Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Phẩm Mười Hai
THUẬT CẦU (Phần 2)
Giải thích:
Đã nói sự cầu nhiễm tịnh, kế nói sự cầu duy thức.
[0613b11] Kệ tụng:
Năng thủ và sở thủ
Cả hai chỉ tâm quang
Tham quang và tín quang
Hai quang không hai pháp.
Giải thích:
Năng thủ và sở thủ, cả hai chỉ tâm quang: Người cầu duy thức nên biết, năng thủ và sở thủ, cả hai chỉ là tâm quang.
Tham quang và tín quang, hai quang không hai pháp: Các phiền não quang như tham v.v... và các thiện pháp quang như tín v.v... , hai tâm quang như vậy không phải là hai pháp nhiễm tịnh. Vì sao? Chẳng rời tâm quang riêng có nhiễm pháp là tham v.v... hay tịnh pháp là tín v.v... Cho nên nói hai quang không phải hai tướng.
[0613b19] Kệ tụng:
Các thứ tâm quang khởi
Như vậy các tâm tướng
Vì quang thể phi thể
Không thủ đắc pháp thật.
Giải thích:
Các thứ tâm quang khởi, như vậy các tâm tướng: Các thứ tâm quang là nói sự tướng của các tâm số, dị thời sanh khởi, như tham quang, sân quang, v.v…, hoặc đồng thời sanh khởi, như tín quang, tiến quang v.v…
Vì quang thể phi thể, không thủ đắc pháp thật: Như vậy, tâm số nhiễm ô và tâm số thanh tịnh đều có quang tướng nhưng không có quang thể, vì vậy đức Thế tôn không dạy rằng những tâm số kia là những pháp chân thật.
Đã nói sự cầu duy thức, kế nói sự cầu các tướng.
[0613b22] Kệ tụng:
Sở tướng và năng tướng
Như vậy tướng sai biệt
Vì nhiếp lợi chúng sanh
Chư Phật khai thị hiện.
Giải thích:
Tướng có hai loại: 1. Sở tướng; 2. Năng tướng. Kệ tụng này nêu chung, các kệ tụng sau giải thích riêng biệt.
[0613c03] Kệ tụng:
Là cộng, tâm và kiến
Là vị và bất chuyển
Lược nói năm sở tướng
Rộng nói nhiều vô lượng.
Giải thích:
Là cộng, tâm và kiến, là vị và bất chuyển: Sở tướng có năm: 1. Sắc pháp; 2. Tâm pháp; 3. Tâm số pháp; 4. Bất tương ưng pháp; 5. Vô vi pháp . Cộng, là sắc pháp; tâm, là tâm pháp; kiến, là tâm số pháp; vị, là bất tương ưng pháp; bất chuyển, là hư không v.v… tức vô vi pháp.
Lược nói năm sở tướng, rộng nói nhiều vô lượng: Tâm thức thường khởi năm sở tướng như vậy. Năm sở tướng này là Thế tôn nói lược, nếu nói rộng ra thì có vô lượng sai biệt.
Đã nói các tướng của sở tướng, kế nói các tướng của năng tướng.
[0613c13] Kệ tụng:
Ý ngôn và tập quang
Danh, nghĩa cùng nhau khởi
Vì phi chân phân biệt
Gọi đó tướng phân biệt.
Giải thích:
Năng tướng, nói lược có ba loại: tướng phân biệt, tướng y tha và tướng chân thật. Kệ tụng này hiển thị tướng phân biệt.
Tướng phân biệt có ba loại: 1. Tướng phân biệt có giác; 2. Tướng phân biệt không giác; 3. Tướng phân biệt sắc thái nhân tố.
Ý ngôn: Là tưởng về nghĩa. Nghĩa, là đối cảnh của tưởng; tưởng chỉ cho tâm số tưởng. Do tưởng về nghĩa mà ý ngôn có thể khởi phân biệt như thế này, thế kia; đây là tướng phân biệt có giác.
Tập quang: Tập là chủng tử của ý ngôn; quang là từ chủng tử của ý ngôn trực tiếp sanh khởi nghĩa quang, nhưng ý ngôn chưa thể khởi phân biệt như thế này, thế kia; đây là tướng phân biệt không giác.
Danh, nghĩa cùng nhau khởi: Là dựa vào danh khởi nghĩa quang, dựa vào nghĩa khởi danh quang. Cảnh giới ấy không phải chân thật, chỉ là sự phân biệt thế gian, hoặc qua danh, hoặc qua nghĩa. Đây là tướng phân biệt sắc thái nhân tố.
Ba chủng loại của tướng phân biệt này đều là sự phân biệt hư vọng, nên gọi là tướng phân biệt.
[0613c26] Kệ tụng:
Sở thủ và năng thủ
Hai tướng mỗi ba quang
Vì phân biệt không chân
Gọi đó tướng y tha.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị tướng y tha. Bản thân tướng y tha có cả tướng sở thủ và tướng năng thủ. Tướng sở thủ có ba thứ hiển lộ là cú quang, nghĩa quang và thân quang. Tướng năng thủ có ba thứ hiển lộ là ý quang, thọ quang và phân biệt quang. Ý là thức nhiễm ô trong tất cả thời gian; thọ là năm thức thân; phân biệt là ý thức. Ba quang của tướng sở thủ và ba quang của tướng năng thủ, các quang như vậy đều là sự phân biệt không thật, nên gọi là tướng y tha.
[0614a05] Kệ tụng:
Vô thể, thể, không hai
Phi tịch tĩnh, tịch tĩnh
Là tánh vô phân biệt
Gọi đó tướng chân thật.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị tướng chân thật. Chân thật, nghĩa là chân như. Tướng chân thật có ba loại: 1. Tánh đặc hữu; 2. Tánh nhiễm tịnh; 3. Tánh vô phân biệt.
Vô thể, thể, không hai: Là tánh đặc hữu của chân thật. Vô thể, là vì tất cả pháp chỉ là phân biệt. Thể, là vì lấy vô thể làm thể. Không hai, là vì thể và vô thể không có sai biệt.
Phi tịch tĩnh, tịch tĩnh: Là tánh nhiễm tịnh của chân thật. Phi tịch tĩnh, là vì còn khách trần phiền não. Tịch tĩnh, là vì tự tánh thanh tịnh.
Là tánh vô phân biệt: Là tánh vô phân biệt của chân thật. Đó là cảnh giới không hiện hành phân biệt, vì không còn hý luận.
Đã nói ba loại năng tướng, lại có kệ rằng:
[0614a15] Kệ tụng:
Nên biết năm học cảnh:
Chánh pháp, chánh ức niệm
Tâm giới, hữu phi hữu
Thứ năm là chuyển y.
Giải thích:
Năng tướng kia lại có năm thứ đối cảnh tu học: 1. Năng trì; 2. Sở trì; 3. Kính tượng; 4. Minh ngộ; 5. Chuyển y.
Năng trì, là chánh pháp của Phật thuyết, vì chánh pháp nuôi giữ sự năng duyên của hiện quán. Sở trì, là nghĩ nhớ chánh pháp, tức lấy chánh pháp làm đối tượng nắm giữ. Kính tượng, là tâm giới, có được bằng thiền định, nghĩa là, như trước đã nói, an trú tâm nơi pháp giới thì thấy các pháp toàn là danh ngôn; định tâm dụ cho tấm kính, pháp giới dụ cho ảnh tượng. Minh ngộ, là tuệ giác xuất thế gian, rằng các pháp có thì như thật thấy có, các pháp chẳng có thì như thật thấy chẳng có; thấy có là thấy các pháp vô ngã, thấy chẳng có là thấy rõ ràng các pháp toàn là năng thủ và sở thủ. Tức là chuyển y.
[0614a25] Kệ tụng:
Thánh tánh chứng bình đẳng
Sự giải thoát cũng một
Thắng thì có năm nghĩa
Không giảm cũng không tăng.
Giải thích:
Thánh tánh chứng bình đẳng, sự giải thoát cũng một: Thánh tánh, là pháp giới vô lậu. Chứng bình đẳng, là chư thánh đồng chứng đắc pháp giới vô lậu. Sự giải thoát cũng một: Thánh tánh của chư Phật cùng thánh tánh của hàng Thanh văn, Duyên giác thì bình đẳng, do sự giải thoát thì đồng nhất.
Thắng thì có năm nghĩa, không giảm cũng không tăng: Tuy rằng thánh tánh thì bình đẳng nhưng chư Phật thì tối thắng, tự có năm nghĩa:
1. Thanh tịnh thắng, do dứt sạch tập khí phiền não;
2. Phổ biến thắng, do quốc độ đều thông suốt và thanh tịnh;
3. Thân thắng, do thân ấy là pháp thân;
4. Thọ dụng thắng, do chuyển pháp luân và thọ dụng không ngừng nghỉ;
5. Nghiệp thắng, do trú cung trời Đâu-suất, hiện các hóa sự làm lợi ích chúng sanh.
Không giảm, là khi phần nhiễm ô giảm, [pháp giới vô lậu cũng không giảm]. Không tăng, là khi phần thanh tịnh tăng, [pháp giới vô lậu cũng không tăng].
Trên đây là hành tướng của năm thứ tu học của Du-già địa, mà sự giải thoát của sự tu học ấy y cứ pháp sở tướng và ba loại pháp năng tướng.
Đã nói các tướng của sở tướng và năng tướng, kế nói sự cầu giải thoát.
[0614b10] Kệ tụng:
Như vậy chủng tử chuyển
Cú, nghĩa, thân quang chuyển
Gọi là vô lậu giới
Ba thừa đồng sở y.
Giải thích:
Như vậy chủng tử chuyển: Là thức a-lại-da chuyển.
Cú, nghĩa, thân quang chuyển: Là các thức khác chuyển.
Gọi là vô lậu giới: Là sự giải thoát.
Ba thừa đồng sở y: Là Thanh văn, Duyên giác và Phật đồng một y chỉ.
[0614b16] Kệ tụng:
Ý, thọ, phân biệt chuyển
Được bốn thứ tự tại
Tuần tự vô phân biệt
Quốc độ, trí và nghiệp.
Giải thích:
Ý, thọ, phân biệt chuyển, được bốn thứ tự tại: Ý, thọ và phân biệt, ba quang như vậy, khi chuyển y liền được bốn thứ tự tại.
Hỏi: Những gì là bốn?
Đáp: Tuần tự vô phân biệt, quốc độ, trí và nghiệp: Một là được vô phân biệt tự tại; hai là được quốc độ tự tại; ba là được trí tự tại; bốn là được nghiệp tự tại.
[0614b23] Kệ tụng:
Nên biết ba địa sau
Có bốn thứ tự tại
Bất động địa có hai
Hai địa kia có một.
Giải thích:
Nên biết ba địa sau, có bốn thứ tự tại: Bốn thứ tự tại được thành tựu ở Bất động địa, thiện tuệ địa và pháp vân địa.
Bất động địa có hai, hai địa kia có một: Bất động địa có hai thứ tự tại: một là, vô phân biệt tự tại, vì được trí vô phân biệt không dụng công [về vô tướng]; hai là, quốc độ tự tại, vì quốc độ thanh tịnh. Thiện tuệ địa có được trí tự tại, vì được bốn biện thiện xảo loại thù thắng nhất. Pháp vân địa có được nghiệp tự tại, vì các nghiệp thần thông không có chướng ngại.
[0614c03] Kệ tụng:
Ba cõi hai vô ngã
Liễu nhập chân duy thức
Cũng không duy thức quang
Đắc ly gọi giải thoát.
Giải thích:
Lại có biệt giải thoát môn.
Ba cõi hai vô ngã, liễu nhập chân duy thức: Do biết hai vô ngã chỉ là phương tiện nên ở trong ba cõi, Bồ tát phân biệt nhân và pháp đều không hữu thể, cho nên là vô ngã. Biết như vậy rồi, cũng không phải một mặt cho rằng toàn không hữu thể, bởi lẽ thủ đắc tánh duy thức chân thật của tất cả các pháp.
Cũng không duy thức quang, đắc ly gọi giải thoát: Bồ tát bấy giờ an trú tâm nơi duy thức; thức quang cũng không liền được giải thoát. Vì sao? Do nhân và pháp đều không thể thủ đắc mà rời xa hữu sở đắc.
[0614c12] Kệ tụng:
Năng trì, sở trì, tụ
Vì quán chỉ có danh
Quán danh không thấy danh
Không danh được giải thoát.
Giải thích:
Lại có biệt giải thoát môn.
Năng trì, sở trì, tụ: Năng trì, là chánh pháp được lắng nghe. Sở trì, là nghĩ nhớ chánh pháp. Tụ, là phước đức và trí tuệ viên mãn. Do trước có sức mạnh của tích tụ [phước đức và trí tuệ] mà có sự sở trì.
Vì quán chỉ có danh: Chỉ có danh, là chỉ có ngôn thuyết, không có nghĩa. Lại nữa, chỉ có danh, nghĩa là chỉ là ý thức. Lại nữa, chỉ có danh, nghĩa là bốn ấm chẳng phải sắc.
Quán danh không thấy danh, không danh được giải thoát: Lại nữa, quán cái danh làm đối tượng được quán cũng không thấy danh, vì nghĩa [dựa vào danh] là không thật thể, cũng không thấy thức, cũng không thấy bốn ấm chẳng phải sắc. Danh như vậy là không thể thủ đắc, rời xa hữu sở đắc, nên gọi là giải thoát.
[0614c22] Kệ tụng:
Ngã kiến huân tập tâm
Lưu chuyển ở các thú
An tâm trú ở trong
Ngược dòng nói giải thoát.
Giải thích:
Lại có biệt giải thoát môn.
Ngã kiến huân tập tâm, lưu chuyển ở các thú: Có hai loại ngã kiến như tro ướt [nhuộm vải] nên nói là huân tập. Do sự huân tập này làm nhân mà có sự lưu chuyển sanh tử.
An tâm trú ở trong, ngược dòng nói giải thoát: Nếu biết cảnh sở duyên không thể thủ đắc thì đặt tâm ở trong, thu nhiếp không cho loạn động, tức trở ngược sự lưu chuyển kia, gọi đó là giải thoát.
Đã nói sự cầu giải thoát, kế nói sự cầu vô tự thể.
[0615a01] Kệ tụng:
Tự không và thể không
Và thể không trú ở
Như chấp trước vô thể
Pháp thành không tự thể.
Giải thích:
Tự không và thể không, và thể chẳng trú ở: Tự không [có], là các pháp tự nhiên không, vì không thể sanh khởi từ chính nó. Không thể sanh khởi từ chính nó là vì các pháp phụ thuộc nhân duyên. Thể không [có], là các pháp đã diệt mất thì không thể sanh khởi trở lại [như trước]. Và thể không trú ở, là hiện tại các pháp trong từng sát-na không có trú ở. Ba đặc tính không tự thể này cùng khắp tất cả các pháp hữu vi, nghĩa này nên biết.
Như chấp trước vô thể, pháp thành không tự thể: Như đối tượng được chấp trước thật sự không có tự thể, vì tự thể là vô thể; giống như hàng phàm phu đối với tự thể mà chấp trước là thường, lạc, ngã, tịnh. Như vậy, đối tượng mà tướng phân biệt [chấp vào] cũng là vô thể, cho nên nói tất cả các pháp thành mà không tự thể.
[0615a12] Kệ tụng:
Không tự thể nên thành
Trước y chỉ cho sau
Không sanh lại không diệt
Bản tịnh, tánh niết-bàn.
Giải thích:
Không tự thể nên thành, trước y chỉ cho sau: Vì cái trước là vô tánh nên tuần tự thành lập cái sau là không sanh v.v…
Hỏi: Vì sao?
Đáp: Không sanh lại không diệt, Bản tịnh, tánh niết-bàn: Các pháp là vô tánh thì không sanh; không sanh thì không diệt; không diệt thì bản lai vắng lặng; bản lai vắng lặng thì tự tánh niết-bàn. Như vậy cái trước tuần tự làm y chỉ cho cái sau mà nghĩa đây được thành.
Đã nói sự cầu vô tự tánh, kế nói sự cầu vô sanh nhẫn.
[0615a20] Kệ tụng:
Bản lai và chân thật
Dị tướng và tự tướng
Tự nhiên và vô dị
Nhiễm ô, sai biệt: tám.
Giải thích:
Có tám pháp không sanh khởi gọi là vô sanh pháp nhẫn:
1. Bản lai không sanh khởi, vì sanh tử chẳng có nguồn gốc sanh khởi;
2. Chân thật không sanh khởi, là pháp không có trước sau sai biệt, vì pháp sanh khởi trước là vô thể;
3. Dị tướng không sanh khởi, vì không phải chủng xứ cũ sanh khởi trở lại;
4. Tự tướng không sanh khởi, vì tánh phân biệt hoàn toàn không sanh khởi;
5. Tự nhiên không sanh khởi, vì tự tánh của tánh y tha không sanh khởi;
6. Vô dị không sanh khởi, vì tánh chân thật không có dị thể sanh khởi;
7. Nhiễm ô không sanh khởi, vì khi được lậu tận trí thì nhiễm ô, các kiến chấp không sanh khởi nữa;
8. Sai biệt không sanh khởi, vì pháp thân chư Phật không có sự sai biệt sanh khởi. Tám pháp không sanh khởi này gọi là vô sanh pháp nhẫn.
Đã nói sự cầu vô sanh nhẫn, kế nói sự cầu nhất thừa.
[0615b03] Kệ tụng:
Pháp, vô ngã, giải thoát
Đều đồng nhất, tánh biệt
Hai tác ý, biến hóa
Cứu cánh, nói nhất thừa.
Giải thích:
Trong đây có tám ý thú để Phật nói nhất thừa:
1. Đồng pháp tánh, là các bậc Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát không có riêng biệt pháp tánh, vì tất cả cùng chung một hướng đi tới nên nói nhất thừa;
2. Đồng vô ngã thể, là các bậc Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát đều đồng nhất ở trong thể tánh vô ngã, vì có chung thú hướng ấy nên nói nhất thừa;
3. Đồng giải thoát, là các bậc Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát cùng diệt hoặc chướng, vì có sự xuất ly đồng nhất nên nói nhất thừa;
4. Tánh biệt, là vì dẫn dắt những người tam thừa bất định tánh đi vào Đại thừa nên nói nhất thừa;
5. Chư Phật có cùng tác ý với mình, là chư Phật có được tác ý như thế này: Những gì ta đã đạt được, thì tất cả chúng sanh cũng sẽ đạt được như ta, vì tác ý này nên nói nhất thừa;
6. Thanh văn có được tác ý làm Phật, là thuở xa xưa chư vị Thanh văn thực hành đại bồ-đề, khi nhân duyên hội tụ chư vị đã có quyết định phẩm tánh làm Phật; ngày nay, khi được Phật gia hộ, nên chư vị có sự nhiếp thọ thù thắng, tác ý tự biết mình sẽ làm Phật; vì chư vị trước sau tương tục không có khác biệt nên nói nhất thừa;
7. Biến hóa, là đức Phật vì giáo hóa hàng Thanh văn mà thị hiện nhập niết-bàn; như đức Phật tự nói, Ta ở trong vô lượng vô số kiếp, vì hàng Thanh văn thừa mà thị hiện niết-bàn, vì ngoài phương tiện này không có phương tiện nào khác để giáo hóa hạng người căn tánh thấp nhỏ đưa vào Đại thừa; lý thật chỉ có một nên nói nhất thừa;
8. Cứu cánh, là đạt đến thể tánh của Phật thì không còn chỗ nào để đi nữa nên nói nhất thừa.
Như vậy, bàng bạc trong kinh điển đều có tám ý thú mà Phật nói nhất thừa, nhưng cũng không phải không có ba thừa.
Hỏi: Như vậy còn có nghĩa nào nữa gom lại những ý thú kia mà nói nhất thừa?
[0615b23] Kệ tụng:
Dẫn tiếp các Thanh văn
Nhiếp trú các Bồ tát
Với hai bất định này
Chư Phật nói nhất thừa.
Giải thích:
Những ý thú kia có hai nghĩa:
1. Dẫn tiếp các Thanh văn;
2. Nhiếp trú các Bồ tát.
Nếu có các vị Thanh văn không quyết định đối với thừa tánh của mình, Phật vì dẫn tiếp các vị này đi vào Đại thừa mà nói nhất thừa.
Nếu có các vị Bồ tát không quyết định đối với thừa tánh của mình, Phật vì nhiếp trú các vị này không thoái lui Đại thừa mà nói nhất thừa.
[0615c01] Kệ tụng:
Thanh văn hai bất định
Thấy nghĩa, không thấy nghĩa
Thấy nghĩa: chưa đoạn ái
Đoạn ái đều nhuyến căn.
Giải thích:
Tánh bất định của hàng Thanh văn lại có hai loại:
1. Thấy nghĩa thừa, là vị đã được kiến đế, phát tâm Đại thừa;
2. Không thấy nghĩa thừa, là vị chưa được kiến đế nhưng lại phát tâm Đại thừa.
Thấy nghĩa [thừa] lại có hai loại:
1. Đoạn ái, là vị đã rời xa tham dục của cõi dục;
2. Chưa đoạn ái, là vị chưa rời xa tham dục của cõi dục.
Trong hai vị thấy nghĩa [thừa] này, nên biết cả hai đều đầy đủ phẩm tánh nhu nhuyến, nhưng vẫn là căn tánh chậm lụt [so với hàng Bồ Tát].
[0615c04] Kệ tụng:
Hai vị được thánh đạo
Hồi hướng về các hữu
Hồi hướng bất tư nghị
Nên hai sanh tương ứng.
Giải thích:
Như vậy hai vị thấy nghĩa, được thánh đạo, có thể đem thánh đạo hồi hướng cho các [chúng sinh trong 25 cảnh giới hiện] hữu. Sự hồi hướng như vậy gọi là sự sanh bất tư nghị, vì đem thánh đạo hồi hướng về sự thọ sanh. Hai vị này cùng với hai sự thọ sanh tương ứng.
Hỏi: Thế nào là hai sự thọ sanh?
[Đáp bằng kệ rằng:]
[0615c14] Kệ tụng:
Nguyện lực và hóa lực
Tùy ý muốn thọ sanh
Nguyện lực chưa đoạn ái
Hóa trú A-na-hàm.
Giải thích:
Hai sự thọ sanh:
1. Nguyện sanh tự tại;
2. Hóa sanh tự tại.
Vị chưa rời xa tham dục thì nguyện sanh tự tại. Vị chứng quả A-na-hàm thì hóa sanh tự tại.
Hỏi: Thế nào là phẩm tánh nhu nhuyến của hai vị này?
[0615c20] Kệ tụng:
Cả hai vui niết-bàn
Tự chán các tâm số
Cả hai nói độn đạo
Lâu xa đắc bồ-đề.
Giải thích:
Hai vị này trước tiên có tâm ưa thích vắng lặng, nên thường khởi tâm nhàm chán bản thân [và sanh tử], vì vậy con đường của hai vị ấy được gọi là con đường chậm lụt, do không thể mau đắc Vô thượng bồ-đề.
[0615c25] Kệ tụng:
Vị việc làm chưa xong
Sanh thế giới không Phật
Tu thiền để biến hóa
Dần đắc đại bồ-đề.
Giải thích:
Vị [Thanh văn mà] việc làm chưa xong: Là vị đã kiến đế nhưng chưa đoạn ái, chưa đắc quả A-la-hán. Vị này thọ sanh ở thế giới không có Phật, sanh rồi tự mình nỗ lực tu tập các thiền định để được thân biến hóa. Vị này dựa vào thân biến hóa dần dần chứng đắc Vô thượng bồ-đề.
Ở đây có ba giai vị, như Phật dạy trong kinh Thắng man, đó là Thanh văn, tiếp theo làm Duyên giác, sau được làm Phật.
Cũng như trong kinh Đại thí có nói:
1. Đầu tiên là địa vị kiến đế;
2. Sanh vào thời kỳ không có Phật, tự nỗ lực tu thiền, sau khi xả bỏ sanh thân mà thọ hóa thân;
3. Sẽ chứng đắc Vô thượng bồ-đề.
Đã nói sự cầu nhất thừa, kế nói sự cầu minh xứ.
[0615a06] Kệ tụng:
Bồ tát tập năm minh
Toàn vì cầu chủng trí
Giải, phục, tín, trị, nhiếp
Là năm, năm riêng cầu.
Giải thích:
Bồ tát tập năm minh, toàn vì cầu chủng trí: Minh xứ có năm: 1. Nội minh; 2. Nhân minh; 3. Thanh minh; 4. Y minh; 5. Xảo minh. Bồ tát học năm minh này với ý chung là cầu nhất thiết chủng trí. Bồ tát không nỗ lực tu tập năm minh thì không được nhất thiết chủng trí.
Hỏi: Ý riêng là gì?
Đáp: Hiểu biết, hàng phục, đức tin, chữa trị, nhiếp hóa là năm. Năm ý riêng cầu được học tập theo thứ tự như sau: 1. Nội minh là môn học gặt hái cho sự hiểu biết của mình; 2. Nhân minh là môn học để hàng phục sự chấp trước của ngoại đạo; 3. Thanh minh là môn học làm cho người khác có đức tin; 4. Y minh là môn học về phương cách chữa trị [bệnh tật]; 5. Xảo minh là [phương tiện] nhiếp hóa tất cả chúng sanh.
Đã nói sự cầu minh xứ, kế nói sự cầu nuôi lớn thiện căn, nghĩa là tác ý đầy đủ về các ba-la-mật. Sự tác ý này có bốn mươi bốn thứ, đầu tiên là tác ý biết nhân tố cho đến sau cùng là tác ý biết mình hơn. Nay xin nói rõ những tác ý này.
[0616a19] Kệ tụng:
Biết nhân, nhớ nghĩ y
Chung quả và tin hiểu
Bốn ý theo thứ tự
Tu tập các thiện căn.
Giải thích:
Kệ tụng này nói đến bốn thứ tác ý [đầu tiên]: 1. Tác ý biết nhân tố; 2. Tác ý nhớ nghĩ y chỉ; 3. Tác ý kết quả chung gồm; 4. Tác ý tin hiểu.
Bồ tát an trú chủng tánh thì trước hết khởi lên ý niệm: Nay tôi tự thấy tánh chất của các ba-la-mật, biết chúng có thể tăng trưởng, đó là tác ý biết nhân tố.
Tiếp theo khởi lên ý niệm: Nay tôi đã phát đại tâm thì các ba-la-mật nhất định sẽ được viên mãn. Vì sao? Vì lấy đại tâm làm nơi y chỉ, đó là tác ý nhớ nghĩ y chỉ.
Tiếp theo khởi lên ý niệm: Tôi đã phát tâm vì lợi mình, lợi người bằng sự nỗ lực tu tập các ba-la-mật, nếu kết quả của sự tu tập ấy chung gồm sự lợi mình và lợi người thì tôi nguyện tiếp nhận, nếu kết quả không chung gồm sự lợi người thì tôi nguyện không tiếp nhận; gọi đó là tác ý kết quả chung gồm.
Tiếp theo khởi lên ý niệm: Nay tôi nỗ lực thực hành sự lợi mình, lợi người là vì thích ứng phương tiện để thông đạt niết-bàn chân thật, nghĩa là ba luân không nhiễm ô, như chư Phật quá khứ từng hiểu, chư Phật vị lai sẽ hiểu, chư Phật hiện trú đang hiểu, tôi đều chánh tín, đó là tác ý tin hiểu.
Nên biết các tác ý ở sau cũng có thứ tự như vậy.
[0616b04] Kệ tụng:
Được hỷ có bốn thứ
Hai ác không thể thoái
Nên biết ý tùy tu
Đây lại có bốn thứ.
Giải thích:
Kệ tụng này có ba thứ tác ý [tiếp theo 4 tác ý trước]: 5. Tác ý có được hoan hỷ; 6. Tác ý không thoái lui; 7. Tác ý tùy thuận tu tập.
Tiếp theo [bốn tác ý trước], Bồ tát lại khởi lên ý niệm: Nay tôi tin hiểu các ba-la-mật nên có được bốn thứ hoan hỷ: hoan hỷ vì chướng ngại đoạn diệt, hoan hỷ vì phước trí viên mãn, hoan hỷ vì nhiếp lấy lợi mình, lợi người và hoan hỷ vì được hai quả y, báo, đó là tác ý có được hoan hỷ.
Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi vì thành tựu lợi mình, lợi người, vì thành tựu các pháp của Phật mà tu hành các ba-la-mật, trong khi tu tập dù gặp người ác đem những việc trái nghịch, ác độc để bức não tôi, nhưng tôi không bao giờ khởi tâm thoái lui, đó là tác ý không thoái lui.
Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi vì đắc Vô thượng bồ-đề, đối với các ba-la-mật phải khởi bốn thứ tùy thuận tu tập: phải sám hối các chướng ngại cho sáu ba-la-mật, phải tùy hỷ các hạnh của sáu ba-la-mật, phải khuyến thỉnh các pháp nghĩa của sáu ba-la-mật và phải đem sáu ba-la-mật hồi hướng Vô thượng bồ-đề, đó là tác ý tùy thuận tu tập.
[0616b18] Kệ tụng:
Tịnh tín và lãnh thọ
Nhạo thuyết và bị giáp
Khởi nguyện và mong cầu
Phương tiện, gồm bảy thứ.
Giải thích:
Kệ tụng này có bảy thứ tác ý [tiếp theo nữa]: 8. Tác ý tin tưởng trong sáng; 9. Tác ý lãnh hội tiếp nhận; 10. Tác ý trình bày vui vẻ; 11. Tác ý trang bị áo giáp; 12. Tác ý sanh khởi chí nguyện; 13. Tác ý mong cầu; 14. Tác ý phương tiện.
Bồ tát lại khởi lên ý niệm: Nay tôi đối với pháp nghĩa của các ba-la-mật mà khởi sức mạnh giữ vững đức tin sâu xa, đó là tác ý tin tưởng trong sáng.
Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi đối với pháp nghĩa của các ba-la-mật một lòng mong cầu, không có tâm chê bai, đó là tác ý lãnh hội tiếp nhận.
Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi đem pháp nghĩa của các ba-la-mật mà khai thị cho người khác, đó là tác ý trình bày vui vẻ.
Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi muốn làm cho các ba-la-mật được đầy đủ mà phát khởi sự dũng mãnh lớn lao, đó là tác y trang bị áo giáp.
Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi vì làm đầy đủ các ba-la-mật thì nguyện xin gặp được các duyên tố hỗ trợ sự làm đầy đủ, đó là tác ý sanh khởi chí nguyện.
Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi mong cầu nhân tố thành tựu Vô thượng bồ-đề là các ba-la-mật, đó là tác ý mong cầu.
Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi tư duy về phương tiện hỗ trợ cho tác dụng của các ba-la-mật, đó là tác ý phương tiện.
Ở đây, tác ý trang bị áo giáp, tác ý sanh khởi chí nguyện và tác ý mong cầu sẽ được phân biệt trong phần dạy bảo.
[0616c05] Kệ tụng:
Dũng mãnh và thương xót
Như vậy hai tác ý
Nên biết hai sai biệt
Mỗi một có bốn thứ.
Giải thích:
Kệ tụng này có hai thứ tác ý [tiếp theo]: 15. Tác ý dũng mãnh; 16. Tác ý thương xót. Hai tác ý này, mỗi tác ý có bốn thứ sai biệt.
Bồ tát tư duy về phương tiện rồi, lại khởi lên ý niệm: Nay tôi nên khởi lên bốn thứ dũng mãnh, đó là vững chắc, thành thục, cúng dường và thân cận.
Vững chắc là tu tập sáu lần của sáu ba-la-mật, nghĩa là sáu thí cho đến sáu tuệ; sáu thí là thí thí cho đến thí tuệ; giới, nhẫn, tiến, định, tuệ cũng như vậy.
Thành thục là đem các ba-la-mật làm phương tiện nhiếp vật để thành thục chúng sanh.
Cúng dường là lấy thí làm sự cúng dường lợi ích, lấy giới, nhẫn, tiến, định và tuệ làm sự cúng dường tu hành.
Thân cận là dạy bảo chính xác các ba-la-mật cho người thân cận mình.
Đó là tác ý dũng mãnh.
Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi nên khởi bốn tâm vô lượng: khi các ba-la-mật hiện hữu [nơi mình] thì nên khởi tâm từ; khi keo lẫn v.v… hiện hữu thì nên khởi tâm bi; khi các ba-la-mật hiện hữu nơi người khác thì khởi tâm hỷ; khi người khác có đức tin với các ba-la-mật thì nên khởi tâm vô nhiễm. Đó là tác ý thương xót.
[0616c21] Kệ tụng:
Hổ thẹn và vui thích
Với tâm không khuất phục
Tu trị và xưng thuyết
Đây lại có năm thứ.
Giải thích:
Kệ tụng này có 5 thứ tác ý [tiếp theo]: 17. Tác ý có hổ thẹn; 18. Tác ý có vui thích; 19. Tác ý không khuất phục; 20. Tác ý tu tập đối trị; 21. Tác ý khen ngợi thuyết nghĩa.
Tiếp theo, Bồ tát khởi lên ý niệm: Nay tôi đối với các ba-la-mật mà biếng nhác không làm, hay làm một cách sai lầm, thì phải khởi lòng hổ thẹn sâu xa, rằng với sự biếng nhác v.v… thì phải chuyển đổi, còn với thí v.v… thì không chuyển đổi, đó là tác ý có hổ thẹn.
Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi đối với cảnh giới sở duyên các ba-la-mật phải giữ tâm không tán loạn, đó là tác ý có vui thích.
Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi mà thoái lui [sự tu tập] các ba-la-mật bằng những phương tiện [khéo léo] thì là tôi đang tạo tác ý tưởng oan gia, đó là tác ý không khuất phục.
Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi đối với các ba-la-mật mà có sự thích ứng với các luận thuyết bằng sự khéo léo tu tập đối trị, đó là tác ý tu tập đối trị.
Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi vì người đời nhận hiểu và còn phải tùy theo căn tánh của họ mà khen ngợi pháp nghĩa của các ba-la-mật, đó là tác ý khen ngợi thuyết nghĩa.
[0617a05] Kệ tụng:
Y độ đắc bồ-đề
Chẳng theo Tự tại thiên
Tội lỗi và công đức
Cả hai cũng phải biết.
Giải thích:
Kệ tụng này có 2 tác ý [tiếp theo]: 22. Tác ý dựa vào các ba-la-mật; 23. Tác ý phải biết.
Bồ tát tác ý khen ngợi pháp nghĩa rồi, lại khởi lên ý niệm: Nay tôi dựa vào các ba-la-mật để chứng đắc đại bồ-đề, chẳng phải dựa vào chúa trời Tự tại v.v... , gọi đó là tác ý dựa vào các ba-la-mật.
Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi phải biết những lầm lỗi ác hại làm chướng ngại các ba-la-mật và phải biết những công đức của các ba-la-mật, gọi đó là tác ý phải biết.
[0617a12] Kệ tụng:
Vui dồn chứa, thấy nghĩa
Ưa cầu, cầu bốn thứ:
Bình đẳng, vô phân biệt
Hiện trì và đương duyên.
Giải thích:
Kệ tụng này có 3 thứ tác ý [tiếp theo]: 24. Tác ý vui mừng dồn chứa; 25. Tác ý thấy nghĩa; 26. Tác ý ưa thích sự cầu.
Bồ tát tác ý phải biết rồi, lại khởi lên ý niệm: Tôi nên vui mừng dồn chứa hai khối phước trí, đó là tác ý vui mừng dồn chứa.
Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi thấy tự tánh của các ba-la-mật có lợi ích là năng lực chứng đắc Vô thượng bồ-đề, đó là tác ý thấy nghĩa.
Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi thấy sự lợi ích của các ba-la-mật thì phải khởi lên bốn sự cầu: 1. Cầu bình đẳng, là cầu chỉ quán song tu; 2. Cầu vô phân biệt, là cầu ba luân thanh tịnh; 3. Cầu hiện trì, là cầu hiện tại nhiếp trì các độ thì có khả năng thành tựu pháp nghĩa của các độ; 4. Cầu đương duyên, là cầu vị lai sẽ thành tựu duyên tố hỗ trợ cho các độ. Đó là tác ý ưa thích sự cầu.
[0617a23] Kệ tụng:
Bảy kiến phi hữu thủ
Bốn loại tưởng hy hữu
Trái lại phi hy hữu
Tưởng này cũng có bốn.
Giải thích:
Kệ tụng này có 3 thứ tác ý [tiếp theo]: 27. Tác ý thấy phi hữu thủ; 28. Tác ý tưởng hy hữu; 29. Tác ý tưởng chẳng phải hy hữu.
Bồ tát ưa thích sự cầu rồi, tiếp theo khởi lên ý niệm: Có bảy loại phi hữu thủ, nay tôi phải thấy: 1. Phi hữu thủ chẳng phải có là có; 2. Phi hữu thủ tội lỗi là không có tội lỗi; 3. Phi hữu thủ công đức là không có công đức; 4. Phi hữu thủ chẳng phải thường là thường; 5. Phi hữu thủ chẳng phải vui là vui; 6. Phi hữu thủ không có ngã là ngã; 7. Phi hữu thủ tịch diệt là không có tịch diệt. Đức Như Lai vì đối trị bảy loại phi hữu thủ này mà lần lượt giảng nói về ba loại tam-muội và bốn pháp ưu đà na, đó là tác ý thấy phi hữu thủ.
Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi đối với các ba-la-mật phải khởi bốn thứ tưởng hy hữu: 1. Tưởng lớn; 2. Tưởng rộng; 3. Tưởng không cầu báo ân; 4. Tưởng không mong quả báo, đó là tác ý tưởng hy hữu.
Lại khởi lên ý niệm: Trái với những tưởng hy hữu, nay tôi đối với các ba-la-mật cũng có bốn loại tưởng chẳng phải hy hữu, đó là do sự rộng lớn của các ba-la-mật mà có thể chứng đắc Vô thượng bồ-đề, có thể trú tâm bình đẳng đối với mình người, có thể không cầu tất cả thế gian cúng dường, có thể không cầu có hơn thân thể tốt đẹp và tài sản đầy đủ của thế gian, đó là tác ý tưởng chẳng phải hy hữu.
[0617b11] Kệ tụng:
Ly đọa chúng sanh biên
Đại nghĩa và chuyển thí
Cứu cánh và vô gián
Như vậy có năm thứ.
Giải thích:
Kệ tụng này có 5 thứ tác ý [tiếp theo]: 30. Tác ý ly biên; 31. Tác ý đại nghĩa; 32. Tác ý chuyển thí; 33. Tác ý cứu cánh; 34. Tác ý vô gián.
Bồ tát lại khởi lên ý niệm: Nay tôi phải tu tập các ba-la-mật để chuyển hóa biên tế của tất cả chúng sanh, đó là tác ý ly biên.
Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi phải đem các ba-la-mật làm lợi ích rộng lớn cho tất cả chúng sanh, đó là tác ý đại nghĩa.
Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi có bao nhiêu công đức từ sự tu tập các ba-la-mật thì nguyện thí khắp tất cả chúng sanh, đó là tác ý chuyển thí.
Lại khởi lên ý niệm: Nguyện tất cả chúng sanh nào có được các ba-la-mật thì được ba chỗ cứu cánh: Bồ tát địa cứu cánh, Như lai địa cứu cánh và lợi ích chúng sanh cứu cánh; đó là tác ý cứu cánh.
Lại khởi lên ý niệm: Tôi phải tu tập các ba-la-mật trong tất cả thời gian không cách hở, không ngừng nghỉ, đó là tác ý vô gián.
[0617b24] Kệ tụng:
Phương tiện hằng tùy nhiếp
Tâm trú không điên đảo
Thoái lui thì không vui
Tiến lên sanh hoan hỷ.
Giải thích:
Kệ tụng này có 3 thứ tác ý [tiếp theo]: 35. Tác ý tùy nhiếp; 36. Tác ý không vui; 37. Tác ý hoan hỷ.
Bồ tát lại khởi lên ý niệm: Nay tôi phải an trú tâm không điên đảo đối với pháp sở chứng của Phật, phải thường tùy thuận nhiếp thọ các ba-la-mật trong mọi thời gian, đó là tác ý tùy nhiếp.
Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi đối với người thoái lui và khuất phục trước các ba-la-mật thì sanh lòng không vui, đó là tác ý không vui.
Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi đối với người tiến tới và thêm lên trong các ba-la-mật thì sanh lòng vui mừng, đó là tác ý hoan hỷ.
[0617c04] Kệ tụng:
Tương tự, không muốn tu
Chân thật, muốn tu tập
Không theo và muốn được
Muốn được có hai thứ.
Giải thích:
Kệ tụng này có 4 thứ tác ý [tiếp theo]: 38. Tác ý không muốn tu tập; 39. Tác ý muốn tu tập; 40. Tác ý không theo; 41. Tác ý muốn được.
Bồ tát lại khởi lên ý niệm: Nay tôi đối với các ba-la-mật tương tự thì không nên tu tập, đó là tác ý không muốn tu tập.
Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi đối với các ba-la-mật chân thật thì phải nỗ lực tu tập, đó là tác ý muốn tu tập.
Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi đối với các chướng ngại cho các ba-la-mật thì tác ý phải đoạn trừ, đó là tác ý không theo.
Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi muốn được thọ ký vị của các ba-la-mật và muốn được quyết định [hành] địa của các ba-la-mật, đó là tác ý muốn được.
[0617c14] Kệ tụng:
Định tác vị lai hạnh
Thường quán tha hạnh đầy
Tin hiểu mình thứ nhất
Vì biết thể vô thượng.
Giải thích:
Kệ tụng này có ba thứ tác ý [cuối cùng]: 42. Tác ý định làm; 43. Tác ý quán người; 44. Tác ý mình hơn.
Bồ tát lại khởi lên ý niệm: Tôi nhìn thấy các nẻo luân hồi, muốn đem phương tiện của tuệ giác để hóa độ, vì vậy ở đời vị lai tôi quyết định sẽ thực hành tất cả ba-la-mật, đó là tác ý quyết định làm.
Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi nên quán sát mười phương các đại Bồ tát khi được đầy đủ các ba mật, nguyện tôi cũng được đầy đủ như vậy, đó là tác ý quán người.
Lại khởi lên ý niệm: Nay tôi tự tín về sự thực hành các ba-la-mật mà đó là bậc nhất trong các sự thực hành. Vì sao? Vì tôi quán sát thể tánh của các ba-la-mật thì không có gì hơn được, đó là tác ý mình hơn.
[Đến đây đã trình bày theo thứ tự đủ 44 tác ý.]
[0617c24] Kệ tụng:
Lấy các tác ý này
Tu tập trong các độ
Bồ tát tất cả thời
Thiện căn được viên mãn.
Giải thích:
Nên biết, kệ tụng này tổng kết các nghĩa [của 44] tác ý ở trên.
Đã nói sự cầu trưởng dưỡng thiện căn, kế nói những sai biệt của sự cầu pháp.
[0617c28] Kệ tụng:
Cầu pháp gồm tăng trưởng
Thượng ý và rộng lớn
Có chướng và không chướng
Và có các thần thông
Không thân và có thân
Được thân và đầy thân
Nhiều mạn và ít mạn
Và cả không mạn nữa.
Giải thích:
Sự cầu pháp có mười ba thứ sai biệt:
1. Cầu tăng trưởng, là nhờ sự nghe chánh pháp mà tăng trưởng đức tin;
2. Cầu thượng ý, là ở bên Phật tiếp nhận dòng chảy chánh pháp;
3. Cầu rộng lớn, là đắc thần thông của Bồ tát để từ xa nghe đủ giáo pháp của chư Phật;
4. Cầu có chướng, là người mới tăng trưởng đức tin;
5. Cầu không chướng, là người cầu thượng ý;
6. Cầu thần thông, là người cầu rộng lớn;
7. Cầu không thân, là văn tuệ và tư tuệ không có pháp thân;
8. Cầu có thân, là tu tuệ có đa văn huân tập chủng tử thân;
9. Cầu được thân, là từ địa đầu tiên đến địa thứ bảy;
10. Cầu mãn thân, là địa thứ tám, địa thứ chín và địa thứ mười;
11. Cầu nhiều mạn, là giai đoạn tín hạnh;
12. Cầu ít mạn, là từ địa đầu tiên đến địa thứ bảy;
13. Cầu không mạn, là địa thứ tám, địa thứ chín và địa thứ mười.
Đã nói những sai biệt của sự cầu pháp, kế nói những nhân duyên của sự cầu pháp.
[0618a14] Kệ tụng:
Vì sắc, vì phi sắc
Vì thông, vì chánh pháp
Tướng tốt và bịnh hết
Nhân tự tại, vô tận.
Giải thích:
Sự cầu pháp có bốn nhân duyên: 1. Vì sắc; 2. Vì phi sắc; 3. Vì thần thông; 4. Vì chánh pháp.
Vì sắc là nhân tố của tướng tốt. Vì phi sắc là nhân tố diệt bịnh phiền não. Vì thần thông là nhân tố của tự tại. Vì chánh pháp là nhân tố của vô tận.
Như kinh Phạn thiên vương vấn có ghi: Bồ tát cầu pháp đầy đủ bốn tưởng:
1. Tưởng như diệu bảo, vì nghĩa khó có được;
2. Tưởng như lương dược, vì nghĩa trừ bịnh;
3. Tưởng như tài vật, vì nghĩa không buông bỏ;
4. Tưởng như niết-bàn, vì nghĩa khổ diệt.
Do pháp là nhân tố của tướng tốt trang nghiêm nên tưởng như diệu bảo. Do pháp là nhân tố diệt bịnh phiền não nên tưởng như lương dược. Do pháp là nhân tố của thần thông tự tại nên tưởng như tài vật. Do pháp là nhân tố của chánh pháp vô tận nên tưởng như niết-bàn.
Đã nói những nhân duyên của sự cầu pháp, kế nói sự phân biệt của sự cầu viễn ly.
[0618a27] Kệ tụng:
Vô thể, thể, tăng, giảm
Nhất, dị, tự, biệt tướng
Như danh, như nghĩa vậy
Phân biệt có mười thứ.
Giải thích:
Có mười thứ phân biệt: 1. Phân biệt vô thể; 2. Phân biệt hữu thể; 3. Phân biệt tăng ích; 4. Phân biệt tổn giảm; 5. Phân biệt nhất tướng; 6. Phân biệt dị tướng; 7. Phân biệt tự tướng; 8. Phân biệt biệt tướng; 9. Phân biệt khởi nghĩa theo danh; 10. Phân biệt khởi danh theo nghĩa.
Trong kinh Bát-nhã ba-la-mật có ghi, vì muốn các Bồ tát viễn ly mười thứ phân biệt này mà nói mười thứ đối trị: (1) vì đối trị phân biệt vô thể, kinh nói, có Bồ tát …, Bồ tát …; (2) vì đối trị phân biệt hữu thể, kinh nói, không thấy có Bồ tát v.v…; (3) vì đối trị phân biệt tăng ích, kinh nói, này Xá Lợi Phất, tự tánh của sắc là không; (4) vì đối trị phân biệt tổn giảm, kinh nói, chẳng phải sắc diệt mới gọi là không; (5) vì đối trị phân biệt nhất tướng, kinh nói, nếu sắc là không thì [sắc ấy] là phi sắc; (6) vì đối trị phân biệt dị tướng, kinh nói, không chẳng khác sắc, sắc chẳng khác không, không tức là sắc; (7) vì đối trị phân biệt tự tướng, kinh nói, sắc ấy chỉ là danh; (8) vì đối trị phân biệt biệt tướng, kinh nói, sắc ấy không sanh, không diệt, chẳng phải nhiễm, chẳng phải tịnh v.v…; (9) vì đối trị phân biệt khởi nghĩa theo danh, kinh nói, danh ấy làm khách nên nghĩa không nên dính theo danh; (10) vì đối trị phân biệt khởi danh theo nghĩa, kinh nói, tất cả danh đều không thể thấy, vì không thể thấy nên danh không nên dính theo nghĩa.
Đã nói sự phân biệt của sự cầu viễn ly, kế nói sự cầu pháp lớn lao.
[0618b18] Kệ tụng:
Bồ tát thắng dũng mãnh
Hai cầu được chân thật
Tùy thuận các thế gian
Công đức như biển đầy.
Giải thích:
Sự cầu pháp có ba thứ lớn lao:
1. Phương tiện lớn lao, do tinh tiến tột bậc cầu thế đế và đệ nhất nghĩa đế một cách chân thật, không điên đảo;
2. Lợi người lớn lao, do làm việc thế gian, dựa vào đó hỗ trợ cho sự an trú đệ nhất nghĩa đế;
3. Lợi mình lớn lao, do tất cả công đức như biển cả tràn đầy.
Phẩm Thuật Cầu trọn vẹn Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.191.189.124 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.