Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt, luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác. Kinh Pháp cú
Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi. Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Rời bỏ uế trược, khéo nghiêm trì giới luật, sống khắc kỷ và chân thật, người như thế mới xứng đáng mặc áo cà-sa.Kinh Pháp cú (Kệ số 10)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận [大乘莊嚴經論] »» Bản Việt dịch quyển số 3 »»

Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận [大乘莊嚴經論] »» Bản Việt dịch quyển số 3

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.57 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.66 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh

Kinh này có 13 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 |
Việt dịch: Quảng Minh

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Phẩm Mười
BỒ-ĐỀ
Giải thích:
Đã nói sự thành thục chúng sanh của Bồ tát, kế nói sự đắc nhất thiết chủng trí của Bồ tát.
[0602a08] Kệ tụng:
Tất cả khó đã làm
Tất cả thiện đã chứa
Tất cả thời đã độ
Tất cả chướng đã đoạn.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị nhân viên mãn của nhất thiết chủng trí.
Tất cả khó đã làm: Tu hành đầy đủ vô lượng, trăm ngàn thứ khổ hạnh khó làm, chưa từng biết mệt mỏi.
Tất cả thiện đã chứa: Dồn chứa đầy đủ tự tánh thiện căn của các ba-la-mật.
Tất cả thời đã độ: Trải qua đầy đủ thời gian lâu xa là (ba) a-tăng-kỳ đại kiếp.
Tất cả chướng đã đoạn: Đoạn trừ hết tất cả chướng ngại Đại thừa, tức những chướng ngại nhỏ nhiệm [khó phá] ở trong các địa.
[0602a16] Kệ tụng:
Thành tựu nhất thiết chủng
Đây tức là thân Phật
Thí như tráp lớn mở
Bảo vật liền phô bày.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị quả viên mãn của nhất thiết chủng trí, quả ấy có ba nghĩa phân biệt: 1. Chí đắc; 2. Tự tánh; 3. Thí dụ.
Thành tựu nhất thiết chủng: Là phân biệt về chí đắc, nghĩa là từ địa vị này về sau đều thành tựu nhất thiết chủng trí.
Đây tức là thân Phật: Là phân biệt về tự tánh, nghĩa là nhất thiết chủng trí là thể của thân Phật.
Thí như tráp lớn mở, bảo vật liền phô bày: Là phân biệt về thí dụ, nghĩa là bồ-đề phần bảo [chân thật] không thể nghĩ bàn đều hiện ra trước mắt.
Đã nói nhất thiết chủng trí là thân Phật, kế nói thân ấy là sắc thái không hai.
[0602a25] Kệ tụng:
Bạch pháp là thân Phật
Chẳng không cũng chẳng có
Phật là nhân pháp bảo
Pháp là nhân thiện căn.
Giải thích:
Bạch pháp là thân Phật: Chuyển sáu ba-la-mật v.v…, tất cả thiện pháp làm thể của thân Phật.
Chẳng không cũng chẳng có: Thể của thân Phật chẳng phải không. Vì sao? Vì chân như thì không có riêng biệt. Thể của thân Phật cũng chẳng phải có. Vì sao? Vì tự tánh [thân] chưa thành tựu. Cho nên nói thân Phật mang sắc thái không hai.
Phật là nhân pháp bảo: Phật thuyết tất cả giáo pháp, cho đến sử dụng thần thông lực.
Pháp là nhân thiện căn: Chúng sanh là thửa ruộng, thiện căn là lúa má. Hiệu năng của pháp bảo là chuyển hóa thửa ruộng chúng sanh, làm cho sanh trưởng lúa má thiện căn.
[0602b05] Kệ tụng:
Đủ pháp, rời xa pháp
Như kho tàng, như mây
Sanh mưa pháp, mưa pháp
Thành thí dụ như vậy.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị một lần nữa nghĩa lý ở trên.
Đủ pháp, rời xa pháp: Chư Phật có đầy đủ tất cả thiện pháp và rời xa tất cả bất thiện pháp.
Như kho tàng, như mây: Phật bảo được ví như kho tàng, pháp bảo được ví như đám mây.
Hỏi: Nghĩa ấy thế nào?
Đáp: Sanh mưa pháp, mưa pháp, thành thí dụ như vậy: Phật bảo có năng lực xuất sanh pháp bảo, tương tợ như kho tàng lớn. Pháp bảo có năng lực sanh trưởng tất cả thiện căn cho chúng sanh, tương tợ như đám mây lớn.
Đã nói sắc thái không hai của thân Phật, kế nói sự quy y vô thượng.
[0602b14] Kệ tụng:
Chư Phật thường cứu hộ
Chúng sanh ba tạp nhiễm
Các hoặc, các ác hạnh
Cùng với sanh, già, chết.
Giải thích:
Kệ tụng này lược bày nghĩa cứu hộ.
Chư Phật thường cứu hộ: Chư Phật thường cứu hộ một cách trọn vẹn.
Hỏi: Chư Phật cứu hộ pháp gì?
Đáp: Chúng sanh có ba sự tạp nhiễm [khắp cả ba cõi], đó là hoặc tạp nhiễm, nghiệp tạp nhiễm và sanh tạp nhiễm. Các phiền não là hoặc tạp nhiễm; các ác hành là nghiệp tạp nhiễm; sanh, già, chết là sanh tạp nhiễm.
Hỏi: Chư Phật cứu hộ như thế nào?
Đáp: Đối với chúng sanh sống trong ba sự tạp nhiễm này, chư Phật cứu hộ trong mọi thời gian, không có xả bỏ. Đây chính là nghĩa cứu hộ trọn vẹn.
[0602b22] Kệ tụng:
Các tai nạn, đường dữ
Thân kiến và tiểu thừa
Như vậy các chúng sanh
Tất cả đều cứu hộ.
Giải thích:
Kệ tụng này rộng bày nghĩa cứu hộ.
Các tai nạn: Những chúng sanh bị đui, điếc, câm, ngọng, điên cuồng, tàn tật v.v…, nhờ Phật lực mà người đui thấy được, người điếc nghe được, người câm nói được, người điên được tỉnh táo, người cuồng được an định, người tàn tật được đầy đủ. Chư Phật cứu hộ như vậy.
Đường dữ: Chúng sanh trong các địa ngục bị lửa phóng ra thiêu đốt, chư Phật làm cho họ lìa khổ, không còn trở vào đó nữa. Chư Phật cứu hộ như vậy.
Thân kiến: Chúng sanh chấp trước vào ngã, chư Phật làm cho họ hiểu được nhân vô ngã, đi vào niết-bàn của nhị thừa. Chư Phật cứu hộ như vậy.
Tiểu thừa: Chúng sanh chủng tánh nhị thừa và chủng tánh bất định, chư Phật dùng phương tiện dẫn dắt họ đi vào Đại thừa. Chư Phật cứu hộ như vậy.
[0602b25] Kệ tụng:
Phật là chỗ thắng quy
Vô thượng không ai bằng
Như trên các thứ sợ
Không ai không giải thoát.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị chỗ quy y thù thắng. Đức Phật là vô thượng vì không ai có thể so sánh, không thể thí dụ. Như trên đã nói, đối với chúng sanh có ba sự tạp nhiễm, cũng như chúng sanh có các tai nạn v.v…, chư Phật đều cứu hộ hết thảy.
[0602c08] Kệ tụng:
Chư Phật thân thiện mãn
Thắng tất cả thế gian
Diệu pháp hóa chúng sanh
Đại bi độ biển khổ.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị nhân tố thù thắng của chỗ quy y.
Chư Phật thân thiện mãn, thắng tất cả thế gian: Chư Phật đạt đến cứu cánh của sự lợi mình và viên mãn các thiện pháp tự tánh công đức như mười lực, bốn vô úy v.v...
Diệu pháp hóa chúng sanh, đại bi độ biển khổ: Chư Phật lý giải diệu pháp, giáo hóa chúng sanh bằng phương tiện và đưa chúng sanh đến bờ bến cứu cánh bằng đại bi.
[0602c14] Kệ tụng:
Tận giới hạn vị lai
Khắp tất cả đời sống
Thường xuyên lợi ích kia
Nói quy y lớn lao.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị sự quy y lớn lao. Lớn lao có ba nghĩa: 1. Thời gian lớn lao: Tận cùng giới hạn sanh tử của tất cả chúng sanh; 2. Cảnh giới lớn lao: Lấy tất cả chúng sanh làm cảnh giới; 3. Phụng sự lớn lao: Thường xuyên làm lợi ích an vui cho chúng sanh, cứu thoát khổ đau của chúng sanh và làm cho chúng sanh xuất ly khổ đau.
Đã nói sự quy y vô thượng, kế nói sắc thái chuyển y của Như lai.
[0602c21] Kệ tụng:
Hai chướng chủng hằng theo
Chủng diệt cực, rộng đoạn
Vì bạch pháp viên mãn
Y chuyển hai đạo thành.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị sắc thái chuyển y, bao gồm chuyển ly và chuyển đắc.
Hai chướng chủng hằng theo, chủng diệt cực, rộng đoạn: Hai câu này nói rõ sự đối trị bằng viễn ly, nghĩa là chủng tử của hai chướng, phiền não chướng và trí chướng, từ vô thỉ đến nay hằng luôn theo đuổi, nay thời chủng tử [vi tế] của hai chướng ấy được tiêu diệt vĩnh viễn và cùng cực. Tất cả chủng tử [thô trọng] ở trong các địa đều được đoạn trừ rộng khắp.
Vì bạch pháp viên mãn, y chuyển hai đạo thành: Hai câu này nói rõ khả năng đối trị thành tựu, nghĩa là tự thể của Phật thích ứng với bạch pháp viên mãn cực kỳ thanh tịnh. Bấy giờ, y tha chuyển đắc để thành tựu hai trí đạo: một là, chuyển đắc Cực thanh tịnh xuất thế trí đạo; hai là, chuyển đắc Vô biên sở thức cảnh giới trí đạo; gọi đó là chuyển y.
[0603a03] Kệ tụng:
Xứ kia Như lai trú
Bất động như vua núi
Còn thương người tịch diệt
Huống người vướng mắc khổ.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị sự chuyển y của Như lai thì thù thắng trong các sự chuyển y. Vì sao? Vì sự chuyển y của Như lai là an trú trong Vô lậu giới xứ, như vua núi trấn giữ đất đai, an trú bất động. Khi chứng đắc địa vị chuyển y rồi, Như lai thấy những vị ưa thích tịch diệt là hàng thanh văn, duyên giác, còn sanh tâm thương xót, huống chi đối với chúng sanh vướng mắc khổ não, hạ tiện, sống ở biên địa xa xôi.
[0603a09] Kệ tụng:
Lợi người và vô thượng
Không chuyển và không sanh
Rộng lớn và không hai
Không trú và bình đẳng
Thù thắng và khắp trao
Nói Như lai chuyển y
Hiển thị mười công đức
Nghĩa sai biệt nên biết.
Giải thích:
Hai đoạn kệ tụng này hiển thị sự chuyển y của Như lai có mười thứ công đức sai biệt. Những gì là mười?
1. Chuyển y lợi người: Chuyển y là vì lợi ích yên vui cho tất cả chúng sanh;
2. Chuyển y vô thượng: Chuyển y là được tự tại trong tất cả pháp, là vượt qua sự chuyển y của nhị thừa;
3. Chuyển y không chuyển: Chuyển y thì các nhân của phần tạp nhiễm không thể chuyển đổi được nữa, vì chỗ dựa của phần tạp nhiễm bị chuyển bỏ bởi chỗ dựa của phần thanh tịnh;
4. Chuyển y không sanh: Chuyển y thì tất cả pháp tạp nhiễm hoàn toàn không sanh khởi;
5. Chuyển y rộng lớn: Chuyển y thì thị hiện chứng đắc đại bồ-đề và niết-bàn vô trú;
6. Chuyển y không hai: Chuyển y thì sanh tử, niết-bàn không còn phân hai;
7. Chuyển y không trú: Chuyển y thì hữu vi, vô vi đều không trú ở;
8. Chuyển y bình đẳng: Chuyển y thì cùng với hàng thanh văn, duyên giác có sự giải thoát phiền não chướng;
9. Chuyển y thù thắng: Chuyển y thì tất cả pháp của Phật [thọ dụng] như mười lực, bốn vô úy v.v… không ai bằng được;
10. Chuyển y dạy bảo khắp cả: Chuyển y thì thường xuyên lấy tất cả thừa mà dạy bảo chúng sanh.
[0603a26] Kệ tụng:
Hư không biến khắp cả
Phật cũng biến khắp cả
Hư không biến các sắc
Chư Phật biến chúng sanh.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị pháp thân Phật hiện hành khắp cả, tương tự như hư không. Hai câu đầu là nói thẳng, hai câu sau là giải thích. Giống như hư không biểu hiện trong tất cả hình thái sắc chất, pháp thân Phật cũng biểu hiện trong tất cả hình thái chúng sanh. Nếu cho sự hiện hữu của chúng sanh chẳng phải là tự tánh của Phật, rồi nói rằng pháp thân Phật không hiện hành, nghĩa này không đúng, bởi lẽ chúng sanh chưa thành tựu [tự tánh thân].
[0603b04] Kệ tụng:
Đồ đựng nước bị bể
Ánh trăng chẳng hiện ra
Cũng vậy, lỗi chúng sanh
Hình tượng Phật chẳng hiện.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị pháp thân Phật thì biến khắp nhưng chúng sanh không thấy, giống như đồ đựng nước bị phá bể, không có nước nên không thấy được ánh trăng. Cũng vậy, chúng sanh vì tội chướng lỗi lầm nên không thấy được hình tượng Phật, nghĩa này thành lập.
[0603b07] Kệ tụng:
Như tánh của ngọn lửa
Hoặc cháy, hoặc tắt rụi
Như vậy chư Phật hóa
Xuất hiện hoặc niết-bàn.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị việc chư Phật giáo hóa chúng sanh có xuất hiện, có biến mất. Giống như tánh chất của ngọn lửa, có lúc cháy bùng, có lúc tắt mất. Chư Phật giáo hóa chúng sanh cũng lại như vậy, có thời kỳ thị hiện xuất thế, có thời kỳ thị hiện niết-bàn.
Như vậy, đã nói sự chuyển y của Như lai, kế nói việc làm của Như lai đều là vô công dụng.
[0603b15] Kệ tụng:
Châu như ý, trống trời
Tự nhiên thành tự sự
Phật hóa và Phật thuyết
Vô tư cũng như vậy.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị việc làm vô công dụng của Phật.
Thí như bảo châu như ý, tuy là vô tâm nhưng tự nhiên có khả năng làm ra các thứ biến hiện. Như lai cũng vậy, tuy dùng tâm vô công dụng nhưng tự nhiên có thể khởi sanh các thứ biến hóa.
Thí như cái trống cõi trời, tuy là vô tâm nhưng tự nhiên có khả năng phát ra các loại âm thanh. Như lai cũng vậy, tuy dùng tâm vô công dụng nhưng tự nhiên có thể thuyết giảng đủ mọi diệu pháp.
[0603b22] Kệ tụng:
Dựa không nghiệp không ngừng
Nhưng nghiệp có tăng giảm
Dựa giới sự chẳng đoạn
Nhưng sự có sanh diệt.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị việc làm của Phật thì không có ngừng nghỉ.
Thí như thế gian dựa vào hư không mà làm thì không có thời gian ngừng nghỉ. Cũng vậy, chư Phật dựa vào vô lậu giới mà làm Phật sự thì không có thời gian ngừng nghỉ. Thí như thế gian dựa vào hư không mà làm thì có tăng, có giảm. Cũng vậy, chư Phật dựa vào vô lậu giới mà làm Phật sự thì có sanh, có diệt.
Đã nói cái tâm vô công dụng mà không buông bỏ Phật sự, kế nói pháp giới vô lậu sâu xa.
[0603b29] Kệ tụng:
Như trước, sau cũng vậy
Và rời tất cả chướng
Chẳng tịnh, chẳng bất tịnh
Phật gọi đó là như.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị sắc thái thanh tịnh của pháp giới.
Như trước, sau cũng vậy: Đó là chẳng phải tịnh, vì tự tánh thì không nhiễm ô.
Và rời tất cả chướng: Đó là chẳng phải bất tịnh, vì thời gian sau rời xa được khách trần.
Chẳng tịnh, chẳng bất tịnh, Phật gọi đó là như: Phật nói chân như là chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, gọi là sắc thái thanh tịnh của pháp giới.
[0603c08] Kệ tụng:
Thanh tịnh không vô ngã
Phật nói ngã tuyệt bậc
Chư Phật thì ngã tịnh
Nên Phật danh đại ngã.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị sắc thái đại ngã của pháp giới.
Thanh tịnh không vô ngã: Đây là vô lậu giới do vô ngã tuyệt bậc làm tự tánh.
Phật nói ngã tuyệt bậc: Vô ngã tuyệt bậc là chân như thanh tịnh. Chân như thanh tịnh chính là tự tánh ngã của chư Phật.
Chư Phật thì ngã tịnh, Nên Phật danh đại ngã: Ngã ấy của Phật thì cực kỳ thanh tịnh cho nên mệnh danh Phật là bậc đại ngã. Từ ý nghĩa này, chư Phật nơi vô lậu giới mà kiến lập ngã tuyệt bậc, đó là sắc thái đại ngã của pháp giới.
[0603c17] Kệ tụng:
Phi thể, phi phi thể
Như vậy nói thể Phật
Vì thế làm luận này
Khẳng định pháp vô ký.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị sắc thái vô ký của pháp giới.
Phi thể: Hai tướng nhân và pháp thì không thể diễn bày.
Phi phi thể: Sắc thái chân như thì thật có.
Như vậy nói thể Phật: Do nhân duyên này mà nói thật thể của Phật là phi thể, phi phi thể.
Vì thế làm luận này, khẳng định pháp vô ký: Vô ký nghĩa là: (1) Như lai có hiện hữu sau khi chết; (2) Như lai không hiện hữu sau khi chết; (3) Như lai vừa hiện hữu, vừa không hiện hữu sau khi chết; (4) Như lai vừa phi hiện hữu, vừa không phi hiện hữu sau khi chết. Bốn câu như vậy thì không thể ghi nhận. Cho nên nói pháp giới là sắc thái vô ký.
[0603c26] Kệ tụng:
Thí như sắt nóng nguội
Thí như mắt nhặm trừ
Tâm trí dứt cũng vậy
Không nói hữu, vô thể.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị sắc thái giải thoát của pháp giới.
Thí như sắt nóng nguội, thí như mắt nhặm trừ: Sắt nóng nguội hẳn và mắt nhặm trừ sạch, hai thí dụ như vậy có thể thuyết minh cho phi thể và phi phi thể. Vì sao? Sức nóng và màng mắt là vô tướng nên dụ cho phi thể. Sức nóng hết và hoa mắt trừ là trạng thái hữu thể nên dụ cho phi phi thể.
Tâm trí dứt cũng vậy, không nói hữu, vô thể: Chư Phật nói rằng tâm trí lấy tham làm sức nóng, lấy vô minh làm màng mắt; nếu dứt trừ được tham dục và vô minh thì có thể nói [pháp giới] là phi thể, phi phi thể. Vì sao? Vì dứt hết tham và vô minh nên nói là phi thể; vì có được tâm và tuệ giải thoát nên nói là phi phi thể. Đây là sắc thái giải thoát của pháp giới.
Đã nói sắc thái giải thoát sâu xa, kế nói pháp giới xứ sâu xa.
[0604a07] Kệ tụng:
Vô lậu giới của Phật
Phi một và phi nhiều
Là tùy thuận thân trước
Phi thân như hư không.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị pháp giới xứ sâu xa.
Pháp giới vô lậu của chư Phật thì chẳng phải một, cũng chẳng phải nhiều. Vì sao? Chẳng phải một là vì tùy thuận thân trước. Chẳng phải nhiều là vì thân Phật là phi thân.
Hỏi: Vì sao phi thân?
Đáp: Vì như hư không.
Đây gọi là pháp giới xứ sâu xa. Đã nói pháp giới xứ sâu xa, kế nói nghiệp dụng y chỉ sâu xa.
[0604a15] Kệ tụng:
Thí như kho báu lớn
Chỗ chứa các châu báu
Cõi tịnh cũng như vậy
Y chỉ của Phật pháp.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị nghiệp dụng y chỉ của pháp giới.
Pháp giới thanh tịnh làm nơi y chỉ cho các pháp bồ-đề phần bảo [chân thật] như là mười lực, bốn vô úy v.v…
[0604a19] Kệ tụng:
Thí như mây dày che
Mưa rơi thành trăm lúa
Cõi tịnh cũng như vậy
Lưu thiện thục chúng sanh.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị nghiệp dụng thành thục chúng sanh của pháp giới.
Từ pháp giới thanh tịnh lưu xuất các thiện căn để thành thục chúng sanh.
[0604a23] Kệ tụng:
Thí như nhật nguyệt đầy
Vầng sáng trong viên mãn
Cõi tịnh cũng như vậy
Khối thiện căn viên mãn.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị nghiệp dụng dồn chứa thiện căn đưa đến cứu cánh của pháp giới.
Do pháp giới thanh tịnh mà hai khối phước đức và trí tuệ được sanh ra, tăng trưởng cho đến viên mãn.
[0604a2] Kệ tụng:
Thí như vầng nhật xuất
Truyền sáng chiếu tất cả
Cõi tịnh cũng như vậy
Truyền dạy hóa quần sanh.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị nghiệp dụng thuyết chánh pháp của pháp giới.
[0604b01] Kệ tụng:
Thí như nhật quang hợp
Cùng nhau chiếu thế gian
Cõi tịnh cũng như vậy
Phật hợp cùng nghiệp hóa.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị nghiệp dụng việc làm giáo hóa của pháp giới.
Thí như nhiều mặt trời và nhiều ánh sáng trong một lúc hòa hợp, cùng làm một việc là khô chín v.v… Cũng vậy, nhiều đức Phật và nhiều trí tuệ trong một lúc hòa hợp, cùng làm một việc là biến hóa v.v...
[0604b06] Kệ tụng:
Như mặt trời chiếu sáng
Vô hạn cùng nhất thời
Cõi tịnh Phật quang chiếu
Hai việc cũng như vậy.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị nghiệp dụng vô phân biệt của pháp giới.
Thí như ánh sáng mặt trời chiếu khắp, không có giới hạn và không có nhất thời. Cũng vậy, ánh sáng của Phật chiếu khắp, không có giới hạn và không có nhất thời.
[0604b11] Kệ tụng:
Thí như các mặt trời
Nói có mây mù che
Cõi tịnh các Phật trí
Nói có chúng sanh chướng.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị nghiệp dụng bất tác của pháp giới.
Thí như ánh sáng mặt trời bị mây mù che nên không có sự chiếu sáng. Cũng vậy, ánh sáng của Phật bị tội chướng của chúng sanh ngăn lại, mà phần nhiều là năm thứ vẩn đục ngăn che, nên không chịu tác động của pháp giới.
[0604b16] Kệ tụng:
Thí như sức tro ướt
Nhuộm áo các màu sắc
Cõi tịnh sức hạnh nguyện
Giải thoát chủng chủng trí.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị nghiệp dụng của trí giải thoát của pháp giới.
Thí như biệt y nhờ tác dụng của tro ướt mà có chỗ nhiều màu sắc, có chỗ không màu sắc. Cũng vậy, cõi tịnh của ba thừa toàn nhờ sức hạnh nguyện, nhưng sự giải thoát của chư Phật thì đắc chủng chủng trí, còn sự giải thoát của nhị thừa thì không đắc chủng chủng trí.
[0604b22] Kệ tụng:
Vô lậu giới sâu xa
Tướng, xứ, nghiệp ba thứ
Chư Phật thuyết như vậy
Thí như nhuộm vẽ không.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị thêm nữa những nghĩa lý sâu xa ở trên.
Vô lậu giới sâu xa, tướng, xứ, nghiệp ba thứ: Ở đây, pháp giới vô lậu được đức Thế tôn nói lược có ba thứ sâu xa: 1. Sắc thái sâu xa; 2. Trú xứ sâu xa; 3. Nghiệp dụng sâu xa.
Sắc thái sâu xa có bốn thứ: 1. Sắc thái thanh tịnh; 2. Sắc thái đại ngã; 3. Sắc thái vô ký; 4. Sắc thái giải thoát. Thứ tự như vậy được hiển thị qua bốn kệ tụng đầu.
Trú xứ sâu xa chỉ có một thứ, là một và nhiều đều không trú ở. Trú xứ sâu xa được hiển thị qua kệ tụng thứ năm.
Nghiệp dụng sâu xa có tám thứ: 1. Nghiệp dụng y chỉ quí báu; 2. Nghiệp dụng thành thục chúng sanh; 3. Nghiệp dụng đưa đến cứu cánh; 4. Nghiệp dụng thuyết chánh pháp; 5. Nghiệp dụng việc làm giáo hóa; 6. Nghiệp dụng vô phân biệt; 7. Nghiệp dụng trí bất tác; 8. Nghiệp dụng trí giải thoát. Thứ tự như vậy được hiển thị qua tám kệ tụng cuối.
Chư Phật thuyết như vậy, thí như nhuộm vẽ không: Pháp giới vô lậu thì không có hý luận, và được ví như hư không, cho nên nói là sâu xa. Chư Phật thuyết ra những sâu xa sai biệt như thế, giống như nhuộm vào hư không, vẽ vào hư không, nghĩa ấy nên biết.
[0604c08] Kệ tụng:
Tất cả không sai biệt
Được chân như thanh tịnh
Nên nói các chúng sanh
Gọi là Như lai tạng.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị pháp giới là Như lai tạng.
Tất cả không sai biệt: Tất cả chúng sanh và tất cả chư Phật đều bình đẳng, không có sai biệt, nên gọi là chân như.
Được chân như thanh tịnh: Chứng đắc chân như thanh tịnh, lấy chân như làm tự tánh nên gọi là Như lai.
Qua ý nghĩa này mà có thể nói tất cả chúng sanh là Như lai tạng.
Đã nói pháp giới vô lậu sâu xa, kế nói sự biến hóa của chư Phật.
[0604c15] Kệ tụng:
Thanh văn và Duyên giác
Bồ tát và Như lai
Sơ hóa lui thế gian
Đến Phật lui Bồ tát.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị sự biến hóa tăng thượng.
Thanh văn biến hóa đẩy lui tất cả thế gian biến hóa. Duyên giác biến hóa đẩy lui tất cả thanh văn biến hóa. Bồ tát biến hóa đẩy lui tất cả duyên giác biến hóa. Chư Phật biến hóa đẩy lui tất cả Bồ tát biến hóa. Không có sự biến hóa của bất cứ ai có thể đẩy lui sự biến hóa của chư Phật, vì vậy sự biến hóa của Như lai là tột cùng sự biến hóa tăng thượng.
[0604c22] Kệ tụng:
Phật biến hóa như vậy
Vô lượng, không nghĩ bàn
Tùy người, tùy thế giới
Tùy thời hiện các loại.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị sự biến hóa sâu xa.
Sự biến hóa sâu xa có hai thứ: 1. Vô lượng; 2. Không thể nghĩ bàn.
Hỏi: Biến hóa ấy như thế nào?
Đáp: Tùy theo đối tượng nào, tùy vào thế giới nào, tùy thuộc thời tiết nào, trong đó có những sai biệt nữa, hoặc biến hóa nhiều, hoặc biến hóa ít, đủ loại biến hóa. Sự biến hóa như vậy thì vô lượng và không thể nghĩ bàn, vì vậy sự biến hóa của Như lai rất là sâu xa.
Sau đây lại nói về sự biến hóa biệt chuyển.
[0604c29] Kệ tụng:
Như vậy chuyển năm căn
Biến hóa được tăng thượng
Các nghĩa biến sở tác
Ngàn hai trăm công đức.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị sự biến hóa do chuyển năm căn.
Sự biến hóa này có được hai thứ tăng thượng: 1. Được các nghĩa biến sở tác, nghĩa là mỗi một căn đều có khả năng tương tác với các căn khác trong tất cả cảnh giới; 2. Được một ngàn hai trăm công đức, nghĩa là mỗi một căn đều có một ngàn hai trăm công đức.
[0605a06] Kệ tụng:
Như vậy chuyển ý căn
Biến hóa được tăng thượng
Cực tịnh, vô phân biệt
Hằng tùy biến hóa làm.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị sự biến hóa do chuyển ý căn.
Ý căn là thức nhiễm ô. Do chuyển ý căn mà được sự cực kỳ thanh tịnh và trí vô phân biệt, thường xuyên cùng với tất cả biến hóa tùy hành cùng nhau tác động.
[0605a11] Kệ tụng:
Như vậy chuyển nghĩa thọ
Biến hóa được tăng thượng
Tịnh độ như mong muốn
Thọ dụng đều hiện tiền.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị sự biến hóa do chuyển nghĩa thọ.
Nghĩa là năm trần, thọ là năm thức. Do chuyển năm trần và năm thức mà quốc độ thanh tịnh, chỗ mong muốn hiện tiền, tùy ý thọ dụng.
[0605a16] Kệ tụng:
Như vậy chuyển phân biệt
Biến hóa được tăng thượng
Các trí khởi tác nghiệp
Mọi thời hành vô ngại.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị sự biến hóa do chuyển phân biệt.
Phân biệt là ý thức. Do chuyển ý thức mà các trí khởi tác dụng, biến hóa không có chướng ngại trong tất cả thời gian.
[0605a20] Kệ tụng:
Như vậy chuyển an lập
Biến hóa được tăng thượng
Trú Phật bất động cú
Chẳng trú ở niết-bàn.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị sự biến hóa do chuyển an lập.
An lập là khí thế giới. Do chuyển khí thế giới mà an trú trong pháp giới vô lậu bất động của Phật, nên không nhập niết-bàn, thường khởi sự biến hóa tăng thượng.
[0605a26] Kệ tụng:
Như vậy chuyển dục nhiễm
Biến hóa được tăng thượng
Trú Phật vô thượng lạc
Thị hiện vô nhiễm nữ.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị sự biến hóa do chuyển dục nhiễm.
Do chuyển dục nhiễm mà được hai loại biến hóa: 1. Được sự lạc trú vô thượng; 2. Được sự vô nhiễm đối với người nữ.
[0605b02] Kệ tụng:
Như vậy chuyển không tưởng
Biến hóa được tăng thượng
Tùy muốn được tất cả
Chỗ đi không ngăn trở.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị sự biến hóa do chuyển hư không tưởng.
Do chuyển hư không tưởng mà được hai loại biến hóa: 1. Chỗ muốn đều được, vì được đại định hư không tạng; 2. Chỗ đi không ngăn trở, vì được đại định hư không giải.
[0605b07] Kệ tụng:
Như vậy chuyển vô lượng
Như vậy hóa vô lượng
Việc làm không nghĩ bàn
Chư Phật dựa vô cấu.
Giải thích:
Kệ tụng này tổng kết các nghĩa ở trước.
Do chuyển vô lượng nên có được biến hóa vô lượng. Đó là nghiệp dụng không thể nghĩ bàn của chư Phật. Tất cả chư Phật đều dựa vào pháp giới vô lậu, nghĩa này nên biết.
Đã nói sự biến hóa của chư Phật, kế nói sự thành thục chúng sanh của chư Phật.
[0605b13] Kệ tụng:
Dồn chứa và tăng trưởng
Thành thục và giải thoát
Thuần thục không vô dư
Vì thế gian vô tận.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị thứ tự nhân tố thành thục.
Người chưa dồn chứa các thiện căn thì khiến cho dồn chứa các thiện căn. Người đã dồn chứa các thiện căn thì khiến cho tăng trưởng các thiện căn. Người đã tăng trưởng các thiện căn thì khiến cho thành thục các thiện căn. Người đã thành thục các thiện căn thì khiến cho giải thoát, cho đến có được sự cực kỳ thanh tịnh. Như vậy, mười phương chư Phật, đức Phật nào cũng thiện thuyết (chánh pháp), thành thục chúng sanh này xong, lại thành thục chúng sanh khác, không nhập niết-bàn. Vì sao? Vì chúng sanh trong các thế giới không có cùng tận.
[0605b20] Kệ tụng:
Khó được đã được đủ
Làm nơi chúng sanh quy
Hy hữu phi hy hữu
Được phương tiện thiện xảo.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị sự thành thục hạnh Bồ tát là sắc thái phi hy hữu.
Khó được đã được đủ, làm nơi chúng sanh quy: Quả Vô thượng bồ-đề có công đức tối thượng, hàng Bồ tát chưa từng được quả ấy mà nay có sự tương ưng đầy đủ. Do tương ưng với quả ấy mà có thể thường ở trong mười phương thế giới làm chỗ quy y cho muôn loài.
Hy hữu phi hy hữu: Sự thành thục chúng sanh khắp chốn như vậy gọi là một sự hy hữu. Sự hy hữu như vậy là phi hy hữu. Vì sao? Vì được phương tiện thiện xảo vậy.
Được phương tiện thiện xảo: Là tùy theo căn cơ mà dẫn dắt chúng sanh đi trên con đường thanh tịnh.
[0605b29] Kệ tụng:
Chuyển pháp và pháp diệt
Đắc đạo và niết-bàn
Mọi nơi phương tiện khởi
Bất động chân pháp giới.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị nhân tố thành thục khắp cả.
Chuyển pháp và pháp diệt, đắc đạo và niết-bàn: Trong một sát-na, có quốc độ Như lai thị hiện chuyển pháp luân vô lượng, có quốc độ Như lai thị hiện chánh pháp diệt tận, có quốc độ Như lai thị hiện đắc đại bồ-đề, có quốc độ Như lai thị hiện nhập niết-bàn. Đó toàn là do hạnh nghiệp của chúng sanh chẳng đồng vậy.
Mọi nơi phương tiện khởi, bất động chân pháp giới: Nếu có chúng sanh thích ứng sự thành thục, Như lai tùy thuận trú xứ của người ấy, phương tiện giáo hóa mọi nơi, nhưng đối với pháp giới vô lậu, Như lai an trú bất động.
[0605c09] Kệ tụng:
Chẳng khởi ý phân biệt
Thành thục cả ba đời
Mọi nơi hóa chúng sanh
Ba môn thường thị hiện.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị nhân tố thành thục tự nhiên.
Chẳng khởi ý phân biệt, thành thục cả ba đời: Tất cả chư Phật không bao giờ khởi lên ý niệm rằng tôi đã thành thục chúng sanh, tôi sẽ thành thục chúng sanh, tôi đang thành thục chúng sanh. Vì sao? Vì chư Phật không có ý niệm phân biệt.
Mọi nơi hóa chúng sanh, ba môn thường thị hiện: Tuy sự giáo hóa của chư Phật toàn là không còn dụng công, nhưng trong tất cả thời gian, nơi các thế giới mười phương, chư Phật thường lấy các thiện căn (vô lậu) biến hiện thành ba môn để thành thục chúng sanh. Ba môn là giáo môn của ba thừa.
[0605c18] Kệ tụng:
Mặt trời tự nhiên sáng
Chiếu tối thành trăm lúa
Nhật quang pháp cũng vậy
Diệt hoặc, thục chúng sanh.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị nghĩa tự nhiên qua thí dụ.
Thí như mặt trời không cần phương tiện, tự nhiên phóng ra ánh sáng, phá tan sự tối tăm khắp nơi để chín muồi trăm loại lúa. Cũng vậy, bằng việc làm không cần dụng công, chư Phật đem ánh sáng mặt trời chánh pháp tiêu diệt những lậu hoặc ở mọi hình thái để thành thục chúng sanh.
[0605c23] Kệ tụng:
Một đèn thắp các đèn
Hợp lại sáng vô tận
Một thục hóa nhiều thục
Hóa vô tận cũng vậy.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị nhân tố thành thục triển chuyển.
Thí như một ngọn đèn thắp chuyền các ngọn đèn. Ngọn đèn cực lớn là tập hợp của vô lượng vô số ngọn đèn, nói cách khác, một ngọn đèn làm ra vô tận. Chư Phật cũng vậy, một đức Phật vừa thành thục lại giáo hóa nhiều chúng sanh thành thục. Chúng sanh [thành thục] cực lớn là tập hợp của vô lượng vô số chúng sanh [thành thục], nói cách khác, sức mạnh giáo hóa thành thục chúng sanh không có cùng tận.
[0605c29] Kệ tụng:
Biển cả nạp các dòng
Không chán cũng không tràn
Phật giới nhiếp các thiện
Không đầy cũng không tăng.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị nhân tố thành thục không nhàm chán.
Thí như biển cả thu nhận trăm dòng sông mà không bao giờ chán đủ, cũng không có tràn đầy, vì biển cả có khả năng tiếp nhận và dung chứa. Cũng vậy, pháp giới chư Phật thường nhiếp thọ vô lượng thiện căn thanh tịnh (của chúng sanh) mà không bao giờ đầy đủ, cũng không tăng trưởng, vì pháp giới chư Phật thì rất là hy hữu.
Đã nói sự thành thục chúng sanh của chư Phật, kế nói pháp giới thanh tịnh của chư Phật.
[0606a07] Kệ tụng:
Hai chướng đã vĩnh trừ
Pháp chân như thanh tịnh
Đối cảnh và trí duyên
Tự tại mãi vô tận.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị tánh nghĩa của pháp giới.
Hai chướng đã vĩnh trừ, pháp chân như thanh tịnh: Là sắc thái thanh tịnh của pháp giới, do phiền não chướng và trí chướng thảy đều vĩnh viễn đoạn tận.
Đối cảnh và trí duyên, tự tại mãi vô tận: Là sắc thái tự tại của pháp giới, do đối cảnh và trí duyên theo đối cảnh, cả hai thứ đều tự tại mãi vô tận.
[0606a14] Kệ tụng:
Nhất thiết chủng như trí
Tu nhân sạch pháp giới
Lợi lạc hóa chúng sanh
Quả này cũng vô tận.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị nghĩa nhân tố của pháp giới.
Nhất thiết chủng như trí, tu nhân sạch pháp giới: Thanh tịnh pháp giới thì ở trong tất cả thời gian tu tập trí nhất thiết chủng như môn, lấy trí ấy làm nhân.
Lợi lạc hóa chúng sanh, quả này cũng vô tận: Giáo hóa chúng sanh thì ở trong tất cả thời gian trao cho tất cả chúng sanh hai quả lợi lạc, mãi mãi vô tận.
[0606a21] Kệ tụng:
Phát khởi thân, khẩu, tâm
Ba nghiệp hằng thời hóa
Hai môn và hai khối
Phương tiện đều viên mãn.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị nghĩa hiện hành ba nghiệp của pháp giới.
Phát khởi thân, khẩu, tâm, ba nghiệp hằng thời hóa: Phát khởi thân nghiệp, khẩu nghiệp, tâm nghiệp trong tất cả thời vì giáo hóa chúng sanh.
Hai môn và hai khối, phương tiện đều viên mãn: Luận cho rằng đầy đủ hai môn và hai khối làm phương tiện. Hai môn là tam-muội môn và đà-la-ni môn. Hai khối là khối phước đức và khối trí tuệ.
[0606a28] Kệ tụng:
Tự tánh và pháp thực
Biến hóa vị sai biệt
Đây do pháp giới tịnh
Là lời chư Phật dạy.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị nghĩa bản vị của pháp giới.
Tự tánh và pháp thực, biến hóa vị sai biệt: Bản vị sai biệt là tự tánh thân, thực thân và biến hóa thân.
Đây do pháp giới tịnh, là lời chư Phật dạy: Nếu pháp giới mà không thanh tịnh thì bản vị của ba thân không thành tựu.
Đã nói pháp giới thanh tịnh của chư Phật, kế nói ba thân của chư Phật.
[0606b06] Kệ tụng:
Tánh thân và thực thân
Hóa thân thành ba thân
Nên biết thân thứ nhất
Y chỉ hai thân kia.
Giải thích:
Tất cả chư Phật có ba loại thân: 1. Tự tánh thân: Là sắc thái của chuyển y của Như lai; 2. Thực thân: Là thân ở tại đại tập chúng hội của chư Phật làm sự thọ dụng pháp lạc Đại thừa; 3. Hóa thân: Là thân làm việc giáo hóa và lợi ích chúng sanh. Nên biết, trong ba thân ấy, tự tánh thân làm nơi y chỉ cho thực thân và hóa thân, vì tự tánh thân là bản thân của Phật.
[0606b12] Kệ tụng:
Thực thân các thế giới
Thọ dụng có sai biệt
Chúng, độ gọi thân nghiệp
Tất cả đều khác nhau.
Giải thích:
Thực thân ở trong tất cả thế giới có các sự nghiệp, các thân tướng, các danh hiệu, các quốc độ, các đồ chúng, các sự thọ dụng như vậy, thảy đều chẳng đồng.
[0606b16] Kệ tụng:
Thân bình đẳng, vi tế
Gắn liền thọ dụng thân
Nên biết thọ dụng thân
Cũng là nhân hóa thân.
Giải thích:
Bình đẳng, là tự tánh thân, vì tất cả chư Phật thì đồng đẳng, không có sai biệt. Vi tế, là vì thân ấy khó có thể hiểu biết được. Thọ dụng thân, là thực thân. Thọ dụng thân gắn liền với bình đẳng thân, vì thọ dụng thân dựa vào bình đẳng thân mà sanh khởi.
Nên biết thọ dụng thân, cũng là nhân hóa thân: Là vì chư Phật muốn thọ dụng tất cả mà thị hiện hóa thân.
[0606b23] Kệ tụng:
Hóa Phật vô lượng hóa
Vì vậy gọi hóa thân
Hai thân, hai lợi thành
Tất cả chủng thiết lập.
Giải thích:
Ở trong tất cả thời gian, hóa thân của chư Phật hiện hóa vô lượng sai biệt. Đức Phật có sự hiện hóa ấy gọi là đức Phật hóa thân. Hai thân, là thực thân và hóa thân. Hai lợi, là lợi mình và lợi người. Thực thân lấy thành tựu lợi mình làm sắc thái. Hóa thân lấy thành tựu lợi người làm sắc thái. Hai lợi như vậy là biểu thị sự thành tựu nhất thiết chủng trí, lần lượt thiết lập thực thân và hóa thân.
[0606c01] Kệ tụng:
Kỹ nghệ và xuất sanh
Đắc đạo, nhập niết-bàn
Bày phương tiện lớn này
Khiến người được giải thoát.
Giải thích:
Lại nữa, hóa thân thì ở trong tất cả thời gian làm sự giáo hóa chúng sanh bằng cách hóa hiện kỹ nghệ, hoặc thị hiện xuất sanh, hoặc thị hiện đắc bồ-đề, hoặc thị hiện nhập niết-bàn. Những sự thị hiện đủ thứ như vậy là phương tiện lớn lao, đều vì làm cho chúng sanh có được sự giải thoát. Đây là sắc thái thành tựu lợi người.
[0606c07] Kệ tụng:
Nên biết ba thân Phật
Chư Phật thân nhiếp hết
Dựa vào lợi mình người
Thị hiện cả ba thân.
Giải thích:
Nên biết, ba thân ấy nhiếp hết tất cả thân của chư Phật, và sự thị hiện tất cả thân đều dựa vào sự lợi mình và sự lợi người.
[0606c11] Kệ tụng:
Do vì y, tâm, nghiệp
Ba Phật đều bình đẳng
Tự tánh, vô gián, tục
Ba Phật đều thường trú.
Giải thích:
Theo thứ tự nói về ba loại thân như sau: Tất cả chư Phật đều bình đẳng: (1) là do y chỉ, tự tánh thân của tất cả chư Phật thì bình đẳng, vì pháp giới không có sai biệt; (2) là do tâm thể, thực thân của tất cả chư Phật thì bình đẳng, vì tâm Phật không có sai biệt; (3) là do nghiệp dụng, hóa thân của tất cả chư Phật thì bình đẳng, vì việc làm đồng nhất.
Lại nữa, tất cả chư Phật đều cùng thường trú: (1) do tự tánh thường trú, tự tánh thân của tất cả chư Phật thì thường trú, vì hoàn toàn vô lậu; (2) do vô gián thường trú, thực thân của tất cả chư Phật thì thường trú, vì thuyết pháp không có ngừng nghỉ; (3) do tương tục thường trú, hóa thân của tất cả chư Phật thì thường trú, vì tuy thấy nhập diệt ở đây nhưng lại thấy thị hiện ở nơi khác.
Đã nói về thân của chư Phật, kế nói về trí của chư Phật.
[0606c22] Kệ tụng:
Bốn trí, cảnh bất động
Sở y của ba trí
Thức tám, bảy, sáu, năm
Lần lượt chuyển đắc trí.
Giải thích:
Bốn trí, cảnh bất động, Sở y của ba trí: Tất cả chư Phật có bốn trí: 1. Cảnh trí; 2. Bình đẳng trí; 3. Quán trí; 4. Tác sự trí. Cảnh trí lấy bất động làm sắc thái, thường làm nơi y chỉ cho ba trí kia. Vì sao? Vì ba trí kia thì động.
Thức tám, bảy, sáu, năm, lần lượt chuyển đắc trí: Chuyển thức thứ tám để được cảnh trí, chuyển thức thứ bảy để được bình đẳng trí, chuyển thức thứ sáu để được quán trí, chuyển năm thức trước để được tác sự trí. Nên biết nghĩa ấy.
[0606a02] Kệ tụng:
Cảnh trí duyên vô phần
Tương tục hằng chẳng đoạn
Không ngu các sở thức
Các tướng chẳng hiện tiền.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị sự chuyển thức thứ tám để được cảnh trí.
Cảnh trí duyên vô phần: Trong tất cả cảnh giới, cảnh trí không tạo tác duyên tố phần đoạn.
Tương tục hằng chẳng đoạn: Trong tất cả thời gian, cảnh trí thường hiện hành không gián đoạn.
Không ngu các sở thức: Cảnh trí liễu tri tất cả cảnh giới nên chướng ngại vĩnh viễn đoạn tận.
Các tướng chẳng hiện tiền: Trong các cảnh giới, cảnh trí ly các hành tướng, duyên vô phân biệt.
[0607a09] Kệ tụng:
Cảnh trí nhân các trí
Nói là đại trí tạng
Thân khác và trí khác
Tượng hiện từ đây khởi.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị cái dụng của cảnh trí.
Cảnh trí nhân các trí, nói là đại trí tạng: Các trí là bình đẳng trí, quán trí và tác sự trí. Ba trí này đều lấy cảnh trí làm nhân tố, vì vậy cảnh trí được ví như kho tàng lớn, tức kho tàng của các trí.
Thân khác và trí khác, tượng hiện từ đây khởi: Thân khác là thọ dụng thân và hóa thân. Trí khác là bình đẳng trí, quán trí và tác sự trí. Tất cả ảnh tượng của các thân và thể tướng của các trí đều từ cảnh trí xuất sanh, cho nên Phật nói cảnh trí là trí của tấm gương (lớn tròn đầy trong đó hiện đủ mọi sắc tượng).
[0607a17] Kệ tụng:
Bình đẳng trí chúng sanh
Tu tịnh chứng bồ-đề
Chẳng trú ở niết-bàn
Do vì không rốt ráo.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị sự chuyển thức thứ bảy để được bình đẳng trí.
Bình đẳng trí chúng sanh, tu tịnh chứng bồ-đề: Khi chư Bồ tát chứng pháp hiện tiền thì đắc bình đẳng trí về tất cả chúng sanh. Tu tập trí này đến tối cực thanh tịnh thì đắc Vô thượng bồ-đề.
Chẳng trú ở niết-bàn, do vì không rốt ráo: Vì chúng sanh vô tận nên không rốt ráo [có nhập niết-bàn]; không rốt ráo [có nhập niết-bàn] nên không trú ở niết-bàn. Từ ý nghĩa này mà nói là bình đẳng trí.
[0607a25] Kệ tụng:
Đại từ và đại bi
Cả hai thường không dứt
Chúng sanh có đức tin
Hình tượng Phật hiện tiền.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị cái dụng của bình đẳng trí.
Đại từ và đại bi, cả hai thường không dứt: Trong tất cả thời gian, chư Phật Như lai dõi theo chúng sanh. Vì sao? Vì tâm đại từ, đại bi của chư Phật chưa bao giờ đoạn dứt.
Chúng sanh có đức tin, hình tượng Phật hiện tiền: Nếu người có đức tin thì chư Phật tùy thuận sở nguyện mà hiện thân, hoặc có chúng sanh nhìn thấy thân Như lai sắc xanh, hoặc có chúng sanh nhìn thấy thân Như lai sắc vàng.
Như vậy, qua những gì trình bày ở đây, hai trí này chính là pháp thân.
[0607b04] Kệ tụng:
Quán trí thức, sở thức
Hằng thời không có ngại
Trí này như đại tạng
Tổng trì, tam-muội nương.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị sự chuyển thức thứ sáu để được quán trí.
Đối với tất cả cảnh giới, quán trí lấy tâm thức làm đối tượng, hằng không chướng ngại [sự sai biệt của tất cả cảnh giới]. Thí như kho tàng lớn, quán trí làm y chỉ cho tất cả đà-la-ni môn và tất cả tam-muội môn . Vì sao? Hai môn như vậy đều từ trí này phát sanh.
[0607b10] Kệ tụng:
Thường ở trong đại chúng
Thị hiện các tác dụng
Đoạn được các lưới nghi
Mưa trận mưa pháp lớn.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị cái dụng của quán trí, nghĩa lý như kệ tụng đã nói. Quán trí này chính là thực thân.
[0607b14] Kệ tụng:
Sự trí nơi các cõi
Khởi các sự biến hóa
Vô lượng không nghĩ bàn
Vì lợi lạc quần sanh.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị sự chuyển của năm thức trước để được tác sự trí.
Tác sự trí kia làm ra các sự biến hóa ở trong tất cả thế giới, biến hóa vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn. Những nghiệp dụng biến hóa như vậy đều vì lợi lạc tất cả chúng sanh . Tác sự trí này chính là hóa thân.
[0607b20] Kệ tụng:
Nhiếp trì và đẳng tâm
Khai pháp và tác sự
Như vậy y bốn nghĩa
Tuần tự bốn trí khởi.
Giải thích:
Nhiếp trì, là nghe chánh pháp rồi thì thu nhận mà gìn giữ. Đẳng tâm, là đối với tất cả chúng sanh có được cái tâm bình đẳng mình người. Khai pháp, là diễn thuyết chánh pháp. Tác sự, là khởi các nghiệp dụng biến hóa. Dựa vào nghĩa thứ nhất, cảnh trí khởi; dựa vào nghĩa thứ hai, bình đẳng trí khởi; dựa vào nghĩa thứ ba, quán trí khởi; dựa vào nghĩa thứ tư, tác sự trí khởi.
[0607b27] Kệ tụng:
Vì tánh biệt, bất hư
Nhất thiết và vô thủy
Vô biệt nên chẳng một
Y đồng nên chẳng nhiều.
Giải thích:
Kệ tụng này hiển thị chư Phật thì không phải một, không phải nhiều.
Không phải một, là vì đặc tánh riêng biệt, chẳng hư dối, tất cả, không có bắt đầu và không có đặc biệt.
Đặc tánh riêng biệt: Vô biên chư Phật có (vô biên) đặc tánh riêng biệt. Nói rằng chỉ có một đức Phật hiện hữu đang chứng đắc bồ-đề, nghĩa này không đúng, vậy Phật thì không phải một.
Chẳng hư dối: Nói rằng khối phước đức và trí tuệ là hư dối, cũng tức là nói Bồ tát không thể đắc bồ-đề. Vì hai khối phước trí không phải hư dối nên nghĩa này không đúng, vậy Phật thì không phải một.
Tất cả: Nói rằng chỉ có một đức Phật, cũng tức là nói đức Phật ấy không làm lợi ích được cho tất cả chúng sanh. Vì Phật thiết lập tất cả chúng sanh làm Phật nên nghĩa này không đúng, vậy Phật thì không phải một.
Không có bắt đầu: Nói rằng tối sơ chỉ có một đức Phật thì đức Phật ấy không cần phải có hai khối phước trí cũng đắc thành Phật, nghĩa này không đúng, vậy Phật thì không phải một.
Không có đặc biệt: Nói rằng đặc biệt có một đức Phật không có hai khối phước trí, nghĩa này không đúng, vậy Phật thì không phải một.
Không phải nhiều, là vì chư Phật dựa vào (pháp tánh) đồng nhất, nghĩa là pháp thân của tất cả chư Phật dựa vào pháp giới vô lậu.
Đã nói về trí của chư Phật, kế nói sự đi vào phương tiện của chư Phật.
[0607c13] Kệ tụng:
Phân biệt nếu luôn có
Chân thật thì mãi không
Phân biệt nếu mãi không
Chân thật thì luôn có.
Giải thích:
Nếu tự tánh phân biệt hằng có mặt thì tự tánh chân thật vĩnh viễn không có mặt, nên không thể thủ đắc (pháp giới). Nếu tự tánh phân biệt vĩnh viễn không có mặt thì tự tánh chân thật hằng có mặt, nên có thể thủ đắc (pháp giới).
[0607c18] Kệ tụng:
Muốn tu tối thượng tu
Không thấy tất cả tu
Muốn đắc tối thượng đắc
Không thấy tất cả đắc.
Giải thích:
Không thấy tất cả tu, tu như vậy là tu tối thượng. Thấy tất cả tu, tu như vậy là không thể đắc. Không thấy tất cả đắc, đắc như vậy là đắc tối thượng. Thấy tất cả đắc, đắc như vậy là không thể đắc
[0607c22] Kệ tụng:
Tôn trọng, thời gian dài
Quán Phật pháp hy hữu
Duyên đây mau đắc Phật
Bỏ Phật bồ-đề xa.
Giải thích:
Nếu có vị Bồ tát đối với đức Phật Thế tôn sanh tâm cực kỳ tôn trọng và trong thời gian dài lâu tinh cần quán thân Phật là pháp vị tằng hữu. Tâm duyên pháp quán này và tinh tiến dài lâu, vị Bồ tát ấy có thể nói tôi đang mau được Vô thượng bồ-đề. Nên biết vị Bồ tát nào bỏ Phật thì quả bồ-đề rất là xa. Vì sao? Vì vị ấy có tâm cao mạn vậy.
[0607c28] Kệ tụng:
Quán pháp duy phân biệt
Nghĩa này như trước biết
Bồ tát vô phân biệt
Vị ấy mau thành Phật.
Giải thích:
Bồ tát quán tất cả các pháp chỉ là phân biệt. Sự quán cái phân biệt kia cũng vô phân biệt, tức đắc nhập địa vị vô sanh nhẫn của Bồ tát. Từ nghĩa như vậy mà nói chứng đắc bồ-đề.
Đã nói sự đi vào phương tiện của chư Phật, kế nói sự đồng sự của chư Phật.
[0608a04] Kệ tụng:
Nên biết các dòng sông
Biệt y và biệt sự
Nước ít nên dụng ít
Vì chưa vào biển lớn.
Tất cả vào biển lớn
Nhất y và nhất sự
Nước nhiều nên dụng nhiều
Và lại thường vô tận.
Như vậy các biệt giải
Biệt ý và biệt nghiệp
Giải nhỏ lợi ích nhỏ
Vì chưa vào thể Phật.
Tất cả vào thể Phật
Nhất giải và nhất ý
Giải lớn lợi ích lớn
Cực tụ cũng vô tận.
Giải thích:
Biệt thủy (nước sông): là thí dụ cho biệt giải của chư Bồ tát. Biệt y (dòng sông): là thí dụ cho biệt ý của chư Bồ tát. Nhất thủy (nước biển): là thí dụ cho nhất giải của chư Như lai. Nhất y (biển cả): là thí dụ cho nhất ý của chư Như lai.
Do nước của các sông khác nhau nên các dòng chảy cũng khác nhau, và do dòng sông nhỏ nên lưu lượng nước cũng ít. Vì sao? Vì chưa hòa nhập vào biển lớn. Chư Bồ tát cũng vậy, do kiến giải khác nhau nên sự tác nghiệp cũng khác nhau, và do kiến giải ít ỏi nên lợi ích chúng sanh cũng ít ỏi. Vì sao? Vì chưa thể nhập vào thể Phật.
Các dòng sông khi đi vào biển lớn thì có cùng một y cứ, có cùng một thể chất. Do nước biển đồng nhất nên tác dụng của biển cũng đồng nhất, và do biển cả lớn lao nên dòng chảy cũng lớn lao. Chư Bồ tát cùng thể nhập thể Phật tức là đồng nhất ý, là đồng nhất giải [của chư Như lai]. Do kiến giải đồng nhất nên sự tác nghiệp cũng đồng nhất, và do kiến giải lớn lao nên lợi ích cũng lớn lao. Thể Phật chứa nhóm tất cả chúng sanh một cách cực đại và không có cùng tận.
Như vậy, đã nói thể dụng của chư Phật, kế nói một kệ tụng khuyến tiến mong cầu.
[0608a25] Kệ tụng:
Không sánh tròn bạch pháp
Nhân lợi lạc chúng sanh
Lạc trú vô tận tạng
Người trí nên cầu phát.
Giải thích:
Không sánh tròn bạch pháp: Là việc lợi mình của Phật thành tựu.
Nhân lợi lạc chúng sanh: Là việc lợi người của Phật thành tựu.
Lạc trú vô tận tạng: Thiện căn của Phật không ai vượt qua, không ai trên được, là kho tàng an lạc vô tận.
Người trí nên cầu phát: Người có trí nên cầu sự lạc trú tối thắng như vậy mà phát đại bồ-đề tâm.
Phẩm Bồ-đề trọn vẹn
Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 13 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Hoa nhẫn nhục


Công đức phóng sinh


Đừng bận tâm chuyện vặt


Nắng mới bên thềm xuân

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 18.118.121.23 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập