Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Nếu người có lỗi mà tự biết sai lầm, bỏ dữ làm lành thì tội tự tiêu diệt, như bệnh toát ra mồ hôi, dần dần được thuyên giảm.Kinh Bốn mươi hai chương
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt,
luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận.
Kinh Pháp cú
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn,
ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần,
ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Phẩm Hai Mươi Mốt
GIÁC PHẦN (Phần 1)
Giải thích:
Các Bồ tát có đức tánh hổ thẹn, ở đây nên nói:
[0640a09] Kệ tụng:
Trị chướng và hợp trí
Duyên cảnh và thành sanh
Bồ tát có hổ thẹn
Như vậy bốn sai biệt.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị các Bồ tát có đức tánh hổ thẹn, gồm bốn sắc thái: 1. Tự tánh; 2. Cùng loại; 3. Cảnh giới; 4. Tác nghiệp.
Trị chướng, là rời xa sự không biết hổ thẹn. Đây là tự tánh của hổ thẹn.
Hợp trí, là cùng với trí vô phân biệt tương ứng. Trí này cùng loại với hổ thẹn.
Duyên cảnh, là Bồ tát lấy chúng sanh Tiểu thừa, vô chướng làm đối cảnh để tu tập hổ thẹn, tức là các vị Thanh văn, Duyên giác. Tiểu thừa là đối lại với Đại thừa. Vô chướng là đã phá phiền não chướng.
Thành sanh, là Bồ tát lấy đức tánh hổ thẹn làm sự nghiệp kiến lập chúng sanh.
Đây là bốn sắc thái tu tập hổ thẹn của Bồ tát.
Hỏi: Các Bồ tát có đức tánh hổ thẹn nhưng tu tập công hạnh nào để sanh khởi đức tánh ấy?
[0640a19] Kệ tụng:
Bồ tát tu sáu độ
Chướng tăng và trị giảm
Không siêng và siêng làm
Từ đây hổ thẹn sanh.
Giải thích:
Các Bồ tát đối với bốn sự mà từ đó phát sanh hổ thẹn cực trọng:
1. Khi tu tập các ba-la-mật mà các chướng ngại thêm lên thì phát sanh hổ thẹn cực trọng;
2. Khi tu tập các ba-la-mật mà các phương tiện đối trị các chướng ngại giảm sút thì phát sanh hổ thẹn cực trọng;
3. Khi tu tập các ba-la-mật mà có sự biếng nhác thì phát sanh hổ thẹn cực trọng;
4. Khi tu tập các ba-la-mật mà siêng năng thực hành các pháp tùy thuận phiền não, còn gọi là các căn thường phóng túng nên không thể chế ngự, thì phát sanh hổ thẹn cực trọng.
Hỏi: Bồ tát có đức tánh hổ thẹn, vậy đức tánh ấy có mấy thứ sai biệt?
[0640a26] Kệ tụng:
Sáu phẩm và hai phẩm
Bảy địa và hai thừa
Tương tự đây là thấp
Trái ngược thấp là cao.
Giải thích:
Sáu phẩm: Trong Bất định địa, sáu phẩm trước mà có đức tánh hổ thẹn là thấp.
Hai phẩm: Trong các định địa, hai phẩm trước mà có đức tánh hổ thẹn là thấp.
Bảy địa: Trong Bồ tát thập địa, bảy địa đầu mà có đức tánh hổ thẹn là thấp.
Hai thừa: Là chúng sanh tâm chí hạ liệt do có tâm tăng thượng mạn mà có đức tánh hổ thẹn là thấp.
Tương tự đây: Chỉ cho các Bồ tát chưa đắc vô sanh nhẫn, dù có đức tánh hổ thẹn vẫn gọi là thấp.
Trái ngược với các vị bậc thấp có đức tánh hổ thẹn là các vị bậc cao có đức tánh hổ thẹn.
Hỏi: Pháp gì chướng ngại đức tánh hổ thẹn, và chướng ngại ấy có bao nhiêu lầm lỗi?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0640b06] Kệ tụng:
Không thẹn: chưa đoạn hoặc
Ba hại, sáu quở trách
Đọa nạn, thoái, khổ: ba
Như vậy mười hai lỗi.
Giải thích:
Không hổ thẹn: Bồ tát có hổ thẹn là còn có chướng ngại. Còn có chướng ngại tức là phiền não chưa đoạn diệt. Phiền não chưa đoạn diệt thì trước hết sanh ra ba điều tai hại:
1. Hại mình, là tư duy không chính xác nên chính mình phiền não.
2. Hại người, là do sân và xả mà gây phiền não cho người.
Hỏi: Sân gây phiền não cho người là hợp lý, còn xả thì làm sao gây phiền não cho chúng sanh?
Đáp: Bồ tát thì cần phải hóa độ chúng sanh; buông bỏ, không hóa độ nữa là gây phiền não cho người.
3. Hại mình và hại người, là hủy hoại giới cấm nên gây phiền não cho mình và người.
Khởi ba điều hại như vậy thì đối với hiện pháp mắc phải sáu điều quở trách, đó là: nghi ngờ hối hận, đánh mất lợi ích, mất sự hộ trì [của thiện tri thức và chánh niệm], từ bỏ [tu tập], bị [đại chúng] trị phạt và mang tiếng xấu.
Theo thứ tự, sáu điều quở trách ấy là do chính mình nhắc trách hay do người khác trong mười phương quở trách. Sau đó lại có thêm ba thứ tội lỗi phát sanh:
1. Thoái đọa vào các nạn xứ;
2. Thoái mất các thiện pháp đã được và chưa được;
3. Từ đó chịu các khổ thọ lớn lao.
Như vậy, không có đức tánh hổ thẹn thì sanh ra mười hai thứ lầm lỗi.
Hỏi: Đã biết về chướng ngại và lầm lỗi rồi, còn công đức của đức tánh hổ thẹn là gì?
[0640b20] Kệ tụng:
Vậy thảy tất cả ác
Bồ tát có hổ thẹn
Nên biết diệt tất cả
Vì khởi đối trị ác.
Sanh trời người thông tuệ
Mau đầy nơi hai tụ
Thành sanh không thoái chuyển
Rời, không rời làm quả.
Giải thích:
Kệ tụng đầu hiển thị công đức của hổ thẹn là rời xa lầm lỗi. Bồ tát có đức tánh hổ thẹn thì sẽ không có bất cứ lầm lỗi nào đã nói ở trên.
Kệ tụng sau hiển thị công đức của hổ thẹn là dồn chứa thắng quả. Bồ tát có đức tánh hổ thẹn thì dồn chứa đầy đủ năm quả thù thắng:
1. Sanh trời người thông tuệ, là được quả quả báo, nghĩa là thọ sanh lên cõi trời và trong loài người thường được thông tuệ;
2. Mau đầy nơi hai tụ, là được quả tăng thượng, nghĩa là có được hai khối phước và trí của Vô thượng bồ-đề;
3. Thành sanh không thoái chuyển, là được quả trượng phu, nghĩa là thành tựu pháp trượng phu;
4. Rời, là được quả tương ly, nghĩa là rời xa những chướng ngại và lầm lỗi;
5. Không rời, là được quả y, nghĩa là sanh ra nơi nào cũng không rời phương tiện đối trị những chướng ngại và lầm lỗi.
Hỏi: Có những thí dụ về công dụng của đức tánh hổ thẹn?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0640c04] Kệ tụng:
Có áo thì có bẩn
Phàm phu không hổ thẹn
Áo trời nên không dơ
Bồ tát có hổ thẹn.
Bồ tát đủ hổ thẹn
Như hư không không dơ
Muốn hơn các Bồ tát
Lấy hổ thẹn trang nghiêm.
Như mẹ hiền thương con
Hổ thẹn giúp chúng sanh
Quán sanh và hóa sanh
Đều do hổ thẹn khởi.
Giải thích:
Ở đây, kệ tụng thứ nhất hiển thị sự hổ thẹn như y phục. Vì sao? Bồ tát có hổ thẹn thì phiền não, lầm lỗi không thể nhiễm ô.
Nửa đầu kệ tụng thứ hai hiển thị sự hổ thẹn như hư không. Vì sao? Bồ tát có hổ thẹn thì khi đụng tám pháp ở thế gian mà tâm không bị nhiễm ô.
Nửa sau kệ tụng thứ hai hiển thị sự hổ thẹn như sự trang nghiêm. Vì sao? Bồ tát có hổ thẹn thì có sự đoan chánh vượt thắng các Bồ tát khác.
Kệ tụng thứ ba hiển thị sự hổ thẹn như người mẹ hiền. Vì sao? Bồ tát có hổ thẹn thì cứu giúp chúng sanh trong đường sanh tử, thấy tất cả tội lỗi như thấy voi, ngựa, quân lính... Sự quán sát chúng sanh và sự hóa độ chúng sanh của Bồ tát đều do sự hổ thẹn này mà có ra.
Thí dụ y phục cho thấy sự hổ thẹn có năng lực đối trị sự trú ở của các phiền não.
Thí dụ hư không cho thấy sự hổ thẹn có năng lực đối trị sự dính mắc vào tám pháp ở thế gian.
Thí dụ sự trang nghiêm cho thấy sự hổ thẹn có khả năng tùy thuận và đồng hành.
Thí dụ người mẹ hiền cho thấy sự hổ thẹn có khả năng thành thục chúng sanh.
Hỏi: Bồ tát thực hành hổ thẹn thì có những sắc thái gì?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0640c20] Kệ tụng:
Không hứa nhận, không làm
Hứa nhận và có làm
Nên biết bốn thứ này
Sắc thái hành hổ thẹn.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị bốn sắc thái thực hành hổ thẹn: 1. Không hứa nhận; 2. Không làm; 3. Hứa nhận; 4. Có làm.
Vì sao? Bồ tát có hổ thẹn thì đối với tất cả điều ác và lầm lỗi sẽ có hai sắc thái đầu là không hứa nhận và không làm; đối với tất cả công đức sẽ có hai sắc thái sau là hứa nhận và có làm.
Hỏi: Làm thế nào để đức tánh hổ thẹn được vô thượng?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0640c26] Kệ tụng:
Dạy tu tánh hổ thẹn
Là khởi năm tự ý
Tín pháp, tất cả quả
Vô thượng như trước biết.
Giải thích:
Như trước biết, là theo kinh điển Đại thừa có nói, hổ thẹn là trú xứ sanh ra tịnh tín, lấy chín thứ thâm tâm để tu tập hổ thẹn, dựa vào hư không đẳng định mà tu tập hổ thẹn, dựa vào trí vô phân biệt để nhiếp hóa chúng sanh, lấy một quả nhập vào tất cả quả.
Đã nói đức tánh hổ thẹn của Bồ tát, kế nói đức tánh vô úy của Bồ tát.
[0641a03] Kệ tụng:
Vô úy của Bồ tát
Thể tướng và sai biệt
Kiên cố và thù thắng
Nay lần lượt giải thích.
Giải thích:
Sự vô úy của Bồ tát có bốn nghĩa cần giải thích: 1. Thể tướng; 2. Sai biệt; 3. Kiên cố; 4. Thù thắng.
Hỏi: Thế nào là thể tướng?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0641a07] Kệ tụng:
Tiến, định, tuệ, ba khởi
Tạo dũng, kiện, cần, mãnh
Đó là tướng vô úy
Và chỉ các tên gọi.
Giải thích:
Tinh tiến, thiền định và trí tuệ, ba pháp ba-la-mật này sanh khởi thì đó là thể tướng của vô úy.
Gan dạ (dũng), khỏe mạnh (kiện), siêng năng (cần) và mạnh mẽ (mãnh), bốn tánh chất này là các tên gọi khác của vô úy.
Hỏi: Ba pháp ba-la-mật này đối trị với hạnh nào trong vô úy?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0641a12] Kệ tụng:
Hết thảy các việc làm
Hạ, động, ngu tức sợ
Rời ba, ba quyết định
Là an trú vô úy.
Giải thích:
Bồ tát đối với mọi việc làm mà trong tâm có thấp kém, có xao động, có ngu tối thì sanh ra sợ hãi.
Vì sao? Tâm thấp kém là trong mọi việc làm không có siêng năng tu tập. Tâm xao động là trong mọi việc làm tâm không an trú. Tâm ngu tối là trong mọi việc làm không biết phương tiện (thiện xảo). Ba tâm này được đối trị, theo thứ tự, bằng tinh tiến, thiền định và trí tuệ. Như vậy, Bồ tát nếu quyết định có được tinh tiến, thiền định và trí tuệ thì gọi là Bồ tát không sợ hãi.
Hỏi: Bồ tát quyết định như thế nào?
Đáp: Sự đối trị của ba pháp ba-la-mật này nhậm vận hiện tiền, gọi là quyết định.
Hỏi: Đã nói thể tướng của vô úy, thế nào là sai biệt của vô úy?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0641a21] Kệ tụng:
Tự tánh và đại nguyện
Không bận tâm, không thoái
Nghe sâu, năng hóa độ
Đặt họ vào thân Phật.
Thực hành các khổ hạnh
Không bỏ đường sanh tử
Sanh tử không thể nhiễm
Đây là mười sai biệt.
Giải thích:
Hai kệ tụng này, theo thứ tự, nói về sự vô úy có mười loại sai biệt:
1. Tự tánh, là tánh thành tựu thì được vô úy;
2. Đại nguyện, là phát tâm bồ-đề thì được vô úy;
3. Không bận tâm, là không bận tâm đến thân mạng khi siêng năng làm việc lợi mình thì được vô úy;
4. Không thoái lui, là chấp nhận có điều trái nghịch khi siêng năng làm việc lợi người thì được vô úy;
5. Nghe sâu, là khi nghe được thật nghĩa thì được vô úy;
6. Khả năng hóa độ, là với chúng sanh khó độ Bồ tát dùng thần thông hóa độ thì được vô úy;
7. Đặt chúng sanh vào thân Phật, là kiến lập chúng sanh vào đại bồ-đề thì được vô úy;
8. Thực hành các khổ hạnh, là thực hành nhiều loại khổ hạnh khó làm thì được vô úy;
9. Không bỏ đường sanh tử, là cố ý thọ sanh [trong đường sanh tử] thì được vô úy;
10. Sanh tử không thể nhiễm ô, là sống trong nhiễm ô mà tâm không bị nhiễm ô thì được vô úy.
Hỏi: Đã nói sai biệt của vô úy, thế nào là kiên cố của vô úy?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0641b07] Kệ tụng:
Bạn ác và khổ cực
Nghe sâu, không thể thoái
Như gió cánh châu chấu
Không động biển, Tu-di.
Giải thích:
Sự vô úy của Bồ tát có ba duyên tố làm cho bất động: 1. Gặp bạn ác; 2. Mắc cái khổ cực trọng; 3. Nghe giáo pháp sâu xa.
Thí như con châu chấu rung cánh không thể làm biển động, núi lay; cũng vậy, ba duyên tố kia không thể làm xao động tâm Bồ tát. Đó là sự kiên cố của Bồ tát vô úy.
Hỏi: Đã nói kiên cố của vô úy, thế nào là thù thắng của vô úy?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0641b15] Kệ tụng:
Trong các thuyết vô úy
Vô úy Bồ tát cao:
Tướng, dị, kiên, thù thắng
Với đây không tương tự.
Giải thích:
Từ ba nghĩa thù thắng: thể tướng, sai biệt và kiên cố, sự vô úy của Bồ tát so với những lời giảng thuyết về vô úy [của Thanh văn, Duyên giác] là thù thắng hơn cả.
Đã nói sự vô úy của Bồ tát, kế nói sự không thoái lui của Bồ tát.
[0641b20] Kệ tụng:
Bất thoái của Bồ tát
Phẩm loại có ba sự
Là nghe, tiến và khổ
Tàm, dũng làm y chỉ.
Ưa thích đại bồ-đề
Là tự tánh bất thoái
Chưa thành, thành, cực thành
Sai biệt các địa rõ.
Giải thích:
Hai kệ tụng này hiển thị phẩm loại, y chỉ, tự tánh và sai biệt của sự không thoái lui.
Phẩm loại của sự không thoái lui có ba thứ: 1. Nghe pháp không biết chán nên không thoái lui; 2. Thường tinh tiến lớn lao nên không thoái lui; 3. Nhẫn chịu khổ não trong đường sanh tử nên không thoái lui.
Y chỉ có hai thứ: 1. Hổ thẹn (tàm); 2. Dũng mãnh (dũng). Người có hổ thẹn thì không thoái lui, vì thoái lui là đáng sỉ nhục. Người có dũng mãnh thì không thoái lui, vì thoái lui là không có sức mạnh.
Tự tánh là có ý lạc ưa thích đại bồ-đề. Có ý lạc ưa thích đại bồ-đề mà muốn trở lui gọi là thoái chuyển.
Sai biệt có ba thứ:
1. Chưa thành, là Bồ tát tín hành địa nên không thoái lui;
2. Hoàn thành, là Bồ tát ở địa đầu tiên đến Bồ tát ở địa thứ bảy nên không thoái lui;
3. Hoàn thành cùng cực, là Bồ tát từ địa thứ tám trở lên, nên không thoái lui.
Đã nói sự không thoái lui của Bồ tát, kế nói sự biết pháp của Bồ tát.
[0641c04] Kệ tụng:
Biết pháp, biết pháp nghiệp
Biết tướng, biết vô tận
Đắc quả và hai môn
Thành sanh và trú pháp.
Giải thích:
Biết pháp, là biết năm minh xứ: 1. Nội minh; 2. Nhân minh; 3. Thanh minh; 4. Y [phương] minh; 5. [Công] xảo minh. Biết năm minh luận này gọi là biết pháp.
Biết pháp nghiệp, là biết lợi mình và lợi người, lấy đây làm sự nghiệp.
Biết nội minh luận là bản thân tu tập Phật pháp và vì người giảng nói Phật pháp.
Biết nhân minh luận là trình bày nghĩa lý của mình và chiết phục nghĩa lý của người.
Biết thanh minh luận là bản thân thông thạo về ngôn ngữ, âm thanh để người tin tưởng, tiếp nhận.
Biết y minh luận là [có kiến thức về y lý, thuốc men] để chữa bịnh cho người.
Biết xảo minh luận là [biết biểu hiện, sáng tạo cái tốt và cái đẹp] để cho người hiểu.
Biết tướng, là biết năm minh luận này cần năm nhân tố để có được: 1. Từ nghe học mà có được; 2. Từ thọ trì mà có được; 3. Từ tập tụng mà có được; 4. Từ tư duy chính xác mà có được; 5. Từ thông đạt mà có được.
Đây gọi là Bồ tát biết sắc thái của năm minh luận. Bồ tát đối với mỗi minh luận, trước hết phải nghe học, nghe học rồi thọ trì, thọ trì rồi tập tụng, tập tụng rồi tư duy chính xác, tư duy chính xác rồi thông đạt. Thông đạt là biết, đây là công đức, đây là tội lỗi, đây là thiện ngữ, đây là ác ngữ.
Biết vô tận, là sự hiểu biết như vậy là vô tận, cho đến niết-bàn vô dư cũng là vô tận.
Đắc quả, là tự biết mình chứng đắc nhất thiết chủng trí.
Hai môn, là tam-muội môn và đà-la-ni môn. Ngoài sự biết năm minh luận, Bồ tát còn dùng tam-muội môn để thành thục chúng sanh, tùy căn cơ chúng sanh mà nhiếp hóa, dùng đà-la-ni môn để thành thục Phật pháp, theo pháp sở đắc đều có thể thọ trì.
Đã nói sự biết pháp của Bồ tát, kế nói sự biết thế gian của Bồ tát.
[0641c22] Kệ tụng:
Thân biết và miệng biết
Chân lý sự thật biết
Bồ tát biết thế gian
Tối thắng không ai bằng.
Giải thích:
Bồ tát có ba loại biết thế gian: 1. Biết thế gian qua thân; 2. Biết thế gian qua miệng; 3. Biết thế gian qua chân lý.
Hỏi: Thế nào là biết qua thân, thế nào là biết qua miệng?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0641c27] Kệ tụng:
Thân biết thì mặt tươi
Miệng biết thì nói trước
Vì thành tựu pháp khí
Chánh pháp tùy tu hành.
Giải thích:
Mặt tươi, là vui cười hoan hỷ, đó là biết thế gian qua thân.
Nói trước, là hỏi han khen ngợi, đó là biết thế gian qua miệng.
Hỏi: Biết như vậy để làm gì?
Đáp: Vì thành tựu pháp khí.
Hỏi: Thành tựu pháp khí để làm gì?
Đáp: Thành tựu pháp khí để thích ứng chánh pháp, theo đó tu hành.
Hỏi: Thế nào là biết thế gian qua sự thật?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0642a04] Kệ tụng:
Hai biết, biết thế sanh
Hai biết, biết thế diệt
Để dứt và để được
Sự thật biết siêng tu.
Giải thích:
Hai biết, biết thế sanh: Biết hai chân lý khổ, tập, tức biết thế gian thường sanh khởi, vì có sự sống còn và phương tiện cho sự sống còn.
Hai biết, biết thế diệt: Biết hai chân lý diệt, đạo, tức biết thế gian có thể diệt mất, vì có sự hủy diệt và phương tiện cho sự hủy diệt.
Hỏi: Biết thế gian qua chân lý để làm gì?
Đáp: Để dứt và để được, sự thật biết siêng tu. Dứt là dứt khổ đế và tập đế. Được là được diệt đế và đạo đế. Các Bồ tát vì dứt khổ đế và tập đế, vì được diệt đế và đạo đế nên tu quán bốn đế, tu trí đầy đủ.
Sự biết thế gian như vậy là biết nghiệp dụng của thế gian.
Đã nói sự biết thế gian của Bồ tát, kế nói sự tu tập bốn lượng của Bồ tát.
[0642a14] Kệ tụng:
Năng thuyên và nghĩa ý
Liễu nghĩa và vô ngôn
Nên biết bốn thứ này
Là hình thái bốn lượng.
Giải thích:
Năng thuyên, là mười hai bộ kinh được Như lai thuyết giảng. Kinh pháp này là lượng. Sự chỉ dạy của người khác không phải là lượng.
Nghĩa ý, là nghĩa ý ở trong văn từ. Nghĩa ý này là lượng. Văn từ không phải là lượng.
Liễu nghĩa, là nghĩa lý mà thế gian có thể tin nhận và được đức Phật ấn khả. Liễu nghĩa này là lượng. Bất liễu nghĩa không phải là lượng.
Vô ngôn, là trí sở chứng xuất thế gian. Trí này là lượng. Thức không phải là lượng.
Hỏi: Vì sao đức Thế tôn nói bốn lượng này?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0642a22] Kệ tụng:
Báng pháp và phi nghĩa
Tà tư duy, khả ngôn
Vì ngăn bốn sự này
Thứ tự nói bốn lượng.
Giải thích:
Nói giáo pháp là năng thuyên, là lượng để ngăn chận sự phỉ báng pháp, cho rằng sự chỉ dạy của người khác mới là lượng.
Nói nghĩa ý [là sở thuyên], là lượng để ngăn chận văn từ phi nghĩa lý.
Nói liễu nghĩa là lượng để ngăn chận tà tư duy, kiến giải điên đảo.
Nói trí là lượng để ngăn chận cái trí còn phân biệt danh ngôn.
Hỏi: Dựa vào bốn lượng này thì có công đức gì?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0642a27] Kệ tụng:
Tín tâm và nội tư
Chánh văn và chứng trí
Bồ tát không thể hoại
Công đức dựa vào lượng.
Giải thích:
Dựa vào lượng thứ nhất thì tín tâm không thể hoại. Dựa vào lượng thứ hai thì chánh tư duy không thể hoại. Dựa vào lượng thứ ba thì chánh văn không thể hoại. Dựa vào lượng thứ tư thì trí thế gian không thể hoại.
Đã nói Bồ tát tu tập bốn lượng, kế nói bốn vô ngại giải của Bồ tát.
[0642b04] Kệ tụng:
Với môn, tướng, ngôn, trí
Thông suốt không ai bằng
Đây chính là Bồ tát
Được bốn vô ngại giải.
Giải thích:
Thứ nhất là trí biết về danh môn, tức có thể biết trong nghĩa có bao nhiêu danh môn sai biệt. Thứ hai là trí biết về tướng trạng, tức biết nghĩa này thuộc về danh này. Thứ ba là trí biết về ngôn ngữ, tức biết ngôn ngữ âm thanh của các quốc độ khác nhau. Thứ tư là trí biết về trí tuệ, tức biết mình có khả năng thuyết pháp. Biết về bốn thứ như vậy gọi là Bồ tát được vô ngại giải.
[0642b11] Kệ tụng:
Năng thuyết và sở thuyết
Thuyết cụ gồm ba sự
Bốn, hai và hai thứ
Thứ tự nhân ba sự.
Giải thích:
Năng thuyết, sở thuyết và thuyết cụ, ba sự này, mỗi sự có các nhân duyên.
Năng thuyết có bốn nhân duyên: 1. Trí dạy bảo; 2. Trí thành thục; 3. Trí chứa đầy; 4. Trí làm giật tỉnh.
Sở thuyết có hai nhân duyên: 1. Pháp; 2. Nghĩa. Bốn trí ở trong sự biết pháp và sự biết nghĩa mà khởi tác dụng.
Thuyết cụ có hai nhân duyên: 1. Ngôn; 2. Trí. Do trí biết về ngôn ngữ và trí biết về trí tuệ mà thành tựu sự thuyết pháp.
[0642b18] Kệ tụng:
Nêu pháp, giải thích pháp
Khiến hiểu, tránh chướng nạn
Thiết lập bốn vô ngại
Nơi nghĩa này nên biết.
Giải thích:
Nêu ra pháp bằng danh môn. Giải thích pháp bằng sắc thái. Khiến hiểu pháp bằng ngôn ngữ. Tránh chướng nạn bằng trí tuệ. Nên biết, ở đây lấy pháp và nghĩa của sở thuyết, lấy ngôn và trí của thuyết cụ, theo thứ đệ, thiết lập bốn vô ngại giải.
Hỏi: Thế nào là vô ngại giải? Vô ngại giải có những nghiệp dụng gì?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0642b24] Kệ tụng:
Nội chứng và ngoại giác
Nên xưng vô ngại giải
Năng đoạn tất cả nghi
Đây chính là nghiệp dụng.
Giải thích:
Nửa đầu kệ tụng nói về danh xưng. Nửa sau kệ tụng nói về nghiệp dụng.
Danh xưng: Do các Bồ tát ban đầu dùng trí xuất thế gian để nội chứng tánh chất bình đẳng của các pháp đúng như kiến giải, về sau dùng trí hậu đắc thế để ngoại giác nghĩa lý pháp môn sai biệt của các pháp. Do đạo lý này mà gọi là vô ngại giải.
Nghiệp dụng: Từ những hiểu biết này, Bồ tát có thể đoạn trừ tất cả tràng lưới nghi ngờ của tất cả chúng sanh. Đây gọi là nghiệp dụng của vô ngại giải.
Đã nói bốn vô ngại giải của Bồ tát, kế nói hai khối công đức của Bồ tát.
[0642c03] Kệ tụng:
Phước trí là hai khối
Thắng báo, không nhuốm bẩn
Tất cả các Bồ tát
Thắng tướng đều như vậy.
Giải thích:
Phước trí là hai khối: Hai khối là khối phước đức và khối trí tuệ.
Thắng báo, không nhuốm bẩn: Các Bồ tát do khối phước đức làm nhân tố thành tựu quả báo [dị thục] thù thắng trong đường sanh tử, và do khối trí tuệ làm nhân tố không nhuốm bẩn trong thắng báo kia
Cho nên nói, sắc thái thù thắng của Bồ tát thì không ai sánh bằng.
Hỏi: Hai khối phước đức và trí tuệ nhiếp sáu ba-la-mật như thế nào?
[Đáp bắt đầu kệ rằng:]
[0642c10] Kệ tụng:
Hai độ đầu thuộc phước
Độ thứ sáu thuộc trí
Ba độ nhân hai khối
Năm độ thành khối trí.
Giải thích:
Hai độ đầu thuộc phước: Nên biết, bố thí và trì giới, hai ba-la-mật này là thể của khối phước đức.
Độ thứ sáu thuộc trí: Nên biết, trí tuệ ba-la-mật là thể của khối trí tuệ.
Ba độ nhân hai khối: Nên biết, nhẫn nhục, tinh tiến và thiền định, ba ba-la-mật này cùng hợp tác làm nhân cho hai khối phước đức và trí tuệ.
Năm độ thành khối trí: Đem năm ba-la-mật đã làm mà hồi hướng về tuệ giác bồ-đề; nói cách khác, tất cả các ba-la-mật đều là nhân tố thành tựu khối trí tuệ.
Hỏi: Danh xưng của hai khối là gì? Nghiệp dụng của hai khối là gì?
[Đáp bắt đầu kệ rằng:]
[0642c18] Kệ tụng:
Chánh tu và số tu
Tích thiện gọi là khối
Lợi mình và lợi người
Thành tựu gọi nghiệp dụng.
Giải thích:
Nửa đầu kệ tụng giải thích danh xưng, nửa sau kệ tụng trình bày nghiệp dụng.
Danh xưng là tam-bà-la, gọi là khối. Tam, là nghĩa chánh tu. Bà-la, là nghĩa số tu. Do chánh tu và số tu mà thiện pháp được tăng trưởng. Do dồn chứa, tích lũy thiện pháp được tăng trưởng mà gọi là khối.
Nghiệp dụng là hai khối phước đức và trí tuệ có tác dụng thành tựu sự lợi mình và lợi người.
Hỏi: Chủng loại sai biệt của hai khối là gì?
[Đáp bắt đầu kệ rằng:]
[0642c25] Kệ tụng:
Nhập địa, nhập vô tướng
Và nhập vô công dụng
Thọ chức cùng cứu cánh
Thứ tự nhân hai khối.
Giải thích:
Ở đây, chủng loại sai biệt [của hai khối] là:
1. Giai đoạn dồn chứa tư lương ở tín hành địa, là nhân tố để nhập địa.
2. Giai đoạn dồn chứa tư lương ở sáu địa trước, là nhân tố để nhập vô tướng [hành].
3. Vô tướng là giai đoạn dồn chứa tư lương sở nhiếp của địa thứ bảy, vì các hữu tướng không còn hiện khởi.
4. Giai đoạn dồn chứa tư lương ở địa thứ bảy, là nhân tố để nhập vô công dụng [hành].
5. Giai đoạn dồn chứa tư lương ở địa thứ tám và địa thứ chín, là nhân tố để nhập thọ chức.
6. Giai đoạn dồn chứa tư lương ở địa thứ mười, là nhân tố để nhập cứu cánh. Cứu cánh là sở nhiếp của Phật địa.
Đã nói hai khối công đức của Bồ tát, kế nói sự tu tập bốn niệm xứ của Bồ tát.
[0643a04] Kệ tụng:
Y chỉ và đối trị
Nhập đế và duyên duyên
Tác ý và chí đắc
Tùy thuận và tùy chuyển.
Giác cảnh và thọ sanh
Hạn cực và tối thượng
Trường thời và hậu chứng
Thắng tu mười bốn loại.
Giải thích:
Hai kệ tụng này nói rõ sự tu tập bốn niệm xứ của Bồ tát có mười bốn chủng loại tu tập thù thắng (thắng tu): 1. Thắng tu y chỉ; 2. Thắng tu đối trị; 3. Thắng tu nhập đế; 4. Thắng tu duyên duyên; 5. Thắng tu tác ý; 6. Thắng tu chí đắc; 7. Thắng tu tùy thuận; 8. Thắng tu tùy chuyển; 9. Thắng tu giác cảnh; 10. Thắng tu thọ sanh; 11. Thắng tu hạn cực; 12. Thắng tu tối thượng; 13. Thắng tu trường thời; 14. Thắng tu hậu chứng.
Thắng tu y chỉ là dựa vào kinh điển Đại thừa mà khởi cái tuệ văn, tư, tu, lấy tuệ làm tự thể [quán niệm].
Thắng tu đối trị là tu tập đối trị bốn điên đảo bằng ý tưởng về pháp rằng bất tịnh, khổ não, vô thường, vô ngã, vì đã thể nhập thân, thọ, tâm, pháp đều là bất tịnh, khổ não, vô thường, vô ngã.
Thắng tu nhập đế là theo thứ tự của bốn đế, lần lượt ngộ nhập khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế; như luận Trung biên phân biệt có nói, tự mình ngộ nhập, khiến người ngộ nhập [bốn đế].
Thắng tu duyên duyên là lấy thân, thọ, tâm, pháp của mình hoặc của tất cả chúng sanh làm cảnh giới sở duyên.
Thắng tu tác ý là thân, thọ, tâm, pháp thì bất khả đắc.
Thắng tu chí đắc là thân, thọ, tâm, pháp thì không ly, không hợp.
Thắng tu tùy thuận là khi có các chướng ngại cần đối trị thì có khả năng đối trị các chướng ngại ấy.
Thắng tu tùy chuyển là đối với pháp tu niệm xứ của phàm phu, nhị thừa thì nhiếp thọ và tùy chuyển họ bằng sự dạy bảo.
Thắng tu giác cảnh là biết thân tương tự như huyễn sắc, biết thọ như giấc mộng mà luôn nhận lầm [là thật], biết tâm như hư không mà tự tánh [của tâm] vốn tịnh, biết pháp như người khách được ví như trần lao phiền não, như hư không có đám mây khói bụi.
Thắng tu thọ sanh là cố ý thọ sanh, thành tựu thân tối thắng như chuyển luân vương v.v…, mà thân, thọ, tâm, pháp đều không bị nhuốm bẩn.
Thắng tu hạn cực là dù tu hạ phẩm niệm xứ cũng hơn hẳn người khác tu tối thượng phẩm niệm xứ vì Bồ tát có tự tánh lợi căn.
Thắng tu tối thượng là khả năng tu tập bốn niệm trú bằng biệt tướng và tổng tướng mà không tác ý dụng công.
Thắng tu trường thời là tu tập đến niết-bàn vô dư cũng không có cùng tận.
Thắng tu hậu chứng là giai đoạn trung gian từ thập địa đến Phật địa đều khả đắc.
Đã nói sự tu tập bốn niệm xứ của Bồ tát, kế nói sự tu tập bốn chánh cần của Bồ tát.
[0643b04] Kệ tụng:
Ba xả và nhập địa
Trú tịch, được thọ ký
Thành sanh và thọ chức
Tịnh độ và viên mãn.
Giải thích:
Vì đối trị những chướng ngại của bốn niệm xứ nên Bồ tát tu tập bốn chánh cần. Nếu nói rộng các đối trị này thì có mười thứ sai biệt, đó là mười pháp hạnh để đối trị chướng ngại. Mười pháp hạnh là:
1. Hạnh xả nhiễm trước, là thọ sanh thắng báo trong các hữu mà không nhiễm trước;
2. Hạnh xả chướng cái, là rời xa tất cả chướng cái;
3. Hạnh xả hạ liệt, là rời xa tác ý nhị thừa;
4. Hạnh nhập vào các địa, là nhập vào địa đầu tiên đến địa thứ sáu;
5. Hạnh an trú tịch tĩnh, là nhập vào địa thứ bảy;
6. Hạnh được thọ ký, là nhập vào địa thứ tám;
7. Hạnh thành thục chúng sanh, là nhập vào địa thứ chín;
8. Hạnh thọ chức, là nhập vào địa thứ mười;
9. Hạnh thanh tịnh quốc độ, là ba địa, thứ tám, thứ chín và thứ mười;
10. Hạnh viên mãn, là nhập vào Phật địa. Bồ tát vì đối trị những chướng ngại cho mười pháp hạnh này mà tu tập bốn chánh cần. Đây là nói rộng về mười thứ đối trị sai biệt.
Hỏi: Nghĩa lý tu tập của mười thứ sai biệt là gì?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0643b17] Kệ tụng:
Y chỉ vào dục tâm
Khởi cần, khởi tinh tiến
Nhiếp tâm và chánh trì
Mười trị tu như vậy.
Giải thích:
Nghĩa lý tu tập: Dựa vào dục tâm khởi cần, dựa vào cần khởi tinh tiến, nhiếp tâm và chánh trì, đó gọi là nghĩa lý tu tập. Trong nghĩa lý tu tập có sự tu tập bình đẳng, có sự tu tập hữu tướng, có sự tu tập tinh tiến.
Tu tập bình đẳng: Do chánh cần mà làm cho sự tu tập chỉ quán bình đẳng.
Tu tập hữu tướng: Là hợp tu ba tướng, tịnh chỉ, sách cử và xả.
Tu tập tinh tiến: Vì loại trừ (một cách chính xác và khéo léo) hai sự cản trở của chỉ và quán là hôn trầm và trạo cử nên khởi tinh tiến.
Hỏi: Vì sao khởi tinh tiến?
Đáp: Vì nhiếp tâm và chánh trì. Nhiếp tâm là tu tập chỉ (xa-ma-tha). Chánh trì là nắm giữ chính xác [và khéo léo] sao cho tâm an trú bình đẳng.
Lấy ba cách tu tập này mà tu tập mười pháp hạnh ở trước, gọi là Bồ tát tu tập chánh cần.
Đã nói sự tu tập bốn chánh cần của Bồ tát, kế nói sự tu tập bốn thần túc của Bồ tát.
[0643b28] Kệ tụng:
Phân biệt bốn thần túc
Lược giải bằng ba sự
Y chỉ và phương tiện
Cùng thành tựu nên biết.
Giải thích:
Ở đây lược lấy ba sự để phân biệt bốn thần túc: 1. Y chỉ; 2. Phương tiện; 3. Thành tựu.
Hỏi: Thế nào là y chỉ?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0643c03] Kệ tụng:
Y chỉ của thiền định
Sai biệt có bốn túc
Một dục, hai tinh tiến
Ba tâm, bốn tư duy.
Giải thích:
Nên biết, chỗ y chỉ của thiền định có bốn thần túc sai biệt.
Hỏi: Thế nào là phương tiện?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0643c07] Kệ tụng:
Khởi tác và tùy nhiếp
Trói buộc và đối trị
Theo nhau tám đoạn hạnh
Ba, một, hai, hai thành.
Giải thích:
Khởi tác và tùy nhiếp, trói buộc và đối trị: Phương tiện cũng có bốn thứ: 1. Phương tiện khởi tác; 2. Phương tiện tùy nhiếp; 3. Phương tiện trói buộc; 4. Phương tiện đối trị.
Hỏi: Bốn thứ phương tiện này, mỗi thứ lấy những hạnh gì để thành lập?
Đáp: Theo nhau tám đoạn hạnh; ba, một, hai, hai thành: Tám đoạn hạnh là: 1. Tín; 2. Dục; 3. Cần; 4. Khinh an; 5. Chánh niệm; 6. Chánh tri; 7. Tư; 8. Xả.
Ở đây, theo thứ tự là:
1. Lấy ba hạnh tín, dục và cần để thành lập phương tiện khởi tác: do tín khởi dục, do dục khởi cần, theo thứ tự như vậy;
2. Lấy một hạnh khinh an để thành lập phương tiện tùy nhiếp: do khinh an mà tâm được định;
3. Lấy hai hạnh chánh niệm và chánh tri để thành lập phương tiện trói buộc: do chánh niệm nên trú tâm ở trong định, không cho rời cảnh sở duyên, và do chánh tri nên khi tâm rời cảnh sở duyên, biết rõ tâm mà tùy nhiếp;
4. Lấy hai hạnh tư và xả để thành lập phương tiện đối trị: nhờ có tư mà đối trị được chướng ngại của hôn trầm, và nhờ có xả mà đối trị được chướng ngại của trạo cử; hai hạnh tư và xả có tác dụng đối trị phiền não.
Hỏi: Thế nào là thành tựu?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0643c22] Kệ tụng:
Năng kiến và năng thọ
Du hý và du nguyện
Tự tại và đắc pháp
Là sáu thứ thành tựu.
Giải thích:
Sáu thứ thành tựu là: 1. Thành tựu năng kiến; 2. Thành tựu năng thọ; 3. Thành tựu du hý; 4. Thành tựu du nguyện; 5. Thành tựu tự tại; 6. Thành tựu đắc pháp.
Thành tựu năng kiến là thành tựu năm nhãn: nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn.
Thành tựu năng thọ là thành tựu sáu thông: Dựa vào năng lực giáo thọ này, theo thứ tự, thân thông là qua đến chỗ ở của người tiếp nhận sự dạy bảo; thiên nhĩ thông là nghe được lời thỉnh cầu mà đến thuyết pháp; tha tâm thông là biết người kia có hay không có các chướng ngại mà dạy cách đoạn trừ; túc trú thông là biết những hành nghiệp ở đời quá khứ, mượn sức mạnh [thần thông] làm cho người kia biết được đời trước mà sanh tin tưởng; thiên nhãn thông là nói cho người kia biết sau khi chết ở đây sẽ sanh vào chốn kia, khiến cho người kia chán ngán sanh tử; lậu tận thông là thuyết pháp sao cho người kia được giải thoát.
Thành tựu du hý là thành tựu nhiều chủng loại định dẫn ra thần thông biến hóa.
Thành tựu du nguyện (nguyện lực du hóa) là nhập nguyện lực [làm nhân] để đi lại các nguyện quả như là phóng ánh sáng, phát âm thanh v.v…, không thể kể hết, trong kinh Thập địa có nói rộng.
Thành tựu tự tại là thành tựu mười pháp tự tại, cũng trong kinh Thập địa có nói.
Thành tựu đắc pháp là thành tựu [bốn] vô sở úy và [mười tám] pháp bất cộng.
Đã nói sự tu tập bốn thần túc của Bồ tát, kế nói sự tu tập năm căn của Bồ tát.
[0644a09] Kệ tụng:
Giác, hạnh, văn, chỉ, quán
Sở duyên tín, các căn
Tăng thượng là nghĩa căn
Vì thành tựu lợi ích.
Giải thích:
Tín căn lấy bồ-đề làm sở duyên. Tiến căn lấy Bồ tát hạnh làm sở duyên. Niệm căn lấy sự nghe pháp Đại thừa làm sở duyên. Định căn lấy sự tu tập chỉ làm sở duyên. Tuệ căn lấy như thật trí làm sở duyên.
Hỏi: Thế nào là nghĩa của căn?
Đáp: Năm căn: tín, tiến, niệm, định và tuệ, đối với các sở duyên của chúng, có tác dụng tăng thượng và có khả năng thành tựu lợi ích, nên gọi là căn.
Đã nói sự tu tập năm căn của Bồ tát, kế nói sự tu tập năm lực của Bồ tát.
[0644a17] Kệ tụng:
Nên biết tín, các căn
Sắp nhập vào sơ địa
Chướng ngại năm căn ấy
Phá hủy gọi là lực.
Giải thích:
Ở đây, Bồ tát khi sắp bước vào địa đầu tiên, năm căn có năm chướng ngại là không tin, biếng nhác, thất niệm, loạn tâm và vô tri, thì sức mạnh làm suy yếu, phá hủy những chướng ngại ấy gọi là lực.
Đã nói sự tu tập năm lực của Bồ tát, kế nói sự tu tập bảy giác phần của Bồ tát.
[0644a22] Kệ tụng:
Bồ tát nhập sơ địa
Kiến lập nơi giác phần
Các pháp và chúng sanh
Ở đây được bình đẳng.
Giải thích:
Các Bồ tát khi nhập vào địa đầu tiên thì giác liễu các pháp nên kiến lập giác phần.
Hỏi: Giác là thế nào?
Đáp: Có được trí giác bình đẳng đối với tất cả pháp và thân của mình người, đó gọi là giác. Trí giác như vậy là trí giác về pháp vô ngã và nhân vô ngã.
[0644a28] Kệ tụng:
Thí như luân vương đi
Có bảy báu dẫn đầu
Bồ tát đến chánh giác
Bảy phần thường viên mãn.
Giải thích:
Kệ tụng này nói rõ bảy giác phần của Bồ tát cũng tương tự như bảy báu của Chuyển luân thánh vương.
Hỏi: Phần nào tương tự với báu nào?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0644b03] Kệ tụng:
Niệm hàng phục các cảnh
Trạch pháp phá phân biệt
Tiến dẫn vô dư giác
Sáng đem hỷ khắp thân.
Chướng hết vui khinh an
Tác dụng từ định sanh
Tùy thời mong muốn trú
Bỏ lấy đều do xả.
Giải thích:
Thứ nhất, niệm giác phần tương tự với bánh xe báu. Bánh xe báu có khả năng hàng phục quốc độ chưa chịu hàng phục. Niệm giác phần có năng lực chế ngự cảnh giới chưa được chế ngự.
Thứ hai, trạch pháp giác phần tương tự với voi báu. Voi báu có khả năng đạp đổ các nước thù địch. Trạch pháp giác phần có năng lực phá hủy phân biệt thắng oán.
Thứ ba, tinh tiến giác phần tương tự với ngựa báu. Ngựa báu có khả năng đi nhanh cùng khắp cõi đất bao la cho đến biên cương. Tinh tiến giác phần có năng lực đưa mau đến sự giác ngộ chân như cùng cực vi tế.
Thứ tư, hỷ giác phần tương tự với châu báu. Ánh sáng hạt châu soi đêm tối, đem lại hoan hỷ lớn lao cho Chuyển luân vương. Ánh sáng chánh pháp chiếu phá ngu tối, đem lại hoan hỷ tràn đầy nơi tâm.
Thứ năm, khinh an giác phần tương tự với nữ báu. Chuyển luân vương hưởng thọ khoái lạc khi được nữ báu chạm xúc. Tâm trí thoát phiền não chướng ngại nhờ vào khinh an dứt các ác hại.
Thứ sáu, định giác phần tương tự với tạng thần báu. Của cải của Chuyển luân vương đều từ vị thần ấy xuất ra. Tác dụng của trí tuệ đều từ định mà sanh ra.
Thứ bảy, xả giác phần tương tự với tướng quân báu. Tướng quân báu xem xét binh lính luyện tập bỏ yếu lấy mạnh, tùy thuận sở trú của Chuyển luân thánh vương mà giúp vua không biết mệt mỏi. Bồ tát tu hành bỏ ác lấy thiện, tùy thuận sở trú của vô phân biệt trí mà tu không dụng công.
Sự thành lập bảy giác phần tương tự như sự thành tựu bảy báu, nghĩa ấy như vậy.
[0644b21] Kệ tụng:
Y chỉ và tự tánh
Xuất ly và công đức
Thứ năm không nhiễm ô
Đây có ba giác phần.
Giải thích:
Bảy giác phần theo thứ tự: Niệm là phần y chỉ, vì tất cả bồ-đề phần dựa vào niệm mà thực hành. Trạch pháp là phần tự tánh, vì tất cả bồ-đề phần lấy trạch pháp làm tự thể. Tinh tiến là phần xuất ly, vì tinh tiến đưa Bồ tát đi đến cứu cánh. Hỷ là phần công đức, vì hỷ làm cho tâm an lạc tràn đầy. Khinh an, định và xả là phần không nhiễm ô, vì khinh an là nhân tố của không nhiễm ô, định là y chỉ của không nhiễm ô và xả là tự tánh của không nhiễm ô.
Đã nói sự tu tập bảy giác phần của Bồ tát, kế nói sự tu tập tám chánh đạo phần của Bồ tát.
[0644c01] Kệ tụng:
Một, chuyển như giác trước
Hai, lập phần cũng vậy
Kế ba, ba nghiệp tịnh
Sau ba, ba chướng đoạn.
Giải thích:
Một, chuyển như giác trước: Chánh đạo phần thứ nhất, trong bảy giác phần ở trước, Bồ tát giác ngộ như thật, sau đó tùy thuận chuyển y, gọi là chánh kiến.
Hai, lập phần cũng vậy: Chánh đạo phần thứ hai, trong bảy giác phần ở trước, Bồ tát thắng giải theo sở lập của mình, thâm nhập kinh Phật, theo sở lập của Phật, lấy đó làm sự phân biệt cho người, gọi là chánh tư duy.
Kế ba, ba nghiệp tịnh: Kế ba, là chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng. Ba nghiệp, là ngữ nghiệp, thân nghiệp và thân ngữ nghiệp. Theo thứ tự, lấy ba chánh này nhiếp hóa ba nghiệp kia.
Sau ba, ba chướng đoạn: Sau ba, là chánh cần, chánh niệm và chánh định. Ba chướng, là trí chướng, định chướng và tự tại chướng. Theo thứ tự, lấy ba chánh này đối trị ba chướng kia. Do tu tập chánh cần trong thời gian lâu xa mà không có thoái lui nên đoạn dứt được trí chướng. Do tu tập chánh niệm làm cho hôn trầm, trạo cử không có chỗ bám víu nên đoạn dứt được định chướng. Do tu tập chánh định mà thành tựu công đức thù thắng nên đoạn dứt được tự tại chướng.
Nên biết, sự kiến lập tám chánh đạo phần là như vậy.
Phẩm Giác phần - hết phần 1 Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.12.152.102 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.