bồ tát;
15. Tu thiện, là hiển thị sắc thái của lực ba-la-mật, là tu tập không ngừng nghỉ các thiện căn;
16. Thần thông du hý, là hiển thị sắc thái của trí ba-la-mật, là vận dụng vô ngại các đại thần thông và công đức [của trí tuệ].
Bồ tát có những sắc thái này thì thường làm bậc thượng thủ trong tất cả chúng. Đây gọi là mười sáu sắc thái của người con Phật.
Đã nói sắc thái của mười ba-la-mật ở các địa của Bồ tát, kế nói năm công đức ở mỗi ba-la-mật của Bồ tát.
[0658c20] Kệ tụng:
Mỗi địa khi thăng tiến
Mỗi độ có năm đức
Hai cùng hai và một
Tu tập chỉ và quán.
Giải thích:
Mỗi địa khi thăng tiến, mỗi độ có năm đức: Bồ tát ở mỗi một địa tu tập mỗi một độ, và trong mỗi một độ có đủ năm thứ công đức.
Những gì là năm? 1. Diệt tập khí; 2. Được khinh an; 3. Tròn sáng; 4. Tướng khởi; 5. Nhân tố rộng lớn.
Diệt tập khí là trong từng sát-na diệt trừ khối tập khí dựa vào.
Được khinh an là rời xa mọi thứ ấn tượng để an trú pháp lạc.
Tròn sáng là biết tất cả chủng, không có tác ý phần đoạn.
Tướng khởi là khi nhập đại địa thì vô phân biệt tướng sanh khởi.
Nhân tố rộng lớn là làm viên mãn và thanh tịnh tất cả sắc thái của pháp thân, là làm cho cả hai khối phước trí được tăng trưởng.
Hai cùng hai và một, tu tập chỉ và quán: Ở đây nên biết, hai công đức đầu là phần chỉ, hai công đức tiếp theo là phần quán, công đức thứ năm là gồm hai phần chỉ quán.
Đã nói năm công đức ở mỗi ba-la-mật của Bồ tát, kế giải thích danh xưng mười địa của Bồ tát.
[0659a04] Kệ tụng:
Thấy chân, thấy lợi vật
Xứ này được Hoan hỷ.
Xuất phạm, xuất dị tâm
Gọi là Ly cấu địa.
Sức cầu pháp, trì pháp
Phát ánh sáng gọi Minh.
Củi hoặc chướng, trí chướng
Thiêu đốt là Diệm tuệ.
Hai khó làm thoái lui
Thoái lui nên Nan thắng.
Quán không trú hai pháp
Hằng hiện gọi Hiện tiền.
Nhiều đường gần nhất thừa
Đi xa gọi Viễn hành.
Tưởng tướng, tưởng vô tướng
Không động, Bất động địa.
Bốn biện trí lực xảo
Thuyết thiện gọi Thiện tuệ.
Hai môn như mây giăng
Mưa pháp gọi Pháp vân.
Giải thích:
Thấy chân, thấy lợi vật, xứ này được Hoan hỷ: Bồ tát ở trong địa đầu tiên có hai cái thấy: một là thấy chân như, nghĩa là thấy sự lợi mình: thấy mình đi đến gần với bồ-đề, xưa chưa từng thấy, nay mới vừa thấy; hai là thấy lợi vật, nghĩa là thấy sự lợi người: trong từng sát-na có năng lực thành thục hàng trăm chúng sanh. Do hai cái thấy này, Bồ tát khởi lên sự hoan hỷ thù thắng, nên gọi là Hoan hỷ địa.
Xuất phạm, xuất dị tâm, gọi là Ly cấu địa: Bồ tát ở địa thứ hai ra khỏi được hai thứ dơ bẩn: một là ra khỏi sự phạm giới dơ bẩn, hai là ra khỏi sự khởi tâm dị thừa dơ bẩn. Do ra khỏi hai sự dơ bẩn này mà gọi là Ly cấu địa. Như kinh Thập địa nói: “Chúng con siêng năng tinh tiến để được tịnh giới, thành mãn sự thanh tịnh của nhất thiết chủng trí. ”
Sức cầu pháp, trì pháp, phát ánh sáng gọi Minh: Bồ tát ở trong địa thứ ba có được sức tự tại của tam-muội nên có thể cầu, có thể thừa tự, có thể gìn giữ vô lượng Phật pháp, được ánh sáng chánh pháp lớn lao, vì người mà làm chỗ dựa ánh sáng trí giác. Do có thể lấy chánh pháp soi sáng cho mình, soi sáng cho người nên gọi là Minh địa.
Củi hoặc chướng, trí chướng, thiêu đốt là Diệm tuệ: Bồ tát ở trong địa thứ tư lấy trí giác của pháp bồ-đề phần làm tự tánh của ngọn lửa, lấy hoặc chướng và trí chướng làm tự tánh của củi. Bồ tát ở địa này có thể khởi lên ngọn lửa trí giác đốt tiêu củi hai chướng nên gọi là Diệm tuệ địa.
Hai khó làm thoái lui, thoái lui nên Nan thắng: Bồ tát ở trong địa thứ năm có hai thứ khó: khó thứ nhất là siêng năng giáo hóa chúng sanh mà tâm không phiền não, khó thứ hai là chúng sanh không làm theo sự giáo hóa mà tâm không phiền não. Bồ tát ở địa này có thể thoái lui vì hai thứ khó, phải khó khăn lắm mới vượt thắng nên gọi là Nan thắng địa.
Quán không trú hai pháp, hằng hiện gọi Hiện tiền: Bồ tát ở trong địa thứ sáu dựa vào trí tuệ ba-la-mật mà có năng lực không trú hai pháp là sanh tử và niết-bàn. Tuệ quán như vậy hằng hiện ở trước mắt nên gọi là Hiện tiền địa.
Nhiều đường gần nhất thừa, đi xa gọi Viễn hành: Bồ tát ở trong địa thứ bảy thì đã tiếp cận với đạo nhất thừa, cho nên gọi là đi xa.
Hỏi: Cái gì là đi xa?
Đáp: Phương tiện [thiện xảo] cho sự cứu cánh tuy còn hữu công dụng nhưng vẫn có khả năng đưa Bồ tát đi xa. Do sự đi xa này mà gọi là Viễn hành địa.
Tưởng tướng, tưởng vô tướng, không động, Bất động địa: Bồ tát ở trong địa thứ tám đối với ấn tượng hữu tướng và ấn tượng hữu công dụng về vô tướng, cả hai ấn tượng này đều không thể dao động. Do không có sự dao động này nên gọi là Bất động địa.
Bốn biện trí lực xảo, thuyết thiện gọi Thiện tuệ: Bồ tát ở trong địa thứ chín được bốn vô ngại tuệ thuộc loại thù thắng nhất, nên ở trong khoảng một sát-na, hết thảy người trời có chủng loại khác nhau nơi ba ngàn thế giới, cùng hỏi những câu hỏi khác nhau bằng tiếng nói khác nhau và nghĩa lý khác nhau, vậy mà Bồ tát ở địa này có thể dùng một tiếng nói trả lời khắp cả những câu hỏi của mọi loài, đoạn trừ những hoài nghi. Do sự thuyết pháp một cách khéo léo như vậy nên gọi là Thiện tuệ địa.
Hai môn như mây giăng, mưa pháp gọi Pháp vân: Bồ tát ở trong địa thứ mười nhờ tam-muội môn và đà-la-ni môn mà nhiếp thọ tất cả nhân tố đa văn huân tập làm đầy khắp trong thức a-lại-da, giống như mây lớn giăng che khắp cả hư không. Bồ tát ở địa này có thể lấy đám mây đa văn huân tập, ở trong từng sát-na, ở mỗi một tướng hảo, ở mỗi một vẻ đẹp tùy hình, ở mỗi lỗ chân lông, đổ mưa xuống vô lượng vô biên cơn mưa giáo pháp, làm sung mãn tất cả chúng sanh có thể hóa độ. Do như đám mây đổ mưa giáo pháp nên gọi là Pháp vân địa.
Đã giải thích danh xưng riêng biệt rồi, thế nào gọi là trú, thế nào gọi là địa?
[0659b22] Kệ tụng:
Vì tập các thiện căn
Lạc trú nên nói trú
Số đếm, số, vô úy
Lại lấy địa làm tên.
Giải thích:
Vì tập các thiện căn, lạc trú nên nói trú: Các Bồ tát vì thành tựu mọi thứ thiện căn nên ở trong tất cả thời gian an trú ý lạc trong tất cả địa, vì vậy các địa còn được gọi là các trú.
Số đếm, số, vô úy, lại lấy địa làm tên: Bộ-di-da (步彌耶) gọi là địa. Bộ là nghĩa của số đếm. Di là nghĩa của số thật. Da là nghĩa không sợ hãi. Các Bồ tát muốn tiến lên địa ở trên thì ở trong mỗi một địa phải đoạn trừ số đếm chướng ngại, có được số đếm công đức, nên gọi là nghĩa của số đếm.
Địa lấy mười số làm lượng. Các Bồ tát ở trong tất cả địa đều biết phải đoạn trừ những chướng ngại như thế, biết phải có được những công đức như thế, biết những điều đó là không giả dối, nên gọi là nghĩa của số thật.
Các địa ở trên là trú xứ không sợ hãi. Các Bồ tát e sợ rằng nếu ở mãi trong địa của mình thì sẽ thoái mất những công đức lợi mình lợi người, nên mong muốn tiến lên các địa ở trên, gọi đó là nghĩa không sợ hãi.
Do ba nghĩa đây nên gọi là địa.
Đã nói danh xưng mười địa của Bồ tát, kế nói bốn sự thủ đắc các địa sai biệt của Bồ tát.
[0659c07] Kệ tụng:
Tin hiểu và chánh hành
Thông đạt và thành mãn
Nên biết các Bồ tát
Đắc địa có bốn sự.
Giải thích:
Bốn sự thủ đắc các địa là: 1. Thủ đắc nhờ tin hiểu; 2. Thủ đắc nhờ chánh hành; 3. Thủ đắc nhờ thông đạt; 4. Thủ đắc nhờ thành mãn.
Thủ đắc nhờ tin hiểu, là lấy sự tin hiểu (sâu xa) để thủ đắc các địa, như nói đến trong tín địa. Thủ đắc nhờ chánh hành, là lấy chánh hành để thủ đắc các địa.
Các Bồ tát đối với pháp Đại thừa có mười chánh hành: 1. Sao chép; 2. Hiến cúng; 3. Chuyền cho; 4. Nghe nhận; 5. Dở đọc; 6. Chỉ dạy; 7. Phúng tụng; 8. Giảng nói; 9. Suy nghĩ; 10. Tu tập.
Mười chánh hành này có năng lực sanh ra khối công đức vô lượng. Mười chánh hành này thủ đắc các địa nên gọi là thủ đắc nhờ chánh hành.
Thủ đắc nhờ thông đạt, là thông đạt đệ nhất nghĩa đế, cho đến Bồ tát ở địa thứ bảy được gọi là thông đạt.
Thủ đắc nhờ thành mãn, là Bồ tát từ địa thứ tám đến Phật địa được gọi là thủ đắc nhờ thành mãn.
Đã nói bốn sự thủ đắc các địa sai biệt của Bồ tát, kế nói bốn sự tu hành sai biệt của Bồ tát.
[0659c19] Kệ tụng:
Các độ, các giác phần
Các thần thông, nhiếp sanh
Vì Đại thừa, tiểu thừa
Cùng thể nhập, thành thục.
Giải thích:
Nói tổng quát, tất cả hành Bồ tát không ra ngoài bốn sự: 1. Hành ba-la-mật; 2. Hành bồ-đề phần pháp; 3. Hành thần thông; 4. Hành nhiếp hóa chúng sanh.
Hành ba-la-mật là nói về chúng sanh cầu Đại thừa. Hành bồ-đề phần pháp là nói về chúng sanh cầu Tiểu thừa. Hành thần thông là làm cho hai loại chúng sanh thể nhập được Phật pháp. Hành nhiếp hóa chúng sanh là làm cho hai loại chúng sanh thành thục Phật pháp.
Phẩm Hành Trú trọn vẹn Phẩm Hai Mươi Bốn
KÍNH PHẬT
Giải thích:
Đã nói hành trú của Bồ tát, kế nói công đức lễ Phật.
[0659c29] Kệ tụng:
Tâm hòa đồng, xa lìa
Tâm không mất, lợi ích
Thương xót các chúng sanh
Cứu đời, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai, đấng công đức vô lượng.
Tâm hòa đồng, là tâm từ, vì muốn mang lại niềm vui.
Tâm xa lìa, là tâm bi, vì muốn lấy đi nỗi khổ.
Tâm không mất, là tâm hỷ, vì muốn chúng sanh luôn được hoan hỷ.
Tâm lợi ích, là tâm xả, vì muốn chúng sanh không bị nhiễm ô.
[0660a03] Kệ tụng:
Giải thoát hết thảy chướng
Thắng hơn các thế gian
Cùng khắp tất cả xứ
Tâm thoát, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của ba xứ.
Giải thoát hết thảy chướng: Tán dương sự thù thắng của giải thoát, là được giải thoát vì không còn tất cả hoặc chướng và tất cả trí chướng.
Thắng hơn các thế gian: Tán dương sự thù thắng của chế ngự thể nhập, là tâm tự tại với cảnh sở duyên, tùy ý chuyển hóa.
Cùng khắp tất cả xứ: Tán dương sự thù thắng của biến xứ thể nhập, là trí cùng khắp trong tất cả cảnh.
Ba nghĩa này nói về tâm được giải thoát đối với ba xứ, nên tán dương là đấng tâm giải thoát.
[0660a14] Kệ tụng:
Ngăn chận phiền não khởi
Diệt tổn hại mê hoặc
Thương chúng sanh ô nhiễm
Đấng bi, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của vô tránh (không tranh cãi).
Ngăn chận phiền não khởi: Tất cả chúng sanh sanh khởi phiền não, mọi việc làm của Như lai đều làm cho chúng sanh không sanh khởi phiền não.
Diệt tổn hại mê hoặc: Tất cả mê hoặc nếu đã sanh khởi thì Như lai cũng có thể giúp cho chúng sanh sanh khởi phương tiện đối trị. Bậc khác có đức tánh không tranh cãi thì đó là duyên tố làm cho người khác không sanh khởi mê hoặc, chứ không thể làm cho người khác sanh khởi đối trị. Sự vô tránh của Như lai không phải như vậy, chẳng những làm cho chúng sanh không khởi mê hoặc mà còn khiến cho chúng sanh sanh khởi sự đối trị mê hoặc, cho nên gọi là vô tránh thù thắng.
Thương chúng sanh ô nhiễm, Đấng bi, con đảnh lễ: Tam-muội vô tránh của Như lai thì nghiêng về sự sanh khởi lòng thương xót đối với tất cả chúng sanh còn có ô nhiễm, cho nên đối với chúng sanh, Như lai được gọi là đấng đại bi.
[0660a25] Kệ tụng:
Không dụng công, không vướng
Không ngại, hằng tịch tĩnh
Giải đáp tất cả nghi
Thắng trí, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của nguyện trí.
Nguyện trí của Như lai có năm sự thù thắng: 1. Không còn khởi dụng công; 2. Không vướng mắc ở đối cảnh; 3. Không bị ngăn ngại ở trong tâm; 4. Thường xuyên tịch tĩnh; 5. Giải đáp các hoài nghi. Do có năm nghĩa này nên gọi là thù thắng.
Nguyện trí của bậc khác là: 1. Không phải không dụng công, vì còn khởi tác ý; 2. Không phải không vướng mắc, vì có định lực giả tạm; 3. Không phải không ngăn ngại, vì sự thấy biết đôi phần ít ỏi; 4. Không phải thường xuyên tịch tĩnh, vì không phải là định thường tịch; 5. Không giải đáp các hoài nghi, vì có chỗ không biết tới.
[0660b04] Kệ tụng:
Sở y và năng y
Ngôn từ và trí tuệ
Sự thuyết tuệ vô ngại
Khéo thuyết, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của bốn trí vô ngại.
Sự được thuyết có hai thứ: 1. Sở y, là giáo pháp; 2. Năng y, là nghĩa lý.
Công cụ thuyết pháp có hai thứ: 1. Ngôn từ thông suốt; 2. Trí tuệ khéo léo.
Như lai đối với sự được thuyết và công cụ thuyết pháp đều sử dụng tuệ giác vô ngại, cho nên gọi là thù thắng.
Sự thuyết, là hiển thị nghiệp dụng vô ngại. Khéo thuyết, là vận dụng phương tiện để khai mở, chỉ bày.
[0660b11] Kệ tụng:
Qua lại và nghe biết
Biết tâm hành, đến, đi
Khiến người được xuất ly
Giáo hóa, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của sáu thần thông.
Qua lại, là như ý thông, là năng lực qua lại mọi xứ sở.
Nghe biết, là thiên nhĩ thông, là năng lực nghe biết mọi ngôn âm.
Biết tâm hành, là tha tâm thông, là năng lực biết rõ tâm hành sai biệt của người.
Biết từ đâu đến, là túc trú thông, là năng lực biết rõ đời trước người kia từ nhân nào đến.
Biết đi về đâu, là sanh tử thông, là biết rõ người kia đời nay từ nhân nào đi.
Khiến người được xuất ly, là lậu tận thông, là đúng với chân thật vì người thuyết pháp.
[0660b20] Kệ tụng:
Chúng sanh nhìn thấy Ngài
Biết chắc là trượng phu
Tâm tịnh tín sâu xa
Phương tiện, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của tướng hảo.
Tất cả chúng sanh một lần được nhìn thấy Ngài thì biết chắc Như lai là bậc đại trượng phu, và khởi lên sự tin tưởng trong sáng và sâu xa nơi Như lai, vì Ngài dùng tướng hảo làm phương tiện.
[0660b25] Kệ tụng:
Giữ bỏ trú, biến hóa
Định, trí được tự tại
Như vậy bốn thanh tịnh
Thế tôn, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của bốn tướng thanh tịnh. Đó là: 1. Thân thanh tịnh; 2. Duyên thanh tịnh; 3. Tâm thanh tịnh; 4. Trí thanh tịnh.
Giữ bỏ trú, hiển thị thân thanh tịnh, là năng lực giữ, bỏ hay trú ở sự sống lâu của thân mạng một cách tự tại.
Biến hóa, hiển thị duyên thanh tịnh, là năng lực chuyển đổi và biến hóa các cảnh giới một cách tự tại.
Định, hiển thị tâm thanh tịnh, là năng lực xuất nhập các định một cách tự tại.
Trí, hiển thị trí thanh tịnh, là năng lực biết các cảnh giới vô ngại một cách tự tại.
[0660c05] Kệ tụng:
Phương tiện và qui y
Thanh tịnh và xuất ly
Đây phá bốn lừa dối
Hàng ma, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của mười lực.
Ma vương dựa vào bốn sự để phá hoại chúng sanh. Bốn sự là gì?
1. Dựa vào phương tiện để lừa dối, mê hoặc chúng sanh, nói thọ dụng năm trần thì được sanh đường lành, không đọa đường dữ;
2. Dựa vào quy y để lừa dối, mê hoặc chúng sanh, nói chúa trời Tự tại v.v... là nơi chốn quy y, quy y nơi khác là sai lầm;
3. Dựa vào thanh tịnh để lừa dối, mê hoặc chúng sanh, nói chỉ có các định của thế gian mới là thanh tịnh, các định khác không phải thanh tịnh;
4. Dựa vào xuất ly để lừa dối, mê hoặc chúng sanh, nói chỉ có đạo quả của tiểu thừa mới có thể xuất ly, chẳng phải Đại thừa có được.
Phật vì phá bốn sự của ma vương mà hiển thị mười lực:
1. Phật dùng trí lực thị xứ phi xứ để phá sự thứ nhất của ma vương, do phương tiện thiện lành có thể được sanh cõi trời, không phải phương tiện xấu ác làm được;
2. Phật dùng trí lực tam thế nghiệp báo để phá sự thứ hai của ma vương, do nghiệp lực của mình khiến được sanh cõi trời, không phải dựa vào năng lực của chúa trời Tự tại v.v…;
3. Phật dùng trí lực thiền định giải thoát để phá sự thứ ba của ma vương, do biết hết các thiền định, giải thoát tam-muội và tam-ma-bạt-đề;
4. Phật dùng bảy trí lực khác mà phá sự thứ tư của ma vương, do rời bỏ căn tánh thấp kém v.v… để đứng yên nơi căn tánh cao tột.
[0660c20] Kệ tụng:
Trí đức và đoạn đức
Xuất ly và chướng ngại
Thuyết pháp lợi mình người
Dẹp tà, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của bốn vô úy.
Trí đức là nói về nhất thiết trí vô úy.
Đoạn đức là nói về lậu tận vô úy.
Xuất ly là nói về thuyết tận khổ đạo vô úy.
Chướng ngại là nói về thuyết chướng đạo vô úy.
Ở đây, trí đức và đoạn đức là nói về công đức lợi mình, xuất ly và chướng ngại là nói về công đức lợi người.
Các ngoại đạo nạn vấn rằng: Sa-môn Cù-đàm (1) chẳng có đủ nhất thiết trí, (2) chẳng diệt hết tất cả lậu, (3) thuyết đạo [xuất thế] mà không thể hết khổ, (4) thuyết chướng pháp mà không thật có trở ngại đạo.
Như lai đối với bốn nạn vấn này đều có thể bác bỏ, cho nên gọi là vô úy.
[0660c29] Kệ tụng:
Trong chúng nói trị phạt
Không giữ gìn cái gì
Rời hai bẩn, chánh trú
Nhiếp chúng, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của ba bất hộ.
Trong chúng nói trị phạt, không giữ gìn cái gì: Nếu Phật còn có cái gì để giữ gìn thì ở trong đại chúng Phật không thể nói ra sự trị phạt tới cùng.
Rời hai bẩn, chánh trú: Rời bỏ hai sự dơ bẩn là không có vui mừng và buồn ghét. Chánh trú là không quên mất chánh niệm. Do hai thứ công đức này mà gọi là thù thắng, có năng lực nhiếp hóa tất cả đồ chúng. Đây chính là nghiệp dụng của Phật.
[0661a08] Kệ tụng:
Đi đứng ở mọi nơi
Toàn là nhất thiết trí
Đoạn tất cả tập khí
Thật nghĩa, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của đoạn trừ tập khí.
Như lai trong mọi lúc, ở mọi nơi, đi đứng nằm ngồi toàn là sự dụng thể hiện uy nghi của nhất thiết trí, vì Như lai đã đoạn trừ tất cả phiền não và cả tập khí.
Nếu không có nhất thiết trí thì phiền não tuy hết nhưng tập khí chưa hết. Khi đi đứng mà gặp phải xe ngựa chạy nhanh rồi bị tổn hại là vì không có uy nghi của nhất thiết trí. Như lai không mắc phải việc này vì thật sự có nhất thiết trí.
[0661a16] Kệ tụng:
Việc lợi ích chúng sanh
Đúng lúc không lỡ thời
Việc làm thường không sót
Không quên, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của sự không lãng quên.
Trong sự lợi ích yên vui cho chúng sanh, việc Như lai làm thường xuyên đúng lúc và không bỏ lỡ cơ hội; đây là nghiệp dụng của pháp không lãng quên. Trong mọi thời gian, việc Như lai làm đều không có hư dối; đây là tự tánh của pháp không lãng quên.
[0661a22] Kệ tụng:
Ngày đêm sáu thời quán
Tất cả cõi chúng sanh
Đầy đủ tâm đại bi
Ý lợi, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của đại bi.
Bằng tâm đại bi, Như lai ngày đêm sáu thời quán sát chúng sanh, ai thoái, ai tiến: người chưa khởi thiện căn, Ngài làm cho người ấy khởi thiện căn; người đã khởi thiện căn, Ngài làm cho người ấy tăng tiến thiện căn.
Tuy một ngày đêm có sáu thời mà thật ra Ngài thường chuyển pháp luân trong mọi thời gian, vì Ngài có đầy đủ tâm đại bi; đây chính là nghiệp dụng của tâm đại bi.
Như lai thường khởi tâm ý lợi lạc cho tất cả chúng sanh; đây là tự tánh của tâm đại bi.
[0661b01] Kệ tụng:
Do hành và do chứng
Do trí và do nghiệp
Hơn tất cả nhị thừa
Cao tột, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của mười tám pháp bất cộng.
Như lai có mười tám pháp bất cộng: 1. Thân không lầm lỗi; 2. Miệng không lầm lỗi; 3. Ý không lầm lỗi; 4. Không có ý tưởng riêng khác; 5. Không lúc nào tâm không trú định; 6. Không có sự không biết mà đã xả; 7. Nguyện dục không giảm; 8. Tinh tiến không giảm; 9. Niệm không giảm; 10. Tuệ không giảm; 11. Giải thoát không giảm; 12. Giải thoát tri kiến không giảm; 13. Trí biết đời quá khứ không vướng mắc, không chướng ngại; 14. Trí biết đời vị lai không vướng mắc, không chướng ngại; 15. Trí biết đời hiện tại không vướng mắc, không chướng ngại; 16. Thân nghiệp hành động theo trí tuệ; 17. Khẩu nghiệp hành động theo trí tuệ; 18. Ý nghiệp hành động theo trí tuệ.
Mười tám pháp ấy chia ra bốn loại: hành, gồm sáu bất cộng đầu tiên; chứng, gồm sáu bất cộng kế tiếp; trí, gồm ba bất cộng tiếp theo; nghiệp, gồm ba bất cộng cuối cùng.
Tất cả Thanh văn, Duyên giác đối với hết thảy chúng sanh khác là bậc cao. Như lai do có bốn sự bất cộng, so với bậc cao ấy là bậc cao hơn, nên được gọi là đấng cao tột.
[0661b16] Kệ tụng:
Ba thân đại bồ-đề
Đắc nhất thiết chủng trí
Chúng sanh mọi nơi nghi
Trừ diệt, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của nhất thiết chủng trí.
Ba thân là: 1. Tự tánh thân; 2. Thọ dụng thân; 3. Hóa thân. Đây là nói tự tánh của nhất thiết chủng trí.
Hỏi: Trí này biết tất cả chủng loại trong tất cả cảnh là thế nào?
Đáp: Tất cả chúng sanh ở khắp mọi nơi sanh nghi hoặc, trí này có thể đoạn diệt những nghi hoặc ấy. Đây là nghiệp dụng của nhất thiết chủng trí.
[0661b23] Kệ tụng:
Không dính mắc, không lỗi
Không dơ bẩn, không ngưng
Không động, không hý luận
Thanh tịnh, con đảnh lễ.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của sáu độ viên mãn.
Không dính mắc, là không bị dính mắc tiền của.
Không lỗi, là ba nghiệp thân miệng ý vĩnh viễn không vẩn đục.
Không dơ bẩn, là các khổ của pháp thế gian không làm nhuốm bẩn tâm.
Không ngưng, là có chút sở đắc không chịu ngưng nghỉ, trú ở.
Không động, là tâm hằng tịch tĩnh, không có tán loạn.
Không hý luận, là đối với tất cả pháp mà khởi phân biệt đều không phải chỗ sở hành.
Như lai viên mãn sáu ba-la-mật nên hoàn toàn rời sáu chướng, được gọi là đấng thanh tịnh.
[0661c02] Kệ tụng:
Thành tựu đệ nhất nghĩa
Xuất ly tất cả địa
Đến vị trí cực tôn
Giải thoát các chúng sanh.
Công đức vô tận đẳng
Hiện đời đều đầy đủ
Thế gian thấy, chúng thấy
Trời người đều không thấy.
Giải thích:
Kệ tụng này là kính lạy Như lai về công đức thù thắng của pháp thân Phật.
Ở đây lược nói pháp thân Phật có sáu đức:
1. Thể;
2. Nhân;
3. Quả;
4. Nghiệp;
5. Tương ứng;
6. Sai biệt.
Do sáu đức này biểu hiện mà biết đó chính là Phật, nên gọi là pháp thân Phật.
Thành tựu đệ nhất nghĩa: Đây là thể của pháp thân, do viên thành đệ nhất nghĩa, chứng đắc chân như thanh tịnh tột cùng.
Xuất ly tất cả địa: Đây là nhân của pháp thân, do tu tập tất cả địa vị Bồ tát mà xuất ly.
Đến vị trí cực tôn: Đây là quả của pháp thân, do đạt đến vị trí trên hết tất cả chúng sanh.
Giải thoát các chúng sanh: Đây là nghiệp của pháp thân, do có năng lực làm cho chúng sanh được giải thoát.
Công đức vô tận đẳng, hiện đời đều đầy đủ: Đây là tương ứng của pháp thân, do thích ứng với các đức vừa vô tận vừa vô đẳng.
Thế gian thấy, chúng thấy, trời người đều không thấy: Đây là sai biệt của pháp thân. Thế gian thấy, là mọi loài trong các thế giới đều thấy hóa thân. Chúng thấy, là chúng Bồ tát trong đại hội của Phật thấy được thọ dụng thân. Không thấy, là nhân loại, chư thiên v.v… trong mọi thời gian đều không thể thấy được tự tánh thân. Đây là sự sai biệt của ba thân.
Phẩm Kính Phật trọn vẹn
Luận Đại thừa trang nghiêm kinh được thuyết trọn vẹn trong thời gian cực kỳ thanh tịnh. Chú thích (dành cho cả 13 quyển):
1. Vô Trước (無著, Asaṅga, 294 - 376): dịch âm là A-tăng-già (阿僧伽), dịch nghĩa là Vô chướng ngại. Ngài là một trong những vị sáng lập Du-già hành phái thuộc Phật giáo Đại thừa ở Ấn Độ, sống vào khoảng thế kỷ thứ 4, người vùng Phổ-lỗ-hạ-phổ-lạp (普魯夏普拉, Puruṣapura). Theo Bà-tẩu-bàn-đậu Pháp sư truyện, cha ngài tên là Kiều-thi-ca, là quốc sư Bà-la-môn. Ngài có 3 anh em đều lấy tên là Bà-tẩu-bàn-đậu (Vasubandhu). Ban đầu, ngài xuất gia với bộ phái Tát-bà-đa (薩婆多, Thuyết nhất thiết hữu bộ) thuộc Tiểu thừa. Nhân tư duy về nghĩa Không mà chẳng ngộ nhập được, ngài muốn tự sát. Bấy giờ, ở phía đông Tỳ-đề-ha có ngài Tân-đầu-la (賓頭羅, Piṇḍola) thuyết giảng về Không quán của Tiểu thừa, ngài vừa nghe pháp thì liền ngộ nhập, nhưng đối với sở ngộ này ngài vẫn chưa thỏa mãn, bèn dùng thần thông bay lên cõi trời Đâu-suất, thọ nhận Không quán của Đại thừa từ Bồ tát Di-lặc. Sau đó, ngài lại nhiều lần lên cõi trời này học các nghĩa sâu xa của Đại thừa như Du-già sư địa luận v.v..., đồng thời nhóm họp đại chúng giảng nói, nhờ đó mà pháp môn Du-già được truyền bá khắp nơi. Ngài tận lực tuyên dương tư tưởng Pháp tướng của Đại thừa, lại soạn các luận sớ để giải thích kinh điển Đại thừa. Người em của ngài là Thế Thân, trước kia theo học với Tiểu thừa, sau nghe lời khuyên của ngài mà quay về với Đại thừa, cũng tận lực xiển dương giáo nghĩa Đại thừa. Trước tác của ngài gồm có Kim cang Bát-nhã luận (金剛般若論, ĐTK 1510), Thuận trung luận (順中論, ĐTK 1565), Nhiếp Đại thừa luận (ĐTK 1593), Nhiếp Đại thừa luận bổn (ĐTK 1594), Năng đoạn kim cương Bát-nhã ba-la-mật kinh luận thích (能斷金剛般若波羅蜜多經論釋, ĐTK 1513), Đại thừa A tỳ đạt ma tập luận (大乘阿毘達磨集論, ĐTK 1605), Hiển dương Thánh giáo luận tụng (顯揚聖教論頌, ĐTK 1603), Lục môn giáo thọ tập định luận (六門教授習定論, ĐTK 1607) và Đại thừa trang nghiêm kinh luận là bản luận này.
2. Đại Chánh tạng, quyển 31, kinh số 1594, Vô Trước tạo, Huyền Trang dịch.
3. 應言《莊嚴大乘經論》。能莊嚴大乘經故。先雲《大乘莊嚴經論》者非也。無有大乘莊嚴經故。Ưng ngôn “Trang nghiêm đại thừa kinh luận”, năng trang nghiêm đại thừa kinh cố. Tiên vân “Đại thừa trang nghiêm kinh luận” giả phi dã, vô hữu “Đại thừa trang nghiêm kinh” cố。(Thành duy thức luận thuật ký, quyển 7 - Đại Chánh tạng, quyển 43, kinh số 1830 [0354a10])
4. ĐTK 1595, Thế Thân thích, Chân Đế dịch.
5. Luận viết: Phục hữu Đại thừa trang nghiêm kinh luận sở thuyết ngũ kệ vi hiển thử đạo. Thích viết: Kinh nghĩa thâm ẩn nan giải - Như thật hiển liễu kinh trung chánh nghĩa, cố danh trang nghiêm kinh luận. Luận giải thử kinh cố đắc trang nghiêm danh. Trang nghiêm kinh luận trung hữu chúng đa nghĩa. Kim đãn lược thủ ngũ kệ. Thử kệ dục hà sở hiển. Thử kệ vi hiển ư tu đạo trung nan giác liễu nghĩa. 論曰。 復有大乘莊嚴經論, 所說五偈為顯此道。 釋曰,經義深隱難解。如實顯了經 中正義,故名莊嚴經論。論解此經故得莊嚴名。莊嚴經論中有眾多義。今但略取五偈,此偈欲何所顯,此偈為顯於中難覺了義。
6. Đại học Ryukoku (Long Cốc Đại học, 龍谷大学, Ryūkoku Daigaku) là một trường đại học tư nhân nằm ở Kyoto, Nhật Bản. Nguyên thủy nó được thành lập như là một trường học cho các tu sĩ Phật giáo của giáo phái Nishi Hongan-ji năm 1639, và trở thành một trường đại học thế tục hóa vào năm 1876. Các giáo sư và sinh viên của trường đại học này thành lập tạp chí văn học nổi tiếng Chūōkōron vào năm 1887. Trường có ba cơ sở: Fukakusa và Omiya ở Kyoto, và Seta trong quận Shiga.
7. mahāyānasiddhi (21); II. saranagamana (12); III. gotra (13); IV. cittotpāda (28); V. pratipatti (11); VI. tattva (10); VII. prabhāva (10); VIII. paripāka (22); IX. bodhi (86); X. adhimukti(15); XI. dharmaparyesti (78); XII. desanā (24); XIII. pratipatti (29); XIV. avavādānusāsanl (51); XV. upāyasahitakarma (5); XVI. pāramitā (79); XVII. pūjāsevāpramāna (66); XVIII. bodhipaksa (104); XIX. guna (80); XX-XXI. caryāpratistha (61). (The Universal Vehicle Discourse Literature, Robert Thurman)
a. Duyên khởi (8); 2. Thành tông (17); 3. Quy y (12); 4. Chủng tánh (13); 5. Phát tâm (21); 6. Nhị lợi (11); 7. Chân thật (11); 8. Thần thông (10); 9. Thành thục (22); 10. Bồ-đề (80); 11. Minh tín (15); 12. Thuật cầu (74); 13. Hoằng pháp (24); 14. Tùy tu (29); 15. Giáo thọ (51); 16. Nghiệp bạn (5); 17. Độ nhiếp (59); 18. Cúng dường (5); 19. Thân cận (7); 20. Phạn trú (49); 21. Giác phần (87); 22. Công đức (65); 23. Hành trú (27); 24. Kính Phật (19).
8. ādi (6); 2. siddhi (15); 3. saranagamana (12); 4. gotra (13); 5. cittotpāda (28); 6. pratipatti (11); 7. tattva (10); 8. prabhāva (10); 9. paripāka (22); 10. bodhi (86); 11. adhimukti (15); 12. dharmaparyesti (78); 13. desanā (24); 14. pratipatti (29); 15. avavādānusāsanl (51); 16. upāyasahitakarma (5); 17. pāramitā (80); 18. pūjāsevāpramāna (66); 19. bodhipaksa (104); 20. guna (80); 21. caryäpratistha (61). (The Universal Vehicle Discourse Literature, Robert Thurman)
9. Robert Alexander Farrar Thurman (sanh ngày 03 tháng 8 năm 1941) là một nhà văn và giáo sư có ảnh hưởng lớn lao đối với Phật giáo Hoa Kỳ, là tác giả, dịch giả nhiều sách về Phật giáo Tây Tạng. Ông là giáo sư của trung tâm Tông Khách Ba (Jey Tsong Khapa) thuộc Viện nghiên cứu Phật giáo Ấn Độ - Tây Tạng (Indo-Tibetan Buddhist Studies) của phân khoa tôn giáo thuộc Đại học Columbia, là người đồng sáng lập và chủ tịch của Nhà truyền thống Tây Tạng (Tibet House) New York. Quan tâm đặc biệt của ông là khám phá truyền thống tâm lý và triết học của Ấn Độ - Tây Tạng bằng cái nhìn phù hợp, song hành với tư tưởng và khoa học hiện đại. Sau khi học xong Đại học Philips Exeter và Harvard, ông đã học Tạng ngữ và Phật giáo Tây Tạng trong gần 30 năm. Ông là một học trò của đức Đạt-lai Lạt-ma. Ông viết nhiều sách nghiên cứu cũng như phổ thông về Phật pháp, và có nhiều bài giảng trên toàn thế giới.
10. Bản Anh ngữ mang tựa đề “The Universal Vehicle Discourse Literature (Mahāyānasūtrālamkārā)” được American Institute of Buddhist Studies xuất bản năm 2004, ISBN 0-9753734-0-4, được ghi rõ là dịch sang Anh ngữ từ các bản tiếng Sanskrit, Tây Tạng và Trung Hoa với tên người dịch là các vị L. Jamspal, R. Clark, J. Wilson, L. Zwilling, M. Sweet, R. Thurman, nhưng trong đó thật ra R. Thurman là người giữ vai trò chính, những người khác tham gia đóng góp và hỗ trợ. (Translated from the Sanskrit, Tibetan, and Chinese by L. Jamspal, R. Clark, J. Wilson, L. Zwilling, M. Sweet, R. Thurman)
11. Bồ tát địa, thứ 15: 1. Chủng tánh; 2. Phát tâm; 3. Tự tha lợi; 4. Chân thật nghĩa; 5. Uy lực; 6 Thành thục; 7. Bồ-đề; 8. Lực chủng tánh; 9. Thí; 10. Giới; 11. Nhẫn; 12. Tinh tiến; 13. Tịnh lực; 14. Tuệ; 15. Nhiếp sự; 16. Cúng dường thân cận vô lượng; 17. Bồ-đề phần; 18. Bồ tát công đức.
12. Biện trung biên luận tụng (ĐTK 1601 - 辯中邊論頌, Madhyānta-vibhāga-kārikā): kệ tụng của Bồ tát Di-lặc, được giảng giải qua luận thích của Đại sĩ Thế Thân (ĐTK 1600 - 辯中邊論, Madhyānta-vibhāga).
13. Biện pháp pháp tánh luận (辨法法性論, Dharmadharmatā-vibhaṅga): kệ tụng của Bồ tát Di-lặc, Pháp sư Pháp Tôn (法尊) dịch ra Hán văn từ Tạng bản. Pháp sư Pháp Tôn là đệ tử của Thái Hư đại sư.
14. Theo quan niệm của người Hoa Hạ cổ đại, những dân tộc nằm ngoài vùng đất bản thổ của người Hoa Hạ là những dân tộc chưa biết văn hóa và luật lệ giữa con người; chưa có quy tắc ứng xử chung như nhân, lễ, nghĩa, trí, tín hoặc quân, sư, phụ; chưa biết phân định trên dưới, cha con, vợ chồng; chưa có biết dùng mũ, áo, các vật dụng khác nhau để phân biệt tầng lớp, giai cấp trong xã hội, và quan trọng nhất là chưa có luật pháp. Các dân tộc ở phía Bắc sông Hoàng Hà thì gọi là Rợ hoặc Địch. Các dân tộc ở phía Đông thì gọi là Di. Các dân tộc ở phía Tây thì gọi là Nhung. Các dân tộc ở phía Nam sông Trường Giang thì gọi là Man. Bắc Địch (北狄) có rợ Hung nô, rợ Kim, rợ Khiết Đan, rợ Đột Quyết, rợ Hồ. Người Rợ thường bị người Trung Nguyên cổ đại xem là các giống dân hung bạo.
15. Khả hãn Thống Diệp Hộ: Theo sách Từ An truyện, quyển 2, vị Khả hãn này từng hội kiến Huyền Trang tại thành Tố Diệp. Theo sách Thông giám, vào năm Trinh Quán thứ 2 (628), Thống Diệp Hộ bị người bác ruột giết, con là Diệt Lực Đặc Cẩn lên thay làm Khả hãn Thích Diệp Hộ. Vào năm Trinh Quán thứ 6 (632), Thích Diệp Hộ bị 2 bộ lại là Thiết Tỳ Đạt Quan và Nỗ Thạt Tất công kích bỏ chạy qua nước Khang Cư rồi chết.
16. ĐTK 402.
17. ĐTK 1566, kệ tụng của Bồ tát Long Thụ, luận thích của Bồ tát Phân Biệt Minh.
18. Xem phẩm Công đức, thứ 22.
19. Nghĩa trí: Nghĩa là Thắng nghĩa. Trí là tuệ giác. Thắng nghĩa, nói đủ là Thắng nghĩa đế tướng (sắc thái của chân lý tuyệt đối). Thắng nghĩa đế cũng gọi là đệ nhất nghĩa đế (chân lý bậc nhất), chân đế (chân lý chân thật); đối lại là thế tục đế (chân lý phổ thông), cũng gọi là thế đế hay tục đế (chân lý giả thiết). Ở đây, chân lý tuyệt đối chỉ cho pháp tánh (Tâm hay Như). Nghĩa trí là (bậc) tuệ giác thấu hiểu một cách đúng như sự thật về pháp tánh tách rời ngôn ngữ của các pháp.
20. Giải các nghĩa: Được hiểu qua đoạn kinh trong kinh Giải thâm mật: “Lúc ấy đại Bồ tát Như lý thỉnh vấn lại hỏi đại Bồ tát Giải thâm nghĩa ý: Tối thắng tử, như thế nào gọi là sự thể các thánh giả, bằng sự thấy biết rất thánh, tách rời ngôn ngữ nên thể hiện sự chánh biến giác (đối với pháp tánh), rồi chính nơi pháp tánh tách rời ngôn ngữ ấy, các ngài muốn làm cho người khác cũng thể hiện chánh biến giác, nên giả thiết ngôn từ mà hoặc nói là hữu vi, hoặc nói là vô vi?” Chánh văn nguyên câu này là “Nghĩa trí tác chư nghĩa”, là “giả thiết ngôn từ” để nói về nghĩa lý của các pháp (hữu vi hay vô vi), vì thế dịch là “Nghĩa trí giải các nghĩa.”
21. Chánh văn: [0590b11]莊嚴大乘經論,誰能莊嚴。(Trang nghiêm Đại thừa kinh luận, thùy năng trang nghiêm.)
22. Chứng minh có thức A-lại-da, luận Thành duy thức dẫn kệ tụng này, nhưng ngài Huyền Trang dịch có khác: “Lại nữa, Thánh Từ Thị! dùng bảy nhân sau đây để chứng minh kinh Đại thừa thật là do Phật nói: 1. Vì trước đó Phật không thọ ký: Nếu kinh Đại thừa là do những người sau khi đức Phật diệt độ, muốn phá hoại chánh pháp mà nói ra, thì tại sao Thế Tôn không dự ký trước, như Ngài từng dự ký các việc bố úy sẽ xảy ra? 2. Vì vốn cùng lưu hành: Kinh đại, tiểu thừa giáo từ trước đến nay cùng lưu hành, vậy thì làm sao biết riêng kinh Đại thừa là không phải của Phật nói. 3. Vì không phải cảnh giới của người khác: Giáo lý Đại thừa rộng lớn rất sâu, không phải là cảnh giới của hàng ngoại đạo tư lường biết đến đưọc, trong kinh luận của họ chưa từng nói đến giáo lý Đại thừa, dẫu có nói cho họ nghe, họ cũng không tin thọ, cho nên kinh Đại thừa chẳng phải là người không phải Phật có thể nói được. 4. Vì nên công nhận: Nếu bảo giáo lý Đại thừa do các đức Phật khác nói chứ không phải do đức Thích Ca nói, thế thì giáo lý Đại thừa là Phật nói, lẽ đó rõ ràng phải công nhận. 5. Vì lẽ có, không có: Nếu chấp nhận có giáo lý Đại thừa, thời nên tin giáo lý ấy là do Phật nói, vì ngoài kinh Đại thừa thì không có giáo lý Đại thừa. Nếu bảo không có giáo lý Đại thừa, thì giáo lý Thanh văn thừa cũng không có, vì ngoài Đại thừa giáo thì quyết định không biết nương vào đâu để thành Phật. Không Phật thì ai ra đời giảng giáo lý Thanh văn thừa. Cho nên chỉ chấp nhận Thanh văn thừa giáo là Phật nói, mà chê bai Đại thừa giáo là không đúng lý. 6. Vì đối trị: Những người y theo Đại thừa giáo siêng năng tu hành, đều có thể đạt đến trí vô phân biệt, có khả năng chính thức đối trị tất cả phiền não. Thế nên tin kinh Đại thừa là Phật nói. 7. Vì nghĩa khác văn: Giáo lý Đại thừa ý thú rất sâu sắc, không thể theo văn thủ nghĩa nói, rồi sanh tâm phỉ báng cho là không phải Phật nói. Do các lý như trên nên biết kinh Đại thừa thật do Phật nói. Như trong luận Trang nghiêm có bài tụng tóm tắt nghĩa trên: Trước chẳng ký, cùng lưu hành / Không phải cảnh giới ngoại đạo/ Đồng công nhận có, không có/ Ðối trị và nghĩa khác văn. (先不記俱行/ 非餘所行境/ 極成有無有/ 對治異文故, Tiên bất ký câu hành/ Phi dư sở hành cảnh/ Cực hành hữu vô hữu/ Đối trị dị văn cố)” (Thành duy thức luận, H.T Thích Thiện Siêu dịch)
23. Bộ phái Tiểu thừa cho rằng Đại thừa là phi Phật thuyết, Đại thừa không là gì khác hơn chính là Tiểu thừa, thậm chí Đại thừa là luận thuyết của ngoại đạo.
24. Bậc chứng đắc bồ-đề nói có Đại thừa, đức Phật Thích Ca cũng chứng đắc bồ-đề, cho nên chắc chắn đức Phật có nói Đại thừa.
25. Không hợp nghĩa lý vì Thanh văn thừa chỉ cần tịnh trừ phiền não mà chứng giải thoát thân, nhưng Đại thừa thì ngoài giải thoát thân, mục tiêu chính là pháp thân, tức trí thân hay quả đại bồ-đề.
26. Dạy bảo lợi người là làm cho người phát tâm Vô thượng bồ-đề và độ khắp tất cả chúng sanh.
27. Kinh Tín, số 47, Tạp A Hàm: “Thiện nam có lòng tin, cần suy nghĩ như vầy: “Ta nên thuận theo pháp. Ta hãy an trụ với sự tu tập, tu tập nhiều, về yểm ly đối với sắc; an trụ với sự tu tập, tu tập nhiều, về yểm ly đối với thọ, tưởng, hành, thức.” Thiện nam tử có lòng tin bèn an trụ với sự tu tập, tu tập nhiều, về yểm ly đối với sắc; an trụ với sự tu tập tu tập nhiều, về yểm ly đối với thọ, tưởng, hành, thức, nên đối với sắc được yểm ly; đối với thọ, tưởng, hành, thức được yểm ly. Do yểm ly mà ly dục, giải thoát, giải thoát tri kiến, biết rằng “Ta, sự sanh đã dứt, phạn hạnh đã lập, những gì cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh đời sau nữa.”” (Thích Đức Thắng dịch)
28. Đại Trí độ luận, quyển 23, chương 34, Giải thích mười tưởng: “Người ngu si nhiều thì sự mong cầu không theo đạo lý, không rõ sự duyên, như vắt sừng tìm sữa, bị vô minh che lấp, tuy mặt trời chiếu sáng mà vĩnh viễn không thấy gì.” (H.T Thích Thiện Siêu dịch) Kinh Bách dụ, phần 8, số 77, Tìm sữa: “Thuở xưa có những người ở tại biên thùy, chưa hề biết con lừa ra sao cả, dù có gặp tận mặt cũng không nhận ra. Nghe người ta đồn sữa lừa ngon tuyệt, nhưng bọn họ không ai biết lừa, cũng không biết phương pháp nào để tìm cho ra sữa. Sau đó bọn họ chia nhau đi tìm, kết quả tìm được một con lừa đực. Bây giờ cả bọn tranh nhau, ai cũng muốn uống sữa trước: Có người cắn trên đầu lừa, có người nút tai, có người nút đuôi, có người dở chân, tin rằng sữa sẽ từ những chỗ ấy chảy ra. Nhưng bọn họ đều thất vọng, không uống được một tí sữa lừa.” (Thích Nữ Như Huyền dịch)
29. Ba đời được giải thoát (tam sanh đắc giải thoát): Câu xá luận, quyển 23, phẩm Phân biệt hiền thánh: “Thuận quyết trạch phần ở đời này sanh khởi thì ắt đời trước đã sanh khởi thuận giải thoát phần. Ở trong các hữu gieo trồng thuận giải thoát phần, (tu tập) cực kỳ mau chóng thì ba đời được giải thoát, nghĩa là: đời đầu tiên khởi thuận giải thoát phần, đời thứ hai khởi thuận quyết trạch phần và đời thứ ba nhập thánh đạo, cho đến được giải thoát. Giống như sự gieo hạt, tăng trưởng và cho quả là ba giai đoạn khác nhau, cũng vậy, bản thân nhập vào pháp tánh, thành thục và giải thoát là ba giai đoạn khác nhau.”
30. Tu đa la (sutra) là khế kinh, tức kinh điển hợp với chân lý và hợp với tâm lý, gọi là khế lý khế cơ. Trong mỗi một bộ kinh Phật đều nói thẳng pháp nghĩa, nhưng pháp nghĩa của kinh này hay pháp nghĩa của kinh kia đều hỗ tương khế hợp, không có mâu thuẫn.
31. Tỳ ni (vinaya) dịch là thiện trị, nghĩa là khéo tự trị tất cả ác, lại dịch là điều phục, nghĩa là điều luyện ba nghiệp, ngăn phục lỗi quấy. Tỳ ni còn được hiểu là diệt, nghĩa là diệt trừ tất cả chủng loại phiền não, lầm lỗi nhờ tu hành tùy thuận theo pháp nghĩa của Phật dạy.
32. Pháp không: là các pháp đều không, nghĩa là các pháp không có đặc tánh cố định. Do không có đặc tánh cố định nên nhiễm ô có thể hủy diệt, thanh tịnh có thể thích ứng hay khổ có thể tiêu diệt, vui có thể kiến thiết.
33. Tất cả pháp không có tự tánh (nhất thiết pháp vô tự tánh): Nhiếp luận ghi: “Tự nhiên, tự thể không, tự tánh không kiên trú, như chấp thủ không có, nên nói vô tự tánh”. Các pháp không có tự tánh là vì: 1. Không phải tự nhiên mà sanh ra: do tất cả pháp không rời các duyên mà tự nhiên có đặc tánh, như pháp vị lai thì sanh ở vị lai, ắt phải đợi duyên, nhất định không thể tự nhiên sanh, cho nên không có tự tánh; 2. Tự thể đã không: do pháp quá khứ đã diệt mất, không sanh trở lại nữa, cho nên không có tự tánh; 3. Tự tánh không kiên trú (:cố định): do pháp vừa mới sanh, trong một sát-na sau không có cái lực để có thể trú ở, nói cách khác, pháp hiện tại sanh diệt không dừng theo sự lưu chuyển của nhân quả ba đời nên vô tự tánh. Quan điểm của các kinh trong A hàm về các pháp là như vậy, vì thế Nhiếp luận cho đó là pháp chung với tiểu thừa. “Như chấp thủ không có, nên nói vô tự tánh”, đây là luận theo biến kế vô tự tánh: nếu đối với tất cả pháp mà chấp tự tướng, cộng tướng, ngã tướng, pháp tướng đều là theo tên lập nghĩa, y nghĩa lập tên, là giả danh lập bày, chẳng phải là tự tướng hữu. Rời xa cả cái phi tự tướng hữu của tánh biến kế này tức là cái không vô tự tánh của Đại thừa. Đại thừa nói các pháp đều là vô tự tánh, và do vô tự tánh nên các pháp thành tựu, nghĩa là các pháp vô tự tánh nên không có thật sanh, do vô sanh nên cũng không có thật diệt, vô sanh diệt nên các pháp “bản lai tịch tịnh, tự tánh niết bàn”.
34. Chánh văn là phi Phật ngữ, nhưng cần phải dịch như vậy, vì căn cứ Nhiếp luận nói Phật ngôn có 4 ý thú và 4 bí mật, và vì sự dạy bảo về các pháp vô tự tánh của hàng thanh văn là thiếu sót, chưa đúng mật ý của Phật, chứ không phải không đúng.
35. Kinh Thanh tịnh tỳ ni phương quảng: “Tự đoạn tất cả phiền não và kiết sử cho chính mình, là tỳ ni của thanh văn, còn muốn đoạn tất cả phiền não của tất cả chúng sanh, là tỳ ni của Bồ tát.”
36. Người kế đạc (thốn đạc nhân): là người có trí tuệ, có khả năng tư duy, phân biệt, chỉ cho hàng phàm phu và hàng nhị thừa.
37. Trí tuệ chứng đắc: chỉ cho trí tuệ văn tư tu chứng, trí tuệ chứng chân thật nghĩa.
38. Những loại trí khác nhau: là trí tuệ có được do học ở chỗ này một chút, chỗ kia một chút, tham tạp rất nhiều nhưng không có sự khẳng quyết, nhất là không tin Đại thừa, thậm chí phỉ báng Đại thừa, đến nỗi 1 ngàn năm sau mới tin tưởng Đại thừa.
39. Chỉ cho trí tuệ của phàm phu, không thể vượt qua thế tục đế vì còn hư vọng phân biệt 6 trần, không thể tiếp cận đệ nhất nghĩa đế vì không lìa tất cả tướng, không thể lý giải nghĩa lý Đại thừa rộng sâu nên không thể phát sanh đức tin Đại thừa.
40. Như người học Phật pháp, căn cứ trên văn tự giảng giải từng điểm của 5 đức, 12 nhập, 18 giới, 12 duyên khởi, 37 đạo phẩm v.v… nhưng không thể thông suốt toàn bộ Phật pháp.
41. Cái khối lớn không phước: chỉ cho tội hủy báng Đại thừa.
42. Cũng có nghĩa là ba đời chư Phật đều giảng thuyết pháp không.
43. Chân như: là nghĩa vô sai biệt, nghĩa là các pháp do tất cả nhân duyên tạo thành nên có các sắc thái khác nhau, nhưng chỉ có tự tánh không của các pháp không có sai biệt, nên gọi là như. Pháp tánh: là nghĩa bất biến, nghĩa là các pháp do tất cả nhân duyên tạo thành, xét theo thời gian thì các pháp sanh diệt biến hóa trong từng sát-na, nhưng chỉ có tánh không của các pháp mới thường hằng bất biến, nên gọi là pháp tánh. Thật tế: là nghĩa không có hư vọng, nghĩa là trên bình diện đế lý chân thật thì không thủ chấp một mảy bụi trần, tất cả các pháp đều là cứu cách không tịch, chân thật không có hư dối.
44. Chỉ cho văn tuệ.
45. Chỉ cho tư tuệ.
46. Cái trí về chánh pháp (chánh trí), đồng nghĩa với chánh pháp trí: là trí tuệ nhận thức được chánh pháp, là trí tuệ chứng chân như, do tu hành mà được nên thuộc về tu tuệ.
47. Cảnh giới chân thật, tức chân thật nghĩa: là đệ nhất nghĩa đế, là ly ngôn, vô phân biệt, ly tất cả văn nghĩa và tất cả tướng.
48. Pháp quả: Ở kiến đạo vị, Đại thừa thì chứng đắc hoan hỷ địa; tiểu thừa thì chứng đắc quả Tu-đà-hoàn. Ở tu đạo vị, Đại thừa thì chứng đắc nhị địa, tam địa cho đến thập địa; Tiểu thừa thì chứng đắc các quả Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán.
49. Giải thoát trí: Với thanh văn là trí chứng niết bàn, như kinh Xà dụ, Trung bộ có ghi: “Trong sự giải thoát khởi lên sự hiểu biết: “Ta đã giải thoát”. Vị ấy biết: “Sanh đã tận, Phạn hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, không còn trở lui lại đây với một đời sống khác”.” Với Bồ tát là trí huệ biết rõ tất cả cảnh giới của thiền định, tam-muội, mọi cấp dạng của sự giải thoát, là trí tuệ nhận thức về sự giải thoát của người khác hay ấn chứng sự giải thoát cho người khác.
50. Kinh Trung bộ, số 63, Tiểu kinh Màlunkyà, kể trường hợp tôn giả Malunkyaputta thưa hỏi đức Phật 10 câu hỏi cổ điển danh tiếng về những vấn đề siêu hình và xin đức Phật trả lời, nếu Phật không biết thì cứ nói thẳng ra là: “Ta không biết, ta không thấy rõ”. Đức Phật giải thích cho tôn giả Malunkyaputta rằng, đời sống Phạn hạnh không phụ thuộc vào những quan niệm siêu hình: vũ trụ trường tồn hay không trường tồn v.v…, vì dù người ta có quan niệm thế nào về những vấn đề ấy thì vẫn có sanh, già, bịnh, chết, ưu bi, khổ não. Phật chỉ trả lời về khổ, tập, diệt, đạo: “Và này Malunkyaputta, điều gì Ta trả lời? “Đây là khổ”, này Malunkyaputta là điều Ta trả lời. “Đây là khổ tập” là điều Ta trả lời. “Đây là khổ diệt” là điều Ta trả lời. “Đây là con đường đưa đến khổ diệt” là điều Ta trả lời. Và này Malunkyaputta, vì sao điều ấy Ta trả lời? Này Malunkyaputta, vì điều ấy có liên hệ đến mục đích, điều ấy là căn bản Phạn hạnh, điều ấy đưa đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, niết bàn, vì vậy điều ấy Ta trả lời. Do vậy, này Malunkyaputta, hãy thọ trì là không trả lời những điều Ta không trả lời. Hãy thọ trì là trả lời những điều Ta có trả lời.”
51. Chánh văn là: Nhược nhữ ngôn Phật giải diệc bất thâm, như kỳ giải thâm, hà cố thuyết thâm (若汝言佛解亦不深,如其解深,何故說深). Theo học giả Sylvain Lévi, Mahāyāna sūtrālaṃkāra, Exposé de la doctrine du Grand Véhicule, đoạn này được dịch là: Si on s’effraie en se disant: “Un Bouddha même ne comprend pas une question profonde, qu’aurait-il donc de profond à enseigner?”, c’est un tort. (Nếu người ta sợ hãi nghĩ rằng: “Phật còn không hiểu nổi một câu hỏi có chiều sâu, vậy thì Phật có sự uyên thâm gì để dạy bảo?” Đó là một sai lầm.)
52. Giới (界) là tên gọi khác của chủng tử. Kinh Đại thừa A tỳ đạt ma (chưa có Hán dịch), dẫn bởi Nhiếp luận thích, có bài chỉnh cú sau đây: Vô thỉ thời lai giới/ Nhất thiết pháp đẳng y/ Do thử hữu chư thú/ Cập niết bàn đắc chứng. (Giới từ vô thỉ đến nay, là sở y của hết thảy pháp. Do đó mà có sự luân hồi trong mọi đường lành đường dữ và có sự chứng đắc niết bàn.)
53. Pháp vô thượng được thành tựu vì có đức tin Đại thừa, chủng tử Đại thừa và quyến thuộc Đại thừa.
54. Tự tánh tội: còn gọi là tánh giới, hễ phạm vào điều này thì quyết định sa vào đường dữ.
55. Tạng bản là phẩm Thành lập Đại thừa, thứ 2.
56. Đại nghĩa: thành tựu lợi mình và lợi người. Kinh Giải thâm mật: “Thành tựu lợi ích chân thật và vĩ đại (đại nghĩa), được tâm trí xuất thế mà trước đây chưa được, sanh hoan hỷ lớn lao, nên địa đầu tiên tên là Cực hỷ địa.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
57. Lưu nạn: là làm điều gì gây khó khăn cho người, như tà ma đến gây chướng nạn cho sự tu hành. Kinh Đại bát niết bàn: “Thiên ma ở tầng trời Dục giới thứ 6 thường đến chỗ Phật gây chướng nạn”. Ở đây, người không có chủng tánh Đại thừa thì có thể lưu nạn cho Phật pháp.
58. Danh văn: tức danh tiếng. Như bài chỉnh cú trong kinh Pháp hoa, phẩm Ngũ bách đệ tử thọ ký: “Thường phóng ánh sáng lớn/ Đầy đủ các thần thông/ Danh tiếng khắp mười phương/ Được chúng sanh tôn kính/ Thường thuyết đạo Vô thượng/ Nên hiệu là Phổ minh” (Thường phóng đại quang minh/ Cụ túc chư thần thông/ Danh văn biến thập phương/ Nhất thiết chi sở kính/ Thường thuyết Vô thượng đạo/ Cố hiệu vi Phổ minh). Thập trụ tỳ bà sa luận, quyển 17: “Giới là nhân tố của danh văn, như thông suốt các kinh điển, có danh tiếng tốt đẹp” (Thi la thị danh văn nhân, như thông chư kinh, hữu hảo danh xưng).
59. Tức kết quả của thệ nguyện và công hạnh lợi người.
60. Xem phẩm Hành trú thứ 23: “Bồ tát có năm sắc thái: 1. Thương xót; 2. Lời nói từ ái; 3. Mạnh mẽ; 4. Mở bàn tay; 5. Giải thích nghĩa lý.” Trong đó, mạnh mẽ, là không thoái lui, khuất phục trước những khổ hạnh khó làm. Nhiếp luận nói đến 10 việc khó làm của Bồ tát: “Mười việc khó làm, một là tự thệ nguyện: thệ nguyện thụ đắc Vô thượng bồ-đề; hai là không thoái lui: những cái khổ sanh tử không thể làm cho thoái lui; ba là không ruồng bỏ: không ruồng bỏ những kẻ làm theo tà hạnh; bốn là khó trước mắt: kẻ thù mà vẫn làm lợi ích cho họ; năm là không nhuốm bẩn: sống với đời mà không bị việc đời làm hôi tanh; sáu là tin khó hiểu: tuy chưa hiểu Đại thừa mà vẫn tin giáo pháp rộng lớn sâu xa; bảy là thông khó thông: thông suốt nhân vô ngã và pháp vô ngã; tám là hiểu khó hiểu: hiểu được những ngôn từ sâu xa bí mật của đức Như lai tuyên thuyết; chín là không bỏ nhiễm: không bỏ sanh tử mà không nhiễm sanh tử; mười là làm khó làm: tu được sự giải thoát chướng ngại của Phật, cùng tận biên cương của sanh tử mà vận dụng tự nhiên, thường xuyên làm việc nghĩa lợi cho chúng sanh.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
61. Viên giác không có đẳng cấp tu chứng. Đẳng cấp tu chứng chỉ do công phu đang và đã hủy diệt vô minh huyễn ảo mà có. Kinh Viên Giác: “Bản thể viên giác không phải là các chủng tánh, nhưng chủng tánh nào cũng có viên giác, nên tùy các chủng tánh phát khởi mà có sai biệt, chứ thật ra không có thủ chứng gì hết.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
62. Tông kính lục (宗鏡録), quyển 87, có trích dẫn đoạn này (Đại Chánh tạng - tập 48, kinh số 2016, trang 0894a13). Thiện sanh (sự sanh ra trong những điều kiện tốt) đồng nghĩa với sanh thắng (sanh vị thù thắng). Phẩm Phát tâm có nhắc lại: [0596b04] Sanh thắng do bốn nghĩa: 1. Chủng tử thù thắng, là lấy sự tin hiểu pháp Đại thừa làm chủng tử; 2. Sanh mẫu thù thắng, là lấy trí tuệ ba-la-mật làm sanh mẫu; 3. Thai tạng thù thắng, là lấy sự hỷ lạc của đại thiền định làm thai tạng; 4. Nhũ mẫu thù thắng, là lấy sự trưởng dưỡng tâm đại bi làm nhũ mẫu.
63. Bồ Tát ở địa thứ 10, tức Pháp vân địa, là hạ phẩm tịch diệt nhẫn, Bồ tát Đẳng giác là trung phẩm tịch diệt nhẫn, Bồ tát Diệu giác là thượng phẩm tịch diệt nhẫn.
64. Tạp a hàm, kinh Diêm phù xa, số 490: “Nếu thuyết pháp mà điều phục dục tham, điều phục sân nhuế, điều phục ngu si; đó gọi là vị khéo thuyết pháp.” (Thích Đức Thắng dịch)
65. Đây là tác dụng của niệm căn. Phật Bát nê hoàn kinh: “Khi đứng hay ngồi tâm không quên kinh pháp thì chánh pháp được lâu dài.” (Thích Chánh Lạc dịch)
66. Sự an lạc tối thượng là niết bàn, và là niết bàn vô trú của Đại thừa.
67. Huân tập tụ: chỉ cho thức a-lại-da. A-lại-da là tánh y tha. Y tha là tổng thể của tánh biến kế và tánh viên thành của nhiễm pháp và tịnh pháp. Nhiếp luận: “Sanh tử là phần tạp nhiễm nơi y tha, niết bàn là phần thanh tịnh nơi y tha, chỗ dựa của hai phần là y tha. Chuyển y là chính y tha khi nổi lên sự đối trị thì chuyển bỏ phần tạp nhiễm mà chuyển được phần thanh tịnh.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
68. Đại thể, là bản thể vĩ đại (của Đại thừa): chính là cương yếu của Đại thừa hay nghĩa lý thù thắng của Đại thừa. Nghĩa lý thù thắng ấy được Nhiếp luận dẫn kinh Đại thừa A tỳ đạt ma qua 10 tiết mục: “Trong kinh Đại thừa a tì đạt ma, trước đức Thế tôn, các vị Bồ tát đã khéo ngộ nhập Đại thừa, vì biểu thị Đại thừa bản thể vĩ đại (Đại thừa đại thể), nên nói rằng căn cứ vào Đại thừa mà chư vị Thế tôn có 10 ngôn ngữ thù thắng nói về 10 tiết mục thù thắng: một là căn cứ của các pháp sở tri, hai là sắc thái của các pháp sở tri, ba là ngộ nhập các pháp sở tri, bốn là nhân quả của sự ngộ nhập ấy, năm là sự tu tập về nhân quả ấy, sáu là giới tăng thượng trong sự tu tập, bảy là định tăng thượng trong sự tu tập, tám là tuệ tăng thượng trong sự tu tập, chín là đoạn đức của sự tu tập, mười là trí đức của sự tu tập.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
69. Đại nghĩa là 4 đại nghĩa đã và đang nói trong phẩm này.
70. Niết bàn của nhị thừa thì hữu tận vì xả bỏ sanh tử. Niết bàn của Đại thừa thì vô tận, vì không xả bỏ sanh tử, không trú niết bàn. Bồ tát lấy chúng sanh để tu hành vạn thiện, vì chúng sanh vô tận nên thiện căn cũng vô tận. Vì vậy, niết bàn ở đây được hiểu là niết bàn vô trú.
71. Hạnh xuất ly: xuất ly sanh tử, chứng nhập niết bàn. Nói đến hạnh xuất ly thì phải nói đến đạo xuất ly của bậc Thánh, như Thành thật luận nói: “Thánh đạo có khả năng hủy diệt tất cả kiết sử.” Căn cứ theo kinh Đại bảo tích, Pháp hội Bồ tát tạng, phẩm Như lai bất tư nghị tánh, có ghi: “Lại này Xá lợi phất! Đức Như Lai Ứng cúng Đẳng chánh giác thành tựu trí lực vô thượng ở giữa đại chúng tuyên bố rằng Phật nói đạo chân chánh hết khổ của thánh xuất thế đã tu, nếu hữu tình nào tu tập đạo ấy thì quyết định giải thoát.” Đó là 1 chánh thú đạo, 2 chỉ và quán, 3 giải thoát môn, 4 niệm trú, 5 căn, 6 chánh niệm, 7 bồ-đề phần, 8 chánh đạo, 9 pháp căn bản vui thích, 10 nghiệp đạo lành.
72. Sự được thế tục là phát tâm bồ-đề còn trong phạm vi thế tục (thế tục thọ phát tâm), nghĩa là những vị phát tâm bồ-đề mà chưa nhập kiến đạo. Sự được pháp tánh là phát tâm bồ-đề chứng đắc pháp tánh (đắc pháp tánh phát tâm), nghĩa là những vị phát tâm bồ-đề đã nhập kiến đạo. Du già sư địa luận kể 10 thứ phát tâm: phát tâm thế tục thọ, phát tâm đắc pháp tánh, phát tâm không quyết định, phát tâm quyết định, phát tâm chưa thanh tịnh, phát tâm thanh tịnh, phát tâm yếu kém, phát tâm mạnh mẽ, phát tâm chưa thành quả, phát tâm đã thành quả.
73. Thường thường: chánh văn là số số. Trí độ luận, quyển 22: “Phật khất thực tại thành Xá-bà-đề, có người Bà-la-môn tên Bà-la-đỏa-thệ. Phật thường thường đến nhà ấy khất thực, Bà-la-môn nghĩ rằng: Sao Sa-môn này đến hoài, như ta nợ ông ấy? Khi ấy Phật nói kệ: Thường thường mưa đúng thời/ Ngũ cốc thường thường thành/ Thường thường tu phước nghiệp/ Thường thường thọ quả báo/ Vì thường thường thọ sanh/ Nên thường thường thọ tử/ Chánh pháp thường thường thành/ Ai thường thường sanh tử.” (H.T Thích Thiện Siêu dịch)
74. Đa dạng giới: chánh văn là chủng chủng giới. Giới (界) là tên gọi khác của chủng tử, tức chủng tử của thức a-lại-da. Kinh Đại thừa A tỳ đạt ma (chưa có Hán dịch) có bài chỉnh cú, dẫn bởi Nhiếp luận thích: “Giới, từ vô thỉ đến nay, là sở y của hết thảy pháp. Do đó mà có sự luân hồi trong mọi đường lành đường dữ và có sự chứng đắc quả niết bàn.” (Vô thủy thời lai giới/ Nhất thiết pháp đẳng y/ Do thử hữu chư thú/ Cập niết bàn chứng đắc, 無始時來界, 一切法等依, 由此有諸趣, 及涅槃證得)
75. Kinh Đa giới (Bahudhātuka-sūtra) là kinh số 115 của Trung bộ kinh hay kinh số 181 của Trung a hàm. Về giới, kinh Đa giới nói đến: 18 giới: nhãn, sắc, nhãn thức, nhĩ, thanh, nhĩ thức, tỷ, hương, tỷ thức, thiệt, vị, thiệt thức, thân, xúc, thân thức, ý, pháp và ý thức; 6 giới: địa, thủy, phong, hỏa, không và thức; 6 giới: lạc, khổ, hỷ, ưu, xả và vô minh; 6 giới: dục, ly dục, sân, vô sân, hại và bất hại; 3 giới: dục giới, sắc giới và vô sắc giới; 2 giới: hữu vi giới và vô vi giới.
76. Tuệ giác của chư vị thánh giả hết mê mới gọi là bồ-đề. Thánh giả hết mê có thể phân ra 3, nên bồ-đề có 3 loại khác nhau, đó là Thanh văn bồ-đề (bậc thấp), Độc giác bồ-đề (bậc vừa) và Vô thượng bồ-đề (bậc cao).
77. Minh tịnh: thuần khiết và trong suốt, là tâm siêu thoát chướng ngại (phiền não chướng và sở tri chướng), tách rời trạng huống hóa hợp với nhiễm pháp nên được tuệ giác minh tịnh. Kinh Thập trú: “Thâm tâm kính cúng thầy, như thuyết vui tu hành, tri ân cùng báo ân, chuyển hóa không sân hận, không có tâm cong vạy, nhu hòa vui chỉ quán, tu tập pháp như vậy, tinh tiến không thoái chuyển. Bồ tát trú như vậy, thâm tâm và trực tâm, tịnh tâm và tín giải, đều chuyển đắc minh tịnh, tăng trưởng các thiện căn; cấu trược, nghi, hối pháp, như vậy thảy các sự, đều được trừ diệt hết.”
78. Chủng tánh của nhị thừa chỉ có đàn áp phiền não chướng, chưa có đàn áp sở tri chướng, nên chưa nhập chủng tánh Bồ tát.
79. Chỉ cho chủng tánh phàm phu và ngoại đạo.
80. Chánh văn là dư nhân thiện căn (thiện căn của bậc khác với nhân loại), được hiểu là hàng nhị thừa.
81. Kinh Pháp hoa, phẩm Tín giải, thứ 4, tôn giả Tu bồ-đề thưa với Phật: “Bạch đức Thế tôn, chúng con ở vào địa vị đứng đầu chư tăng, tuổi cùng già cả, ai cũng tự cho đã được niết bàn, không kham làm gì được nữa, không thể bước tới mà cầu tuệ giác vô thượng. Trước đây, mỗi khi đức Thế tôn thuyết pháp lâu, thì chúng con lúc ấy cũng ngồi tại chỗ nghe pháp, nhưng cơ thể mệt mỏi, chỉ nghĩ nhớ về không, không sắc tướng và không ưa thích (không, vô tướng và vô nguyện). Còn đối với pháp Bồ tát, như thần thông du hóa mà làm sạch thế giới làm nên chúng sanh, thì chúng con không có ý gì thích thú. Như vậy là vì đức Thế tôn đã làm cho chúng con thoát ba cõi, chứng niết bàn, thêm nữa tuổi chúng con đã già cả, nên đối với tuệ giác vô thượng mà đức Thế tôn dạy cho Bồ tát, chúng con không có một ý niệm ham thích.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
82. Nơi hiện tượng, mỗi một hữu thể cá biệt tự giữ được tự tánh riêng, làm đối tượng cho sự nhận thức biết nó là nó. Nơi bản thễ, thật tướng của hữu thể là không, không có giới hạn, không có phần vị sai biệt.
83. Nhẫn chịu tất cả là nhẫn chịu oán hại, nhẫn chịu khổ cực và nhẫn chịu chân lý. (Kinh Giải thâm mật)
84. Đồ dùng cần thiết bao gồm đồ ăn, đồ mặc, đồ nằm và dược phẩm. Thiếu thốn là do không tu bố thí.
85. Do phải trải qua khoảng thời gian lâu xa tính bằng số kiếp mới đạt đến niết bàn, nên gọi là vô chủng tánh vị, chứ không nói là hoàn toàn không có đạt đến niết bàn.
86. Du già sư địa luận cho rằng hữu tình tu học thánh đạo, có khả năng chứng đắc niết bàn, được y cứ trên chủng tử hay chủng tánh, vì vậy mà có 2 hạng người: 1. Trú chủng tánh bổ đặc già la; 2. Trú vô chủng tánh bổ đặc già la. Bổ đặc già la (pudgala) được dịch là người, chúng sanh, hay sác thủ thú, tức chỉ cho cái chủ thể chuyển sanh trong luân hồi. Hạng trú vô chủng tánh bổ đặc già la do có chủng tánh quyết định, nên không luận người ấy nỗ lực thế nào, vĩnh viễn không thể chứng đắc niết bàn. Hạng trú vô chủng tánh này, trong kinh điển gọi là nhất xiển đề, là hạng không có chủng tánh niết bàn. Hạng nhất xiển đề này không có tín tâm để tin rằng có sự giải thoát nên không hề có ý hướng về sự nhập niết bàn. Nhóm chủng tánh này cũng được chia thành hai loại: 1. Người đoạn thiện căn do không có một chút gốc rễ thiện gì để có thể tin tưởng có giải thoát và niết bàn; 2. Bồ tát do đại bi nên vĩnh viễn không hề có ý hướng niết bàn.
87. Như chuyện vua A-xà-thế và chuyện Ương-quật-ma-la. Hai vị này được xếp là hữu tình vô chủng tánh vị, nhưng kỳ thật là có chủng tánh, khi nhân duyên thành tựu, vẫn có thể chứng đắc niết bàn. Vua A-xà-thế (Ajatasatru), con vua Tần-bà-sa-la (Binsbisara), xứ Ma-kiệt-đà (Magadha), bạn với Đề-bà-đạt-đa (Devadatta). Ông cầm tù cha mẹ, lên ngôi thôn tính các tiểu quốc, dựng nền móng thống nhất Ấn Độ. Vì tội hại cha mà cả mình nổi mụt (ung thư). Nhưng đến Phật sám hối thì lành, nên qui y Ngài. Ông là hộ pháp cho cuộc kiết tập pháp tạng lần thứ nhất. Ương-quật-ma-la (Angulimalaya) theo tà thuyết giết người được niết-bàn. Ông giết được 999 người, cắt mỗi người 1 ngón tay, kết vòng đội trên đầu. Thiếu 1 người mới đủ số phải có là 1000, nên ông đuổi giết mẹ. Phật thương ông mà cứu và thuyết pháp cho. Ương-quật sám hối, xuất gia, đắc quả la-hán liền.
88. Chỉ cho giai đoạn tu tập thắng giải, tức địa vị thập tín.
89. Đây là giai đoạn tu tập thắng nhẫn (chánh văn là cực nhẫn). Nhẫn là nhẫn chịu, chấp nhận, thể nhận. Thắng nhẫn là vô sanh pháp nhẫn, tức là thể hội pháp tánh vô sanh, vượt qua địa vị Thắng giải hành (vô số kiếp thứ nhất, gồm 10 tín, 10 trú, 10 hướng và 4 gia hành) mà nhập vào chánh tánh ly sanh của Bồ tát [vô lậu tuệ (chánh tánh) đoạn trừ phiền não (ly sanh) ở kiến đạo vị của Bồ tát]. Bồ tát tu tập giải và thắng nhẫn bằng 10 pháp hạnh: 1. Sao chép; 2. Hiến cúng; 3. Chuyền cho; 4. Nghe nhận; 5. Dở đọc; 6. Chỉ dạy; 7. Phúng tụng; 8. Giảng nói; 9. Suy nghĩ; 10. Tu tập. Bồ tát được vô sanh pháp nhẫn thì không còn thoái chuyển, vào địa vị bất thoái (A bệ bạt trí: không thoái chuyển).
90. Chỉ cho vô số kiếp thứ 2 và thứ 3, tu hành 10 địa cho đến thành tựu viên mãn Vô thượng bồ-đề.
91. Tự tánh: là chí nguyện mong cầu tuệ giác vô thượng, là quyết định sẽ chứng được tuệ giác vô thượng, là hạnh nguyện muốn làm lợi ích yên vui cho tất cả chúng sanh, là nỗ lực tinh tiến tu tập các pháp bồ-đề phần và 6 ba-la-mật để đạt đến viên mãn.
92. Tánh đức viên mãn tánh: Pháp thân Phật là do công đức tu tập trí đức viên mãn. Pháp thân ấy có vô lượng công đức như 10 lực, 4 vô úy, 18 bất cộng v.v…, là những công đức mà hàng nhị thừa không thể có được. Pháp thân có nghĩa là cái thân có vô số pháp công đức.
93. Cây cát tường: tên khác của cây bồ-đề.
94. Nguyên văn: dũng mãnh đại, cũng đồng nghĩa như đại tinh tiến.
95. Tinh tiến phát thệ nguyện rộng lớn (hoằng thệ tinh tiến): là 1 trong 3 sự tinh tiến của người xuất gia và tại gia: 1. Tinh tiến hoằng thệ; 2. Nhiếp các thiện pháp; 3. Lợi ích chúng sanh. Bồ tát Địa trì kinh, quyển 6, phẩm Bồ tát Địa trì phương tiện xứ nhẫn: “Tinh tiến hoằng thệ là Bồ tát trước tiên phát khởi tinh tiến phương tiện, hoạch định khả năng trang bị áo giáp hoằng thệ, khởi ý niệm rằng: Tôi vì nhân duyên thoát khổ cho một chúng sanh mà lấy trăm ngàn đại kiếp làm một ngày đêm, với số ức trăm ngàn đại kiếp như vậy ở trong địa ngục, cho đến khi thành Phật, thề không thoái chuyển, nếu không được Vô thượng bồ-đề thì trọn không xà bỏ tinh tiến, nói chi chịu một chút khổ sở trong một thời gian ngắn mà xả bỏ tinh tiến.”
96. Tinh tiến thực hành chánh pháp đưa đến sự tín giải chánh pháp, nhờ đó khai mở tuệ giác phương tiện.
97. Đại nghĩa, là nghĩa lợi cho mình và cho người khác.
98. Luận Đại thừa trang nghiêm kinh, quyển 9, phẩm Phạn trú: “Bồ tát trú ở các phạn trú, lấy đó làm nhân nên có được đầy đủ 5 quả: 1. Thọ sanh làm chúng sanh trong cõi Dục, là quả báo quả; 2. Hai khối phước và trí viên mãn, là tăng thượng quả; 3. Thành thục chúng sanh, là trượng phu quả; 4. Tất cả chỗ sanh đều không rời phạm trú, là y quả; 5. Sanh ra nơi nào cũng lìa những chướng ngại cho các phạm trú, là tương ly quả.”
99. Chánh văn là tư (思): chỉ cho dục tâm sở trong 5 tâm sở biệt cảnh và tuệ tâm sở trong 4 hệ thống tâm vương tâm sở của 4 trí.
100. Tín hành địa còn gọi là Giải hành phát tâm, chỉ cho hàng Bồ tát ở giai đoạn Giải hành (bao gồm cả Tư lương vị và Gia hành vị). Giai đoạn Giải hành ở vô số kiếp thứ nhất, gồm 10 tín, 10 trú, 10 hành, 10 hướng và 4 gia hành. Danh hiệu địa vị này có 4: nguyện lạc, tín hành, thắng giải hành và ý lạc. Địa vị này khẳng định về chân như được dạy cho, chứ chưa chứng ngộ chân như ấy. Tín là tin hiểu sâu xa các địa. Hành là tu tập 10 pháp hạnh.
101. Còn gọi là Thanh tịnh ý lạc phát tâm, vì chứng đắc tâm mình người bình đẳng nên không còn tâm sai biệt giữa lợi mình và lợi người. Tịnh là do không còn hai chướng ngại dơ bẩn là năng thủ và sở thủ.
102. Còn gọi là Dị thục phát tâm, vì hiện hành vô tướng thuận với phần thanh tịnh (: chân tánh xuất triền) nên hoạch đắc trí vô phân biệt, có khả năng nhậm vận tu tập 10 độ.
103. Còn gọi là Viên mãn đại bi đoạn chướng phát tâm, vì đã diệt trừ vĩnh viễn phiền não chướng và sở tri chướng cùng cực vi tế, thể hiện chánh biến giác đối với cảnh giới sở tri.
104. Chỗ dựa, nghĩa là ý lạc.
105. Chủng trí, nghĩa là trí vô phân biệt.
106. Là tu tập thêm và hơn lên từ địa này qua địa khác để đạt đến viên mãn.
107. Bồ tát giới, nghĩa là tâm địa giới Bồ tát, bao gồm 30 tâm (10 trú, 10 hạnh, 10 hướng, không kể 10 tín là hạnh vị Bồ tát chuẩn bị), 10 địa và 58 giới của Bồ tát tu tập thọ trì, là căn bản từ đầu đến cuối của Bồ tát vị.
108. Thiện pháp ở đây là 10 ba-la-mật, trong đó, mỗi địa tu mỗi ba-la-mật (nói theo sự tăng thắng) và mỗi địa tu các ba-la-mật (nói theo sự chung thông).
109. Tự tánh phát bồ-đề tâm: chủng tử vô lậu (loại bản hữu) của tất cả tâm vương, tâm sở được phát khởi hiện hành vô lậu ở đời hiện tại.
110. Thiện căn phát bồ-đề tâm: là các thiện căn được thiện hữu giáo hóa và thánh giáo huân tập (ở đời quá khứ) mà phát sanh và phát triển. Các thiện căn ấy tác động và hỗ trợ cho thiện tuệ thành vô lậu tuệ, vô lậu tuệ thành Vô thượng bồ-đề.
111. Như khi xưa, đức Thế tôn khai thị pháp Đại thừa, chư thiên và nhân loại nghe pháp ấy xong thì phát khởi bồ-đề tâm.
112. Kinh Giải thâm mật: “Thiện nam tử, thành tựu lợi ích chân thật và vĩ đại, được tâm trí xuất thế mà trước đây chưa được, sanh hoan hỷ lớn lao, nên địa đầu tiên tên là Cực hỷ địa (Hoan hỷ địa).” (H.T Thích Trí Quang dịch)
113. Mười đại nguyện theo kinh Thập địa: 1. Nguyện cúng dường Phật: “Bằng tất cả mọi vật dụng cúng dường, cung kính cúng dường hết thảy chư Phật.”; 2. Nguyện thọ trì chánh pháp: “Nguyện tiếp thọ Pháp luân của hết thảy chư Phật; nguyện nhiếp thọ bồ-đề của hết thảy chư Phật; nguyện thủ hộ giáo của hết thảy chư Phật; nguyện duy trì pháp của hết thảy chư Phật.”; 3. Nguyện nhiếp pháp thượng thủ: “Nguyện trong tất cả thế gian, nơi nào có Phật xuất hiện, từ Đâu suất thác sanh, nhập thai, trụ thai, sơ sanh, xuất gia, thành đạo, thuyết pháp, thị hiện niết bàn, tôi thảy đều đi đến nơi đó, thân cận cúng dường, làm bậc thượng thủ trong đại chúng, thọ hành Chánh pháp, vận chuyển khắp trong mọi thời, khắp trong mọi xứ.” ; 4. Tăng trưởng chúng sanh tâm hành: “Nguyện rằng, tất cả Bồ tát hạnh, quảng đại, vô lượng, không hoại, không tạp, nhiếp các ba-la-mật, tịnh trị các địa, tổng tướng, biệt tướng, dị tướng, thành tướng, hoại tướng, tất cả Bồ tát hạnh ấy, tôi đều giảng thuyết như thật, giáo hóa tất cả khiến cho tiếp thọ và hành trì, tâm được tăng trưởng.”; 5. Giáo hóa chúng sanh: “Nguyện rằng, tất cả chúng sanh giới, sắc hay vô sắc, tưởng hay vô tưởng, phi hữu tưởng phi vô tưởng, loài sanh bằng trứng, bằng thai, bằng ẩm thấp, bằng biến hoá, hệ thuộc ba cõi, ở trong sáu thú, tất cả sanh xứ, được thâu nhiếp trong danh và sắc, các chủng loại như vậy, vân vân, tôi đều giáo hoá đưa vào Phật pháp, để vĩnh viễn đoạn trừ tất cả cõi thú của thế gian cho được an trụ trong Nhất thiết trí đạo.”; 6. Nguyện biết rõ thế giới: “Nguyện rằng, hết thảy thế giới, quảng đại, vô lượng, thô hay tế, loạn trụ, hay đảo trụ, hay chánh trụ, hoặc đến, hoặc đi, sai biệt như màng lưới đế thanh minh châu, mười phương vô lượng, đủ loại bất đồng, tôi được thấy rõ bằng trí, hiện tiền thấy biết.”; 7. Nguyện tịnh Phật quốc độ: “Nguyện rằng, hết thảy quốc độ, nhập vào một quốc độ, một quốc độ nhập vào hết thảy quốc độ, vô lượng cõi Phật, tất cả tôi đều làm cho thanh tịnh, làm rực sáng bằng các vật dụng để trang nghiêm, xa lìa hết thảy ô nhiễm, thành tựu đạo thanh tịnh, vô lượng chúng sanh có trí tuệ sung mãn ở trong đó, tất cả đều vào cảnh giới bao la của chư Phật, tùy theo tâm chúng sanh mà thị hiện, khiến cho hết thảy đều hoan hỷ.”; 8. Nguyện đồng tâm hành: “Nguyện rằng, cùng với tất cả Bồ tát đồng một chí hướng và hành động, không thù oán, không ganh tị, tích tụ các thiện căn, với tất cả Bồ tát, cùng một duyên bình đẳng, thường cùng hôi họp không rời bỏ nhau, tùy ý có thể hóa hiện đủ các Phật thân, tùy tâm có thể biết cảnh giới uy lực, trí của hết thảy Như lai, được bất thối như ý thần thông, du hành tất cả thế gian, hiện hình trong tất cả chúng hội, vào khắp tất cả chỗ thọ sanh, thành tựu bất tư nghị Đại thừa, tu Bồ tát hạnh.”; 9. Nguyện ba nghiệp không cùng tận: “Nguyện nương theo bánh xe không thối lui, thực hành Bồ tát hạnh, các hành vi của thân, ngữ và ý đều không là những hành vi suông. Nếu chúng sanh nào chợt gặp tôi, mong cho quyết định Phật pháp, bất chợt nghe tiếng nói của tôi, liền được trí tuệ như thật, tịnh tín vừa sanh, tức thì vĩnh viễn đoạn trừ phiền não, được thân hình như gốc cây đại dược vương, được thân hình như như ý bảo, tu hành tất cả Bồ tát hạnh.”; 10. Nguyện thành bồ-đề: “Nguyện, ở trong tất cả thế gian mà thành tựu giác ngộ tối thượng, không rời khỏi khoảng bằng đầu ngọn lông xíu mà thị hiện khắp tất cả mọi nơi, dù nhỏ bằng đầu lông xíu, sơ sanh, xuất gia, bước đến đạo tràng, thành chánh giác, chuyển Pháp luân, nhập Niết bàn, chứng đắc cảnh giới Phật, năng lực đại trí tuệ, ở trong mỗi một niệm, tùy tâm của tất cả chúng sanh mà thị hiện thành Phật, khiến cho được tịch diệt, bằng một niệm chánh giác mà biết tất cả pháp giới tức Niết bàn tướng; bằng một âm thanh mà thuyết pháp khiến hết thảy chúng sanh đều sanh tâm hoan hỷ, thị hiện nhập đại Niết bàn mà không đoạn tuyệt Bồ tát hạnh; chỉ bày mặt đất đại trí tuệ; đặt vững tất cả pháp; bằng pháp trí thông, thần túc thông, huyễn thông, tự tại biến hóa sung mãn tất cả pháp giới.” (Thắng Man giảng luận - Tuệ Sỹ dịch)
114. Xem trong sách này, quyển 8, phẩm Độ nhiếp, phần 2, về 5 tinh tiến, đó là: tinh tiến hoằng thệ, tinh tiến hiện khởi, tinh tiến dũng mãnh, tinh tiến kiên cố và tinh tiến không bỏ Phật đạo.
115. Phân biệt tri là tác ý và phân biệt đối với mọi hiện tượng hiện tiền và hiện tượng xác lập. Hiện tượng hiện tiền là thế giới mình đang tiếp xúc. HIện tượng xác lập là ảnh tượng trong định. Pháp được kiến lập là hiện tượng hiện tiền và hiện tượng xác lập ấy. Đối với pháp được kiến lập mà không phân biệt thì được trí vô phân biệt. Bồ tát khi bước vào các địa là đã được kiến đạo vị. Bồ tát ở mỗi địa có pháp được kiến lập khác nhau, đó là giáo pháp 10 địa, được chia làm 5 giai đoạn là: giải hành, thanh tịnh ý lạc, hữu tướng hành, vô tướng hành và vô công dụng hành. Tùy theo sự phân biệt tri ở từng địa, chư vị Bồ tát có sự tu tập thích ứng khác nhau, nhưng đích đến vẫn là hiện hành cái vô tướng thuận với phần thanh tịnh, không còn sự phân biệt.
116. Sự phát tâm ban đầu (tối sơ phát tâm) là sự phát tâm cầu Vô thượng bồ-đề bằng dục tâm sở, và chính sự thôi thúc đó là chỗ y cứ cho tất cả thiện pháp.
117. Sự phát tâm ý lạc tương ưng (y tương ưng phát tâm) là ý lạc tương ưng bồ-đề, là tâm không biến đổi cho đến thành tựu bồ-đề.
118. Sự phát tâm tinh cần tương ưng (cần tương ưng phát tâm) là tăng thượng ý lạc tương ưng bồ-đề, là khả năng tăng trưởng 4 niệm trú v.v…, tất cả thiện pháp.
119. Sự phát tâm cực y tương ưng (cực y tương ưng phát tâm) là cùng tu 3 trí, tùy thuận gia hành tương ưng bồ-đề, có khả năng đốt cháy chướng ngại của 3 trí: bình đẳng tánh trí (thức thứ 7), diệu quán sát trí (thức thứ 6) và thành sở tác trí (5 thức trước).
120. Sự phát tâm bố thí ba-la-mật tương ưng (thí ba-la-mật tương ưng phát tâm) là bố thí tương ưng bồ-đề, là khả năng mãn túc tâm nguyện của chúng sanh.
121. Sự phát tâm trì giới ba-la-mật tương ưng (giới ba-la-mật tương ưng phát tâm) là trì giới tương ưng bồ-đề, là nguồn phát sanh tất cả công đức.
122. Sự phát tâm nhẫn nhục ba-la-mật tương ưng (nhẫn ba-la-mật tương ưng phát tâm) là an nhẫn tương ưng bồ-đề, là tuy gặp nghịch duyên nhưng tâm không bị rối loạn.
123. Sự phát tâm tinh tiến ba-la-mật tương ưng (tiến ba-la-mật tương ưng phát tâm) là tinh tiến tương ưng bồ-đề, là người khác không thể phá hoại.
124. Sự phát tâm thiền định ba-la-mật tương ưng (thiền ba-la-mật tương ưng phát tâm) là tĩnh lự tương ưng bồ-đề, là ở nơi ồn náo mà tâm vẫn không dao động.
125. Sự phát tâm trí tuệ ba-la-mật tương ưng (tuệ ba-la-mật tương ưng phát tâm) là Bát-nhã tương ưng bồ-đề, có khả năng diệt trừ bịnh nặng 2 chướng là phiền não chướng và sở tri chướng.
126. Sự phát tâm vô lượng tương ưng (vô lượng tương ưng phát tâm) là phương tiện tương ưng bồ-đề, là không xả bỏ việc lợi người.
127. Sự phát tâm thần thông tương ưng (thần thông tương ưng phát tâm) là đại nguyện tương ưng bồ-đề, là hoàn thành tâm nguyện.
128. Sự phát tâm bốn pháp nhiếp tương ưng (nhiếp tương ưng phát tâm) là lực tương ưng bồ-đề, là khả năng thành thục chúng sanh được hóa độ.
129. Sự phát tâm bốn vô ngại biện tương ưng (biện tương ưng phát tâm) là diệu trí tương ưng bồ-đề, là dùng ái ngữ mà điều phục giáo hóa.
130. Sự phát tâm tư lượng tương ưng (lượng tương ưng phát tâm) là thần thông tương ưng bồ-đề, là thế lực vô ngại, tức 6 thần thông. Tư lượng là biết rõ ngôn âm, tâm hành, quá khứ và vị lai (chưa kể phi hành và ra khỏi phiền não).
131. Sự phát tâm khối phước đức và trí tuệ tương ưng (tụ tương ưng phát tâm) là hai tư lương phước trí tương ưng bồ-đề, là cụ túc vô lượng tư lương phước đức và trí tuệ.
132. Sự phát tâm bảy giác phần tương ưng (giác phần tương ưng phát tâm) là 37 pháp bồ-đề phần tương ưng bồ-đề, là ba đời chư Phật đều đi trên con đường này.
133. Sự phát tâm chỉ quán tương ưng (chỉ quán tương ưng phát tâm) là tu từ bi và tu chỉ quán tương ưng bồ-đề, là không bỏ sanh tử, không trú niết bàn.
134. Sự phát tâm tổng trì tương ưng (tổng trì tương ưng phát tâm) là tổng trì biện tài tương ưng bồ-đề, là khả năng nắm giữ giáo pháp đã nghe và chưa được nghe.
135. Sự phát tâm bốn pháp ấn tương ưng (pháp ấn tương ưng phát tâm) là bốn pháp ôn đà nam tương ưng bồ-đề, là diệu âm khuyến phát, tán trợ chúng sanh tu giải thoát sanh tử. Pháp ôn đà nam, là lược tập của giáo pháp. Có bốn lược tập của pháp: các hành vô thường, hữu lậu đều khổ, các pháp vô ngã, niết bàn tịch tĩnh.
136. Sự phát tâm tự tánh tương ưng (tự tánh tương ưng phát tâm) là duy nhất cộng đạo tương ưng bồ-đề, là nhiêu ích chúng sanh v.v… không có khác biệt.
137. Sự phát tâm phương tiện tương ưng (phương tiện tương ưng phát tâm) là pháp thân tương ưng bồ-đề, là khả năng thị hiện Đâu suất đà thiên, thành đẳng giác, nhập niết bàn v.v…, chúng sanh ai chưa thành thục thì làm cho thành thục, ai thành thục rồi thì làm cho giải thoát.
138. Trong 22 thí dụ, phát tâm thứ 1 đến 3, nhiếp vào sự phát tâm của Bồ tát bậc thấp, bậc vừa và bậc cao ở Tư lương vị. Phát tâm thứ 4 nhiếp vào sự phát tâm của Bồ tát ở Gia hành vị. Mười phát tâm tiếp theo (từ 5 đến 14) nhiếp vào sự phát tâm của các Bồ tát từ địa thứ 1 đến địa thứ 7. Năm phát tâm kế tiếp (từ 15 đến 19) nhiếp vào 3 thanh tịnh địa, tức địa thứ 8, địa thứ 9 và địa thứ 10. Ba phát tâm sau cùng nhiếp vào Phật địa. Trong Hiện quán trang nghiêm luận (現觀莊嚴論), quyển 1, phẩm Nhất thiết tướng trí, thứ 2, có kệ tụng về 22 thí dụ phát bồ-đề tâm tương tự. Phần chú giải ở trên là dựa Hiện quán trang nghiêm luận lược thích (現觀莊嚴論略釋) của pháp sư Pháp tôn (法尊).
139. Thánh giả vô tận tuệ kinh (聖者無盡慧經, Akṣayamati-nirdeśa-sūtra): gọi tắt là Vô tận tuệ kinh, tức phẩm Vô tận ý Bồ tát, thứ 12, của Đại phương đẳng Đại tập kinh, quyển thứ 27~30 (ĐTK No.397). Kinh ấy nói đến 41 sắc thái phát bồ-đề tâm: “Vô Tận Ý Bồ tát nói: Thưa tôn giả (Xá lợi phất)! Lúc sơ phát tâm Vô thượng bồ-đề đã chẳng thể tận được. Tại sao, (1) phát bồ-đề tâm vì chẳng lìa phiền não vậy, (2) phát tâm tương tục vì chẳng mong thừa khác vậy, (3) phát tâm kiên cố vì chẳng xen ngoại luận vậy, (4) phát tâm chẳng hư hoại vì ma chẳng trở ngại vậy, (5) phát tâm hằng thuận vì thiện căn tăng trưởng vậy, (6) phát tâm đến thường trú vì pháp hữu vi vô thường vậy, (7) phát tâm chẳng động chuyển vì chư Phật an ủi hộ trợ vậy, (8) phát tâm thắng diệu vì lìa suy tổn vậy, (9) phát tâm ở yên vì chẳng hí luận vậy, (10) phát tâm không ví dụ vì không có tương tự vậy, (11) phát tâm kim cương vì phá các pháp vậy, (12) phát tâm vô tận vì vô lượng công đức đều thành tựu vậy, (13) phát tâm bình đẳng vì lợi ích chúng sanh vậy, (14) phát tâm khắp che vì không có biệt dị vậy, (15) phát tâm tươi sáng vì tánh thường thanh tịnh vậy, (16) phát tâm vô cấu vì trí huệ sáng tỏ vậy, (17) phát tâm thiện giải vì chẳng lìa cứu cánh vậy, (18) phát tâm rộng sướng vì từ tâm như hư không vậy, (19) phát tâm lớn trống vì dung thọ tất cả chúng sanh vậy, (20) phát tâm vô ngại vì trí huệ thông đạt vậy, (21) phát tâm đến khắp nơi vì đại bi chẳng dứt vậy, (22) phát tâm chẳng đoạn dứt vì khéo hiểu lập nguyện vậy, (23) phát tâm làm chỗ về vì được chư Phật khen vậy, (24) phát tâm thù thắng vì nhị thừa tôn ngưỡng vậy, (25) phát tâm thâm viễn vì tất cả chúng sanh chẳng biết được vậy, (26) phát tâm chẳng bại vì chẳng phá Phật pháp vậy, (27) phát tâm an ổn vì khéo cho chúng sanh những khoái lạc vậy, (28) phát tâm trang nghiêm vì tất cả công đức đều thành tựu vậy, (29) phát tâm khéo quán sát vì trí huệ thành tựu vậy, (30) phát tâm tăng trưởng vì tuỳ ý ban cho vậy, (31) phát tâm như nguyện vì giới thanh tịnh vậy, (32) phát tâm bồ-đề đến khắp mọi loài vì với kẻ oán người thân có đủ nhẫn nhục vậy, (33) phát tâm khó hư hoại vì có đủ tinh tiến vậy, (34) phát tâm tịch diệt vì đủ thiền định vậy, (35) phát tâm không bị huỷ báng vì đủ trí huệ vậy, (36) phát tâm vô nguyện vì tăng trưởng đại từ vậy, (37) phát tâm bồ-đề an trụ thiện căn vững chắc vì tăng trưởng đại bi vậy, (38) phát tâm hoà duyệt vì tăng trưởng đại hỉ vậy, (39) phát tâm bất động vì tăng trưởng đại xả vậy, (40) phát tâm kham nhiệm gánh nặng vì được chư Phật dạy trao vậy, (41) phát tâm chẳng tuyệt vì Tam bảo chẳng dứt đoạn vậy.” (H.T Thích Trí Tịnh dịch, Kinh Đại bảo tích, Pháp hội Vô tận ý Bồ tát, thứ 61)
140. Phương tiện khéo léo là phương tiện do đại bi làm động cơ và đại trí dẫn đạo.
141. Kinh Viên giác dạy: “Thiện nam tử, biết là huyễn ảo thì thoát bỏ huyễn ảo, không làm phương tiện gì khác; huyễn ảo thoát bỏ thì viên giác trong sáng, không có thứ tự nào cả. Các vị Bồ tát, và những người sau này, y theo sự chỉ dẫn trên đây mà tu hành mới vĩnh viễn thoát bỏ huyễn ảo.” (H.T Thích Trí Quang dịch). Phiền não như hoa đốm có trong không gian. Hoa đốm hủy diệt mà không gian không hủy diệt. Phiền não huyễn ảo hủy diệt mà viên giác bất động, không phải mất hết, nên không gì phải sợ hãi. Thành tựu cái biết huyễn ảo là thành tựu cái biết đốn ngộ, không phải sự suy biết bình thường.
142. Tác ý chỗ thọ sanh là tùy ý muốn mà thọ sanh. Hàng nhị thừa chỉ nhập niết bàn mà không có năng lực này.
143. Đây chính là đạo lý “đồng thể đại bi, vô duyên đại từ”.
144. Kinh Phật vì trưởng giả Thủ ca mà nói Nghiệp báo sai biệt (Phật vị Thủ ca trưởng giả thuyết nghiệp báo sai biệt kinh -佛為首迦長者說業報差別經, Đại Chánh tạng, quyển 1, kinh số 80 [0891b04]): “Có 10 nghiệp làm cho chúng sanh được quả báo đoan chánh: 1. Không sân; 2. Bố thí y phục; 3. Thương yêu cha mẹ; 4. Tôn trọng hiền thánh; 5. Sơn phết tháp Phật; 6. Quét dọn điện đường; 7. Rưới quét già lam; 8. Rưới quét tháp Phật; 9. Thấy người thô xấu không sanh tâm khinh khi, khởi tâm cung kính; 10. Thấy người đoan chánh biết rõ do nhân đời trước cảm nên.” Bồ tát là một chúng sanh đoan chánh bậc nhất, nghĩa là thương yêu chúng sanh như thương yêu cha mẹ, tôn trọng chúng sanh như tôn trọng hiền thánh.
145. Sự phát tâm duyên theo thế tục và sự phát tâm duyên theo đệ nhất nghĩa đã nói ở phẩm Phát tâm.
146. Chỉ cho Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát.
147. Tức là sự dạy bảo chỉ và quán. Sự dạy bảo nào không đưa tới tâm trú thì không dạy bảo.
148. Bồ tát tùy thuận các Bồ tát nhập sơ địa (sanh vào nhà), cho đến các Bồ tát ở các địa sau (thọ ký, thọ chức, được Như lai trí)
149. Bồ tát lấy không đảo để thành tựu khéo nói; lấy không cao để thành tựu khiến quy hướng; lấy không vướng mắc để thành tựu khiến đi vào; lấy thông đạt để thành tựu khiến điều phục; lấy năng nhẫn để thành tựu khiến thành thục; lấy điều thuận để thành tựu khiến tâm trú, khiến giác ngộ, khiến giải thoát và tập đức; lấy đi xa để thành tựu sanh vào nhà, thọ ký, thọ chức và được Như lai trí.
150. Hành khổ: khổ sở vì sự biến động của pháp hữu vi.
151. Chỉ cho hàng nhị thừa.
152. Đó là hạnh tu chế phục 6 căn. Như Phát bồ-đề tâm kinh luận (發菩提心經論 - Đại Chánh tạng, quyển 32, kinh số 1659), phẩm Phát tâm, thứ 2 [0510c12] có ghi: “Phật tử, người cầu bồ-đề thì không được phóng dật, vì (ba nghiệp) phóng dật sẽ làm hư hoại thiện căn. Nếu Bồ tát chế phục sáu căn không cho phóng dật thì người đó tu tập được sáu ba-la-mật.”
153. Uy nghi: là 4 uy nghi đi, đứng, ngồi, nằm; nói rộng là 3 ngàn uy nghi, 8 muôn tế hạnh.
154. Như 10 hạnh nghiệp của Bồ tát đồng chân trú (trong 10 trú): “Thân hạnh không lỗi, ngữ hạnh không lỗi, ý hạnh không lỗi, tùy ý thọ sanh, biết các thứ dục của chúng sanh, biết các thứ tri giải của chúng sanh, biết các thứ cảnh giới chúng sanh, biết các thứ nghiệp của chúng sanh, biết thế giới thành hoại, thần túc tự tại vô ngại.”
155. Hạnh thanh tịnh kinh (行淸淨經): Chỉ cho phẩm Tịnh hạnh, kinh Hoa nghiêm. Thí dụ như, sắp ngủ thì chấp tay, xoay mặt hướng tây, quán tưởng và niệm Phật hoặc 10 tiếng, hoặc trăm tiếng, hoặc ngàn tiếng, hoặc vạn tiếng, rồi tụng bài kệ: Dĩ thời tẩm tức, đương nguyện chúng sanh, thân đắc an ổn, tâm vô loạn động. (Ngủ nghỉ theo giờ, nên nguyện chúng sanh, thân được yên ổn, tâm không loạn động.) Đó là cách Bồ tát vận dụng tâm trí để thu hoạch tất cả công đức thắng diệu, vận dụng bằng cách tu 4 niệm xứ và phóng đại tâm nguyện.
156. Kinh Đại Bát-nhã, phần 2, phẩm Siêu xuất, thứ 20. Giải thích phẩm ấy là luận Đại trí độ, quyển 51, Giải thích phẩm Thắng xuất, thứ 22. Kinh ghi: “Tu bồ-đề! Nếu sắc sẽ thật có tướng không hư vọng, không lẽ khác, không điên đảo, có thường, không biến hoại, chẳng phải không có pháp, thời Đại thừa ấy không thể vượt trên hết thảy thế gian, trời, người, a tu la. Tu bồ-đề! Song vì sắc hư vọng, do ức tưởng phân biệt, hòa hợp mà có tên gọi, hết thảy đều tướng vô thường, phá hoại, không có pháp, vì vậy nên Đại thừa ấy vượt trên hết thảy thế gian, trời, người, a tu la; thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy.” (H.T Thích Thiện Siêu dịch)
157. Đệ nhất nghĩa, tức chân thật nghĩa: chỉ cho pháp tánh, tức Tâm hay chân như.
158. Vô nhị, hay bất nhị: Nghĩa đen là không hai. Hai là chỉ cho khái niệm đối hiện và đối lập lẫn nhau. Khái niệm như vậy là hiện thân của sự thác loạn. Vô nhị là tự siêu việt lấy nó, là pháp tánh phi hữu vi, phi vô vi.
159. Thành duy thức luận: Viên thành thật nơi đó (y tha), Thường xa lìa biến kế. Nên nó và y tha, Chẳng khác, chẳng không khác, Như tánh vô thường thảy (không khác, chẳng không khác với các pháp vô thường), Thấy đây, mới thấy kia [thấy tánh Viên thành này mới thấy tánh Duyên khởi kia (tánh y tha).]
160. Pháp giới là biệt danh của chân như. Pháp giới an trú: chân như là thật thể bất biến.
161. Kinh Giải thâm mật: “Thắng nghĩa vô tánh do pháp vô ngã hiển lộ thì, luôn luôn và vĩnh viễn, pháp tánh các pháp là an trú, vô vi, không thích ứng với tất cả tạp nhiễm: luôn luôn và vĩnh viễn, pháp tánh các pháp là an trú nên vô vi, là vô vi nên không sanh diệt, là không thích ứng với tất cả tạp nhiễm nên bản lai vắng bặt, tự tánh niết bàn.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
162. Tạng dịch (tức bản Hán dịch từ bản Tây Tạng - không rõ người dịch: 我見自身無我相,非惡處異性相故,除二别無錯亂生,故解脱唯盡錯亂。Ngã kiến tự thân vô ngã tướng, phi ác (thủ: 取) xứ, dị tánh tướng cố, trừ nhị biệt vô thác loạn sanh, cố giải thoát duy tận thác loạn. [Tự thân ngã kiến không có ý tưởng về ngã, vì chẳng phải ác thủ xứ (tham dục tùy miên, sân hận tùy miên và vô minh ngu si tùy miên), dị tánh tướng (ngũ uẩn); trừ diệt hai phân biệt (hai chấp thủ: năng thủ và sở thủ, tức ngã kiến và năm uẩn) thì không có sanh khởi thác loạn, vì vậy giải thoát chỉ là hết thác loạn.]
163. Ngã kiến phi kiến ngã.
164. Không tưởng phi vô duyên.
165. Năm thọ ấm: sắc thọ ấm, thọ thọ ấm, tưởng thọ ấm, hành thọ ấm và thức thọ ấm. Năm thọ ấm là pháp sanh diệt, biến dịch, bất lạc, sanh khởi phân biệt và hữu lậu. Tạp a hàm, kinh 55, Ấm: “Một thời, Phật ở trong vườn Lộc dã, Tiên nhân đọa xứ, nước Ba la nại. Bấy giờ, Thế tôn bảo các tỳ kheo: “Nay, Ta sẽ nói về ấm và thọ ấm. Thế nào là ấm? Những gì là sắc, hoặc quá khứ, hoặc hiện tại, hoặc vị lai; hoặc trong, hoặc ngoài; hoặc thô, hoặc tế; hoặc tốt, hoặc xấu; hoặc xa, hoặc gần; tất cả chúng được gọi chung là sắc ấm. Tùy theo những gì là thọ, tưởng, hành, thức; tất cả được gọi chung là thọ, tưởng, hành, thức ấm. Đó gọi là ấm. Thế nào là thọ ấm? Nếu sắc là hữu lậu, chấp thủ, thì sắc kia hoặc quá khứ, hoặc hiện tại, hoặc vị lai, phát sanh ra tham dục, sân nhuế, ngu si và các thứ tâm pháp tùy phiền não khác. Thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Đó gọi là thọ ấm.” (Thích Đức Thắng dịch)
166. Chánh văn là hữu kiến, nghĩa là thấy có. Tăng nhất a hàm, mục Hai pháp, phẩm Hữu vô, kinh số 2, định nghĩa: “Thế nào là hữu kiến? Thấy dục có thật; thấy sắc có thật; thấy vô sắc có thật. Thế nào là thấy dục có thật? Đó là năm dục. Năm dục là những gì? Sắc được thấy bởi mắt, rất khả ái, rất khả niệm mà người đời tôn thờ chưa từng lìa bỏ. Thanh được nghe bởi tai, hương được ngữi bởi mũi, vị được nếm bởi lưỡi, mượt láng được xúc chạm bởi thân, pháp được nhận biết bởi ý. Đó là hữu kiến.” (Thích Đức Thắng dịch)
167. Tập đại tụ (dồn chứa khối lớn): còn gọi là Tư lương vị.
168. Tánh loại và nghĩa lý của các pháp: Kinh Giải thâm mật dạy sự tu tập chỉ quán dựa vào pháp, trong đó có pháp riêng biệt (tự tướng), pháp tổng quát (tổng tướng); trong pháp tổng quát còn có nhỏ, có lớn và có vô lượng. Ngoài ra, sự biết về nghĩa lý của các pháp được trình bày qua 10 sự, 5 sự, 4 sự, 3 sự. Mười sự là: biết tánh tận hữu, biết tánh như hữu, biết nghĩa năng thủ, biết nghĩa sở thủ, biết nghĩa dựng nên, biết nghĩa hưởng dụng, biết nghĩa đảo ngược, biết nghĩa không ngược, biết nghĩa tạp nhiễm và biết nghĩa thanh tịnh. Năm sự là: sự biến tri, nghĩa biến tri, nhân biến tri, quả biến tri và biết sự ấy. Bốn sự là: chấp thọ, lãnh nạp, liễu biệt và nhiễm tịnh. Ba sự là: văn, nghĩa và giới. Hiểu rộng thì xin xem kinh Giải thâm mật.
169. Tư duy ở đây được hiểu là tư duy tu, nghĩa là chuyên chú, chánh định.
170. Ý ngôn: Một tên khác của ý thức. Ý thức hay phân biệt danh ngôn nên gọi là ý ngôn. Bồ tát tu tập hiện quán có năng lực tác ý đúng lý nên thông suốt ấn tượng của tâm, tức ấn tượng tương tự về danh, nghĩa, tự tánh và sai biệt của các pháp, chỉ là ý thức, giả thiết và không thật, vì vậy tất cả pháp là chẳng phải pháp, chẳng phải nghĩa, chẳng phải năng thủ, chẳng phải sở thủ, hiện chứng tất cả pháp toàn là duy thức.
171. Xem trong sách này ở quyển 7, phẩm Giáo Thọ: “Ở đây, Bồ tát thấy các nghĩa đều là tâm quang, chẳng phải ngoài tâm quang có cái thấy khác, bấy giờ Bồ tát diệt được sự tán loạn của sở chấp. Đây là cái thấy của Bồ tát ở nhẫn vị.”
172. Hiện thấy pháp tánh (Hiện kiến pháp giới): Chỉ cho Bồ tát nhập vào cái định không cách hở (vô gián định) để phát sanh trí vô lậu, chuẩn bị nhập kiến đạo, và Bồ tát ấy được gọi là Bồ tát an trú thế gian đệ nhất pháp vị. Nhiếp luận: “Vị Bồ tát như vậy ngộ nhập cái ấn tượng tuồng như thật có của ý thức nên ngộ nhập biến kế, ngộ nhập duy thức nên ngộ nhập y tha, còn viên thành thì ngộ nhập thế nào? Nếu đã loại bỏ cái ý tưởng duy thức vốn thuộc chủng loại đa văn huân tập của ý thức, thì bấy giờ Bồ tát đã loại bỏ ấn tượng thật có, mọi ấn tượng tuồng như thật có không thể phát sanh, nên cái ý tưởng duy thức cũng không sanh được. Vì lý do ấy mà đứng ở chỗ mọi nghĩa (của các pháp) đều không có danh riêng (= danh ngôn), sống thích ứng với sự hiện thấy pháp tánh. Bấy giờ là Bồ tát đã phát sanh cái trí bình đẳng, không phân biệt năng tri sở tri, do đó mà vị Bồ tát này được gọi là ngộ nhập viên thành.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
173. Hai tướng (nhị tướng): Thông thường nhị tướng là có, không, sạch, dơ v.v… Chính xác, nhị tướng là khái niệm (tướng) mà thực chất là phân biệt đối chiếu (nhị). Thí dụ như đây là cái bàn, thì cùng lúc đã có nghĩa tất cả cái khác không là cái bàn, đó là nhị tướng. Như vậy, nhị tướng là khái niệm phân biệt đối chiếu.
174. Kiến đạo: Là Bồ tát chứng nhập địa đầu tiên, tức Cực hỷ địa hay Hoan hỷ địa.
175. Ngoài tâm không có vật sở thủ là nói “đương thể tức không”, cũng là ý “vô nhất vật” trong bài kệ ngộ giải của Lục tổ Huệ Năng.
176. Tự tánh của pháp giới: pháp tánh bất nhị.
177. Trí đệ nhất nghĩa: Là trí có được từ kim cương tâm hay kim cương dụ định, nghĩa là Bồ tát ở mười địa, bằng tâm kiên cố của kim cương định, đoạn trừ tất cả vô minh vi tế để thành chánh giác.
178. Chuyển y, tức là đại niết bàn.
179. A-già-đà (agada) là tên một thứ thuốc phòng ngừa và trị mọi thứ bịnh, mọi thứ độc, dịch là phổ khứ, vô giá, vô bịnh, bất tử dược. Kinh Niết Bàn có nói: “Bồ tát nguyện cho chúng sanh được món thuốc a-già-đà, nhờ sức thuốc ấy họ trừ được tất cả vô số thứ độc hại”.
180. Định thêm sáng: Tức Kim cương dụ định. Chánh văn là “thử minh nhập đệ nhất nghĩa trí cố”.
181. Phân biệt: hư vọng phân biệt, trong đó có 3 loại phân biệt: danh ngôn phân biệt, tự tánh phân biệt và sai biệt phân biệt.
182. Trí cảnh, nghĩa là trí và cảnh: Trí là tâm năng quán. Cảnh là pháp sở quán. Các pháp được phản chiếu bởi trí cho nên được gọi là trí cảnh.
183. Phương tiện là tác ý đúng lý, không phải sự tác ý của nhị thừa. Trí vô phân biệt làm trợ bạn khi tu quán, vì vậy không tác ý như trạng thái hôn mê, không tầm tư như nhị thiền sắp lên, không thọ tưởng như diệt tận định, không đối tượng hóa chân như mà kế đạt. Ở đệ tứ thiền, muốn đắc thiên nhãn, chuyên chú tác ý ánh sáng biến khắp 10 phương, trong suốt vô ngại, hiện thấy tất cả sắc pháp; muốc đắc thần túc, chuyên chú tác ý thân nhẹ nhàng vô ngại, tùy ý biến hiện; muốn đắc thiên nhĩ, chuyên chú tác ý các loại âm thanh sai biệt; muốn đắc tha tâm, chuyên chú tác ý các loại hành tướng của tâm chúng sanh; muốn đắc túc mạng, lậu tận trí thông đối với việc đời trước, việc đời sau, thì chuyên chú tác ý bốn đế, ba giải thoát v.v…
184. Thánh trú là trú xứ của bậc thánh, tức không trú, vô nguyện trú, vô tướng trú và diệt tận định trú. Phạn trú là an trú bốm tâm tam-muội vô lượng, chính yếu là đại bi vô lượng. Thiên trú là tứ thiền bát định của cõi sắc và cõi vô sắc, chính yếu là đệ tứ thiền.
185. Trú xứ của chúng sanh ở thế gian: Có 9 nơi chúng sanh ở là, 1. Nhân loại và chư thiên của dục giới; 2. Phạm chúng thiên; 3. Quang âm thiên; 4. Biến tịnh thiên; 5. Vô tưởng thiên; (thuộc sắc giới) 6. Không vô biên xứ; 7. Thức vô biên xứ; 8. Vô sở hữu xứ; 9. Phi tưởng phi phi tưởng xứ (thuộc vô sắc giới).
186. Là phụng sự và cúng dường chư Phật ở trong 10 phương thế giới.
187. Là nhận sự cúng dường của chúng sanh, đồng thời giáo hóa chúng sanh bằng giáo pháp và cả thần thông làm cho người cúng dường được thanh tịnh.
188. Mười thứ tự tại: 1. Mạng tự tại: Có thể kéo dài tuổi thọ tùy ý; 2. Tâm tự tại: Không nhiễm sanh tử; 3. Tài tự tại: Tài của dư dật, muốn là liền được, điều này do tu hạnh bố thí mà được; 4. Nghiệp tự tại: Chỉ làm việc thiện và khuyến khích người khác cùng làm; 5. Sanh tự tại: Tùy theo chỗ mong muốn mà thọ sanh, điều này do giữ giới mà được; 6. Giải thoát tự tại: Có thể tùy ý muốn mà biến hóa, do nhẫn mà được; 7. Nguyện tự tại: Muốn gì được nấy, do tinh tiến mà được; 8. Thần lực tự tại: Thần thông tối thắng, do định mà được; 9. Trí tự tại: Biết tất cả các ngôn ngữ, lời nói; 10. Pháp tự tại: Luôn khế kinh, khế lý, khế cơ, do tuệ mà được. Bồ tát ở địa thứ 7 được các trí tuệ sâu rộng, chứng đắc đạo quả và nhờ năng lực thiền định sâu xa kiên cố, trong từng ý niệm tinh tấn thực hành 10 độ, 4 nhiếp pháp, 37 bồ-đề phần pháp, 3 giải thoát môn, cho nên đắc được 10 thứ tự tại, vì vậy địa thứ 8 tự nhiên được thành tựu. Bồ tát an trụ trong địa thứ 8, có thể tuỳ tâm ứng hiện hoá thân cứu giúp hết thảy chúng sanh, đó là nhờ có được 10 thứ tự tại.
189. Chúng hội của Phật hay đại tập hội của chư Phật, là đại hội gồm toàn chư vị Bồ tát. Thân Bồ tát là tha thọ dụng thân, thân ấy thọ dụng pháp lạc Đại thừa.
190. Công xảo nghiệp xứ, tức là nhất thiết công xảo cứu cánh minh xứ: tất cả các môn khoa học về kỹ thuật, nghệ thuật và công nghiệp. Cũng chỉ cho nhất thiết minh xứ, tức hết thảy các bộ môn học thuật, khoa học. Có năm bộ môn chính (ngũ minh xứ): 1. Thanh minh: ngôn ngữ học; 2. Nhân minh: luận lý học; 3. Nội minh: triết học; 4. Y phương minh: y dược học; 5.Công xảo minh: nghệ thuật và công nghệ.
191. “Từ Đâu suất thiên cung thị hiện ẩn mất, thọ sanh, thọ dục, vượt thành xuất gia, đến chỗ ngoại đạo, tu các khổ hạnh, chứng đại bồ-đề, chuyển đại pháp luân, nhập đại niết bàn.” (Nhiếp luận) Thân Bồ tát ở đây là biến hóa thân.
192. Luận Đại trí độ, Giải thích phẩm Tất định, thứ 83: “Này Tu bồ-đề, Bồ tát nếu xa lìa thần thông thời không thể theo ý chúng sanh thuyết pháp lành cho họ. Vì thế, Bồ tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật nên khởi lên thần thông. Thí như chim không có cánh thời không thể bay cao; Bồ tát không có thần thông thời không thể tùy ý giáo hóa chúng sanh. Do vậy, Bồ tát khi hành Bát-nhã ba-la-mật nên khởi lên các thần thông, khởi lên các thần thông rồi nếu muốn làm lợi ích chúng sanh thời tùy ý lợi ích được.” (H.T Thích Thiện Siêu dịch)
193. Như trong kinh thường có vị Bồ tát hướng về Phật thưa hỏi đúng lý, thì Phật đáp: “Thiện nam tử, tốt lắm, ông có thể hỏi Như lai cái thâm nghĩa như vậy.”
194. Sáu trí: 6 trí cảnh hay 6 thông: 1. Thiên nhãn thông; 2. Thiên nhĩ thông; 3. Tha tâm thông; 4. Thần túc thông; 5. Túc mạng thông; 6. Lậu tận thông.
195. Tam minh: 1. Túc mạng minh; 2. Thiên nhãn minh; 3. Lậu tận minh.
196. Tám giải thoát: 1. Tự mình có sắc, thấy các sắc; 2. Quán tưởng nội sắc là vô sắc, thấy các ngoại sắc; 3. Quán tưởng sắc là tịnh, chú tâm trên suy tưởng ấy; 4. Vượt khỏi hoàn toàn sắc tưởng, diệt trừ các tưởng hữu đối, không tác ý đến những tưởng khác biệt, với suy tư “hư không là vô biên”, chứng và trú Không vô biên xứ; 5. Vượt khỏi hoàn toàn Không vô biên xứ, với suy tư “thức là vô biên”, chứng và trú Thức vô biên xứ; 6. Vượt khỏi hoàn toàn Thức vô biên xứ, với suy tư “không có vật gì”, chứng và trú Vô sở hữu xứ; 7. Vượt khỏi hoàn toàn Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ; 8. Vượt khỏi hoàn toàn Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng; đó là sự giải thoát thứ tám.
197. Tám thắng xứ: 1. Bên trong có sắc tưởng, bên ngoài quán sắc lượng nhỏ; 2. Bên trong có sắc tưởng, bên ngoài quán sắc vô lượng; 3. Bên trong không sắc tưởng, bên ngoài quán sắc lượng nhỏ; 4. Bên trong không sắc tưởng, bên ngoài quán sắc vô lượng; 5. Bên trong không sắc tưởng, bên ngoài quán sắc xanh; 6. Bên trong không sắc tưởng, bên ngoài quán sắc vàng; 7. Bên trong không sắc tưởng, bên ngoài quán sắc đỏ; 8. Bên trong tướng sắc tưởng, bên ngoài quán sắc trắng.
198. Mười biến nhập, cũng gọi là 10 biến xứ: 1. Biến xứ đất; 2. Biến xứ nước; Biến xứ lửa; 4. Biến xứ gió; 5. Biến xứ xanh; 6. Biến xứ vàng; 7. Biến xứ đỏ; 8. Biến xứ trắng; 9. Biến xứ ánh sáng; 10. Biến xứ hư không.
199. Các tam-muội như Đại thừa trang nghiêm tam-muội, Tập phước định vương tam-muội, Hiền thủ tam-muội, Kiện hành tam-muội v.v…, chủng loại vô lượng.
200. Cũng được hiểu là vạn hạnh khó tu, như Bồ tát nghe nói vạn hạnh như bố thí rất là khó tu. Nhẫn thành thục thì không thoái lui và khuất phục trước các vạn hạnh khó tu ấy.
201. Bất tư nghị xứ: Du già sư địa luận, quyển 11: “Bất khả tư nghị xứ là tư duy của mình, tư duy của hữu tình, tư duy của thế gian.” Cũng luận ấy, quyển 25: “Thế nào là tư duy chánh pháp? Như có độc xứ không nhàn có thể quán sát tư duy chánh pháp được nghe và tin nhận, thì cần phải rời xa 6 xứ không nên tư duy, đó là là tư nghị về mình, tư nghị về hữu tình, tư nghị về thế gian, tư nghị về nghiệp quả dị thục của hữu tình, tư nghị về bậc tĩnh lự và cảnh giới tĩnh lự, tư nghị về chư Phật và cảnh giới chư Phật.”
202. Tai hoạnh: Du già sư địa luận, quyển 5: “Có tai hoạnh, nghĩa là chỗ sở y của già, bịnh, chết.”
203. Bà-già-bà (Bhagavat), cũng dịch âm khác là Bạc-già-phạm, dịch nghĩa là Thế Tôn, tức là đấng có 10 danh hiệu, có đầy đủ các đức, được người đời tôn kính.
204. Kinh Tạp a hàm, Tứ bất hoại tịnh, kinh số 804: “Những gì là bốn? Bất hoại tịnh đối với Phật; bất hoại tịnh đối với Pháp; bất hoại tịnh đối với Tăng; thành tựu Thánh giới. Vì sao? Nếu bốn đại, đất, nước, lửa, gió có sự thay đổi, tăng giảm, nhưng bốn bất hoại tịnh này chưa từng có sự tăng giảm biến đổi khác. Chúng không tăng giảm biến khác chỉ vì đa văn Thánh đệ tử đã thành tựu được đối với Phật, nên nếu bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, điều này không thể có được. Cho nên, các tỳ kheo nên học như vầy: Ta sẽ thành tựu bất hoại tịnh đối với Phật; thành tựu bất hoại tịnh với Pháp, Tăng, thành tựu Thánh giới, và sẽ thiết lập cho người khác cũng được thành tựu.“ (Thích Đức Thắng dịch)
205. Chánh văn là định trí quả. Định tăng thượng là thần thông và các tam-muội. Tuệ tăng thượng là trí vô phân biệt.
206. Tăng chi bộ kinh, Ba pháp, Tăng thượng: “Vị ấy quan sát như sau: “Thắng tấn là tinh tấn của ta, không có thụ động; an trú là niệm của ta, không có thất niệm; khinh an là thân của ta, không có dao động; định tĩnh là tâm của ta, được nhứt tâm”. Vị ấy làm cho tăng thượng tự ngã (tăng thượng thế giới, tăng thượng pháp), từ bỏ bất thiện, tu tập thiện, từ bỏ có tội, tu tập không tội, gìn giữ cho tự ngã được thanh tịnh. Này các Tỷ kheo, đây gọi là tự ngã tăng thượng (tăng thượng thế giới, tăng thượng pháp). (H.T Thích Minh Châu dịch)
207. Bất thiện giác, tức bất thiện tầm: Tầm là đánh mạnh vào, có đặc tính là hướng tâm, để tâm trên đối tượng. Bất thiện tầm là hướng tâm về pháp bất thiện. Theo kinh Song tầm, kinh số 19, Trung bộ, thì bất thiện tầm là dục tầm, sân tầm và hại tầm.
208. Vô gián đạo: Là một trong bốn quá trình đoạn trừ phiền não, chứng đắc chân lý. Tứ đạo là gia hạnh đạo, vô gián đạo, giải thoát đạo và thắng tiến đạo. Đàn áp, phá nát sở duyên là gia hành đạo; xả các phiền não là vô gián đạo; nhậm trì đoạn diệt là giải thoát đạo; làm cho các phiền não viễn ly tương tục là thắng tiến đạo. Theo luận Câu xá thì tất cả phiền não đều được đoạn trừ ở vô gián đạo.
209. Nhẫn nại (nhẫn chịu) có hai: nhẫn chịu oán hại (nại oán hại nhẫn) và nhẫn chịu cực khổ (an thọ pháp nhẫn). Nhẫn nại như vậy là pháp môn tu tập của tất cả hiền thánh.
210. Thắng sanh xứ (cõi thọ sanh thù thắng): tịnh độ của Phật, nơi có Phật xuất thế, được nghe chánh pháp và có năng lực thần thông làm nhiều lợi ích cho chúng sanh. Luận Đại thừa trang nghiêm kinh, phẩm Phạn trú, thứ 20: “Nếu không có tâm đại bi thì không thể khởi nhẫn nhục khó làm trước cái khổ lớn (sanh tử). Nếu không có sự nhẫn nhục khó làm trước cái khổ lớn (sanh tử) thì không thể khởi tư duy về lợi ích cho chúng sanh. Nếu không có sự tư duy về lợi ích cho chúng sanh thì không thể khởi nguyện sanh về cõi thù thắng. Nếu không có sự nguyện sanh về cõi thù thắng thì không thể thọ sanh cõi thù thắng. Nếu không có sự thọ sanh cõi thù thắng thì không thể thành thục chúng sanh.” Nhiếp luận: “Năng lực của định tăng thượng là sống trong cái vui của thiền định thì tùy ý muốn mà thọ sanh (thắng xứ).”
211. Chánh văn là đắc thanh tịnh khí. Phẩm Giáo thọ, thứ 15: “Khí thể thành thanh tịnh, Kham tiến thừa vô thượng: Các Bồ tát được chư Như lai khen ngợi rồi liền thành tựu khí thể thanh tịnh, có thể gánh vác, đi vào thừa tối thượng.”
212. Nhiếp niệm (chánh niệm) do giữ giới thanh tịnh mà có, gọi là giới niệm. Giới niệm như vậy là phương tiện của tam-muội đối trị sự phóng túng do tác ý (động niệm). Trường A hàm, kinh Du hành: “Này Tu bạt đà la, nếu các vị tỳ kheo ai tự thu nhiếp được thì thế gian này không phải trống không, không có La hán.”
213. Chánh niệm là tư duy và ghi nhớ chánh pháp mà mình văn, tư, tu. Không có chánh niệm thì sự văn, tư, tu chánh pháp, dù cầu được người giúp cho, cũng vẫn khó có, mà có rồi cũng không giữ và thành được. Đây là quán trí của tam-muội đối trị giặc phiền não xâm nhập tâm trí làm hại 3 thiện căn là sự cầu văn, tư và tu.
214. Trí tuệ xuất thế (xuất thế Bát-nhã): trí tuệ chứng chân thật nghĩa (đệ nhất nghĩa), tức như sở hữu tánh (cái tánh đúng như cái thực của sự hiện hữu); tánh ấy là chân như nơi các pháp nhiễm tịnh.
215. Chánh văn là nhị tụ giới (二聚界): Nhị tụ là 2 khối phước trí. Giới là tên gọi khác của chủng tử, như kinh Đại tập, phẩm 12, Vô Tận Ý Bồ tát, có ghi: “Hết thảy hữu tình, từ vô thỉ đến nay, có đa dạng giới, như đống ác xoa, tồn tại một cách tự nhiên như vậy.”
216. Y chỉ tối thượng là y chỉ phước trí. Khi chủng tử phước trí thêm lớn nơi a-lại-da, thì đó là chỗ dựa trực tiếp sanh khởi quả Đại thừa thánh đạo, nói cách khác, đó là khéo cụ bị 2 thứ tư lương phước trí một cách vô giới hạn, làm năng lực chứng đắc thánh đạo.
217. Lấy tư lương phước đức để hoạch đắc thân tướng và thọ dụng thù thắng. Lấy tư lương trí tuệ để hoạch đắc trí tuệ thù thắng. Bồ tát thành tựu phước trí như vậy là bậc tối thắng trong tất cả chúng sanh.
218. Diệu pháp, là lấy giáo pháp Đại thừa làm đối tượng tác quán. Đạo lý, là trú ở nơi đạo lý duy tâm thì sống thích ứng với sự hiện thấy pháp tánh.
219. Chánh văn là tha bộ (他部), chỉ cho các bộ phái tiểu thừa: 1. Thuyết hữu bộ; 2. Tuyết sơn bộ; 3. Độc tử bộ; 4. Pháp thượng bộ; 5. Hiền trụ bộ; 6.Chánh lượng bộ; 7. Mật lâm sơn bộ; 8. Hóa địa bộ; 9. Pháp tạng bộ; 10. Ẩm quang bộ; 11. Kinh lượng bộ. Ở đây ẩn lược tự bộ (自部) là Đại thừa hay bộ phái Đại thừa (Đại chúng bộ, Nhất thuyết bộ, Thuyết xuất thế bộ, Kê dận bộ).
220. Bồ tát nỗ lực tu tập chỉ quán để thành tựu định tăng thượng, từ đó thấu suốt cảnh và tâm đều không nên trú nơi pháp tánh bất nhị. Nhiếp luận nói đến sức mạnh của thiện căn nhậm trì bằng 3 sự luyện mài (tam luyện ma tâm, 三練磨心) và 4 sự phải dứt bỏ (đoạn tứ xứ, 斷四處). Ba sự luyện mài: “Vô số người trong vô lượng thế giới, mỗi sát-na đều có người chứng được vô thượng bồ-đề, (thì ta đây cũng sẽ chứng được), đó là sự luyện mài tâm chí thứ nhất. Do ý lạc này mà tu được lục độ; ta đã có ý lạc này thì nhờ đó ta dụng công thêm chút nữa sẽ tu được viên mãn về lục độ, đó là sự luyện mài tâm chí thứ hai. Những người có điều thiện còn chướng ngại, vậy mà chết rồi vẫn được sanh ra với cái tự thể khả ái, huống chi ta có điều thiện vi diệu, không còn chướng ngại, thì tại sao lại không được kết quả viên mãn, đó là sự luyện mài tâm chí thứ ba.” Bốn sự phải dứt bỏ: 1. Dứt bỏ tác ý, là tách rời cái tác ý của thanh văn duyên giác; 2. Vĩnh viễn dứt bỏ sự hoài nghi của cái trí tuệ khác, là tách rời mọi sự hoài nghi đối với Đại thừa; 3. Dứt bỏ pháp chấp, là tách rời ngã và ngã sở trong giáo pháp được nghe và được nghĩ; 4. Dứt bỏ phân biệt, là tách rời tác ý và phân biệt đối với mọi hiện tượng hiện tiền và xác lập.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
221. Chi (支): ở luận này, chi được hiểu là thiện phần, thiện căn tụ (善根聚).
222. Thắng thiện: là điều thiện thù thắng, vì chướng ngại được vĩnh viễn đoạn trừ.
223. Đó là hai chướng, phiền não chướng và sở tri chướng, cần phải xả bỏ.
224. Cái đối trị hai chướng ấy là hai trí, tức trí căn bản ở kiến đạo vị và trí hậu đắc ở tu đạo vị.
225. Cung kính bậc thiện tri thức và cung kính đối với chánh pháp được tiếp nhận.
226. Thấy biết điên đảo là đối với 5 uẩn vô thường tưởng là thường, khổ tưởng là lạc, vô ngã tưởng là ngã, bất tịnh tưởng là tịnh.
227. Là không thoái chuyển đối với tuệ giác vô thượng, bao gồm sự không còn đọa lạc ác đạo, sự được vô sanh pháp nhẫn và sự quyết định sẽ thành Phật.
228. Là tuần tự tu tập văn tư tu, đắc pháp và đắc tuệ.Luận Đại thừa trang nghiêm kinh, quyển 1, phẩm Thành tông: “Nếu người tu hành ban đầu dựa vào vị thiện tri thức thì có khả năng sanh khởi sự nghe chánh pháp, tiếp theo là từ (hiểu biết) văn nghĩa chánh pháp mà có khả năng sanh khởi sự nghĩ nhớ chánh pháp, sau đó cái trí về chánh pháp được phát sanh từ cảnh giới chân thật. Từ chánh pháp trí mà chứng đắc pháp quả, và cũng từ chánh trí về sau sanh khởi giải thoát trí.”
229. Không có tâm cao thấp là không thấy mình ban ơn, không thấy kẻ thọ ơn, tức là bố thí bằng lòng chân thành, khiêm tốn. Ngoài ra, bố thí bình đẳng là không có cái tâm phân biệt, phán xét, kỳ thị, như kinh Bát đại nhân giác nói bố thí bình đẳng thì “không nhớ lỗi cũ, không ghét người ác”.
230. An lập thiện căn: chánh tín Phật pháp, thọ trì tịnh giới, nhiếp thọ đa văn, tăng trưởng huệ xả, điều nhu chư kiến. (Du già sư địa luận)
231. Thập thiện nghiệp đạo ở đây là mười ba-la-mật: thí độ, giới độ, nhẫn độ, tiến độ, định độ, tuệ độ, phương tiện độ, nguyện độ, lực độ và trí độ.
232. Phật thuyết thập địa kinh - 佛說十地經, Đại Chánh tạng, quyển 10, kinh số 287: “Khi Bồ tát an trú Ly cấu địa này thì tự tánh thành tựu mười đường thiện nghiệp.” Kinh Giải thâm mật -解深密經, Đại Chánh tạng, quyển 16, kinh số 676: “Rời xa hết thảy mọi sự phạm giới rất nhỏ, nên địa thứ hai tên là Ly cấu địa.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
233. Bồ tát ở địa đầu tiên, Hoan hỷ địa, do hiện thấy pháp tánh mà tự nhiên thủ đắc giới pháp, “thành tựu lợi ích chân thật và vĩ đại, được tâm trí xuất thế mà trước đây chưa được, sanh hoan hỷ lớn lao.” Đó là giới pháp vô tận của Bồ tát, “là kho tàng tâm, kho tàng địa, kho tàng giới, kho tàng vô lượng hạnh nguyện và kho tàng nhân quả Phật tánh thường trú.” (Bồ tát giới Phạm võng)
234. Giới phẩm: tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, thức-xoa-ma-na, sa-di, sa-di ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, thập thiện và Bồ tát tâm địa.
235. Chánh văn là y báo nhị quả, tức sở y quả (nghĩa là tập khí quả, đẳng lưu quả) và báo quả (dị thục quả). Đẳng lưu quả là cái kết quả do đồng loại nhân, hoặc biến hành nhân mà có. Đó là chỉ cái kết quả về hiện tượng nào cùng đồng đẳng, đồng lưu, đồng loại với nguyên nhân của hiện tượng ở trước nó. Dị thục quả là do dị thục nhân mà có, bởi cái nghiệp lực quá khứ hoặc thiện hoặc ác làm ra, mà ta không nhận thấy được quả thể, tức là dị thục quả. Ở đây, chúng sanh an trú tịnh giới thì được quả báo dị thục vừa ý, tức tái sanh làm người, trời v.v…, và đẳng lưu quả của sự trì giới ấy là ở trong đời vi lai cũng tiếp tục trì giới, không có gián đoạn.
236. Thiện căn: là 3 thiện căn không tham, không sân và không si; là 5 thiện căn tín, tiến, niệm, định và tuệ; là 3 tuệ văn, tư và tu; là 6 ba-la-mật thí, giới, nhẫn, tiến, định và tuệ; là vô lượng thiện pháp.
237. Diệu pháp tột bậc (đệ nhất diệu pháp): chỉ cho các tam-muội mà Bồ tát sở chứng.
238. Làm cho chúng sanh tuy chưa hiểu Đại thừa mà vẫn tin giáo pháp rộng lớn sâu xa.
239. Bốn vị: 1. Giải hành vị, gọi đủ là thắng giải hành vị, gồm cả tư lương vị và gia hành vị của Duy thức luận; giải hành vị có 10 tín, 10 hành, 10 hướng và 4 gia hành. 2. Kiến đạo vị, Duy thức luận gọi là thông đạt vị, chỉ cho nhập tâm của Sơ địa. 3. Tu đạo vị, Duy thức luận gọi là tu tập vị, gồm có trú tâm của sơ địa cho đến xuất tâm của thập địa. 4. Cứu cánh vị, Duy thức luận cũng gọi là cứu cánh vị, và chỉ cho Phật địa.
240. Mười thiện đạo, là không sát sanh, không trộm cắp, không dâm dục, không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói ác khẩu, không nói thêu dệt, không tham lam, không sân hận, không ngu si tà kiến. Cho đến ba thừa, là giáo nghĩa ba thừa như 4 thiền, 4 định vô sắc, định diệt thọ tưởng, 37 bồ-đề phần, 3 môn giải thoát, 4 đế, 4 tâm vô lượng, 6 thần thông, 8 giải thoát, 10 lực, 4 vô úy, 4 trí vô ngại, 18 pháp không chung, 500 môn đà-la-ni v.v…
241. Tự tánh thiện căn là không tham, không sân, không si, là tự tánh thiện đối lập với cái oán nặng từ vô thỉ là 3 bất thiện căn tham, sân, si. Qua đó, vô tham là giới tăng thượng, vô sân là định tăng thượng và vô si là tuệ tăng thượng. Tu tập 6 ba-la-mật thì thống nhiếp hết thảy thiện pháp, “bởi vì hết thảy thiện pháp là sắc thái của 6 ba-la-mật, là tùy thuận của 6 ba-la-mật, là đẳng lưu của 6 ba-la-mật.” (Nhiếp luận), và vì “6 ba-la-mật không phải chỗ dựa của mọi thứ tạp nhiễm” (kinh Giải thâm mật)
242. Ba a-tăng-kỳ đại kiếp, tức ba vô số kiếp: Vô số kiếp thứ nhất là giai đoạn giải hành (gồm 10 trú, 10 hạnh, 10 hướng, 4 da hành). Vô số kiếp thứ hai có 2 giai đoạn: giai đoạn hữu tướng hành (địa thứ 1 đến địa thứ 6) và giai đoạn vô tướng hành (địa thứ 7). Vô số kiếp thứ ba là giai đoạn vô công dụng hành (địa thứ 8 đến địa thứ 10).
243. Bằng trí căn bản vô phân biệt và trí hậu đắc vô phân biệt vin theo ấn tượng tổng quát của pháp Đại thừa, Bồ tát đoạn trừ chướng ngại khó phá ở trong các địa bằng 5 sự tu tập: 1. Tổng tập; 2. Vô tướng; 3. Không dụng công; 4. Xí thạnh; 5. Không mừng đủ. (Nhiếp luận)
244. Chí đắc, tức chí đắc vị, chứng đắc vị: Theo Trung biên phân biệt luận, có 18 phần vị tu trú: 1. Nhân vị (trú chủng tánh bổ đặc già la); 2. Nhập vị (đã phát tâm); 3. Gia hành vị (phát tâm rồi nhưng chưa chứng quả); 4. Quả vị (kiến đạo); 5. Hữu sở tác vị (hữu học); 6. Vô sở tác vị (vô học); 7. Thù thắng vị (các thần thông v.v…); 8. Hữu thượng vị (siêu việt thanh văn); 9. Vô thượng vị (đã thành Phật); [9 phần vị này ít được nói đến] 10. Thắng giải hành vị (gia hành); 11. Chứng nhập vị (sơ địa); 12. Xuất ly vị (địa thứ 2 đến địa thứ 7); 13. Thọ ký vị (địa thứ 8); 14. Biện thuyết vị (địa thứ 9); 15. Quán đảnh vị (địa thứ 10); 16. Chứng đắc vị (pháp thân của Phật); 17. Thắng lợi vị (thọ dụng thân của Phật); 18. Thành sở tác vị (biến hóa thân của Phật) [9 phần vị này là Bồ tát hành vị). Trong đây, từ 1 đến 15 là nói về nhân, từ 16 đến 18 là nói về quả. Trung biên phân biệt luận sớ, quyển 3, mục 12: “16. Chí đắc vị (chứng đắc vị) là quả địa pháp thân, tức từ xưa đến nay, cho đến chí đắc (vị); 17. Công đức vị (thắng lợi vị) là thọ dụng thân, tức dựa vào cái công vạn hạnh để thọ dụng vạn đức; 18. Tác sự vị (Thành sở tác vị) là biến hóa thân, tức biến 10 phương thế giới, hóa (hiện) 8 sắc thái (thành đạo).”
245. Xem trong sách này, quyển 1, phẩm Duyên khởi: “Thí dụ mở cái tráp báu là sự chứng đắc bồ-đề phần bảo chân thật, tức là sự tự giác chứng.”
246. Không thể nghĩ bàn: Theo Nhiếp luận, bất khả tư nghị là 1 trong 5 sắc thái của pháp thân chư Phật (chuyển y, bạch pháp thành tựu, vô nhị, thường trú và bất khả tư nghị): “Thứ năm là sắc thái bất khả tư nghị, vì chân như thanh tịnh chỉ chứng đắc từ bên trong, vì không có sự ví dụ nào của thế gian có thể ví dụ được, vì không phải là chỗ mà mọi tầm tư có thể thấu đến.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
247. Nhiếp luận: “Sắc thái bạch pháp thành tựu (của pháp thân chư Phật) là do 6 ba-la-mật viên mãn mà được 10 tự tại. Tựu trung, sống lâu tự tại, tâm thức tự tại và đồ dùng tự tại, là do viên mãn thí ba-la-mật; nghiệp tự tại và sanh tự tại là do viên mãn giới ba-la-mật; thắng giải tự tại là do viên mãn nhẫn ba-la-mật; nguyện tự tại là do viên mãn tiến ba-la-mật; thần lực tự tại, thống nhiếp tất cả ngũ thông, là do viên mãn định ba-la-mật; trí tự tại và pháp tự tại là do viên mãn tuệ ba-la-mật.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
248. Chân như thì phổ biến toàn thể và đồng nhất tánh vị.
249. Tự tánh, tức tự tánh thân: Nhiếp luận định nghĩa: “Tự tánh thân là pháp thân của chư vị Như lai, do các pháp tự tại chuyển chỗ y cứ.” (H.T Thích Trí Quang dịch) Chuyển chỗ y cứ là chuyển A-lại-da thành Như lai tạng. Phật địa luận ghi: “Tự tánh là tự tánh thân ban đầu, thể thường bất biến, nên gọi là tự tánh thân.” Thành duy thức luận chép: “Tự tánh là thật tánh bình đẳng của tất cả pháp.”
250. Những khi thuyết pháp, Phật chấn động thế giới, phóng ánh sáng rực rỡ, làm cho mọi thế giới trở nên thấy được v.v…
251. Chúng sanh do ba bất thiện căn là tham, sân, si mà gây ra các ác hành về thân, ác hành về lời nói và ác hành về tâm ý.
252. Nhiếp luận: “Nên biết pháp giới chư Phật, trong mọi thời gian, làm được 5 việc. Một là cứu vớt tai nạn cho tất cả chúng sanh, vì chúng sanh gặp Phật thì thoát được mọi tai nạn đui, điếc, điên, cuồng, v.v... Hai là cứu vớt đường dữ, vì cứu vớt chúng sanh ra khỏi chỗ dữ mà đặt vào chỗ lành. Ba là cứu vớt sự phi phương tiện, vì làm cho ngoại đạo bỏ những phi phương tiện cầu được giải thoát, mà đem họ để vào giáo pháp của đức Như lai. Bốn là cứu vớt thân kiến, vì trao cho họ con đường siêu thoát 3 cõi. Năm là cứu vớt cỗ xe được đi, vì cứu vớt các vị Bồ tát muốn đi theo các cỗ xe khác, các vị thanh văn thuộc loại không cố định, đem họ đặt cả vào trong Đại thừa, cho họ tu theo cỗ xe vĩ đại. Cũng nên biết nghiệp dụng của chư Phật trong 5 việc này là rất bình đẳng.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
253. Chủng tánh bất định: là không nhất định sẽ chứng thừa nào, mà tùy theo điều kiện ban đầu, gặp nhân duyên với thừa nào thì phát tâm và thành tựu cứu cánh trong thừa đó.
254. Chỉ cho những phẩm chất và thành quả của pháp thân Phật.
255. Nhiếp luận: “Pháp thân thích ứng với mấy đức? Thích ứng với 20 công đức tối thanh tịnh: 4 tâm vô lượng, giải thoát, thắng xứ, biến xứ, vô tránh, nguyện trí, 4 trí vô ngại, 6 thần thông, 30 tướng đại trượng phu, 80 tùy hình hảo, 4 tất cả tướng thanh tịnh, 10 lực, 4 vô úy, 3 bất hộ, 3 niệm trú, bạt nhổ tập khí, sự không quên mất, đại bi, 18 pháp bất cọng, nhất thế tướng diệu trí.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
256. Chuyển y là (1) chuyển diệt y tha thuộc phần tạp nhiễm chướng ngại, tức vĩnh viễn đoạn trừ chủng tử của hai chướng phiền não và sở tri, và (2) chuyển đắc y tha thuộc phần thanh tịnh, giải thoát chướng ngại, tự tại với pháp, tức thành tựu bạch pháp cực kỳ thanh tịnh.
257. Bạch pháp viên mãn là do viên mãn 6 ba-la-mật mà thành tựu 10 tự tại.
258. Hai trí đạo: Cực thanh tịnh xuất thế trí đạo là chuyển phiền não đắc niết-bàn vô trú, và Vô biên sở thức cảnh giới trí đạo là chuyển sở tri chướng chứng đại bồ-đề.
259. Nhiếp luận: “Đoạn đức là niết-bàn vô trú của Bồ tát. Thể tướng của niết-bàn ấy là xả bỏ tạp nhiễm mà không xả bỏ sanh tử, chuyển y chỗ dựa của 2 phần (sanh tử và niết-bàn). Ở đây, sanh tử là phần tạp nhiễm nơi y tha, niết-bàn là phần thanh tịnh nơi y tha, chỗ dựa của 2 phần là y tha thông cả 2 phần. Chuyển y là chính y tha khi nổi lên sự đối trị thì chuyển bỏ phần tạp nhiễm mà chuyển được phần thanh tịnh.” (H.T Thích Trí Quang dịch) Các nhân của phần tạp nhiễm là biến kế sở chấp, phiền não và ác hạnh. Phần thanh tịnh là tự tánh viên thành, tức bản thể vốn thanh tịnh. Chỗ dựa của phần thanh tịnh là y tha nơi viên thành. Phần thanh tịnh hiển lộ gọi là thanh tịnh viên thành.
260. Tất cả pháp tạp nhiễm: là căn bản phiền não và tùy phiền não. Căn bản phiền não có 6: tham, sân, vô minh, mạn, kiến và nghi. Tùy phiền não có 20: phẫn, hận, phú, não, tật, xan, cuống, siểm, hại, kiêu, vô tàm, vô qúi, trạo cử, hôn trầm, bất tín, giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán loạn và bất chánh tri.
261. Nhiếp luận: “Đối với sanh tử niết-bàn, nếu nổi lên cái trí bình đẳng, thì bấy giờ do đó mà chứng được sanh tử tức niết-bàn. Do vậy, đối với sanh tử không phải xả bỏ không phải không xả bỏ, cũng tức là đối với niết-bàn không phải chứng đắc không phải không chứng đắc.” (H.T Thích Trí Quang dịch) Đây chính là niết-bàn vô trú.
262. Không trú ở vì không làm nghiệp và phiền não, nhưng tự tại thị hiện thì vẫn có làm.
263. Khởi tín luận: “Hỏi, pháp thân Như lai siêu việt sắc tướng, sao lại hiện được sắc tướng ? Đáp, vì chính pháp thân là bản thể của sắc tướng, nên biểu hiện được sắc tướng ấy. Nghĩa là bản lai sắc với tâm không phải là hai phạm trù đối lập, mà sắc là tâm thể nên gọi là trí thân, tâm thể là sắc thể nên gọi là pháp thân. Do pháp thân này phổ biến khắp cả, nên sắc thân của các đức Như lai biểu hiện không có cục bộ, không hề gián đoạn; vô lượng Bồ tát trong vô lượng thế giới tùy năng lực và ý nguyện mà thấy được vô lượng thọ dụng thân với vô lượng trang nghiêm độ, khác nhau mà cùng siêu việt cục bộ, không chướng ngại lẫn nhau. Nên sắc thân mà các đức Như lai biểu hiện không phải là cái mà tâm thức chúng sanh có thể nghĩ và biết được, vì đó là cái dụng tự tại của chân như.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
264. Đoạn này nói thọ dụng thân của Phật. Thân ấy là sắc thân có thể thấy được, nhưng còn tùy theo sự thấy của thắng giải hay các chuyển thức chuyển y mới thấy được. Với thọ dụng thân, vô số chúng hội thấy khác nhau và ngay nơi một cá thể thấy thân ấy cũng trước sau khác nhau.
265. Đoạn này chỉ cho hóa thân của Phật. Tiểu thừa nói hóa thân là pháp thân. Đại thừa nói hóa thân chưa phải là pháp thân, bởi lẽ pháp thân mà nhập niết-bàn thì trái với thệ nguyện độ sanh của Phật. Nhập niết-bàn là hóa thân thị hiện với tác dụng độ sanh. Như lửa khi đỏ khi tắt mà không bao giờ không có, chư Phật cũng vậy, thị hiện thành chánh giác và thị hiện nhập niết-bàn mà không bao giờ không hiện hữu, vì Phật thì thường trú.
266. Vô công dụng: Không nhờ công dụng, nghĩa là tác dụng tự nhiên, không có sự cố gắng, tức là đạo lý nhậm vận tự tại mà không nhờ đến thân, khẩu, ý. Bồ tát từ Bát địa trở xuống chưa được tự tại đối với cảnh chân như, còn Bồ tát từ Bát địa trở lên mới có thể liên tục khởi thuần vô lậu và nhậm vận tự tại, nên gọi là vô công dụng. Tự tại làm lợi ích chúng sanh, gọi là vô công dụng địa. Nhưng nói theo Phật quả, thì Bồ tát từ Bát địa trở lên vẫn thuộc về hữu công dụng, chỉ có Phật quả là vô công dụng.
267. Phật sự là việc làm lợi ích chúng sanh của Phật. Việc làm ấy có loại không thường xuyên (nên có sanh diệt) là biến hóa thân và thọ dụng thân, có loại thường xuyên (nên không có gián đoạn) là tự tánh thân.
268. Nghiệp có dẫn nghiệp và mãn nghiệp, và 2 nghiệp này chiêu cảm 2 quả là tổng báo và biệt báo. Tổng báo, là quả báo tổng thể của dị thục như đường lành, đường dữ (, tức những nẻo đường sanh tử, do dẫn nghiệp của thức thứ 8 làm nghiệp chủ yếu chiêu cảm). Biệt báo, là quả báo sai biệt (trong tổng báo) như sống lâu hay chết yểu, giàu sang hay nghèo hèn, đẹp hay xấu v.v... (, muôn ngàn sai biệt, do mãn nghiệp của 6 thức trước làm tăng thượng duyên).
269. Vô lậu giới: Du già sư địa luận, quyển 52: “Nếu các pháp xuất thế gian đã sanh thì liền tùy chuyển, nên biết, đó là do lực của chuyển y đã nắm giữ một cách tự nhiên. Tuy nhiên, sự chuyển y này cùng với thức a-lại-da có sự tương phản. Sự đối trị thức a-lại-da gọi là vô lậu giới mà rời xa các hý luận.” Thành duy thức luận, quyển 10: “Các lậu vĩnh viễn sạch hết, vô lậu theo đó tăng lên, tánh trong sạch tròn sáng, cho nên gọi vô lậu. Chữ giới nghĩa là kho tàng, vì trong đó dung chứa vô biên đại công đức hy hữu. Giới cũng có nghĩa là nhân tố vì nó có thể sanh ra sự lợi lạc cho cả năm thừa thế gian và xuất thế gian.” Pháp uẩn túc luận, quyển 9, mục 24: “Thế nào là vô lậu giới? Đó là năm uẩn vô lậu, hư không trạch diệt, phi trạch diệt, gọi là vô lậu giới.”
270. Thế giới, hay vũ trụ vật lý, chuyển biến vô thường trong từng giai đoạn gọi là sanh, trú, dị, diệt (hay thành, trú, hoại, không). Giai đoạn này tiếp giai đoạn kia, từ sanh đến trú, gọi là có tăng; từ dị đến diệt, gọi là có giảm. Tuy nhiên, quá trình sanh, trú, dị, diệt cứ tiếp diễn đến vô tận, không có thời gian dứt mất: thế giới này diệt thì thế giới khác sanh, hoặc có khi thế giới này ở giai đoạn trú thì thế giới khác đang trong giai đoạn dị.
271. Pháp giới, tức pháp tánh, pháp thân, bản giác (tuệ giác vốn có), chân như: Tuệ giác của Phật được ví như khối thủy tinh trong suốt, vạn vật ảnh hiện đủ cả. Cái khối trong suốt ấy là tâm thể tách rời phân biệt. Pháp thân có nghĩa là Phật lấy tâm thể bản giác làm thân, và pháp thân ấy cũng gọi là trí thân. Khởi tín luận: “Tuệ giác là tâm thể tách rời phân biệt. Tâm thể tách rời phân biệt ấy chính là pháp tánh đồng nhất, đồng đẳng không gian, phổ biến toàn thể -- là pháp thân bình đẳng mà các đức Như lai đã chứng ngộ. Chính pháp thân này được gọi là tuệ giác vốn có. Nhưng gọi như vậy chỉ vì đối với tuệ giác mới có, mà tuệ giác mới có thì đồng nhất với tuệ giác vốn có.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
272. Khởi tín luận: “Thể tính của tuệ giác thì … (như) là đài gương Nhân tố huân tập cho chúng sanh, tức là Có một cách đúng như sự thật: toàn thể vũ trụ biểu hiện ở đó, không xuất ra hay nhập vào, không biến thể hay hủy diệt, toàn là tâm thể đồng nhất và bất biến -- các pháp toàn là tâm thể mà tâm thể (= tự tánh) lại không nhiễm mọi sự nhiễm ô, tuệ giác bất động, nên sung mãn phẩm chất thuần khiết, làm nhân tố tác động cho chúng sanh tu hành.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
273. Khởi tín luận: “Nói tâm thể phát khởi, nhưng thật ra không có khởi điểm. Nói khởi điểm thì chính là sự không còn phân biệt (= khách trần). Do vậy mà chúng sanh không được gọi là tuệ giác, vì lẽ xưa nay chúng sanh phân biệt liên tục, chưa hề tách rời phân biệt, và được gọi đó là sự bất giác có từ vô thỉ. Nếu thực hiện được sự tách rời phân biệt thì giác ngộ trạng thái phát sanh, tồn tại, dị biệt và hủy diệt (= sanh, trụ, dị, diệt) của tâm tướng, vì sự tách rời phân biệt thì đồng đẳng. Nên thật ra không có cái tuệ giác mới có nào khác, vì nó có cùng lúc và không độc lập với bốn trạng thái, trước sau đều là tuệ giác đồng nhất.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
274. Khởi tín luận: “Nếu biết chiêm nghiệm tâm thể siêu việt phân biệt (chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh) thì thế là thích ứng mà hội nhập chân như.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
275. Chánh văn là đệ nhất vô ngã.
276. Đại ngã: tức thật ngã, đại thân, pháp thân chân như thanh tịnh tuyệt bậc.
277. Chánh văn là đệ nhất ngã, tức là đệ nhất tối tự tại ngã, thắng ngã, đại ngã.
278. Pháp giới thì tách rời tất cả khái niệm, bản thể thuần nhất, bất biến: phi có, phi không, phi chẳng có chẳng không, phi cũng có cũng không v.v…. phi tất cả những khái niệm thuộc phạm trù 4 câu như vậy. Phi là khái niệm được tách rời để chống lại và hủy diệt khái niệm, do vậy sự giải thoát của pháp giới là do thánh trí thể hội từ bên trong, chứ không phải tư duy thường tình hiểu thấu.
279. Đoạn trừ phiền não chướng là tâm giải thoát. Hủy diệt sở tri chướng là tuệ giải thoát. Tạp a hàm, kinh Tỳ-kheo bệnh, số 1027, định nghĩa: “Này tỳ-kheo, vì tham dục trói buộc nên không ly được dục. Vì vô minh trói buộc nên tuệ không thanh tịnh. Cho nên tỳ-kheo, ở nơi dục mà ly dục nên tâm giải thoát; do ly vô minh nên tuệ giải thoát. Nếu tỳ-kheo nào, ở nơi mà dục ly dục, tự thân tác chứng tâm giải thoát; do ly vô minh nên tuệ giải thoát, đó gọi là tỳ-kheo đoạn các ái dục, chuyển kết phược, dừng ngã mạn, hiện quán, cứu cánh biên tế khổ.” (Thích Đức Thắng dịch)
280. Tùy thuận thân trước là tùy thuận cái thân ở địa vị tu nhân. Thân ấy là: 1. Tùy loại hóa thân: cái thân biểu hiện theo thân của 6 loại chúng sanh; trong đó, nói về thân người, là biểu hiện làm người thân, kẻ thù, tỳ-kheo tăng v.v… để hóa độ; 2. Ứng thân: cái thân thường được gọi là đức Phật lịch sử, gọi là trượng lục úng thân hay liệt ứng thân; 3. Báo thân (= thọ dụng thân): thân Phật do các pháp ba-la-mật thành tựu. Khởi tín luận: “Dụng của chân như là các đức Như lai khi còn ở trong địa vị tu nhân, nổi đại từ bi, làm ba-la-mật, giáo hóa chúng sanh với đại thệ nguyện đã lập ra là muốn cứu độ tất cả chúng sanh, cùng tận vị lai, không hạn thời kỳ. Các ngài làm như vậy là vì nhận chúng sanh làm thân mình, lại vượt trên khái niệm chúng sanh. Tại sao, vì các ngài đúng như sự thật mà nhận thức chúng sanh cùng với thân mình đồng nhất chân như. Với sự nhận thức này làm một phương tiện lớn lao, các ngài hủy diệt bất giác, phát kiến pháp thân.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
281. Phi thân, tức pháp thân: Cái thân siêu việt sắc tướng. Thân ấy chính là thực thể của Phật, tức là bản giác hay tâm thể chân như. Khởi tín luận: “Hỏi, pháp thân Như lai siêu việt sắc tướng, sao lại hiện được sắc tướng ? Đáp, vì chính pháp thân là bản thể của sắc tướng, nên biểu hiện được sắc tướng ấy. Nghĩa là bản lai sắc với tâm không phải là hai phạm trù đối lập, mà sắc là tâm thể nên gọi là trí thân, tâm thể là sắc thể nên gọi là pháp thân. Do pháp thân này phổ biến khắp cả, nên sắc thân của các đức Như lai biểu hiện không có cục bộ, không hề gián đoạn; vô lượng Bồ tát trong vô lượng thế giới tùy năng lực và ý nguyện mà thấy được vô lượng thọ dụng thân với vô lượng trang nghiêm độ, khác nhau mà cùng siêu việt cục bộ, không chướng ngại lẫn nhau. Nên sắc thân mà các đức Như lai biểu hiện không phải là cái mà tâm thức chúng sanh có thể nghĩ và biết được, vì đó là cái dụng tự tại của chân như.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
282. Thị hiện tám tướng thành đạo, hiện biến hóa thân (thế gian thấy được), hiện tha thọ dụng thân (đại hội Bồ tát thấy được).
283. Năm thứ vẩn đục: Thời kỳ vẩn đục, kiến thức vẩn đục, tâm lý vẩn đục, con người vẩn đục, đời sống vẩn đục (kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược).
284. Chủng chủng trí, tức nhất thiết chủng trí: là trí thông đạt tổng tướng cùng biệt tướng các pháp, chỉ cho trí của Phật.
285. Chánh văn là vô lậu giới, nên hiểu là vô lậu pháp giới, vì từ đầu đã nói đến.
286. Đắc chư nghĩa biến sở tác (得諸義遍所作): Chư nghĩa, là hoạt dụng của 5 căn (5 thức): 1. Căn cảnh định, thức bất định: như nhãn căn tiếp xúc với một cảnh, có nhiều thức theo đó phát sanh; 2. Cảnh thức định, căn bất định: như nhãn thức tùy dựa vào căn nào mà chỉ duyên với sắc; 3. Căn thức định, cảnh bất định: như nhãn căn chỉ phát sanh nhãn thức khi duyên các cảnh; 4. Căn định, thức cảnh bất định: như nhãn căn tùy theo thức nào phát sanh mà theo đó duyên theo cảnh nào. Biến sở tác, là 5 căn (5 thức) thông khắp 3 tánh thiện, ác và vô ký, và đối với ba cảnh chỉ duyên với tánh cảnh, trong ba lượng chỉ duyên với hiện lượng.
287. Ý căn, chỉ mạt-na thức: Là ý thức tự ngã: ngã si, ngã kiến, ngã mạn và ngã ái. Chính ý thức tự ngã này mà làm cho tâm thức tạp nhiễm, làm nhân cho khổ, rồi ý thức tự ngã này chuyển đổi đi thì chính nó làm cho tâm thức thanh tịnh. Do đó ý căn được gọi là nhiễm tịnh y. Nhưng ý căn thành được cực tịnh toàn là nhờ thức thứ sáu tu chỉ quán để đối trị sự chướng ngại của hoặc tạp nhiễm (ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái) và chứng được sự thanh tịnh của ý lạc tăng thượng.
288. Cực tịnh vì không còn 2 chướng phiền não và sở tri. Không phân biệt năng thủ và sở thủ nên được trí vô phân biệt. Khi thức thứ 7 trở thành vô lậu (cực tịnh) thì tương ưng với bình đẳng tánh trí (vô phân biệt trí). Ở quả vị Phật, bình đẳng tánh trí có năng lực hóa hiện ra 10 loại tha thọ dụng thân, tức năng lực giáo hóa của Phật, và đối tượng được giáo hóa ở đây là Bồ tát thập địa.
289. Biến hóa tùy hành là khi ý căn chuyển thành cực tịnh và trí vô phân biệt, thì 5 căn cũng tùy hành theo sự chuyển của ý căn mà thành vô lậu. Biến hóa tùy hành là hóa hiện 3 loại hóa thân: 1. Thắng ứng thân, thân này cao 1 ngàn trượng, để giáo hóa hàng Bồ tát Đại thừa gia hạnh vị; 2. Liệt ứng thân, thân này cao 1 trượng 6, để giáo hóa hàng Bồ tát Đại thừa 3 tư lương vị; 3. Tùy loại hóa thân, thân này biểu hiện theo thân của 6 loại chúng sanh, bao gồm tam thừa và lục thú.
290. Sau khi chứng đắc chuyển y, ý thức phân biệt trở thành trí tuệ vô ngại đối với tất cả các pháp sở tri và cũng được vô ngại tự tại trong sự hiển hiện hóa thân và các việc làm hóa độ.
291. Khí thế giới, cũng gọi là khí thế gian (thế giới ở ngoài): Là thế giới làm đồ dùng của tự thể. Tự thể (nội xứ) là cái tổng thể gồm cả 6 giác quan. An lập là cái sở y của thức a-lại-da, tức bên trong biến thái thành chủng tử và thân có các căn; bên ngoài biến thái thành khí thế giới, rồi nó lấy ngay những gì được biến thái đó làm sở duyên và hành tướng, dựa vào đó mà sanh khởi.
292. Chỉ cho vô trú niết-bàn: bỏ tạp nhiễm (phiền não) mà không bỏ sanh tử, nên không trú nơi sanh tử, mà cũng không trú nơi niết-bàn.
293. Hai căn nam nữ xúc chạm giao hợp mà vẫn có được sự an lạc vô thượng của thiền định ly hý, và khi thấy người nữ không khởi tham dục, được sự tự tại.
294. Hư không tạng: Kho tàng hư không, là muốn gì cũng biến hóa được. Hư không giải: Thông suốt hư không, là quán chân như bằng ấn tượng mà thông suốt chân như nên tự tại du hành thần thông trong mọi thế giới. Định hư không giải có thể là tên gọi khác của định thủ lăng nghiêm, dịch nghĩa là kiện hành (đi tới mạnh mẽ), là sở hành của Phật và Bồ tát. Định hư không tạng và định thủ lăng nghiêm là 2 đại định quan trọng nhất trong các định tăng thượng.
295. Hy hữu vì hàng nhị thừa không thể làm được sự tương ưng Vô thượng bồ-đề và sự thành thục chúng sanh.
296. Trí vô phân biệt thì không tác ý, tầm tư và thọ tưởng. Dĩ nhiên, không tác ý như trạng thái hôn mê, không tầm tư như nhị thiền trở lên, không thọ tưởng như diệt tận định.
297. Các thiện căn vô lậu là các công đức tối thanh tịnh của pháp thân.
298. Hy hữu vì chư Phật làm thành việc lớn, như thị hiện thành đẳng chánh giác, thị hiện nhập niết-bàn v.v…, tất cả chúng sanh ai chưa thành thục thì Phật làm cho thành thục, ai thành thục rồi thì Phật làm cho giải thoát.
299. Tự tánh thanh tịnh của pháp giới: Pháp giới còn được gọi là chân như, không, thật tế, vô tướng, thắng nghĩa. Pháp giới thanh tịnh là tự tánh thanh tịnh của tánh chân thật đã thoát ly tất cả chướng ngại dơ bẩn.
300. Đối cảnh, chánh văn là các vật, chỉ cho tánh y tha nơi A-lại-da thức, tánh ấy có 2 đặc tánh: 1. Do chủng tử huân tập mà sanh ra; 2. Không cố định là nhiễm hay tịnh, nói cách khác, y tha khởi lên 2 phần: phần tạp nhiễm là tánh biến kế, phần thanh tịnh là tánh chân thật. Trí duyên là trí vô phân biệt duyên tánh y tha nơi A-lại-da thức; khi trí ấy có mặt nơi A-lại-da thức thì tánh chân thật thanh tịnh biểu hiện, mà tánh biến kế không biểu hiện.
301. Nhất thiết chủng như môn trí (一切種如門智): cách gọi khác của trí vô phân biệt. Nhất thiết chủng, vì trí vô phân biệt là nhân tố đưa đến nhất thiết chủng trí của Phật. Như môn, vì trí vô phân biệt duyên với pháp tánh ly ngôn, tức chân như vô ngã. Trí vô phân biệt cũng tức là tuệ ba-la-mật, vì 5 ba-la-mật là trợ bạn của trí vô phân biệt.
302. Hai quả là đại bồ-đề và đại niết-bàn. Tu tập trí vô phân biệt thì dứt được hai chướng thô trọng nơi a-lại-da thức, tức chuyển bỏ phần biến kế (tạp nhiễm) của tánh y tha nơi a-lại-da và chuyển được phần viên thành (thanh tịnh) của tánh y tha nơi a-lại-da. Do chuyển phiền não chướng được đại niết-bàn, chuyển sở tri chướng đắc Vô thượng giác. Theo Thành duy thức, đại niết-bàn là: tánh tịnh niết-bàn (chân như bản lai thanh tịnh), hữu dư niết-bàn (chân như xuất phiền não chướng), vô dư niết-bàn (chân như xuất sanh tử khổ) và vô trú niết-bàn (chân như xuất sở tri chướng). Vô trú niết-bàn được đại bi, đại trí vĩnh viễn phụ lực nên không ở sanh tử, không trú niết-bàn, lợi lạc chúng sanh, tận cùng vị lai hoạt dụng mà thường tịch. Đại bồ-đề là: đại viên cảnh trí (chuyển thức thứ tám), bình đẳng tánh trí (chuyển thức thứ bảy), diệu quán sát trí (chuyển thức thứ sáu) và thành sở tác trí (chuyển năm thức trước). Theo Nhiếp luận, 4 trí này phối nhiếp 3 thân, nên đại bồ-đề có chỗ nói về 3 thân.
303. Pháp giới thanh tịnh (tức pháp thân) là do làm sạch nghiệp chướng mà biểu hiện biến hóa thân, do làm sạch hoặc chướng mà biểu hiện thọ dụng thân, do làm sạch trí chướng mà pháp thân tự biểu hiện.
304. Sắc thái chuyển y của Như lai (đã trình bày ở trước) bao gồm chuyển ly, chuyển đắc và 10 thứ công đức sai biệt.
305. Đại tập chúng hội của chư Phật: là đại hội gồm toàn chư vị Bồ tát. Thân Phật mà chúng hội nhìn thấy là tha thọ dụng thân của Phật và tịnh độ mà có đại tập hội này là tha thọ dụng độ của Phật.
306. Giáo hóa và lợi ích chúng sanh bằng 8 tướng thành đạo.
307. Thị hiện hóa thân bao gồm hóa thân của Phật và những hóa thân khác. Cùng lúc hóa thân Phật nhập thai thì cũng hóa thân thành tôn giả Xá lợi phất v.v… nhập thai. Hóa thân như vậy để làm tôn nghiêm cho sự thành Phật của một đức Phật.
308. Thân hình mà hóa thân chư Phật thị hiện gồm có mọi loài, đủ hạng trong mỗi loài, đủ từ thân Phật đến thân địa ngục, kể cả thị hiện “rừng núi, dòng nước, đồng bằng, sông ngòi, ao hồ, suối giếng, ích lợi khắp cả mọi người, ai cũng được độ thoát.” (kinh Địa Tạng)
309. Thực thân và hóa thân đều dựa vào pháp thân mà có.
310. Hóa hiện kỹ nghệ (công xảo) là hiện thân làm người thợ mộc, thợ gốm, thợ in ấn, thầy dạy âm nhạc, nhà toán học v.v…
311. Đức Phật thị hiện giáng sanh, đắc bồ-đề và nhập niết-bàn là đức Phật lịch sử. Tiểu thừa nói hóa thân ấy đã là pháp thân, nhưng Đại thừa nói đức Phật lịch sử là hóa thân, không phải pháp thân.
312. Chư Phật đồng nhất pháp thân, vô lượng thọ dụng thân nhiếp vào thực thân, vô lượng ứng hóa thân nhiếp vào hóa thân.
313. Tức thị hiện thọ dụng thân và hóa thân, vì hai thân này là sắc thân, có thể thấy được.
314. Chư Phật đẳng chứng pháp tánh, nên được 5 thứ tánh hỷ: “Một là năng lực vô lượng, hai là sự thành vô lượng, ba là pháp vị viên mãn, bốn là nghĩa đức viên mãn, được 4 sự tánh hỷ này thì tối thắng, không tội lỗi, năm là thấy thường vô tận.” Năng lực là năng lực của pháp tánh. Sự thành là thành tựu sự nghiệp độ sanh. Pháp vị là diệu nghĩa của pháp tánh đẳng lưu. Nghĩa đức, nghĩa là niết-bàn, đức là công đức vô lậu. Thấy thường là thấy pháp tánh thường trú. Năm sự này đem lại sự đại hoan hỷ của Phật, và xuất sanh từ pháp tánh mà Phật đẳng chứng, nên gọi là tánh hỷ. (Nhiếp luận, H.T Thích Trí Quang dịch chú)
315. Chư Phật lấy tâm thể bản giác làm thân. Tâm thể ấy tách rời phân biệt, chính là pháp tánh đồng nhất, đồng đẳng không gian, phổ biến toàn thể.
316. Tức đại viên cảnh trí, bình đẳng tánh trí, diệu quán sát trí và thành sở tác trí.
317. Bất tác duyên tố phần đoạn: không khởi chấp trước (ngã và ngã sở), phân biệt (năng thủ và sở thủ) gì cả.
318. Hiện hành không gián đoạn: làm hiển hiện và xuất sanh tất cả cảnh giới, ảnh tượng của các trí, sở y của ảnh tượng các thân và quốc độ, nhiệm trì hết thảy công đức của Phật địa, không gián đoạn, suốt cùng vị lai.
319. Liễu tri tất cả cảnh giới: không quên sót, không ngu mê đối với tướng của tẩt cả cảnh.
320. Chướng ngại vĩnh viễn đoạn tận: đối với các pháp sở tri, vĩnh viễn thoát ly dơ bẩn của hết thảy phiền não chướng, chủng tử hữu lậu.
321. Ly các hành tướng, duyên vô phân biệt: hành tướng và sở duyên của cảnh trí vi tế khó biết, nói cách khác, hành tướng thì phi sắc thái danh ngôn và sở duyên là pháp tánh ly ngôn.
322. Chứng pháp hiện tiền là nhập chân kiến đạo, tức loại trừ đối tượng sở duyên là pháp giả danh về hữu tình và các pháp, cũng như đoạn trừ tất cả phiền não thô trọng thuộc loại kiến sở đoạn. Bồ tát khi vào chân kiến đạo, vì trái nghịch với hai thứ chấp (ngã và pháp) mà dẫn khởi bình đẳng tánh trí, quán chiếu hết thảy pháp, tự và tha, hết thảy hữu tình, thảy đều bình đẳng, luôn luôn cùng tương ưng với đại từ bi v.v…
323. Nhiếp luận: “Làm sao biết, trong pháp thân, Phật không rốt ráo có nhập niết-bàn, cũng không rốt ráo không nhập niết-bàn? Ở đây có 1 bài chỉnh cú: Vì tất cả chướng ngại đều đã giải thoát, nên Phật rốt ráo có nhập niết-bàn; nhưng việc làm của Phật thì không bao giờ kết thúc, nên Phật rốt ráo không nhập niết-bàn.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
324. Kệ tụng này có 2 ý chính: 1. Chứng pháp hiện tiền thì được cái tâm bình đẳng đối với mình người; 2. Không nhập niết-bàn vì sự nỗ lực thành thục chúng sanh không bao giờ ngừng nghỉ.
325. Tất cả cảnh giới: tướng riêng và tướng chung của các pháp. Tướng chung là các hành là vô thường, tất cả hành là khổ, các pháp là vô ngã, niết-bàn là tịch tĩnh. Tướng riêng là tự thể riêng biệt của mỗi pháp.
326. Quán trí nhiếp lấy vô lượng đà-la-ni môn và tam-muội môn, và công đức trân bảo phát sanh từ sự quán trí ấy.
327. Thành duy thức luận: “Ở trong các tập hội đại chúng, quán trí tự tại thị hiện vô biên tác dụng sai biệt, làm mưa cơn mưa lớn chánh pháp, dứt trừ mọi nghi hoặc, khiến cho hữu tình thảy đều được lợi lạc.” (Thích Tuệ Sỹ dịch)
328. Thành duy thức luận: “Tâm phẩm này (tác sự trí), vì muốn lợi lạc hữu tình, nên khắp trong cả mười phương thị hiện ba nghiệp được biến hóa qua nhiều hình thái, hoàn thành những điều cần làm theo lực của bản nguyện.” (Thích Tuệ Sỹ dịch)
329. Nhiếp trì, nghĩa là nhận giữ: nhận giữ chánh pháp là căn bản tối quan trọng của sự phát bồ-đề tâm. Nhận giữ chánh pháp bằng tu tập các ba-la-mật, như kinh Thắng Man ghi: “Bạch đức Thế tôn, không có ba-la-mật nào khác, không có sự thu nhận chánh pháp nào khác, mà sự thu nhận chánh pháp chính là ba-la-mật.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
330. Vì đồng thời có vô lượng người viên thành quả vị Phật đà.
331. Sự phân biệt hư vọng của tánh biến kế bị loại bỏ thì tánh chân thật hiển lộ, khi đó Bồ tát phát sanh bình đẳng trí, không phân biệt năng tri và sở tri, “nhập vào Cực hỷ địa, đạt được pháp tánh, sanh nhà Như lai, được tâm bình đẳng đối với chúng sanh, tâm bình đẳng đối với Bồ tát, tâm bình đẳng đối với Phật đà. Và đó là kiến đạo vị của Bồ tát.” (Nhiếp luận)
332. Tu mà không thấy năng thủ và sở thủ, ba luân không tịch.
333. Phật quả là pháp tánh chân như vô tướng, viễn ly tất cả hý luận và thác loạn, tự tại đối với hữu tướng.
334. Xin xem thêm kinh Vị tằng hữu pháp, số 32, Trung A hàm, hay kinh Hy hữu vị tằng hữu pháp, số 123, Trung bộ kinh. Tám tướng thành đạo của Phật là những pháp vị tằng hữu, thí dụ: “Con nghe rằng, khi Đức Thế Tôn vừa mới sanh ra, từ trên hư không nước mưa rưới xuống, một ấm, một lạnh, để tắm thân thể của Thế Tôn. Nếu khi Đức Thế Tôn vừa mới sanh ra, từ trên hư không nước mưa rưới xuống, một ấm, một lạnh, để tắm thân thể của Thế Tôn; con xin thọ trì pháp vị tằng hữu ấy của Đức Thế Tôn.” (Thích Tuệ Sỹ dịch)
335. Ngoài ra, theo Nhiếp luận, có 4 lực để mau thành tựu bồ-đề: 1. Lực chánh nhân, là có sự huân tập đa văn pháp nghĩa Đại thừa; 2. Lực thiện hữu, là được thân cận và phụng sự chư Phật (bao gồm quán Phật là pháp vị tằng hữu); 3. Lực tác ý, là thắng giải chắc chắn; 4. Lực nhiệm trì, là cụ bị 2 loại tư lương phước và trí.
336. Quán chiếu danh, nghĩa, tự tánh và sai biệt của các pháp toàn là giả thiết, chỉ là ý thức. Chính ý thức tạo ra ấn tượng tương tự về danh, nghĩa, tự tánh và sai biệt của các pháp, nên các pháp toàn là không thật, không thể thủ đắc.
337. Bạch pháp thành tựu là viên mãn 6 ba-la-mật mà được 10 tự tại.
338. Chánh thọ là chánh định hiện tiền, tức trạng thái thiền định đã dứt hết loạn tưởng, duyên lự, lãnh thọ được cảnh sở quán. Đức tin chánh thọ là đức tin qua thiền định. Còn phan duyên, chưa được chánh định là đức tin tự thọ (lãnh thọ tương tự).
339. Tin tưởng như 62 kiến chấp của ngoại đạo là điên đảo.
340. Tin tưởng 4 pháp ấn của Phật (vô thường, khổ, vô ngã và niết-bàn hay vô thường, khổ, vô ngã và không) là không điên đảo.
341. Đức tin vào 4 đế, 8 thánh đạo, 4 thánh quả thì không chướng ngại vì toàn là những cái có thể thực hiện ngay trong hiện tại.
342. Đức tin vào pháp tánh chân như, có chướng ngại vì siêu việt hý luận và vì hai chướng chưa đoạn.
343. Đức tin đã phát sanh nhưng lung lay, thay đổi bởi tà thuyết, ngoại đạo.
344. Đức tin đã phát sanh nhưng thiếu tâm cung kính.
345. Đức tin không dao động, không lui sụt và không gián đoạn.
346. Đức tin của Bồ tát ở tư lương vị thuộc thắng giải hành vị, vì còn sự cố chấp và phiền não làm chướng ngại.
347. Đức tin của Bồ tát 10 tín trở lên, vì có được đức tin toàn hảo.
348. Đức tin do dồn chứa hai thứ tư lương phước đức và trí tuệ.
349. Quên mất là thiếu tác ý mến trọng, tùy hỷ và vui thích giáo pháp mà mình tu tập.
350. Thiếu tinh tiến tu tập thì tịnh tín không sanh, huống là thành tựu sự không thoái chuyển.
351. Tác ý phi lý về thường, lạc, ngã và tịnh.
352. Phóng dật là do tham, sân, si và thác loạn làm duyên tố.
353. Giáo pháp liễu nghĩa là kinh điển trình bày chân thật nghĩa (đệ nhất nghĩa đế), tức kinh điển Đại thừa hay Bồ tát tạng.
354. Chỉ ưa nghe pháp, thỏa mãn trong sự nghe ấy mà không tư duy và tu tập.
355. Tác ý đúng lý mả không tu chỉ quán, và có tu chỉ quán mà không có thắng quán. Thắng quán là: 1. Lấy giáo pháp Đại thừa làm đối tượng; 2. Nuôi giữ bằng 2 loại tư lương phước đức và trí tuệ; 3. Thông suốt nhân vô ngã và pháp vô ngã; 4. Thể nhập chân như chánh định, là không bám sự thấy và không ham sự được; 5. Không cầu quả báo dị thục khả ái.
356. Đức tin hiện tại (đức tin đã phát sanh) có năng lực tăng thượng phước đức rộng lớn vì phát sanh tịnh tín đối với chánh pháp.
357. Đức tin quá khứ (đức tin đã phát sanh) là đời trước đã sanh tịnh tín đối với chánh pháp, nuôi lớn thiện căn, nên đời này không có hối tiếc vì không có thiện căn.
358. Chánh đạo là bát chánh đạo (con đường tám chánh): chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tiến, chánh niệm và chánh định. Quy nạp tám chánh đạo thành tam vô lậu học của Bồ tát: giới tăng thượng, định tăng thượng và tuệ tăng thượng.
359. Không thoái lui đối với giáo pháp Đại thừa, không từ bỏ sanh tử.
360. Được cái định không còn gián đoạn (vô gián định) thì đứng bên cạnh hiện quán, tức gần được tuệ giác vô lậu chứng được chân thật. Từ đó ngộ nhập duy thức, hiện chứng pháp tánh, được kiến đạo vị, bước vào các địa.
361. Qui tàng lục: Rùa thu rút 6 chi (đầu, đuôi và 4 chân) vào mai, chỉ cho sự thu nhiếp 6 căn không cho 6 trần làm nguy hại. Tạp a hàm, quyển 43, kinh Con rùa, số 1167: “Này các tỳ-kheo, ngày nay các ông cũng lại biết như vậy. Ma Ba tuần luôn luôn dò xét tìm cơ hội bên các ông. Mong đợi mắt các ông đắm sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý nhớ pháp mà xúi dục sanh tâm đắm nhiễm sáu trần. Cho nên tỳ-kheo, các ông phải luôn luôn giữ gìn luật nghi của mắt. Khi đã giữ gìn an trụ nơi luật nghi của mắt rồi, dù mắt có sanh khởi hoặc duyên cảnh đi nữa thì ác ma Ba tuần cũng không thể tìm được cơ hội. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như vậy. Dù sáu căn kia có sanh khởi hoặc duyên cảnh đi nữa, thì chúng cũng không thể tìm được tiện lợi. Giống như con rùa (thu hết đầu đuôi và bốn chân vào trong mai), dã can không thể tìm được cơ hội nào (ăn thịt).” (Thích Đức Thắng dịch)
362. Thiền định thế gian bao gồm thiền định ngoại đạo và thiền định phàm phu. Người tu thiền định ngoại đạo thì mang theo những suy luận thuần lý đầy tham ái và chấp thủ kiến mà tu 6 hành quán (còn gọi là hân yểm quán: yểm khổ, thô và chướng, hân tịnh, diệu và ly). Họ tu tập thiền định qua con đường “nhiệt tâm, tinh tiến, cần mẫn, không phóng dật, chánh ức niệm nên tâm nhập định”. Do tâm nhập định họ biết được nhiều đời sống quá khứ, nhiều thành kiếp hoại kiếp, nhiều trăm ngàn thành kiếp, hoại kiếp, và họ chấp thủ vào cái thấy qua ký ức giới hạn ấy. Đức Phật đã xác nhận, “các kiến chấp của họ là do xúc phạm các căn”, do “cảm thọ qua các định” và “do bị tham ái chi phối” mà có (Trường bộ kinh, kinh Phạn võng). Kết quả tu tập thiền định ngoại đạo là do tu tập thuần túy thiền chỉ và thiếu sự giác tỉnh về vô ngã tính, duyên sanh tính của các pháp nên rơi vào tham ái và chấp thủ, dù họ có thể vào đến định Phi tưởng phi phi tưởng và thấy được rất xa các đời quá khứ về con người và thế giới. Người tu thiền phàm phu thì chánh tín nhân quả mà tu 6 hành quán.
363. Chúng sanh trong nhân đạo thì vô hạn là nói đồng thời có vô lượng người viên thành quả vị Phật, và chỉ có con người mới đầy đủ nhân tố để thành Phật. Thế giới trong mười phương thì vô hạn là nói vô lượng thế giới, vô lượng đại lục Thiệm bộ cùng lúc đều có Phật xuất hiện, và vì thế giới vô lượng nên không có 2 đức Như lai cùng xuất hiện trong một thế giới. Từng sát-na tiếp nối cùng tận vị lai biên tế thì vô hạn là nói trong mọi thời gian đều có người viên thành quả vị Phật.
364. Là nghi hoặc về đối tượng của sự tu hiện quán mà có thủ đắc, như thủ đắc về: 5 uẩn, 12 xứ, 12 duyên khởi, 4 thực, 4 đế, 18 giới và 37 giác phần (: 4 niệm trú, 4 chánh cần, 4 thần túc, 5 căn, 5 lực, 7 giác chi và 8 thánh đạo).
365. Tức nhận thức các pháp mà mình thủ đắc chính là chân như thắng nghĩa bất nhị, phổ biến toàn thể và đồng nhất tánh vị.
366. Cái có … cái không: Cái có là thấy có 5 dục. Cái không là 62 kiến chấp, mà toàn là không phải sự thấy chính xác.
367. Pháp của Phật dạy không ngoài hai thứ là pháp vô lậu thắng nghĩa (niết-bàn) và pháp hữu lậu pháp tướng. Trí tuệ quán sát pháp tướng và chứng nhập niết-bàn thì gọi là đối pháp trí hay A-tỳ-đàm (a tỳ đạt ma).
368. Ba học: giới học, tâm học và tuệ học.
369. Trung A hàm, Tương ưng tập, kinh Hà Nghĩa nói tiến trình từ giữ giới đưa đến định như sau: “Một thời Đức Phật trú tại nước Xá vệ, trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ vào lúc xế chiều, tôn giả A nan rời chỗ độc cư tĩnh tọa đứng dậy, đến trước đức Phật, đảnh lễ dưới chân rồi ngồi sang một bên, thưa rằng: Bạch Thế Tôn, giữ giới có mục đích gì?. Đức Thế Tôn Đáp: Này A Nan, giữ giới có mục đích khiến cho không hối hận. Này A Nan, nếu ai giữ giới, người ấy được sự không hối hận. Bạch Thế Tôn, không hối hận thì có mục đích gì? Này A Nan, không hối hận thì có mục đích khiến cho được hân hoan . A Nan, nếu ai không hối hận, người ấy được sự hân hoan. Bạch Thế Tôn, hân hoan có mục đích gì? Này A Nan, hân hoan có mục đích khiến cho có hỷ. Này A Nan, nếu ai hân hoan, người ấy có hỷ. Bạch Thế Tôn, hỷ có mục đích gì? Này A Nan, hỷ có mục đích khiến cho an chỉ. Này A Nan, nếu ai có hỷ, người ấy có an chỉ của thân. Bạch Thế Tôn, an chỉ có mục đích gì? Này A Nan, an chỉ có mục đích khiến cho lạc. A Nan, nếu ai có an chỉ người ấy có cảm thọ lạc. Bạch Thế Tôn, lạc có mục đích gì? Này A Nan, lạc có mục đích khiến cho có định. A Nan, nếu ai có lạc người ấy có định. ….” (Thích Tuệ Sỹ dịch)
370. Trước hết cần hiểu nghĩa đảo ngược (điên đảo nghĩa): đối với thân tâm (5 sắc căn, tâm ý thức và các tâm sở) và thế giới của thân tâm, chúng sanh sống và thọ dụng trong đó, nhưng có ý tưởng thác loạn, tâm thác loạn, thấy thác loạn cho “vô thường là thường, khổ là vui, bất tịnh là tịnh, vô ngã là ngã”. Nghĩa không đảo ngược (bất điên đảo nghĩa) là mâu thuẫn với những sự đảo ngược ở trên, và có sức đối trị những sự đảo ngược ấy.
371. Pháp là chánh pháp, giáo pháp, pháp môn. Nghĩa là nghĩa lý của pháp.
372. Trường hợp tôn giả Xá lợi phất và tôn giả Mục kiền liên chứng đắc a la hán do nghe một bài kệ ngắn, hay tôn giả Kiều trần như trở thành một bậc thánh Nhập lưu do nghe một bài pháp ngắn là kinh Chuyển pháp luân (Dhammacakkappavattana Sutta).
373. Theo Nhiếp Đại thừa luận thích luận, chương Vô đẳng thánh giáo ghi: “Lại nữa Tỳ na da có bốn thứ nên biết: 1. Tội lỗi; 2. Duyên khởi; 3. Hoàn tịnh; 4. Xuất ly. Tội lỗi là ngũ thiên tội. Duyên khởi là sự sanh khởi tội, có bốn nguyên do: một là vô tri, hai là phóng dật, ba là phiền não mạnh mẽ, bốn là tâm không tôn trọng. Hoàn tịnh là nhờ tịnh tâm nên chẳng cần pháp trị phạt, đó là nhờ sự nhiếp trì cấm giới. Xuất ly có bảy loại: một là tự nói lời phát lồ; hai là đem những học pháp ra mà trị phạt; ba là một mặt cấm đoán bằng cách lập ra những học cú, lại cho nghe những đạo lý riêng biệt; bốn là giải bỏ, là chúng tăng cùng đồng ý giải tội; năm là chuyển thân, là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni chuyển đổi nam nữ căn mà không cùng tội; sáu là quán chân thật, là tác thắng quán pháp trong uất đà na; bảy là được pháp như vậy, là đã được kiến đạo.”
374. Ngũ tụ tội: Còn gọi là ngũ chúng tội, ngũ chúng tụ tội, ngũ thiên tội. Đó là tội Ba la di, tội Tăng tàn, tội Ba dật đề, tội Thâu lan giá và tội Đột cát la.
375. Phiền não vừa thô trọng, vừa lừng lẫy.
376. Ngăn chận bằng phương pháp sám hối, tức đối trước 1 vị tỳ-kheo hay 4 vị tỳ-kheo mà phát lồ sám hối.
377. Tỳ-kheo nào vi phạm tội Ba-la-di thì mất tỳ-kheo giới và buộc phải khai trừ vĩnh viễn ra khỏi Tăng đoàn. Tuy nhiên, trường hợp người phạm biết ăn năn hối hận, nếu bắt tội không cho sám hối thì họ có thể buồn nản và tự tử. Họ thương chiếc áo ca-sa, ưa đời sống tu sĩ quá, vì vậy khi phạm họ cũng rất ăn năn hối hận. Trường hợp này luật cũng cho phép họ học pháp Ba-la-di (dữ học, 與學). Người muốn học pháp Ba-la-di cũng đối trước chúng Tăng 20 người để xin phép và chúng Tăng 20 người yết-ma cho phép học pháp Ba-la-di. Ngoài ra còn phải trọn đời thọ trì 35 việc, thành vị dữ học tỳ-kheo (Thập tụng luật gọi là dữ học sa-di). Khi được phép rồi vẫn không được tham dự Tăng sự, chỉ được giữ hình thức tu sĩ ở trong chùa, làm các khổ hạnh, thừa sự đại chúng tỳ-kheo, trọn đời ở dưới các vị tỳ-kheo thanh tịnh, nhưng được ở trên các vị sa-di.
378. Phật dạy tỳ-kheo không ăn quá giờ ngọ, trừ một vài trường hợp như khi đau ốm, luật cũng châm chước cho được ăn cơm cháo sau giờ ngọ, nhưng khi ăn phải sanh lòng hổ thẹn.
379. Tỳ-kheo chuyển nam căn có 4 căn bản tội, tỳ-kheo ni chuyển nữ căn có 8 căn bản tội. Số mục căn bản tội của hai người không giống nhau. Tỳ-kheo chuyển căn thành tỳ-kheo ni mà trước đó đã phạm tỳ-kheo giới thì không cùng tội như tỳ-kheo ni; sau khi chuyển căn làm tỳ-kheo ni, tuy chưa sám hối, cũng có thể hoàn tịnh. Tỳ-kheo ni chuyển căn cũng xét như vậy.
380. Ưu đà na (Udana nghĩa là tự thuyết), là kinh Phật tự nói chứ không ai hỏi được (vô vấn tự thuyết). Ở đây là chỉ cho kinh Pháp ấn, nói về ba cánh cửa giải thoát (tam giải thoát môn): không, vô tướng và vô tác (vô thường, vô ngã và khổ). Tỳ-kheo quán chiếu ba pháp ấn này mà đạt giải thoát bằng trí tuệ. Những tội vi tế được giải thoát bằng thắng quán này.
381. Pháp nhĩ: các pháp là thế đó, tức nói các pháp thường đồng thường biệt (thường duy nhất mà thường sai biệt). Như nói, tâm thể thì duy nhất nhưng tâm dụng có sai biệt.
382. Pháp sở duyên (sở duyên pháp): Tất cả pháp toàn là sở duyên của tâm và tâm sở pháp; như 6 thức và pháp tương ưng của nó duyên với 6 trần.
383. Bước đầu tu quán (tỳ-bát-xá-na) là tu 4 niệm xứ, theo thứ đệ: 1. Tu biệt tướng 4 niệm xứ, là quán riêng 4 thứ thân, thọ, tâm, pháp; 2. Tu pháp niệm xứ tổng tạp (chung 2 đến 4 niệm xứ mà quán), là quán cả 4 thứ đều vô thường, khổ, không, vô ngã (gọi là 4 hành tướng).
384. Vô nhị nghĩa, tức không có hai nghĩa: là có và không không hai, là năng thủ và sở thủ không hai.
385. Nghĩa năng thủ là 5 sắc xứ ở trong (hay 5 sắc căn), tức tâm ý thức và các tâm sở. Nghĩa sở thủ là 6 xứ ở ngoài. Quán riêng nghĩa sở thủ và nghĩa năng thủ, là ngoại quán nhiều hơn nội quán. Quán riêng nghĩa năng thủ và nghĩa sở thủ, là nội quán nhiều hơn ngoại quán.
386. Nghĩa năng thủ cũng chính là nghĩa sở thủ.
387. Tịnh trì ý ngôn cảnh: Ý thức (ý ngôn) thuộc chủng loại đa văn huân tập giáo pháp và thuộc về tác ý đúng lý, mà kiến phần của nó có cái ấn tượng tương tự pháp và nghĩa, từ ý thức đó tu tập thêm lên thì thấy pháp và nghĩa chỉ là ý thức, chỉ là giả thiết.
388. Chỉ cho cực tịnh cảnh.
389. Theo Nhiếp luận, có 11 thức: “Các thức ấy là gì? Là thức thân, thức chủ thể của thân, thức chủ thể của sự tiếp nhận, thức được tiếp nhận, thức tiếp nhận, thức thì gian, thức số mục, thức thế giới cư trú, thức nói năng, thức mình người, thức đường lành đường dữ.” Thân (thân) là cái tổng thể gồm có 5 giác quan. Chủ thể của thân (thân giả) là ý ô nhiễm. Chủ thể của sự tiếp nhận (thọ giả) là ý vô gián diệt. Được tiếp nhận (bỉ sở thọ) là 6 cảnh. Tiếp nhận (bỉ năng thọ) là 6 thức. Thời gian (thế) là vị lai hiện tại quá khứ liên tục. Số mục (số) là những số mục hàng lẻ, hàng chục, v.v... Thế giới cư trú (xứ) là thế giới chúng sanh cư trú. Nói năng (ngôn thuyết) là ngôn ngữ xuất từ thấy nghe hay biết. Mình người (tự tha sai biệt) là bản thân với tha thân. Đường lành đường dữ (thiện thú ác thú tử sanh) là những nẻo đường sanh tử. Tất cả 11 thứ này đều gọi là thức, là vì liên hệ đến thức, do thức biểu thị. (H.T Thích Trí Quang dịch chú)
390. Nghĩa là nghĩa của các pháp. Nghĩa quang là cái ấn tượng tương tự về nghĩa bởi ý thức.
391. Tức nghĩa quang chỉ là ý thức.
392. Chỉ có danh, tức chỉ là giả thiết. Đây là ở trong tâm tùy thuận tâm mà tu quán niệm xứ.
393. Thanh văn tác ý tứ đế; Duyên giác tác ý duyên sanh; Bồ tát tác ý nhân vô ngã và pháp vô ngã.
394. Tác ý của Bồ tát ở thắng giải hành vị (gồm cả tư lương vị và gia hành vị của Duy thức luận).
395. Người tại gia tác ý dục, sân và hại, nên bị dồn ép, khốn đốn. Người xuất gia tác ý ly dục, vô sân và vô hại, nên không bị dồn ép, không bị khốn đốn. (kinh Song tầm, Trung bộ kinh)
396. Nhiếp luận: “Nếu các Bồ tát niệm pháp thân của Phật, thì nên niệm bằng mấy mặt? Đại lược mà nói, thì Bồ tát niệm pháp thân của Phật bằng 7 mặt sau đây. Một là chư Phật hoàn toàn tự tại đối với tất cả các pháp, nên niệm Phật như vậy, vì Phật thì thần thông vô ngại đối với toàn thể các thế giới hệ. Hai là thân chư Phật thường trú, nên niệm Phật như vậy, vì Phật thì chân như đã vô gián thoát hết dơ bẩn. Ba là chư Phật tối thắng, không tội lỗi, nên niệm Phật như vậy, vì Phật thì tất cả phiền não chướng và sở tri chướng đều đã thoát ly. Bốn là chư Phật không còn dụng công, nên niệm Phật như vậy, vì Phật thì không còn dụng công mà mọi việc Phật làm đều không ngừng nghỉ. Năm là chư Phật hưởng thụ rất giàu vui, nên niệm Phật như vậy, vì tịnh độ của Phật thì rất giàu vui. Sáu là chư Phật rời hết ô nhiễm, nên niệm Phật như vậy, vì Phật thì sống trong đời mà việc đời không thể ô nhiễm. Bảy là chư Phật làm thành việc lớn, nên niệm Phật như vậy, vì Phật thì thị hiện thành đẳng giác, thị hiện nhập niết-bàn, v/v, tất cả chúng sanh ai chưa thành thục thì Phật làm cho thành thục, ai thành thục rồi thì Phật làm cho giải thoát. Chư Phật viên mãn những mặt như vậy, người có trí nên niệm chư Phật về mọi mặt ấy.” (H.T Thích Trí quang dịch)
397. Đối với Tam bảo, Đại thừa sanh khởi tín tâm, hoan hỷ và phát quảng đại nguyện. Như luận Đại thừa trang nghiêm kinh, phẩm Quy y, thứ 3 có ghi: “Sự quy y của Đại thừa có ba thứ thù thắng dũng mãnh: 1. Nguyện thù thắng dũng mãnh, là khi quy y Phật thì cầu quả đại bồ-đề, sanh nhiều hoan hỷ và biết công đức thù thắng (của sự quy y ấy); 2. Hạnh thù thắng dũng mãnh, là khi khởi sự tu hành thì không lùi bước, khuất phục trước những khổ hạnh khó làm; 3. Quả thù thắng dũng mãnh, là (từ nay) cho đến khi thành Phật cùng với tất cả chư Phật bình đẳng trong bản thể viên giác.”
398. Tác ý an trú thiền định: chỉ cho tứ thiền, bát định, cho đến ba tam-muội. Ba tam-muội chỉ cho ba định hay ba chánh định, đó là: 1. Không môn, tức là lúc hành giả vào định, quán tất cả các pháp đều không, không có ngã cùng ngã sở, các hành đều vô thường, không chân thật. 2. Vô tướng môn, còn gọi là vô tưởng, vì nhờ quán nhân không nên hành giả không khởi lên ý niệm chấp thủ vào tướng các pháp. 3. Vô nguyện môn, còn gọi là vô tác, vô dục, vì nhờ quán vô tướng đối với các pháp nên đối với sự tương tục sanh tử đời vị lai không khởi lên mong cầu ái nhiễm nữa.
399. Phương tiện là giới, định, đặc biệt là chánh niệm. Chánh niệm là tư duy và ký ức được tập trung vào chánh pháp mà mình văn, tư, tu.
400. Tu-đa-la (Sutra, tức là khế kinh) là thể văn trường hàng trong các kinh nói thẳng pháp nghĩa. Ưu-đà-na (Udana, tức là tự thuyết, hay vô vấn tự thuyết) là Phật tự nói chứ không có ai hỏi. Già-đà (Gāthā, tức là phúng tụng hay cô khởi tụng) là thể văn chỉnh cú không theo trường hàng mà tự nói pháp nghĩa. A-ba-đà-na (Avadāna, tức là thí dụ) là nói những thí dụ [để thuyết pháp].
401. Danh duyên, cú duyên, tự duyên: Đây là chia ngôn ngữ và nội dung của nó thành ba loại nguyên lý. Danh có nghĩa là danh từ (danh thuyên tự tính); cú, như núi cao, nước chảy, v.v… là giải bày nghĩa lý (cú thuyên sai biệt); tự là tự mẫu và tự vận như a, I, u, b, c, k,… người ta nhờ chữ mà phát thành tiếng, nhờ danh mà nói lên đối tượng và nhờ cú mà phát biểu nghĩa lý.
402. Nhân vô ngã duyên, pháp vô ngã duyên: tác ý duyên theo tánh chân thật.
403. Sắc duyên và vô sắc duyên: sắc duyên là tác ý duyên sở thủ tướng phần của tánh y tha. Vô sắc duyên là tác ý duyên năng thủ kiến phần của tánh y tha.
404. Chỉ cho tác ý thông đạt 4 đế.
405. Đắc, tập, đoạn, đối trị (得,習,斷,對治): thủ đắc điều thiện chưa sanh, tích tập điều thiện đã sanh, đoạn trừ điều ác đã sanh, đối trị điều ác chưa sanh.
406. Năm căn: tín căn, tiến căn, niệm căn, định căn và tuệ căn.
407. Năm chướng: tà tín, biếng nhác, tà niệm, dục phiền não và các hoặc của 3 cõi.
408. Bảy giác phần = bảy giác chi: niệm giác chi, trạch pháp giác chi, tinh tiến giác chi, hỷ giác chi, khinh an giác chi, định giác chi, xả giác chi.
409. Từ thắng giải hành địa, văn tư tu tuần tự tăng thượng, nên ở địa thứ nhất hiện chứng pháp giới, còn gọi là tịnh trì địa nghiệp (淨持地業).
410. Tư duy phân biệt: 1. Kiến đạo vị: “Đức Thế tôn dạy đại Bồ tát Từ thị: Thiện nam tử, nếu Bồ tát đã được chỉ quán bằng cách căn cứ bảy chân như, đúng như cái pháp đã nghe và đã nghĩ, do tâm trí của chánh định siêu việt mà bên trong tự chánh tư duy về tánh chân như đã khéo thẩm định khéo tư lượng và khéo thiết lập, thì vì chánh tư duy chân như nên đối với sự hiện hành của tế tướng tâm trí còn bỏ được, huống chi đối với sự hiện hành của thô tướng. Tế tướng là ấn tượng chấp thọ, lãnh nạp, liễu biệt và nhiễm tịnh (thân, thọ, tâm, pháp), là ấn tượng pháp trong, pháp ngoài và trong ngoài, là ấn tượng cho rằng mình làm mọi sự lợi ích chúng sanh, là ấn tượng chánh trí, chân như, là ấn tượng khổ tập diệt đạo, là ấn tượng hữu vi, vô vi, là ấn tượng hữu thường, vô thường, là ấn tượng khổ có biến dị, khổ không biến dị, là ấn tượng hữu vi đa dạng, hữu vi đồng nhất, là ấn tượng tất cả được có bởi biết tất cả là tất cả (= biết tất cả pháp có tất cả tướng), là ấn tượng nhân vô ngã, pháp vô ngã, mọi ấn tượng như vậy tâm trí Bồ tát loại bỏ được cả. Bồ tát ở nhiều trong sự tu hành như thế này nên lúc nào cũng khéo sửa trị tâm trí của mình trong mọi sự ràng buộc, ngăn che và xao động. Từ đó về sau, đối với bảy chân như có bảy cái trí thông suốt, tự chứng bên trong, được riêng biệt sanh ra, và gọi là Kiến đạo vị. Do được như vậy nên gọi là vị nhập vào chánh tánh ly sanh của Bồ tát, vị sanh vào nhà Như lai, vị chứng đắc Bồ tát địa đầu tiên, vị hưởng dụng mọi thành quả siêu việt của Bồ tát địa này.” 2. Tu đạo vị: “Bồ tát như vậy, trước đây được chỉ quán bằng cách được đối tượng có phân biệt (do tác ý thắng giải) và đối tượng không phân biệt (do tác ý chân thật), nay được Kiến đạo vị là được thêm đối tượng biên tế các pháp (= tánh tận sở hữu và tánh như sở hữu). Rồi các giai đoạn liên tiếp về sau, trong tất cả Bồ tát địa còn lại, thì tiến tu Tu đạo vị, bằng cách tác ý tư duy cả ba đối tượng nói trên.” (Kinh Giải thâm mật, H.T Thích Trí Quang dịch)
411. Ba giới, tức tam tụ tịnh giới, là 3 nhóm giới của Bồ tát: 1. Nhiếp luật nghi giới (dứt các điều ác); 2. Nhiếp thiện pháp giới (hành các điều lành); 3. Nhiêu ích hữu tình giới (độ tất cả chúng sanh).
412. Pháp trú tướng bất vong (法住相不忘): Pháp trú tướng, hay pháp trú tánh (法住性), cũng gọi là pháp trú, pháp giới (法住, 法界), pháp tánh. Tạp a hàm, kinh Nhân duyên, số 296: “Thế nào là pháp duyên sanh? Là vô minh, hành ... dù Phật có xuất hiện hay chưa xuất hiện ở thế gian thì pháp này vẫn thường trụ, pháp trụ, pháp giới. Pháp này Như Lai đã tự giác tri, thành Đẳng chánh giác, vì người diễn nói, chỉ dạy, hiển bày rằng: Duyên vô minh có hành, cho đến, duyên sanh nên có già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não.” (Thích Đức Thắng dịch)
413. Tâm trú vô tưởng: nơi chân như pháp tánh ly ngôn sanh khởi vô phân biệt, tâm trú vô tướng.
414. Chuyển y: chuyển bỏ 2 trọng chướng (phiền não chướng và sở tri chướng) mà chuyển được 2 đại quả (đại niết-bàn và đại bồ-đề).
415. Tám đạo phần chủng tu này có sai biệt với 8 chánh đạo thường biết.
416. Du-già (yoga) dịch nghĩa là tương ưng (thích ứng với nhau), chính yếu là tương ưng chỉ (xa-ma-tha) và quán (tỳ-bát-xá-na). Kinh Giải thâm mật: “Vào lúc bấy giờ đại Bồ tát Từ thị thưa Phật: bạch đức Thế tôn, trong Đại thừa, các vị Bồ tát y cứ vào chỗ nào và trú ở vào chỗ nào mà tu tập chỉ quán? Đức Thế tôn dạy đại Bồ tát Từ thị: Thiện nam tử, hãy nhận thức rằng, trong Đại thừa, các vị Bồ tát tu tập chỉ quán thì lấy giáo pháp của Như lai thiết lập mà làm chỗ y cứ, lấy sự không bỏ mất tâm nguyện vô thượng bồ-đề mà làm chỗ trú ở.” Lấy giáo pháp của Như lai thiết lập mà làm chỗ y cứ, nghĩa là “đối với giáo pháp ấy, Bồ tát khéo lắng nghe, khéo tiếp nhận, văn khéo rành rẻ, ý khéo tìm tòi, thấy khéo thông suốt; rồi chính nơi giáo pháp phải khéo tư duy như vậy, Bồ tát một mình ở chỗ không phiền không ồn mà tác ý tư duy; sự tư duy này phải được nội tâm liên tục tác ý tư duy: hễ đứng vững rất nhiều trong cái chánh hạnh ấy, sanh ra sự khinh an nơi thân và sự khinh an nơi tâm, thì đó là chỉ, và Bồ tát như vậy là cầu về chỉ. Bồ tát này do cái thân tâm khinh an trên đây làm nền tảng, đối với ấn tượng chánh định theo giáo pháp phải khéo tư duy nói trên, hãy quan sát, thắng giải, bỏ cái tâm tướng về chỉ: hễ đối với ấn tượng chánh định cần phải chứng biết ấy mà chính xác quyết trạch, cùng cực quyết trạch, tầm tư toàn bộ, tứ sát toàn bộ, rồi xác nhận, ưa thích, hiểu biết, nhìn thấy, xét thấy, thì đó là quán, và Bồ tát như vậy là khéo về quán.” (H.T Thích Trí Quang dịch) Cho thấy, chỉ và quán là tự tánh của chánh lý Du già.
417. Nhiếp luận nói, a-lại-da có 3 sự huân tập sai biệt: 1. Danh ngôn huân tập sai biệt; 2. Ngã kiến huân tập sai biệt; 3. Hữu chi huân tập sai biệt. H.T Thích Trí Quang giải thích: Danh ngôn huân tập: danh ngôn là các pháp. Các pháp mà gọi là danh ngôn, là vì các pháp là những khái niệm. Khái niệm là danh ngôn. Danh ngôn có 2 loại: chính khái nhiệm là biểu thị các pháp, nên gọi nó là danh ngôn hiển cảnh; rồi ngôn ngữ văn tự truyền đạt danh ngôn hiển cảnh thì gọi là danh ngôn biểu nghĩa. Nói danh ngôn huân tập cũng như nói các pháp huân tập, huân tập thành ra chủng tử tương lai của các pháp, các pháp tương lai do chủng tử ấy mà hiện hành. Nên danh ngôn huân tập là duyên khởi thứ nhất, duyên khởi ra tự tánh khác nhau. Ngã kiến huân tập là mạt-na (ý ô nhiễm) ý thức a-lại-da làm tự ngã. Ý thức tự ngã này huân tập thành ra chủng tử thấy có mình có người, tự thể (sanh mạng) khác nhau. Hữu chi huân tập, hữu chi là 12 nhân duyên. Do hữu chi huân tập, bằng các nghiệp phước, phi phước và bất động, mà có ra tự thể (và quả báo của tự thể) là 3 cõi 6 đường đáng ưa và đáng ghét. Ngã kiến huân tập và hữu chi huân tập là tăng thượng duyên, tức duyên khởi ra tự thể khác nhau. Tóm lại, do 3 sự sai biệt trên đây mà thấy a-lại-da vừa là chất liệu, vừa là tổ hợp, đối với nhân sanh vũ trụ.
418. Theo Nhiếp luận, a-lại-da là thức, mà là thức có đủ 2 phần tướng kiến, cho thấy a-lại-da là căn bản của các pháp, là chủ thức của các thức, hơn là 1 thức bình thường. Nếu chỗ nào qui định a-lại-da là thức, thì ở đó tất cả 11 thức khác là tướng phần, còn ý thức [trong đó] và mọi thức nó dựa vào là kiến phần.
419. Pháp lưu, tức đẳng lưu chánh pháp: Chánh pháp được tuyên thuyết có cùng căn nguyên tự tính với pháp giới thanh tịnh. Nhiếp luận thích: “Giáo pháp, như kinh điển v.v., tuôn chảy ra từ nguồn pháp giới tối thanh tịnh, gọi là đẳng lưu của pháp giới tối thanh tịnh. Huân tập phát khởi do sự nghe trực tiếp này được gọi là sự huân tập (do nghe). Chính cái được huân tập này tồn tại trong thức a-lại-da làm nguyên nhân phát khởi tâm xuất thế (vô lậu).”
420. Danh thân, cú thân và văn thân là tổng thuyết (hợp thể) của ý tưởng, chương cú và âm tiết. Trong đó, danh thân chỉ các danh từ như rūpa (sắc), śabda (thanh), v.v.; cú thân, chỉ thành cú hay mệnh đề như anityā bata samskārāḥ (ôi, các hành là vô thường). Văn thân là âm tiết như nguyên âm: a ā i ī; phụ âm: k, c, ṭ, t, p. (trong tiếng Pali).
421. Danh và nghĩa là danh và nghĩa của các pháp. Thí dụ bút là danh, để viết là nghĩa. Danh và nghĩa đều có tự tánh và sai biệt (đặc tánh và chi tiết) của danh và nghĩa. Bút mực hay bút chì (tự tánh) và bút mới hay cũ (sai biệt), đó là tự tánh và sai biệt của nghĩa. Tên gọi cho tự tánh và sai biệt của nghĩa là tự tánh và sai biệt của danh. Tầm tư về danh và nghĩa (cũng như tự tánh và sai biệt của danh và nghĩa) thì thấy toàn là giả thiết, chỉ là ý thức. Chữ cái (alphabet) chưa tạo thành danh và nghĩa nên không phải đối tượng phân biệt.
422. Ở noãn vị, chứng tri danh và nghĩa đều không thực sự tồn tại. Danh và nghĩa cùng hỗ tương xác lập, sanh khởi, nhưng đều do tâm tạo tác, giả lập. Khách trần phiền não là phiền não như khách trọ, đến rồi đi.
423. Ở đảnh vị, chứng ngộ các pháp biểu hiện bởi năng thủ và sở thủ đều không thực có, đều là tánh y tha của tâm và tâm sở, như lấy tay đè lên mắt thì có thể thấy 2 mặt trăng giống nhau. Liễu tri cái nhân tố mà ngoại cảnh hiện khởi là tâm, gọi là thông đạt hiện tướng.
424. Ở nhẫn vị, đối với 6 trần cảnh thì rời xa phân biệt chấp trước, chứng ngộ cảnh sở thủ là vô sở duyên, tức thông đạt vô duyên của nghĩa. Nhiếp luận: “Nếu đã loại bỏ cái ý tưởng duy thức vốn thuộc chủng loại đa văn huân tập của ý thức, thì bấy giờ Bồ tát đã loại bỏ ấn tượng thật có, mọi ấn tượng tuồng như thật có không thể phát sanh, nên cái ý tưởng duy thức cũng không sanh được. Vì lý do ấy mà đứng ở chỗ mọi nghĩa đều không có danh riêng, sống thích ứng với sự hiện thấy pháp tánh. Bấy giờ là Bồ tát đã phát sanh cái trí bình đẳng, không phân biệt năng tri sở tri, do đó mà vị Bồ tát này được gọi là ngộ nhập viên thành.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
425. Ở thế đệ nhất pháp, chứng ngộ 6 thức năng duyên 6 trần cảnh đều vô tự tánh, tức thông đạt vô duyên của năng duyên.
426. Sau khi chứng ngộ vô duyên của nhị thủ, nhập kiến đạo vị, vào địa thứ nhất, thông đạt viễn ly nhị thủ, biến hành pháp tánh của pháp giới, gọi là thông đạt pháp giới.
427. Nhân vô ngã và pháp vô ngã: Hàng Thanh văn khi kiến đạo thì chứng ngộ nhân vô ngã, tức ở nơi ngũ uẩn mà hiện chứng không có nhân ngã, chứng quả dự lưu. Bồ tát kiến đạo, không chỉ có chứng ngộ nhân vô ngã, mà còn chứng ngộ ngũ uẩn như huyễn hóa, hiện chứng pháp vô ngã, tức các pháp vô tự tánh.
428. Tâm hạ liệt và tâm cao đại: Hàng tứ quả Thanh văn và Duyên giác vì cầu lợi mình nên chưa hứng ngộ được pháp vô ngã. Hàng thập địa Bồ tát và các bậc thiện thệ vì cầu lợi mình và lợi người mà viên chứng pháp vô ngã.
429. Khi kiến đạo vào địa thứ nhất, hiện chứng pháp giới, trong một sát-na có thể gặp 100 đức Phật, được 1200 công đức.
430. Từ địa thứ hai có được 12 ngàn công đức, cho đến địa thứ mười, nơi mỗi địa công đức càng thêm lên, không gián đoạn.
431. Tự tại của hàng Thanh văn chứng ngộ nhân vô ngã, không còn phiền não chướng.
432. Tự tại của hàng Bồ tát không còn chướng ngại bởi phiền não chướng và sở tri chướng, tức chứng ngộ nhân vô ngã và pháp vô ngã.
433. Tự tại do chứng đắc pháp thân. Nhiếp luận: “Pháp thân do mấy thứ tự tại mà tự tại? Đại lược do 5 thứ. Thứ nhất do sự tự tại về quốc độ, về bản thân, về tướng hảo, về âm thanh vô biên, về tướng vô kiến đảnh, ấy là do chuyển chỗ y cứ của sắc uẩn. Thứ hai do sự tự tại về cái vui rộng lớn, không tội lỗi và không số lượng, ấy là do chuyển chỗ y cứ của thọ uẩn. Thứ ba do sự tự tại về hùng biện tất cả danh thân, cú thân và văn thân, ấy là do chuyển chỗ y cứ của tưởng uẩn. Thứ tư do sự tự tại hóa hiện, biến đổi, dẫn nhiếp đại chúng, dẫn nhiếp bạch pháp, ấy là do chuyển chỗ y cứ của hành uẩn. Thứ năm do sự tự tại về đại viên cảnh trí, bình đẳng tánh trí, diệu quan sát trí, thành sở tác trí, ấy là do chuyển chỗ y cứ của thức uẩn.” “Pháp thân thích ứng với mấy đức? Thích ứng với 20 công đức tối thanh tịnh: 4 tâm vô lượng, giải thoát, thắng xứ, biến xứ, vô tránh, nguyện trí, 4 trí vô ngại, 6 thần thông, 30 tướng đại trượng phu, 80 tùy hình hảo, 4 tất cả tướng thanh tịnh, 10 lực, 4 vô úy, 3 bất hộ, 3 niệm trú, bạt nhổ tập khí, sự không quên mất, đại bi, 18 pháp bất cọng, nhất thế tướng diệu trí.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
434. Lìa hai, là nói sự vô tướng của các pháp. Mê y tha, là nói sự tạp nhiễm của các pháp. Không thuyết, không hý luận: là nói sự thanh tịnh của các pháp.
435. Chính tự tánh thanh tịnh đã thoát ly tất cả chướng ngại dơ bẩn.
436. Tự tánh thanh tịnh: Hư không vốn trong sáng, đó là sự trong sáng vốn có, không phải mới làm ra. Vô cấu thanh tịnh: Vì mây che mà hư không có u ám, trừ sạch mây che thì trong sáng hoàn trong sáng. Tự tánh thanh tịnh: Nếu vàng vốn không phải là vàng (tức trong quặng không có vàng) thì lọc quặng cũng không thành vàng ròng. Vô cấu thanh tịnh: Vàng vốn là vàng nhưng cũng vốn có trong quặng, nếu không lọc quặng ấy thì vàng không thành vàng ròng được.
437. Tánh phân biệt là năng thủ, tánh y tha là sở thủ.
438. Phân biệt hư vọng là cái biết thác loạn của ý thức biến kế, bản thân thật không có, chỉ có cái mà ý thức biến kế chấp vào, và cái được chấp thì có thể thủ đắc.
439. Vàng là đối tượng bị nhận lầm, đó là tánh phân biệt. Gỗ là đối cảnh được thấy rõ và chính xác, đó là tánh chân thật.
440. Tuy pháp y tha đủ nghĩa vô tánh, nhưng vì 2 chướng chưa đoạn trừ, nên y tha vẫn làm cảnh sở duyên cho vọng chấp.
441. Hành tự tại là không có nhân tố điên đảo, tức không còn vọng chấp biến kế nơi y tha để mà thấy ngã, thấy pháp. Thánh nhân chỉ cho bậc kiến đạo trở lên.
442. Huyễn sự chỉ cho 5 uẩn trong 3 cõi, tức thân tâm và thế giới của thân tâm.
443. Xứ kia chỉ cho y tha khởi xứ.
444. Vô thể chỉ cho sự biểu hiện của các pháp thật không có vì hư vọng phân biệt. Hữu thể chỉ cho tánh y tha của các pháp (= các pháp hữu vi, do chủng tử nơi a-lại-da nhờ các trợ duyên mà hiện hành) ở đâu và lúc nào cũng có (dù là giả có), bởi lẽ y tha mà không có thì không có gì nữa: tánh y tha mà không có thì tánh chân thật cũng không có.
445. Chẳng phải vô thể, tức là hữu thể.
446. Đây là thí dụ về ngọc bạch châu trong suốt, nếu đặt viên ngọc ấy trong màu xanh thì thấy như ngọc đế thanh, đặt trong màu đỏ thì thấy như ngọc hổ phách v.v… Hiện ra đủ màu là tánh y tha, lầm màu ấy cho là màu thật là tánh phân biệt, biết ngọc trong suốt là tánh chân thật.
447. Sắc thức là sắc cảnh. Phi sắc thức (không phải sắc thức) hay nhãn thức thức: thức của nhãn thức, tức là nhãn thức. Còn nhãn thức là nhãn căn. Nhiếp luận ghi: “Làm sao xác lập các thức (hay 11 thức, tức tất cả các pháp) như vậy thành duy thức? Đại khái có 3 cách, một là do duy thức, vì không cái gì thật cả; hai là do 2 phần, vì có tướng phần có kiến phần 2 thức khác nhau; ba là do nhiều thứ, vì có nhiều thứ hành tướng sanh khởi. Tại sao có 3 cách như vậy, bởi vì tất cả các thức không thật, nên có thể xác lập duy thức; bởi vì có tướng phần và có kiến phần nên thành ra 2 mặt; bởi vì nhãn thức thì lấy sắc thức làm tướng phần, lấy thức của nhãn thức làm kiến phần, cho đến thân thức thì lấy xúc thức làm tướng phần, lấy thức của thân thức làm kiến phần, đến như ý thức thì lấy các thức làm tướng phần, lấy thức của ý thức làm kiến phần - trong tướng phần ấy sắc thức làm tối sơ, pháp thức làm tối hậu, vì ý thức là chủ thể phân biệt, sanh khởi tương tự tất cả các thức.” Kiến phần là đối tượng hóa nhận thức (thức năng mê). Tướng phần là nhận thức hóa đối tượng (cảnh sở mê). Kệ tụng này chỉ nói về sắc thức, nhưng đã bao gồm thanh thức, hương thức, vị thức, xúc thức, ý thức (tướng phần), và thức của nhĩ thức, thức của tỷ thức, thức của thiệt thức, thức của thân thức, thức của ý thức (kiến phần).
448. Pháp mê tướng: sắc thái mê của các pháp. Như thị tướng: biểu hiện như vậy. Như thị thể: thực chất như vậy. Luận Pháp hoa: “Xá lợi phất, chỉ Như lai với Như lai mới thuyết được pháp, vì chỉ Như lai với Như lai mới biết được thật tướng cứu cánh của pháp ấy. Xá lợi phất, chỉ Như lai mới biết được pháp, Xá lợi phất, chỉ Như lai mới thuyết được pháp: pháp ấy là gì, pháp ấy vì gì, pháp ấy như gì, pháp ấy tướng gì, pháp ấy tánh gì. Là gì, vì gì, như gì, tướng gì, tánh gì, tất cả những gì về pháp như vậy, Như lai thấy như hiện có trước mắt chứ không phải không thấy như hiện có trước mắt.”
449. Bốn niệm xứ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi và tám thánh đạo.
450. Vô tướng là trong pháp tánh, quán các pháp không thể thủ đắc.
451. Pháp thân Phật thì vô tướng, còn hóa thân Phật thì đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp và hiển lộ hào quang.
452. Chánh văn là vô mạn (無慢), được hiểu là không phóng dật. Tăng nhất a hàm, phẩm 10, kinh số 1: “Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ này: Không mạn, dấu cam lồ/ Phóng dật, con đường chết/ Không mạn, thì không chết / Ai mạn, tức là chết (無憍甘露跡,放逸是死徑,無慢則不死,慢者即是死) Cho nên, này các Tỳ kheo, hãy niệm tu hành hạnh không phóng dật. Như vậy, này các Tỳ-kheo, các ngươi hãy học điều này.” Tham chiếu, kinh Pháp cú, kệ 21: “Không phóng dật, con đường dẫn đến bất tử. Phóng dật, con đường dẫn đến cõi chết. Những ai không phóng dật thì không chết. Những ai phóng dật, chúng như đã chết.”
453. Huyễn ảo là như không gian nổi lên hoa đốm, do con mắt bị bịnh màng mắt mà thấy có hoa đốm. Chiêm bao là cảnh khi mơ ngủ. Sóng nắng là những dợn sóng do hơi nắng bốc lên, làm cho con nai phát sanh ảo tưởng là nước. Ảnh tượng là hình ảnh trong gương. Bóng sáng là do ánh sáng mà tạo ra những bóng ảnh in trên vách, trên đất. Tiếng dội là tiếng dội lại y hệt tiếng kêu trong hang núi. Bóng trăng trong nước là khi nước trong và lặng thì thấy được bóng trăng. Biến hóa là nhà ảo thuật làm ra trò ảo thuật mà người thích.
454. Ánh sáng chỉ cho đối tượng được biết đến (sở thủ quang).
455. Hưởng chịu cái đáng ưa, cái đáng ghét.
456. Mê lầm vì các pháp không thật mà ảo trạng ngộ nhận là thật, chính là sự vọng chấp ngã pháp.
457. Tuy các pháp không thật nhưng vẫn có quả báo đáng ưa, đáng ghét của thiện nghiệp và ác nghiệp khác nhau.
458. Điều kiện cho các thức phát sanh.
459. Chỉ cho ngôn ngữ phát sanh.
460. Chỉ cho đối tượng các định biết thật.
461. Chỉ cho sự làm lợi ích cho chúng sanh.
462. Trí còn phân biệt năng thủ và sở thủ, chưa tùy thuận pháp tánh.
463. Tức từ tư lương vị (tu thuận giải thoát phần của Đại thừa), gia hạnh vị (tu thuận quyết trạch phần của Đại thừa, phương tiện gia hạnh, 4 thiện căn: noãn, đảnh, nhẫn và thế đệ nhất) cho đến thông đạt vị (nhập tâm của sơ địa, còn gọi lại kiến đạo vị). Đây là phần gia hành của trí vô phân biệt.
464. Tức từ trú tâm của sơ địa cho đến xuất tâm của địa thứ mười, còn gọi là tu đạo vị. Đây là phần căn bản của trí vô phân biệt (căn bản trí).
465. Xuất thế hậu đắc thế trí (出世後得世智): Trí của Phật, đạt được ở cứu cánh vị. Đây là phần hậu đắc của trí vô phân biệt (hậu đắc trí).
466. Danh xứ: Chỗ giả thiết, lĩnh vực của ý thức liễu biệt nghĩa và quang, đã nói ở sự cầu sở duyên (“Đối với ba sở duyên mà an trú tâm mình chỉ có danh”). Đó chính là cái ý thức được đa văn huân tập (sự huân tập không thuộc về a-lại-da mà vẫn như a-lại-da huân tập thành chủng tử), tác ý đúng lý, tạo ra nơi kiến phần có cái ấn tượng về pháp và nghĩa của Đại thừa. Do pháp và nghĩa của Đại thừa đẳng lưu sanh ra ý thức ấy trải qua các địa vị: giải hành, kiến đạo, tu đạo và cứu cánh.
467. Tâm quang, tức tâm thức. Nói đủ là tâm ý thức, trong đó tâm là a-lại-da, ý là mạt-na và thức là 6 thức. Sáu thức nhận biết đối cảnh, nhưng ý thức biết đó là nhận thức của mình, tức ý thức tự ngã mà từ đó năng sở hóa tâm vật hay tự tha hóa mình người, đó chính là mạt-na. Ý thức tự ngã còn hay mất mà thành ra nhiễm ô hay thanh tịnh. Căn bản của toàn bộ các thức là a-lại-da, nó làm nhân, làm quả cho các pháp và là tự ngã mà chúng sanh tự ý thức, chấp lấy (năng tàng, sở tàng và ngã ái chấp tàng). Năng thủ và sở thủ chỉ toàn là biểu hiện của tâm thức.
468. Sáu tâm sở phiền não căn bản: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến.
469. Mười một tâm sở thiện: tín, tàm, quý, vô tham, vô sân, vô si, cần, khinh an, bất phóng dật, hành xả, bất hại.
470. Các pháp chỉ là biểu hiện qua cái Tâm chân thật, cái Tâm duy nhất, cái Tâm đồng nhất, nên không có dị biệt.
471. Sắc pháp: 4 đại chủng và các sở tạo sắc (5 căn, 5 trần và vô biểu sắc); 2. Tâm pháp: 8 thức tâm vương; 3. Tâm sở pháp: 51 tâm sở: 5 tâm sở Biến hành (tác ý, xúc, thọ, tưởng và tư), 5 tâm sở Biệt cảnh (dục, thắng giải, niệm, định và tuệ), 11 tâm sở thiện (tín, tàm, quý, vô tham, vô sân, vô si, cần, khinh an, bất phóng dật, hành xả và bất hại), 6 tâm sở căn bản phiền não (tham, sân, si, mạn, nghi và ác kiến), 20 tâm sở tùy phiền não (phẫn, hận, phú, não, tật, xan, cuống, siểm, hại, kiêu, vô tàm, vô qúi, trạo cử, hôn trầm, bất tín, giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán loạn và bất chánh tri), 4 tâm sở Bất định (hối, miên, tầm và tứ); 4. Bất tương ưng hành pháp có 24: đắc, mạng căn, chúng đồng phận, dị sanh tánh, vô tưởng định, diệt tận định, vô tướng quả, danh thân, cú thân, văn thân, sanh, trụ, lão, vô thường, lưu chuyển, định dị, tương ưng, thế tốc, thứ đệ, phương, thời, số, hòa hiệp tánh và bất hòa hiệp tánh; 5. Vô vi pháp có 6: hư không vô vi, trạch diệt vô vi, phi trạch diệt vô vi, bất động diệt vô vi, thọ tưởng diệt vô vi và chân như vô vi.
472. Trong 5 sở tướng, sắc pháp, tâm pháp, tâm số pháp và bất tương ưng pháp là sự tướng của các pháp, còn gọi là pháp hữu vi (: những gì có tạo tác, có sanh diệt, không thường còn); vô vi pháp là lý tánh của các pháp, còn gọi là vô vi pháp (: những gì không tạo tác, không sanh diệt, không tăng giảm, vắng lặng thường còn).
473. Ba năng tướng sở tri này cũng chính là 3 tánh: tánh phân biệt, tánh y tha và tánh chân thật.
474. Ý ngôn là một tên khác của ý thức. Ý thức hay phân biệt danh ngôn nên gọi là ý ngôn.
475. Ý ngôn (ý thức) là chủ thể phân biệt, lấy sự huân tập danh ngôn của bản thân nó làm chủng tử, lại lấy sự danh ngôn huân tập của 11 thức khác làm chủng tử, cho nên ý thức có vô số cái biết và vô số sự phân biệt sanh ra.
476. Nghĩa là nghĩa của các pháp, bao gồm tự tánh (đặc tính) của nghĩa và sai biệt (chi tiết) của nghĩa. Nghĩa quang là cái ấn tượng tương tự về nghĩa, tuồng như thật có của ý thức.
477. Danh là danh từ để gọi tự tánh của nghĩa và sai biệt của nghĩa. Danh quang là cái ấn tượng tương tự về danh, tuồng như thật có của ý thức.
478. Tướng nhân phân biệt tướng (相因分別相): Là dựa vào nhân tố mà phát sanh phân biệt. Nhân tố ấy là danh và nghĩa.
479. Chánh văn là phi chân phân biệt (非真分別): hư vọng phân biệt, tức sự phân biệt không chính xác.
480. Cú quang là khí thế giới. Nghĩa quang là trần cảnh. Thân quang là căn thân. Ở đây, quang (光) có nghĩa là hiển lộ.
481. Chỉ cho thức mạt-na, 5 thức trước và thứ thứ sáu.
482. Chánh văn là bất chân phân biệt (不真分別). Tướng y tha là do chủng tử a-lại-da phát sanh, là biểu hiện của phân biệt hư vọng, là căn cứ của sự không thật. Nhiếp luận: “Y tha khởi tướng là gì? Là các thức do a-lại-da làm chủng tử và thuộc về phân biệt hư vọng. Các thức ấy là gì? Là thức thân, thức chủ thể của thân, thức chủ thể của sự tiếp nhận, thức được tiếp nhận, thức tiếp nhận, thức thì gian, thức số mục, thức thế giới cư trú, thức nói năng, thức mình người, thức đường lành đường dữ. Tựu trung, thức thân cho đến thức nói năng là do chủng tử của danh ngôn huân tập, thức mình người là do chủng tử của ngã kiến huân tập, và thức đường lành đường dữ là do chủng tử của hữu chi huân tập. Các thức như vậy là cái y tha khởi tướng thống thuộc 3 cõi 5 đường và 3 tạp nhiễm, là được biểu hiện bởi phân biệt hư vọng. Như vậy, các thức này thống thuộc phân biệt hư vọng, đặc tính là duy thức, làm căn cứ cho sự biểu hiện không có và không thực. Như thế đó gọi là y tha khởi tướng.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
483. Chánh văn là tự tướng, nhiễm tịnh tướng và vô phân biệt tướng.
484. Hý luận là ngôn ngữ của tư tưởng, là tư tưởng được diễn dịch, đối chiếu bằng tứ cú: có - không - cũng có cũng không - không phải có không phải không (hoặc: một - khác - cũng một cũng khác - không phải một không phải khác). Từ căn bản tứ cú này mà cứ diễn dịch đối chiếu thêm mãi, nên có từ ngữ “tứ cú bách phi”. Tư tưởng như vậy và ngôn ngữ diễn đạt tư tưởng như vậy gọi là hý luận. Trí tuệ thuộc lãnh vực này gọi là trí tứ cú, gọi là phân biệt, là tà kiến, không thể gọi là trí tuệ. Không hý luận thì đắc như thật trí, cái trí không có tác ý, tầm tư và thọ tưởng.
485. Hiển dương thánh giáo luận, quyển 20, phẩm Nhiếp thắng quyết trạch: “Như đức Bạc già phạm nói, có năm thứ pháp có thể nhiếp lấy tất cả hành giả Du già, các Du già địa, đó là trì, trú, minh, kính và chuyển y; nên biết, nghe chánh pháp là trì sở duyên, là trú chỉ quán, là minh ảnh tượng, là kính sự thành tựu, là chuyển y.” Đại thừa A tỳ đạt ma tạp tập luận, quyển 11, phẩm Quyết trạch phần trung pháp: “Địa này (Du già địa) lược có 5 thứ: trì, nhậm, kính, minh, y. Trì, là tích tập tư lương bồ-đề rồi, ở nơi noãn vị v.v… dựa vào các thánh đế mà có được đa văn; từ những gì đa văn an lập đối cảnh sở duyên cho chỉ quán, gọi là trì. Lại tích tập tư lương bồ-đề rồi, vì cầu hiện quán chắc thật mà lắng nghe và tiếp nhận giáo pháp nơi khế kinh v.v…, gọi là đa văn (huân tập). Nhậm, là duyên đối cảnh chỉ quán mà tác ý đúng lý; do tác ý như vậy và dựa vào sự đa văn mà tư duy không điên đảo về nghĩa tướng (của giáo pháp), nắm giữ nội tâm một cách tự nhiên. Kính, duyên đối cảnh chỉ quán mà tu chánh định hữu tướng; chánh định này duyên với sự đa văn; vì đối cảnh và ấn tượng trong định cùng có mặt nên gọi là hữu tướng. Do chánh định này còn mang ấn tượng có phân biệt của quán, và chánh định này có năng lực quán sát thấu hiểu các pháp cần thấu hiểu, nên ví như tấm gương. Minh, là trí không có thủ đắc năng thủ và sở thủ; do trí này mà nhiếp lấy hiện quán chuyển y ở kiến đạo. Vì sao các Bồ tát dựa vào phương tiện tu học của Du già địa để chứng sự không thể thủ đắc? Đó là các Bồ tát đã khéo dồn chứa hai thứ tư lương phước đức và trí tuệ, trải qua vô số đại kiếp thứ nhất, đa văn và tùy thuận sự thấu triệt chân như, tác ý đúng lý về giáo pháp nơi khế kinh v.v… mà tu tập chánh định dựa vào sự khinh an nơi tâm, tư duy đối với ấn tượng được xác lập trong định, quán ấn tượng ấy không biệt lập với sự khinh an nơi tâm. Dựa vào ấn tượng này để buông xả phân biệt ngoại cảnh, chỉ quán chuyên chú vào ấn tượng có phân biệt của chánh định. Bấy giờ Bồ tát liễu tri các pháp chỉ là tự tâm, trú ở nơi nội tâm, biết tất cả cảnh giới sở thủ đều không sở hữu. Vì sở thủ không có nên tất cả năng thủ cũng chẳng phải chân thật, cho nên liễu tri năng thủ chẳng có. Lại nữa, nơi nội tâm xả ly hai thứ sở đắc, nơi tự tánh chứng vô sở đắc. Dựa vào đạo lý này mà đức Phật khéo tuyên thuyết, Bồ tát ở định vị quán ấn tượng chánh định là tâm thức, phân biệt về nghĩa đã dứt trừ, thấu triệt chỉ là sự tự phân biệt, biết đã an trú nội tâm, biết sở thủ chẳng có, biết năng thủ cũng không, sau đó chạm đến sự vô sở đắc. Y, là chuyển y, nghĩa là rời xa tất cả (tạp nhiễm) thô trọng mà được thanh tịnh chuyển y.”
486. Năm thứ thù thắng: 1. Tự tánh thanh tịnh; 2. Quốc độ thanh tịnh; 3. Chứng đắc pháp thân; 4. Viên mãn thọ dụng tất cả pháp Đại thừa (thọ dụng thân); 5. Lợi ích chúng sanh không có gián đoạn (hóa thân).
487. Thử thị ngũ chủng học địa giải tướng, tự bỉ giải thoát sở tướng pháp cập tam chủng năng tướng pháp cố (此是五種學地解相, 似(以)彼解脫所相法及三種能相法故). Giải tướng là hành tướng của tâm vương và tâm sở. Địa, chỉ cho Du già địa, tức sự tu tập chỉ quán.
488. Hiển dương thánh giáo luận, quyển 17: “Lại người tu quán này, do thức a-lại-da là tất cả hý luận nhiếp thuộc cảnh giới các hành. Thâu tóm các hành nơi thức a-lại-da, gom chung thành một khối, một đống, một nhóm. Làm thành một khối rồi, đem trí duyên với cảnh chân như; tu tập, nhiều tu tập (như vậy) nên sở y chỉ chuyển. Chuyển y không gián đoạn, mà biết đã đoạn thức a-lại-da. Do sự đoạn ấy mà biết đã đoạn được tất cả tạp nhiễm.”
489. Ý là thức mạt-na, thọ là thức của 5 căn, phân biệt là thức thứ 6. Sau khi chuyển y, thức mạt-na chuyển đắc trí vô phân biệt tự tại; thức của 5 căn chuyển đắc quốc độ thanh tịnh tự tại; thức thứ 6 chuyển đắc trí và nghiệp tự tại..
490. Địa thứ bảy, viễn hành địa, là đã đến giới hạn của cuối cùng của hữu công dụng hành. Từ địa thứ tám đến địa thứ mười là giai đoạn vô công dụng hành, trải qua vô số kiếp thứ ba tu hành viên mãn. Nhiếp luận: “Tại sao địa thứ tám gọi là bất động, vì ở đây hết thảy hữu tướng, hữu công dụng hành, đều không thể dao động.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
491. Tức 4 vô ngại biện, là pháp vô ngại, nghĩa vô ngại, từ vô ngại và nhạo thuyết vô ngại.
492. Nghiệp tự tại là 3 nghiệp tự do, được cái trí tổng duyên các pháp, hàm tàng hết thảy đà-la-ni môn và tam-muội môn nên dẫn ra thần thông vô ngại trong mọi thế giới.
493. Chân thật duy thức = duy thức thật tánh: Tánh chân thật là thắng nghĩa vô tánh của tất cả các pháp. Thắng nghĩa ấy có 2: một là, y tha không phải thắng nghĩa nên cũng gọi là thắng nghĩa vô tánh; hai là, chân thật do pháp không hiển lộ nên gọi là thắng nghĩa vô tánh. Nói cách khác, thắng nghĩa không phải như tánh y tha, vì y tha không phải thắng nghĩa; thắng nghĩa càng không phải tánh phân biệt, vì phân biệt là ngã pháp; ngã không và pháp không thì mới hiển lộ thắng nghĩa. Mặt khác, duy thức có 2 thứ tương đối: một là, tương đối hư vọng và chân thật, vì y tha là đối tượng của phân biệt, là sở chấp của phân biệt mà thành hư vọng, và vì tuyệt đối không như cái có của đối tượng phân biệt mà thành chân thật; hai là, tương đối thế tục và thắng nghĩa, tánh y tha là thế tục, tánh chân thật là thắng nghĩa, vì muốn nhấn mạnh tánh thắng nghĩa đó mà nói tánh duy thức chân thật.
494. Hiển dương thánh giáo luận, quyển 20: “Có 3 nghĩa hữu sở đắc: 1. Hữu sở đắc về sự; 2. Hữu sở đắc về hữu sở đắc; 3. Hữu sở đắc về vô sở đắc … Lại có 3 nghĩa hữu sở đắc: 1. Hữu sở đắc về tự thể; 2. Hữu sở đắc về sự không viễn ly; 3. Hữu sở đắc về sự không phân tích chia chẻ.” Hữu sở đắc như vậy toàn là biểu hiện của tánh phân biệt.
495. Sức mạnh dồn chứa hai thứ tư lương phước đức và trí tuệ quyết định cho sự nhận thức khác nhau về chánh pháp của nhiều hạng người. Theo Kinh Giải thâm mật, có 4 hạng người: 1. Đã dồn chứa phước trí, đã gieo trồng thiện căn thượng phẩm; 2. Chưa dồn chứa phước trí, đã gieo trồng thiện căn thượng phẩm; 3. Chưa dồn chứa phước trí, chưa gieo trồng thiện căn thượng phẩm; 4. Chưa dồn chứa phước trí, chưa gieo trồng thiện căn.
496. Ngôn thuyết, là sự nói năng, là ngôn ngữ xuất từ thấy, nghe, hay, biết.
497. Chỉ là ý thức (duy thức): sự suy tìm danh và nghĩa chỉ là ý thức giả thiết không thật, không thể thủ đắc.
498. Bốn ấm là thọ, tưởng, hành và thức ấm. Sắc là tứ đại và các pháp do tứ đại sanh, tức tất cả vật lý của cơ thể và ngoại cảnh. Thọ là những cảm giác của cơ thể và tâm trí. Tưởng là những liên tường hay ấn tượng. Hành là tất cả tâm sở khác ngoài hai tâm sở thọ và tưởng. Thức là tất cả tâm vương. Đây là danh sắc trong 12 nhân duyên.
499. Ngã kiến huân tập là mạt-na (ý nhiễm ô) ý thức a-lại-da làm tự ngã. Ý thức tự ngã này huân tập thành ra chủng tử thấy có mình, có người là những tự thể (sanh mạng) khác nhau, rồi kế đạt chấp có thật ngã. Thuật ngữ gọi là phân biệt ngã kiến.
500. Ngã kiến huân tập làm nhân cho hữu chi huân tập. Hữu chi là 12 nhân duyên. Do hữu chi huân tập, bằng các nghiệp phước, phi phước và bất động, mà có ra tự thể và quả báo của tự thể là 3 cõi 6 đường đáng ưa và đáng ghét.
501. Vô tánh: tức 3 vô tánh hay 3 vô tự tánh, đó là tướng vô tánh, sanh vô tánh và thắng nghĩa vô tánh. Căn cứ 3 vô tánh mà nói các pháp toàn không, không sanh diệt, bản lai niết-bàn.
502. Chủng xứ, tức 5 uẩn, 12 xứ và 18 giới.
503. Tự tánh của tánh y tha: là tánh y tha không cố định là nhiễm hay tịnh. Do mặt nhiễm mà y tha thành phân biệt. Do mặt tịnh mà y tha thành chân thật.
504. Chư kiến (諸見): chỉ cho 62 vọng kiến. Cũng được hiểu là nhất thiết kiến thú (一切見趣), đây chỉ 5 kiến chấp: thân kiến, biên kiến, kiến thủ kiến, giới thủ kiến và tà kiến.
505. Nhất thừa: cỗ xe duy nhất, đó là Phật thừa, là tri kiến Phật.
506. Chánh văn là pháp đồng: Pháp là pháp tánh, tức chân như. Tất cả ba thừa đều không rời chân như, nên nói nhất thừa.
507. Tất cả pháp: chỉ có pháp, không có nhân (người). Nếu nhân (người) thật sự không có thì làm sao phân biệt, đây là Thanh văn, đây là Duyên giác, đây là Bồ tát. Nhưng sự phân biệt như vậy thì không hợp đạo lý, vì đồng thể tánh vô ngã, nên Phật nói nhất thừa.
508. Tam thừa bất định tánh: cũng gọi là bất định thừa tánh hay bất định chủng tánh. Chúng sanh về loại này gồm có chủng tử đoạn trừ phiền não của tam thừa, trước chứng được quả thấp, rồi sau tu vào Đại thừa. Ngoài ra, lại có chúng sanh gồm đủ chủng tử về Bồ tát và Duyên giác, cũng có chúng sanh gồm đủ chủng tử của Bồ tát và Thanh văn, lại cũng có chúng sanh gồm đủ chủng tử của Duyên giác và Thanh văn; ba loại chúng sanh này, hai loại trước thuộc về bất định tánh, loại sau thuộc về nhị thừa, không chịu vào bậc Đại thừa.
509. Đây gọi là tác ý bình đẳng đối với chúng sanh. Có cùng tác ý với mình (đồng tự ý): Hàng Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát (học theo Phật) cũng đối với tất cả chúng sanh khởi tác ý như vầy: Người kia chính là tôi, tôi chính là người kia. Với tác ý ấy, người kia đắc chánh giác, tức là tôi sẽ đắc chánh giác, và tôi đắc chánh giác, tức là người kia cũng sẽ đắc chánh giác. Như tôi cần phải giải thoát tự thân, cũng nên như vậy mà giải thoát cho chúng sanh. Vì tác ý như vậy mà Phật nói nhất thừa.
510. Đây là tác ý bình đẳng đối với pháp tánh chân như. Trong kinh Pháp hoa, Phật thọ ký cho chư vị Thanh văn thành Phật. Chư vị Thanh văn khi ấy có được tác ý bình đẳng đối với pháp tánh chân như, chứ chưa chứng đắc pháp thân của Phật. Chư vị tác ý rằng, pháp tánh chân như của Như lai chính là pháp tánh chân như của tôi, vì tác ý như vậy nên Phật nói nhất thừa.
511. Theo Câu xá luận, các thánh giả từ dự lưu hướng trở lên thuộc về chánh định tụ, kẻ tạo nghiệp ngũ vô gián thuộc về tà định tụ, còn lại những người không thuộc về hai tụ trên là bất định tụ. Bất định tụ chỉ cho 7 hiền vị: 1. Ngũ đình tâm quán; 2. Biệt tướng niệm trú; 3. Tổng tướng niệm trú; 4. Noãn pháp; 5. Đảnh pháp; 6. Nhẫn pháp; 7. Thế đệ nhất pháp.
512. Theo Thích Ma ha diễn luận, trước khi đạt địa vị 10 tín thì thuộc tà định tụ, do không tin vào quả báo của nghiệp. Ba hiền (10 trú, 10 hạnh, 10 hồi hướng) và 10 thánh (10 địa) là chánh định tụ, do đã vào địa vị Bất thoái. Mười tín là bất định tụ, do không quyết định tiến hay thoái.
513. Kiến đế, chỉ sự thấy và chứng bốn thánh đế.
514. Chỉ cho quả A-na-hàm.
515. Chỉ cho quả tu đà hoàn.
516. Nhuyến phẩm (軟品): điều phục thân và tâm trở nên thuần thục, trong sạch, nhu nhuyến (êm dịu, mềm mại), như một miếng da thô cứng nhưng trở thành nhu nhuyến vì có thoa dầu và ngâm nước.
517. Vị chứng quả A-na-hàm (Anagami, Bất lai) là bước qua giai đoạn tu đạo, đoạn trừ ba hoặc còn lại của chín phẩm dục giới và sẽ không còn sanh trở lại cõi dục nữa, mà sẽ sanh về cõi sắc hay cõi vô sắc tùy thuộc vào kết quả sâu cạn của nó.
518. Con đường chậm lụt (鈍道, độn đạo).
519. Kinh Thắng man ghi: “La hán, Duyên giác vượt được sự sợ hãi của sự sống chết vô cùng, hưởng thụ cái vui giải thoát, nghĩ rằng nay ta đã hết sợ sống chết, không chịu khổ não. Bạch đức Thế tôn, la hán và Duyên giác quan sát như vậy, gọi là không còn đời sau, nhưng họ không chứng được niết-bàn là chỗ yên nghỉ bậc nhất. Đối với vị trí chưa chứng được đó, dầu không gặp giáo pháp (Đại thừa) đi nữa, họ cũng tự biết chỉ chứng được vị trí chưa toàn, và quyết định sẽ chứng được vô thượng bồ-đề. Tại sao như vậy, vì Thanh văn và Duyên giác toàn là sẽ nhập vào Đại thừa. Mà Đại thừa là Phật thừa. Do vậy, 3 thừa là 1 thừa, chứng 1 thừa là chứng được vô thượng bồ-đề. Vô thượng bồ-đề là niết-bàn. Niết-bàn là pháp thân của đức Thế tôn. Mà pháp thân chính là nhất thừa, chứ không có Thế tôn nào khác, không có pháp thân nào khác.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
520. Đại thí kinh, hay Tứ đại thí kinh (四大譬經), được liệt kệ trong Xuất tam tạng ký tập (出三藏記集, Đại Chánh tạng, tập 55, kinh số 2145) do ngài Tăng Hựu (僧祐) soạn.
521. Ngũ minh (năm minh xứ): bao gồm nội minh là Phật học, nhân minh là luận lý học, thanh minh là ngữ văn học, y [phương] minh là y dược học, [công] xảo minh là công nghệ học.
522. Ba luân (Tam luân): dùng ba bánh xe của Chuyển luân thánh vương để dụ cho đức dụng thù thắng của ba nghiệp thân, khẩu, ý của Như lai: 1. Thần thông luân (thân luân): hiển hiện thần thông, biến hóa cảnh giới thù thắng khiến chúng sanh phát tâm tin tưởng; 2. Thuyết pháp luân (khẩu luân): giảng nói chánh pháp khiến chúng sanh bỏ tà về chánh và phát tâm kính tin; 3. Ức niệm luân (ý luân): khi thuyết pháp, trước tiên Phật dùng ý luân để xem xét căn cơ lợi độn của chúng sanh rồi tùy nghi giảng nói không bị sai lầm. Ở đây, ba luân không nhiễm ô tức ba nghiệp thanh tịnh của Phật, đó là chư Phật 3 đời đều thực hành các ba-la-mật nên hiện chứng Vô thượng bồ-đề; và Bồ tát cũng học theo Phật, phát nguyện thực hành các ba-la-mật để hiện chứng quả Phật.
523. Chướng ngại của 6 ba-la-mật là tham lam, phá giới, sân hận, biếng nhác, loạn tâm và ngu si.
524. Y báo nhị quả: sở y quả (đẳng lưu quả) và báo quả (dị thục quả). Báo quả thì như Nhiếp luận nói: “Những ích lợi thù thắng của 6 ba-la-mật đạt được, làm sao nhìn thấy? Là các vị Bồ tát khi lưu chuyển sanh tử thì (thí) làm cho giàu sang, (giới) làm cho sanh mạng lớn lao, (nhẫn) làm cho bằng hữu và dòng họ lớn lao, (tiến) làm cho sự nghiệp lớn lao và hoạt động thành tựu, (định) làm cho bẩm tính nhẹ mỏng trần tục, không có não hại, (tuệ) làm cho học rành công nghệ và tất cả ngũ minh. (Thêm nữa, và nói tổng quát, thì) đời sống thù thắng, không dẫn ra tội lỗi, cho đến ngày ngồi trên pháp tòa bồ-đề, thường xuyên hiện hành mọi sự nghĩa lợi cho tất cả chúng sanh, đó là lợi ích thù thắng (của 6 ba-la-mật).” (H.T Thich Trí Quang dịch). Sở y quả là đời đời tu tập 6 ba-la-mật, không có gián đoạn.
525. Pháp của Phật ở đây là những phẩm chất và thành quả của Phật, như 10 lực, 4 vô úy v.v…
526. Nhiếp luận: “Vì lý do nào mà ba-la-mật chỉ có 6 số mục? Vì thành lập sự đối trị những nguyên nhân bị đối trị, vì làm chỗ dựa để chứng đắc pháp của chư Phật, và vì tùy thuận thành thục cho chúng sanh. Vì muốn đối trị cái nguyên nhân không đi tới, nên lập thí ba-la-mật và giới ba-la-mật - nguyên nhân không đi tới là ham tiền của địa vị và nhà cửa vợ con; vì muốn đối trị cái nguyên nhân làm cho đi tới rồi lại trở lui, nên lập nhẫn ba-la-mật và tiến ba-la-mật - nguyên nhân trở lui là đau khổ bởi chúng sanh xúc phạm gây ra khi mình ở trong sanh tử, và biếng nhác đối với sự nỗ lực trường kỳ tu tập thiện pháp; vì muốn đối trị cái nguyên nhân tuy đã đi tới và không trở lui nhưng hỏng mất, nên lập định ba-la-mật và tuệ ba-la-mật - nguyên nhân hỏng mất là mọi thứ tán động và trí tuệ sai lầm ác hại. Như thế đó là vì thành lập sự đối trị những nguyên nhân bị đối trị nên chỉ qui định có 6 số mục.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
527. Là các hạnh hỗ trợ, duyên tố hỗ trợ cho sự thành tựu các ba-la-mật. Kinh Giải thâm mật ghi: “Đại Bồ tát Quan tự tại thưa Phật: Bạch đức Thế tôn, vì lý do nào mà sáu độ gọi là độ? Đức Thế tôn dạy đại Bồ tát Quan tự tại: Thiện nam tử, vì năm lý do: một là vì không nhuốm bẩn, hai là vì không lưu luyến, ba là vì không tội lỗi, bốn là vì không phân biệt, năm là vì chánh hồi hướng. Không nhuốm bẩn là không nhuốm bẩn vì những cái trái ngược với các độ. Không lưu luyến là tâm không buộc vào các thành quả và dị thục quả của các độ, và vào sự trả ơn về các độ. Không tội lỗi là đối với các độ, không có sự tạp nhiễm xen vào và tách rời sự phi phương tiện. Không phân biệt là đối với các độ không theo ngôn từ mà chấp đặc tính. Chánh hồi hướng là đem các độ đã làm đã qui tụ xoay lại mà cầu thành quả vô thượng bồ-đề.… Đại Bồ tát Quan tự tại thưa Phật: Bạch đức Thế tôn, năm sự nói trên, mỗi sự có tác dụng gì? Đức Thế tôn dạy đại Bồ tát Quan tự tại: Thiện nam tử, nên biết mỗi sự có một tác dụng: các vị Bồ tát vì không nhuốm bẩn nên trong hiện tại luôn luôn thiết tha, nỗ lực tu tập các độ chứ không phóng túng; vì không lưu luyến nên tạo thành cái nhân không phóng túng trong vị lai; vì không tội lỗi nên chính xác tu tập các độ một cách rất khéo hoàn hảo, trong sáng và tươi trắng; vì không phân biệt nên mau chóng viên mãn các độ bằng phương tiện khéo léo; vì chánh hồi hướng nên sanh ra ở đâu, các độ, và những thành quả cùng dị thục quả khả ái của các độ, đều có đặc tính vô tận, đến tận vô thượng bồ-đề.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
528. Pháp nghĩa là nội dung của các ba-la-mật.
529. Là tu tập mỗi ba-la-mật mà bao gồm các ba-la-mật còn lại.
530. Nhiếp luận: “Thí có năng lực phá nát keo lẫn, bần cùng; giới có năng lực hủy diệt giới luật ác, nẻo ác; nhẫn có năng lực tận diệt phẫn nộ, oán thù; tiến có năng lực rời xa mọi biếng nhác, ác, bất thiện; định có năng lực tiêu trừ mọi sự tán động; tuệ có năng lực hủy bỏ mọi kiến thức sai lầm, mọi trí tuệ ác hại.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
531. Tác ý thương xót (lân mẫn tác ý) có thể dịch là tác ý mến trọng, là vì mến 6 ba-la-mật mình tu và trọng người tu 6 ba-la-mật.
532. Xem trong sách này, quyển 13, phẩm Hành trú thứ 23: “[Ma vương phá hoại chúng sanh bằng cách] dựa vào quy y để lừa dối, mê hoặc chúng sanh, nói chúa trời Tự tại v.v… là nơi chốn quy y, quy y nơi khác là sai lầm.”
533. Luyến tiếc thân mạng và tài sản là một trong những lầm lỗi ác hại, làm chướng ngại các ba-la-mật. Kinh Giải thâm mật: “Bồ tát nếu không luyến tiếc thân mạng và tài sản thì có thể lãnh thọ và chấp trì tịnh giới, để chấp trì tịnh giới nên thực hành nhẫn nhục, thực hành nhẫn nhục thì phát ra tinh tiến, phát ra tinh tiến thì có thể thành đạt tịnh lự, thành đạt tịnh lự thì đạt được cái tuệ xuất thế.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
534. Công đức là quả báo của các ba-la-mật. Kinh Giải thâm mật: “Bạch đức Thế tôn, những gì là quả báo của các độ? Thiện nam tử, quả báo ấy đại khái cũng có sáu: một là được giàu có lớn, hai là sanh chỗ tốt lành, ba là không có thù oán, không bị phá hoại, lắm nỗi vui vẻ, bốn là đứng đầu mọi người, năm là thân không tổn hại, sáu là thuộc dòng họ lớn.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
535. Kinh Giải thâm mật: “Đại Bồ tát Từ thị thưa Phật: bạch đức Thế tôn, ngang đâu thì nên nói là Bồ tát một chiều tu quán? Đức Thế tôn dạy đại Bồ tát Từ thị: Thiện nam tử, ngang nơi sự liên tục tác ý chỉ tư duy ấn tượng của tâm. Bạch đức Thế tôn, ngang đâu thì nên nói là Bồ tát một chiều tu chỉ? Thiện nam tử, ngang nơi sự liên tục tác ý chỉ tư duy tâm ấy liên tục. Bạch đức Thế tôn, ngang đâu thì nên nói là Bồ tát chỉ quán hóa hợp cùng có (chỉ quán song tu)? Thiện nam tử, ngang nơi sự chính xác tư duy về tâm đồng nhất cảnh.”
536. Phi hữu thủ: Thủ là năng thủ và sở thủ. Phi hữu là chẳng phải thật có. Các thức đều là biểu hiện phân biệt hư vọng, toàn là năng thủ và sở thủ, nơi sự không thật, duy thức, mà chấp ngã pháp biểu hiện như là thật có. Phi hữu thủ là cái thấy điên đảo của phàm phu. Như luận Đại trí độ luận ghi: “Bồ tát suy nghĩ rằng: “Hàng phàm phu vì cái độc vô minh nên đối hết thảy các pháp chuyển thành tướng khác, phi thường tưởng thành thường, khổ tưởng thành vui, vô ngã tưởng thành có ngã; không mà cho là có thật, phi hữu là hữu, hữu là phi hữu”. Như vậy trong chủng chủng pháp chuyển thành ra tướng khác. Được trí tuệ Thánh hiền phá cái độc vô minh, biết rõ thật tướng các pháp, được có trí tuệ biết vô thường, khổ, không, vô ngã, vứt bỏ không chấp trước. Nhẫn được pháp ấy gọi là Pháp nhẫn.” (Quyển 15, chương 24: Giải thích Sằn đề ba-la-mật, H.T Thích Thiện Siêu dịch)
537. Ba loại tam-muội: Không tam-muội, vô tướng tam-muội và vô nguyện tam-muội. Không là quán tất cả các pháp đều không, không có ngã cùng ngã sở, các hành đều vô thường, không chân thật. Vô tướng (vô tưởng) là nhờ quán nhân không nên hành giả không khởi lên ý niệm chấp thủ vào tướng các pháp. Vô nguyện (vô tác, vô dục) là nhờ quán vô tướng đối với các pháp nên đối với sự tương tục sanh tử đời vị lai không khởi lên mong cầu quả dị thục khả ái.
538. Bốn pháp ưu-đà-na, tức bốn pháp ấn: các hành vô thường, các pháp vô ngã, niết-bàn tịch tĩnh và nhất thiết hành khổ (cộng thêm nhất thiết pháp không là năm pháp ấn).
539. Chánh văn là đại tưởng. Tưởng lớn là ý lạc rộng lớn trong Nhiếp luận: “Nếu các vị Bồ tát trải qua bao nhiêu vô số đại kiếp mới hiện chứng vô thượng bồ-đề, trong thì gian ấy giả sử mỗi một sát-na bỏ hết mọi thân mạng, đem 7 thứ quí báu chứa đầy trong hằng sa thế giới mà phụng thí chư vị Như lai, làm như vậy cho đến ngày an tọa trên pháp tòa bồ-đề, vậy mà các vị Bồ tát ấy ý lạc về thí vẫn không biết chán và biết đủ; lại cũng trải qua ngần ấy thì gian, giả sử trong mỗi sát-na lửa dữ đầy cả đại thiên thế giới, đi đứng nằm ngồi, lúc nào cũng thiếu thốn mọi thứ để sống, vậy mà giới, nhẫn, tiến, định, tuệ, vẫn thường xuyên hiện hành, cho đến ngày an tọa trên pháp tòa bồ-đề, giới, nhẫn, tiến, định, tuệ, bao nhiêu ý lạc ấy, các vị Bồ tát vẫn không biết chán biết đủ, như thế đó gọi là ý lạc rộng lớn của Bồ tát.” (H.T Thích Trí Quang dịch) Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh , quyển 12, phẩm Công đức thứ 22 nói sự hy hữu của các ba-la-mật như sau: Thí là thí xả thân mạng mình, giới là từ bỏ địa vị tôn quí mà mộ đạo xuất gia, nhẫn là không đoái hoài đến thân mạng mà nhẫn chịu trước chúng sanh thấp kém, tiến là ở trong thời gian lâu xa siêng năng tinh cần, cho đến tận cùng bờ mé của sanh tử vẫn không ngưng nghỉ, định là ở trong cái vui thắng định mà không tham đắm thiền vị, tuệ là khởi trí vô phân biệt.
540. Chánh văn là quảng tưởng. Tưởng rộng là ý lạc trường kỳ trong Nhiếp luận: “Chính cái ý lạc không biết chán đã nói, cho đến ngày an tọa trên pháp tòa bồ-đề, các vị Bồ tát thường xuyên không cách hở, không ngừng nghỉ, như thế đó gọi là ý lạc trường kỳ của Bồ tát.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
541. Bồ tát chẳng những không cầu báo ân mà còn mang ơn chúng sanh: “Các vị Bồ tát đem 6 ba-la-mật lợi ích chúng sanh, thấy họ có ơn lớn với mình, không thấy mình có ơn với họ, như thế đó gọi là ý lạc mang ơn của Bồ tát.” (Nhiếp luận, H.T Thích Trí Quang dịch)
542. Bồ tát chẳng những không cầu quả báo mà còn hồi hướng công đức cho chúng sanh: “Các vị Bồ tát đem những thiện căn do 6 ba-la-mật tập hợp được, bằng tâm lý sâu xa, xoay lại mà hiến cho tất cả chúng sanh, làm cho họ được quả báo khả ái và thù thắng, như thế đó gọi là ý lạc chí lớn của Bồ tát.” Bồ tát có 4 quả hy hữu là: “Sanh vào nhà Như lai/ Được thọ ký, thọ chức/ Cho đến được bồ-đề/ Bốn quả nói hy hữu.” (Xem quyển 12, phẩm Công đức)
543. Phi hy hữu vì quả báo của các ba-la-mật là nhân quả duyên khởi, bao gồm đẳng lưu quả, sĩ dụng quả, tăng thượng quả, ly hệ quả và dị thục quả. Chứng đắc Vô thượng bồ-đề, trú tâm bình đẳng đối với mình người là nhân quả xuất thế gian. Không cầu tất cả thế gian cúng dường, thân thể tốt đẹp và tài sản đầy đủ của thế gian (mà vẫn có được) là nhân quả thế gian. Kinh Giải thâm mật: “Bạch đức Thế tôn, những gì là quả báo của các độ? Thiện nam tử, quả báo ấy đại khái cũng có sáu: một là được giàu có lớn, hai là sanh chỗ tốt lành, ba là không có thù oán, không bị phá hoại, lắm nỗi vui vẻ, bốn là đứng đầu mọi người, năm là thân không tổn hại, sáu là thuộc dòng họ lớn.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
544. Ly biên là muốn cho chúng sanh rời xa (không đọa) biên tế của chúng sanh (tức biên tế của khổ), để nhập vào pháp tánh thanh tịnh. Tạp a hàm, quyển 6, kinh số 122, Chúng sanh: “Phật bảo La đà: Ở nơi sắc mà nhiễm đắm triền miên, do đó gọi là chúng sanh. Ở nơi thọ, tưởng, hành, thức mà nhiễm đắm triền miên, nên gọi là chúng sanh… Ta nói, ở nơi cảnh giới của sắc, hãy phá sập, tiêu diệt. Ở nơi cảnh giới của thọ, tưởng, hành, thức phá sập, tiêu diệt; đoạn tận ái dục. Ái tận thì khổ tận. Khổ tận, Ta nói đó là tận cùng biên tế của khổ.” (Thích Đức Thắng dịch) Kinh Đại thừa đồng tánh, ĐTK 673, quyển thượng: “Lăng già vương, vị đại Bồ tát thường phải thực hành 6 ba-la-mật, không sanh khởi ác tâm đối với biên tế của tất cả chúng sanh.” (楞伽王, 菩薩摩訶薩常須行六波羅蜜,於一切眾生邊不生惡心). Lăng già vương, Bồ tát ma ha tát thường tu hành lục ba-la-mật, ư nhất thiết chúng sanh biên bất sanh ác tâm.)
545. Tác ý cứu cánh còn gọi là tác ý mong cầu (cứu cánh).
546. Tâm không điên đảo là không nghi đối với pháp sâu xa mà chư Phật chứng đắc.
547. Ba-la-mật tương tự là nói và hành ba-la-mật mà thiếu vắng Bát-nhã ba-la-mật, nghĩa là còn kẹt trong ngã chấp. Thí dụ, bố thí mà kẹt trong 6 trần là cho người mọi tài sản ở trong và ở ngoài mà kể lể, ban ơn, nhất là cầu kết quả; không dính mắc 6 trần mà bố thí là thuận theo bản thể không keo lẫn nên cho mà không thấy người cho, của cho và người nhận. Kinh Tiểu phẩm Bát-nhã ba-la-mật (ĐTK 227), phẩm Tá trợ thứ 6: “Bấy giờ Thích đề hoàn nhân thưa với Phật: Bạch đức Thế tôn, nên vì những người nào mà giải thuyết nghĩa của Bát-nhã ba-la-mật đa? Đức Phật dạy: Kiều thi ca, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân vì không biết nghĩa của Bát-nhã ba-la-mật thì nên giải thuyết nghĩa này cho họ. Vì sao? Kiều thi ca, ở đời vị lai sẽ có Bát-nhã ba-la-mật tương tự. Thiện nam tử, thiện nữ nhân muốn được Vô thượng chánh đẳng chánh giác mà nghe Bát-nhã ba-la-mật tương tự này thì có sự sai lầm. Thích đề hoàn nhân thưa: Bạch đức Thế tôn, thế nào là Bát-nhã ba-la-mật tương tự? Kiều thi ca, ở đời vị lai có tỳ-kheo muốn thuyết Bát-nhã ba-la-mật nhưng lại thuyết Bát-nhã ba-la-mật tương tự. Bạch đức Thế tôn, vì sao các tỳ-kheo lại thuyết Bát-nhã ba-la-mật tương tự? Đức Phật dạy: Các tỳ-kheo nói rằng sắc là vô thường, nếu cầu như vậy chính là hành Bát-nhã ba-la-mật; thọ, tưởng, hành và thức là vô thường, nếu cầu như vậy chính là hành Bát-nhã ba-la-mật. Kiều thi ca, đó gọi là Bát-nhã ba-la-mật tương tự. Kiều thi ca, vì bất hoại sắc nên quán sắc là vô thường; vì bất hoại thọ, tưởng, hành và thức nên quán thức là vô thường; không tác quán như vậy gọi là hành Bát-nhã ba-la-mật tương tự.”
548. Ba-la-mật chân thật là ba-la-mật có 6 thứ tối thắng. Nói cách khác, không có 6 thứ tối thắng thì không phải ba-la-mật, như Nhiếp luận có ghi: “Sắc thái của 6 ba-la-mật làm sao thấy được? Do 6 thứ hơn hết mà thấy. Một do chỗ dựa hơn hết, là lấy tâm bồ-đề làm chỗ dựa. Hai do sự việc hơn hết, là thực hành trọn vẹn. Ba do tiền đề hơn hết, là lấy sự lợi ích yên vui cho tất cả chúng sanh làm tiền đề. Bốn do phương tiện hơn hết, là được trí vô phân biệt tiếp nhận. Năm do hồi hướng hơn hết, là hồi hướng vô thượng bồ-đề. Sáu do thanh tịnh hơn hết, là phiền não và sở tri không còn chướng ngại mà nổi lên.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
549. Thọ ký vị là Bồ tát được thọ ký ở địa thứ 8, Bất động địa.
550. Quyết định địa là Bồ tát ở địa thứ 8. Quyết định hành địa là Bồ tát ở địa thứ 9, Thiện tuệ địa.
551. Tác ý ngã thắng: sự tu tập các ba-la-mật của Bồ tát thì hơn hẳn các sự tu tập của nhị thừa.
552. Giai đoạn phàm phu đến thế đệ nhất pháp của thắng giải hành địa.
553. Nơi thế đệ nhất pháp được pháp lưu đẳng trì, tu tập tiếp tục cho đến địa thứ 7, gọi là thượng ý (tăng thượng ý lạc), tức bậc chứng ngộ nhân vô ngã và pháp vô ngã, được tâm bình đẳng mình người.
554. Bồ tát địa thứ 8 cho đến địa thứ 10, chứng đắc pháp giới, gọi là rộng lớn, vì đã được trí vô phân biệt hoạt dụng một cách tự nhiên.
555. Từ tư lương đạo cho đến nhẫn vị của gia hành đạo, Bồ tát chưa hoạch đắc pháp thân loại tự, vì không có trí vô phân biệt, cho nên không có pháp thân.
556. Nơi thế đệ nhất pháp vị, đoạn trừ nhị thủ, nên được thiểu phần của pháp thân, gọi là có thân.
557. Từ địa đầu tiên đến địa thứ bảy, Bồ tát nỗ lực tu tập, hiện chứng chân đế, được trí vô phân biệt, nên gọi là được thân.
558. Ba địa sau cùng, Bồ tát nhậm vận trí vô phân biệt, nên gọi là mãn thân.
559. Mạn: kiêu mạn, tự mãn, chấp ngã.
560. Đây là Tư ích Phạn thiên sở vấn kinh (思益梵天所問經, ĐTK 586), gọi tắt là Tư ích kinh, Tư ích Phạn thiên vấn kinh, Tư ích nghĩa kinh: “Phạn thiên! Bồ tát có bốn pháp để khéo cầu pháp bảo. Bốn pháp ấy là gì? Một là, ở trong pháp sanh ý tưởng châu báu, vì khó mà có được; hai là, ở trong pháp sanh ý tưởng thuốc men, vì trị liệu các bịnh; ba là, ở trong pháp sanh ý tưởng tài lợi, vì chẳng để mất; bốn là, ở trong pháp sanh ý tưởng diệt tất cả khổ, vì đến được niết-bàn. Đó là bốn pháp.” (Phạn thiên! Bồ tát hữu tứ pháp, thiện cầu pháp bảo. Hà đẳng tứ? Nhất giả, ư pháp trung sanh bảo tưởng, dĩ nan đắc cố; nhị giả, ư pháp trung sanh dược tưởng, liệu chúng bệnh cố; tam giả, ư pháp trung sanh tài lợi tưởng, dĩ bất thất cố; tứ giả, ư pháp trung sanh diệt nhất thiết khổ tưởng, chí niết-bàn cố. Thị vi tứ. 梵天!菩薩有四法,善求法寶. 何等四?一者, 於法中生寶想, 以難得故; 二者, 於法中生藥想, 療眾病故; 三者, 於法中生財利想, 以不失故;四者, 於法中生滅一切苦想, 至涅槃故. 是為四.)
561. Nhiếp luận: “Thống nhiếp tất cả phân biệt thì đại lược có 10 thứ. Một là … Mười là phân biệt tán động, là 10 thứ phân biệt của Bồ tát : thứ 1 là tán động không tướng, thứ 2 là tán động có tướng, thứ 3 là tán động thêm lên, thứ 4 là tán động bớt đi, thứ 5 là tán động đồng nhất, thứ 6 là tán động biệt lập, thứ 7 là tán động tự tánh, thứ 8 là tán động sai biệt, thứ 9 là tán động lấy nghĩa theo tên, thứ 10 là tán động lấy tên theo nghĩa. Để đối trị 10 thứ tán động như vậy, các kinh của Bát-nhã ba-la-mật đa đều nói đến trí vô phân biệt. Như vậy, cả 2 phần sở trị và năng trị đều thâu nhiếp đủ cả các nghĩa của Bát-nhã ba-la-mật đa. (H.T Thích Trí Quang dịch).
562. Sắc là phi sắc, như nói A là phi A. Phi A không phải là B, mà là A tự siêu việt. Như kinh Kim cương dạy: bởi vì Ngài nói thân lớn là phi thân lớn, thế nên ngài nói đó là thân lớn (chứ không phải vì là thân lớn mà Ngài gọi là thân lớn).
563. Kinh Đại Bát-nhã ba-la-mật, ĐTK tập 7, kinh số 220, quyển 480, hội thứ 3, phẩm Xá lợi phất: “Thế nào là Bồ tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật? Xá Lợi Tử! Các Bồ tát ma ha tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật-đa, nên quán như vầy: Thật có Bồ tát, chẳng thấy có Bồ tát, chẳng thấy danh Bồ tát, chẳng thấy Bát-nhã ba-la-mật đa, chẳng thấy danh Bát-nhã ba-la-mật đa, chẳng thấy hành (Bát-nhã ba-la-mật), chẳng thấy chẳng hành (Bát-nhã ba-la-mật). Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Tự tánh Bồ tát là không, danh Bồ tát là không. Vì cớ sao? Tự tánh sắc là không, vì chẳng phải không tánh. Sắc mà không là phi sắc; sắc chẳng lìa không, không chẳng lìa sắc; sắc tức là không, không tức là sắc. Tự tánh thọ, tưởng, hành, thức là không, vì chẳng phải không tánh. Thọ, tưởng, hành, thức mà không là phi thọ, tưởng, hành, thức; thọ, tưởng, hành, thức chẳng lìa không, không chẳng lìa thọ, tưởng, hành, thức; thọ, tưởng, hành, thức tức là không, không tức là thọ, tưởng, hành, thức. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Đây chỉ có danh gọi là bồ-đề, đây chỉ có danh gọi là tát đỏa, đây chỉ có danh gọi là Bồ tát, đây chỉ có danh gọi là không, đây chỉ có danh gọi là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Tự tánh như thế không sanh không diệt, không nhiễm không tịnh. Các Bồ tát ma ha tát tu hành Bát-nhã ba-la-mật đa như thế, chẳng thấy sanh, chẳng thấy diệt, chẳng thấy nhiễm, chẳng thấy tịnh. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Chỉ là giả lập khách danh, nơi mỗi một pháp mà khởi phân biệt; giả lập khách danh theo đó khởi ngôn thuyết. Ngôn thuyết như vậy nên sanh khởi chấp trước như vậy. Các Bồ tát ma ha tát khi tu hành Bát-nhã ba-la-mật đa đối với như vậy thảy, tất cả đều chẳng thấy, bởi chẳng thấy nên chẳng sanh chấp trước. “
564. Kinh Duy Ma Cật sở thuyết ghi: “Nên quán ngũ dục vô thường để cầu gốc thiện; đối với thân thể, sanh mạng và tài sản, nên tu tập kiên pháp.” Kiên pháp là pháp bền chắc không hư hoại. Người tu đạo xả bỏ thân thể, sanh mạng và tài sản quí báu để đạt được thân vô cùng, mạng vô cùng, của cải vô tận. Ba thứ này cho dù trời đất có bị thiêu cháy thì chúng cũng không bị cháy, kiếp số tận chúng cũng không tận, cho nên gọi là kiên pháp. Thân thể, sanh mạng và tài sản là ba thứ không thể giữ được lâu dài ở thế gian, nên gọi là ba thứ pháp không bền chắc (tam bất kiên pháp).
565. Giáo võng: giáo pháp của Phật có năng lực cứu vớt người trong biển sanh tử nên được ví như tràng lưới bắt cá. Kinh Hoa Nghiêm ghi: “Giăng lưới giáo pháp lớn, vắt ngang biển sanh tử.” (Trương đại giáo võng, tuyên sanh tử hải, 張大教網,亘生死海.)
566. A-hàm (Agama): Là kinh điển của Phật giáo nguyên thỉ, ở đây là chỉ pháp của Phật thuyết, được truyền khẩu trùng tụng suốt một thời gian khá dài khoảng 400 năm sau Phật nhập diệt. A hàm dịch là pháp quy hay vô tỷ pháp, gồm có 4 bộ: a. Trường A hàm (Dirgha-agama) 22 quyển, do ngài Phật đà da xá (Buddhayasas) và Trúc Phật Niệm dịch năm 412 TL, y cứ Pháp tạng bộ; b. Trung A hàm (Madhyam-agama) 60 quyển, do ngài Tăng già đề bà (Sanghadeva) dịch vào khoảng năm 397 TL, bộ này là nền tảng của Hữu bộ; c. Tạp A hàm (Samyukta-agama) 50 quyển, do ngài Cầu na bạt đà la (Gunabhadra) dịch năm 435 TL, y cứ của Hữu bộ; d. Tăng nhất A hàm (Ekottara-agama) 50 quyển.
567. Tướng hảo thuyết: Thuyết pháp bằng sự thị hiện thân tướng trang nghiêm khiến người cảm phục.
568. Thọ lâm thuyết: Thuyết pháp bằng cách hiện ra cảnh đẹp cho người vui thích. Như kinh Địa Tạng, phẩm 2, nói về sự phân thân của Phật, điển hình cho sự phân thân của chư Phật và đại Bồ tát, trong đó có đoạn: “hoặc hiện rừng núi, dòng nước, đồng bằng, sông ngòi, ao hồ, suối giếng, ích lợi khắp cả mọi người, ai cũng được độ thoát”. (hoặc hiện sơn, lâm, xuyên, nguyên, hà, trì, tuyền, tỉnh, lợi cập ư nhân, tất giai độ thoát).
569. Nhạc khí thuyết: Thuyết pháp bằng những âm thanh tuyệt diệu. Kinh A Di Đà cũng nói đến sự thuyết pháp của cây báu và lưới báu: “Xá Lợi Phất, quốc độ Cực lạc gió nhẹ thổi động những hàng cây và lưới giăng quí báu, phát ra âm thanh tuyệt diệu, tựa như trăm ngàn nhạc khí đồng thời hòa tấu. Ai nghe âm thanh ấy cũng tự nhiên sanh ra tâm trí nhớ nghĩ về Phật Pháp Tăng.” (Xá Lợi Phất! Bỉ Phật quốc độ, vi phong xuy động chư bảo hàng thọ cập bảo la võng, xuất vi diệu âm, thí như bách thiên chủng nhạc đồng thời câu tác. Văn thị âm giả, tự nhiên giai sanh niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.)
570. Không trung thuyết: Thuyết pháp bằng văn tự viết trên khoảng hư không. Phát bồ-đề tâm luận, phẩm 10 Như thật pháp môn, có ghi: “Các người con Phật, ví như có người ngữa mặt lên trời mà viết vào hư không, chép hết 12 bộ kinh của Như lai, trải qua vô lượng kiếp. Khi Phật pháp đã diệt, người cầu pháp không thấy, không nghe chánh pháp, mà chỉ thấy, chỉ nghe chúng sanh điên đảo, tạo tội không cùng. Lại có một người trí tuệ thanh tịnh từ phương xa, thương xót chúng sanh, muốn rộng cầu Phật pháp, nên đi đến nơi này, thấy trong hư không có văn tự chép rất rõ ràng, thì liền biết ngay, rồi đọc tụng và thọ trì. Người đó đúng theo lời kinh chép mà thật hành, giảng rộng phân biệt cho chúng sanh được lợi ích. Người chép văn tự vào hư không và người thấy biết trong hư không có văn tự mới có thể mật biết với nhau, có thể truyền thông với nhau, rồi tu tập, thọ trì mà hướng dẫn chúng sanh khiến lìa những trói buộc.”
571. Kinh Tư ích Phạn thiên sở vấn (ĐTK 586): “Phạn thiên! Bồ tát có 4 pháp khéo khai mở pháp thí. Những gì là bốn? Một là, nắm giữ giáo pháp; hai là, làm lợi trí tuệ và làm lợi tha nhân; ba là, thực hành pháp của bậc thiện nhân; bốn là, chỉ thị nhiễm tịnh cho người.” (Phạn thiên ! Bồ tát hữu tứ pháp, thiện khai pháp thí. Hà đẳng tứ? Nhất giả, thủ trì ư pháp; nhị giả, tự ích trí tuệ diệc ích tha nhân; tam giả, hành thiện nhân pháp; tứ giả, thị nhân cấu tịnh. Thị vi tứ. 梵天!菩薩有四法,善開法施。何等四?一者,守護於法;二者,自益智慧亦益他人;三者,行善人法;四者,示人淨。是為四.)
572. Chân thật là chân như. Nhiễm tướng chân thật là “chân như nơi sự an lập, tức thánh đế về khổ mà Như lai nói; chân như nơi sự tà hành, tức thánh đế về tập mà Như lai nói.” Tịnh tướng chân thật là “chân như nơi sự thanh tịnh, tức thánh đế về diệt mà Như lai nói; chân như nơi sự chánh hành, tức thánh đế về đạo mà Như lai nói.” (kinh Giải thâm mật)
573. Vô bất tận, hay thuyết vô bất tận, hay thuyết nhi bất tận: nói mà không hết pháp nghĩa.
574. Lượng là hình thái hay phương cách nhận thức. Hiện lượng là năm thức trước nhận thức đối tượng một cách trực tiếp, thuần túy cảm giác, không có phê phán, suy luận, so sánh, dù đôi khi có sự cộng tác của ý thức. Tỷ lượng là ý thức nhận thức sáu trần cảnh qua phân biệt, suy luận, diễn dịch, so sánh, phán đoán. Không trái với hiện lượng và tỷ lượng nghĩa là thích ứng với 5 sắc thái trong sáng ngang qua hiện lượng và tỷ lượng. Kinh Giải thâm mật: “Đạo lý chứng thành có 2 loại, là loại trong sáng và loại vẩn đục. Do 5 sắc thái mà trong sáng và do 7 sắc thái mà vẩn đục. (Thứ nhất), do 5 sắc thái mà trong sáng là hiện thấy, suy luận, luận cứ, toàn hảo và chánh giáo. Hiện thấy là các hành vô thường, các hành khổ não, các pháp vô ngã, đại loại như vậy, đó là những điều mà hiện lượng thấy được. Suy luận là dựa vào sự hiện thấy, tức xét thấy các hành là tính sát-na, là tính có đời sau, là tính nghiệp lành nghiệp dữ không mất; tính sát-na là do sự vô thường thô thiển mà biết, tính có đời sau là do chúng sanh có nhiều loại vì có nhiều loại nghiệp mà biết, tính nghiệp lành nghiệp dữ không mất là do chúng sanh có vui có khổ mà biết, đại loại như vậy, đó là những điều không hiện thấy mà có thể suy luận. Luận cứ là dẫn chứng từ những thí dụ cùng tính chất, tức đối với các hành nơi bản thân hay nơi ngoại giới đều có thể dẫn sự sống chết mà ai cũng biết để ví dụ, dẫn mọi sự khổ não của sự sống chết mà ai cũng biết để ví dụ, dẫn sự bất tự do mà ai cũng biết để ví dụ, dẫn sự thịnh suy mà ai cũng biết để ví dụ, đại loại như vậy. Toàn hảo là do hiện thấy, do suy luận và do luận cứ mà làm cho chủ thuyết lập ra được quyết định. Chánh giáo là những giáo huấn tốt đẹp trong sáng, tức những tuyên thuyết của bậc toàn giác, như tuyên thuyết niết-bàn là vắng lặng trọn vẹn, đại loại như vậy. Do 5 sắc thái như vậy mà gọi là khéo quan sát về đạo lý trong sáng, và do sự trong sáng ấy mà đạo lý như vậy đáng được học tập.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
575. Phần lượng là không nói nhiều cũng không nói ít. Kinh Pháp hoa, phẩm An lạc hạnh thứ 14: “Đối với chúng sanh đủ loại thì thuyết pháp bình đẳng, nhưng tùy thuận chánh pháp nên không nói nhiều cũng không nói ít, thậm chí đối với những người ưa thích chánh pháp một cách sâu xa cũng không vì họ mà nói nhiều.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
576. Kinh Duy Ma Cật, phẩm Phật quốc, ghi: “Phật dùng một âm thanh thuyết pháp, chúng sanh ai ai cũng hiểu cả” (Phật dĩ nhất âm diễn thuyết pháp, chúng sanh các các tùy sở giải). Đó chính là viên âm: thanh âm viên diệu.
577. Tên đầy đủ là Phật thuyết Như lai bất tư nghị bí mật Đại thừa kinh (佛說如來不思議祕密大乘經, Đại Chánh tạng tập 11, kinh số 312). Phẩm Như lai ngữ mật bất tư nghị, thứ 8: ”Phật bảo Bồ tát Tịch Tuệ: Như Lai chẳng phải nơi môi, răng, lưỡi, cổ họng mà cả nơi mặt phát ra các âm thanh. Nên biết âm thanh của Như Lai từ nơi hư không mà ra, đầy đủ 64 sắc thái thù diệu : 1. Thấm đẫm; 2. Dịu dàng; 3. Vừa ý; 4. Đáng mến; 5. Trong sáng; 6. Lìa cấu; 7. Sang sảng rõ ràng; 8. Ngọt ngào; 9. Ưa nghe; 10. Không yếu ớt; 11. Tròn đủ; 12. Điều thuận; 13. Không rít; 14. Không ác; 15. Khéo vỗ về; 16. Vui tai; 17. Dễ chịu thân thể; 18. Tâm sanh bén mạnh; 19. Tâm hoan hỷ; 20. Vui thích; 21. Không nóng bức; 22. Như dạy răn; 23. Khéo hiểu biết; 24. Rành rõ; 25. Khéo yêu thương; 26. Khiến sanh vui mừng; 27. Khiến người vâng làm theo lời dạy; 28. Khiến người khéo hiểu biết; 29. Đúng lý; 30. Lợi ích; 31. Lìa lỗi sai trùng lặp; 32. Như tiếng sư tử; 33. Như tiếng rồng ngâm; 34. Như tiếng sấm sét; 35. Như tiếng long vương; 36. Như tiếng ca hay của khẩn na la; 37. Như tiếng chim ca lăng tần già; 38. Như tiếng Phạn vương; 39. Như tiếng chim cộng mạng; 40. Như tiếng đẹp mầu của Đế thích; 41. Như tiếng đánh trống; 42. Không cao; 43. Không thấp; 44. Tùy nhập tất cả âm thanh; 45. Không khuyết giảm; 46. Không phá hoại; 47. Không vẩn đục; 48. Không mong lấy; 49. Đầy đủ; 50. Trang nghiêm; 51. Hiển thị; 52. Viên mãn tất cả âm thanh; 53. Các căn vui thích; 54. Không chê bai; 55. Không khinh chuyển; 56. Không dao động; 57. Tùy nhập tất cả chúng hội; 58. Các tướng đầy đủ; 59. Khiến chúng sanh tâm ý vui mừng; 60. Nói tâm hạnh chúng sanh; 61. Tùy nhập tâm ý chúng sanh; 62. Tùy chúng sanh các thứ tin hiểu, tâm ý thành tựu; 63. Người nghe không biết biên tế và phần lượng của âm thanh; 64. Chúng sanh không thể tư duy xưng lượng.“ Kinh Đại thừa nhập lăng già: “Ngữ bình đẳng là Ta nói được 64 phạn âm, chư Như Lai cũng vậy, phạn âm như tiếng Ca lăng tần già không tăng không giảm không sai biệt, nên gọi là ngữ bình đẳng.” Kinh Đại bảo tích, quyển 3, Pháp hội Bồ tát tạng, phẩm Như lai bất tư nghị tánh cũng có liệt kê ngôn ngữ thuyết pháp của Phật.
578. Bất tư nghì pháp: Nói đủ là Phật bất tư nghì pháp. Đó là những pháp bất tư nghì của chư Phật về quốc độ, bổn nguyện, chủng tánh, sự xuất hiện, ba thân, âm thanh, trí tuệ, sự tự tại, sự vô ngại, sự giải thoát. Xin xem phẩm Phật bất tư nghì pháp, kinh Hoa nghiêm, quyển 33.
579. Tư nghì pháp: Là pháp mà có thể suy lý, tư duy, luận bàn, tác ý đúng lý bằng năng lực trí tuệ, tri thức thường nghiệm. Pháp ấy là pháp phương tiện, mà thường được gọi là kinh bất liễu nghĩa. Trái với pháp phương tiện là pháp chân thật, hay thật tướng mà siêu việt ngôn ngữ, siêu việt tư duy, là thực tại siêu nghiệm, vì không phải là cảnh giới mà tri thức thường nghiệm vươn tới.
580. Tỳ-già-la luận (Thanh minh kí luận / Vyakarana): bộ luận giải thích các pháp âm thanh, âm vận và ngữ pháp của văn tự Ấn Độ, là 1 trong 6 bộ luận của ngoại đạo, gọi là Vệ-đà lục luận (Veda-anga), gồm có: Thức-xoa luận, Tỳ-già-la luận, Kha-bạt-la luận, Thục-để-sa luận, Xiển-đà luận, Ni-lộc-da luận.
581. Kinh Phật thuyết Như lai bất tư nghị bí mật Đại thừa liệt kê 64 âm thanh của Phật, nhưng từ 59 đến 64 thì dẫn dụ rộng. Ở đây, đại sĩ Vô Trước dẫn ra 60 âm thanh, nhưng trên văn bản chỉ có 58 âm thanh.
582. Theo Phật giáo, trí tuệ có nhiều giai đoạn, phải dần dần và theo thứ tự mà tiến sâu vào. đầu tiên phát tâm cũng do trí tuệ mà cuối cùng được giải thoát cũng lại do trí tuệ. Trên đại cương, có thể chia tuệ làm ba giai đoạn, tức là ba tuệ văn, tư, tu. Theo Câu xá luận, quyển 22, muốn đến Kiến đạo vị (giác ngộ tứ đế) trước hết phải giữ giới, rồi văn tư tu chánh pháp thuận với sự kiến đế (kiến đạo). Văn tuệ chủ yếu là nơi câu văn; tư tuệ tuy cũng do văn nhưng lại đặt nặng ở nghĩa; và tu tuệ thì bỏ văn chỉ xét theo nghĩa để tự chứng tự nội mà chủ yếu bằng thiền định. Nói một cách khác, văn tuệ là trí tuệ có được do nghe mà hiểu được nghĩa lý của điều mình nghe, và nó bao hàm niềm tin vững chắc đối với Phật, Pháp, Tăng, vì Tam bảo là điểm tựa chân chánh cho việc cầu giải thoát; tư tuệ có nghĩa là nghiền ngẫm những điều mình đã được nghe để xác định nghĩa lý của nó; và tu tuệ là triệt để quán chiếu nội tâm, tu tập tâm giải thoát (nghĩa là thoát dục) và tuệ giải thoát (nghĩa là thoát vô minh), cuối cùng trở thành đại tự giác tận trí và vô sanh trí. Kinh Trung bộ, kinh Hữu học (Sekha sutta) số 53: “Vị này là vị đa văn, nhớ nghĩ những điều đã nghe, tích tụ những điều đã nghe. Những pháp nào, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, nói lên phạn hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh, những pháp như vậy, vị ấy nghe nhiều, thọ trì, đọc tụng bằng lời, được ý suy tư, được chánh kiến thể nhập.” (H.T Thích Minh Châu dịch)
583. Kinh Trung bộ, kinh Hữu học (Sekha sutta) số 53: “Vị này là vị đa văn, nhớ nghĩ những điều đã nghe, tích tụ những điều đã nghe. Những pháp nào, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, nói lên phạn hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh, những pháp như vậy, vị ấy nghe nhiều, thọ trì, đọc tụng bằng lời, được ý suy tư, được chánh kiến thể nhập.” (H.T Thích Minh Châu dịch)
584. Trí như thật (Như thật trí): Trí tuệ hiểu biết đúng như sự thật về danh, nghĩa, tự tánh và sai biệt của các pháp.
585. Tự tánh vô lậu chính là tuệ tâm sở (trong 5 tâm sở biệt cảnh) đã vô lậu, chuyển đắc 4 trí. Bốn trí là do chuyển 8 thức mà thành: chuyển thức thứ 8 thành đại viên cảnh trí, chuyển thức thứ 7 thành bình đẳng tánh trí, chuyển thức thứ 6 thành diệu quán sát trí và chuyển 5 thức trước thành thành sở tác trí. Bốn trí này, ở giai đoạn vô lậu, mỗi trí đều có 21 tâm vương và tâm sở tương ưng với nó: thức căn bản tức tâm vương của nó, cộng với 11 thiện tâm sở, 5 biến hành, 4 biệt cảnh và tuệ tâm sở. Tự tánh bản lai thanh tịnh là nói đến trí giác bồ-đề (4 trí) qua chân như tánh sở y tự tánh vô lậu tuệ.
586. Đây là quan điểm của Thuyết nhất thiết hữu bộ, cho rằng các pháp, gồm sắc pháp, tâm pháp, tâm sở hữu pháp và tâm bất tương ưng hành pháp, toàn là thực hữu. Các pháp hữu vi không phải từ đâu sanh ra mà luôn luôn đã có, chỉ đổi từ trạng thái tiềm tàng qua hiện hữu. Vì quan điểm này mà Thuyết nhất thiết hữu bộ có tên Nhất thiết hữu, nghĩa là quá khứ vị lai đều được chứa trong một pháp duy nhất. Trong Thuyết nhất thiết hữu bộ, người ta cũng khám phá vài yếu tố nguyên thuỷ của Đại thừa như quan điểm tam thân và niềm tin nơi Bồ tát Di Lặc, vị Phật tương lai.
587. Ba loại tự tánh: là nói nhất thiết pháp tướng (sắc thái của các pháp), tức nói 3 tự tánh: biến kế chấp tánh, y tha khởi tánh và viên thành thật tánh. Tánh có nghĩa là có, nhưng mỗi tánh có mỗi cách: biến kế là vọng hữu (có một cách sai lầm), y tha là giả hữu (có một cách tương đối) và viên thành là thật hữu (có một cách đích thật).
588. Kinh Pháp cú: Tỳ-kheo Hatthaka ưa thích biện luận. Mỗi khi bị thua thì thầy khiêu khích đối phương, hẹn biện luận ở chỗ khác và lúc khác. Rồi thầy đến trước, phân bua đối phương không đến là công nhận mình thua. Thỉnh thoảng thầy lại khoa trương rằng, nhìn kia, mấy người ngoại đạo không dám biện luận với ta, họ bị ta đánh bại. Đức Phật biết tánh xấu ấy của thầy Hatthaka, dạy răn: Ông tại sao làm vậy? Tỳ-kheo dầu cắt bỏ 3 ngàn tơ sợi phiền não đi nữa, mà nói như vậy cũng không đáng gọi tỳ-kheo. Đáng gọi tỳ-kheo là phải trừ hết việc ác và kiêu ngạo. Đức Phật nói 2 bài kệ: (264) Đầu trọc, không Sa môn/ Nếu phóng túng, nói láo./ Ai còn đầy dục tham/ Sao được gọi Sa môn ? (265) Ai lắng dịu hoàn toàn/ Các điều ác lớn nhỏ/ Vì lắng dịu ác pháp/ Được gọi là Sa môn.
589. Nhiếp luận: “Lại có 4 thứ ý thú và 4 thứ bí mật, đối với Phật ngôn, hãy tùy đó mà quyết liễu… Còn 4 thứ bí mật, một là bí mật dẫn vào, là trong Thanh văn thừa hay trong Đại thừa, y theo thế tục đế mà nói có ngã, lại nói có pháp; hai là bí mật về tướng, là ở đây nói các pháp tướng bằng cách nói 3 tự tánh; ba là bí mật đối trị, là ở đây nói hành tướng đối trị có đến 84 ngàn; bốn là bí mật chuyển biến, là ở đây đem lời chữ khác mà biểu thị ý nghĩa khác, như có bài chỉnh cú nói: Biết sự không kiên cố là kiên cố, khéo sống trong sự đảo ngược, thì cùng cực sự não loạn của phiền não mà được tuệ giác tối thượng.” H.T Thích Trí Quang giải thích: “Về 4 bí mật, 2 thứ đầu của luận này phải hội ý với luận Đại thừa trang nghiêm kinh mới rõ. Bí mật dẫn vào, là thế nhân rất sợ vô ngã nên phải căn cứ thế tục đế mà nói có ngã để dẫn dắt họ; còn tiểu thừa ngộ nhập vô ngã nhưng rất sợ vô pháp, nên phải căn cứ thế tục đế mà nói có pháp để dẫn dắt họ. Bí mật về tướng là nói 3 tánh mà chính ra cho thấy vô tánh. Bí mật đối trị là nói pháp môn có đến 84 ngàn chỉ vì đối trị 84 ngàn phiền não. Bí mật chuyển biến là nói với ngụ ý bằng chữ nghĩa khác, ví dụ nói như bài chỉnh cú đã dẫn. Nghĩa bài ấy như sau. Kiên cố là ngoan cố, khó điều phục. Không kiên cố là không còn sự kiên cố nói trên, tức là định. Biết được định mới là kiên cố thật. Sự đảo ngược là thường lạc ngã tịnh (đảo ngược vô thường bất lạc vô ngã bất tịnh). Khéo sống trong sự đảo ngược là sống trong sự đảo ngược mà không đảo ngược (vẫn sống bằng vô thường bất lạc vô ngã bất tịnh). Cùng cực sự não loạn của phiền não là những khổ hạnh khó nhẫn khó làm; mà nhẫn và làm được cả nên được vô thượng giác.”
590. Nhiếp luận: “Lại có 4 thứ ý thú và 4 thứ bí mật, đối với Phật ngôn, hãy tùy đó mà quyết liễu… Bốn ý thú, một là ý thú bình đẳng, là như nói Như lai xưa kia, vào lúc ấy, chỗ ấy, có danh hiệu là đấng chánh biến giác Thắng quán; hai là ý thú khác thì, là như nói ai niệm danh hiệu đức Đa bảo như lai thì thế là đối với tuệ giác vô thượng đã được quyết định, lại như nói chỉ cần phát nguyện thì thế là vãng sanh thế giới Cực lạc; ba là ý thú khác nghĩa, là như nói nếu đã gặp gỡ và phụng sự hằng sa chư Phật thì đối với Đại thừa mới lý giải được ; bốn là ý thú do người, là như vì một người mà trước khen bố thí sau chê bố thí, như đối với sự bố thí thì đối với sự giữ giới và một phần thiền định thế gian cũng vậy. Như vậy gọi là 4 thứ ý thú.” (H.T Thích Trí Quang dịch) Bốn ý thú này cũng được đề cập trong Đại thừa A-tỳ-đạt-ma tạp tập luận, quyển 12 (大乘阿毘達磨雜集論, Đại Chánh tạng, tập 31, kinh số 1606).
591. Phật nói ngài là đức Tỳ bà thi (Thắng quán), đó là căn cứ vào sự bình đẳng giữa các đức Phật.
592. Nói tất cả các pháp là không có tự tánh, đó là căn cứ vào nghĩa không sanh, không diệt, để phá sự thêm lên biến kế sở chấp của phàm phu. Đạo lý này, nói đủ là: Do ba vô tánh nên các pháp toàn không, không sanh không diệt, bản lai vắng lặng, tự tánh niết-bàn.
593. Nói niệm hồng danh và phát nguyện mà có kết quả vãng sanh, đó là căn cứ vào thời gian cuối cùng.
594. Với một pháp mà Phật khi khen khi chê, đó là căn cứ vào lợi ích khác nhau cho người nghe.
595. Ý thú khác muốn (biệt dục ý) còn gọi là ý thú bổ đặc già la, ý thú chúng sanh ý lạc, ý thú thuận chúng sanh tâm.
596. Kim Cương kinh sớ, 金剛經疏, ĐTK 2738: “Lập ý thú bình đẳng để phá chướng khinh Phật: có người nói sanh diệt là pháp nhĩ, hễ có sanh thì có diệt, Phật với mình cũng giống nhau (có sanh có diệt) bèn sanh tâm khinh mạn; vì phá chướng này mà Phật nói ý thú bình đẳng, rằng xưa kia Phật Tỳ bà thi chính là thân Ta, đâu có giống sự sanh diệt của ông. Lập ý thú khác nghĩa để phá chướng khinh pháp: có người nói cho đến trẻ con cũng có thể thấy sắc nghe thanh, thì việc hiểu ý người, biết pháp nghĩa có gì là khó; vì phá chướng này mà nói pháp ba vô tánh mà khi nhập địa mới giác ngộ. Lập ý thú khác thời để phá chướng biếng nhác: có người nghe tu tập dài lâu mới có thể vãng sanh tịnh độ, nghe rồi sanh tâm biếng nhác; vì phá chướng này nói người được vãng sanh sẽ được bất thoái. Lập ý thú khác muốn để phá 5 chướng còn lại: 1. Phá chướng ít muốn: người ưa bố thí mà không giữ giới, Phật chê thí, khen giới; 2. Phá chướng tham hạnh: người tham muốn cảnh vui, Phật ca ngợi tịnh độ; 3. Phá chướng mạn hạnh: người chấp cõi này là vui, Phật khen tịnh độ diệu lạc; 4. Phá chướng hối hạnh: (Đề bà đạt đa) xô đá đè Phật vẫn không thấy xấu ác mà còn bực tức, Phật nói làm việc không lợi ích đối với Phật vẫn được sanh đường lành (Đề bạt đạt đa được thọ ký thành Phật); 5. Phá chướng bất định: có người chấp nhị thừa không nhất định làm Phật; vì phá chướng này Phật nói việc thọ ký (cho Thanh văn) và thuyết nhất thừa. Năm cách phá chướng toàn là trước khen sau chê, nhưng nói lên được cái ý ưa muốn.”
597. Thiện căn là tín căn, tiến căn, niệm căn, định căn và tuệ căn. Y chỉ là y chỉ yểm, y chỉ ly, y chỉ diệt và hồi hướng nơi xả, nghĩa là chán khổ, lìa phiền não, tu đạo và hướng niết-bàn.
598. Tự tánh niệm sanh trí: trí này khi sanh ra liền có, trong đó thể là tuệ tâm sở, tính chất chủ yếu là niệm lực. Trí này nhớ được những việc trong quá khứ hoặc 1 đời, 7 đời cho đến 500 đời, biết được tâm tánh thiện, bất thiện và vô ký của chúng sanh.
599. Tăng thượng tín căn là đạt địa vị thập tín. Nghe pháp Đại thừa mà phát sanh tín tâm nên nói là tín căn; tin sâu, bền chặt như kim cương, nên nói là tăng thượng.
600. Tăng thượng tuệ căn là Bồ tát từ địa thứ 2 đến địa thứ 7, còn gọi là hành chánh hành địa (行正行地, caryā-pratipatti-bhūmi) tu tập tăng thượng giới, tăng thượng tâm và tăng thượng tuệ.
601. Tuệ thiện, hay tuệ thiện giải thoát: trí tuệ có được khi tâm tham, sân và si đã đoạn trừ.
602. Ba tam-muội (chánh định) này vừa câu hữu với pháp hữu lậu, vừa câu hữu với pháp vô lậu, thông qua văn tư tu mà sanh ra trí thế gian và trí xuất thế gian.
603. Trung bộ kinh, kinh Ví dụ con rắn: “Ở đây, này các tỳ-kheo, một số thiện nam tử học pháp, như kinh, ứng tụng, giải thuyết, kệ tụng, cảm hứng ngữ, như thị ngữ, bổn sanh, vị tằng hữu pháp, phương quảng. Sau khi học các pháp này, họ quán sát ý nghĩa những pháp ấy với trí tuệ. Những pháp ấy, vì ý nghĩa được trí tuệ quán sát, nên trở thành rõ ràng. Họ học pháp không vì lợi ích, muốn chỉ trích người khác, không vì lợi ích, muốn khoái khẩu biện luận, và họ đạt được mục tiêu mà sự học pháp hướng đến. Những pháp ấy, vì khéo nắm giữ, nên đưa họ đến hạnh phúc, an lạc lâu dài. Vì sao vậy? Này các tỳ-kheo, vì khéo nắm giữ các pháp, (như sự khéo nắm giữ con rắn).” (H.T Thích Minh Châu dịch)
604. Trong kinh Ví dụ con rắn, đức Phật ví dụ giáo pháp như chiếc bè để qua sông, không phải để nắm giữ: “Chư tỳ-kheo, các ông cần hiểu ví dụ chiếc bè... Chánh pháp còn phải bỏ đi, huống nữa là phi pháp.” Tương tự, kinh Kim Cương cũng nói: “Các vị tỳ-kheo, hãy nhận thức rằng pháp Như lai nói tựa như chiếc bè: pháp còn phải bỏ, huống chi phi pháp.”
605. Đồng đắc là cùng ngộ nhập pháp tánh, vì cùng được trí vô phân biệt xuất thế gian.
606. Đó là các tướng hý luận, tức những khái niệm nhị biên.
607. Địa kiến lập trí (地建立智): còn gọi là như sở kiến lập trí, tức là hậu đắc trí. Luận Đại thừa trang nghiêm kinh, quyển 7, phẩm Giáo thọ, thứ 15: “Hỏi: Ở các địa khác, Bồ tát tu tập gì? Đáp: Hai trí siêng tu tập: Hai trí là: 1. Trí vô phân biệt; 2. Trí như sở kiến lập. Trí vô phân biệt là trí xuất thế. Trí như sở kiến lập là trí hậu đắc thế. Hỏi: Hai trí này có công năng gì? Đáp: Tịnh pháp và chúng sanh: Ở đây, trí vô phân biệt có công năng hoàn thành các pháp của Phật và trí như sở kiến lập có công năng thành thục chúng sanh.”
608. Không phóng dật thì có thể an trú Đại thừa. Như Phật thuyết Như lai bất tư nghị bí mật Đại thừa kinh, quyển 5, phẩm Trì Quốc luân vương tiên hành: “Đại vương, có bốn pháp nếu viên mãn được thì có năng lực an trú Đại thừa, thành tựu hạnh bất phóng dật, tâm không phân tán trôi chảy. Những gì là bốn? 1. Giới hộ các căn; 2. Quá dục là tội lỗi; 3. Nhiếp thọ tất cả (pháp) mà khởi ý tưởng vô thường; 4. Đối với các pháp xác định là thắng mạng căn (:chủng tử trí tuệ). Đại vương, bốn pháp như vậy, nếu viên mãn được thì có năng lực an trú Đại thừa, thành tựu hạnh bất phóng dật, tâm không phân tán trôi chảy.”
609. Trường a hàm, kinh Thập thượng: “Thế nào là bốn thành pháp? Đó là luân pháp: 1. Sống ở giữa nước; 2. Gần thiện hữu; 3. Tự cẩn thận; 4. Có gốc rễ thiện đã được trồng từ đời trước (Thích Đức Thắng dịch). Phật tánh luận, quyển 2 (ĐTK 1610): “Nói về bốn luân: 1. Trú quốc độ như pháp; 2. Nương tựa thiện tri thức; 3. Điều phục tự thân; 4. Gieo trồng thiện căn. Luân có bốn nghĩa: 1. Chưa được khiến được, được rồi không cho mất; 2. Năng lực vượt qua: từ đây đến kia, từ người tương tục đến mình tương tục, từ mình tương tục lại đến với người; 3. Năng lực chuyên chở: là năng lực từ sanh tử đưa đến niết-bàn.” Du già luận ký, quyển 24 (ĐTK 1828): ““Thế nào là đoạn? Là chư thiên, nhân loại sở hữu bốn luân, nghĩa là ở trong chư thiên, nhân loại đều có bốn luân để phá nát tám nạn.” Kinh Hoa nghiêm, phẩm Thập hồi hướng: “Nguyện tất cả chúng sanh ngồi xe bốn bánh: nghĩa là ở quốc độ tốt, y tựa bậc thiện nhân, họp phước đức thù thắng, phát thệ nguyện lớn, dùng bốn điều này thành tựu viên mãn tất cả Bồ tát hạnh thanh tịnh.” (H.T Thích Trí Tịnh dịch) Du già sư địa luận nói: “1. Quốc độ tốt là được làm thân người trời, ra khỏi các nạn xứ, lấy đó làm thân xe; 2. Họp phước đức thù thắng là các căn hoàn toàn đầy đủ, như cái bầu xe, trục bánh chạy tốt nhờ thêm dầu mỡ; 3. Phát thệ nguyện lớn như con trâu tốt kéo nặng, đi xa; 4. Y tựa bậc thiện nhân là chư Phật, Bồ tát, như người khéo điều khiển xe. Do 4 điều này mà thành tựu đại niết-bàn, nên nói là thành tựu viên mãn tất cả Bồ tát hạnh thanh tịnh.” Hoa nghiêm kinh sớ, cho rằng: “Quốc độ là 10 quốc độ hải; thiện nhân là 10 thân Như lai; thắng phước là tánh khởi công đức; đại nguyện là Phổ Hiền nguyện hải.”
610. Bốn sự: chỗ ở, y phục, thức ăn và thuốc men.
611. A-hàm, tức Phương đẳng A-hàm, ở đây chỉ cho các kinh điển Đại thừa. Cố nhiên, A-hàm cũng bao gồm những giáo thuyết truyền thừa của Phật giáo bộ phái.
612. Muôn pháp xuất sanh đều dựa vào cái thể nhất tâm vô trú, lìa tâm ra không có pháp nào khác; như sóng dựa vào nước, ngoài nước không có sóng; như vạn tượng dựa vào hư không, ngoài hư không không có ảnh tượng. Khởi tín luận: “Các pháp xưa nay phi ngôn ngữ, phi văn tự, phi nhận thức, tuyệt đối nhất quán, không hề chuyển biến, không thể phá hủy, toàn là tâm thể đồng nhất nên mệnh danh chân như.” (H.T Thích Trí Quang dịch). Chân như và tất cả pháp không hai không khác, cho nên các phiền não tham sân si và tuệ giác của chư Phật đồng thuộc về pháp giới thanh tịnh.
613. Chỉ quán luận: “Như lai tạng đủ hết các tính của tất cả chúng sanh. Các tính ấy khác nhau, không đồng nhất, tức là sự sai biệt của phi sai biệt. Các tính ấy của mỗi chúng sanh bản lai có vô lượng tính, đó là tất cả pháp dơ bẩn thế gian: 6 nẻo đường sanh tử và 4 loại sanh bằng cách sanh khác nhau, rồi khổ vui, tốt xấu, thọ lượng dài ngắn, hình lượng lớn nhỏ, ngu si trí tuệ, v/v; là tất cả pháp trong sạch xuất thế: nhân và quả của Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, v/v. Vô lượng pháp khác nhau như vậy, nơi tính của mỗi chúng sanh có đủ tất cả, không thiếu chút gì. Vì ý nghĩa này mà như lai tạng bản lai cùng lúc có đủ 2 tính dơ bẩn trong sạch: có đủ tính dơ bẩn nên biểu hiện tất cả dụng dơ bẩn của chúng sanh (và như lai tạng được gọi là pháp thân còn trong chướng ngại, là pháp thân bản hữu, cũng gọi là phật tánh) lại có đủ tính trong sạch của chư Phật (và như lai tạng được gọi là pháp thân ra khỏi chướng ngại, là pháp thân tánh tịnh, cũng gọi là niết-bàn tánh tịnh).” (H.T Thích Trí Quang dịch)
614. Kinh Viên Giác: “Thiện nam tử, biết một cách triệt để về mọi sự chướng ngại: chánh niệm với vọng niệm toàn là giải thoát, hoàn thành với thoái thất toàn là niết-bàn, tuệ giác với u mê toàn là Bát-nhã, Bồ tát thành đạt với ngoại đạo thành đạt toàn là bồ-đề, chân như với vô minh toàn là bản thể, giới định tuệ với dâm nộ si toàn là phạn hạnh, chúng sanh với quốc độ toàn là pháp tánh, địa ngục với thiên cung toàn là tịnh độ, có chủng tánh với không chủng tánh toàn thành Phật đà, tất cả phiền não cứu cánh là giải thoát: biển cả tuệ giác soi tỏ những khái niệm đối lập lẫn nhau toàn như không gian. Đó là sự thích ứng viên giác của Như lai.” (H.T Thích Trí Quang dịch). Đây là cái biết của trí vô phân biệt viên chứng tánh chân thật.
615. Chỉ quán luận: “Tâm có đủ dụng dơ bẩn, là chính tính dơ bẩn được nghiệp dơ bẩn huân tập nên thành ra chủng tử của vô minh trú địa và tất cả pháp dơ bẩn, chủng tử này lại biểu hiện mọi thứ nghiệp báo: vô minh cho đến nghiệp báo ấy là dụng dơ bẩn. Vô minh cho đến nghiệp báo v/v tuy biểu hiện khác nhau và gọi là sự dụng, nhưng toàn do Tâm làm bản thể, toàn không ngoài Tâm: vì ý nghĩa này mà lại nói Tâm là như thật hữu.” (H.T Thích Trí Quang dịch). Tu hành là lấy Tâm làm bản thể, ngay nơi Tâm mà làm cho dụng trong sạch khởi lên thì diệt được dụng dơ bẩn.
616. Tám thí dụ như huyễn của các pháp: huyễn ảo, chiêm bao, sóng nắng, ảnh tượng, bóng sáng, tiếng dội, bóng trăng trong nước, biến hóa. (Xem Luận Đại thừa trang nghiêm kinh, phẩm thứ 9, Thuật cầu)
617. Tâm phương tiện, hay tịnh tâm phương tiện: tâm yên ổn, tâm an lạc ngày càng tăng trưởng. Người sơ phát tâm kiên cố có 2 phương tiện: tịnh tâm phương tiện và đạo phương tiện (: bản thân nơi ngày đêm thành tựu Phật pháp, tùy theo cái lực dựa vào tịnh tâm phương tiện.)
618. “Tâm tánh bản tịnh, khách trần nhiễm ô” là luận thuyết của Đại Chúng bộ. Luận thuyết ấy nói rằng, tâm tánh bản lai thanh tịnh, xa lìa tất cả phiền não mê vọng, duyên vì khách trần phiền não bên ngoài làm nhiễm ô, nên tâm tánh trở thành bất tịnh. Vì tâm tánh thì bản tịnh, khách trần là phiền não, tâm và phiền não đều có từ vô thủy, khách trần thường đeo đuổi theo tâm, nên gọi là tùy phiền não. Bởi có tùy phiền não nên tâm bị nhiễm ô, tạo ra nghiệp, khiến cho chúng sanh mãi xoay vần trong nẻo khổ. Nếu nương vào sự tu hành để gột rửa phiền não, thì tâm trở nên trong sạch, hiển lộ được tịnh tánh sẵn có từ xưa. Tâm là chủ, phiền não là khách, hai thứ đều đồng thời; tâm tánh thì vô thủy vô chung, phiền não thì vô thủy hữu chung.
619. Y tha không cố định là nhiễm hay tịnh. Y tha mà thành chân thật thì tự tánh thanh tịnh hiển lộ, gọi là viên thành thanh tịnh.
620. Tâm ấy, Khởi tín luận gọi là nhất tâm: cái Tâm đồng nhất - giữa các pháp với các pháp, giữa chúng sanh với chúng sanh, giữa chúng sanh với Phật đà.
621. A-ma-la thức, tức Vô cấu thức: Là nơi sở y của các pháp vô lậu cực kỳ thanh tịnh. Tên gọi này chỉ áp dụng cho Như lai địa, vì Bồ tát, nhị thừa và dị sanh vị có sự huân tập khả ái của chủng tử hữu lậu, chưa đạt được thức thứ tám thiện tịnh. Như kinh Như lai công đức trang nghiêm nói: “Thức vô cấu của Như lai, là giới tịnh vô lậu, giải thoát hết mọi chướng, tương ưng trí viên kính.”
622. Dục trần: Là dục lạc hay ngũ dục: 1. Sắc, thanh, hương, vị, xúc (sắc đẹp, tiếng hay, hơi thơm, mùi ngon, xúc khoái), hay, 2. Tài, sắc, danh, thực, thùy (tiền của, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ). Như vậy, dục trần là nói mọi giác quan đều thỏa thích, cảm thấy hay ho và hữu ích.
623. Pháp vô ngã trí: Trí như thật tri các pháp thành, các pháp hoại đều giả lập, không thật. Kinh Lăng già: “Thế nào là pháp vô ngã trí? Nghĩa là biết ấm giới nhập lấy tướng vọng tưởng làm tự tánh. Như thật tri ấm giới nhập thì lìa ngã và ngã sở. Ấm giới nhập chứa nhóm, là nhân tố của nghiệp ái ràng buộc, triển chuyển duyên nhau sanh, không dao động (vì bất khả đắc). Các pháp cũng vậy, rời xa tự tướng, cộng tướng, tướng vọng tưởng, sức vọng tưởng đều không thật. Đây là phàm phu sanh phân biệt, chẳng phải thánh hiền. Bồ tát quán sát tất cả pháp rời xa tâm, ý, ý thức, năm pháp (tướng, danh, phân biệt, chánh trí, như như), ba tự tánh. Đại Huệ! Đại Bồ tát phải khéo phân biệt tất cả pháp vô ngã”.
624. Đây là vô số kiếp thứ nhất trong 3 vô số kiếp tu hành của Bồ tát: vô số kiếp thứ nhất là tín giải hành địa; vô số kiếp thứ hai là từ địa thứ 2 đến địa thứ 7; vô số kiếp thứ ba là từ địa thứ 8 đến địa thứ 10.
625. Thiện pháp là 2 thứ tư lương phước đức và trí tuệ, qua sự thực hành 6 ba-la-mật.
626. Giữ gìn sự thanh tịnh: là tịnh hóa bằng 3 loại giới: luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới và nhiêu ích hữu tình giới.
627. Chánh trực kiến: Lý giải Đại thừa một cách chính xác. Tu tập Bồ tát đạo là tu tập đa văn, trong đó hiểu rõ tất cả tà pháp và chánh pháp, biết chân đế là không, hiểu tục đế là hữu, rời xa khái niệm nhị biên thường đoạn của ngoại đạo, không rơi vào tà kiến.
628. Nhuyến tâm: là tâm thiện, tâm tịnh thiện, tâm diệu tịnh thiện, tâm nhu hòa.
629. Đó là chướng ngại chứng đắc sơ địa. Kinh Giải thâm mật: “Trong địa đầu tiên có hai thứ ngu tối, một là ngu tối vì ngã chấp và pháp chấp, hai là ngu tối vì những sự tạp nhiễm trong ác đạo, cùng với sự nặng nề của hai thứ ngu tối ấy, là những cái bị đối trị ở đây. (Nặng nề: chính văn là thô trọng, chỉ cho chủng tử của các thứ ngu tối, và chỉ cho sự không kham nhiệm, nghĩa là không gánh vác nổi việc gì cả] do các thứ ngu tối dẫn ra.)” (H.T Thích Trí Quang dịch giải)
630. Trí xa-ma-tha: Nhiếp luận thích (ĐTK 1595): “Trí này dựa vào xa ma tha sanh khởi, rời tán động địa, là trí xa ma tha nên gọi là tịch tĩnh.”
631. Hai nghĩa là có và không; năng thủ và sở thủ.
632. Theo kinh Giải Thâm Mật, tên là sự giả thiết về tự tánh của tất cả các pháp nhiễm tịnh.
633. Theo kinh Giải Thâm Mật, câu là sự qui tụ của tên, thành cấu trúc diễn tả về nghĩa nhiễm hay tịnh của các pháp. Câu xá luận định nghĩa: “Cú (pada) là chỉ cho chương (vākya), tức một bài hoặc một câu có thể diễn đạt trọn vẹn một ý nghĩa nào đó, như câu “các hành thì vô thường” v.v...”
634. Xét đoán bằng 4 cách: toán số, xưng lượng, tư duy và quán sát. Toán số là số mục, như nói “10 sắc xứ và đọa pháp xứ nhiếp thuộc các sắc, gọi là sắc uẩn.” hay “có 6 thọ thân, nhãn xúc sở sanh thọ; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc sở sanh thọ.” (Du già sư địa luận, phẩm Thanh văn địa). Xưng lượng là không nói tăng ích, như “sắc có 12, thọ có 7”; không nói tổn giảm, như “sắc chỉ có 10, thọ chỉ có 5”. Tư duy là tư duy bằng hiện lượng, tỷ lượng và thánh giáo lượng; là tư duy bằng 4 đạo lý: tương đãi, nhân quả, thành tựu và pháp nhiên (Luận Đại thừa trang nghiêm kinh, quyển 12, phẩm Công đức). Quán sát là thấu triệt nghĩa lý của toán số, xưng lượng và tư duy.
635. Có giác có quán, nghĩa là có tầm có tứ. Tầm (vitkka) có nghĩa là đánh mạnh vào, có đặc tính là hướng tâm, để tâm trên đối tượng. Tứ (vicàra) là tư duy được đưa lên cao độ, có đặc tính liên tục nhấn mạnh vào đối tượng, dán chặt vào đối tượng. Sơ thiền xảy đến cùng một lúc với tầm và tứ nên gọi là “có giác có quán”, như nói một cây có hoa và trái.
636. Không giác không quán, tức Không tầm không tứ: Khi xuất sơ thiền, tầm và tứ đối với hành giả bấy giờ thành thô, trong khi hỷ lạc và nhất tâm có vẻ an tịnh. “Làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, hành giả chứng và trú nhị thiền, nội tĩnh nhất tâm, không tầm không tứ, với hỷ và lạc do định sanh”
637. Hôn trầm (thân tâm nặng nề): Đặc tính của hôn trầm là không thể gánh vác được gì cả khi tâm đối với cảnh. Hôn trầm làm chướng ngại khinh an và làm cản trở tu quán (tỳ bát xá na).
638. Xao động (trạo cử): Đặc tính của trạo cử là không chịu yên tịnh khi tâm đối với cảnh. Trạo cử làm chướng ngại hành xả và cản trở tu chỉ (xa ma tha).
639. Tâm ở trạng thái bình đẳng là tâm không có hôn trầm và trạo cử.
640. Hành xả là tâm an trú vắng lặng, không có trạo cử và hôn trầm, là khi các tâm sở nối tiếp nhau chuyển biến nơi tâm thức mà không có sự chấp trước, nhìn dòng chảy tâm thức qua đi một cách thản nhiên, không thêm không bớt một ý niệm nào khác. Hành xả còn gọi là trú xả.
641. Chánh trú là an trú trong chánh định. Ở đây là Vô gián định, phát khởi trí như thật bậc thượng, thể hội năng thủ sở thủ đều không, nhập vào thế đệ nhất pháp; chánh định liên tục không ngừng nghỉ, không cách hở thì chắc chắn nhập vào kiến đạo.
642. Trú tâm (cittatthiti), tức nội tâm an trú chánh xa ma tha (tịnh chỉ). Du già sư địa luận, quyển 30, phẩm Xà ma tha nói đến chín thứ tâm trú: “Một, nội trú, còn gọi là linh trú, tối sơ trú, tức là nhiếp thu nương vào tất cả mọi cảnh duyên bên ngoài, xa lìa tán loạn bên trong, mà khiến cho tâm mình chấp chặt vào cảnh. Hai, đẳng trú, hay là chánh niệm trú, là nhiếp tâm mình vào cảnh động mạnh, khiến tâm mình trú khắp cảnh vi tế. Ba, an trú, hay là phú thẩm trú, là xa lìa tán loạn cùng thất niệm, đem tâm mình trú vào cảnh bên trong. Bốn, cận trú, còn gọi là hậu biệt trú, là gần gũi niệm trú nên lúc nào cũng tác ý. Năm, điều thuận, còn gọi là điều nhu trú, là đem tâm điều phục không cho tan chảy. Sáu, tịch tĩnh, còn gọi là tịch tĩnh trú, thường thấy cái ác tầm tư sâu xa, cùng lỗi lầm của tùy phiền não, cho đến đem tâm nhiếp phục. Bảy, tối cực tịch tĩnh, còn gọi là hàng phục trú, là chế phục do mất niệm mà hiện khởi tầm từ ác cùng tùy phiền não. Tám, chuyên chú nhứ thú, còn gọi là công dụng trú, là nhờ công lực mà định lực được tương tục. Chín, đẳng trì, còn gọi là bình đẳng nhiếp trì, hay nhậm vận trì, là từ nơi nhân duyên tu tập luôn luôn, khiến cho định tâm của dụng vô công chuyển liên tục.”
643. Còn gọi là chuyên chú nhất thú, nghĩa là an trú có gia hành, có công đức, không khiếm khuyết, không cách hở, chánh định tương tục.
644. Tổng trì, hay đẳng trì: chỉ cho 4 thiền.
645. Ỷ tức, hay khinh an.
646. Căn bản thiền định: bao gồm 4 thiền, 4 vô lượng tâm và 4 vô sắc định.
647. Tịnh tâm vị, hay tịnh tâm địa, hay tịnh thắng ý lạc địa: Là địa vị chứng đắc tâm vô lậu thanh tịnh, là giai vị thứ nhất trong tiến trình tu hành Đại thừa, là 1 trong 7 địa, là địa đầu tiên trong 10 địa, 1 trong 12 trú, đồng với Hoan hỷ địa.
648. Khí thể thanh tịnh là Bồ tát đang ở giai đoạn lọc quặng thành vàng, và tiến trình ấy đã xác lập, tức thẳng tiến đi vào thừa tối thượng. Kinh Viên giác: “Thiện nam tử, như lọc quặng vàng thì vàng không phải do lọc mới là vàng, và vàng đã lọc thành vàng ròng thì không bao giờ trở lại làm quặng nữa, để lâu đến mấy vàng ròng đó cũng không hư hỏng. Như vậy không thể nói vàng vốn không phải là vàng... Viên giác mà Như lai chứng ngộ cũng tương tự như vậy.”
649. Bồ tát được năm công đức này gọi là được thanh tịnh ý lạc. Kinh Giải thâm mật cũng nói đến 5 công đức như vậy: “Đại Bồ tát Từ thị lại thưa Phật: bạch đức Thế tôn, Bồ tát ngang đâu thì gọi là đạt được chỉ quán vin pháp tổng quát? Đức Thế tôn dạy đại Bồ tát Từ thị: Thiện nam tử, ngang lúc có năm hiệu quả sau đây thì gọi là đạt được: một là khi tư duy thì trong từng sát-na đã tiêu dung chỗ dựa của mọi thứ thô trọng, hai là bỏ phân biệt mà được pháp lạc, ba là mở tỏ vô số ánh sáng của cái pháp không phân biệt khắp trong mười phương quốc độ, bốn là đã thường xuyên hiện ra cái trí không phân biệt do việc làm đã thành mãn và đã thích ứng với phần thanh tịnh, năm là những giai đoạn sau đó vẫn thể hiện những nhân tố tinh tế hơn lên để làm cho pháp thân thành mãn.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
650. Nhất thiết chủng không, hay nhất thiết chủng không giải thoát môn. Đây là nói tắt của ba giải thoát môn: nhất thiết chủng không, vô tướng và vô nguyện.
651. Chánh văn là phân số (分數). Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Tứ Thánh đế: “Chư Phật tử! Về khổ tập Thánh đế, trong thế giới Mật Huấn, hoặc gọi là thuận sanh tử, là nhiễm trước, là đốt cháy, là lưu chuyển, là gốc bại hoại, là mối hữu lậu, là ác hạnh, là ái trước, là nguồn bịnh, là phân số.” (H.T Thích Trí Tịnh dịch)
652. Chân thật tướng (viên thành thật tướng) có ba loại: 1. Tự tướng; 2. Nhiễm tịnh tướng; 3. Vô phân biệt tướng (xem phẩm Thuật cầu, phần 2). Vô phân biệt tướng là cảnh giới không còn hý luận phân biệt, là đối tượng của tuệ giác thanh tịnh.
653. Pháp thân chư Phật có 5 sắc thái là: chuyển y, bạch pháp thành tựu, vô nhị, thường trú và bất khả tư nghị. (Nhiếp luận)
654. Kinh Giải thâm mật: “Thiện nam tử, giáo pháp của Như lai thiết lập cho Bồ tát là khế kinh, ứng tụng, ký biệt, phúng tụng, tự thuyết, nhân duyên, thí dụ, bản sự, bản sanh, phương quảng, hy pháp, luận nghị; đối với giáo pháp ấy, Bồ tát khéo lắng nghe, khéo tiếp nhận, văn khéo rành rẻ, ý khéo tìm tòi, thấy khéo thông suốt; rồi chính nơi giáo pháp phải khéo tư duy như vậy, Bồ tát một mình ở chỗ không phiền không ồn mà tác ý tư duy; sự tư duy này phải được nội tâm liên tục tác ý tư duy: hễ đứng vững rất nhiều trong cái chánh hạnh ấy, sanh ra sự khinh an nơi thân và sự khinh an nơi tâm, thì đó là chỉ, và Bồ tát như vậy là cầu về chỉ. Bồ tát này do cái thân tâm khinh an trên đây làm nền tảng, đối với ấn tượng chánh định theo giáo pháp phải khéo tư duy nói trên, hãy quan sát, thắng giải, bỏ cái tâm tướng về chỉ: hễ đối với ấn tượng chánh định cần phải chứng biết ấy mà chính xác quyết trạch, cùng cực quyết trạch, tầm tư toàn bộ, tứ sát toàn bộ, rồi xác nhận, ưa thích, hiểu biết, nhìn thấy, xét thấy, thì đó là quán, và Bồ tát như vậy là khéo về quán.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
655. Định tâm: tức được đẳng dẫn (Tam ma bát để: Sammapatti = tịnh lự, giải thoát, đẳng trì và đẳng chí) là tâm trú ở nhất cảnh tánh khi đi vào tam-muội, và đây chỉ cho trú tâm thứ chín: tổng trì trú tâm.
656. Thêm cho rõ nghĩa là: loại bỏ ý ngôn (ý thức) có cái ấn tượng tương tự về danh và nghĩa của các pháp.
657. Ý ngôn, tức ý thức phân biệt. Ngài Huyền Trang gọi ý ngôn là lĩnh vực tầm tư của ý thức (ý địa tầm tư thuyết danh ý ngôn). Các pháp không rời ý ngôn, đều là do ý ngôn hiển hiện nên không có thật thể. Chỉ thấy ý ngôn, tức là chỉ là ý thức.
658. Noãn và Đảnh là giai đoạn tầm tư nên phải có ý ngôn. Noãn vị: Noãn nghĩa là ấm, là giai đoạn báo trước, báo hiệu sắp có lửa hay ánh sáng của thánh đạo. Ở noãn vị, Bồ tát quán pháp tự tướng và cộng tướng chỉ là ý ngôn, hoạch đắc trí pháp minh quán sát chân xác cảnh sở duyên của các pháp.
659. Kinh Sông tro: tức kinh Hôi hà, số 1177, Tạp a hàm, quyển 43, ghi rằng: “Thí như có một sông tro, bờ Nam rất nóng, nhiều gai nhọn, ở nơi tối tăm, có nhiều tội nhân ở trong sông trôi dạt theo dòng. Trong đó có một người thông minh trí tuệ, không ngu si, ưa lạc chán khổ, ham sống sợ chết, tự nghĩ: “Hiện tại ta vì duyên gì mà ở sông tro này, bờ Nam thì nóng bức lại nhiều gai nhọn; ở nơi tối tăm, trôi dạt theo dòng như vậy? Ta sẽ dùng chân tay làm phương tiện, bơi ngược dòng lên.” Dần dần thấy được chút ánh sáng, người ấy thầm nghĩ, “Ta đã gắng sức mới thấy được chút ánh sáng này.”” (Thích Đức Thắng dịch)
660. Pháp minh (dharmaloka): tức ở trong pháp mà đến được ánh sáng, chỉ cho noãn vị.
661. Thông đạt duy tâm: là hoàn toàn rời xa sự hiển hiện của đối cảnh, là “Bồ tát quán xét ấn tượng chỉ là tâm, đối cảnh đã không còn thì quán xét chỉ có tâm mình”.
662. Đảnh vị: đảnh là đỉnh đầu hay đỉnh núi. Luận Câu xá, quyển 23 ghi: “Noãn thiện căn đây, hạ trung thượng phẩm, lần lượt tăng trưởng cho đến khi thành mãn, có thiện căn sanh tên là đảnh pháp. Do sự chuyển thắng này nên lập tên khác, trong thiện căn động, pháp đây tối thắng, như là đỉnh đầu nên gọi đảnh pháp; hoặc do từ đây có sự tiến thoái hai bên, như đang ở đỉnh núi, gọi tên là đảnh.” Thiện căn động (có thể thoái động) là nói thuận quyết trạch phần có 2 loại: 1. Có thể thoái; 2. không thể thoái. Có thể thoái thì hạ phẩm là noãn vị, thượng phẩm là đảnh vị. Không thể thoái thì hạ phẩm là nhẫn vị, thượng phẩm là thế đệ nhất pháp vị.
663. Nhẫn vị: Nhẫn là xác nhận (nhẫn khả) các pháp toàn là duy tâm, và trong sự xác nhận này không còn có sự thoái đọa nữa.
664. Định không cách hở, tức không gián đoạn, vô gián định.
665. Thế gian đệ nhất pháp vị: Thế gian là pháp hữu lậu; trong pháp hữu lậu, hiện quán của Bồ tát này hơn cả nên gọi là thế gian đệ nhất pháp. Ở đây, Bồ tát ngộ nhập cảnh không nên thức không phát sanh, tức thức y tha cũng diệt. Thế gian đệ nhất pháp là hậu niệm của thượng phẩm nhẫn pháp, và là điều kiện đưa đến cái định vô gián để phát sanh trí vô lậu (tức nhập kiến đạo). Sự thù thắng của thế gian đệ nhất pháp là đưa Bồ tát thú nhập chánh tánh ly sanh của Bồ tát. Chánh tánh ly sanh thuộc kiến đạo vị, chánh tánh là vô lậu tuệ, ly sanh là lìa phiền não (loại phân biệt). Phiền não này gọi là sanh vì như đồ ăn sống, ăn vào sanh bịnh, phiền não này sanh ra chúng sanh nên gọi là sanh. Vô lậu tuệ đoạn trừ cái sanh ấy nên gọi là chánh tánh ly sanh.
666. Nhiếp luận có đoạn: “Ở đây, khi ngộ nhập duy thức thì có 4 thứ định làm chỗ dựa cho 4 thứ thuận với phần quyết trạch. Nên nhận thức thế nào? Nên nhận thức rằng: (Một là) do 4 thứ tầm tư mà trong cái nhẫn các pháp không thật thuộc bậc thấp, có cái định được sáng, đó là chỗ dựa của Noãn thuận với phần quyết trạch. (Hai là) trong cái nhẫn các pháp không thật thuộc bậc cao, có cái định thêm sáng, đó là chỗ dựa của Đảnh thuận với phần quyết trạch. (Ba là) lại do 4 thứ thật trí đã ngộ nhập duy thức, đã quyết định về các pháp không thật, có cái định nhập vào một phần chân thật, đó là chỗ dựa của Nhẫn thuận với chân thật. (Bốn là) từ đó, một cách không cách hở mà dẹp bỏ ý tưởng duy thức, có cái định không còn cách hở, đó là chỗ dựa của Thế đệ nhất. Nhưng phải biết các định trên đây đang là bên cạnh hiện quán.” Lịch trình quán chứng của đoạn này là như vầy. Một, ngộ nhập duy thức nên cảnh không thật: cảnh biến kế là không; đó là Noãn và Đảnh (giai đoạn tầm tư), và Nhẫn (giai đoạn ngộ nhập). Hai, ngộ nhập cảnh không nên thức không sanh: thức y tha cũng diệt; đó là Thế đệ nhất. Ba, toàn thể bình đẳng: chứng đắc viên thành; đó là kiến đạo. (H.T Thích Trí Quang dịch giải) Phân biệt du già tóm tắt bằng kệ tụng: Bồ tát vu định vị/ Quán ảnh duy thị tâm/ Nghĩa tướng ký diệt trừ/ Thẩm quán duy tự tưởng/ Như thị trú nội tâm/ Như sở thủ phi hữu/ Thứ năng thủ diệc vô/ Hậu xúc vô sở đắc. (Trong định, Bồ tát quán xét ấn tượng chỉ là tâm, đối cảnh đã không còn thì quán xét chỉ có tâm mình. Cứ như thế ấy mà trú nơi nội tâm, nên như cái sở thủ đã không thì cái năng thủ cũng không, sau đó chạm vào sự không thủ đắc.)
667. Xa trần là xả ly sự phân biệt của sở thủ và năng thủ. Rời cấu là xả ly phiền não của kiến đạo sở đoạn.
668. Pháp nhãn tịnh: chỉ cho pháp nhãn có năng lực quán sát chân lý các pháp mà không bị chướng ngại và nghi hoặc. Đây là pháp nhãn tịnh của Đại thừa, phải là hàng Bồ tát sơ địa được pháp chân thật vô sanh mới chứng được.
669. Do Bồ tát chuyển được chỗ dựa là a-lại-da, nên gọi là sơ địa.
670. Nhiếp luận nói: “Như vậy là Bồ tát đã ngộ nhập duy thức, nghĩa là ngộ nhập 3 tướng sở tri. Ngộ nhập như vậy là nhập vào Cực hỷ địa, đạt được pháp tánh, sanh nhà Như lai, được tâm bình đẳng đối với chúng sanh, tâm bình đẳng đối với Bồ tát, tâm bình đẳng đối với Phật đà. Và đó là kiến đạo vị của Bồ tát.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
671. Tương tục: sự liên tục trước sau không có gián đoạn của thân tâm. Ngài Huyền Trang dịch là đa phiền não thân, cái thân nhiều phiền não. Ngài An Tuệ nói là cái thân 5 thủ uẩn. “Sự tương tục của mình và chúng sanh thì vô ngã” được hiểu là trong cái thân thủ uẩn của mình không có ngã và trong cái thân thủ uẩn của chúng sanh cũng không có ngã.
672. Bình đằng vô ngã và bình đẳng có khổ là cùng thông hiểu khổ đế. Bình đẳng việc làm là cùng đoạn trừ tập đế. Bình đẳng không cầu là cùng tu tập đạo đế và hiện chứng diệt đế. Bình đẳng cùng được là cùng ngộ nhập sơ địa.
673. Các hành của ba cõi: Là 5 uẩn của dục giới, 5 uẩn của sắc giới và 4 uẩn của vô sắc giới.
674. Xem trong luận này ở quyển 4, phẩm Thuật cầu, phần 1: “Bất chân là trí phân biệt không chân thật, do không tùy thuận trí xuất thế mà sanh phân biệt.” (xem chú thích) Cũng luận này, quyển 6, phẩm Tùy tu: “Sự phân biệt không chân thật cũng lại như vậy, đối với pháp giới bình đẳng, nơi không có hai tướng, mà thường thấy có hai tướng năng và sở, cho nên không nên sợ hãi.”
675. Không có hai là không có sở thủ và năng thủ. Các hành là duy tâm.
676. Hiển dương thánh giáo luận, quyển 17, phẩm Thành hiện quán: “Từ vô gián (đạo) không có gia hành. Giải thoát kiến đạo là đã đoạn tùy miên, 3 tâm trí sanh khởi: một là, trí nội khiển hữu tình giả duyên; hai là, trí nội khiển các pháp giả duyên; ba là, trí biến khiển tất cả hữu tình, các pháp giả duyên. Ở đây, hai trí trước là pháp trí, trí thứ ba là chủng loại trí. Ba trí như vậy có năng lực đoạn trừ 112 phiền não. Phiền não như vậy gồm trong 10 thứ (phiền não). Một trăm mười hai phiền não là: dục giới, kiến hoặc của khổ, tập, diệt, đạo phải đoạn đều có 10 thứ; sắc giới và vô sắc giới, kiến hoặc của khổ, tập, diệt, đạo phải đoạn đều có 9 thứ, trừ sân ra. Tổng cộng là 112 phiền não. Thế nào là bao gồm 10 thứ phiền não? Đó là 5 kiến tự tánh và 5 phi kiến tự tánh, như trước đã nói.”
677. Là tướng vô tánh, vì tánh phân biệt do giả danh thiết lập chứ không phải do tự tướng thiết lập.
678. Là sanh vô tánh, vì do cái khác là duyên tố mà có chứ không phải tự nhiên mà có.
679. Là thắng nghĩa vô tánh, vì các pháp duyên sanh (tức y tha không phải thắng nghĩa), vì pháp vô ngã của tất cả các pháp (tức chân thật do pháp không hiển lộ).
680. Phân biệt là phân biệt có, không, sắc, thanh v.v… cho đến niết-bàn. Các phân biệt diệt hết là rời tất cả phân biệt mà thể hội chân như nơi sự thanh tịnh, tức diệt đế.
681. Bất chân phân biệt (phân biệt không chân thật) là tánh y tha. Tánh y tha là chỗ dựa của chủng tử của phiền não chướng và sở tri chướng. Vô nguyện là từ bỏ chỗ dựa là tánh y tha mà thể hội chân như nơi sự liễu biệt, tức cái tánh duy tâm của các hành.
682. Các hành: chỉ cho các pháp hữu vi; đặc tính của các pháp là diễn biến trong thời gian nên gọi là các hành.
683. Không nghĩa: là kiến giải làm não loạn, tổn hại chúng sanh.
684. Thành thật luận, quyển 11, phẩm Thân kiến: “Ngã tâm trong 5 ấm gọi là thân kiến. Vì thật không có ngã nên mới nói duyên lấy 5 ấm. Năm ấm gọi là thân mà trong ấy thấy sanh, biết rồi chấp, gọi là thân kiến; trong ấy không có ngã mà lấy làm tướng ngã, nên gọi là kiến chấp.”
685. Tương tự ý tứ trong kinh Kim Cương: “Đức Thế tôn dạy: Trưởng lão Thiện hiện, thiện nam thiện nữ phát tâm bồ-đề, thì sửa tâm mình bằng tuệ giác này: ta phải làm cho hết thảy chúng sanh được niết-bàn rồi mà thật không thấy một chúng sanh nào được niết-bàn cả.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
686. Kiến đạo sở đoạn phiền não, hay kiến đạo sở đoạn hoặc: Những phiền não được đoạn diệt khi đạt đến giai vị kiến đạo. Kiến hoặc là chấp thật cái kiến giải sai lầm về phần lý trí. Những phiền não này thuộc loại cạn cợt gây ra bởi sự gần gũi tà sư, sự tuyên truyền tà vạy của sách vở, cùng những người tri kiến không chân chánh. Nếu gặp được minh sư, thấy được chân lý thì liền đoạn hết. Vì thế sự dứt trừ những phiền não này gọi là kiến đạo sở đoạn hoặc.
687. Không thoái chuyển là tinh cần, không thoái lui, không chán nản mệt mỏi, không bỏ rơi chúng sanh.
688. Các pháp của Phật: những phẩm chất và thành quả của Phật, như 10 lực, 4 vô úy, v.v…
689. Thời gian tu hành các địa được viên mãn có 5 giai đoạn, trải qua 3 vô số kiếp: 1. Giai đoạn hành giải (gồm 10 trú, 10 hạnh, 10 hướng, 4 da hành), trải qua vô số kiếp thứ nhất tu hành viên mãn; 2. Giai đoạn thanh tịnh ý lạc (địa thứ 1), giai đoạn hữu tướng hành (địa thứ 2 đến địa thứ 6), giai đoạn vô tướng hành (địa thứ 7), trải qua vô số kiếp thứ hai tu hành viên mãn. 3. Giai đoạn vô công dụng hành, tức địa thứ 8 đến địa thứ 10, trải qua vô số kiếp thứ ba tu hành viên mãn. Tu tập vị là giai đoạn tu hành trải qua vô số kiếp thứ hai và vô số kiếp thứ ba.
690. Phân biệt tùy miên là chỉ chủng tử của phiền não nhỏ nhiệm, tức sở tri chướng trong địa thứ 8 trở lên.
691. Kim cương dụ định: thiền định của hàng Bồ tát tu tập vào giai đoạn sắp hoàn mãn để đoạn trừ các phiền não nhỏ nhiệm sau cùng. Thể của định kiên cố, dụng của định sắc bén, có khả năng diệt trừ tất cả phiền não, nên dùng kim cương có tánh chất bền chắc và công năng hủy hoại các vật khác mà dụ cho thiền định này. Kim cương dụ định khởi lên ở giai đoạn Vô gián đạo, từ đó tiến lên giai vị Giải thoát đạo, tức Phật địa, vì vậy Kim cương dụ định còn gọi là Kim cương vô gián đạo.
692. Chuyển y là chuyển bỏ 2 trọng chướng (phiền não chướng, sở tri chướng) mà chuyển được 2 đại quả (đại niết-bàn, đại bồ-đề). Chuyển y thì hoạch đắc nhất thiết chủng trí, tức tuệ giác biết tất cả: biết bản thể, hiện tượng, đạo pháp.
693. An trú trong pháp môn: đó là an trú nơi tam-muội của Thế đệ nhất pháp và địa vị Thắng giải hành. Thắng giải hành là vô số kiếp thứ nhất, gồm 10 tín, 10 trú, 10 hành, 10 hướng và 4 da hành. Danh hiệu địa vị này có 4: nguyện lạc, tín hành, thắng giải hành và ý lạc. Địa vị này khẳng định về chân như được dạy cho, chứ chưa chứng ngộ chân như ấy.
694. Cho nên có cụm từ nghiệp phương tiện. Kinh Hoa nghiêm, phẩm Phật bất tư nghị pháp, quyển 46: “Dùng đại trí huệ, dùng đại tinh tấn thị hiện những Phật thần thông vô ngại vô tận hằng trụ nơi ba thứ nghiệp phương tiện thiện xảo là thân nghiệp rốt ráo thanh tịnh, ngữ nghiệp theo trí huệ mà phát ra, ý nghiệp thậm thâm vô ngại. Dùng phương tiện này để lợi ích chúng sanh.” (H.T Thích Trí Tịnh dịch)
695. Dị thừa tâm: cái tâm niệm hướng vào thừa khác không phải Đại thừa. Bồ tát ở các địa tu tập không loạn tuệ, nghĩa là rời xa cái tâm hướng về thừa khác.
696. Trong 3 nghiệp, ý nghiệp là tự tánh. Ở đây nói, ý nguyện lợi sanh của Bồ tát không bao giờ thoái khuất.
697. Phi chúng sanh: Là chỉ cho khí thế gian, tức là thế giới y báo, nơi sinh sống của hữu tình chúng sanh. Đây là chỉ cho môi trường sống, hoàn cảnh sống, ngoại cảnh gây ra đau khổ.
698. Cầu thọ giới là gìn giữ giới pháp của Bồ tát.
699. Cầu cảnh giới là tu tập chỉ quán của Bồ tát.
700. Cầu thọ giới Bồ tát thì việc tu thí là lẽ đương nhiên. Đoạn dưới nói: “Không luyến tiếc tài sản thì có thể thọ trì giới.”
701. Thanh lương (mát mẻ): tức giới luật, tiếng Phạn là sila, phiên âm là thi-la, dịch ý là thanh lương. Mát mẻ vì công năng của giới là ngăn ngừa sự thiêu đốt của 3 nghiệp. Mát mẻ là vì điều ác dễ khiến thân tâm nóng bức, còn giới có thể làm thân tâm yên ổn.
702. Y chỉ (āṡraya): là sở y của chủng tánh Bồ tát (phẩm Chủng tánh, quyển 1); là tác ý y chỉ, 1 trong 18 thứ y chỉ (phẩm Thuật cầu, quyển 4); là công đức y chỉ trong 8 công đức vô thượng (phẩm Độ nhiếp, quyển 8).
703. Không tham là đối với cảnh 5 dục mà tâm không sanh nhiễm đắm.
704. Tư (suy nghĩ) là tư tâm sở. Đặc tánh của tư là thúc đẩy tâm tạo tác, cụ thể phát khởi 2 nghiệp thân và ngữ, nhờ đó mới thành tựu sự bố thí. Đại thừa nghĩa chương: “Tư nguyện tạo tác gọi là tư.” Câu xá luận, quyển 4: “Tư là khả năng làm cho tâm có sự tạo tác.”
705. Luận Đại thừa trang nghiêm kinh, quyển 12, phẩm Công đức, thứ 22: “Thí có năng lực thành tựu tiền tài (địa vị) rộng lớn.”
706. “Người bố thí bữa ăn, này các Tỳ-kheo, người thí chủ cho người thọ lãnh năm điều. Thế nào là năm? Cho thọ mạng, cho dung sắc, cho an lạc, cho sức mạnh, cho biện tài. Cho thọ mạng, vị ấy được chia thọ mạng chư thiên và loài người. Cho dung sắc, vị ấy được chia dung sắc chư thiên và loài người. Cho an lạc, vị ấy được chia an lạc chư thiên và loài người. Cho sức mạnh, vị ấy được chia sức mạnh chư thiên và loài người. Cho biện tài, vị ấy được chia biện tài chư thiên và loài người.” (Tăng chi bộ kinh - Chương 5: Năm pháp - số 37: Bố thí bữa ăn)
707. Sáu chi: 1. Đầy đủ tịnh giới; 2. Phòng hộ căn môn và gìn giữ biệt giải thoát luật nghi (Ba la đề mộc xoa - Pratimoksa); 3. Các phép tắc; 4. Các điều phải làm; 5. Đối với lỗi nhỏ xem như lỗi lớn mà sanh tâm sợ hãi; 6. Thọ học các học xứ. (Du già sư địa luận - Thanh văn địa)
708. Chư hữu biên: chỉ cho ba cõi dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Nói cách khác, sự sanh (tử) được đoạn tận.
709. Thiện đạo: nói đủ là 10 thiện đạo. Đại trí độ luận, quyển 46, ghi: “Lại nữa, Tu bồ-đề! Bồ tát ma ha tát trú trong Giới ba-la-mật, hiện sanh vào nhà Chuyển luân Thánh vương, lấy 10 thiện đạo giáo hóa chúng sanh, lại lấy 4 thiền, 4 tâm vô lượng, 4 định vô sắc, 4 niệm xứ, cho đến 18 pháp không chung, giáo hóa chúng sanh… Mười thiện đạo, bảy việc là giới, ba việc là thủ hộ. Gọi chung là Giới ba-la-mật.” (H.T Thiện Siêu dịch). Mười thiện đạo, trong đó thân có 3: sát sanh, trộm cắp, tà hạnh; khẩu có 4: vọng ngữ, hai lưỡi, ác khẩu, ỷ ngữ; ý có 3: tham dục, sân nhuế và tà kiến. Mười thiện đạo như vậy là tổng tướng giới, tổng nhiếp tất cả giới pháp.
710. Bất hối: không hối hận, không truy hối. Trung A hàm, Tương ưng tập, kinh Hà Nghĩa ghi: Bấy giờ vào lúc xế chiều, Tôn giả A Nan rời chỗ độc cư tĩnh tọa đứng dậy, đến trước đức Phật, đảnh lễ dưới chân rồi ngồi sang một bên, thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, giữ giới có mục đích gì?” Đức Thế Tôn Đáp: “Này A Nan, giữ giới có mục đích khiến cho không hối hận. Này A Nan, nếu ai giữ giới, người ấy được sự không hối hận.” (Tuệ Sĩ dịch). Xem trong luận này, ở quyển 4, phẩm Thuật Cầu ghi: “Thiết lập tỳ-ni là để thành tựu giới học và tâm học, nghĩa là do trì giới mà được tâm không hối hận, do được tâm không hối hận mà theo thứ lớp có được định.” Không hối hận v.v…, nghĩa là không hối hận thì đưa đến hân hoan, hân hoan đưa đến hỷ, hỷ đưa đến an chỉ, an chỉ đưa ý lạc, ý lạc đưa đến định.
711. Chín thứ tâm trú là: 1. Tâm trú yên lặng; 2. Tâm trú nắm giữ; 3. Tâm trú biết rõ; 4. Tâm trú chuyển lạc; 5. Tâm trú điều phục; 6. Tâm trú ngưng dứt; 7. Tâm trú diệt trừ; 8. Tâm trú tự tánh; 9. Tâm trú tổng trì. (Xem quyển 7, phẩm Giáo Thọ)
712. Ba la đề mộc xoa hộ: Tức là biệt giải thoát luật nghi. Sự phòng hộ này do từ người khác mà được, có 2 loại: một là từ đại chúng, hai là từ cá nhân. Từ đại chúng mà được là giới pháp tỳ-kheo, tỳ-kheo ni và thức xoa ma na. Từ cá nhân mà được là 5 loại giới pháp là giới sa di, sa di ni, cận sự nam, cận sự nữ và cận trụ (giới chỉ thọ trong một ngày một đêm, qua khỏi một ngày một đêm thì hết giới, như bát quan trai giới). Các luận sư tỳ nại da, tỳ bà sa nói có 10 trường hợp đắc giới: 1. Tự nhiên đắc đại giới, như đức Phật và các bậc độc giác; 2. Nhập chánh định tụ mà đắc đại giới, như 5 anh em Kiều Trần Như đắc được khổ pháp trí nhẫn; 3. Khi được gọi “Thiện lai tỳ-kheo” thì đắc đại giới, như ngài Gia Xá v.v…; 4. Tín thọ đại sư mà đắc đại giới, như tôn giả Ma Ha Ca Diếp khi gặp Đức Thế Tôn liền tuyên bố: “Đây là bậc Đạo sư của tôi”, và liền đắc giới; 5. Hỏi đáp mà đắc đại giới, như Tu Đà Di mới 7 tuổi nhưng đã khéo trả lời câu hỏi của Phật “Nhà con ở đâu?” bằng câu: “Ba cõi không đâu là nhà” mà đắc giới; 6. Tín thọ 8 pháp bát kỉnh mà đắc đại giới, như bà Ma ha Cù đàm di; 7. Nhờ người khác đại diện mà đắc giới, như tỳ-kheo ni Đạt Ma Trần Na nhờ người khác thọ giới dùm rồi về truyền lại; 8. Thọ giới với Tăng 5 người, là trường hợp dành cho giới tử ở những nơi biên địa không có đông đảo Tăng chúng, nhưng phải có ít nhất là một vị trì luật và hiểu các pháp yết ma; 9. Thọ giới với Tăng 10 người, dành cho mọi giới tử thọ giới ở nơi đô thị có đông đảo Tỳ-kheo; 10. Nói 3 lần tam quy thì đắc giới, tuyên bố 3 lần: “Tôi xin quy y Phật, Pháp, Tăng”, đây là trường hợp thường xảy ra khi Phật chưa quy định pháp bạch tứ yết ma thọ giới.
713. Thiền hộ, tức định sanh hộ: sự phòng hộ phát sanh do thiền định, tức tịnh lự luật nghi hay định cộng giới. Định ở đây thuộc hữu lưu (tức hữu lậu) định địa tâm. Hữu lưu định này tương ưng với tâm thiện hữu lậu mà khởi lên định. Trong định này còn phân ra làm 4 cấp bậc: (1) Thuận thoái phần định, là thuận theo phiền não địa mà sanh khởi vị chí định. (2) Thuận trụ phần định, là thuận theo tịnh định địa. (3) Thuận thắng tiến phần địa, là thuận theo tịnh định thượng địa. (4) Thuận quyết trạch phần định, là thuận theo trí vô lậu mà khởi lên định vô lậu. Tịnh định này ở trong vị chí định, trung gian định, 7 cận phần định, 8 căn bản định đều sanh khởi.
714. Vô lưu hộ: sự phòng hộ do chứng được pháp vô lậu, đoạn tận phiền não, tức vô lậu luật nghi hay đạo cộng giới. Vô lậu định, còn gọi là vô lậu đẳng chí, là nơi nương vào của các bậc thánh để đạt được định trí vô lậu. Định này vẫn còn câu hữu với vị chí định, trung gian định, 4 căn bản định, phần dưới 3 vô sắc định, là để đoạn trừ các phiền não còn sót lại, phần này tác dụng của nó rất mạnh.
715. Quán pháp nhẫn, hay đế sát pháp nhẫn: là chấp nhận thật tướng các pháp đã quán sát kỹ.
716. Kinh Tăng chi (Anguttara nikaya), chương Năm pháp, kinh số 215, Không kham nhẫn: “Có năm nguy hại này cho người không kham nhẫn. Thế nào là năm? Quần chúng không ái mộ, không ưa thích; nhiều người hận thù; nhiều người tránh né; khi mạng chung, tâm bị mê loạn; sau khi thân hoại mạng chung; sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Này các Tỷ kheo, có năm nguy hại này cho người không kham nhẫn. Này các Tỷ kheo, có năm lợi ích này cho người có kham nhẫn. Thế nào là năm? Quần chúng ái mộ, ưa thích; không có người hận thù; không có nhiều người tránh né; khi mạng chung, tâm không bị mê loạn; sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Này các Tỷ kheo, có năm lợi ích này cho người có kham nhẫn.” (H.T Thích Minh Châu dịch)
717. Tương ưng bộ kinh, chương Tương ưng bà la môn, phẩm A la hán, số 161 và số 163: “Vị ấy tìm lợi ích/ Cho cả mình và người./ Và kẻ đã phỉ báng,/ Tự hiểu, lắng nguôi dần.” (H.T Thích Minh Châu dịch)
718. Nhẫn nhục là con đường tối thượng, là con đường duy nhất khó làm mà dễ sanh nghiệp chướng. Kinh Thắng Man nói về nhẫn nhục như sau: “Đối với ai đáng đem nhẫn nhục mà thành thục, thì dẫu họ chưởi mắng, lăng nhục, phỉ báng, quấy phá, cũng đem tâm không giận và tâm lợi ích, đem sức mạnh nhẫn nhục tối thượng, đến nỗi thần sắc cũng không biến đổi, tùy thuận ý họ mà thành thục, làm cho họ an trú trong chánh pháp, như thế gọi là nhẫn nhục ba-la-mật.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
719. Giải thoát của ngoại đạo: cũng tức là nói thiền định của ngoại đạo. Thiền định ngoại đạo chỉ có thiền chỉ (nhiệt tâm, tinh cần, không phóng dật và nhiếp niệm tập trung) mà không có thiền quán (quán vô ngã, vô thường tan rã, hoại diệt) như ở Phật giáo, nên dẫn hành giả vào sâu hướng tham ái và chấp thủ, không thể dứt trừ được sanh tử, đoạn tận khổ đau. Do đó, con đường ngoại đạo dừng lại ở định Phi tưởng phi phi tưởng mà không bao giờ thoát qua khỏi định này. Luận Đại tỳ bà sa, quyển 74, có ghi: “Như khế kinh nói: Lại có 2 xứ: 1. Vô tưởng hữu tình xứ; 2. Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Hỏi: Vì sao đức Thế tôn nói 2 xứ này? Đáp: Vì phá trừ ý tưởng giải thoát của ngoại đạo. Nghĩa là các ngoại đạo đối với 2 xứ này khởi ý tưởng giải thoát; vì phá trừ ý tưởng của ngoại đạo mà đức Phật nói 2 xứ này, gọi là sanh xứ, không phải sự giải thoát chân thật.” (Như khế kinh thuyết: Phục hữu nhị xứ: nhất, vô tưởng hữu tình xứ, nhị, phi tưởng phi phi tưởng xứ. Vấn: Hà cố Thế tôn thuyết thử nhị xứ? Đáp: vị phá ngoại đạo giải thoát tưởng cố. Vị chư ngoại đạo, ư thử nhị xứ khởi giải thoát tưởng; vị phá bỉ tưởng Phật thuyết thử nhị danh vi sanh xứ, phi chân giải thoát.)
720. Đó là 2 tâm sở tín và dục.
721. Niệm, định, tuệ, giải thoát, niết-bàn.
722. Ác bất thiện pháp: là 3 bất thiện căn (tham dục, sân hận và ngu si) và ác hành khởi lên của 3 nghiệp (thân, ngữ, ý). Ác bất thiện pháp còn được hiểu là 5 triền cái, tức 5 chướng ngại cản trở sự thành công trong hành thiền và phát tuệ giải thoát, đó là: tham dục, sân hận, hôn trầm, trạo cử và hoài nghi. Du già sư địa luận, quyển 37, Bồ tát địa: “Do cần tinh tiến mà được trú an lạc, không bị tất cả pháp ác bất thiện làm tạp loạn; về sau chứng được chuyển y, vượt thắng hơn trước, càng thêm hoan hỷ. Lấy sự lợi mình bằng sự cần tu thiện phẩm, không dùng thân ngữ làm tổn não người, (trái lại) làm lợi cho người bằng cách khiến cho người phát sanh tinh tiến mong muốn trú lạc.” (Cần tinh tiến cố đắc an lạc trú. Bất vị nhất thiết ác bất thiện pháp chi sở tạp loạn. Hậu hậu sở chứng chuyển thắng ư tiền bội sanh hoan hỷ. Dĩ tự nhiêu ích cần tu thiện phẩm. Bất dĩ thân ngữ tổn hại ư tha. Linh tha phát sanh tinh tiến lạc dục dĩ nhiêu ích tha. 勤精進故得安樂住.不為一切惡不善法之所雜亂.後後所證轉勝於前倍生歡喜.以自饒益勤修善品.不以身語損惱於他. 令他發生精進樂欲以饒益他.)
723. Ba thiện căn: vô tham, vô sân và vô si.
724. Đại trí độ luận, quyển 16, định nghĩa: “Thực hành bố thí, trì giới, ấy là thân tinh tiến. Thực hành nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ ấy là tâm tinh tiến. Lại nữa, siêng tu việc bên ngoài; ấy là thân tinh tiến. Tự chuyên tinh bên trong; ấy là tâm tinh tiến. Thô tinh tiến gọi là thân, tế tinh tiến gọi là tâm. Tinh tiến vì phước đức gọi là thân, tinh tiến vì trí tuệ gọi là tâm. Nếu Bồ tát từ khi mới phát tâm cho đến khi chứng được vô sanh nhẫn, ở khoảng không gian ấy gọi là thân tinh tiến, vì sanh thân chưa xả. Khi chứng được vô sanh nhẫn, xả nhục sanh thân, được pháp tánh thân, cho đến khi thành Phật, ấy là tâm tinh tiến.” (H.T Thích Thiện Siêu dịch)
725. Là tinh tiến tôn trọng chánh pháp.
726. Niệm là tâm sở biệt cảnh, làm cho tâm thức nhớ lại rõ ràng những cảnh từng huân tập, và làm chỗ dựa cho tâm sở định.
727. Tinh tiến có công dụng thu hoạch 3 thiện căn (vô tham, vô sân và vô si), từ đó làm nhân tố cho thân tâm khinh an, bất phóng dật và hành xả, tức 3 điều kiện cần và đủ cho tu tập thiền định.
728. Định dẫn ra pháp lạc: định thì không phân biệt, rất vắng lặng, không tội lỗi, đối trị cái khổ của phiền não mà an trú pháp lạc ngay trong hiện tại.
729. Phương tiện để tu định là bỏ 5 trần (sắc, thanh, hương, vị và xúc), trừ 5 triền cái (tham dục, sân hận, hôn trầm, trạo cử và hoài nghi) và hành 5 thiền chi (tầm, tứ, hỷ, lạc và xả). Phương tiện làm cho tu định thoái lui là đắm trước thiền vị, cầu quả báo khả ái, kiêu ngạo buông thả và tham lam giả dối.
730. Quả bất hư: Quả báo không sai của tu định là giải thoát. Rời xa giải thoát là rời xa tứ thiền, diệt tận định của nhị thừa. Đại trí độ luận, quyển 13: “Phật dạy ba sự chắc chắn được quả báo không sai: Bố thí được đại phước, trì giới được sanh chỗ tốt, tu định được giải thoát. Nếu riêng trì giới chỉ được sanh chỗ tốt, nếu tu định, trí tuệ, từ bi hòa hợp thì được đạo quả ba thừa.”
731. Năm thần thông: 1. Túc mạng thông, biết được đời sống quá khứ; 2. Thiên nhãn thông, biết được đời vị lai, thấy được xa ngoài tầm nhìn của mắt thịt; 3. Tha tâm thông, biết được hoạt động tâm niệm của người khác; 4. Thiên nhĩ thông, nghe được những âm thanh ngoài tầm nghe bình thường; 5. Thần túc thông, có thể bay nhanh, bay xa, đi lại trong nháy mắt.
732. Tương ưng bộ kinh V, phần 54, chương X, Tương ưng hơi thở vô, hơi thở ra: “Này các Tỷ kheo, ai muốn nói một cách chân chánh, đây là Thánh trú, đây là Phạn trú, đây là Như Lai trú; người ấy nói một cách chân chánh, phải nói định niệm hơi thở vô, hơi thở ra là Thánh trú, là Phạn trú, là Như Lai trú.” (H.T Thích Minh Châu dịch)
733. Tam ma đề: tức tam-muội, đẳng trì, chánh định, nhất cảnh tánh.
734. Định đứng đầu trong các pháp vì “định tăng thượng dẫn ra 4 việc: tu tập 6 ba-la-mật, thành thục tất cả chúng sanh, làm sạch thế giới của Phật, hoàn thành các pháp của Phật.” (Nhiếp luận, HT. Thích Trí Quang dịch)
735. Kinh Trung A hàm, kinh Úc già chi la, có ghi: “Lại nữa, cũng nên tu tập định có giác có quán, định không giác ít quán, tu tập định không giác không quán; cũng nên tu tập về định câu hữu với hỷ, định câu hữu với lạc, định câu hữu với định, định câu hữu với xả.”
736. Tà kiến sanh ra tà nghiệp: thân ác hành, ngữ ác hành và ý ác hành. Ngược lại, chánh kiến sanh ra chánh nghiệp: thân diệu hành, ngữ diệu hành và ý diệu hành.
737. Thế gian sở thức nghiệp: tất cả pháp xứ đều là đối tượng của nhận thức: kiến, văn, giác, tri. Đây là cái biết của 6 thức: kiến là nhãn, văn là nhĩ, giác là 3 thứ tỷ, thiệt và thân, tri là ý. Ba thức nhãn, nhĩ và ý được khai ra 3 là vì giúp rất nhiều cho bồ-đề phần, lại biết cả thế và xuất thế. Ba thức còn lại, tỷ, thiệt và thân không bằng 3 thức trên nên hợp làm một. Kiến, văn, giác, tri không phải trí vô phân biệt nên phải rời xa.
738. Thiện thuyết: “Thành tựu năm chi phần, này các Tỷ kheo, các lời là thiện thuyết, không phải ác thuyết, không có phạm tội và không bị những người có trí chỉ trích. Thế nào là năm? Nói đúng thời, nói đúng sự thật, nói lời nhu hòa, nói lời liên hệ đến lợi ích, nói với lời từ tâm.” (Tăng Chi Bộ II, chương 5, phẩm Bà la môn, phần Lời nói - H.T Thích Minh Châu dịch)
739. Tuệ thế gian là tuệ ở giai đoạn tu tập, còn gọi là tuệ gia hành hay tuệ duyên thế tục đế. Tuệ xuất thế gian là tuệ ở giai đoạn chứng đắc, còn gọi là tuệ căn bản hay tuệ duyên thắng nghĩa đế. Tuệ đại xuất thế gian là tuệ ở giai đoạn hoạt dụng, lợi ích chúng sanh, còn gọi là tuệ hậu đắc hay tuệ duyên lợi ích chúng sanh. Tuệ là trí vô phân biệt.
740. Tán động (loạn) là không đi tới. An định (định) và tán động là đi tới rồi lại trở lui. An định là đi tới và không trở lui. Tán động là vì thí mà có thể còn ham tiền của địa vị, và giới mà có thể còn vi phạm tịnh giới. An định và tán động là vì nhẫn thì với khổ không dao động nhưng cũng có thể đau khổ bởi chúng sanh xúc phạm gây ra khi mình còn ở trong sanh tử, và tiến thì với tu không biếng nhác nhưng lại biếng nhác đối với nỗ lực trường kỳ tu tập thiện pháp. An định là vì thiền thì tâm chuyên nhất nơi cảnh, thành tựu sự không tán động, và tuệ thì biến giác một cách đúng như sự thật về chân lý các pháp, chứng đắc tất cả Phật pháp.
741. Thiên chấp là thiên chấp 5 uẩn. Tương ưng bộ kinh, Thiên uẩn, Tương ưng kiến: “Do có sắc, này các tỳ-kheo, do chấp thủ sắc, do thiên chấp sắc …, (tà) kiến này được khởi lên: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”. Thiên chấp như vậy thì trở ngại bố thí.
742. Không cầu quả dị thục chứ không phải không cầu đối với quả đẳng lưu, ly quả hệ, quả sĩ dụng, quả tăng thượng. Thành duy thức luận nói: “Quả có năm thứ: 1. Quả dị thục: Đó là báo thân dị thục và dị thục sanh vô ký của loài hữu tình, do pháp thiện hữu lậu và bất thiện chiêu cảm; 2. Quả đẳng lưu: Đó là hậu quả đồng loại do chủng tử thiện ác vô ký phát sanh, hoặc hậu quả chuyển theo tương tợ nghiệp trước; 3. Quả ly hệ: Đó là pháp thiện vô vi, do vô lậu đạo (trí vô lậu) đoạn trừ hai chướng là phiền não và sở tri mà chứng được; 4. Quả sĩ dụng: Đó là kết quả sự nghiệp do các tác giả mượn các tác cụ mà làm thành; 5. Quả tăng thượng: Đó là những quả đạt được ngoài bốn loại kể trên. Luận Du già v.v... nói: “Do tập khí y xứ mà đắc quả dị thục. Do tùy thuận y xứ mà đắc quả đẳng lưu. Do chân kiến đạo y xứ mà đắc quả ly hệ. Do sĩ dụng y xứ mà đắc quả sĩ dụng. Do các y xứ khác còn lại mà đắc quả tăng thượng.”” (H.T Thích Thiện Siêu dịch)
743. Ba thừa bồ-đề: Đó là tuệ giác của liệt vị thánh giả hết mê, phân ra 3 loại khác nhau: thanh văn bồ-đề, độc giác bồ-đề và vô thượng bồ-đề.
744. Chánh văn là niết-bàn vô dư. Niết-bàn vô trú là bỏ tạp nhiễm (phiền não) mà không bỏ sanh tử, nên không trú nơi sanh tử mà cũng không trú nơi niết-bàn.
745. Vô tận vì tu tập không hề gián đoạn, và vì có được những thành quả và dị thục quả khả ái của bố thí. Bố thí vô tận cho đến vô thượng bồ-đề nên nói là rất rộng lớn.
746. Tịnh giới diệt ác, tịnh giới sanh thiện và tịnh giới lợi người.
747. Thành quả của giới là hủy diệt giới luật ác, nẻo đường ác và thủ đắc nẻo đường lành, sự đẳng trì (tức định).
748. Thiền định vô thượng: Pháp thiền định đưa đến thành tựu các phẩm chất của Phật, như 10 lực, 4 vô úy. Theo Mật giáo thì đó là pháp thiền quán thời luân (Kalachakra) của Mật pháp du già tối thượng (Anuttarayoga tantra).
749. Kinh Giải thâm mật nói về công đức thanh tịnh của 6 độ như sau: “Nói riêng biệt về sự thanh tịnh của các độ thì (mỗi độ) cũng có bảy sự. (Thứ nhất), các vị Bồ tát tùy thuận làm đúng như bảy sự thanh tịnh của thí độ mà Như lai nói, ấy là do của thanh tịnh, do giới thanh tịnh, do thấy thanh tịnh, do tâm thanh tịnh, do nói thanh tịnh, do trí thanh tịnh và do bẩn thanh tịnh mà làm sự bố thí thanh tịnh. Như thế đó gọi là bảy sự thanh tịnh của thí độ. (Thứ hai), các vị Bồ tát khéo biết giới pháp Như lai thiết lập, khéo biết cách thức ra khỏi sự vi phạm, hoàn hảo giới pháp thường xuyên, giới pháp bền chắc, giới pháp thường làm, giới pháp thường chuyển, và học tất cả giới điều. Như thế đó gọi là bảy sự thanh tịnh của giới độ. (Thứ ba), các vị Bồ tát thâm tín nghiệp báo nên khi có sự bất lợi xảy ra thì không tức bực; cũng không mắng lại, không giận không đánh, không khủng khiếp, không hý lộng, không hại lại bằng những cách bất lợi; không thù oán; khi họ sám hối thì không làm họ bực bội; cũng không mong đợi họ đến sám hối; không vì sợ hay thương mà nhẫn nhục; không phải làm ơn (một lần) rồi bỏ họ liền (mà không tiếp tục lợi ích cho họ). Như thế đó gọi là bảy sự thanh tịnh của nhẫn độ. (Thứ tư), các vị Bồ tát nhận thức tính chất quân bình (chứ không gấp không hoãn) của tinh tiến, không vì dũng mãnh tinh tiến mà tự cao và lấn người, đầy đủ nghị lực lớn lao, đầy đủ tiến thủ lớn lao, có thể làm nổi và làm được, kiên cường, không bao giờ trút bỏ cái ách kéo các thiện pháp. Như thế đó gọi là bảy sự thanh tịnh của tiến độ. (Thứ năm), các vị Bồ tát có tịnh lự biết thế tục đế, có tịnh lự biết thắng nghĩa đế, có tịnh lự biết cả hai đế, có tịnh lự chuyển động, có tịnh lự không dựa, có tịnh lự khéo tu, có tịnh lự y như Bồ tát tạng mà lắng nghe, vin theo và tu tập vô lượng chánh định. Như thế đó gọi là bảy sự thanh tịnh của định độ. (Thứ bảy), các vị Bồ tát tách rời hai cực đoan thêm và bớt mà đi theo trung đạo thì đó là tuệ; do tuệ này mà biết đúng về ba giải thoát môn là không vô nguyện vô tướng; biết đúng về ba tự tánh là biến kế chấp y tha khởi viên thành thật; biết đúng về ba vô tánh là tướng vô tánh sanh vô tánh nghĩa vô tánh; biết đúng về thế tục đế là năm minh xứ ; biết đúng về thắng nghĩa đế là bảy chân như; lại vì ở nhiều nơi lý thể thuần nhất không phân biệt và không hý luận, vì lấy pháp tổng quát vô lượng làm đối tượng, và vì là quán, nên hoàn thành được sự tùy pháp hành. Như thế đó gọi là bảy sự thanh tịnh của tuệ độ.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
750. Ba ác hành của thân: sát sanh, trộm cắp, tà dâm.
751. Năm sợ hãi: Bồ tát sơ học có 5 thứ sợ hãi: 1. Sợ không sống đầy đủ: Bồ tát dù có bố thí mà vẫn thường chứa nhóm của cải, chưa thể cho hết cái mình có; 2. Sợ người khác chê bai: Bồ tát hóa độ chúng sanh mà vào quán rượu, hòa quang đồng trần nhưng chưa có thể tự tại; 3. Sợ chết: Bồ tát tuy phát tâm rộng lớn nhưng vẫn sợ chết nên không dám xả thân mạng; 4. Sợ rơi đường dữ: Bồ tát sợ rơi vào đường dữ nên luôn đối trị pháp bất thiện, không dám vào đường dữ để giáo hóa chúng sanh; 5. Sợ oai đức của đại chúng: Bồ tát sợ đứng trước số đông hay người có oai đức vì không thể cất lên tiếng rống sư tử. Bồ tát khi vào bậc sơ địa mới dứt trừ được 5 sợ hãi này.
752. Đây là ý lạc mang ơn của Bồ tát, vì thấy chúng sanh có ơn lớn với mình, vì nhờ có họ mà mình mới cơ hội tu tập nhẫn nhục.
753. Đây là ý lạc hoan hỷ của Bồ tát, vì thấy làm được lợi ích cho chúng sanh, dù mình chịu khổ sở.
754. Ý tưởng về người là có tâm bỉ thử, phân bì, như người kia làm ít trong khi tôi phải làm nhiều.
755. Niết-bàn vô dư: là niết-bàn không còn 5 uẩn,12 xứ, 18 giới và các căn. Niết-bàn vô dư đến với một vị a la hán sau khi chết, không còn tái sanh. Niết-bàn này cũng được gọi là bát niết-bàn, là niết-bàn toàn phần. Tương ưng V, Một tỳ-kheo khác, định nghĩa: “Này các tỳ-kheo, thế nào gọi là niết-bàn giới không có dư y? Ở đây, này các tỳ-kheo, tỳ-kheo là bậc a la hán, các lậu hoặc đã tận, phạn hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích, hữu kiết sử đã diệt, đã giải thoát nhờ chánh tri. Ở đây đối với vị ấy, mọi cảm thọ đều không có hoan hỉ ưa thích, sẽ được lắng dịu. Này các tỳ-kheo, đây gọi là niết-bàn không có dư y.” (H.T Thích Minh Châu dịch)
756. Nhiễm ô là phiền não chướng, chướng ngại cho trí căn bản hội nhập chân như. Có sự thích ứng là còn sự phân biệt của tâm, khi tâm dơ bẩn, khi tâm trong sáng khác nhau. Si là mê vọng, tức còn có sự chấp thủ tướng và sự kế đạt danh tự tướng. Hành giả phải đến quả nhị thừa hay vị thập tín, mới trừ được tâm chấp trước tương ưng nhiễn ô này.
757. Pháp môn thiền có nhiều thứ, tựu trung có 3 môn: 1. Thế gian thiền; 2. Xuất thế gian thiền; 3. Xuất thế gian thượng thượng thiền. Thế gian thiền gồm: 4 thiền, 4 không, 4 vô lượng tâm, 16 đặc thắng và các pháp 6 thông, 3 minh (thông minh thiền). Các thiền này đều tu tập nơi hơi thở để thu nhiếp tâm, chỉ cho pháp thiền của phàm phu và ngoại đạo. Xuất thế gian thiền gồm: 9 tưởng, 8 niệm, 10 tưởng, 8 bối xả, 8 thắng xứ, 10 nhất thiết xứ (quán thiền), 9 thứ đệ định (luyện thiền), Sư tử phấn tấn tam-muội (huân thiền), Siêu việt tam-muội (tu thiền). Các thiền này đều do nơi các pháp mà quán bất tịnh để thu nhiếp cái tâm phóng túng, đây chỉ cho pháp thiền của nhị thừa. Xuất thế gian thượng thượng thiền gồm: tự tánh thiền, thanh tịnh thiền, thật tướng định, Lăng nghiêm định, các pháp tam-muội như chân như tam-muội, hải ấn tam-muội, Pháp hoa tam-muội, Bát chu tam muôi, Thủ lăng nghiêm tam-muội v.v… Các thiền định này đều nhân nơi trí tuệ mà chứng nhập tâm tánh, đó là thiền môn của Bồ tát. Tuy nhiên, phổ quát mà nói, ba môn ấy lẫn thông nhau, không nhất định phân biệt khu vực là phàm phu thiền, nhị thừa thiền hay Bồ tát thiền.
758. Y chỉ tư duy gồm có tư duy tin tưởng, tư duy mùi vị, tư duy tùy hỷ và tư duy mong cầu, và y chỉ thế lực gồm có thế lực của thân, thế lực của hành động và thế lực của lời nói. Xin xem trong luận này, quyển 7, phẩm Độ nhiếp thứ 17, phần tu tập sáu ba-la-mật.
759. Vị Bồ tát chấp nhận xả bỏ thân mạng vì chánh pháp là vô thượng.
760. Theo Nhiếp luận, những thứ bị đối trị của ba-la-mật là các pháp tạp nhiễm, bao gồm bản thân, nguyên nhân và hậu quả. Như thí ba-la-mật đối trị tham, có 3: bản thân của tham, nguyên nhân của tham và hậu quả của tham. Cả 3 thứ như vậy đều được thí ba-la-mật đối trị.
761. Như như cảnh: Diệu cảnh chân như, thường trú nhất tướng, không dời không đổi, không diệt không sanh, là cảnh mà trí như như duyên vào.
762. Bồ-đề tư lương luận, quyển 3, ghi: Xả tức là bố thí, cho nên xả xứ là thí ba-la-mật (xả tức bố thí, thị cố xả xứ vi đàn na ba-la-mật). Cũng luận này nói: Lấy xả tư lương đoạn được yêu ghét (dĩ xả tư lương đắc đoạn tắng ái).
763. Hiện pháp lạc trú: An trú pháp lạc của giải thoát. Các bậc thánh cõi sắc nhờ tu tập các thiền định mà an trú trong pháp lạc của giải thoát. Do căn cứ vào kết quả của thiền định nên gọi là hiện pháp lạc trú. Hiện pháp lạc trú là 1 trong 4 đẳng trì của cõi sắc, là 1 trong 7 loại thiền định. Luận Câu xá, quyển 28 ghi: “Nương vào thanh tịnh, 4 căn bản tịnh lự của vô lậu mà được pháp lạc hiện tiền.” Luận Đại tỳ bà sa, quyển 26, ghi: “Cái vui xuất gia, cái vui viễn ly (sơ thiền), cái vui tịch tĩnh (nhị thiền), cái vui tam bồ-đề (rốt ráo rời sự thắt buộc của phiền não, thấy biết như thật về các pháp sở tri), 4 loại hiện pháp lạc trú này chỉ giới hạn trong 4 căn bản định của cõi sắc, mà không có trong cận phần định và cõi vô sắc.”
764. Thân kiến: Cái thấy về thân tâm qua 5 uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) là tự ngã, tức năm uẩn chấp ngã.
765. Bốn chánh cần: Đoạn trừ ác pháp đã sanh, ngăn ngừa ác pháp chưa sanh, phát sanh thiện pháp chưa sanh và tăng trưởng thiện pháp đã sanh.
766. Năm căn: Tín căn, tiến căn, niệm căn, định căn và tuệ căn. Năm căn là nền tảng phát sanh và tăng thượng các thiện nghiệp.
767. Năm lực: Tín lực, tiến lực, niệm lực, định lực và tuệ lực. Năm lực nhờ vào 5 căn tăng thượng mà có được. Năm lực là sức mạnh duy trì sự liên tục đưa đến giải thoát cho hành giả và là thần lực của 5 căn, vì chúng có khả năng đối trị thế lực của năm chướng. Năm căn như năm cánh tay, còn năm lực như là sức mạnh của năm cánh tay ấy.
768. Chướng ngại là chướng ngại của 5 căn: Không tin, biếng nhác, thất niệm, loạn tâm và vô tri. Xem chú thích phẩm Giác phần, thứ 21, quyển 10.
769. Bảy giác phần: Trạch pháp, tinh tiến, hỷ, khinh an, niệm, định và xả. Gọi là giác phần vì nó đưa người tu tập đến tuệ giác.
770. Tám thánh đạo phần: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tiến, chánh niệm và chánh định.
771. Tinh tiến hoằng thệ là khoác mặc tâm chí mạnh mẽ làm áo giáp mà xông tới, không sợ bất cứ khó khăn nào, không gì làm lay chuyển chí nguyện của mình. Kinh Bồ tát địa trì, quyển 6, phẩm Bồ tát địa trì phương tiện xứ tinh tiến có ghi: “Bồ tát trước khởi tinh tiến phương tiện, trong tâm trang bị áo giáp hoằng thệ, khởi lên ý niệm rằng: Tôi vì một chúng sanh mà làm nhân duyên thoát khổ, (bằng cách) lấy trăm ngàn đại kiếp làm một ngày một đêm, như vậy ức số của trăm ngàn đại kiếp, tôi nguyện vào trong địa ngục, cho đến khi thành Phật thệ nguyện của tôi cũng không thoái chuyển. Nếu tôi không đắc vô thượng bồ-đề thì tôi không bao giờ từ bỏ tinh tiến, nói chi đến việc nhận chịu một chút khổ sở trong một thời gian ngắn ngủi. Đây gọi là vị Bồ tát tinh tiến hoằng thệ.”
772. Tinh tiến hiện khởi là tinh tiến thị hiện phát hành các thiện pháp bằng thần thông. Kinh Phật thuyết Thủ lăng nghiêm tam-muội, quyển thượng ghi: “Phật dạy Bồ tát Kiên Ý: Trú ở tam-muội Thủ lăng nghiêm, phát đại tinh tiến có được các thiện pháp bằng cách không phát động ba nghiệp thân, khẩu, ý, thị hiện làm người biếng nhác rồi hiện hành tinh tiến để cho chúng sanh noi theo mình mà học tập, nhưng đối với các pháp không có phát khởi, không có thọ dụng. Vì sao? Vì Bồ tát biết pháp tánh thường trú của tất cả các pháp là không đến không đi. Như vậy, rời xa thân, khẩu, ý hành mà có thể thị hiện phát hành tinh tiến.”
773. Tinh tiến dũng mãnh là dũng mãnh tiến tu những hạnh khó làm. Kinh Vô lượng thọ, quyển thượng nói: “Tinh tiến dũng mãnh, chí nguyện không biết mệt mỏi.” Kinh Pháp hoa, phẩm Tựa ghi: “Lại thấy Bồ tát tinh tiến dũng mãnh, vào chốn núi sâu, suy nghĩ trí Phật.”
774. Tinh tiến kiên cố là nỗ lực tu hành, chuyên tâm dụng công, không biếng nhác, không gì phá hoại được. Kinh Thắng tư duy Phạn vương sở vấn, quyển 6 ghi: “Bồ tát đối với các pháp không thấy tướng đồng nhất, không thấy tướng dị biệt, gọi là Bồ tát tinh tiến kiên cố.”
775. Tinh tiến không bỏ Phật đạo là tinh tiến đạt thành vô thượng giác. Luận Đại trí độ, quyển 16 ghi: “Tinh tiến vì Phật đạo gọi là ba-la-mật, còn tinh tiến vì các thiện pháp khác thì chỉ gọi là tinh tiến mà không gọi là ba-la-mật …. Bồ tát tinh tiến không ngừng không nghỉ, nhất tâm cầu Phật đạo. Tu hành như vậy gọi là tinh tiến ba-la-mật.”
776. Thí dụ, sáu độ làm thành 6 giới: giới thí, giới giới, giới nhẫn, giới tiến, giới thiền và giới tuệ. Có tất cả 36 sai biệt của 6 ba-la-mật. Phẩm Thuật cầu, thứ 12, phần 2: “Bồ tát tư duy về phương tiện rồi, lại khởi lên ý niệm (tác ý dũng mãnh): tôi nên khởi lên bốn thứ dũng mãnh, đó là vững chắc, thành thục, cúng dường và thân cận. Vững chắc là tu tập sáu lần của sáu ba-la-mật, nghĩa là sáu thí cho đến sáu tuệ; sáu thí là thí thí cho đến thí tuệ; giới, nhẫn, tiến, định, tuệ cũng như vậy.”
777. Chỉ cho giới phòng hộ giới bổn (ba la đề mộc xoa) và giới phòng hộ các căn.
778. Pháp sở duyên là giáo pháp được tiếp nhận, từ đó có sự phân biệt thiện ác, tốt xấu. Pháp sở hành là giáo pháp được thực hành, bỏ ác làm lành, rời xấu theo tốt. Pháp sở tịnh là do thực hành giáo pháp mà được lợi ích là sự thanh tịnh và giải thoát.
779. Địa vị Thắng giải hành: là vô số kiếp thứ nhất, gồm 10 tín, 10 trú, 10 hành, 10 hướng và 4 da hành. Danh hiệu địa vị này có 4: nguyện lạc, tín hành, thắng giải hành và ý lạc. Địa vị này khẳng định về chân như được dạy cho, chứ chưa chứng ngộ chân như ấy.
780. Nhập đại địa, tức địa vị vô tướng hành: là vô số kiếp thứ hai, tức địa đầu tiên đến địa thứ 7.
781. Địa vị vô công dụng hành: là ba vô số kiếp thứ ba, tức địa thứ 8 đến địa thứ 10.
782. Pháp y, tức áo ca-sa (kasaya).
783. Bốn sự hiến cúng cho thân là thức ăn, y phục, tọa cụ và thuốc thang.
784. Y chỉ tư duy: tư duy tin tưởng, tư duy mùi vị, tư duy tùy hỷ và tư duy mong cầu. Xin xem luận Đại thừa trang nghiêm kinh, quyển 7, phẩm Độ nhiếp thứ 17, phần tu tập sáu ba la mật.
785. Y chỉ tín là tư duy tin tưởng trong y chỉ tư duy.
786. Thấy biết chính xác về bốn sự thật căn bản (tứ diệu đế).
787. Thế gian có 3 loại: 1. Ngũ ấm thế gian: Năm ấm (sắc, thọ, tưởng, hành và thức) của 10 cảnh giới, mỗi mỗi sai biệt; 2. Chúng sanh thế gian: chúng sanh giả danh do 5 ấm hợp thành, trên từ Phật giới dưới đến địa ngục, mỗi mỗi sai biệt; 3. Quốc độ thế gian: trú xứ quốc độ sở y của chúng sanh trong 10 giới, mỗi mỗi sai biệt.
788. Tài lợi cúng dường là cúng dường hương hoa, đồ ăn, đồ uống, đồ mặc, đồ nằm, thuốc thang.
789. Tùy thuận cúng dường là thọ trì, đọc tụng, giảng nói kinh điển, là tu hành đúng theo lời Phật dạy, là tùy thuận tu tập 12 nhân duyên, lìa các tà kiến, tuân theo tứ y, chứng vô sanh pháp nhẫn.
790. Xem phẩm Độ nhiếp, thứ 17, quyển 7. Tâm mùi vị, tâm tùy hỷ và tâm mong cầu thuộc y chỉ tư duy để tu tập các ba la mật. Tâm không biết chán, tâm rộng lớn, tâm hoan hỷ thù thắng, tâm lợi ích thù thắng, tâm không nhuốm bẩn và tâm thuần lành thuộc y chỉ tâm để tu tập các ba la mật.
791. Chân thật nghĩa, tức là đệ nhất nghĩa đế.
792. Có tâm cung kính, tâm tùy thuận, tâm thành thật, hiểu ý người, không có tâm giận tức, không nói trả nghịch, không biếng nhác.
793. Chúng sanh tương tục: Một trong 3 tương tục: thế giới, chúng sanh và nghiệp quả. Do tình và tưởng mà chúng sanh trôi lăn không dừng trong 6 nẻo luân hồi qua 4 cách sanh là noãn, thai, thấp và hóa.
794. Sanh báo là đời sống ngay sau đời sống hiện tại.
795. Hậu báo là đời sống của các đời sau nữa.
796. Kinh Pháp Hoa nói đến thân cận xứ, có hai: 1. Nên thân cận: Là chỗ mà bồ tát nên thân cận và những việc mà bồ tát nên làm: Quán tất cả pháp Không, vô danh vô tướng, phi sanh phi diệt, vô lượng vô biên, vô ngại vô chướng, hiểu rõ pháp sanh diệt do nhân duyên điên đảo mà hiện khởi; 2. Không nên thân cận: Là những chỗ, những việc và những người mà bồ tát nên tránh: Chẳng thân cận các quí tộc quan trưởng, các tà ma ngoại đạo, các kẻ dùng thế pháp lập ngôn viết sách, các kẻ ác đáp ác vấn, kẻ đùa giỡn hung dữ, kẻ thần bí biến hiện, kẻ chăn nuôi săn bắn giết hại. Những người kể trên hoặc khi có đến thì vì họ thuyết pháp mà chẳng có tâm mong cầu. Còn đối với người nữ thuyết pháp cần phải trang nghiêm chẳng sanh tưởng ái dục, thu nhiếp tâm ý.
797. Chúng sanh duyên từ bi: Tâm từ bi do duyên mình với chúng sanh khổ sở mà phát ra. Đây chính là tâm từ bi của phàm phu. Tâm từ bi hàng thanh văn, duyên giác và bồ tát sơ cơ cũng thuộc loại này, gọi là tâm từ bi bậc thấp. 2. Pháp duyên từ bi: Tâm từ bi do duyên mình và chúng sanh đồng một thể tánh mà phát khởi, thấy chúng sanh đau khổ là mình đau khổ. Đây là tâm từ bi của bậc vô học a la hán và bậc sơ địa bồ tát trở lên, gọi là tâm từ bi bậc vừa. 3. Vô duyên từ bi: Tâm từ bi không có tâm năng duyên và cảnh bị duyên, không còn dụng công, không còn quan sát, đối đãi giữa mình với người, là tâm từ bi bình đẳng tuyệt đối. Đây là tâm đại từ đại bi của các bậc đại bồ tát và chư Phật, gọi là tâm từ bi bậc cao.
798. Tánh như hữu: cái tánh đúng như cái thật của sự hiện hữu. Nhiếp luận nói: “Tánh như hữu là chân như nơi các pháp nhiễm tịnh, chân như ấy gọi là tánh như hữu.”
799. Tự thể của ý: chỉ cho 6 thức thân, mà sở y gọi là ý giới và năng y là thức giới. Câu xá luận nói: “Tối hậu tâm (tâm khi nhập vô dư niết bàn) của bậc vô học (a la hán, bồ tát thập địa), lẽ ra chẳng phải là ý giới, vì tâm này, sau khi diệt, không sanh khởi thức sau. Không phải vậy. Tâm này vốn đã có mặt trong tự thể của ý, do thiếu duyên nên không sanh khởi thức sau đó thôi.”
800. Sáu phẩm trước: Chỉ cho 6 phẩm tư hoặc trong 9 phẩm tư hoặc của dục giới. Đây là địa vị tu học của các thánh giả tu đà hàm hướng và tư đà hàm.
801. Bất định địa: Chỉ cho dục giới, tức ngũ thú tạp cư địa.
802. Định địa: Chỉ cho 4 định địa ở sắc giới: 1. Sơ thiền ly sanh hỷ lạc địa; 2. Nhị thiền định sanh hỷ lạc địa; 3. Tam thiền ly hỷ lạc địa; 4. Tứ thiền xả niệm thanh tịnh địa; và 4 định địa ở vô sắc giới: 1. Không vô biên xứ địa; 2. Thức vô biên xứ địa; 3. Vô sở hữu xứ địa; 4. Phi phi tưởng xứ địa. Đây là địa vị tu học của các thánh giả từ a na hàm đến a la hán.
803. Hai phẩm trước: Chỉ cho hai phẩm tư hoặc của mỗi định địa.
804. Quả báo quả, tức dị thục quả: Quả do dị thục nhân mà có, tức do cái nghiệp lực quá khứ hoặc thiện hoặc ác làm ra, mà ta không nhận thấy được quả thể. Theo Nhiếp luận: “Vì nguyên nhân gì pháp thiện và bất thiện có thể cảm ứng dị thục? Quả dị thục ấy là vô phú vô ký. Do quả dị thục có tính vô phú vô ký nên nó không kháng cự lại thiện và bất thiện. Nếu quả dị thục chỉ có tính thiện hay chỉ có bất thiện, thì không thể có sự lưu chuyển và hoàn diệt.”
805. Quả trượng phu: Ưa thích pháp trượng phu, nhàm chán pháp nữ nhân, lại thường đem pháp trượng phu làm lợi ích cho người khác, đó là nhân của trượng phu. Do thành tựu pháp trượng phu, mà đời sau được thân người nam, có thể làm pháp khí và thành tựu tất cả công đức, đó là quả trượng phu. Ở đây, trượng phu nhân là 4 phạn trú, và quả trượng phu là thành thục chúng sanh.
806. Quả y, tức quả đẳng lưu: Là cái kết quả do đồng loại nhân, hoặc biến hành nhân mà có. Ấy là chỉ cái kết quả về hiện tượng nào cùng đồng đẳng, đồng lưu, đồng loại với nguyên nhân của hiện tượng ở trước nó. Nhân là bốn phạn trú, quả là sanh ra nơi nào cũng không rời bốn phạn trú.
807. Quả tương ly: Còn gọi là quả đối trị, quả sổ tập, quả viên mãn, chỉ cho quả của thánh nhân hữu học và vô học.
808. Kinh Ưu-bà-tắc ghi: “Sáu pháp ba-la-mật do một việc mà được tăng trưởng, đó là sự không phóng dật. Bồ tát nếu phóng dật thì sẽ không tăng trưởng sáu pháp ba-la-mật, còn nếu không phóng dật thì sẽ tăng trưởng sáu pháp ba-la-mật.” Phóng dật của bồ tát được hiểu là kiêu ngạo buông thả mà xao lãng tu tập, nhất là giai đoạn tu tập đoạn trừ ngã chấp.
809. Bất hiện tiền thời: Nói đủ là pháp không trí quả bất hiện tiền thời, nghĩa là bồ tát còn khởi pháp chấp nhưng ngã chấp đã dứt sạch, chỉ cho bồ tát từ địa thứ 8 trở xuống.
810. Hiện tiền thời: Nói đủ là sanh không trí quả hiện tiền thời, tức còn khởi pháp chấp nhưng ngã chấp đã bị đè bẹp, chỉ cho bồ tát đốn ngộ ở địa vị tu đạo và bồ tát tiệm ngộ sau khi từ nhị thừa hữu học hồi tâm.
811. Điều này cho thấy, bồ tát giới không phải là bản thân phải hy sinh sự tự lợi của mình cho sự lợi tha, bởi vì không có sự lợi tha nào đúng nghĩa từ ngữ ấy mà thiếu tự lợi tức sự áp dụng Phật pháp trước hết, và ngược lại, cũng chẳng có một sự tự lợi nào đúng nghĩa của danh từ ấy mà không vì mục đích lợi tha tức vì lợi ích chung mà áp dụng Phật pháp.
812. Thiện định: Người tu học Thánh đạo và người thường tu sắc định (sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền) và vô sắc định (không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ), đó gọi là thiện định.
813. Thừa thấp là chỉ cho các vị thanh văn và duyên giác. Bất định tánh là các vị này trước kia chưa có chủng tập các thừa thanh văn và duyên giác, nghe nói mà vào, theo tu mà thành, nên rất dễ thoái lui.
814. Tự lưu, tức tự thể tương tục lưu (Tự thể nối tiếp chảy): Có nghĩa là bản thân tự nhiên đến được năng y. Năng y là tự tánh đại bi của chân như. Đời này có được tâm đại bi thì đời vị lai ắt có tâm đại bi.
815. Như thật tri: Như thật là chân như thật tướng của các pháp. Như thật tri là thấu hiểu phù hợp với chân như thật tướng.
816. Như lý hành: Theo Pháp uẩn túc luận, quyển 2, chương 12 có ghi: “Như lý hành là tám chi thánh đạo, gọi là như lý. Chúng đệ tử Phật thực hành tám chi thánh đạo gọi là như lý hành. Đức Thế tôn cũng có nói, bốn niệm trú, bốn chánh thắng, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi và chánh định, là tài sản và đồ dùng, gọi là như lý. Như đức Thế tôn nói, con đường nhất hướng này làm cho các hữu tình đều được thanh tịnh, vượt qua các sầu đau, diệt trừ các khổ sở, chứng pháp như lý, đó là thánh chánh định, là tài sản và đồ dùng. Bảy chi thánh đạo gọi là thánh chánh định, là tài sản và đồ dùng. Những gì là bảy? Đó là chánh kiến cho đến chánh niệm. Dùng thánh chánh định, tức bảy chi thánh đạo, hướng dẫn và tu sửa, mới được thành mãn, nên gọi là tài sản và đồ dùng của thánh chánh định. Chúng đệ tử Phật thực hành thánh chánh định gọi là như lý hành.”
817. Nan hành nhẫn: Du già sư địa luận, quyển 42 có ghi: “Thế nào là nhẫn khó làm của bồ tát? Nên biết nhẫn đây lược có ba thứ: Các bồ tát đối với các hữu tình yếu đuối, kém hèn mà có thể nhẫn chịu những việc làm không lợi ích của họ, gọi là nhẫn khó làm thứ nhất. Nếu các bồ tát sống trong địa vị tôn quí, có thể nhẫn chịu những việc làm không lợi ích của tôi tớ, gọi là nhẫn khó làm thứ hai. Nếu các bồ tát đối với những hữu tình có chủng tánh ti tiện, làm rất nhiều việc không lợi ích mà vẫn nhẫn chịu được, gọi là nhẫn khó làm thứ ba.”
818. Chánh niệm: chuyên chú nhớ nghĩ chính xác. Chánh niệm có 3: 1. Niệm thân, nhớ nghĩ mình là con Phật, tu hạnh bồ tát; 2. Niệm Phật, nhớ nghĩ đến Phật, bồ tát, sư trưởng, cha mẹ; 3. Niệm bất hại, nhớ nghĩ đến căn bản của Pháp là từ bi, không thương tổn bất cứ sanh vật nào. Trái với chánh niệm là tạp niệm, có 6: 1. Lo nghĩ tham dục; 2. Lo nghĩ giận hờn; 3. Lo nghĩ làm hại người khác; 4. Lo nghĩ đến người thân; 5. Lo nghĩ đến quê hương, xứ sở; 6. Lo nghĩ đến sự sống chết, còn mất.
819. Thùy ư tha bất khởi: đây là ca ngợi công đức vô dư của bồ tát. Bằng tâm đại bi, bồ tát làm lợi ích cho chúng sanh mà không khởi tâm phân biệt, thu nhận chánh pháp để thành thục chúng sanh, “làm người bạn không mời cho cả mọi người, lòng thương to lớn thương xót và đem lại lợi ích cho mọi người, làm người mẹ chánh pháp cho đời.”
820. Đại bi ái, tức đại bi ái kiến. Chưa thâm nhập thật tướng thấy có chúng sanh (kiến) mà sanh yêu thương (ái), và đó là còn chướng ngại. Như kinh Duy Ma, phẩm Thăm bịnh có ghi: “Bồ tát có bịnh lại nghĩ, bịnh mình không thật không có, bịnh chúng sanh cũng không thật không có. Khi xét như vậy mà đối với chúng sanh nổi lên lòng đại bi ái kiến thì phải tức khắc xả bỏ. Tại sao? Bởi bồ tát thì vì trừ khử phiền não mà nổi lên đại bi, còn đại bi ái kiến thì đối với sanh tử có lòng chán mệt. Xả bỏ đại bi ái kiến thì không bị ái kiến ngăn che. Sanh ra ở đâu cũng không bị ràng buộc, như thế mới có thể thuyết pháp mà cởi mở ràng buộc cho chúng sanh.” (Kinh Duy Ma, H.T Thích Trí Quang dịch)
821. Tín hành địa: Chỉ cho giai vị ở trước bồ tát thập địa, tức chỉ cho bồ tát thập tín và bồ tát thập hạnh. Thập tín gồm có: Tín tâm, niệm tâm, tịnh tín tâm, định tâm, huệ tâm, giới tâm, hồi hướng tâm, hộ pháp tâm, xả tâm và nguyện tâm. Thập hạnh gồm có: Hoan hỷ hạnh, nhiêu ích hạnh, vô sân hận hạnh, vô tận hạnh, ly si loạn hạnh, thiện hiện hạnh, vô trước hạnh, tôn trọng hạnh, thiện pháp hạnh và chân thật hạnh.
822. Cũng có nghĩa là chưa có tri kiến như thật về khổ đau, về bản chất của khổ đau. Như kinh Tận Trí, Trung A-hàm có ghi: “Bấy giờ, đức Thế tôn nói với các tỳ kheo rằng: Có tri, có kiến, mới có chứng đắc lậu tận, chứ không phải không tri, không kiến. Thế nào là có tri, có kiến mới chứng đắc lậu tận? Tri kiến như thật về sự khổ liền chứng đắc lậu tận. Tri kiến như thật về Khổ tập, tri kiến như thật về Khổ diệt và tri kiến như thật về Khổ diệt đạo liền chứng đắc lậu tận.”
823. Tịnh tâm địa (địa vị tuệ giác trong suốt): Chỉ cho sơ địa trong thập địa, tức hoan hỷ địa, cũng gọi là tịnh tâm địa. Đây là giai vị của bồ tát đã giải thoát, thủ chứng thanh tịnh do đoạn trừ phiền não chướng.
824. Cũng tức là nói nhẫn khổ: chấp nhận khổ sở vì lợi người.
825. Tự tại: Không chướng ngại, bất động, tâm thái an nhiên, chỗ muốn tùy tâm, rỗng rang ứng vật.
826. Bất thí thời, tức vô hữu bất thí thời: Không có lúc nào không thí, nghĩa là tất cả thời đều thí.
827. Thí vô nhất sát-na, tức triển chuyển tương tục vô nhất sát-na hữu thoái hữu đoạn: Thí liên tục, không một sát-na có lúc thoái lui, có khi ngừng nghỉ.
828. Dĩ vô thí ái cố, cũng như dĩ (phi) vô thí, vô ái cố: Vì không cho rằng không thí dữ, không ái lạc, nghĩa là không có phỉ báng nhân. Phỉ báng nhân là tà kiến, cho rằng không thí dữ, không ái lạc, không thờ tự, không diệu hạnh, không ác hạnh. Vì không có tà kiến nên bồ tát mới thực hành thí không có biết chán.
829. Không làm, không cho quả: là không thí và không hồi hướng phước báo của thí. Cho quả, cho sự làm: là hồi hướng vô thượng bồ-đề và thí cả nội tài và ngoại tài. Là lỗi ông thấy ơn: là thí mà thấy mình ban ơn. Còn tôi không giống ông: là bồ tát thì tu tập thí, hồi hướng thí, thí mà không thấy ban ơn và mong đền đáp.
830. Không lựa chọn phước điền là thí không kể kẻ oán, người thân, người hiền, kẻ dữ, người giữ giới, kẻ phá giới, người giàu sang, kẻ nghèo khó. Đây là nói cái hạnh bình đẳng trong thí. Kinh Bát đại nhân giác dạy: “Bồ tát thực hành thí, bình đẳng nghĩ đến kẻ oán người thân, không nhớ lỗi cũ, không ghét người ác.”
831. Tài thí là cho người bằng của, nhưng của có hai loại: của ở ngoài, theo nghĩa đen, gọi là ngoại tài, và của thật, tức thân mạng, sức lực, nhiệt tình, gọi là nội tài.
832. Tùy thuận: Đại bồ tát nếu có thể lấy tất cả thiện căn mà hồi hướng thì tùy thuận tất cả chư Phật, tùy thuận pháp, tùy thuận trí, tùy thuận bồ-đề, tùy thuận nghĩa, tùy thuận hồi hướng, tùy thuận hạnh, tùy thuận chân thật, tùy thuận thanh tịnh. (Kinh Hoa Nghiêm, quyển 19)
833. Thiện căn khí: Một trong 32 chủng pháp hay khí của bồ tát. Thiện căn khí chỉ cho sự tăng trưởng chí ý.
834. Bồ-đề tụ, tức bồ-đề nhị tụ: chỉ cho hai khối phước và trí.
835. Năm dục: sự đam mê sắc, thanh, hương, vị, xúc. Năm dục còn là ham muốn của cải, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon và ngủ nghỉ.
836. Không có trí tuệ là không có khả năng thấu hiểu thường, vô thường, khổ, lạc, tịnh, bất tịnh, ngã, vô ngã, thọ mạng, phi thọ mạng, chúng sanh, phi chúng sanh, thật, phi thật, hữu, phi hữu. (Kinh Đại bát niết bàn, quyển 14)
837. Chánh văn là duyên duyên cụ duyên: Duyên duyên hay sở duyên duyên là đối cảnh làm duyên tố, chỉ cho chúng sanh làm tướng phần của tâm thức. Cụ duyên là năng duyên hay kiến phần của tâm thức, nói cách khác, trong tâm của bồ tát lúc nào cũng có chúng sanh.
838. Ba thọ là khổ thọ, lạc thọ và bất khổ bất lạc thọ (xả thọ). Ba khổ là khổ khổ, hoại khổ và hành khổ. Ba khổ là nói hình thái khổ đau. Ba thọ là nói cấp độ khổ đau. Tất cả đều nằm trong sự chấp thủ năm uẩn, đều là khổ đau (dukkha). Chúng sanh với ba thọ và ba khổ là đối tượng làm duyên tố cho bồ tát sanh khởi tâm đại bi, nên nói là sở duyên duyên.
839. Bồ tát thiện giới kinh, quyển 1: “Bồ tát chí tâm chuyên niệm vô thượng bồ-đề, gọi là nội lực. Vì muốn hóa độ chúng sanh nên phát tâm vô thượng bồ-đề, gọi là ngoại lực. Bồ tát có thể ở trong vô lượng a tăng kỳ kiếp tu tập thiện hạnh, phụng sự chư Phật và các bồ tát, gọi là nhân lực (năng lực của nhân tố).” Nhân duyên là cái nhân làm duyên tố.
840. Thiện hữu, tức thiện tri thức. Tri thức là người ai cũng biết; người ấy hỗ trợ và hướng dẫn ta tu hành nên gọi là thiện tri thức. Thiện hữu ở đây còn chỉ cho chư Phật và các bồ tát, là những bậc mà bồ tát cần phải thân cận và học hỏi. Tăng thượng duyên là dữ kiện thêm lên làm duyên tố.
841. Tự thể tương tục lưu: Tự thể là tâm đại bi. Nối tiếp chảy là dù ở hình thức nào, bồ tát cũng không quên mất tâm đại bi. Thứ đệ duyên tức là đẳng vô gián duyên, là nói sự mất đi của giai đoạn trước làm duyên tố cho giai đoạn sau sanh ra.
842. Chỉ cho chúng sanh từ phàm phu cho đến chúng sanh ở đệ tứ thiền.
843. Bất khả đắc dịch là không lấy được, hàm ý không nắm bắt được như là một đối tượng hóa. Đặc tính không thể nắm bắt (bất khả đắc) là bản chất của Tâm. Đó là cách nói khác của không, vô thể, vô tự tánh, chân như.
844. Hư không đẳng định là định đồng đẳng hư không, chỉ cho định đi vào pháp không.
845. Chỉ cho hai tâm sở tàm và quí.
846. Chỉ cho sự nhuốm bẩn một tùy phiền não nào đó làm chướng ngại cho định.
847. Bất định địa: Chỉ cho dục giới, tức ngũ thú tạp cư địa.
848. Sáu phẩm trước: Chỉ cho 6 phẩm tư hoặc trong 9 phẩm tư hoặc của dục giới (3 thượng, 3 trung, 3 hạ). Tư hoặc ở dục giới có tham, sân, si, mạn. Đây là địa vị tu học của các thánh giả tu đà hàm hướng và tư đà hàm.
849. Định địa: Chỉ cho 4 định địa ở sắc giới: 1. Sơ thiền ly sanh hỷ lạc địa; 2. Nhị thiền định sanh hỷ lạc địa; 3. Tam thiền ly hỷ lạc địa; 4. Tứ thiền xả niệm thanh tịnh địa; và 4 định địa ở vô sắc giới: 1. Không vô biên xứ địa; 2. Thức vô biên xứ địa; 3. Vô sở hữu xứ địa; 4. Phi phi tưởng xứ địa. Đây là địa vị tu học của các thánh giả từ a na hàm đến a la hán.
850. Hai phẩm trước: Chỉ cho hai phẩm tư hoặc của mỗi định địa (cũng có 9 phẩm tư hoặc: 3 thượng, 3 trung, 3 hạ). Tư hoặc ở sắc giới và vô sắc giới chỉ có tham, si, mạn.
851. Kinh Pháp Hoa ghi: “Xá lợi Phất, nếu là đệ tử của Như Lai, tự gọi là La hán, là Duyên giác, mà không nghe không biết đến việc Như Lai chỉ giáo hóa bồ tát như trên, thì những người ấy không phải đệ tử của Như Lai: không phải La hán, không phải Duyên giác. Những vị tỷ kheo và tỷ kheo ni như vậy tự cho đã thành La hán, thân mình là thân cuối cùng, mình cứu cánh niết bàn, rồi không còn có chí mong cầu tuệ giác vô thượng, thì tôn giả nên biết họ toàn là người tăng thượng mạn.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
852. Hiện pháp, tức hiện pháp lạc trú: chỉ cho sự chứng đắc bốn tĩnh lự. Kinh Tạp a hàm, số 1078, có ghi: “Hiện pháp này không lệ thuộc thời gian, hãy đến để thấy, là pháp thực chứng, có khả năng hướng dẫn đến niết bàn, được chứng biết từ nội tâm bởi kẻ trí.”
853. Nghi ngờ và hối hận làm trở ngại cho việc tu chỉ.
854. Các nạn xứ là địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.
855. Khổ thọ lớn lao là sanh tử luân hồi, là hành khổ, là ý thức thác loạn, là phá hại thiện căn, là năm ấm bốc lửa, là đoạn tuyệt giống Phật.
856. Xem chú thích ở phẩm Phạn trú, thứ 20.
857. Thế gian bát pháp: Còn gọi là bát phong hay bát thế phong, nghĩa là tám ngọn gió đời, tám pháp ở thế gian hay làm loạn động, mê hoặc lòng người. Tám ngọn gió ấy gồm: 1. Lợi (lợi lộc); 2. Suy (hao tổn); 3. Hủy (chê bai chỉ trích); 4. Dự (gián tiếp khen ngợi người); 5. Xưng (trực tiếp ca tụng người); 6. Cơ (dựng sự việc giả để nói xấu người); 7. Khổ (gặp chướng duyên nghịch cảnh, thân tâm bị bức bách, khổ não); 8. Lạc (gặp được duyên tốt, thuận cảnh, thân tâm vui vẻ, hân hoan).
858. Thấy tất cả tội lỗi đều không thật, như thấy voi, ngựa, quân lính là ảo thuật. Như kinh Kim Quang Minh có nói: “Đại phạn vương, như nhà ảo thuật và đồ đệ của mình, rất rành ảo thuật, đến chổ ngã tư, dùng những vật liệu cát đất cỏ cây vân vân, gom lại một chổ mà làm ảo thuật. Làm cho người ta thấy những voi, những ngựa, những xe, vân vân, thấy đống bảy loại quí báu, thấy kho lẫm tràn đầy. Rồi kẻ khờ khạo không biết suy xét, không hiểu ảo thuật, nên thấy hay nghe gì cũng cho là thật, voi thật ngựa thật vân vân, và chỉ thế là thật, ngoài ra là dối cả, sau đó không còn suy xét gì nữa. Còn người hiểu biết thì trái lại, biết cái gốc ảo thuật, nên thấy hay nghe gì cũng nghĩ, những thứ ta thấy, thấy voi thấy ngựa vân vân, toàn là giả cả, chỉ do ảo thuật mê hoặc mắt người, vọng cho là voi, là lẫm, nhưng chỉ có tên, không có thật, nên cái ta thấy nghe không nên chấp là thật, sau đó càng xét biết là dối trá. Do vậy, trí giả thì biết các pháp không thật, chỉ do thế nhân thấy gì nghe gì thì nói ra như thế, chứ xét cho kỹ thì không phải như thế. Và như thế thì cũng do nói giả mà xét ra nghĩa thật.” (H.T Trí Quang dịch)
859. Quán sát chúng sanh thì không có lòng đại bi ái kiến, tức không thấy có chúng sanh (kiến) mà sanh yêu thương (ái), vì bồ tát đã thâm nhập thật tướng. Hóa độ chúng sanh thì không có ý tưởng hóa độ, vì bồ tát thấy các pháp là không thể thủ đắc.
860. Chỉ cho phiền não trú địa, có 4: 1. Kiến nhất xứ trú địa, tức là những kiến hoặc về thân kiến, biên kiến... trong ba cõi, lúc nhập kiến đạo thì đồng loạt đoạn hết; 2. Dục ái trú địa, là trong phiền não của cõi Dục, trừ kiến hoặc và vô minh hoặc, mà mắc phải những phiền não của ngũ dục bên ngoài (sắc, thanh, hương, vị, xúc); 3. Sắc ái trú địa, là trong những phiền não của cõi Sắc, trừ kiến hoặc và vô minh hoặc, xả ngũ dục bên ngoài, nhưng còn mắc phải những phiền não về sắc thân mình; 4. Hữu ái trú địa, là trong những phiền não của cõi Vô sắc, trừ kiến hoặc và vô minh hoặc, lìa bỏ những phiền não tham trước sắc giới, mà yêu mến thân mình.
861. Hư không đẳng định là định đồng đẳng hư không, chỉ cho định đi vào pháp không.
862. Nhậm vận: Vận chuyển, vận dụng một cách tự nhiên, không cần tác ý.
863. Tánh thành tựu: Là thành tựu đạo bồ tát, tâm đại bi và thiện căn xuất thế. Thế gian thiện căn là không tham, không sân, không si, còn gọi là ba thiện căn. Xuất thế gian thiện căn là tinh tiến. Kinh Đại bảo tích, phẩm Pháp hội đại thừa thập pháp, thứ 9, có định nghĩa: “Này thiện nam tử! Thế nào là đại bồ tát tánh thành tựu? Này thiện nam tử! Đại bồ tát tánh tự ít tham dục, sân hận, ngu si, chẳng tiếc lẫn chẳng rít rắm, chẳng thô bạo, chẳng ngã mạn, chẳng nóng vội, điều hòa nhu nhuyến, lời lành dịu dàng, dễ cùng ở chung. Bồ tát ấy đối với tất cả sự cúng dường thượng thắng đúng như tâm dâng hiến, những vật sở hữu y phục uống ăn chia cấp cho người. Thí xả xong liền sanh lòng vui mừng hớn hở, nhẫn đến xả thí những phần trên thân thể. Thực hành hạnh ấy, bồ tát thấy Như lai hoặc hàng Thanh văn lòng rất hoan hỷ. Đại bồ tát thành tựu pháp như vậy gọi đó là tánh thành tựu.” (H.T Thích Trí Tịnh dịch)
864. Tức niết bàn vô trú.
865. Tam-muội môn chỉ cho định tăng thượng, tức các tam-muội, có năng lực tùy ý muốn mà thọ sanh và thi thiết thần thông biến hóa để hóa độ chúng sanh. Đà-la-ni môn chỉ cho tuệ tăng thượng, tức trí vô phân biệt, có năng lực tóm thâu, gìn giữ vô lượng Phật pháp không cho quên sót. Bồ tát ở địa thứ mười có được cái trí tổng duyên hết thảy các pháp, hàm tàng hết thảy tam-muội môn và đà-la-ni môn.
866. Là tu tập quán tổng tướng niệm trú: noãn pháp, đảnh pháp, nhẫn pháp và thế đệ nhất.
867. Trí ở đây là trí vô lậu, tức trí nhập kiến đạo, chánh ngộ tứ đế, bước tới sự nhập vào địa vị thánh giả, viễn ly phiền não.
868. Bốn lượng là cách nói khác của bốn y cứ: 1. Y pháp bất y nhân; 2. Y nghĩa bất y ngữ; 3. Y kinh liễu nghĩa bất y kinh bất liễu nghĩa; 4. Y trí bất y thức. Quá trình tu tập là sự cầu văn, tư, tu, 3 tuệ và cứu cánh của tuệ là trí xuất thế. Đối tượng chính yếu của văn, tư, tu là chánh pháp, “thu nhận gìn giữ chánh pháp mà nguyện không tiếc thân mạng”. Chánh pháp là giáo nghĩa đại thừa, là nghĩa lý cứu cánh. Tiếp cận nghĩa lý ấy phải bằng tác ý tư duy nghĩa ý chứ không phải ngôn ngữ văn tự.
869. Lượng: là tri thức, nhận thức, là đối tượng của sự tác ý tư duy.
870. Theo kinh Giải Thâm Mật, bồ tát dựa vào pháp, tiếp nhận và tư duy, tu tập đạt được nghĩa lý của pháp ấy là bậc bồ tát tùy pháp hành, là bồ tát lợi căn. Bồ tát dựa vào sự chỉ dạy của người khác, tu tập đạt được nghĩa lý của sự chỉ dạy ấy là bậc bồ tát tùy tín hành, là bồ tát độn căn.
871. Liễu nghĩa: nghĩa lý cứu cánh. Như kinh Viên Giác được mệnh danh là kinh nói về Nghĩa lý cứu cánh của khế kinh (Tu-đa-la liễu nghĩa kinh).
872. Trí xuất thế là bốn trí: 1. Thành sở tác trí; 2. Diệu quan sát trí; 3. Bình đẳng tánh trí; 4. Đại viên cảnh trí.
873. Thức là tâm thức, chỉ cho tám thức tâm vương và các tâm sở.
874. Tà tư duy: là tư duy về dục, sân và hại. Tà tư duy phát sanh do cái nhìn không đúng về sự vật, về bản thân và hoàn cảnh của mình và của người.
875. Đảo giải: kiến giải điên đảo, sai lầm. Như lấy vô thường làm thường, lấy khổ làm vui, lấy vô ngã làm ngã, lấy bất tịnh làm tịnh.
876. Khả ngôn trí: trí tuệ do đa văn huân tập và tác ý đúng lý, vẫn còn trong lĩnh vực của ý thức, phân biệt danh ngôn.
877. Chánh tư duy: là tư duy trái ngược với tà tư duy. Ở đây là tác ý tư duy chánh pháp một cách chính xác, “tùy thuận chân như, xu hướng chân như, đi vào chân như, tùy thuận bồ-đề, tùy thuận niết bàn, tùy thuận chuyển y”, thuộc tư tuệ.
878. Chánh văn: là sự nghe chánh pháp một cách chính xác, là học rộng nghe nhiều, thuộc văn tuệ.
879. Thế trí: là trí do văn và tư chánh pháp mà có. Còn gọi là hữu sư trí, do sự học hỏi truyền dạy của bậc thầy mà có. Trí thế gian là trí thấy biết đúng tinh thần nhân quả và duyên khởi.
880. Pháp vô ngại giải: Thông suốt văn tự. Biết danh môn là biết pháp, gồm có: 1. Biết tên; 2. Biết câu; 3. Biết văn từ; 4. Biết riêng; 5. Biết chung. Thí dụ như, đây là cây viết, mà là cây viết chì; cây viết chì này loại tốt; cây viết chì này khác với cây viết chì khác; cây viết này dùng để vẽ hay viết cũng được.
881. Nghĩa vô ngại giải: Thông suốt nghĩa lý. Biết nghĩa có 10 sự: 1. Biết tánh tận hữu; 2. Biết tánh như hữu; 3. Biết nghĩa năng thủ; 4. Biết nghĩa sở thủ; 5. Biết nghĩa dựng nên; 6. Biết nghĩa hưởng dụng; 7. Biết nghĩa đảo ngược; 8. Biết nghĩa không ngược; 9. Biết nghĩa tạp nhiễm; 10. Biết nghĩa thanh tịnh. (kinh Giải Thâm Mật - H.T Trí Quang dịch)
882. Từ vô ngại giải: Thông suốt sanh ngữ.
883. Nhạo thuyết vô ngại giải, hay biện vô ngại giải: Trình bày vui vẻ hay thông suốt trình bày.
884. Bốn trí: 1. Giáo thọ trí; 2. Thành thục trí; 3. Tụ mãn trí; 4. Linh giác trí.
885. Thuyết pháp là thuyết về pháp và nghĩa. Pháp là như thuyết về pháp tứ đế. Nghĩa là nghĩa lý của pháp tứ đế: 1. Sự chân thật (chân như); 2. Sự biến tri (khổ đế); 3. Sự vĩnh đoạn (tập đế); 4. Sự tác chứng (diệt đế); 5. Sự tu tập (đạo đế); 6. Chi tiết về tứ đế; 7. Sự tương thuộc của sở y và năng y giữa các đế; 8. Sự chướng ngại của sự biến tri cho đến sự tu tập; 10. Nhược điểm và ưu điểm của sự biến tri cho đến sự bất tu với sự tu tập. Đó là nói tứ đế theo tổng quát, đặc tính và chi tiết. (kinh Giải Thâm Mật)
886. Thuyết cụ: yếu tố cần và đủ để thuyết pháp.
887. Hậu đắc thế trí, hay hậu sở đắc thế gian tịnh trí, cũng dùng hậu đắc thanh tịnh thế trí: Trí phát sanh sau khi giác ngộ, có năng lực hiểu biết những hiện tượng liên quan đến thế gian.
888. Vô lượng pháp môn (danh ngôn, khái niệm) nên có vô lượng nghĩa lý. Vô lượng nghĩa lý nên có vô lượng sai biệt.
889. Quả báo thù thắng: 1. Được giàu có lớn; 2. Sanh chỗ tốt lành; 3. Không có thù oán, không bị phá hoại, lắm nỗi vui vẻ; 4. Đứng đầu mọi người; 5. Thân không tổn hại; 6. Thuộc dòng họ lớn. (Kinh Giải Thâm Mật)
890. Tam-bà-la (三婆羅): còn gọi là tam-bạt-la, tam-phược-la, dịch là cấm giới, hộ trì. Cấm giới giúp cho người không đọa vào ba đường dữ. Cũng gọi là giới thể vô biểu sắc. Ở đây, tam-bà-la có nghĩa là chánh tu và số tu.
891. Chánh tu: tu tập chính xác. Ở đây là tu tập chính xác sáu ba-la-mật để làm tư lương chân thật (phước đức và trí tuệ) cho vô thượng bồ-đề.
892. Số tu: tu tập hỗ trợ. Cách thức tu tập để hỗ trợ cho sáu ba-la-mật, đó là: 1. Tin sâu giáo pháp đại thừa; 2. Tu tập bằng cái tuệ văn, tư, tu; 3. Kiên định tâm nguyện bồ-đề; 4. Thân cận thiện hữu tri thức đích thật; 5. Siêng tu các loại thiện pháp không có gián đoạn.
893. Tín hành địa gồm 10 trú, 10 hạnh, 10 hướng và 4 gia hành.
894. Sáu địa trước: cực hỷ địa, ly cấu địa, phát quang địa, diệm tuệ địa, nan thắng địa và hiện tiền địa. Sáu địa trước là giai đoạn hữu tướng hành. Địa thứ bảy là viễn hành, thứ tám là bất động, thứ chín là thiện thệ và thứ mười là pháp vân.
895. Tu tập Đại thừa niệm trú thù thắng so với Tiểu thừa niệm trú là do 14 thứ: 1. Sở duyên đại thừa; 2. Y trí tuệ Bát-nhã; 3. Khả năng đối trị 16 hạnh quán; 4. Nhập tu tứ đế; 5. Duyên tất cả thân, thọ, tâm, pháp của mình và người; 6. Tác ý thân, thọ, tâm, pháp qua không tánh; 7. Rời xa thân hữu lậu để tương lai được thân vô lậu; 8. Thọ trì và tương thuận 6 ba la mật; 9. Nhiếp thọ và tương thuận thanh văn, độc giác, v.v…; 10. Biết thân như huyễn; 11. Biết thọ như mộng; 12. Biết tâm như hư không; 13. Biết pháp như mây; 14. Nhớ nghĩ sự thọ sanh ba cõi, làm chuyển luân vương v.v…, nếu có tự tánh lợi căn tu tập niệm trú của bồ tát thì khác với sự tu tập niệm trú của tiểu thừa, thành tựu niết bàn vô trú. Mười sáu hạnh quán là hành giả khi tu tập quán xét tứ đế thấy được mỗi chân đế đều có 4 sắc thái khác nhau, tổng cộng là 16 sắc thái. Nhờ quán xét rốt ráo 16 sắc thái này mà dứt trừ được mọi mối mê lầm, đạt được giải thoát. Cụ thể, theo Câu xá luận, quyển 26, thì Khổ đế có 4 sắc thái: một là vô thường, hai là khổ, ba là không, bốn là vô ngã; Tập đế có 4 sắc thái: một là nhân, hai là tập, ba là sanh, bốn là duyên; Diệt đế có 4 sắc thái: một là diệt, hai là tĩnh, ba là diệu, bốn là ly; Đạo đế có 4 sắc thái: một là đạo, hai là như, ba là hạnh, bốn là xuất.
896. Đây là tự tánh niệm trú, nhờ tuệ lực mà làm cho niệm lực an trú nơi cảnh sở quán.
897. Tu tập bốn niệm xứ bằng nội quán thân, thọ, tâm, pháp, liễu tri thân bất tịnh, thọ là khổ, tâm vô thường, pháp vô ngã. Tu tập bốn niệm xứ để đối trị 4 điên đảo tưởng: tịnh, lạc, thường, ngã.
898. Kinh Duy Ma có ghi: “Lúc ấy Văn thù đại sĩ hỏi trưởng giả Duy ma: Bồ tát nên an ủi như thế nào đối với Bồ tát có bịnh? Trưởng giả thưa: Hãy nói thân vô thường mà đừng bảo chán bỏ thân. Nói thân khổ sở mà đừng bảo thích thú niết bàn. Nói thân vô ngã mà bảo giáo hóa hướng dẫn chúng sanh. Nói thân trống vắng mà đừng bảo vắng lặng hoàn toàn.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
899. Tu tập tứ đế bằng 37 trợ đạo phẩm: tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi, bát chánh đạo.
900. Trung biên phân biệt luận, Đại tạng kinh số 1600, Thế Thân tạo luận, Huyền Trang dịch, một bộ luận quan yếu của Du già hành tông.
901. Phẩm Biện tu đối trị, thứ 4, quyển trung: “Do nhân ái thô trọng, Ngã chấp sự không mê, Vì nhập bốn thánh đế, Tu niệm trú nên biết. Luận rằng: Thô trọng hiển lộ rõ nơi thân, cho nên quán sát thân thì ngộ nhập khổ thánh đế. Thân lấy các hành hữu lậu thô trọng làm sắc thái. Các hành hữu lậu thô trọng như vậy là đặc tánh của hành khổ. Do quán thánh đế nơi thân mà biết (các hành) hữu lậu đều là khổ. Các thọ nơi các hành hữu lậu được gọi là nhân tố của ái. Do quán sát các thọ mà ngộ nhập tập thánh đế. Tâm là duyên sự sở y của ngã chấp, cho nên quán sát tâm thì ngộ nhập diệt thánh đế. Sợ cái ngã đoạn diệt do tách rời tâm, cho nên quán sát các pháp. Đối với các pháp nhiễm tịnh mà rời xa sự ngu mê thì ngộ nhập đạo thánh đế. Đây là nghĩa lý ngộ nhập bốn thánh đế. Đầu tiên nói về sự tu quán bốn niệm trú.”
902. Đây là sở duyên niệm trú, lấy pháp sở duyên của tuệ tức thân, thọ, tâm, pháp hoặc tất cả pháp làm tự thể cho niệm trú.
903. Bồ tát quán xét ấn tượng chỉ là tâm. Đối cảnh thân, thọ, tâm, pháp đã không còn thì sự quán xét chỉ có tâm mình. Cứ như thế trú nơi nội tâm, cái sở thủ đã không thì cái năng thủ cũng không, sau đó chạm vào sự không thủ đắc, gọi là bất khả đắc.
904. Không ly là không rời pháp quán, tức bốn niệm trú. Không hợp là không đối tượng hóa đối cảnh, nhập vào một phần chân thật. Chí đắc là đang đi đến hiện quán. Hiện quán là tuệ giác vô lậu chứng được chân thật.
905. Chướng ngại là như 5 triền cái (5 thứ ngăn che) tham dục, sân hận, hôn trầm, trạo cử và nghi pháp. Trạo cử cản trở cho sự tu chỉ. Hôn trầm và nghi pháp cản trở cho sự tu quán. Tham dục và sân hận cản trở cho cả hai.
906. Quán biệt tướng niệm trú, có 3: 1. Quán bằng tự tướng, là quán thân bất tịnh, thọ thị khổ, tâm vô thường, pháp vô ngã; 2. Quán bằng cộng tướng, là quán thân với các hữu vi (gồm cả đạo đế) đều vô thường, với các hữu lậu (chỉ khổ đế và tập đế) đều khổ, với tất cả pháp (gồm tứ đế, hư không vô vi và phi trạch diệt vô vi) đều vô ngã; quán thọ, tâm, pháp cũng như vậy; 3. Quán bằng pháp niệm trú tạp duyên: 3 thứ thân thọ tâm không tạp, còn pháp có tạp và không tạp. Không tạp là chỉ quán pháp vô ngã. Tạp là trong pháp vốn bao gồm thân thọ tâm, nên chung 2 thứ, 3 thứ hay 4 thứ mà quán. Khi chung 4 thứ mà quán thì gọi là pháp niệm trú tổng tạp.
907. Quán tổng tướng niệm trú: là chính nơi pháp niệm trú tổng tạp mà tổng quán thân thọ tâm pháp, tất cả hữu vi đều vô thường, tất cả hữu lậu đều khổ, tất cả pháp đều vô ngã. Tổng quán như thế này gọi là pháp niệm trú tổng duyên cộng tướng.
908. Khả đắc là chân thật hiển hiện. Bồ tát từ địa đầu tiên đến địa thứ mười có được chuyển y như: 1. Trước mắt chân thật thì hiển hiện, không chân thật thì không hiển hiện (thông đạt vị); 2. Còn có chướng ngại, hữu tướng không hiển hiện mà chân thật thì hiển hiện (tu tập vị); 3. Vĩnh viễn không còn chướng ngại, hữu tướng không hiển hiện, chân thật tối thanh tịnh thì hiển hiện, đã được tự tại với hữu tướng (cứu cánh vị). (Nhiếp luận)
909. Bản thân không ô nhiễm vì sự thọ sanh mà còn trừ được cho người sự ô nhiễm ấy. (Kinh Giải Thâm Mật)
910. Đắc ký là được thọ ký thành Phật. Bồ tát ở địa thứ tám thì được vô sanh pháp nhẫn (sự thể nhận Pháp không phát sanh). Vô sanh là không phát sanh phiền não ác nghiệp. Vô sanh pháp là thật tướng vốn không phải phiền não, không sanh phiền não. Thể nhận Pháp không phát sanh ấy gọi là Tuệ giác Không sanh. Được tuệ giác này là được đến vị trí Không thoái chuyển (A bệ bạt trí), được thọ ký thành Phật. Sự thọ ký thành Phật gồm có 6 yếu tố: 1. Quốc độ; 2. Danh hiệu; 3. Thời tiết; 4. Kiếp danh; 5. Quyến thuộc; 6. Pháp trụ. Như kinh Pháp Hoa, phẩm Thọ ký, đức Phật thọ ký cho ngài Tu bồ-đề như sau: “Vị tôn giả Tu bồ-đề này trong thì vị lai, phụng hầu ba trăm vạn ức trăm triệu chư Phật như lai, hiến cúng cung kính tôn trọng tán dương, thường tu phạn hạnh, đi trọn đường đi bồ tát, và thân cuối cùng được thành Phật đà, danh hiệu là Danh tướng Như lai, đủ mười đức hiệu. Thời kỳ của ngài tên là Hữu bảo, quốc độ của ngài tên là Bảo sanh. Quốc độ ấy bằng thẳng, đất là pha lê, cây ngọc tráng lệ, không có núi đồi, hầm hố, cát sỏi, gai góc, tiện lợi dơ bẩn. Hoa quí phủ đất, đâu cũng sạch sẽ. Người quốc độ ấy đều ở đài ngọc và lầu ngọc. Đệ tử của đức Danh tướng như lai thuộc chúng thanh văn thì vô lượng vô biên, toán số ví dụ không thể xác định; thuộc chúng bồ tát thì vô số ngàn vạn ức trăm triệu. Danh tướng như lai sống lâu mười hai thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp nguyên chất tồn tại thế gian hai mươi thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp tương tự cũng tồn tại hai mươi thời kỳ bậc nhỏ. Danh tướng như lai thường đứng trong không gian mà thuyết pháp cho các chúng, hóa độ vô lượng bồ tát và thanh văn. (Kinh Pháp hoa, H.T Trí Quang dịch)
911. Thọ chức: là hoạch đắc vô số các tam-muội, biết rõ cách vận dụng các tam-muội ấy. Như kinh Quán Phật tam-muội có ghi: “Bậc đại bồ tát dùng trí tuệ như vậy (nhất thiết trí) nhập vào địa vị thọ chức, tức được các tam-muội của bồ tát như tam-muội ly cấu, tam-muội nhập pháp giới sai biệt, tam-muội trang nghiêm đạo tràng, tam-muội tất cả loại hoa quang, tam-muội hải tạng, tam-muội hải ấn, tam-muội hư không giới quảng đại, tam-muội quán tự tánh của tất cả pháp, tam-muội biết tất cả tâm hành của chúng sanh, tam-muội tất cả Phật đều hiện tiền, như vậy thảy trăm vạn vô số tam-muội đều hiện ra ở trước mắt.”
912. Dục: là dục tâm sở trong 5 tâm sở biệt cảnh. Tâm ấy là chí nguyện mong cầu. Lập cái chí nguyện mong cầu vô thượng bồ-đề, gọi là phát bồ-đề tâm.
913. Chỉ quán bình đẳng: ngoài chỉ không quán, ngoài quán không chỉ, chỉ tức là quán, quán tức là chỉ, chỉ quán bình đẳng, định tuệ đẳng trì, tịch chiếu không hai, minh tịnh nhất như. Kinh Tạp a hàm, quyển 17, Đồng pháp, có ghi: “Tu tập chỉ, cuối cùng thành tựu được quán. Tu tập quán, cũng thành tựu được chỉ. Nghĩa là Thánh đệ tử tu tập gồm cả chỉ và quán, chứng đắc các giải thoát giới.”
914. Tịnh chỉ: nếu tâm trạo cử hay sợ trạo cử nổi lên thì nên tu tập tịnh chỉ, đối với cảnh sở duyên cực sanh chán ghét.
915. Sách cử: nổi lên sự cảnh giác. Khi tâm bị hôn trầm thì tự cảnh giác làm cho tâm phấn chấn lên.
916. Xả: rời xa hôn trầm, trạo cử, tâm trú nơi xả.
917. An trú bình đẳng: là cảnh và tâm đều loại bỏ, rời tâm không có cảnh riêng nên thể hội tâm cũng không có, thấu suốt cả hai đều không nên đứng nơi pháp tánh bất nhị, thuận hành pháp tánh một cách bình đẳng.
918. Bốn thần túc cũng gọi là 4 như ý túc, 4 như ý phần, là khoa thứ 3 đứng sau 4 niệm xứ và 4 chánh cần trong 37 phẩm trợ đạo, là 4 pháp thiền định, 4 thứ phương tiện giúp hành giả thành tựu các tam ma địa. Thần là chỉ cho cái đức linh diệu, túc là chỉ cho định, làm nền tảng, làm nơi nương tựa để phát sanh quả đức linh diệu. Bốn bước này được xem là bốn loại thiền định, nhưng có nhiều loại định nghĩa khác nhau. Bốn loại định đó là dục, tinh tiến, tâm và tư duy, mỗi thứ làm chủ đạo để đắc định. Nhờ sức mạnh của bốn pháp này dẫn phát các loại thần dụng mà sản sanh ra tam ma địa. Sau đây là một cách phân loại: 1. Dục thần túc, gọi đầy đủ là Dục tam ma địa đoạn hành thành tựu thần túc, thiền định phát sanh do năng lực của ý muốn, tư tưởng mà đạt được thần thông. Dục ở đây chỉ cho ước muốn, mong cầu một cách thiết tha, mong muốn đạt được những gì mình chưa có hay mong cầu và tìm cách đạt được những sở nguyện; 2. Cần thần túc, còn gọi là Tinh tiến thần túc, gọi đầy đủ là Tinh tiến tam ma địa đoạn hành thành tựu thần túc, là thiền định phát sanh nhờ vào sức tinh tiến nỗ lực tu tập. Khi đã có mong cầu thì phải tinh tiến nỗ lực để tu tập làm thiện, đoạn trừ các ác; 3. Tâm thần túc, gọi đủ là Tâm tam ma địa đoạn hành thành tựu thần túc, là thiền định phát sanh nhờ sức mạnh của tâm niệm. Một lòng chuyên tâm nhất niệm trú nương vào sức mạnh của tâm, nên định dẫn phát sanh; 4. Tư duy thần túc, còn gọi là Quán thần túc, gọi đủ là Quán tam ma địa đoạn hành thành tựu thần túc, là thiền định phát sanh nhờ sức mạnh tư duy quán sát Phật lý, nương vào sức mạnh tư duy quán sát nên phát sanh sức định. Theo Trí Khải, Pháp giới thứ đệ sơ môn, quyển trung, có ghi: “Dựa vào bốn niệm xứ và bốn chánh cần thì thiên trọng về tuệ mà thiếu định, nay lại tu thêm bốn thần túc, thì định tuệ cân bằng, và sở nguyện thành tựu, nên gọi là bốn như ý túc.” Đại tỳ bà sa luận giải thích về thần túc như sau: “Những sự mong cầu đều được như ý, gọi là thần. Nương nhờ vào năng lực của dục và cần mà được đẳng trì, lại nương nơi đẳng trì mà phát sanh thần dụng nên gọi là bốn như ý túc, nhờ tu tập tứ thần túc mà thành tựu sở nguyện, tức bốn pháp làm nền tảng, nơi nương tựa phát sanh ra các thứ công đức thiền định cho hành giả theo như ước muốn.” Câu xá luận, quyển thứ 25, có ghi: “Các công đức vi diệu thù thắng đều nương nơi bốn pháp này mà định được thành tựu...trong bốn thiện căn vị thì đảnh vị có thể tu đắc bốn thần túc.”
919. Chánh văn là ỷ tức, còn gọi là khinh an (nhẹ nhàng ổn định), tức xa lìa những gì nặng nề bực bội, điều hòa buông thả thân tâm.
920. Sau khi trụ tâm trên tịnh tướng, tuần tự các trạng thái khởi lên: duyệt (hân hoan), hỷ (khoan khoái), thân ỷ tức, an lạc, và cuối cùng là định.
921. Tư là quán sát tâm tạo tác, tùy thuận chỉ quán. Xả là tâm an trú vắng lặng, tâm không nhiễm ô, tâm bình đẳng trong hành uẩn (bao gồm tất cả tâm sở khác ngoài 2 tâm sở thọ và tưởng).
922. Đại thừa kim cang kinh luận: “Bồ tát Văn Thù Sư Lợi hỏi Phật: Tri kiến thế nào gọi là ngũ nhãn? Thế Tôn nói: Nhục nhãn chỉ thấy được chổ tối, thấy trước mắt chớ không thấy sau lưng. Thiên nhãn trước sau, trong ngoài, núi gò, vách đá đều thấy thông suốt không ngăn ngại. Tuệ nhãn thấy được nghĩa lý trong văn tự cạn sâu và nhân quả lành dữ kiếp trước kiếp sau, rõ rệt như chỉ trong bàn tay. Pháp nhãn thấy được cái phương tiện pháp của chư Phật trong ba đời và hiểu được các pháp phương tiện tùy theo căn cơ cao thấp mà truyền đạo không sai lạc, như bệnh nào cho thuốc nấy. Phật nhãn tròn sáng chói khắp, trước kiếp vô thỉ, sau kiếp vô chung tất cả nhân quả như thấy trước mắt, mảy lông cọng tóc không sót. Năm thứ con mắt này đều do các công đức phước lành chiêu cảm mà ra. Duy có một bậc Phật là hoàn toàn, ngoài ra các bậc khác chưa được. Con mắt tuy chia làm năm, mà gốc tại cái tâm tu hành đến chổ kiến tánh rồi thì ai ai cũng có được.” (Thích Viên Giác dịch)
923. Chủng loại định như “định Đại thừa quang minh, định Tập phước định vương, định Hiền thủ, định Kiện hành v.v…, chủng loại vô lượng” (Nhiếp luận, H.T Trí Quang dịch)
924. Thần thông biến hóa như “chấn động thế giới, phóng ánh sáng rực rỡ, chiếu khắp mọi khu vức, làm cho mọi thế giới trở nên thấy được, làm cho vật thể chuyển biến, đi lại trong từng sát-na giữa các thế giới, thu lại và phóng ra cả không gian và thì gian, thu mọi sắc tượng vào nơi bản thân, đến với loài nào thì hiện ra thân hình cùng loại, hoặc hiện hoặc ẩn, tự do làm cho các loài biến thể, chế ngự thần thông thấp kém của người khác, truyền cảm hứng hùng biện cho người thuyết pháp, và truyền cảm hứng ghi nhớ và thích thú cho người nghe pháp, phóng ra ánh sáng lớn những lúc thuyết pháp, dẫn ra những thần thông lớn lao như vậy.” (Nhiếp luận, H.T Trí Quang dịch)
925. Mười pháp tự tại, đó là: mạng tự tại, tâm tự tại, tài vật tự tại, nghiệp tự tại, sanh tự tại, nguyện tự tại, tín giải tự tại, thần lực tự tại, trí tự tại và pháp tự tại. Mạng tự tại là tùy ý trụ thế, thọ mạng dài ngắn. Tâm tự tại là nhậm vận xuất nhập thiền định tam-muội. Tài vật tự tại là tùy ý biến hóa vô lượng bảo châu, như giáng trận mưa báu cứu giúp hữu tình. Nghiệp tự tại là tùy các nghiệp của chúng sanh ứng thời thị hiện, thọ các quả báo. Sanh tự tại là tự tại sanh trong các thế giới mà không nhuốm bẩn. Nguyện tự tại là tùy sở nguyện ứng hiện thành đẳng chánh giác, thỏa mãn các nguyện cầu. Tín giải tự tại là thành tựu thắng giải, hiện các sắc thân, diễn thuyết diệu pháp. Thần lực tự tại là thần thông biến hóa, uy lực khó lường, thị hiện biến hóa trong các thế giới. Trí tự tại là đầy đủ trí tuệ, ở trong một niệm hiện 10 lực, 4 vô úy của Như lai, thành đẳng chánh giác. Pháp tự tại là được đại biện tài, ở trong các pháp diễn thuyết vô biên pháp môn.
926. Bốn vô sở úy: chỉ bốn loại trí lực, bốn điều tự tín, không sợ hãi của Phật và bồ tát thể hiện lúc thuyết pháp, còn gọi là Tứ vô uý: 1. Chư pháp hiện đẳng giác vô uý (Nhất thiết trí vô sở uý): đối với tất cả các pháp, Phật đều rõ biết một cách tường tận, do đó, đối với những chúng sanh vì không biết về các pháp mà đặt câu hỏi thì Ngài giải đáp một cách tự tại, không có gì sợ hãi; 2. Lậu vĩnh tận vô uý (Lậu tận vô sở uý): Phật đã dứt sạch hết tất cả mọi phiền não, không có sự sợ hãi từ các nạn bên ngoài; 3. Thuyết chướng pháp vô uý (Thuyết chướng đạo vô sở uý): Phật nói ‘pháp nhiễm ô chắc chắn gây trở ngại sự tu tập’, khi nói như vậy, Phật không hề lo sợ sự bắt bẻ hay gạn hỏi của bất cứ ai; 4. Thuyết xuất đạo vô uý (Thuyết tận khổ đạo vô sở uý): Phật hiển thị con đường thoát ly sanh tử, hiển thị phương pháp tu tập để thoát ly khổ đau mà không sợ hãi điều gì. Tứ vô sở uý của Bồ tát là: 1. Năng trì vô sở uý: Bồ tát lắng nghe, ghi nhớ tất cả các pháp, không bao giờ quên mất, do đó, lúc ở giữa đại chúng thuyết pháp, không có gì sợ hãi; 2. Tri căn vô sở uý: Bồ tát biết tất cả căn cơ, trình độ thông minh hoặc ngu tối của chúng sanh, tuỳ theo đối tượng mà thuyết pháp, không hề sợ hãi; 3. Quyết nghi vô sở uý: Bồ tát giải quyết tất cả mọi nghi ngờ của chúng sanh, đúng như pháp mà trả lời, không có gì sợ hãi; 4. Đáp báo vô sở uý: Tất cả những câu hỏi của chúng sanh, Bồ tát đúng như pháp trả lời tự tại, không có gì sợ hãi.
927. Mười tám pháp bất cộng: Vì không cộng đồng với các hàng Nhị thừa và Bồ tát, nên 18 công đức này chỉ có ở nơi Phật nên gọi là bất cộng: 1. Thân không lầm; 2. Miệng không lầm; 3. Niệm không lầm; 4. Không có tưởng khác; 5. Không có cái gì là không định tâm; 6. Không có cái gì là không biết xả; 7. Lòng mong muốn độ sanh không diệt; 8. Tinh tiến không diệt; 9. Niệm không diệt; 10. Tuệ không diệt; 11. Giải thoát không diệt; 12. Giải thoát tri kiến không diệt; 13. Hết thảy nghiệp thân làm theo trí tuệ; 14. Hết thảy nghiệp khẩu làm theo trí tuệ; 15. Hết thảy nghiệp ý làm theo trí tuệ; 16. Trí tuệ biết được đời quá khứ không bị chướng ngại; 17. Trí tuệ biết được đời vị lai không bị chướng ngại; 18. Trí tuệ biết được đời hiện tại không bị chướng ngại.
928. Như thật trí: trí thấy rõ bản tánh của các pháp, tức trí thấy biết chính xác, như thật tổng tướng và biệt tướng của các pháp, không có quái ngại; là trí biết chắc các pháp chỉ là giả thiết về danh, nghĩa, tự tánh và sai biệt.
929. Theo luận Trí Độ quyển 10 giải thích: “Năm căn này là nền tảng căn bản để phát sanh ra tất cả các thiện pháp, nên gọi là ngũ căn”. Và theo luận Câu xá có ghi: “Đối trong pháp thanh tịnh thì năm căn này có tác dụng tăng thượng. Vì sao vậy? Vì thế lực của chúng có khả năng hàng phục tất cả các thứ phiền não, đưa hành giả đến Thánh đạo.”
930. Thần lực của năm căn có khả năng đối trị năm chướng ngại: 1. Tín lực, là sức mạnh do tín căn sanh ra, có công năng phá hủy tất cả mọi thứ tà tín; Tiến lực, là sức mạnh do tinh ttiến sanh ra, có công năng phá hủy mọi biếng nhác của thân và tinh cần trong việc chỉ ác hành thiện, trong việc thực hành tu tập bốn chánh cần; 3. Niệm lực, là sức mạnh do niệm căn sanh ra, có công năng phá hủy mọi thứ tà niệm và dùng pháp tứ niệm xứ để giữ gìn chánh niệm; 4. Định lực, là sức mạnh do định căn sanh ra, có công năng chống phá các thứ loạn tưởng, bằng vào chuyên tâm thiền định để đoạn trừ các dục phiền não; 5. Tuệ lực, là sức mạnh do tuệ căn sanh ra, có công năng phá hoại các hoặc của ba cõi, bằng vào sự quán ngộ Tứ đế, thành tựu trí tuệ, mà đạt được giải thoát.
931. Thắng oán (hơn kém): chỉ cho “pháp nào thiện, pháp nào bất thiện; pháp nào có tội, pháp nào không tội; pháp nào đáng tu, pháp nào không đáng tu; pháp nào hạ liệt, pháp nào thắng diệu; pháp nào đen, pháp nào trắng; pháp đối địch, pháp duyên sanh.” (A tỳ đạt ma uẩn túc luận 9)
932. Ác hại ở đây là tác ý danh ngôn ở sơ thiền, tầm tư ở nhị thiền, hỷ lạc ở tam thiền, hơi thở ra vào ở tứ thiền, thọ tưởng ở diệt thọ tưởng định, vô tri như sắc chất, đối tượng hóa chân như mà kế đạt. Tất cả đều là ác hại cản trở sự thành tựu vô phân biệt trí.
933. Tạng thần báu là “vị cư sĩ giàu có cùng tột, của cải vô lượng, có nhiều súc vật chăn nuôi; nhà cửa thực ấp đầy đủ mọi thứ, có phước báo nên được thiên nhãn, thấy các kho báu, thấy rõ đầy hay trống, thấy có người thủ hộ hay không có người thủ hộ, thấy rõ mỏ vàng, mỏ bạc, mỏ quặng hay không phải quặng.” (Trung A hàm, phẩm Vương tương ưng, kinh Đại thiên nại lâm, Thích Tuệ Sỹ dịch. Muốn hiểu rõ tác dụng của 7 báu của vua Chuyển luân thánh vương thì xem kinh này).
934. Sở trú của trí vô phân biệt của bồ tát không phải tâm mà là tâm, bởi vì nó không thuộc chủng loại tư lượng (tức ý thức tự ngã). (Nhiếp luận, HT Trí Quang dịch)
935. Không dụng công là nhậm vận tu tập chỉ quán, không cần phải tác ý và dụng công.
936. Tùy chuyển: tùy thuận chuyển y là chuyển bỏ phần tạp nhiễm mà chuyển được phần thanh tịnh.
937. Thành tựu công đức thù thắng là tu tập 6 ba la mật, thành thục tất cả chúng sanh, làm sạch thế giới của Phật và hoàn thành các pháp của Phật. Pháp của Phật là những phẩm chất và thành quả của Phật như 10 lực, 4 vô úy, 18 pháp bất cộng.
938. Tâm tướng: Chỉ cho các ấn tượng nơi tâm, ấn tượng chánh định, dựa vào các pháp ấy mà có. Đó là ấn tượng chấp thọ, lãnh nạp, liễu biệt và nhiễm tịnh của thân, thọ, tâm và pháp của 4 niệm trú. Đó là ấn tượng pháp trong, pháp ngoài và pháp trong ngoài như tự thân, tha thân và cả hai, như căn, cảnh và cả hai v.v… Còn nhiều ấn tượng chánh định mà tùy theo cấp độ chỉ quán có ra và cần được loại trừ.
939. Như kinh Bất đoạn, số 111, Trung bộ kinh: “Ở đây, này các Tỷ kheo, Sariputta (Xá lợi phất) ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú sơ Thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ.” (H.T Thích Minh Châu dịch)
940. Tạp a hàm, kinh Xuất gia, số 964: “Phật bảo Bà sa: Có hai pháp tu tập, tu tập nhiều, đó là chỉ và quán. Tu tập, tu tập nhiều hai pháp này, thì sẽ biết được quả báo của các cõi, hiểu rõ các cõi; biết các thứ cõi, hiểu rõ các thứ cõi. Tỳ kheo như vậy là muốn cầu ly dục, pháp ác bất thiện, ... cho đến thành tựu, trụ đệ Tứ thiền; an trụ từ, bi, hỷ xả, không nhập xứ, thức nhập xứ, vô sở hữu nhập xứ, phi tưởng phi phi tưởng nhập xứ; khiến ba kết của ta diệt tận, đắc Tu đà hoàn. Với ba kết đã tận diệt, tham, nhuế, si mỏng, đắc Tư đà hàm. Với năm hạ phần kết đã diệt tận, đắc A na hàm. Với các thứ cảnh giới thần thông, thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm trí, túc mạng trí, sanh tử trí, lậu tận trí, tất cả đều đạt được. Cho nên Tỳ kheo, nên tu hai pháp, tu tập, tu tập nhiều. Nhờ tu tập hai pháp, nên biết các thứ cõi, ... cho đến lậu tận.” (Thích Đức Thắng dịch)
941. Đại địa, tức thập địa.
942. Tịnh độ là làm sạch thế giới của Phật, tức trang nghiêm tịnh độ.
943. Niết bàn vô trú là chuyển y của Bồ tát. Theo Nhiếp luận, bồ tát chuyển y bằng 6 trạng thái: “Một là chuyển bằng sự bớt sức mạnh thêm khả năng, là do thắng giải lực sống trong đa văn huân tập, lại do có sự hổ thẹn, nên làm cho phiền não chỉ hiện hành một phần ít, còn một phần không hiện hành. Hai là chuyển bằng sự thông đạt, là các vị bồ tát đã nhập đại địa, (từ địa đầu tiên) đến địa thứ sáu, trước mắt chân thật thì hiển hiện, phi chân thật thì không hiển hiện. Ba là chuyển bằng sự tu tập, là (từ địa thứ bảy) đến địa thứ mười, còn có chướng ngại, hữu tướng không hiển hiện mà chân thật thì hiển hiện. Bốn là chuyển bằng sự viên mãn, là vĩnh viễn không còn chướng ngại, hữu tướng không hiển hiện, chân thật tối thanh tịnh thì hiển hiện, đã được tự tại đối với hữu tướng. Năm là chuyển một cách thấp kém, là các vị thanh văn chỉ thông đạt được nhân không vô ngã, một bề chống sanh tử, một bề bỏ sanh tử. Sáu là chuyển một cách rộng lớn, là các vị bồ tát thông đạt cả pháp không vô ngã, chính nơi sanh tử mà thấy là thanh tịnh, dẫu đoạn tạp nhiễm mà không bỏ sanh tử.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
944. Niết bàn vô trú xứ là bỏ tạp nhiễm (phiền não) mà không bỏ sanh tử, nên không trú nơi sanh tử mà cũng không trú nơi niết bàn. Bồ tát chứng đắc trí bình đẳng nên chứng được sanh tử tức niết bàn. “Do vậy, đối với sanh tử không phải xả bỏ không phải không xả bỏ, cũng tức là đối với niết bàn không phải chứng đắc không phải không chứng đắc.” (Nhiếp luận)
945. Tư tâm sở (suy nghĩ) thúc đẩy tâm tạo tác sự suy nghĩ theo hướng thiện, ác hay vô ký. Dục tâm sở (mong muốn) cũng đủ cả thiện tánh, ác tánh và trung tánh (vô ký). Suy nghĩ và mong cầu ngũ dục là ác tánh. Sự ham thích ngũ dục mạnh bao nhiêu làm động lực cho mọi điều ác mạnh bấy nhiêu. Suy nghĩ và mong cầu bồ-đề là thiện tánh. Sự ham thích bồ-đề mạnh bao nhiêu làm động lực cho mọi điều thiện mạnh bấy nhiêu, và đó là nền tảng cho mọi sự phát nguyện, nhất là phát bồ-đề tâm.
946. Theo phẩm Thập địa, kinh Hoa nghiêm, mười đại nguyện sau đây là của bồ tát sắp sửa bước vào Sơ địa, tức bắt đầu dự vào hàng Thánh giả của đại thừa: l. Nguyện cúng dường Phật: “Bằng tất cả mọi vật dụng cúng dường, cung kính cúng dường hết thảy chư Phật”; 2. Nguyện thọ trì chánh pháp: “Nguyện tiếp thọ Pháp luân của hết thảy chư Phật; nguyện nhiếp thọ bồ-đề của hết thảy chư Phật; nguyện thủ hộ giáo của hết thảy chư Phật; nguyện duy trì pháp của hết thảy chư Phật”; 3. Nguyện nhiếp pháp thượng thủ: “Nguyện trong tất cả thế gian, nơi nào có Phật xuất hiện, từ Đâu suất thác sanh, nhập thai, trụ thai, sơ sanh, xuất gia, thành đạo, thuyết pháp, thị hiện niết bàn, tôi thảy đều đi đến nơi đó, thân cận cúng dường, làm bậc thượng thủ trong đại chúng, thọ hành Chánh pháp, vận chuyển khắp trong mọi thời, khắp trong mọi xứ”; 4. Tăng trưởng chúng sanh tâm hành: “Nguyện rằng, tất cả bồ tát hạnh, quảng đại, vô lượng, không hoại, không tạp, nhiếp các ba la mật, tịnh trị các địa, tổng tướng, biệt tướng, dị tướng, thành tướng, hoại tướng, tất cả bồ tát hạnh ấy, tôi đều giảng thuyết như thật, giáo hóa tất cả khiến cho tiếp thọ và hành trì, tâm được tăng trưởng”; 5. Thành tựu chúng sanh: “Nguyện rằng, tất cả chúng sanh giới, sắc hay vô sắc, tưởng hay vô tưởng, phi hữu tưởng phi vô tưởng, loài sanh bằng trứng, bằng thai, bằng ẩm thấp, bằng biến hóa, hệ thuộc ba cõi, ở trong sáu thú, tất cả sanh xứ, được thâu nhiếp trong danh và sắc, các chủng loại như vậy, vân vân, tôi đều giáo hoá đưa vào Phật pháp, để vĩnh viễn đoạn trừ tất cả cõi thú của thế gian cho được an trụ trong Nhất thiết trí đạo”; 6. Nguyện biết rõ thế giới: “Nguyện rằng, hết thảy thế giới, quảng đại, vô lượng, thô hay tế, loạn trụ, hay đảo trụ, hay chánh trụ, hoặc đến, hoặc đi, sai biệt như màng lưới đế thanh minh châu, mười phương vô lượng, đủ loại bất đồng, tôi được thấy rõ bằng trí, hiện tiền thấy biết”; 7. Nguyện tịnh Phật quốc độ: “Nguyện rằng, hết thảy quốc độ, nhập vào một quốc độ, một quốc độ nhập vào hết thảy quốc độ, vô lượng cõi Phật, tất cả tôi đều làm cho thanh tịnh, làm rực sáng bằng các vật dụng để trang nghiêm, xa lìa hết thảy ô nhiễm, thành tựu đạo thanh tịnh, vô lượng chúng sanh có trí tuệ sung mãn ở trong đó, tất cả đều vào cảnh giới bao la của chư Phật, tùy theo tâm chúng sanh mà thị hiện, khiến cho hết thảy đều hoan hỉ”; 8. Nguyện không rời đồng hành: “Nguyện rằng, cùng với tất cả bồ tát đồng một chí hướng và hành động, không thù oán, không ganh tị, tích tụ các thiện căn, với tất cả Bồ tát, cùng một duyên bình đẳng, thường cùng hội họp không rời bỏ nhau, tùy ý có thể hóa hiện đủ các Phật thân, tùy tâm có thể biết cảnh giới uy lực, trí của hết thảy Như lai, được bất thối như ý thần thông, du hành tất cả thế gian, hiện hình trong tất cả chúng hội, vào khắp tất cả chỗ thọ sanh, thành tựu bất tư nghị Đại thừa, tu Bồ tát hạnh”; 9. Nguyện ba nghiệp không cùng tận: “Nguyện nương theo bánh xe không thối lui, thực hành bồ tát hạnh, hành vi của thân, ngữ và ý đều không là những hành vi suông. Nếu chúng sanh nào chợt gặp tôi, mong cho quyết định Phật pháp, bất chợt nghe tiếng nói của tôi, liền được trí tuệ như thật, tịnh tín vừa sanh, tức thì vĩnh viễn đoạn trừ phiền não, được thân hình như gốc cây đại dược vương, được thân hình như như ý bảo, tu hành tất cả Bồ tát hạnh.”; 10. Nguyện thành Bồ-đề: “Nguyện ở trong tất cả thế gian mà thành tựu giác ngộ tối thượng, không rời khỏi khoảng bằng đầu ngọn lông xíu mà thị hiện khắp tất cả mọi nơi, dù nhỏ bằng đầu lông xíu, sơ sanh, xuất gia, bước đến đạo tràng, thành chánh giác, chuyển Pháp luân, nhập niết bàn, chứng đắc cảnh giới Phật, năng lực đại trí tuệ, ở trong mỗi một niệm, tùy tâm của tất cả chúng sanh mà thị hiện thành Phật, khiến cho được tịch diệt, bằng một niệm chánh giác mà biết tất cả pháp giới tức Niết bàn tướng; bằng một âm thanh mà thuyết pháp khiến hết thảy chúng sanh đều sanh tâm hoan hỉ, thị hiện nhập đại Niết bàn mà không đoạn tuyệt bồ tát hạnh; chỉ bày mặt đất đại trí tuệ; đặt vững tất cả pháp; bằng pháp trí thông, thần túc thông, huyễn thông, tự tại biến hóa sung mãn tất cả pháp giới.” (Tuệ Sỹ dịch)
947. Ở trong pháp quán 16 hành tướng của bốn đế thì định này cùng với hai hành tướng không và vô ngã của khổ đế tương ưng với nó, tức là hành giả quán ngã kiến cùng sở kiến của ngã (pháp) đều không. Mười sáu hành tướng của bốn đế là: 1. Vô thường, khổ, không, vô ngã của khổ đế; 2. Nhân, tập, sanh, duyên của tập đế; 3. Diệt, tịnh, diệu, ly của diệt đế; 4. Đạo, như, hành, xuất của đạo đế.
948. Từ bỏ sự chấp thủ năm uẩn bằng cách quán tướng trạng của các pháp là không sai khác, nên hành giả không có những điều gì mong cầu về nó, nên mới cùng với 2 hành tướng khổ và vô thường của khổ đế; 4 hành tướng nhân, tập, sanh, duyên của tập đế; 4 hành tướng đạo, như, hành, xuất của đạo đế; tức là 10 hành tướng tương ưng với định này. Khổ, vô thường cùng với 4 hành tướng của tập đế đều đáng nhờm tởm, lo sợ cho nên hành giả không mong cầu giữ chúng, ngay đến đạo đế như chiếc thuyền mà cũng nên từ bỏ. Định này chỉ là duyên nên nó được gọi là vô nguyện. Hơn nữa các pháp không có gì để cầu mong vui sướng, thì không có gì để tạo tác, nên gọi là vô tác hoặc gọi là vô khởi.
949. Quán ngã và pháp đều không, nên tướng trạng của chúng không sai khác, chúng cùng với 4 hành tướng diệt, tịnh, diệu, ly của diệt đế tương ưng với định. Vì niết bàn lìa 5 trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc; 2 tướng nam, nữ; cùng với 3 tướng hữu vi: sanh, dị, diệt; cộng lại là 10 tướng nên đều gọi là vô tướng. Định này vì duyên vào diệt nên có tên gọi là vô tướng.
950. Theo Đại thừa nghĩa chương 2: Y cứ vào sự thành tựu chung cuộc theo thứ tự gốc ngọn: Không là gốc của các đức, bồ tát trước phải quán nó, nên trước phải rõ không; do thấy được không, nên không thấy sanh tử để tham cầu cho nên nói vô nguyện; vì do chứng được nghĩa không, không thấy sanh tử, nên liền cùng với niết bàn vô tướng tương ưng, cho nên lần thứ ba tuyên nói vô tướng.
951. Chỗ dựa của hai ngã chấp: là thức mạt-na tự ý thức a-lại-da làm tự ngã, và từ đó mà tự ngã hóa nhận thức (ngã) và đối tượng hóa nhận thức (pháp). Ý thức tự ngã mà còn thì tâm thức nhiễm ô, ý thức tự ngã mà mất thì tâm thức thanh tịnh.
952. Ưu-đà-na (Udana, nghĩa là tự thuyết) những bài kinh mà Phật tự nói chứ không có ai hỏi được. Ở đây, bốn pháp do đức Phật tự nói là bốn pháp ấn: các hành vô thường, các hành đều khổ, các pháp vô ngã và niết bàn tịch diệt. Kinh Phật thuyết pháp ấn, đại tạng kinh số 104, có ghi: “Một thời đức Phật ở nước Xá Vệ cùng với chúng đại tỳ kheo. Bấy giờ, đức Phật nói với đại chúng: Có pháp ấn mầu nhiệm, hôm nay Như lai muốn phân biệt, giảng nói cho các ông nghe. Các ông hãy đem tri kiến thanh tịnh ra để nghe nhận cho thấu đáo, khéo léo tác ý để ghi nhớ và suy nghĩ. Các vị tỳ kheo bạch với đức Phật: Hay quá, thưa đức Thế Tôn, xin đức Thế tôn chỉ dạy cho, chúng con vui thích được nghe.”
953. Phân biệt tướng, hay phân biệt tánh tướng, hay biến kế tánh tướng, hay biến kế chấp tướng. Tướng (sắc thái) cũng gọi là tánh (tính cách). Nhiếp luận định nghĩa: Biến kế chấp tướng là gì? Là nơi sự không thật, duy thức, mà biểu hiện như là thật có.
954. Ở đây ý thức bao gồm cả thức mạt-na. Như Nhiếp luận đề cập: “Ở đây năng biến kế là gì? sở biến kế là gì? cái gì là tự tánh của biến kế? Nên nhận thức rằng ý thức (: ý và ý thức) là năng biến kế, vì nó là chủ thể phân biệt - Tại sao, vì nó lấy sự danh ngôn huân tập của bản thân nó mà làm chủng tử, lại lấy sự danh ngôn huân tập của tất cả 11 thức khác mà làm chủng tử, nên ý thức có vô số cái biết và vô số sự phân biệt sanh ra, nó phân biệt kế đạt khắp cả toàn thể, nên gọi là biến kế.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
955. Phân biệt không chân, tức phân biệt hư vọng: Sự phân biệt không chính xác.
956. Phân biệt hư vọng được biểu hiện qua tâm và tâm sở thuộc ba cõi. Nói cách khác, tâm và tâm sở thuộc ba cõi đều là phân biệt hư vọng.
957. Tướng y tha là do chủng tử a-lại-da phát sanh, là biểu hiện của phân biệt hư vọng, là căn cứ của sự không thật.
958. Tướng chân thật, hay tướng viên thành. Viên thành là nơi y tha mà không còn biến kế ngã pháp (ấn tượng như là thật có vĩnh viễn không còn).
959. Sát-na sát-na hoại, hay niệm niệm hoại diệt, sát-na hoại diệt: sự liên tục của tâm thức thì hủy diệt trong từng đơn vị thời gian.
960. Các hành: chỉ cho các pháp hữu vi. Đặc tính của các pháp ấy là diễn biến trong thời gian, nên gọi là các hành.
961. Kinh Duy Ma: “Tâm vô ngại bồ tát nói, thân với thân diệt là hai, nhưng thân là thân diệt, tại sao, vì thấy thật tánh của thân thì không nổi lên sự thấy thân và sự thấy thân diệt, thân với thân diệt là bất nhị, bất phân biệt, trong đó không kinh không sợ, ấy là nhập vào pháp môn bất nhị.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
962. Tính chất của sắt là khi bị lửa nung nóng thì tự biến thành đỏ. Lửa nung kim loại khác thì không có hiện tượng như vậy, thí dụ như lửa đốt đồng hay chì.
963. Hữu vi tướng: Theo Tăng chi bộ kinh, có ba tướng (dấu hiệu hay đặc tính) của hữu vi: “Này các tỳ kheo, đây là ba tướng hữu vi của hữu vi. Những gì là ba? Sự sanh khởi (sanh) được biết, sự hủy hoại (diệt) được biết và sự biến đổi trong khi đang tồn tại (trụ) cũng được biết.” Luận Câu xá cũng ghi: “Có bốn đặc tính hữu vi của hữu vi: sanh, trụ, lão, vô thường.”
964. Tùy chuyển: Chuyển biến không gián đoạn. Tương tự: Vì các pháp chuyển biến trong từng sát-na nên thấy tương tự, tưởng rằng như không thay đổi, kỳ thật là các pháp thay đổi, chuyển động trong từng đơn vị thời gian.
965. Chánh văn là nội ngoại pháp thể (tiền, trung) hậu biên bất khả đắc. Nội ngoại pháp: Pháp ở trong là thọ, tưởng, hành và thức uẩn. Pháp ở ngoài là sắc uẩn. Tiền trung hậu biên là biên tế thời gian ở quá khứ, hiện tại và vị lai. Kinh Đại Bát-nhã ba la mật đa, quyển 539, phẩm Đế thích nói về vô biên như sau: “Kiều Thi Ca! Vì sao tất cả pháp là vô biên cho nên biết Bát-nhã Ba la mật đa cũng vô biên? Nghĩa là biên tế của tất cả pháp thì bất khả đắc. Vì sao? Vì biên tế trước, giữa và sau của tất cả sắc đều bất khả đắc. Biên tế trước, giữa và sau của tất cả thọ, tưởng, hành, thức đều bất khả đắc. Do biên tế trước, giữa và sau của Bát-nhã ba la mật đa cũng bất khả đắc, cho nên Như lai nói tất cả pháp là vô biên cho nên biết Bát-nhã ba la mật đa cũng vô biên.”
966. Nghĩa là: nhân vô thường là tâm, sanh khởi quả vô thường là các hành.
967. Trung A hàm, phẩm Tâm, Kinh Tâm, số 172: “Khi ấy, vào lúc xế chiều, tỳ kheo ấy từ thiền tọa dậy, đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ chân Phật rồi ngồi xuống một bên, bạch rằng: “Bạch Thế Tôn, hôm nay con một mình ở một nơi yên tĩnh, thiền tọa tư duy, tâm khởi ý niệm ‘Cái gì dẫn thế gian đi? Cái gì làm nhiễm trước? Cái gì khởi tự tại?’”. Đức Thế Tôn nghe xong, khen ngợi: “Lành thay, lành thay, tỳ kheo, là con đường hiền thiện lại được quán sát hiền thiện, là biện tài tinh diệu với tư duy khéo léo rằng ‘Cái gì dẫn thế gian đi? Cái gì làm nhiễm trước? Cái gì khởi tự tại?’ Này tỳ kheo, câu hỏi của ngươi là như vậy chăng?” Thầy tỳ kheo ấy đáp: “Bạch Thế Tôn, đúng vậy”. Đức Thế Tôn nói: “Này tỳ kheo, tâm dẫn thế gian đi, tâm làm nhiễm trước, tâm khởi tự tại. Này tỳ kheo, chính nó dẫn thế gian đi, chính nó làm nhiễm trước và cũng chính nó khởi tự tại. Này tỳ kheo, Đa văn Thánh đệ tử không để tâm dẫn đi, không để tâm nhiễm trước, không để tâm tự tại. Này tỳ kheo, Đa văn Thánh đệ tử không vâng theo sự tự tại của tâm, mà tâm tùy theo tự tại của Đa văn Thánh đệ tử.” (Thích Tuệ Sỹ dịch). Tương ưng bộ kinh, phẩm Thắng (SN. I, 39), mục Tâm: “Vật gì dắt dẫn đời?/ Vật gì tự não hại?/ Và có một pháp nào,/ Mọi vật đều tùy thuộc? Chính tâm dắt dẫn đời,/ Chính tâm tự não hại,/ Chính tâm là một pháp,/ Mọi vật đều tùy thuộc.” (H.T Thích Minh Châu dịch)
968. Tương ưng bộ kinh, thiên Nhân duyên, chương Tương ưng nhân duyên, phẩm Phật đà, Tỳ bà thi (SN II, 6).
969. Tạp A hàm, kinh Khô Thọ, số 493: “Tôi nghe như vầy: Một thời, Phật ở tại vườn trúc Ca lan đà trong thành Vương xá. Bấy giờ Tôn giả Xá lợi phất đang ở trong núi Kỳ xà quật. Bấy giờ, sáng sớm, Tôn giả đắp y mang bát ra khỏi núi, vào thành Vương xá khất thực, thấy bên lề đường một cây đại thọ khô liền đến bên cây này trải tọa cụ ngồi ngay thẳng, và nói với các Tỳ kheo: “Tỳ kheo tu tập thiền tứ, đạt được thần thông, tâm được tự tại, muốn biến cây khô này thành đất, nó sẽ thành đất liền. Vì sao? Vì trong cây khô này có địa giới. Cho nên Tỳ kheo có sức thần thông, tâm muốn tạo ra đất, tức thì thành đất không khác. Nếu có Tỳ kheo nào đạt được sức thần thông, tự tại như ý, mà muốn khiến cây này thành nước, lửa, gió, vàng, bạc v.v… tất cả đều thành tựu không khác. Vì sao? Vì cây khô này có thủy giới. Cho nên, Tỳ kheo thiền tứ, được sức thần thông, tự tại như ý; nếu muốn khiến cây khô này thành vàng, tức thì thành vàng không khác, và những vật khác cũng đều thành tựu như vậy. Vì sao? Vì cây khô này có các giới. Cho nên, Tỳ kheo thiền tứ, được sức thần thông, tự tại như ý, nến muốn làm thành các vật khác thì cũng đều thành tựu không khác. Tỳ kheo nên biết, khi Tỳ kheo thiền tứ, cảnh giới thần thông không thể nghĩ bàn. Cho nên, Tỳ kheo phải tinh cần thiền tứ, học các thần thông.” Tôn giả Xá lợi phất nói kinh này xong, các Tỳ kheo sau khi nghe những gì Tôn giả dạy, hoan hỷ phụng hành.” (Thích Tuệ Sỹ dịch)
970. Chư hành thuộc nội pháp: chỉ cho tâm, tâm sở và sắc trong nội thân, tức thân tâm. Chư hành thuộc ngoại pháp: chỉ cho các hành phi tâm sở, tương ưng hành không tương ưng tâm, sáu ngoại xứ và vô biểu sắc, tức thế giới của thân tâm.
971. Tương tục là sự nối kết thành một quá trình liên tục.
972. Trưởng dưỡng, tức là tăng trưởng: Luận Câu xá: “Sở trưởng dưỡng là những cái được tích lũy từ thực phẩm, từ sự trang sức, từ ngủ nghỉ, từ định. Có vị nói, do bởi phạn hạnh. Nhưng phạn hạnh chỉ là sự không gây tổn hại chứ không phải do bởi đó mà có sự tích lũy. Tính liên tục của sở trưởng dưỡng bảo vệ tính liên tục của dị thục, như sự bảo vệ của thành trì ngoại vi.” Tạp A-tì-đàm tâm luận: “Vì được trưởng dưỡng bởi phạn hạnh, chánh thọ.“
973. Luận Câu xá: “Nhiễm tức phiền não nhiễm ô. Căn cứ vào thứ lớp sanh khởi phiền não nhiễm ô này mà lập ra năm uẩn. Từ vô thỉ đến nay, kẻ nam người nữ yêu thương lẫn nhau đầu tiên là do các hiển hình sắc như nhan sắc, dung mạo; đối với các hiển hình sắc đó mà phát sanh sự ái lạc. Do mong cầu ái lạc, phát sanh đắm trước lạc thọ. Lại nữa, ý tưởng điên đảo của mỗi người sanh khởi là do nghiệp phiền não (nghiệp phiền não được xếp vào hành uẩn), và nghiệp phiền não thì lại lấy thức làm chỗ nương tựa. Do đó nên có thứ tự của sắc, thọ, tưởng, hành và thức.” (Thích Tuệ Sỹ dịch)
974. Trời Hóa lạc và trời Tha hóa tự tại.
975. Sắc giới gồm có: 1. Sơ thiền: trời Phạm thân, trời Phạm phụ, trời Đại phạm, trời Phạm chúng; 2. Nhị thiền: trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Cực quang tịnh (Quang âm); 3. Tam thiền: trời Thiểu tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Biến tịnh; 4. Tứ thiền: trời Vô vân, trời Phước sanh, trời Quảng quả, trời Vô tưởng, trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện kiến, trời Sắc cứu cánh, trời Hoà âm, trời Đại tự tại. Vô sắc giới gồm có: Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
976. Tối hậu ngũ uẩn: Là cách nói khác của căn biên uẩn, nghĩa là ngũ uẩn theo nghĩa thông thường, tức sanh lão bịnh tử nơi thân ngũ uẩn (nhất kỳ vô thường). Năm uẩn là năm nhóm hay năm nguyên tố tạo thành chúng sanh trong ba cõi. Năm uẩn này tan rã, thúc đẩy sự phát sanh của năm uẩn khác, như từng con sóng xô nhau ngoài đại dương, tạo thành ảo ảnh về một tự ngã thường hằng tồn tại bên dưới hay bên trong tất cả những vô thường biến đổi ấy. Ngoài các uẩn sanh diệt vô thường này không tồn tại thực tại tối hậu thưòng hằng vĩnh cửu nào khác
977. Quả vị A la hán được gọi là Thánh vô học hay vô lậu, là quả vị đã đoạn tận tham ái, chấp thủ và vô minh, hoàn toàn thoát ly sanh tử (ba cõi).
978. Du già sư địa luận: “Không phải phân chẻ các hành để có một thật vật gọi là chủng tử. Cũng không phải tìm nơi nào khác (ngoài các hành) ... Cũng như thóc lúa các thứ có chứa chủng tử của cành lá. Đập, giã, nghiền nát (thóc lúa) vẫn không tìm thấy chủng tử; nhưng cũng không phải tìm thấy nó ở đâu khác (ngoài các hạt thóc lúa ấy).” Nhiếp luận thích: “Như hạt đại mạch có công năng nảy mầm nên có tính chủng tử. Nếu vì lâu ngày hay do ảnh hưởng lửa mà công năng ấy bị hỏng; bấy giờ hình tướng của hạt đại mạch tuy vẫn như cũ nhưng nó không có tính chủng tử nữa.”
979. Ảnh tượng sanh khởi trong định, tuy nhiên người tu tập thiền định tách rời tác ý và phân biệt mọi hiện tượng xác lập đó.
980. Hữu: Ba cõi đều gọi là hữu, vì đều là cảnh giới sanh tử liên tục, có nhân có quả mà có ra.
981. Không có biến khác thì làm sao thân người khác với thân ngạ quỷ.
982. Trong tâm người sắp lâm chung có ba loại tâm hay thức làm nhiệm vụ vào sát-na tử: thức tục sanh, dòng tâm thụ động hay dòng thức hữu phần, và tử tâm hay thức tách rời kiếp sống hiện tại. Vào sát-na cuối cùng của kiếp hiện tại, tâm tục sanh hay kiết sanh thức khởi lên, lấy một trong ba tướng (nghiệp, nghiệp tướng, và thú tướng) làm đối tượng của nó. Tâm tục sanh tồn tại trong tiến trình nhận thức chỉ năm sát-na tốc hành (thay vì bảy như bình thường) và rồi chìm vào dòng hữu phần. Cuối dòng hữu phần tâm tử phát sanh, tách rời kiếp hiện tại và chìm lại vào hữu phần. Ngay sát-na tử tâm này kiếp hiện tại chấm dứt. Cuối sát-na hữu phần ấy, tâm tục sanh khác sanh lên trong kiếp kế và ngay từ sát-na này đời sống mới bắt đầu. Đây là tiến trình của sự chết và tái sanh theo đạo Phật. (Nghiệp là gì? K.Sri Dhammananda, Pháp Thông dịch)
983. Bốn đại, hay bốn đại chủng: Vì châu biến toàn thể sắc pháp (đại) và năng tạo sắc pháp ấy (chủng), nghĩa là cơ thể và vũ trụ vật lý đều là đại chủng. Bốn đại chủng có 2 loại: 1. Bốn đại chủng giả, là đất nước lửa gió theo nghĩa thông thường, và thứ nào cũng do 4 đại chủng thật và sắc hương vị xúc của chúng mà có; 2. Bốn đại chủng thật, là thể cứng (kiên tánh), thể lỏng (thấp tánh), sức nóng (noãn tánh) và sức động (động tánh); ngài Thái Hư gọi là cố thể, dịch thể, nhiệt lực và động lực. Luận Ngũ uẩn: “Bốn đại chủng là gì? Là địa giới, thuỷ giới, hoả giới và phong giới. Địa giới là gì? Là thành tố cứng rắn, mềm mại. Thuỷ giới là gì? Là thành tố ẩm ướt và liên tục kết dính. Hoả giới là gì? Là thành tố nhiệt độ như nóng, lạnh.... Phong giới là gì? Là thành tố nhẹ, vừa và lưu chuyển.”
984. Chánh văn là tứ đại cập lục chủng tạo sắc, ngờ là tứ đại cập đại chủng tạo sắc, vì chữ đại với chữ lục gần giống nhau. Đại chủng tạo sắc hay tứ đại chủng sở tạo sắc là vật chất hay sắc pháp được tạo thành bởi tứ đại chủng. Luận Ngũ uẩn: “Các sắc do bốn đại chủng tạo thành là gì? Đó là nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn, sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần và một phần của xúc trần và vô biểu sắc.”
985. Dừng trú không phải tánh chất của gió. Tánh chất của gió là sức động hay động lực.
986. Đất được nêu ở đây được hiểu là đất mà trên đó có sự sống. Nước là yếu tố quan trọng bậc nhất để giúp duy trì sự sống. Chu trình thay đổi hơi nước trong khí quyển và sự trao đổi qua lại giữa hai bán cầu nhờ gió tạo nên thời tiết và chuyển hóa lớp đất trên bề mặt địa cầu.
987. Bề mặt của trái đất liên tục tự thay đổi theo thời gian dưới tác dụng của các quá trình kiến tạo và xói mòn. Các hình thái của bề mặt được tạo nên và biến dạng bởi các mảng kiến tạo liên tục bị phong hóa bởi giáng thủy, các chu trình nhiệt và các tác nhân hóa học.
988. Thành thật luận được biên soạn bởi ngài Ha-lê-bạt-ma, và được ngài Cưu-ma-la-thập dịch từ Phạn ngữ sang Hán ngữ. Nhằm vào học thuyết hữu bộ, luận này đưa ra sắc ấm một định nghĩa khá mới mẻ. Trong phẩm Sắc tướng, thứ 36, có nói: “Sắc ấm là tứ đại và tứ đại sở nhân thành pháp, cũng vì tứ đại sở thành pháp, gọi chung là sắc. Tứ đại là đất, nước, lửa và gió. Vì sắc, hương, vị và xúc, cho nên thành tứ đại. Vì vậy, tứ đại tạo nên ngũ căn như nhãn căn,…” (Sắc ấm giả. Vị tứ đại cập tứ đại sở nhân thành pháp. Diệc nhân tứ đại sở thành pháp. Tổng danh vị sắc. Tứ đại giả. Địa thủy hỏa phong. Nhân sắc hương vị xúc cố. Thành tứ đại. Nhân thử tứ đại thành nhãn đẳng ngũ căn). Tứ đại và nhân tứ đại sở thành pháp là một quan điểm lâu đời trong truyền thống Phật giáo, nhưng “tứ đại sở nhân thành pháp” chính là thuyết mới của ngài Ha-lê-bạt-ma. Ông cho rằng, tứ đại không phải là cái nhân sau cùng của sắc thân hay thế giới vật chất, bởi vì tứ đại cũng là kết quả của nhiều yếu tố, vẫn còn tồn tại nhân sau cùng hình thành tứ đại. Những cái cụ thể này chính là bốn loại đặc trưng của sự vật khách quan (ngoại cảnh) gồm sắc, hương, vị và xúc. Sắc ở đây là chỉ cho nhãn thức sở duyên; hương, vị và xúc thì phân biệt với các đối tượng cảm giác là tỷ, thiệt và thân. Sắc tạo nên 6 giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) và đối tượng của chúng (sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp). Tuy nhiên, có thể làm nhân cho tứ đại, chỉ có tứ trần (sắc, hương, vị và xúc). Ở đây, không tính đến thanh trần, bởi vì giữa vật với vật tiếp xúc nhau, mới có thể phát ra âm thanh, nó đặc biệt không có tính tồn tại độc lập của chính nó. Xem ra, bản tính của nó là không thực hữu, chính vì vậy, ở đây không liệt nó vào nguyên nhân tối hậu tạo nên vạn pháp. Như vậy tứ đại chủng thật thuộc về xúc xứ và thân căn, nghĩa là chỉ xúc giác của thân mới biết cứng, lỏng, nóng và động mà thôi. Khác với tứ đại chủng giả, chúng không phải là đối tượng của xúc giác. Thành thật luận nói hết thảy pháp hình chất đều do tứ đại hòa hợp.
989. Pháp nhập sắc, tức Pháp xứ qui vào sắc. Xá lợi phất A tỳ đàm luận (ĐTK 1548), quyển 3: “Thế nào là sắc ấm? Là mười sắc nhập và pháp nhập sắc … Thế nào là mười sắc nhập? Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân nhập và sắc, thanh, hương, vị, xúc nhập, đó gọi là mười sắc nhập. Thế nào là pháp nhập sắc? Những phi giới vô giáo của thân và khẩu, những giới vô giáo hữu lậu của thân và khẩu, thân tiến hữu lậu, thân trừ hữu lậu, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh thân tiến, chánh thân trừ, đó gọi là pháp nhập sắc.” Tuy luận này không dùng thuật ngữ vô biểu sắc nhưng rõ ràng đã đề cập đến loại này, hay nói rõ hơn, luận này đã xác định một phần nhỏ của pháp xứ có tính chất vô kiến vô đối, đó cũng chính là vô biểu sắc. Vô biểu là cái không biểu hiện ra ngoài thành các hình dạng để có thể nhận biết được, nó là phần bảo tồn lại sau khi các biểu hiện của thân và khẩu được thực hiện. Nó tiềm tàng trong ta và có một năng lực nhất định và sẽ phát huy tác dụng khi đủ nhân duyên.
990. Giới sư khi khai thị cho giới tử luôn luôn khích lệ: “Nên phát tâm thượng phẩm, cầu được giới thượng phẩm.” Phát tâm có ba phẩm vị là thượng, trung và hạ. Thứ nhất, phát tâm hạ phẩm, tức ngay lúc thọ giới, trí huệ mờ mịt, hạ liệt, thệ nguyện không rộng, hoặc tâm tán loạn, duyên cảnh không chu toàn. Tuy thọ trì giới tướng, nhưng không thể phát khởi công dụng của giới thể, tức phát tâm hạ phẩm, tức chỉ được giới thể hạ phẩm. Thứ hai, phát tâm trung phẩm, tức ngay khi thọ giới, tâm duyên đến tất cả cảnh giới tình cùng vô tình. Song, tại những cảnh duyên này, có phát khởi phần đoạn các việc ác, phần tu các việc thiện, lại chỉ muốn tự giải thoát sanh tử, mà hoàn toàn không có thệ nguyện độ khắp chúng sanh, tức phát tâm trung phẩm, tức đắc giới thể bậc trung. Thứ ba, phát tâm thượng phẩm, tức ngay nơi thọ giới, tâm tâm tương tục, thấy cảnh sáng trong thanh tịnh, duyên đến tất cả cảnh giới hữu tình lẫn vô tình. Ngay nơi cảnh duyên này, có thể quyết định phát đại thệ nguyện, tức nguyện đoạn tất cả ác, nguyện tu tất cả thiện, nguyện độ tất cả chúng sanh. Đó là phát tâm bậc thượng, tức đắc giới thể bậc thượng. Vì vậy, nếu muốn đắc được giới thể thượng phẩm, phải nên phát tâm thượng phẩm.
991. Ngọn đèn là thí dụ cho thức uẩn. Trong bài kệ quán chiếu về tính chất vô thường của các pháp hữu vi nơi kinh Kim Cang Bát-nhã, bản Phạn, ghi ra 9 thí dụ: tinh tú, mắt bệnh, ngọn đèn, huyễn thuật, sương mai, bọt nước, chiêm bao, điện chớp, vầng mây. Bản Hán, do ngài Cưu ma la thập dịch, thì chỉ có 6 thí dụ: Hết thảy pháp hữu vi/ Như chiêm bao, huyễn thuật/ Như bọt nước, ảo ảnh/ Như suơng mai, điện chớp/ Hãy quán chiếu như vậy.
992. Có giác trí chứng mới biết các pháp không thật. Luận Đại trí độ, quyển 20: “Biết là vô ngã, ngã sở; tại sao chúng sanh đối với các pháp sanh tâm ưa đắm? Hành giả suy nghĩ rằng: Các pháp do nhân duyên sanh, không có pháp thật, chỉ có tướng; các chúng sanh thủ lấy tướng ấy chấp là ngã, ngã sở. Nay ta hãy quán tướng ấy là có thể có thật hay chăng? Quán xét kỹ càng đều thấy không thể có được. Hoặc tướng nam, tướng nữ, tướng nhất, dị v.v... các tướng ấy thật sự đều không thể có, vì cớ sao? Vì các pháp vô ngã, ngã sở cho nên không; không cho nên không có pháp nam, nữ, nhất dị. Trong ngã, ngã sở có danh tự là nhất, là dị. Vì thế pháp nam, nữ, nhất, dị thật sự không thể có được.” (H.T Thích Thiện Siêu dịch)
993. Tức nói con người có khả năng chứng ngộ giác trí. Đức Phật cũng xác nhận như vậy. Có khả năng nhưng chưa chứng ngộ, nên nói còn nhận thức điên đảo.
994. Kinh Đại bát niết bàn, phẩm Như lai tánh: “Ngài Ca Diếp bạch đức Phật rằng: Thưa đức Thế Tôn! Hai mươi lăm cõi Hữu có ngã không vậy? Đức Phật dạy rằng: Này thiện nam tử! Ngã tức là nghĩa của Như Lai tạng. Tất cả chúng sanh đều có Phật tính, tức là nghĩa của ngã. Như vậy nghĩa của ngã từ xưa đến nay thường bị sự che phủ bởi vô lượng phiền não, cho nên chúng sanh chẳng thể thấy được.”
995. Kế ngã: phân biệt chấp ngã. Kế ngã có 2: ngay thân chấp ngã và lìa thân chấp ngã. Ngay thân chấp ngã có 4 thứ: 1, Chấp thân là thật ngã (sắc, tâm là thật); 2. Chấp tứ đại; 3. Chấp năm ấm; 4. Chấp mười hai nhập. Lìa thân chấp ngã là như ngoại đạo chấp “trong thân riêng có thần ngã.”
996. Chỉ ký luận: Đức Phật dùng 4 thứ ký luận vì chúng sanh thuyết pháp: Nhất hướng là đáp thẳng, phân biệt là đáp rành rẽ, cật vấn là đáp bằng cách vấn nạn lại và chỉ luận là đáp bằng cách gác lại. Tạp A tỳ đàm tâm luận, quyển 1: “1. Nhất hướng ký luận: Có người hỏi, có phải tất cả chúng sanh, ai rồi cũng phải chết? Nên trả lời một hướng, tất cả chúng sanh, ai rồi cũng phải chết; 2. Phân biệt ký luận: có người hỏi, tất cả đều sẽ chết, chết rồi sanh lại không? Nên trả lời bằng sự phân biệt, nếu người có phiền não thì chết rồi lại sanh, người không còn phiền não thì chết rồi không sanh nữa; 3. Cật vấn ký luận: có người hỏi, con người là thù thắng chăng? Trả lời bằng cách hỏi lại, ông từ cõi nào đến đây, nếu người ấy nói, từ cõi trời đến, thì trả lời con người là xấu kém, nếu người ấy nói, từ nẻo ác đến đây, thì trả lời con người là thù thắng; 4. Chỉ ký luận: có người hỏi, ấm và chúng sanh là dị hay đồng, nên gác lại câu trả lời, vì câu hỏi không thích ứng; giống như câu hỏi, đứa con của thạch nữ có khéo cung kính chăng? Thạch nữ không có con nên không thể trả lời là khéo cung kính hay không khéo cung kính được. Như vậy, có ấm thì có chúng sanh sanh, làm sao có đồng hay dị, vì không thích ứng nên không trả lời.”
997. Trung bộ kinh, kinh Giáo giới Phú lâu na, số 145: “Này Punna, có những sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu tỳ kheo hoan hỷ tán thưởng, chấp thủ và an trú trong ấy, thời do hoan hỷ tán thưởng, chấp thủ và an trú, dục hỷ sanh; và này Punna, Ta nói rằng, từ sự tập khởi của dục hỷ, là sự tập khởi của khổ. Này Punna, có những tiếng do tai nhận thức; có những hương do mũi nhận thức; có những vị do lưỡi nhận thức; có những cảm xúc do thân nhận thức; có những pháp do ý nhận thức; khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu tỳ kheo hoan hỷ, tán thưởng, chấp thủ và an trú trong ấy, thời do hoan hỷ, tán thưởng, chấp thủ và an trú tham đắm, dục hỷ sanh; và này Punna. Ta nói rằng, từ sự tập khởi của dục hỷ, là sự tập khởi của khổ.” (H.T Thích Minh Châu dịch)
998. Năm căn do phần vật chất tinh tế (tịnh sắc) cấu tạo thành, gọi là tịnh sắc căn. Tịnh sắc (淨色, rūpaprasāda): tính chất minh tịnh, trong suốt của vật chất.
999. Ngoại đạo chủ trương tự thể của ngã là thường hằng, mà thường hằng thì không thể chuyển động, như vậy không thể tùy theo thân tạo tác các nghiệp. Luận Thành duy thức: “Thể của ngã được quan niệm là thực hữu ấy có tác dụng, hay không có tác dụng? 1. Nếu có tác dụng, thì như tay hay chân (tay với tác dụng chuyển biến, chân với tác dụng hoại diệt), phải là vô thường; 2. Nếu không có tác dụng, như sừng thỏ, tất không phải là thực ngã. Do đó, hai quan niệm về ngã này đều bất thành.” (Thích Tuệ Sỹ dịch)
1000. Luận sư Pháp Xứng (Dharmakīrti), một trong những luận sư quan trọng nhất của triết học đạo Phật, đại điện quan điểm của Duy thức tông và Nhân minh học, sống trong thế kỷ thứ 7 (~ 600-650) tại Nam Ấn Độ và là môn đệ của Hộ Pháp tại Na lan đà, nói rằng: “Cái gì thực hữu, cái đó có tác dụng. Cái gì có tác dụng, cái đó thực hữu.” Thực hữu ở đây chỉ là biểu hiện như thật có, là nơi tánh y tha mà chấp ngã pháp thật có. Như Du già sư địa luận nói: “Lại nữa, hết thảy pháp hoàn toàn không tác dụng. Không có một pháp nào sanh một pháp nào, do đó nói: cái này hữu nên cái kia hữu ... Đây chỉ ở trong pháp nhân quả, y trên thế tục đế mà giả lập tác dụng, tuyên thuyết rằng pháp này (làm) sanh (khởi) pháp kia.”
1001. Phật thuyết Thánh pháp ấn kinh, ĐTK 103, do Trúc Pháp Hộ dịch. Phật thuyết pháp ấn kinh, ĐTK 104, do Thi Hộ dịch. Tạp A Hàm, ĐTK 99, kinh thứ 80, Cầu Na Bạt Đà La dịch. Trong kinh tạng Pali, là kinh số 43 của Trung bộ kinh.
1002. Tất cả pháp có năm món: 1. Tâm pháp (8); 2. Tâm sở hữu pháp (51); 3. Sắc pháp (11); 4. Tâm bất tương ưng hành pháp (24); 5. Vô vi pháp (6). Tổng cộng tất cả là 100 pháp. Vô ngã gồm có nhân vô ngã và pháp vô ngã.
1003. Chân thật không kinh, tức Thắng nghĩa không kinh (Đệ nhất nghĩa không kinh), kinh số 335 của Tạp a hàm: “Thế nào là kinh Đệ nhất nghĩa không? Này các tỳ kheo, khi mắt sanh thì nó không có chỗ đến; lúc diệt thì nó không có chỗ đi. Như vậy mắt chẳng thật sanh, sanh rồi diệt mất; có nghiệp báo mà không tác giả. Ấm này diệt rồi, ấm khác tương tục, trừ pháp tục số (: pháp nói theo tục đế). Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng nói như vậy, trừ pháp tục số. Pháp tục số, tức là nói, cái này có thì cái kia có, cái này khởi thì cái kia khởi, như vô minh duyên hành, hành duyên thức, nói chi tiết đầy đủ cho đến thuần một khối khổ lớn tập khởi. Lại nữa, cái này không thì cái kia không, cái này diệt thì cái kia diệt, vô minh diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt. Như vậy, nói rộng cho đến thuần một khối khổ lớn tụ diệt. Này các tỳ kheo, đó gọi là kinh Đệ nhất nghĩa không.” (Thích Đức Thắng dịch)
1004. Kinh Tăng ngũ được nhắc đến trong Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ tỳ nại da, do Nghĩa Tịnh dịch: “Hoặc là muốn tụng Đại kinh, hay đang tụng Đại kinh, tức là kinh Tiểu không Đại không, kinh Tăng ngũ, Tăng tam, kinh Huyền võng, kinh Ảnh Thắng vương, kinh Nghinh Phật, kinh Thắng Phan.”
1005. Kiến xứ: Nhận thức sai lầm, có 6 kiến xứ: Chấp thủ năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức là của ta, là ta, là tự ngã của ta (ngã kiến), và kiến xứ thứ sáu (mạng giả kiến): “Đây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết, ta sẽ sống, thường hằng, thường tại, sống như vậy mãi mãi không có biến hoại” (kinh Xà dụ, số 22, Trung bộ kinh)
1006. Thánh pháp: Thánh pháp là bốn niệm xứ, như kinh Cam lộ, Tạp a hàm ghi: “Nếu tỳ kheo nào lìa bốn niệm xứ, là lìa Thánh pháp như thật. Người nào lìa Thánh pháp như thật, là sẽ lìa Thánh đạo. Ai lìa Thánh đạo, là lìa pháp cam lộ. Người nào lìa pháp cam lộ, là không thoát khỏi sanh, lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não. Ta nói người này không thoát được khổ.” Tăng chi bộ kinh cũng nói đến phi Thánh pháp như sau: “Này các tỳ kheo, thế nào là phi Thánh pháp? - Tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định, tà giải thoát, tà tri kiến giải thoát gọi là phi Thánh pháp”. Ngược lại mười phi Thánh pháp kể trên gọi là Thánh pháp.
1007. Tương ưng bộ kinh, chương Tương ưng uẩn, phẩm Gánh nặng, mục Liễu tri: “Và này các Tỳ kheo, thế nào là các pháp cần phải liễu tri? Sắc, này các tỳ kheo, là pháp cần phải liễu tri, thọ là pháp cần phải liễu tri, tưởng là pháp cần phải liễu tri, các hành là pháp cần phải liễu tri, thức là pháp cần phải liễu tri. Những pháp này, này các tỳ kheo, là những pháp cần phải liễu tri. Và này các tỳ kheo, thế nào là liễu tri? Này các tỳ kheo, sự đoạn tận tham, sự đoạn tận sân, sự đoạn tận si, này các tỳ kheo, được gọi là liễu tri.”
1008. Tương ưng bộ kinh, chương Tương ưng uẩn, phẩm Gánh nặng, mục Gánh nặng: “Và này các tỳ kheo, thế nào là kẻ mang gánh nặng? Người là câu trả lời. Vị Tôn giả này có tên như thế này, dòng họ như thế này. Này các tỳ kheo, đây gọi là kẻ mang gánh nặng!” (H.T Thích Minh Châu dịch)
1009. Tùy tín hành, tùy pháp hành. Bậc dự lưu (tu đà hoàn) có thể là một bậc tùy tín hành, do nương vào tín mà được giải thoát, hay tùy pháp hành, do nương vào quán chứng mà được giải thoát. Pháp tu của bậc dự lưu là: thân cận bậc chân nhân, biết nghe diệu pháp, như lý tác ý và thực hành pháp (hộ trì các căn, 4 niệm trú, 7 giác chi, minh giải thoát)
1010. Phần vị sai biệt: Theo Du già sư địa luận, quyển 81, tiết 14, có 25 thứ phần vị sai biệt, đó là: hạ, trung và thượng; khổ, lạc và bất khổ bất lạc; thiện, bất thiện và vô ký; văn, tư và tu; tăng thượng giới, tăng thượng tâm và tăng thượng tu; nội và ngoại; sở thủ và năng thủ; sở trị và năng trị; hiện tiền và bất hiện tiền; nhân và quả. Một bổ đặc già la (pudgala, số thủ thú) là một con người, ngã, cá ngã, cá nhân, linh hồn … mà có những phần vị sai biệt vừa kể ở trên.
1011. Phần đoạn sai biệt: Do bất giác mà phát sanh 3 trạng thái không tách rời bất giác (gọi là 3 tế): năng động, năng kiến và năng hiện. Do đối cảnh mà phát sanh ra 6 trạng thái nữa (gọi là 6 thô): phân biệt, liên tục, cố thủ, từ ngữ, động tác và khổ não. Chín trạng thái bất giác ấy gọi là nhiễm tâm. Đầu mối của nhiễm tâm là ý và ý thức, được gọi bằng 5 tên: động thức, chuyển thức, hiện thức, phân biệt thức và tương tục thức. Thức ấy là sự tự ý thức về tự ngã, lấy tự ngã làm đối tượng. Tâm thức phản ánh tự ngã ấy thành ra nhiễm ô, sanh phân biệt ghét ưa. Ngã ái nên thấy cái này đáng ưa vì hợp với ngã, cái kia đáng ghét vì trái với ngã. Ưa ghét dẫn đến chiếm đoạt hay chống cự, tức từ ái dẫn ra thủ. Hủy diệt nhiễm tâm là làm cho các pháp thanh tịnh, gọi là đoạn trừ phiền não.
1012. Kinh Tri (知經), tức là kinh Tri pháp, số 72, Tạp a hàm: “Tôi nghe như vầy: Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ đà, nước Xá vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ kheo: “Ta sẽ nói về các pháp sở tri, trí và trí giả. Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì ngươi mà nói. “Thế nào là các pháp đã sở tri? Là năm thọ ấm, đó là: Sắc thọ ấm, và thọ, tưởng, hành, thức thọ ấm. Đó gọi là những pháp sở tri. “Thế nào là trí? Là sự điều phục dục tham, đoạn trừ dục tham, siêu việt dục tham. Đó gọi là trí. “Thế nào gọi là trí giả? Đó là A la hán. A la hán chẳng phải tồn tại sau khi chết, chẳng phải không, chẳng phải có không tồn tại sau khi chết, chẳng phải chẳng có không tồn tại sau khi chết. Nói rộng ra vô lượng, các số đã vĩnh viễn dứt sạch. Đó gọi là nói về các pháp sở tri, trí và trí giả.” Phật nói kinh này xong, các Tỳ kheo nghe những gì đức Phật đã dạy, hoan hỷ phụng hành.” (Thích Đức Thắng dịch)
1013. Chánh văn là tri. Tương ưng bộ kinh, kinh Liễu tri, H.T Thích Minh Châu dịch là liễu tri (parinna). Dựa vào Tạp a hàm dịch là trí.
1014. Kinh Trọng đảm (gánh nặng), số 73, Tạp a hàm: “Tôi nghe như vầy: Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ đà, nước Xá vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ kheo: “Nay Ta sẽ nói về gánh nặng, thủ gánh nặng, xả gánh nặng, và người đang gánh nặng. Hãy lắng nghe, và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì ngươi mà nói. Thế nào là gánh nặng? Là năm thọ ấm, đó là: Sắc thọ ấm, và thọ, tưởng, hành, thức thọ ấm. Thế nào là thủ gánh nặng? Đó là ái, ái về hữu đương lai đi đôi với tham hỷ, đắm trước cái này hay cái kia. Thế nào là xả gánh nặng? Tức là ái này, ái về hữu đương lai đi đôi với tham hỷ, đắm trước cái này hay cái kia, tất cả đều được đoạn trừ, diệt tận khổ, ly dục, tịch diệt, tĩnh chỉ. Thế nào là người đang gánh nặng? Chính là con người. Con người này có tên như vậy, thọ sanh như vậy, dòng họ như vậy, ăn uống như vậy, cảm thọ khổ lạc như vậy, tồn tại như vậy, thọ mạng như vậy, giới hạn thọ mạng sống như vậy. Đó gọi là gánh nặng, thủ gánh nặng, xả gánh nặng, và người đang gánh nặng.” Năm uẩn đồng nghĩa với gánh nặng (phụ đảm, trọng đảm).
1015. Phật tính luận, quyển 2: “Có bốn hình thái thọ sanh khác nhau của bồ tát: 1. Do ảnh hưởng của nghiệp, những vị thuộc tín hành địa thọ sanh tùy theo sự chi phối của nghiệp lực; 2. Tùy theo nguyện, những vị đã chứng nhập bồ tát địa nhưng vì muốn thành thục hết thảy chúng sanh nên thọ sanh vào các chỗ thấp kém như súc sanh; 3. Do năng lực thiền định, những vị sau khi xả các định thọ sanh xuống Dục giới; 4. Do uy lực thần thông, những vị do biến hóa có thể xuất hiện thọ sanh những cõi như Đâu suất v.v…”
1016. Bồ tát chưa ly dục mà tu bố thí, chưa có tâm đại bi mà tu trì giới và nhẫn nhục, chưa vào địa thứ 8 mà tu tinh tiến, thiền định và trí tuệ, chưa có tâm bình đẳng mà tu các ba-la-mật; bồ tát tu tập như vậy thật là hy hữu.
1017. Quyến thuộc: còn gọi là lục thân: cha, mẹ, anh, em, vợ, con.
1018. Người thân thiết: chỉ cho những người mình có tình cảm thân thiết, gắn bó trong đời sống, như bà con, thầy cô giáo, hàng xóm, người làm công, nghệ sĩ v.v…, kể cả những con vật yêu thích.
1019. Kinh Bát đại nhân giác nói: “Bồ tát thực hành bố thí, bình đẳng nghĩ đến kẻ oán người thân, không nhớ lỗi cũ, không ghét người ác.”
1020. Công xảo bao gồm nghề nghiệp, toán học, khoa học, văn chương, triết lý thuộc ngoại điển. Cha mẹ trong thời đức Phật còn tại thế không có nhiều lựa chọn trong việc chuẩn bị cho con cái họ có một nghề nghiệp. Họ có thể trực tiếp trao truyền lại cho con cái sự hiểu biết riêng của mình hoặc họ có thể gửi con cái đến học với những người có khả năng.
1021. Xuất yếu: con đường chính yếu để xuất ly sanh tử. Trung A hàm, phẩm Nhân, kinh Khổ ấm có ghi: “Lại nữa, vì chúng sanh nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc nên thân làm ác, khẩu và ý làm ác. Kẻ đó vì thân làm ác, khẩu và ý làm ác nên nhân nơi đó, duyên nơi đó mà khi thân hoại mạng chung phải đến chỗ ác, sanh vào địa ngục. Đó là những nỗi khổ ở đời sau nhân nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc. Như vậy là tai họa của dục. Thế nào là sự xuất yếu của dục? Nếu đoạn trừ dục, xả ly dục, diệt tận dục, vượt qua khỏi dục mà thoát ly. Như vậy gọi là sự xuất yếu của dục. Nếu Sa môn, Phạm chí nào mà không biết đúng như thật vị ngọt của dục, tai họa của dục, sự xuất yếu của dục, thì không bao giờ có thể tự mình đoạn dục, huống nữa là đoạn dục cho kẻ khác.” (Thích Tuệ Sỹ dịch)
1022. Biết tác ý là biết cách cách sống yên ổn cho mình, cho người.
1023. Sáu tế: sáu thứ ngăn che, sáu thứ phiền não chướng, chướng ngại sáu độ: tham lam, phá giới, giận dữ, biếng nhác, tán loạn và ngu si.
1024. Quả bất không: là thu hoạch được vô tận tạng công đức. Quả ấy do tu tập nhân bất không mà được, tức tu tập phước trí, định tuệ, phương tiện và giải thoát.
1025. Hậu hữu: là cách nói khác của vô dư niết bàn. Diệt 5 hạ phần kiết, không còn trở lại đây nữa là Hữu dư niết bàn, diệt hữu lậu, không còn thọ hậu hữu nữa là vô dư niết bàn.
1026. Kinh Đại bảo tích, Pháp hội Phổ Minh bồ tát, thứ 43: “Lại này Đại Ca Diếp! Gọi là bồ tát ấy chẳng phải chỉ danh tự là bồ tát mà người hay thật hành pháp lành, thật hành tâm bình đẳng thì gọi là bồ tát. Lược nói người thành tựu được ba mươi hai pháp thì gọi là bồ tát: một là thường vì chúng sanh thâm cầu an lạc đều làm cho họ được an trụ trong Nhứt thiết trí, hai là lòng chẳng ganh ghét trí huệ của người, ba là phá hoại kiêu mạn, bốn là rất thích Phật đạo, năm là yêu kính không luống thân hậu cứu cánh, sáu là ở trong oán thân tâm mình đồng đều đến nơi Niết bàn, bảy là lúc nói thường mỉm cười để ý thăm hỏi trước, tám là công việc được làm chẳng nghỉ giữa chừng, chín là khắp vì chúng sanh mà bình đẳng hành đại bi lòng không nhàm mỏi, mười là đa văn không chán, mười một là tự tìm lỗi mình chẳng nói lỗi người, mười hai là dùng tâm Bồ-đề hành các oai nghi, mười ba là ban ơn cho người chẳng cầu báo đáp, mười bốn là chẳng y nơi chỗ sanh mà hành trì giới, mười lăm là ở trong các chúng sanh hành vô ngại nhẫn, mười sáu là vì tu tất cả thiện căn mà hành tinh tiến, mười bảy là rời lìa sanh cõi Vô sắc mà phát khởi thiền định, mười tám là hành phương tiện huệ ứng dụng bốn nhiếp pháp, mười chín là với chúng sanh thiện hay ác đều từ tâm vô úy, hai mươi là nhứt tâm nghe pháp, hai mươi mốt là tâm an trụ viễn ly, hai mươi hai là tâm chẳng thích ham các sự thế gian, hai mươi ba là chẳng tham Tiểu thừa, hai mươi bốn là ở trong Đại thừa thường thấy lợi ích lớn, hai mươi lăm là lìa ác tri thức thân cận thiện hữu, hai mươi sáu là thành bốn phạm hạnh, hai mươi bảy là du hí thần thông, hai mươi tám là thường y chơn trí, hai mươi chín là ở nơi chánh hạnh được các chúng sanh thật hành đều chẳng vứt bỏ, ba mươi là lời nói thường quyết định, ba mươi mốt là quí pháp chơn thiệt, ba mươi hai là tất cả việc làm đều lấy Bồ-đề làm đầu. Nếu người có ba mươi hai pháp này thì gọi là bồ tát.” (H.T Thích Trí Tịnh dịch)
1027. Ác giác: Tư tưởng, tâm niệm xấu ác như dục, sân, hại v.v... làm trở ngại việc tu tập thiền định. Sách Đại thừa nghĩa chương, quyển 5, nói: “Cái tâm suy tưởng, gọi là giác; trái với chánh lý, gọi là ác. Song, ác giác nó có những tánh cách bất đồng với nhau nên riêng rời có tám thứ”. Sách Chỉ quán, cuốn 5, nói: “Tám gió ác giác, là chỗ chẳng thể vào”. Tám gió là: lợi và suy (được hay mất sự vừa ý), hủy và dự (khen hay chê sau lưng), xưng và cơ (khen hay chê trước mặt), khổ và lạc (khổ hay vui tâm ý). Sách Đại tạng pháp số chép: “Tám điều ấy, người trong thế gian chỗ ưa, chỗ ghét, và nó hay phiến hoặc lòng người, nên gọi là gió.”
1028. Thiện thuyết: “Thành tựu năm chi phần, này các Tỷ kheo, các lời là thiện thuyết, không phải ác thuyết, không có phạm tội và không bị những người có trí chỉ trích. Thế nào là năm? Nói đúng thời, nói đúng sự thật, nói lời nhu hòa, nói lời liên hệ đến lợi ích, nói với lời từ tâm.” (Tăng Chi Bộ II, chương 5, phẩm Bà la môn, phần Lời nói - H.T Thích Minh Châu dịch) Thiện thuyết đến như vậy mà không thực hành những gì mình nói, chưa kể những gì mình hiểu biết, thì vẫn là trí tuệ tương tự.
1029. Luận Đại trí độ, quyển 76: “Người không được thọ ký trong hiện tiền có hai: 1. Người đầy đủ nhân duyên thọ ký; 2. Người chưa đầy đủ nhân duyên thọ ký. Người đầy đủ nhân duyên thọ ký là người biết thực tướng các pháp, đầy đủ sáu ba la mật. Người không đầy đủ nhân duyên thọ ký là người chỉ biết thực tướng các pháp, được một phần Bát-nhã ba la mật, còn các ba la mật khác chưa đầy đủ.” (H.T Thích Thiện Siêu dịch)
1030. Thọ ký thời gian khác biệt là nói tính chất nhất định hoặc không nhất định đối với khoảng thời gian đến khi thành Phật, được chia thành hữu số thời thọ ký và vô số thời thọ ký.
1031. Chánh văn là chuyển thọ ký và đại thọ ký. Theo văn ý ở đây được hiểu là thọ ký bất thoái chuyển và thọ ký đại bồ-đề. Thọ ký bất thoái chuyển là thọ ký cho một vị bồ tát đi vào địa vị bất thoái. Luận Thành duy thức ghi: “Bồ tát từ Bất động địa trở lên mới được gọi là bồ tát bất thoái, vì ở đó hết thảy phiền não vĩnh viễn không còn hiện hành; vì vận chuyển một cách tự nhiên trong dòng chảy của pháp; vì có thể khởi lên các hành trong các hành; và vì càng lúc càng tăng tiến trong từng sát-na.”
1032. Không thoái chuyển: chính yếu là không thoái chuyển đối với tuệ giác vô thượng, gồm có: không còn đọa lạc ác đạo, được vô sanh pháp nhẫn và quyết định sẽ thành Phật.
1033. Kinh Diệu pháp liên hoa, quyển 3, Phẩm thọ ký thứ 6, đức Phật thọ ký cho ngài Đại Ca Diếp: “Đức Thế Tôn tuyên cáo với toàn thể đại hội các chúng: Đại đệ tử của Như Lai là tôn giả Đại Ca Diếp đây, trong thì vị lai, sẽ được phụng sự ba trăm vạn ức chư Phật Như Lai, hiến cúng cung kính tôn trọng tán dương, tuyên thuyết rộng rãi vô số chánh pháp vĩ đại của các ngài, rồi thân cuối cùng thành đức Phật đà danh hiệu Quang Minh Như Lai, đủ mười đức hiệu. Quốc độ tên Quang Đức, thời kỳ tên Đại trang nghiêm. Quang Minh Như Lai sống lâu mười hai thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp nguyên chất tồn tại thế gian hai mươi thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp tương tự cũng tồn tại hai mươi thời kỳ bậc nhỏ. Quốc độ huy hoàng, không có những thứ dơ và xấu như ngói sỏi gai góc và đại tiểu tiện lợi. Quốc độ ấy lại bằng thẳng, không có cao thấp, hầm hố gò đống. Đất bằng lưu ly, cây ngọc thành hàng, dây hoàng kim phân chia lề đường. Rải các hoa quí, đâu cũng sạch sẽ. Trong quốc độ ấy chúng bồ tát vô số ngàn ức, chúng thanh văn cũng vô lượng như vậy. Không có việc ma; vua ma và dân ma tuy có, nhưng toàn là những kẻ hộ trì Phật pháp.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
1034. Chỉ cho sự thành tựu việc làm, tức sự vận dụng tự nhiên và liên tục về 6 ba la mật mà vị bồ tát đã viên mãn.
1035. Ồn náo: chỉ cho sự ồn ào ngoại cảnh và sự náo động nội tâm.
1036. Bố thí mà cầu quả dị thục khả ái. Nhân bố thí là hữu lậu nên quả bố thí cũng hữu lậu, tức còn sanh tử đau khổ.
1037. Sự đắm trước của bố thí có bảy thứ: 1. Đắm trước của cải; 2. Đắm trước trì hoãn; 3. Đắm trước thiên chấp; 4. Đắm trước trả ơn; 5. Đắm trước quả báo; 6. Đắm trước chướng ngại; 7. Đắm trước tán loạn. (Xem phẩm Độ nhiếp, thứ 17)
1038. Ba sự bố thí: 1. Thí chánh pháp; 2. Thí tài sản; 3. Thí vô úy.
1039. Sự không lợi ích, tức là sự tổn hại bức bách và quấy rối.
1040. Kinh Duy Ma, phẩm Thăm bịnh: “Tham đắm mùi thiền là sự ràng buộc của bồ tát.”
1041. Luận Đại trí độ, cuốn 93: “Hỏi: Nếu như thế thời (tức đã dứt các bất thiện pháp) có thể không sanh trong ba đường ác. Vậy là phước đức của bồ tát ấy nhiều, cớ sao không sanh trong cõi trời sống lâu? Đáp: Bồ tát vì thương xót chúng sanh mà hành sáu ba la mật, tuy có thể vào thiền định, hòa hợp với tâm từ bi tu hành, song không đắm thiền vị, nên khi mạng sắp hết, nghĩ đến cõi Dục nên thoái mất thiền đạo, vì trong cõi trời sống lâu không có khổ não, đắm sâu thiền vị thời khó có thể được độ, nên không sanh vào trong ấy.”
1042. Trạng thái dị biệt (dị tướng): Chỉ cho sự phân biệt mâu thuẫn với tâm thể, và sự phân biệt đó đặt căn bản trên ngã chấp. Như luận Đại thừa khởi tín ghi: “Các vị nhị thừa và bồ tát mới phát tâm, giác ngộ cái phân biệt mâu thuẫn với tâm thể, nên chỉ theo cái phân biệt không mâu thuẫn, như vậy là xả bỏ sự cố chấp của phân biệt thô nhất, nên gọi là tuệ giác tương tự.” (H.T Thích Trí Quang dịch) Các bồ tát giác ngộ các phạm trù đối kháng nhau không phải tâm thể, cho nên chỉ phân biệt tâm thể mà thôi. Không phân biệt dị tướng là hủy diệt cái phân biệt lấy tâm thể làm đối tượng hóa, tức hủy diệt sự đối tượng hóa ấy.
1043. Giới có 3 loại: tịnh giới diệt ác, tịnh giới sanh thiện và tịnh giới lợi ích chúng sanh. (Kinh Giải thâm mật)
1044. Tịnh giới vô lưu, tức vô lậu giới, đạo cộng giới: Vô lưu là vĩnh viễn xa lìa mọi dòng chảy, các dòng sanh tử không còn sanh ra nữa, không phải là nơi có vết tích dòng chảy. Luật nghi này thuộc vô lậu giới, có năng lực phòng hộ tự nhiên do không còn phiền não nhiễm ô, chúng liên hệ đến các bậc thánh giả đạt được từ kiến đạo trở lên, tức là luật nghi có được khi vào trong định vô lậu.
1045. Nhẫn nhục có 3 loại: nhẫn chịu oán hại, nhẫn chịu khổ cực và nhẫn chịu chân lý (pháp nhẫn). (Kinh Giải thâm mật)
1046. Tinh tiến có 3 loại: tinh tiến áo giáp (tinh tiến thệ nguyện), tinh tiến sanh thiện và tinh tiến lợi ích chúng sanh. (Kinh Giải thâm mật)
1047. Thiền định có 3 loại: tịnh lự dẫn ra pháp lạc (tịnh lự không phân biệt), tịnh lự dẫn ra công đức và tịnh lự dẫn ra lợi ích chúng sanh. (Kinh Giải thâm mật)
1048. Đệ tứ thiền thuộc xuất thế gian: còn gọi là xuất thế gian thượng thượng thiền, chỉ cho pháp tu thiền định của các hàng bồ tát.
1049. Tuệ có 3 loại: tuệ giác vin thế tục đế, tuệ giác in thắng nghĩa đế và tuệ giác vin lợi ích chúng sanh. (Kinh Giải thâm mật)
1050. Trí như thật: như thật biết đúng cộng tướng, tự tướng của hết thảy pháp, không có quái ngại. (Luận Đại trí độ) Tự tướng (đặc tính riêng) là sắc uẩn có đặc tính chất ngại, cho đến thức uẩn có đặc tính liễu biệt. Cộng tướng (đặc tính chung) là chân như vô ngã (: có bảy chân như) hay thắng nghĩa của các pháp.
1051. Năm minh luận, cũng gọi là năm minh xứ: 1. Nội minh: Phật học; 2. Nhân minh: luận lý học; 3. Thanh minh: sanh ngữ; 4. Y phương minh: y học; 5. Công nghiệp minh: kỹ thuật. Năm minh xứ chỉ cho thế tục đế.
1052. Chỉ cho 12 bộ kinh: Thể văn và sự lý trong tất cả các kinh chia ra 12 loại (bộ = bộ phận, hay chi = thành phần), mà có bộ hay cuốn kinh đủ cả 12 loại, có bộ hay cuốn chỉ là 1 loại cho đến 11 loại. Đó là: 1. Tu đa la (Sutra = khế kinh, vì khế hợp chân lý và tâm lý) là thể văn trường hàng trong các kinh, nói thẳng pháp nghĩa; 2. Kỳ dạ (Geya = ứng tụng hay trùng tụng) là thể văn chỉnh cú ứng với văn trường hàng mà lặp lại pháp nghĩa ở trước; 3. Già đà (Gatha = phúng tụng hay cô khởi) là thể văn chỉnh cú không theo trường hàng mà tự nói pháp nghĩa; 4. Ni đà na (Nidana = nhân duyên) là thuật lại lý do thấy Phật nghe pháp, lý do và địa điểm Phật thuyết pháp giáo hoá; 5. Y đế mục đa (Itivutaka = bản sự) là Phật thuật lại nhân duyên quá khứ của đệ tử; 6. Xà đa già (Jataka = bản sanh) là Phật nói về nhân duyên quá khứ của ngài; 7. A phù đạt ma (Adbhutadharma = vị tằng hữu) là ghi lại những việc bất tư nghị của thần lực Phật thị hiện; 8. A ba đà na (Avadana = thí dụ) là nói những ví dụ; 9. Ưu bà đề xá (Upadesa = luận nghĩa) là vấn đáp thảo luận về pháp nghĩa; 10. Ưu đà na (Udana = tự thuyết) là Phật tự nói chứ không ai hỏi được; 11. Tỳ phật lược (Vaipulya = phương quảng) nói về chân lý chính xác và rộng lớn; 12. Hoà già la (Vyakarana = thọ ký) thọ ký thành Phật cho bồ tát. Tựu trung, 3 loại đầu là chia theo thể văn, 9 loại sau là chia theo sự lý của thể văn ấy.
1053. Kinh Giải thâm mật: “Chân như ấy có bảy: một là chân như nơi sự lưu chuyển, tức cái tánh không mở đầu không chấm hết của các hành; hai là chân như nơi các tướng, tức cái tánh nhân vô ngã và pháp vô ngã của các pháp; ba là chân như nơi sự liễu biệt, tức cái tánh duy thức của các hành; bốn là chân như nơi sự an lập, tức thánh đế về khổ mà Như lai nói; năm là chân như nơi sự tà hành, tức thánh đế về tập mà Như lai nói; sáu là chân như nơi sự thanh tịnh, tức thánh đế về diệt mà Như lai nói; bảy là chân như nơi sự chánh hành, tức thánh đế về đạo mà Như lai nói. Nên biết trong đây do chân như nơi sự lưu chuyển, nơi sự an lập và nơi sự tà hành nên tất cả chúng sanh rất là bình đẳng; do chân như nơi các tướng và nơi sự liễu biệt nên tất cả các pháp rất là bình đẳng; do chân như nơi sự thanh tịnh nên Thanh văn bồ-đề, Độc giác bồ-đề và Vô thượng bồ-đề rất là bình đẳng; do chân như nơi sự chánh hành nên cái tuệ của chỉ quán siêu việt vin vào pháp tổng quát, sau khi nghe giáo pháp, rất là bình đẳng.” (H.T Trí Quang dịch). Luận Thành duy thức: “Bảy thật tính (chân như) này được bao hàm trong viên thành thật, vì là đối tượng của hai trí căn bản và hậu đắc.” (Tuệ Sỹ dịch). Bảy chân như này chỉ cho thắng nghĩa đế.
1054. Có thuyết cho rằng có một vị Tự tại thiên mà tự thể là thật, phổ biến, thường hằng, sanh ra các pháp.
1055. Các nguyên nhân khác như: do thời gian tác thành mọi vật, từ các phương sanh người đời, từ khởi điểm tối sơ sanh sản hết thảy hữu tình, từ tự nhiên sanh ra hết thảy pháp, hư không là nguyên nhân của mọi vật. Đó là những quan điểm về pháp của các học thuyết ngoại đạo. (luận Thành duy thức)
1056. Pháp vô ngã bao gồm nhân vô ngã.
1057. Trong 4 đạo lý, đạo lý 1, 2 và 3 là sự thật tương đối; đạo lý 4 là sự thật tuyệt đối. Kinh Giải thâm mật giải thích: “Thứ 1, đạo lý quán đãi là do nhân tố và duyên tố mà phát sanh các hành và phát sanh ngôn từ liên quan các hành. Thứ 2, đạo lý tác dụng là do nhân tố và duyên tố mà các pháp sanh, các pháp thành, các pháp sanh thành rồi tác dụng. Thứ 3, đạo lý chứng thành là do nhân tố và duyên tố mà làm cho ý nghĩa nói ra được xác lập và làm cho người nghe hiểu biết chính xác. Thứ 4, đạo lý pháp nhĩ là Như lai xuất thế hay không xuất thế, pháp tánh các pháp vẫn an lập, pháp giới các pháp vẫn an trú.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
1058. Chánh kiến xuất thế: là tuệ tăng thượng, tức đa văn huân tập cùng tác ý đúng lý (nhân) mà cứu cánh là trí vô phân biệt (quả).
1059. Hiện lượng, tỷ lượng và thánh giáo lượng là 3 công cụ nhận thức các pháp. Hiện lượng là nhận thức bằng trực giác. Tỷ lượng là nhận thức loại suy hay luận lý học. Thánh giáo lượng là nhận thức được truyền bởi thánh giáo.
1060. Trú xứ không thể nghĩ bàn (bất khả tư nghị xứ): là pháp tánh ly ngôn, tức chân như vô ngã. Trú xứ ấy là sở duyên của trí vô phân biệt.
1061. Diệt độ, tức niết-bàn, giải thoát.
1062. Hàng Thanh văn tu tập trải qua 3 đời hay 60 kiếp thì chứng được đạo quả. Hàng Duyên giác tu tập trải qua 4 đời hay 100 kiếp thì chứng được đạo quả. Hàng Bồ tát tu tập trải qua 3 vô số kiếp thì chứng được Vô thượng bồ-đề.
1063. Bốn thứ tâm báo ơn (tứ chủng ân tâm): Kinh Kim cương Bát-nhã ghi: “Như lai sẽ nói cho các vị biết thiện nam thiện nữ phát tâm bồ-đề thì bằng cách nào trú ở tâm ấy, và bằng cách nào sửa chữa tâm mình. Trưởng lão thưa rằng, dạ, bạch Thế tôn, chúng con ước muốn được nghe Ngài dạy. Trưởng lão Thiện hiện, Bồ tát thì phải sửa chữa tâm mình bằng tuệ giác này.” “Bằng cách nào sửa chữa tâm mình” (vân hà hàng phục kỳ tâm), tâm ấy, theo ngài Thế thân, chính là bốn tâm báo ơn mà bồ tát phát nguyện, được chư Phật khen ngợi. Bốn tâm báo ơn là: 1. Tâm quảng đại; 2. Tâm đệ nhất nghĩa; 3. Tâm thường; 4. Tâm bất điên đảo. Ngài Thế thân nói: “Nếu bồ tát có bốn cái tâm sâu xa lợi ích bồ-đề, thì đó chính là trú xứ đại thừa của bồ tát.” Đại thừa lấy tâm bồ-đề làm căn bản nên gọi là trú xứ. Bốn tâm ấy, 2 tâm đầu thuộc về từ bi, 2 tâm sau thuộc về trí tuệ. Tâm quảng đại là tâm từ bi không có hạn lượng, vì có sự phát tâm rộng xa. Tâm đệ nhất nghĩa là tâm từ bi làm lợi ích không gì đồng đẳng, vì phàm phu, tiểu thừa không thể làm được sự lợi ích lớn lao. Tâm thường là trí tuệ không biến khác, là tâm thường hằng, vì thể hội pháp môn bất nhị. Tâm bất điên đảo là trí tuệ như thật, là tâm không điên đảo với 4 tướng ngã, nhân, chúng sanh và thọ giả, là cái tâm như thật.
1064. Suy tìm hiểu biết (tức cầu tri, hay tầm tư) bằng quán trí để ngộ nhập đạo lý duy thức.
1065. Danh và vật là danh và nghĩa của các pháp. Tự tánh và khác biệt là đặc tánh và chi tiết của danh và của vật, nên gọi là tự tánh của danh, tự tánh của vật, khác biệt của danh, khác biệt của vật. Nhiếp luận nói về quán trí ngộ nhập duy thức như sau: “Do cái gì và làm thế nào để được ngộ nhập? Do cái ý thức thuộc chủng loại đa văn huân tập và thuộc về tác ý đúng lý, mà kiến phần của nó có cái ấn tượng tương tự pháp và nghĩa, (do cái ý thức ấy mà phân thành 4 tầm tư và 4 thật trí). Bốn tầm tư là suy tìm chỉ là giả thiết về danh, nghĩa, tự tánh, sai biệt. Bốn thật trí là biết chắc chỉ là giả thiết về danh, nghĩa, tự tánh, sai biệt. Cả 4 tầm tư và 4 thật trí như vậy đồng là không thể thủ đắc. Chư vị bồ tát muốn ngộ nhập duy thức một cách đúng như sự thật, nên nỗ lực mà tu - tức là đem cái ý thức có cái ấn tượng tương tự về danh và nghĩa mà suy tìm danh chỉ là ý thức, suy tìm nghĩa dựa vào danh cũng chỉ là ý thức, suy tìm tự tánh và sai biệt của danh và nghĩa cũng chỉ là giả thiết. Bao giờ chứng được chỉ là ý thức, thì bấy giờ chứng biết danh, nghĩa, tự tánh, sai biệt, toàn là không thật, đồng là không thể thủ đắc. Như vậy, do 4 tầm tư và do 4 thật trí mà chính nơi cái ý thức có ấn tượng tương tự danh và nghĩa mà ngộ nhập được đạo lý duy thức.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
1066. Chánh văn là như thật tri, tức là như thật trí.
1067. Tri kiến như thật duyên (duyên nghĩa là vin theo) danh là như thật liễu tri danh ngôn của các pháp. Tri kiến như thật duyên vật là như thật liễu tri thể sự của các pháp. Tri kiến như thật duyên tự tánh là như thật liễu tri tự tánh của các pháp chính là ý thức giả thiết nên không thật. Tri kiến như thật duyên khác biệt là như thật liễu tri sai biệt của các pháp là khả ngôn thuyết tánh: do không thật sự thành nên chẳng phải có; là ly ngôn thuyết tánh: do thật sự thành nên chẳng phải không có.
1068. Khí thế giới, hay khí thế gian: chỉ cho quốc độ mà tất cả chúng sanh đang sống. Duy thức cho khí thế gian là cảnh do thức a-lại-da biến hiện.
1069. Sáu thức trước, còn được gọi là thức thọ dụng, thọ dụng quả báo khổ vui qua 3 tâm sở chính yếu là thọ (thọ dụng), tưởng (phân biệt) và hành (suy nghĩ tán động).
1070. Thức a-lại-da có năng tánh tiếp nhận huân tập và duy trì chủng tử. Chủng tử, căn thân và khí thế giới đều là cảnh sở duyên của thức a-lại-da.
1071. Nội ngoại chư pháp: các pháp ở trong là ngã, tức căn thân, thuộc hữu tình thế gian; các pháp ở ngoài là pháp, tức khí thế giới, thuộc vô tình thế gian.
1072. Chánh văn là a-lại-da thức. Ở đây được hiểu là chủng tử nơi thức a-lại-da, bởi lẽ thức a-lại-da có đặc tánh tiếp nhận huân tập (thọ huân). Chủng tử có 2 lực: lực năng sanh, là sanh ra hiện hành, và lực năng dẫn, là duy trì hiện hành. Hiện hành là nói hiện hành tự tánh khác nhau và tự thể khác nhau. Tự tánh là đặc tánh khác nhau của các pháp. Tự thể là sanh mạng khác nhau và thế giới của sanh mạng, tức quả báo dị thục trong 3 cõi.
1073. Sắc thái yên ổn làm đối tượng cho văn, tư, tu. Sắc thái tự nhiên không phải là đối tượng của tự tánh.
1074. Trung luận nói: “Nhân pháp ấy sanh quả, pháp ấy gọi là duyên; nếu quả ấy chưa sanh, sao không gọi phi duyên.” (Nhân thị pháp sanh quả, thị pháp danh vi duyên; nhược thị quả vị sanh, hà bất danh phi duyên). Ví dụ, khi thấy hồ ta biết do nước và bột quấy lên mà thành. Hồ là quả, nhờ thấy quả mà biết được bột và nước là duyên của nó. Như thế khi chưa có hồ sao không gọi nước và bột là phi duyên. Thể của phi duyên là sắc thái vô tánh của các pháp. Các pháp do nhân duyên sanh là chỉ rõ các pháp không có thực thể, không có thật ngã độc lập ngoài các duyên, chứ không phải do nhân duyên sanh ra cái gì khác với nó, nằm riêng ngoài nó, mà chỉ hiện có giả tạm trên các duyên, nên nói do duyên sanh mà kỳ thật không sanh ra cái gì thật có độc lập. Nếu do duyên sanh ra cái gì độc lập thì đó là hữu ngã, chứ không phải duyên sanh vô ngã. Nhưng đã do duyên sanh chỉ hữu ngã giả chứ không thể là hữu ngã thật như mọi người thường chấp. Như vậy duyên không sanh ra được cái gì khác với nó, nên nói không có nhân duyên sanh.
1075. Bốn điên đảo: bốn cái thấy thác loạn: vô thường tưởng là thường, khổ tưởng là lạc, vô ngã tưởng là ngã, bất tịnh tưởng là tịnh.
1076. Hiện quán của Thanh văn chỉ thông suốt nhân vô ngã.
1077. Hiện quán của Bồ tát thì thông suốt cả nhân vô ngã và pháp vô ngã.
1078. Trong Nhiếp luận sớ, ngài Thế thân nói: “Cái có thể được nhận thức, gọi là sở tri. Đó là các pháp tạp nhiễm và thanh tịnh, tức ba tự tánh.” Kinh Giải thâm mật: “Bồ tát do đúng như sự thật mà biết biến kế chấp tánh, y tha khởi tánh và viên thành thật tánh, nên cũng đúng như sự thật mà nhận biết sự vô tướng, sự tạp nhiễm và sự thanh tịnh. Đúng như sự thật mà nhận biết sự vô tướng nên hủy diệt sự tạp nhiễm, hủy diệt sự tạp nhiễm nên chứng đắc sự thanh tịnh: ngang đây gọi là vị Bồ tát khéo biết tánh của các pháp”. (H.T Thích Trí Quang dịch)
1079. Thức a-lại-da vừa là chủng tử của các pháp, vừa là hiện hành của các pháp. Nói cách khác, các pháp được nhận thức đều phát sanh từ thức a-lại-da. Các pháp ấy là tánh y tha. Ngộ nhận các pháp như vậy là ngã pháp; hai chấp ngã pháp ấy là tánh phân biệt. Giác ngộ thức a-lại-da như vậy vẫn chân như; chân như ấy là tánh chân thật. Như ngọc trong suốt hiện ra đủ màu sắc là tánh y tha, lầm màu ấy cho là thật là tánh phân biệt, biết ngọc vẫn trong suốt (hay biết màu sắc ấy không thật) là tánh chân thật.
1080. Vô tướng là trong pháp tánh, quán các pháp không thễ thủ đắc, vì các pháp không thật và giả tạm.
1081. Vô chủng chủng tướng là không thấy các pháp có mỗi mỗi tướng, chỉ thấy một tướng, đó là vô tướng. Thấy như vậy thì thành tựu vô chủng chủng tướng tam-muội.
1082. Cảnh giới chân như có danh ngôn: là chân như nơi sự liễu biệt, tức cái tánh duy thức của các hành.
1083. Kinh Duy ma cật ghi: “Trí tuệ là đạo tràng, vì hiện thấy các pháp”. Hiện thấy các pháp chỉ cho tri kiến như thật, là cái thấy không có biến kế phân biệt.
1084. Chánh văn là ức tưởng phân biệt, xét văn ý nên thêm “dứt sạch”, vì thần thông có ra từ định tăng thượng.
1085. Không thấy sắc thái chân thật là không thấy được tánh chân thật, như người bị bịnh màng mắt chỉ thấy cảnh vật thác loạn mà không thấy được cảnh vật không thác loạn.
1086. Không thấy sắc thái không chân thật là không thấy bằng tánh phân biệt, nói cách khác là thấy tánh phân biệt không thật có.
1087. Chánh văn là vô nghĩa cảnh giới.
1088. Không thấy thắng nghĩa tức là chỉ thấy thế tục đế, là thấy theo ý tưởng bình thường của tâm thức. Cách hiểu khác, không thấy thắng nghĩa là chỉ thấy biết về tâm ý thức, gọi là chưa khéo thấy.
1089. Chánh văn là hữu nghĩa cảnh giới.
1090. Thấy thắng nghĩa tức là thấy đúng như thắng nghĩa đế, là thấy chân như thắng nghĩa của các pháp. Cách hiểu khác, thấy thắng nghĩa là thấy tâm thức tự siêu việt, gọi là khéo thấy.
1091. Chân như là nền tảng cho sự tu hành chuyển y của Như lai tạng, từ nhiễm ô trở thành thanh tịnh.
1092. Tánh phân biệt là vọng hữu, tức là có một cách sai lầm, gọi là vô thể.
1093. Tánh chân thật là thật hữu, tức là có một cách đích thực, gọi là hữu thể. Khởi tín luận ghi: “Chân như mà phân tách theo ngôn ngữ thì có hai mặt: một là Không một cách đúng như sự thật (như thật không), vì biểu thị thật thể một cách trọn vẹn; hai là Có một cách đúng như sự thật (như thật bất không), vì thật thể sung mãn mọi phẩm chất sẵn có mà thuần túy. Không một cách đúng như sự thật là chân như xưa nay không thích hợp với mọi sự ô nhiễm, vì chân như thì phi phạm trù đối kháng nhau, siêu phân biệt không chính xác. Hãy nhận thức chân như phi khẳng định, phi phủ định, phi cả khẳng định phủ định, phi không khẳng định phủ định; phi đồng nhất, phi biệt lập, phi cả đồng nhất biệt lập, phi không đồng nhất biệt lập. Nói tổng quát, chúng sanh thì hay phân biệt, phân biệt liền liền và đủ cách, nhưng mọi sự phân biệt ấy toàn không thích hợp với chân như, nên nói là Không. Như vậy tách rời phân biệt thì thật không có gì phải làm cho không đi. Có một cách đúng như sự thật là thật thể đã không vì không phân biệt, thật thể ấy chính là tâm thể chân như, bất biến, sung mãn mọi sự trong sáng, nên gọi là Có. Có như vậy cũng không phải là cái có có thể thủ đắc, vì đó là lĩnh vực siêu việt phân biệt mà thực chứng mới thích ứng.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
1094. Ngài La thập nói: “Đầy đủ 3 phương tiện này thì được sanh tịnh độ: 1. Khéo léo nơi sự tu tập mà không thủ đắc các tướng; 2. Không thủ đắc quả chứng; 3. Khéo léo giáo hóa chúng sanh.”
1095. Pháp giới là Nhất chân pháp giới, chính là tâm thanh tịnh bản nguyên của chư Phật và chúng sanh, cũng gọi là Nhất tâm pháp giới hay Nhất chân vô ngại pháp giới. Pháp giới được chia làm 4 nghĩa, gọi là tứ pháp giới: sự pháp giới, lý pháp giới, lý sự vô ngại pháp giới và sự sự vô ngại pháp giới. Theo đó tất cả các pháp, mỗi pháp là chân như, nên một là tất cả, tất cả là một, hỗ tương nhiếp nhập, trùng trùng duyên khởi.
1096. Pháp nhãn tịnh (mắt pháp trong sáng) có 2 loại: 1. Pháp nhãn của Tiểu thừa (hay thừa bậc thấp) là thấy được pháp tứ đế, chứng quả Tu đà hoàn; 2. Pháp nhãn của Đại thừa là ngộ pháp Vô sanh, vào địa đầu tiên.
1097. Quả A-a-hán.
1098. Duyên tố đi vào đại thừa và giáo hóa chúng sanh. Kinh Giải thâm mật có ghi: “Các vị bồ tát trước tiên ở Giải hành địa dùng mười pháp hạnh mà rất khéo tu tập về thắng giải và thắng nhẫn, nên vượt qua địa ấy mà nhập vào chánh tánh ly sanh của bồ tát.” Mười pháp hạnh, theo luận Du già sư địa, quyển 74 nói: “Trong đại thừa có 10 pháp hạnh làm cho bồ tát giáo hóa được chúng sanh, đó là đối với 12 loại giáo pháp đại thừa mà biết (1) sao chép, (2) ghi nhớ, (3) hiến cúng, (4) trao cho người, (5) ai nói thì kính nghe, (6) hoặc đọc, (7) hoặc học, (8) rồi lớn tiếng mà tụng, (9) hoặc giảng cho người, (10) hay ở một mình chỗ thanh vắng mà tư duy và tu tập.” Chánh tánh ly sanh là Kiến đạo vị của bồ tát.
1099. Nhiếp luận nói: “Niết bàn vô trú của bồ tát là xả bỏ tạp nhiễm mà không xả bỏ sanh tử.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
1100. Thù thắng có nghĩa là Vô thượng bồ-đề thì viên mãn 4 trí (Đại viên cảnh trí, Bình đẳng tánh trí, Diệu quán sát trí và Thành sở tác trí) mà Thiên thai tông gọi là Thật trí bồ-đề.
1101. Còn gọi là địa vị Bồ tát đức tin (Tín địa). Nhiếp luận thích ghi: “Trong ba vô số kiếp tu hành, ở đại kiếp thứ nhất, bồ tát thuộc hàng thắng giải hành, chưa chứng chân như nên sự tu tập tập chỉ dựa vào đức tin.”
1102. Đây chỉ bồ tát chứng Vô sanh pháp nhẫn, còn gọi là địa vị bồ tát tuệ giác trong suốt (tịnh tâm địa).
1103. Còn gọi là địa vị bồ tát năm độ hoàn hảo: địa thứ 2 là cụ giới địa, địa thứ 3 là cụ nhẫn địa, địa thứ 4 là cụ tiến địa, địa thứ 5 là cụ định địa, địa thứ 6 là cụ tuệ địa.
1104. Còn gọi là địa vị bồ tát phương tiện vô tướng (vô tướng phương tiện địa).
1105. Địa thứ 8 là địa vị bồ tát tự tại với cảnh (sắc tự tại địa); địa thứ 9 là địa vị bồ tát tự tại với tâm (tâm tự tại địa); địa thứ 10 là địa vị bồ tát tận cùng địa vị (cứu cánh địa).
1106. Thấy đúng chân thật là trí căn bản. Chân thật là tánh như sở hữu, tức tuệ giác vốn có (bản giác).
1107. Dục tâm, tức bồ-đề tâm: Dục tâm sở ở đây thuộc thiện tánh. Đó là sự ham thích, mong cầu bồ-đề, làm động lực cho mọi điều thiện phát sanh. Có thể nói đây là công việc phát đại tâm, lập đại nguyện của sự phát bồ-đề tâm.
1108. Trong quyển 3 của sách Vạn thiện đồng quy tập (Đại Chánh Tạng, tập 48, kinh số 2017 - trang 986, tờ a, từ dòng 16) có đoạn nói rằng: “Ví như khắc vào đá thì dòng chữ còn mãi, còn viết lên mặt nước thì ắt phải mất đi, không thể tồn tại lâu dài. Lòng sân hận như khắc vào đá; các việc lành căn bản như viết lên mặt nước.” (Thí như họa thạch, kỳ văn thường trụ, họa thủy tốc diệt thế bất cửu trụ. Sân như họa thạch, chư thiện căn bản như bỉ họa thủy. - 譬如畫石其文常在, 畫水速滅勢不久住。瞋如畫石, 諸善根本如彼畫水。) Điều được nói đến ở đây như là tồn tại lâu hoặc sẽ mất đi chính là các nghiệp xấu được tạo ra và dẫn dắt chúng sinh trong luân hồi. Vì thế, kẻ nuôi lòng sân hận hay tâm oán thù thì chắc chắn nghiệp xấu tạo ra sẽ như hình khắc trên đá, theo đuổi dài lâu và khiến kẻ ấy phải đọa vào các đường dữ. Ngược lại, người làm các việc lành, không nuôi dưỡng tâm sân hận, oán thù thì nghiệp xấu đã tạo ra từ trước sẽ nhanh chóng tiêu trừ đi, chắc chắn được sinh vào những cảnh giới hiền thiện.
1109. Phẩm Giác phần, thứ 21, phần 1 nói: “Tu tập hữu tướng: Là hợp tu ba tướng, tịnh chỉ, sách cử và xả.” Tịnh chỉ là nếu tâm trạo cử hay sợ trạo cử nổi lên thì nên tu tập tịnh chỉ, đối với cảnh sở duyên cực sanh chán ghét. Sách cử là nổi lên sự cảnh giác khi tâm bị hôn trầm, làm cho tâm phấn chấn lên. Xả là rời xa hôn trầm, trạo cử, tâm trú nơi xả.”
1110. Ác kiến: Kiến thức sai lầm, trí tuệ ác hại (ác tuệ). Ác tuệ lấy nhiễm tuệ làm tánh, nó làm chướng ngăn kiến giải thiện. Sự tán loạn làm phát sanh ác tuệ.
1111. Như trong Nhiếp đại thừa luận: “Tại sao địa thứ tám gọi là bất động, vì ở đây hết thảy hữu tướng, hữu công dụng hành, đều không thể dao động.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
1112. Chỉ cho tứ thiền bát định và diệt thọ tưởng định.
1113. Niệm là nhớ nghĩ đến những pháp câu hữu với giải thoát, gọi là niệm căn. Niệm lực là sức mạnh do niệm căn sanh ra, có khả năng phá hủy mọi thứ tà niệm, bằng cách dùng pháp tứ niệm xứ để giữ gìn chánh niệm. Niệm là sở y của tâm sở định.
1114. Khổ có 3 loại: 1. Khổ khổ (dục khổ): khổ sở vì nóng lạnh, đói khát, bịnh tật v.v…; 2. Hành khổ: khổ sở vì sự biến động của pháp hữu vi, trong đó, 5 uẩn bao gồm thân tâm và thế giới của thân tâm; 3. Hoại khổ (biến dịch khổ): khổ sở vì cái vui mất đi. Luận Thanh tịnh đạo nói: “Cảm thọ khổ về thân và tâm gọi là khổ khổ, vì tự tính nó là khổ, tên nó là khổ, và vì nó đau đớn thực sự. Cảm thọ lạc về thân và tâm gọi là hoại khổ vì đó là nhân sanh ra khổ khi cảm thọ ấy biến hoại. Xả thọ và các hành khác trong ba cõi là hành khổ, vì chúng bị bức bách trong sanh diệt.” (Thích Nữ Trí Hải dịch)
1115. Kinh Pháp bảo đàn: “Tâm địa không có lầm lỗi là tự tánh giới.” Hay như kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Khi tâm tưởng nhớ đến Phật thì tâm ấy là Phật, tâm ấy làm Phật.”
1116. Kinh Đại bảo tích, Pháp hội Úc Già trưởng giả, thứ 19: “Bồ Tát ở tại gia khéo điều phục bố thí phân biệt nhu nhuyến. Phải quan niệm rằng nếu của đem bố thí cho người rồi đó là của tôi, của còn lại trong nhà thì chẳng phải của tôi, của đã bố thí thì vững chắc, của chưa thí thì chẳng vững chắc, của đã thí thì vui ngày sau, của chưa thí thì vui hiện tại, của đã thí khỏi giữ gìn, của còn lại phải giữ gìn, của đã thí thì khỏi bị tham ái trói buộc, của còn lại thì thêm tham ái. của đã thí chẳng phải bận lòng, của còn lại bận lòng, của đã thí chẳng lo sợ, của còn lại phải lo sợ, của đã thí là cột chánh đạo, của còn lại là cột ma, của đã thí thì vô tận, của còn lại thì hữu tận, của đã thí thì vui, của còn lại phải gìn giữ nên khổ, của đã thí thì lìa gút trói, của còn lại thì thêm gút trói, của đã thí là lộc, của còn lại chẳng phải lộc, của đã thí là sự nghiệp đại trượng phu, của còn lại chẳng phải sự nghiệp đại trượng phu, của đã thí được chư Phật khen, của còn lại được phàm phu khen. Vì thế nên Bồ Tát phải bền vững bố thí.” (H.T Thích Trí Tịnh dịch)
1117. Đình chỉ là giữ, hành động là phạm (chỉ trì tác phạm) là nguyên tắc đối với điều ác, như giới sát, đạo, dâm, vọng v.v…; ngược lại, đối với điều thiện thì hành động là giữ, đình chỉ là phạm (tác trì chỉ phạm), như bố tát, tụng giới, yết ma, tự tứ, phóng sanh, bố thí v.v…
1118. Tạp A hàm, kinh Tư đà già, số 619: “Tâm tự thân cận, tu tập; tùy sự hộ trì mà tác chứng. Đó gọi là tự hộ trì mình tức là hộ trì người. Thế nào là tự hộ trì mình tức là hộ trì người? Không khủng bố người khác, không chống trái người khác, không hại người khác, có từ tâm thương xót người. Đó gọi là tự hộ trì mình tức là hộ trì người. Cho nên các tỳ kheo cần phải học như vậy. Người tự hộ trì là tu tập bốn niệm xứ. Hộ trì người cũng là tu tập bốn niệm xứ.” (Thích Đức Thắng dịch)
1119. Luận Khởi tín: “Pháp tánh ấy là tâm thể phi sanh diệt. Hết thảy các pháp chỉ do phân biệt mà có sai biệt, tách rời phân biệt thì đối tượng cũng không có. Do vậy mà biết các pháp xưa nay phi ngôn ngữ, phi văn tự, phi nhận thức, tuyệt đối nhất quán, không hề chuyển biến, không thể phá hủy, toàn là tâm thể đồng nhất nên mệnh danh chân như.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
1120. Luận Khởi tín: “Thể và tướng của chân như thì nơi người thường, nơi Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, nơi Phật đà, chân như không hề thêm lên hay bớt đi, không phải tối sơ phát sanh, không phải tối hậu hủy diệt, mà là tuyệt đối thường trú, bản lai tự sung mãn mọi tánh đức.” (H.T Thích Trí Quang)
1121. Trong kinh điển có nhiều danh xưng về bồ tát như: khai sĩ (bồ-đề tát đỏa), đại sĩ (ma ha tát đỏa), tôn nhân (đệ nhất tát đỏa), thánh sĩ (thắng tát đỏa), siêu sĩ (tối thắng tát đỏa), thượng nhân (thượng tát đỏa), vô thượng (vô thượng tát đỏa), lực sĩ (lực tát đỏa), vô song (vô đẳng bồ tát), vô tư nghị (bất tư nghị tát đỏa), Phật tử, Phật trì, đại sư, đại thánh, đại công đức, đại tự tại, chánh sĩ, thỉ sĩ, cao sĩ, đại đạo tâm thành chúng sanh, pháp thần, pháp vương tử, thắng sanh tử, quảng đại tát đỏa, cực diệu tát đỏa, thắng xuất nhất thiết tam giới tát đỏa, thân nghiệp vô thất ngữ nghiệp vô thất ý nghiệp vô thất, thân nghiệp thanh tịnh ngữ nghiệp thanh tịnh ý nghiệp thanh tịnh, thân nghiệp vô động ngữ nghiệp vô động ý nghiệp vô động, thành tựu giác tuệ (hữu tuệ giả), tối thượng chiếu minh (thượng thành tựu), tối thắng chân tử (tối thắng chi tử, hàng phục tử), tối thắng nhiệm trì (tối thắng sở y, hàng phục trì), phổ năng hàng phục (tối thắng sở sử, năng hàng phục), tối thắng manh nha (tối thắng nha), dũng kiện (mãnh kiện, dũng mãnh), tối thánh (thượng quỹ phạm sư, thượng thánh), thương chủ (đạo sư), đại xưng (cụ đại danh xưng, đại danh xưng), liên mẫn (thành tựu từ bi, hữu bi), đại phước (đại phước đức), tự tại (phú tự tại, tự tại hành), pháp sư (đại pháp sư, chánh thuyết giả).
1122. Nhất thiết chủng là thức a-lại-da, còn gọi là thức dị thục, thức nhất thiết chủng. Luận Thành duy thức ghi: “Thức này chấp trì hạt giống của các pháp không để cho thất tán, do đó, được gọi là nhất thiết chủng. Ngoài thức này ra, không thể có cái gì chấp trì một cách phổ biến hạt giống của các pháp.” (Thích Tuệ Sỹ dịch)
1123. Một trong 4 chủng trí của bồ tát đối với tất cả cảnh giới. Luận Đại thừa trang nghiêm kinh, quyển 4, phẩm Minh Tín, thứ 11 ghi: “Bất chân là bất chân phân biệt trí, do không tùy thuận xuất thế trí mà sanh phân biệt.”
1124. Trí huệ toàn hảo biết được tất cả khía cạnh của các pháp.
1125. Tám tướng thành đạo: giáng thần, nhập thai, trú thai, xuất thai, xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân, nhập niết bàn.
1126. Tức sự phòng hộ của giới bổn Ba la đề mộc xoa.
1127. Phòng hộ vô lưu, tức tịnh giới vô lưu.
1128. Là bồ tát thị hiện tướng thanh văn, như đức Địa Tạng bồ tát.
1129. Dục lạc, tức ý lạc: chỉ cho Bồ tát ở Tịnh thắng ý lạc địa, tức Bồ tát đã xác lập ý hướng thành tựu chúng sanh và thành tựu Đại Bồ-đề.
1130. Cư chủ vị: chỉ cho Bồ tát ở địa thứ ba, có được sự thanh tịnh do tâm tăng thượng.
1131. Phật tánh luận, quyển 2: “Có bốn hình thái thọ sanh khác nhau của bồ tát: 1. Do ảnh hưởng của nghiệp, những vị thuộc tín hành địa thọ sanh tùy theo sự chi phối của nghiệp lực; 2. Tùy theo nguyện, những vị đã chứng nhập bồ tát địa nhưng vì muốn thành thục hết thảy chúng sanh nên thọ sanh vào các chỗ thấp kém như súc sanh; 3. Do năng lực thiền định, những vị sau khi xả các định thọ sanh xuống Dục giới; 4. Do uy lực thần thông, những vị do biến hóa có thể xuất hiện thọ sanh những cõi như Đâu-suất vv…”
1132. Mười một địa: Cực hỷ địa, Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm tuệ địa, Nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện tuệ địa, Pháp vân địa và Như lai địa.
1133. Chứng không chỉ đoạn trừ được phần phân biệt hai chấp nhân ngã, phá hủy kiến hoặc nên không còn hoài nghi nơi không tánh, không phải chứng không là đã đoạn được ba độc tham, sân, si.
1134. Chứng nghiệp là tịnh lự quán sát, bao gồm những nhân tố đưa đến tịch diệt và sự thắng giải đối với giáo pháp Phật dạy tu tập. Chứng quả bất hoại là không khi cuống đối với sự hòa hợp tuệ giác và phương tiện (tức tu tập du già) đưa đến chân như và tán thán kết quả của sự thắng giải đối với chân như.
1135. Giác phần là 37 bồ-đề phần pháp.
1136. Chỉ cho 10 pháp minh và 10 trí tâm. Mười pháp minh là: 1. Tư lương chúng sanh tánh; 2. Tư lương pháp tánh; 3. Tư lương thế giới tánh; 4. Tư lương hư không tánh; 5. Tư lương thức tánh; 6. Tư lương Dục giới tánh; 7. Tư lương Sắc giới tánh; 8. Tư lương Vô sắc giới tánh; 9. Tư lương khoái tín giải tánh; 10. Tư lương đại tâm tánh. Mười trí tâm là: 1. Bất thối chuyển tâm; 2. Đối trong Ba ngôi báu, đắc trí cứu cánh bất hoại tín thanh tịnh; 3. Tu tập quán sanh diệt; 4. Tu tập các pháp bản lai bất sanh; 5. Thường tu tập chuyển hoàn thế gian hành; 6. Tu tập biết nghiệp nhân duyên cho nên có sanh; 7. Tu tập phân biệt sanh tử niết bàn môn sai biệt; 8. Tu tập sự khác nhau của nghiệp chúng sanh; 9. Tu tập sự khác nhau của đời trước và đời sau; 10. Tu tập hiện tại thường diệt bất trụ hành.
1137. Kinh Thắng man: “Cái Như lai tạng bản tánh thanh tịnh, theo chỗ con hiểu, thì dầu bị phiền não ô nhiễm, cũng vẫn là bất khả tư nghị, là lĩnh vực của đức Thế tôn. Tại sao, bạch đức Thế tôn, tại vì trong mỗi đơn vị thì gian, những tâm lý thiện và bất thiện, những phiền não đều không thể ô nhiễm (Như lai tạng): phiền não không chạm đến tâm, tâm không chạm đến phiền não, không chạm nhau thì làm sao ô nhiễm? Bạch đức Thế tôn, có phiền não thì có cái tâm nhiễm theo, cái tâm nhiễm theo phiền não ấy mà đã khó hiểu khó biết, chỉ đức Thế tôn, bậc làm mắt, làm trí, làm gốc của Pháp, làm tôn cao, làm dẫn đạo, làm chỗ dựa của Pháp, mới thấy biết đúng như sự thật.” (H.T Thích Trí Quang dịch)
1138. Khởi tín luận nói: “Nhiễm tâm thì gọi là phiền não chướng, chướng ngại cho cái trí căn bản là trí hội nhập chân như”. Nhiễm tâm có 6: 1. Chấp nhiễm: nhiễm tâm do cố chấp gây nên; 2. Bất đoạn nhiễm: nhiễm tâm do niệm niệm tương tục; 3. Phân biệt trí nhiễm: nhiễm tâm do sự phân biệt gây nên; 4. Hiện sắc nhiễm: nhiễm tâm do tướng năng hiện (đối cảnh) gây nên; 5. Năng kiến tâm nhiễm: nhiễm tâm do tướng năng kiến (chuyển thức) gây nên; 6. Căn bản nghiệp nhiễm: nhiễm tâm do tướng nghiệp thức (vô minh bất giác) gây nên. Ba nhiễm tâm đầu là loại dễ thấy, khi tâm dơ bẩn thì nó có, khi tâm trong sáng thì nó không. Ba nhiễm tâm sau là loại khó thấy, tâm dơ bẩn, trong sáng và trung tính, khi nào chúng cũng có và làm tâm thức nhiễm ô, gọi là bất cộng vô minh.
1139. Con đường duy nhất (nhất đạo) có thể hiểu là con đường đơn thuần, không có ngã rẽ, là con đường đưa đến một mục tiêu là Đại Niết bàn; có thể hiểu là con đường trực tiếp, thẳng đến Đại Bồ-đề.
1140. Tức không còn tác ý về vô tướng.
1141. Các thiền là 4 thiền. Các tam-muội là 4 vô sắc định.
1142. Dị mạn: tên khác của phiền não.
1143. Theo kinh Thập địa, mười tâm bình đẳng là: 1. Quá khứ Phật pháp bình đẳng; 2. Vị lai Phật pháp bình đẳng; 3. Hiện tại Phật pháp bình đẳng; 4. Giới tịnh bình đẳng; 5. Tâm tịnh bình đẳng; 6. Trừ kiến nghi hối bình đẳng; 7. Tri đạo phi đạo tịnh bình đẳng; 8. Hành tri kiến tịnh bình đẳng; 9. Chư bồ-đề phần pháp chuyển thắng tịnh bình đẳng; 10. Đẳng hoá chúng sanh tịnh bình đẳng.
1144. Bồ tát bất thoái địa: được hiểu là bồ tát ở địa thứ tám, còn gọi là bồ tát a bệ bạt trí, bồ tát bất thoái chuyển.
1145. Thị hiện các sắc tướng và thân hình: là phóng đại quang minh tên An lạc trang nghiêm, thị hiện những công hạnh đã làm từ xưa đến nay, thị hiện 8 tướng thành đạo (trước khi giáng sanh), hiện ra các việc hy hữu, “thị hiện những sắc, những tướng, những hình thể, những oai nghi, những sự nghiệp, những phương tiện, những ví dụ, những ngôn thuyết, tùy tâm chúng sanh đều làm cho họ hoan hỷ.” (Xem kinh Hoa Nghiêm, phẩm Ly thế gian, H.T Thích Trí Tịnh dịch)
1146. Hữu công dụng là tu nhiều về tác ý đối với vô tướng, rồi tiếp tục tu cái tác ý không còn thiếu sót và gián đoạn về vô tướng, tiếp cận vị trí thanh tịnh. (Kinh Giải thâm mật)
1147. Biết các pháp không thể thủ đắc, tức là vô sở đắc. Bồ tát lấy vô sở đắc làm phương tiện hỗ trợ cho sự tu tập sáu độ từ địa này đến địa khác, cho đến thành tựu 20 công đức tối thanh tịnh của Phật. Kinh Đại Bát-nhã ba la mật đa, phẩm Học quán, quyển 3: “Các đại bồ tát an trú Bát-nhã ba la mật, đem vô sở đắc mà làm phương tiện để viên mãn 10 địa, 10 hạnh, 10 nhẫn và 20 ý lạc tăng thượng, 4 món như thế đều không thể thủ đắc. Các đại bồ tát an trú Bát-nhã ba la mật, đem vô sở đắc mà làm phương tiện để viên mãn 10 lực, 4 vô sở úy, 4 vô ngại giải, 18 pháp Phật bất cộng, 32 tướng đại sĩ và 80 món tùy hình hảo của Như lai, 6 món như thế đều không thể thủ đắc. Các đại bồ tát an trú Bát-nhã ba la mật, đem vô sở đắc mà làm phương tiện để viên mãn pháp không quyên mất, tánh hằng trú xả, nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí và nhất thiết tướng vi diệu trí, 6 pháp như thế đều không thể thủ đắc. Các đại bồ tát an trú Bát-nhã ba la mật, đem vô sở đắc mà làm phương tiện để viên mãn đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và cón có bao nhiêu vô lượng vô biên Phật pháp, các pháp như thế đều không thể thủ đắc.”
1148. Nghĩa là các bồ tát không nương tựa chư Phật thì khó thành tựu Phật quả, vì “quy y Thế tôn là quy y một cách chân thật.” (Kinh Thắng Man)
1149. Thiền định nhắm đến hai mục tiêu là nuôi duỡng lòng từ bi và tu tập khả năng quán chiếu sâu xa vào bản chất của thực tại, thường được đề cập đến như là sự kết hợp của từ bi và trí tuệ.
1150. Du già sư địa luận, quyển 62: “Ác tuệ là an trú nơi kiến thủ của mình, chấp chặc sự bất bình đẳng, khó buông xả lý luận, ngôn từ.” Câu xá, 10: “Tuệ nhiễm ô gọi là ác tuệ”. Ba ác tuệ, theo đó, phân biệt tự tánh là phân biệt theo đặc tánh; phân biệt tùy ức là phân biệt theo theo sự nhớ nghĩ quá khứ; phân biệt hiển thị là phân biệt theo sự bày ra hiện tại.
1151. Tám nạn xứ: tám trường hợp không may mắn, chướng nạn cho sự thấy Phật nghe pháp: 1. Địa ngục; 2. Ngạ quỷ; 3. Súc sanh (1,2,3 là ba đường dữ); 4. Bắc câu lô châu (sống quá sướng); 5. Trời Trường thọ (sống quá lâu); 6. Làm người mà đui, điếc, câm, ngọng; 7. Làm người mà thế trí biện thông; 8. Làm người mà sanh trước hay sau Phật xuất thế và nhằm chỗ hay lúc không có Phật pháp.
1152. Khinh an là trạng thái quân bình, nhẹ nhàng ổn định của cơ thể và tâm trí, là nói đến cảm giác được chế ngự, thuần hóa, không có nặng nề và hôn trầm, cho đến siêu thoát, an trú pháp lạc ngay trong hiện tại.
1153. Chánh văn là chủng chủng tướng, nghĩa là rời xa mọi đối cảnh, kể cả ấn tượng trong định.
1154. Nhất thiết chủng, tức nhất thiết chủng không giải thoát môn: Đây là nói tắt của ba giải thoát môn: nhất thiết chủng không, vô tướng và vô nguyện.
1155. Phần đoạn: nhát cắt, mảnh cắt, một bộ phận. Tác ý phần đoạn là có cái nhìn bị bóp méo, cắt xén, đóng khung, đối tượng hóa thực tại. Chính lý: “Các pháp hữu vi đều có ba phần đoạn là quá khứ, hiện tại và vị lại.”
1156. Vô phân biệt tướng là cảnh giới không còn hý luận phân biệt, là đối tượng của tuệ giác thanh tịnh.
1157. Pháp thân chư Phật có 5 sắc thái là: chuyển y, bạch pháp thành tựu, vô nhị, thường trú và bất khả tư nghị. (Nhiếp luận)
1158. Phật thuyết Thập địa kinh, ĐTK 287, Bồ tát Ly cấu địa, phẩm 2.
1159. Chánh văn là năng cầu (vô lượng Phật pháp), dịch là thừa tự, vì như kinh Thừa tự pháp trong kinh Trung bộ nói: “Hãy là những kẻ thừa tự Pháp của Ta, chớ đừng là kẻ thừa tự tài vật.” Trong Trung A hàm, kinh Cầu pháp nói: “Các ngươi nên thực hành sự cầu pháp, đừng thực hành sự cầu ẩm thực. Vì sao? Vì Ta thương tưởng các đệ tử, muốn các đệ tử nên thực hành sự cầu pháp, chứ không thực hành sự cầu ẩm thực. Nếu các ngươi thực hành cầu ẩm thực, không thực hành sự cầu pháp, không những các ngươi tự xấu xa, mà Ta cũng không được danh dự gì. Nếu các thầy thực hành sự cầu pháp, chứ không thực hành sự cầu ẩm thực, không những các thầy đã tự tốt đẹp mà Ta cũng được danh dự.” (Thích Tuệ Sỹ dịch)
1160. Ánh sáng chánh pháp lớn lao (đại pháp minh): 10 loại pháp minh có được ở địa thứ ba là do tu tập không thoái chuyển 4 thiền và 4 vô sắc định. Từ địa thứ ba, bồ tát dùng 10 pháp minh này để nhập vào địa thứ tư. Minh là trí giác, là thắng trí.
1161. Minh địa, hay Phát quang địa: Phật thuyết Thập địa kinh, 9 quyển, ngài Thi-la-đạt-ma dịch là Minh địa. Thập trú kinh, 4 quyển, ngài Cưu-ma-la-thập dịch là Phát quang địa.
1162. Hoặc chướng và trí chướng, tức phiền não chướng và sở tri chướng. Phiền não chướng chính là những tâm lý xấu và ác, làm chướng ngại cho giải thoát niết bàn. Sở tri chướng cũng gọi là trí chướng, là sự ngu si làm chướng ngại cho tuệ giác bồ-đề. Sở tri là các pháp, đối với các pháp ấy mà không biết hay biết sai là vì ngu si, nên sự ngu si được gọi là sở tri chướng. Ngoài ra, sự biết chưa hoàn toàn nhưng lại tự mãn cho là đủ, thì chính sự tự mãn ấy cũng chướng ngại cho sự toàn giác, nên cũng gọi là sở tri chướng, và vì vậy sở tri chướng cũng gọi là trí chướng (trí ở đây là trí biết chưa hoàn toàn).
1163. Phương tiện là bồ tát thấy rõ chân tánh và thực tướng của vạn hữu, bấy giờ là giai đoạn phát triển các khả năng xảo diệu, thành tựu phương tiện ba la mật. Cứu cánh là đạo nhất thừa hay nói theo Nhiếp luận là “bồ tát chứng được 3 thân thể thanh tịnh và thành được 10 tự tại tối thượng”. Đi xa vì đến địa thứ bảy là “đã đến giới hạn cuối cùng của hữu công dụng hành.” (Nhiếp luận)
1164. Ấn tượng: chánh văn là tưởng, tức là tác ý.
1165. Bốn vô ngại tuệ, tức bốn vô ngại trí: pháp vô ngại, nghĩa vô ngại, từ vô ngại và biện vô ngại.
1166. Đa văn huân tập là đa văn giáo pháp của pháp giới tối thanh tịnh, nói theo Khởi tín luận, là chân như và đẳng lưu của chân như, là dụng huân tập của chân như. Đa văn huân tập như vậy là khởi đầu của sự tu chứng ngộ nhập, ký thác nơi a-lại-da để rồi đối trị chuyển y a-lại-da. Thức a-lại-da được ví như hư không và sự đa văn huân tập vô lậu được ví như đám mây. A-lại-da có năng tánh hàm tàng rộng lớn như hư không, và chủng tử sanh hiện hành như mây đổ mưa xuống. Lấy sự huân tập tam-muội và đà la ni để nhiếp trừ sự huân tập hữu lậu, do đó bồ tát khi khởi hiện hành thì có thể thuyết pháp, nên nói “nhờ tam-muội môn và đà la ni môn mà nhiếp thọ tất cả nhân tố đa văn huân tập”.
1167. Có 11 địa, nên có 11 trú. Theo Du già sư địa luận, phẩm Bồ tát tướng, có 13 trú: 1. Bồ tát chủng tánh trú; 2. Thắng giải hành trú; 3. Cực hoan hỷ trú (Hoan hỷ địa); 4. Tăng thượng giới trú (Ly cấu địa); 5. Tăng thượng tâm trú (Phát quang địa); (6-8) Tăng thượng tuệ trú có 3: một là, giác phần tương ưng tăng thượng tuệ trú (Diệm tuệ địa); hai là, chư đế tương ưng tăng thượng tuệ trú (Nan thắng địa); ba là, duyên khởi chỉ tức tương ưng tăng thượng tuệ trú (Hiện tiền địa); 9. Hữu gia hành, hữu công dụng, vô gián khuyết đạo chuyển vận vô tướng trú (Viễn hành địa); 10. Vô gia hành, vô công dụng, vô gián khuyết đạo chuyển vận vô tướng trú (Bất động địa); 11. Vô ngại giải trú (Thiện tuệ địa); 12. Tối thượng thành mãn bồ tát trú (Pháp vân địa); 13. Như lai trú. Cũng luận này nói đến 7 địa: 1. Chủng tánh địa; 2. Thắng giải hành địa; 3. Tịnh thắng ý lạc địa; 4. Hành chánh hành địa; 5. Quyết định địa; 6. Quyết định hành địa; 7. Chí cứu cánh địa. Trong 13 trú, trú (1) thuộc Chủng tánh địa, trú (2) thuộc Thắng giải hành địa, trú (3) thuộc Tịnh thắng ý lạc địa, trú (4), (5), (6), (7), (8) và (9) thuộc Hành chánh hành địa, trú (10) thuộc Quyết định địa, trú (11) thuộc Quyết định hành địa, trú (12) và (13) thuộc Chí cứu cánh địa. Kinh Nhân vương hộ quốc Bát-nhã ba la mật đa (ĐTK 246), phẩm Bồ-đề hành, thứ 3: “Nhập lý Bát-nhã gọi là trú, Trú sanh đức hạnh gọi là địa” (Nhập lý Bát-nhã danh vi trú, Trú sanh đức hạnh danh vi địa.) Nhập là chứng ngộ. Lý là lý thật tướng. Bát-nhã là trí vô phân biệt. Trú là bất động. Đức hạnh là công đức hữu vi và công đức vô vi. Địa là gồm đủ 2 công đức.
1168. Chánh văn là số số. Số đếm thì từ số 1 cho đến số vô cực.
1169. Chánh văn là thật số. Số thật thì không phải số ảo, không phải hư dối, cho nên, bồ tát thì không thể không đoạn trừ chướng ngại, không thể không dồn chứa công đức.
1170. Tín địa chỉ cho địa vị 10 tín, 10 hành, 10 hướng và 4 gia hành. Nhiếp luận thích: “Trong ba vô số kiếp tu hành, ở đại kiếp thứ nhất, bồ tát thuộc hàng thắng giải hành, chưa chứng chân như nên sự tu tập tập chỉ dựa vào đức tin.”
1171. Chánh hành, tức chánh pháp hành: việc làm đối với chánh pháp.
1172. Nhiếp luận tán dương 4 vô lượng tâm của Phật như sau: Kính lạy đấng thương xót chúng sanh, phát khởi 4 thứ ý lạc: muốn chúng sanh hòa đồng cái vui, muốn chúng sanh xa lìa nỗi khổ, muốn chúng sanh không mất hoan hỷ, muốn chúng sanh hưởng mọi lợi lạc.
1173. Sự thù thắng của giải thoát: chỉ cho 8 giải thoát: 1. Bên trong có sắc tưởng, quán ngoại sắc giải thoát; 2. Bên trong không có sắc tưởng, quán ngoại sắc giải thoát; 3. Với tịnh giải thoát, tự thân chứng ngộ, thành tựu an trụ; 4. Vượt qua tất cả sắc tưởng, diệt trừ hữu đối tưởng, không tư duy các loại tưởng, vào vô lượng không xứ, thành tựu an trụ vô lượng không xứ; 5. Vượt qua tất cả vô lượng không xứ, vào vô lượng thức xứ, thành tựu an trụ vô lượng thức xứ; 6. Vượt qua tất cả vô lượng thức xứ, vào Vô sở hữu xứ, thành tựu an trụ Vô sở hữu xứ; 7. Vượt qua tất cả Vô sở hữu xứ, vào Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, thành tựu an trụ Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ; 8. Vượt qua tất cả Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, tưởng thọ diệt giải thoát, tự thân chứng ngộ, thành tựu an trú.
1174. Sự thù thắng của chế ngự thể nhập (chế nhập): chỉ cho 8 thắng xứ, tức 8 pháp thiền định giúp người tu đoạn trừ và siêu việt tham ái mà có thắng tri, thắng kiến đưa đến giải thoát, nên gọi là thắng xứ. Tám thắng xứ bao gồm: 1. Bên trong có sắc tưởng, bên ngoài quán sắc lượng nhỏ; 2. Bên trong có sắc tưởng, bên ngoài quán sắc vô lượng; 3. Bên trong không sắc tưởng, bên ngoài quán sắc lượng nhỏ; 4. Bên trong không sắc tưởng, bên ngoài quán sắc vô lượng; 5. Bên trong không sắc tưởng, bên ngoài quán sắc xanh; 6. Bên trong không sắc tưởng, bên ngoài quán sắc vàng; 7. Bên trong không sắc tưởng, bên ngoài quán sắc đỏ; 8. Bên trong tướng sắc tưởng, bên ngoài quán sắc trắng.
1175. Sự thù thắng của biến xứ thể nhập (biến nhập): chỉ cho 10 biến xứ: 1. Biến xứ đất; 2. Biến xứ nước; Biến xứ lửa; 4. Biến xứ gió; 5. Biến xứ xanh; 6. Biến xứ vàng; 7. Biến xứ đỏ; 8. Biến xứ trắng; 9. Biến xứ ánh sáng; 10. Biến xứ hư không. Như trong Trung A Hàm, kinh Đệ nhất đắc nói: “Lại nữa, có Mười biến xứ. Thế nào là mười? Các tỳ kheo tu tập nơi một biến xứ đất, tư duy trên, dưới, các phương là không hai, vô lượng. Tu tập nơi một biến xứ nước, một biến xứ lửa, một biến xứ gió, một biến xứ xanh, một biến xứ vàng, một biến xứ đỏ, một biến xứ trắng, một biến xứ hư không, một biến xứ thức là thứ mười. Tu tập một biến xứ, tư duy trên, dưới, các phương là không hai, vô lượng. Nhưng các chúng sanh có thắng ý nơi biến xứ lạc này cũng lệ thuộc vào sự biến dịch, lệ thuộc sự thay đổi. Đa văn Thánh đệ tử quán tưởng như vậy ắt sanh ra nhàm tởm sự ấy. Nhàm tởm rồi, đối với cái đệ nhất còn không muốn, huống nữa là cái hạ tiện.” (Thích Tuệ Sỹ dịch)
1176. Bốn vô lượng tâm, 8 giải thoát, 8 thắng xứ và 10 biến xứ là nói công đức dựa vào định mà có. Định ở đây là 4 tịnh lự, 4 định vô sắc, 8 đẳng chí, 4 tịnh định và 8 cận phần định.
1177. Sự vô tránh của Phật là hủy diệt sự tranh cãi của chúng sanh mà cội nguồn là phiền não, mê hoặc và nhiễm ô.
1178. Túc trú thông, tức túc mạng thông.
1179. Sanh tử thông, tức thiên nhãn thông.
1180. Xuất ly là ra khỏi phiền não.
1181. Tướng hảo là 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp của Phật.
1182. Bốn tướng thanh tịnh là thân thanh tịnh, độ thanh tịnh, định thanh tịnh và trí thanh tịnh.
1183. Phương tiện là nguyên nhân. Ma vương nói sai nguyên nhân.
1184. Quan niệm Tự tại thiên của phái Thú chủ (Bát thâu bát đa) và Xuất gia ngoại đạo (Ba lị đát la câu ca). Quan niệm Thiên chúa của phái ngoại đạo Bôi tro (Đồ hôi ngoại đạo). Ngoại đạo ban đầu nói chỉ chúa trời Đại phạn hay chúa trời Đại Tự tại mới có trước, nghĩa là tự có rồi sanh ra và chi phối tất cả. Chúa trời mới chính là ngã. Chúa trời ấy biến thành phiếm thần, nghĩa là bản thể phổ biến của chúa trời ấy phú cho mỗi người mỗi vật đều có một phần, và phần ấy đồng nhất với chúa trời. Từ đó, chúa trời chính là bản ngã, chính là tự ngã. Tự ngã còn được gọi là thắng ngã hay thần ngã. Muốn trở về với thần ngã thì phải quy y và tôn thờ chúa trời.
1185. Thanh tịnh là sự giải thoát.
1186. Xuất ly là sự giải thoát cứu cánh của Đại thừa.
1187. Trí lực thị xứ phi xứ: biết rõ tánh khả thi và tánh bất khả thi trong mọi trường hợp. Chánh văn là thị phi trí lực.
1188. Trí lực tam thế nghiệp báo: biết rõ luật nhân quả, tức biết nghiệp nhân nào tạo quả báo nào. Chánh văn là tự nghiệp trí lực.
1189. Trí lực thiền định giải thoát (chư thiền giải thoát tam-muội trí lực): biết tất cả các cách thiền định. Chánh văn là thiền định trí lực.
1190. Các thiền định: chỉ cho tứ thiền bát định cũa cõi Sắc và cõi Vô sắc.
1191. Giải thoát tam-muội, tức tam giải thoát môn, tam tam-muội: không tam-muội, vô tướng tam-muội và vô nguyện tam-muội.
1192. Tam-ma-bạt-đề (samapati), tức đẳng trì: chỉ cho vô tưởng định và diệt tận định, là định mà không còn thọ tưởng. Đẳng là đều đều, liên tục, giống nhau, không có phân biệt. Trì là duy trì giữ gìn cho lâu dài.
1193. Bảy trí lực khác: trí lực nhất thiết sở đạo (biết tướng trạng của chỗ đạt đến của hết thảy đạo, biết tu theo giáo pháp nào, đạo phẩm nào sẽ được địa vị nào), trí lực chủng chủng giới (biết đúng như thật hết thảy cảnh giới sai khác của chúng sanh trong thế gian), trí lực chủng chủng giải (biết các căn tánh của chúng sanh là thượng hay hạ, giáo hóa tùy theo căn cơ), trí lực nhất thiết chúng sanh tâm tánh (biết hết thảy các thứ tri giải, các điều ưa thích của chúng sanh sai khác thế nào), trí lực túc mạng vô lậu (biết từ một đời cho đến trăm ngàn vạn đời của chúng sanh: tên, họ, thọ yểu, khổ, vui v.v…), trí lực thiên nhãn vô ngại (thấy chúng sanh thọ sanh xả báo, sống chết, từ nẻo nào sanh ra, sẽ sanh vào đường nào và các nghiệp duyên thiện ác, khổ vui một cách vô chướng ngại) và trí lực vĩnh đoạn tập khí (vĩnh viễn đoạn dứt chẳng sanh khởi các vọng hoặc, tập khí, biết được một cách chân thật, chẳng còn thọ thân hậu hữu).
1194. Thành thật luận, phẩm Tứ vô úy: “Phật nói các món dục là thứ chướng đạo, mà có người thọ dục cũng vẫn được đạo. Và trong luật có chế ra pháp ngăn chận, mà có người hủy hoại pháp ấy cũng vẫn được đạo. Cũng vì vậy mà kẻ tiểu trí nghi Phật chẳng biết chướng pháp. Lại có kẻ tu đạo mà vẫn có tội lỗi, nên kẻ tiểu trí nghi bảo tu Thánh đạo mà không thể hết tội, tội đã chẳng hết làm sao hết khổ?” Phật bác bỏ: “Dục chẳng phải chướng pháp: Như lai nói dục thật là chướng pháp, nếu dục còn ở nơi tâm thì không tu đạo được, cần trước trừ dục đã, nhiên hậu mới đắc đạo. Kẻ tuy phạm pháp ngăn chận cũng vẫn đắc đạo: kẻ thật sự phá pháp ngăn chận, chắc không đắc đạo; nếu chẳng phải thật tội vì trọng duyên nên Phật tự cho người ấy trở lại, chứ người ấy chẳng phá hoại pháp ngăn chận. Nói kẻ tu đạo cũng còn tội: Thánh đạo năng phá trừ tất cả tội lỗi, vì chưa đầy đủ nên chẳng có thể phá hết, ví như tính chất của dầu tô có thể chữa được bệnh nóng, mà vì uống ít nên chẳng lành bệnh. Tu đạo cũng vậy nên không có lỗi.”
1195. Khi thuyết pháp, Phật có bốn sự tự tin, không sợ hãi, dũng mãnh: 1. Phật nói rõ, Ta là bậc Nhất thiết trí, đó là nhất thiết trí vô úy; 2. Phật nói rõ, Ta đã đoạn tận tất cả phiền não, đó là lậu tận vô úy; 3. Phật nói chánh đạo đưa đến sự diệt tận khổ đau như giới, định, tuệ v.v… mà không sợ hãi, đó là thuyết tận khổ đạo vô úy; 4. Phật nói các pháp chướng ngại như hoặc, nghiệp v.v… mà không sợ hãi, đó là thuyết chướng đạo vô úy. Hai vô úy trước là trí đức và đoạn đức thuộc công đức lợi mình. Hai vô úy sau là tu tập trí đức và tu tập đoạn đức thuộc công đức lợi người.
1196. Hai câu kệ này nói về 3 bất hộ của Phật. Thân miệng ý của Phật thuần tịnh thuần trí, nên không có gì cần phải giữ gìn, và khi thuyết pháp cho đại chúng thì điều phục họ bằng thân miệng ý ấy.
1197. Câu kệ này nói về 3 niệm trú của Phật. Phật vĩnh viễn sống trong chánh niệm và chánh trí, cho nên, một là, ai khen cũng không vui mừng; hai là, ai chê cũng không buồn ghét; ba là, ai khen chê cũng không vui mừng, cũng không buồn ghét. Thành thật luận, phẩm Ba bất hộ: “Mỗi khi thuyết pháp, thính giả có lắng nghe, Phật chẳng lấy làm mừng, hay thính giả không lắng nghe, Phật cũng chẳng lấy làm buồn, vì Phật thường tu xả tâm. Vì sao? Vì tập khí tham sân của Phật không còn chút mảy may.”
1198. Không có hư dối, nghĩa là đều có hiệu quả.
1199. Ngày đêm sáu thời (trú dạ lục thời): theo sự phân chia thời gian của Ấn Độ thời cổ thì mỗi ngày đêm được chia làm 6 thời, trong đó gồm 3 thời ban ngày là sáng, trưa, chiều và 3 thời ban đêm là đầu hôm, giữa khuya và cuối đêm..
1200. Nói rõ hơn về Mười tám pháp bất cộng: 1. Thân không lầm lỗi: Phật từ vô lượng kiếp đến nay thường dùng giới định tuệ, trí tuệ và từ bi để tu dưỡng thân, do công đức đầy đủ nên tát cả phiền não diệt tận; 2. Miệng không lầm lỗi: Phật đủ vô lượng biện tài, thuyết pháp thích ứng căn cơ chúng sanh khiến được chứng ngộ; 3. Ý không lầm lỗi: Phật tu các thiền định sâu xa, tâm không tán loạn, tâm không vướng mắc các pháp, được sự yên ổn đệ nhất nghĩa; 4. Không có ý tưởng riêng khác: Phật độ chúng sanh khắp cả bằng tâm bình đẳng, tâm không lựa chọn; 5. Không lúc nào tâm không trú định: Phật đi đứng ngồi nằm thường không rời thắng định sâu xa; 6. Không có sự không biết mà đã xả: Phật đối với tất cả các pháp thảy đều chiếu tri rồi mới xả, không có việc liễu tri một pháp mà không xả; 7. Nguyện dục không giảm: Phật có đủ các thiện pháp, thường muốn độ hóa chúng sanh mà tâm không biết chán đủ; 8. Tinh tiến không giảm: Phật luôn tinh tiến thân tâm một cách đầy đủ, thường hóa độ chúng sanh không có ngừng nghỉ; 9. Niệm không giảm: Phật đối với pháp của chư Phật ba đời, tất cả trí tuệ đều thích ứng đầy đủ, không có thoái chuyển; 10. Tuệ không giảm: Phật có đủ tất cả trí tuệ vô lượng vô biên không cùng tận; 11. Giải thoát không giảm: Phật rời xa tất cả chấp trước, có đủ hai thứ giải thoát: một là, giải thoát hữu vi, là trí tuệ vô lậu thích ứng giải thoát; hai là, giải thoát vô vi, là tất cả phiền não sạch hết không sót; 12. Giải thoát tri kiến không giảm: Phật ở trong tất cả sự giải thoát, tri kiến rõ ràng, phân biệt không ngại; 13. Trí biết đời quá khứ không vướng mắc, không chướng ngại: Phật dùng trí tuệ chiếu tri đời quá khứ có bao nhiêu pháp, như là pháp chúng sanh, pháp phi chúng sanh, thảy đều biết khắp không có trở ngại; 14. Trí biết đời vị lai không vướng mắc, không chướng ngại: Phật dùng trí tuệ chiếu tri đời vị lai có bao nhiêu pháp, như là pháp chúng sanh, pháp phi chúng sanh, thảy đều biết khắp không có trở ngại; 15. Trí biết đời hiện tại không vướng mắc, không chướng ngại: Phật dùng trí tuệ chiếu tri đời hiện tại có bao nhiêu pháp, như là pháp chúng sanh, pháp phi chúng sanh, thảy đều biết khắp không có trở ngại; 16. Thân nghiệp hành động theo trí tuệ: Phật thị hiện các thắng tướng điều phục chúng sanh, xứng với trí tuệ mà diễn thuyết tất cả các pháp, mỗi một pháp đưa đến giải thoát chứng nhập; 17. Khẩu nghiệp hành động theo trí tuệ: Phật dùng lời nói thanh tịnh vi diệu theo trí tuệ mà chuyển hóa lợi ích tất cả chúng sanh; 18. Ý nghiệp hành động theo trí tuệ: Phật dùng ý nghiệp thanh tịnh theo trí tuệ mà chuyển nhập nơi tâm chúng sanh.
1201. Chứng đắc nhất thiết chủng trí tức có đủ mọi phẩm chất của đại bồ-đề, nghĩa là thủ đắc 3 thân.
1202. Kinh Đại bảo tích, phẩm Pháp hội pháp giới thể tánh vô phân biệt: “Nếu có bồ tát huệ nhãn thanh tịnh thấy biết như thật, với tất cả pháp, tùy thấy pháp nào đều không chỗ thấy, không có động lay, được trí vô động, không hành không nhân không duyên. Hành cũng chẳng hành các pháp oai nghi, cũng chẳng phải chẳng hành. Chẳng hành nhân duyên biết các pháp bình đẳng chẳng cứu chẳng hành. Tại sao vậy? Nếu chẳng hành là vô phân biệt dứt diệt các vọng tưởng mong cầu tham trước, đó là bồ tát rời lìa các sở hữu. Bồ tát cũng hành tất cả chỗ hành của chúng sanh, vì muốn giáo hóa họ, vì muốn chứa họp tất cả pháp trợ bồ-đề, vì nhiếp thủ chánh pháp, vì chẳng dứt mất giống Tam bảo. Chỗ sở hành của Như lai, nơi thể tánh thanh tịnh tất cả pháp không có phân biệt.” (H.T Thích Trí Tịnh dịch)
1203. Do thích ứng với các đức vừa vô tận vừa vô đẳng: chánh văn không có, dựa vào Nhiếp luận thêm vào cho rõ nghĩa.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.22.181.81 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.