Dầu nói ra ngàn câu nhưng không lợi ích gì, tốt hơn nói một câu có nghĩa, nghe xong tâm ý được an tịnh vui thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 101)
Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng
Rời bỏ uế trược, khéo nghiêm trì giới luật, sống khắc kỷ và chân thật, người như thế mới xứng đáng mặc áo cà-sa.Kinh Pháp cú (Kệ số 10)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó. Kinh Pháp cú
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Đại Bảo Tích Kinh [大寶積經] »» Bản Việt dịch quyển số 9 »»

Đại Bảo Tích Kinh [大寶積經] »» Bản Việt dịch quyển số 9


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.58 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.69 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Đại Bửu Tích

Kinh này có 120 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 |
Việt dịch: Thích Trí Tịnh

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Mật Tích Kim Cang nói : « Thưa Ngài Tịch Ý ! Miệng Bồ Tát chưa từng nói ra những lời nhiễm ô, lời bất nhơn, lời sân hận, ngu si, cũng chẳng nói lời dua nịnh, lời kết oán, lời cợt đùa chế riễu. Lúc nói Bồ Tát chẳng cười vô lối, chẳng thốt ra lời châm chọc, lời thô bạo. Lòng Bồ Tát không hề có quan niệm não hại, chấp trước, tranh đấu, bực tức, ỷ thị, cống cao, buông lung, trái lý. Không lúc nào Bồ Tát để mất nghi tiết, lỗi thời, không tham dục, độc ác. Thân thể Bồ Tát toàn vẹn, thinh âm viên diệu. Tâm không thiên đảng, không che giấu, chẳng oán hiềm, chẳng tà kiến, chẳng chấp ngô ngã, chẳng khuấy rối người. Bồ Tát không truyền rao lỗi của người, chẳng thất ngôn, thường nhẫn nhịn, luôn hòa thuận, bỏ hành vi phi pháp, không coi rẻ chánh pháp, chẳng ca ngợi người của mình, chẳng phá hoại bạn của người. Mình được điều tốt điều hay chẳng lấy đó làm vui thích. Thấy người khác được khen tặng chẳng ganh hờn. Chẳng hủy bán người trí, chẳng khinh khi người hiền, chẳng buộc tội người, chẳng tìm chỗ dở của người, siêng dạy bảo người chí nguyện cầu đạo Vô thượng.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Đây là Bồ Tát ngôn hạnh tương ưng, tinh thần dõng kiện, công đức báo ứng chỗ làm chắc chắn, lời nói chí thành, thật hành đúng như lời.
Giả sử có người đến dưới cây to đứng quan sát rồi hỏi người khác rằng, anh biết cây nầy có bao nhiêu lá chăng ? Người đại trí chẳng nhìn cây cũng chẳng đếm số, mà có thể nói đúng số lá như người đã đếm. Đối với đạo đức, người trí chẳng suy lường liền biết số lượng, ở giữa đại chúng tuyên thị rành rẽ, lời nói của người nầy cùng người đại trí trước kia đồng nhau không khác.
Nếu có người hỏi cát trong sông lớn có bao nhiêu hột ? Nước trong sông lớn có bao nhiêu thăng ? Về việc nầy chỉ bực đại thánh mới biết. Chư Thiên nhẫn đến Long Thần, Bát bộ, loài người, đến bực Thinh Văn, Duyên Giác đều không thể biết rõ. Duy Phật Thế Tôn mới biết rõ được.
Cứ theo đây để quán sát, đức Như Lai chí chơn Đẳng Chánh Giác, trí huệ không thể tính lường, tuyên thuyết vạn ức thinh âm, chúng sanh đều được nghe, đều được hiểu.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Thuở quá khứ có một vị thần tiên hiệu là Lâu Di thường ở dưới cội cây nhơn hiền, trọn mười hai năm vừa quan sát vừa đếm lá cây. Sau đó có phạm chí tên Tịch Nhiên đến dưới cây nhơn hiền, thấy đại tiên ngày đêm quan sát cùng đếm lá cây. Phạm chí hỏi cớ. Đại tiên bảo rằng tôi đếm lá cây để biết có bao nhiêu lá.
Lúc đó phạm chí Tịch Nhiên chẳng nhìn cây, chẳng đếm lá mà nói kệ rằng :
Có tám ngàn cai
Tám ngàn ức lá,
Chín ngàn sáu trăm
Lẻ hai mươi lóng
Gốc có hai trăm
Năm mươi lẻ năm,
Nụ có sáu ngàn
Sáu trăm sáu mươi.
Theo tôi rõ biết
Cây nầy như vậy,
Đại tiên nếu nghi
Xin đếm lại đó.
Đại tiên Lâu Di khen rằng : Lành thay ! Lành thay ! Ông nói thiệt đúng số. Ông không tính đếm mà biết rõ số lá cây đúng như của tôi đã từ mười hai năm tính đếm. Xin phạm chí vui lòng cho tôi biết duyên cớ vì sao chẳng xem chẳng đếm mà lại biết như tôi đã tính đếm ?.
Phạm chí nói : Thưa đại tiên ! Chẳng phải người cũng chẳng phải trời giúp tôi. Do tôi chí thành tu tập chánh hạnh, đúng theo đế lý chơn thật không phân biệt đấu tranh.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Thần tiên Lâu Di thuở xưa chính là Tôn giả Xá Lợi Phất. Phạm chí Tịch Nhiên là đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn hiện nay.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Nghiệp hạnh Bồ Tát rất vi mật, trí huệ vô cực vô lượng vô hạn, thuận theo thời nghi mà thị hiện, không thể nói, không thể nghĩ lường đến được.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Những gì là tâm mật ? Tâm niệm thanh tịnh chẳng mất thần thông, dùng trí huệ thần thông để tự vui, lúc thị hiện luôn trụ nơi thần thông, thật hành đại bi dùng thần thông biến hóa vô số vô lượng khắp hiển bày tất cả, ở trong nhà trí huệ trụ đế lý thần thông, mắt thấy rõ tất cả pháp. Đây là trí huệ thần thông vô cực chánh chơn hiện khắp tất cả của Bồ Tát. Trí huệ thần thông nầy hiển hiện các hình tượng, các sắc thân, vẫn không có sắc. Bồ Tát dùng trí huệ thần thông hiển hiện những thinh âm. Bồ Tát có thể quan sát tất cả tâm niệm tư tưởng của tất cả chúng sanh, theo căn lành của họ mà tùy thời nghi khai hóa, không bao giờ quên sót. Bồ Tát không quan niệm khứ lai mà hiện thần túc vô ngại đi khắp ba cõi chẳng chướng chẳng trệ, không thủ trước, không tạo lập. Trí huệ thần thông của Bồ Tát dứt tất cả hữu lậu. Chỗ thấy biết sâu xa huyền diệu, thị hiện vào sanh tử để độ đời. Trí huệ thần thông của Bồ Tát siêu việt tất cả hàng Thinh Văn, Duyên Giác. Ngồi dưới cội Bồ đề, hàng phục quân ma, thấu hiểu tất cả Phật Pháp, thuận theo thời nghi chuyển chánh pháp luân, khai hóa tất cả chúng sanh đưa họ vào luật pháp đến bực nhứt sanh bổ xứ.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Đây là tâm hạnh thanh tịnh bí mật của Bồ Tát.
Nếu tâm chơn thật thanh tịnh thời trọn vô trụ vô qui, thường hỉ lạc, an thích điều hòa rốt ráo lành tốt, nhập phổ huệ tam muội, chẳng diệt độ hẳn, chẳng nhàm cõi dục. Giả sử Bồ Tát sanh trong cõi dục, vẫn không đắm trước, chẳng bị ràng buộc, chẳng có kiết sử. Vì Bồ Tát đã khỏi hẳn tất cả vọng tưởng, sạch trần cấu, không điên đảo, không chấp trước, đã thoát sanh lão bịnh tử. Dầu Bồ Tát hiện có sanh mà vẫn vô sanh. Bồ Tát trụ nơi Đại thừa để thành tựu tất cả Phật Pháp, dùng đây cứu hộ tất cả chúng sanh, mà vẫn là bất khả đắc, không cứu không hộ, rõ tất cả pháp đều là tất cả Phật pháp, tất cả Phật pháp là tất cả pháp, chẳng phải pháp cũng chẳng phải phi pháp, vì tất cả pháp bổn lai bất khả đắc, không xứ sở, không số, không lượng. Rõ biết tất cả pháp vốn không tất cả pháp, không cầu không được. Bồ Tát thấy có được, vẫn không có tâm mừng lo, vì không tâm mừng lo nên không chướng ngại, không trụ trước. Vì không trụ trước nên không vô ngã, vì không vô ngã thời không lãnh thọ, vì không lãnh thọ thời không tránh tụng, vì không tránh tụng thời không loạn động. Không loạn động chính là pháp của bực Sa Môn. Tâm Bồ Tát bình đẳng như hư không, chẳng đọa dục giới, chẳng ở sắc giới, chẳng trụ vô sắc giới. Tất cả đều không trụ trước, không khen không chê, vì tất cả pháp đều là bất khả đắc. Đây là tâm mật của Bồ Tát.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Tâm mật của Bồ Tát thật hành đại từ vì không chấp ngô ngã, thật hành đại bi vì không có chúng sanh, thật hành hoan hỷ vì không có mạng sống, bởi tế độ nên rõ thấu không thọï mạng, thật hành bốn cách bố thí vì tâm không xan lẫn, phụng hành cấm giới vì tâm điều hòa, thật hành nhẫn nhục vì tâm bất động, tu hành tinh tấn vì tư duy tịch tịnh, nhứt tâm chánh định vì tâm vô trụ, biết rõ thánh tâm vì không chỗ làm, tu tứ niệm xứ vì không ý không niệm, thực hành tứ chánh cần vì tâm hiểu rõ chẳng sanh chẳng diệt, thần túc bay đi vì tâm rộng rãi không ngằn mé, dốc lòng chánh tín vì tâm không trở ngại, nếu tu tinh tấn thời tâm hành vắng lặng, trụ nơi chánh định vì tâm bình đẳng vô phân biệt, trụ nơi trí huệ vì tâm không vọng tưởng, thế lực tự tại vì thuận theo nguồn tâm, dùng ý giác sát vì có huệ phân biệt, phụng hành đạo nghiệp vì tâm không chỗ tưởng, tâm ý vắng bặt vì đạm bạc không suy tư, quan sát nội tâm vì chỗ thấy biết không chấp trước, tu hành hiền thánh vì hiểu tâm rốt ráo, tâm thường niệm Phật vì trí huệ sáng suốt không có vọng tưởng, tâm gẫm suy đại đạo vì chí nguyện vô lượng, thường niệm chánh pháp vì tâm bình đẳng, thường niệm thánh chúng vì tâm vô trụ dạy dỗ chúng sanh, tâm thường thanh tịnh vì hộ chánh pháp, thuận theo pháp giới vì tâm không biến hoại, thanh tịnh Phật độ vì tâm đồng hư không, đầy đủ tướng tốt vì tâm không phân biệt hình tướng, thường trụ nhẫn nhục vì tâm không điên đảo, trụ bực bất thối vì tâm không thối chuyển, trang nghiêm đạo tràng vì ở trong tam giới mà tâm chẳng nhiễm ô, hàng phục nghiệp ma vì tâm nhiếp thọ chúng sanh, đem đạo pháp truyền dạy vì tâm bình đẳng hiểu biết tất cả pháp, thường chuyển pháp luân vì pháp không chuyển, tâm không thối chuyển hiện đại Niết bàn, giải thích nguồn sanh tử vì tâm bình đẳng tự nhiên.
Thưa Ngài Tịch Ý ! Nếu Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn thời tâm rất vi mật, rất thanh tịnh. Tâm đã thanh tịnh thời hiểu rõ và đi vào tâm thanh tịnh của tất cả chúng sanh. Tâm của chúng sanh vào nơi đạo tâm mà bị chiếu sáng. Như hư không bình đẳng vào khắp tất cả những pháp hữu hình vô hình, đạo tâm vào khắp tâm hành của tất cả chúng sanh cũng như vậy ».
Lúc Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ diễn thuyết thân khẩu tâm mật bất tư nghì của Bồ Tát, có bảy muôn hai ngàn chư Thiên và nhơn chúng phát tâm Vô thượng chánh chơn, ba muôn hai ngàn Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn, mười bốn ngàn người xa lìa trần cấu được pháp nhãn tịnh, tám ngàn Tỳ Kheo tâm ý vô lậu.
Liền đó cả Đại Thiên thế giới chấn động sáu cách, ánh sáng lớn chiếu khắp mười phương, giữa hư không mưa các thứ hoa, các thứ nhạc khí tự nhiên hòa tấu. Trong tiếng âm nhạc diễn ra những lời như vầy : Những ai nghe được pháp của Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nầy diễn nói, nếu có lòng ưa thích kính tin, thời sẽ được thọ ký, sẽ mến thích kinh điển và thọ trì đọc tụng, vì người giảng nói, chẳng thối thất đạo tâm, sẽ vun trồng những công đức lành. Những người nầy đã từng cúng dường vô số chư Phật lợi ích chúng sanh.
Đức Thế Tôn bảo Tịch Ý Bồ Tát : « Chừng ông có nghe những lời diễn nói của âm nhạc đó chăng ? ».
- Bạch Thế Tôn ! Tôi nghe rõ. Do oai thần của ai mà có tiếng nhạc như vậy ?
- Nầy Tịch Ý ! Đó là Lôi Âm Bồ Tát từ nước Vũ Thị của Phật Lôi Âm Vương, đến Ta Bà thế giới nầy để ra mắt đảnh lễ ta, muốn hỏi pháp yếu và muốn nghe giáo pháp bí mật của Như Lai, nên ẩn thân trên hư không rải hoa cúng dường Phật và kinh pháp, cùng làm tiếng âm nhạc nói ra những lời như vậy ».
Đức Phật dạy vừa dứt tiếng, Lôi Âm Bồ Tát từ hư không hiện thân xuống cúi đầu lễ chân Phật, đi nhiễu Phật bảy vòng ở trước Phật bạch rằng : « Thế Tôn ! Lôi Âm Vương Như Lai kính lời viếng thăm vô lượng đi đứng an lành, ngồi nằm khỏe khoắn ».
Đức Phật bảo Lôi Âm Bồ Tát : « Lành thay, Chánh Sĩ ! Ông cố đến thăm viếng Như Lai, muốn được nghe kinh pháp bí mật. Hiện nay Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ thừa oai thần của Phật mà tuyên thuyết pháp yếu ».
Lúc đó trong đại hội có chư Bồ Tát tự nghĩ rằng : Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ nầy chứa nhóm công đức từ đời nào ? Phát đạo tâm tại chỗ đức Phật nào ? Phát nguyện như thế nào ? Mà hiện nay được biện tài rộng lớn như vậy ?
Đức Phật biết tâm niệm của đại hội liền bảo Tịch Ý Bồ Tát : «Về thời quá khứ vô số bất tư nghì kiếp, có đức Phật hiệu là Vô Lượng Huân Bửu Cẩm Tịnh Vương Như Lai Ứng Cúng Đẳng Giác Thế Tôn, hiện ra nơi thế giới Trang Nghiêm trong kiếp Thiện Kiến. Cõi đó nhơn dân đông nhiều, giàu có an lạc. Mặt đất bằng phẳng, không có cát đá gai góc, thuần là ngọc báu : lưu ly, thủy tinh, minh châu, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não. Mặt đất mềm nhuyễn như y phục của chư Thiên, hương thơm ngào ngạt thêm ánh sáng màu rất đẹp. Cỏ mọc tươi tốt mềm dẻo, đi trên đó êm mát như bức thảm cõi trời. Khí hậu ôn hòa không quá lạnh quá nóng. Người nước đó tánh tình nhơn từ hòa nhã, thân khẩu tâm đều tịch tịnh, phiền não mỏng nhẹ, tất cả đều có oai lực tự tại. Pháp hội của đức Phật đó có mười hai cai đại Tỳ Kheo, ba mươi hai ức đại Bồ Tát. Đức Phật đó trụ thế ba mươi sáu ức tuổi.
Trong nước Trang Nghiêm có bốn thành lớn tên Khoái Kiến. Mỗi thành vuông rộng tám mươi muôn dặm, cách nhau bốn trăm dặm. Trong mỗi thành có cả ngàn quận huyện. Nhơn dân thân cao bốn dặm. Nơi đại thành Khoái Kiến lại có nội thành tên Thanh Tịnh, ngang rộng hai ngàn năm trăm sáu mươi dặm, trong thành có vua Chuyển Luân Vương hiệu Dũng Quận đầy đủ thất bửu : kim luân, bạch tượng, ngựa xanh biếc, minh nguyệt thần châu, vợ ngọc nữ, chủ tạng thần, chủ binh đại tướng. Vua cai trị cả bốn châu thiên hạ. Vua đã từng cúng dường quá khứ chư Phật phát tâm Vô thượng Bồ đề. Chánh hậu ngọc nữ cùng bảy muôn sáu ngàn thể nữ trong cung đều phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Vua có ngàn Thái Tử đều xinh đẹp, đủ hai mươi tám tướng tốt, sức lực mạnh mẻ, tánh nết nhơn hòa, cũng đều phát Bồ đề tâm.
Thuở đó đức Phật Vô Lượng Huân Bửu Cẩm Tịnh Vương đi đến thành Thanh Tịnh. Vua Dũng Quận cúng dường Phật và đại chúng Bồ Tát Thanh Văn những y phục, đồ uống ăn, thuốc men, đồ nằm, nhà cửa, giảng đường, tịnh xá, cùng vườn tược suối ao. Mỗi vị Tỳ Kheo, Vua sai hai người theo hầu hạ. Nhà vua cúng dường như thế trọn một ức năm.
Ngàn vị Vương Tử thường chí tâm cúng dường Phật và thích nghe kinh pháp, chẳng ưa ái dục, bỏ việc chơi đùa, vì chí tâm chẳng phóng dật, không bao lâu đều được năm thứ thần thông. Khi được thần thông rồi, ngàn Vương Tử bay vọt lên hư không tự tại vô ngại, bay khắp tất cả quận huyện, các thành các nước, nhẫn đến bốn châu thiên hạ. Đến đâu các Vương Tử cũng đều vì đại chúng mà tuyên thuyết kệ rằng :
Chư Phật hiện ra đời
Lâu xa khó gặp gỡ
Sanh làm người thế gian
Cũng là rất khó được.
Mọi người nên đồng chí
Đều tin thích nghe kinh
Trong trăm ngàn ức kiếp
Lại càng khó gặp gỡ.
Nay Như Lai Thế Tôn
Đã hiện ra trong đời
Muốn mọi người được độ
Nên nói những kinh pháp.
Chúng tôi gần bên Phật
Thưa thỉnh được dạy dỗ
Cầu trí huệ sáng suốt
Phụng hành lời Phật dạy.
Do thọ trì kinh pháp
Thoát khỏi các ác thú
Được thêm lớn căn lành
Ở nơi chỗ rất an.
Vì được nghe chánh pháp
Tiêu trừ các trần lao
Do được huệ đa văn
Nên được chơn chánh pháp.
Đem pháp đã được nghe
Tuyên dương vị cam lồ
Do đây hiện điềm lành
Đất chấn động sáu cách
Bố cáo cùng trời người
Chư Thiên đồng ca ngợi
Đồng thời rải hoa trời
Hoa kia đủ các loại.
Chúng sanh đều hợp đến
Số đông chẳng thể lường
Đấng chí tôn khai hóa
Đều được vào thánh đạo.
Đại chúng cúi đầu lạy
Nơi chơn đức Thế Tôn
Rồi đều đứng chắp tay
Cung kính hầu bên Phật.
Như Lai Thiên Nhơn Sư
Thấy rõ lòng đại chúng
Tùy thời nghi căn tánh
Đem kinh pháp dạy truyền.
Tất cả đại chúng kia
Được nghe pháp Phật dạy
Ba mươi sáu ức người
Đồng pháp tâm Vô thượng.
Lại có ba trăm ức
Người nghe chánh pháp âm
Thấy rõ tất cả pháp
Được pháp nhãn thanh tịnh.
Những người đó đều nhàm
Gia nghiệp cùng tục duyên
Ở trong pháp hội kia
Xuất gia tu học đạo.
Lại có vô số chúng
Ức tỉ triệu muôn người
Đến pháp hội nghe kinh
Quy y làm tín sĩ
Sau khi nghe kinh pháp
Cúi đầu lạy chưn Phật
Đồng chắp tay từ biệt
Lễ Phật trở về nhà.
Nầy Tịch Ý ! Các vị Vương Tử đó cùng Chuyển Luân Vương xây dựng lầu đài bằng gỗ chiên đàn, cửa nẻo đều bằng châu báu. Vì muốn đến nghe pháp với đức Phật Vô Lượng Huân Bửu Cẩm Tịnh Vương, nên vua Dũng Quận khuyên bảo quyến thuộc trong cung cùng đại thần bá quan và nhơn dân già trẻ : Mọi người nên biết rằng thân người khó dược, gặp Phật ra đời lại cáng khó, nay chúng ta nên đến lễ kính đức Phật để được nghe kinh pháp.
Nhà vua cùng các Vương Tử, phu nhơn, thể nữ, các quan và nhơn dân vào ngồi trong lầu hương, trổi nhạc đờn ca, đồng đem theo nhiều thứ hoa hương, y phục, tràng phan, bảo cái để cúng dường Phật. Lầu hương như chim phụng hoàng bay lên hư không đến chỗ Phật ngự. Lầu hương bay nhiễu Phật bảy vòng rồi dừng lại một phía.
Vua Dũng Quận cùng đại chúng ra khỏi lầu hương đến lễ chưn Phật và lễ Thánh chúng, nhiễu Phật bảy vòng, rồi ở trước Phật bạch rằng : Thế Tôn ! Từ lâu chúng tôi đã được nghe tiếng Phật, nhưng vì việc nước quá nhiều dần dà đến nay mới được vào pháp hội thấy dung nhan Phật. Lòng chúng tôi không xiết hổ thẹn tự trách lấy mình. Ngưỡng mong đức đại từ lượng tình thương xót.
Đức Phật Vô Lượng Huân Bửu Cẩm Tịnh Vương thấy vua cùng quyến thuộc đều có lòng thành thật muốn nghe pháp liền thuận theo tâm bịnh của họ mà ban tuyên chánh pháp.
Nầy Đại Vương ! Muốn học Đại thừa chẳng trái thánh đạo phải thật hành bốn điều : Một là hết lòng tin Tam bảo, phụng thờ các bực Hiền Thánh, những điều chẳng nên làm phải tránh xa. Hai là chí tâm nghe kinh pháp,nghe rồi thọ trì. Ba là bỏ tánh kiêu căng ngạo mạn nhứt tâm cung kính các bực Hiền Thánh. Bốn là tinh tấn nhiếp thân khẩu ý thật hành hạnh lành. Nếu Đại Vương thuận theo bốn điều trên thời có thể tu học Đại thừa chẳng trái thánh đạo.
Nầy Đại Vương ! Lại có bốn điều cần phải giữ gìn chớ phóng dật : Giữ gìn sáu căn thấy họa hại ái dục, hiểu tất cả thọ và tưởng, biết rõ vô thường, do nghiệp nhơn mà có mạng căn.
Nầy Đại Vương ! Bồ Tát lại có bốn việc mà đạo pháp được sanh : Một là chẳng bỏ đạo tâm. Hai là cũng khuyên người khác phát tâm. Ba là chứa nhóm cội công đức để giúp đạo tâm, những pháp được nghe hiểu thấu nghĩa lý. Bốn là với tất cả Đế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương, nhẫn đến bực Thinh Văn, Duyên Giác đều đem giáo pháp Đại thừa rộng lớn khuyến hóa tất cả.
Nầy Đại Vương ! Do đây nên phải thường không phóng dật, kính tin Tam bảo, ưa thích vô lượng đạo pháp, vui nơi chánh pháp. Nếu được tin tấn tìm cầu đạo pháp, thời Đại Vương chẳng còn tham ưa những trần cảnh. Đại Vương nên biết rằng tham dục không có thời gian nhàm đủ, như người uống nước mặn càng uống càng khát. Gặp được bực Hiền Thánh khai thị mới biết hạn chế tham dục, mạng người rất ngắn vui ít khổ nhiều, có sanh tất có tử phải biết lo đời sau.
Nay Đại Vương cúng dường Như Lai, do công đức nầy được bốn điều lợi ích : đời đời giàu có đầy đủ, công đức phước báo không cùng không tận, được huệ sáng suốt vô lượng, biện tài vô ngại.
Lại sẽ có bốn điều lợi ích : nơi thân thật hành những điều công đức thanh tịnh, lời nói thanh tịnh đúng cấm giới, tâm niệm thanh tịnh học rộng không nhàm, được trí huệ sáng suốt thanh tịnh.
Lại có bốn điều lợi ích : đầy đủ phương tiện tu hạnh thanh tịnh dạy bảo chúng sanh vào nơi trí huệ, dùng nghiệp thanh tịnh hàng phục quân ma, thệ nguyện thanh tịnh việc làm tương ưng với lời nói, chứa nhóm công đức được gặp chư Phật.
Vua Dũng Quận sau khi nghe đức Phật dùng pháp nghĩa khai thị, lòng vua vui đẹp liền cởi chuỗi ngọc đương đeo nơi cổ dưng lên cúng dường Phật. Vua thọ ngũ giới trọn đời tu tập phạm hạnh.
Phu nhơn và thể nữ nghe Phật thuyết pháp cũng đều vui vẻ tâm ý nhu hòa, đồng cởi chuỗi ngọc châu báu đeo trên thân để cúng dường Phật. Phu nhơn và thể nữ xin vua cho được xuất gia làm Sa Môn tu phạm hạnh. Vua liền cho phép.
Lúc đó vua Dũng Quận lạy chưn Phật đi nhiễu bảy vòng, rồi cùng các thể nữ, bá quan vào lầu hương, trong giây lát bay về nước Thanh Tịnh.
Đến ngày Rằm trăng tròn, nhà vua cùng quyến thuộc trong cung vào vườn hoa trổi nhạc đờn ca. Hai bà chánh phu nhơn, một là bà hiệu Bất Hành Bộ, một bà hiệu Vô Hư Tổn, sau khi tắm gội dùng hương thơm xông ướp y phục ngồi trên giường báu. Tự nhiên có hai hài đồng hiện ra ngồi kiết già trên gối của mỗi phu nhơn. Hai hài đồng này dung nhan xinh đẹp đủ hai mươi tám tướng tốt. Đồng thời trên hư không có trăm ngàn chư Thiên cất tiếng khen rằng : Hai vị hài đồng nầy một tên Pháp Ý, một tên Pháp Niệm, đều sẽ tu hành thánh pháp.
Pháp Niệm hài đồng ngồi trên gối của phu nhơn Bất Hành Bộ. Pháp Ý hài đồng ngồi trên gối của phu nhơn Vô Hư Tổn. Hai vị hài đồng đồng cất tiếng nói kệ rằng :
Nếu ai giữ thân mình
Phát được tâm Bồ đề
Những bực học sĩ nầy
Tạo nên phước đức lành.
Những người nầy từng gặp
Đức Như Lai ra đời
Thường có lòng vui mừng
Nhứt tâm cúng dường Phật
Vì sự nghiệp thần thông
Sớm được Phật cứu độ
Tiêu hết vòng sanh tử
Chứng tịch diệt vô sanh.
Nếu phát tâm Bồ đề
Giữ bền không quên mất
Vì cứu độ chúng sanh
Phá hoại vòng sanh tử.
Ở thế giới Thượng Phương
Cách đây vô lượng cõi
Thế giới kia có Phật
Hồng danh là Thời Tiết
Chúng tôi từ cõi kia
Muốn nghe pháp đến đây
Muốn thấy Phật Công Huân
Cùng quốc độ của Phật.
Lúc đó hai hài dồng rời khỏi gối của mẹ, thẳng đường đến chỗ Phật, đầu mặt lạy chân Phật rồi chắp tay đứng qua một bên. Nhà vua cùng Thái Tử, các phu nhơn và thể nữ đi trên hư không đến chỗ Phật đảnh lễ rồi chắp tay đứng qua một bên.
Lúc đó Pháp Ý bạch rằng : Ngưỡng mong Thế Tôn vì chúng tôi mà giảng thuyết đạo pháp.
Đức Phật Công Huân biết rõ tâm niệm của mọi người, đem phép nghĩa thâm diệu để khai thị : Tất cả pháp đều từ nhơn duyên hòa hợp mà sanh khởi, vốn không chủ tể, không tác giả, không tự tánh, cũng không nhơn duyên, tất cả pháp đều trống rỗng như hư không, không thể chấp lấy.
Đức Phật Công Huân dùng vô số phương tiện tuyên thị pháp nghĩa thâm diệu, làm cho bảy mươi sáu cai hai ức tỉ người chứng được nhu thuận pháp nhẫn.
Lúc đó vua Dũng Quận cùng các Thái Tử và quyến thuộc trọn bảy ngày đêm nhiễu Phật cúng dường, lễ tạ Phật đồng trở về cung.
Một hôm vua Dũng Quận ngồi yên tự nghĩ rằng : Các con của ta đều phát tâm Bồ đề. Nay nên thử xem Vương Tử nào sẽ chứng đạo Vô thượng trước nhứt.
Nhà vua bèn bảo thợ làm bình bằng thất bảo để trên đài cao bốn mươi chín thước. Nhà vua truyền ngàn Thái Tử mỗi người biên danh hiệu mình trên thẻ bằng thất bửu để vào bình. Mọi người trọn bảy ngày đêm dùng các hương hoa cúng dường bình thất bửu. Qua bảy ngày, nhà vua đem bình thất bửu để trên án vàng bảo ngàn Thái Tử rút thẻ.
Lúc đó Thái Tử Tịnh Ý được thẻ đệ nhứt, cùng lúc ấy cả Đại Thiên thế giới chấn động sáu cách, tất cả kỹ nhạc tự nhiên hòa tấu ».
Thuật đến đây, đức Phật bảo Tịnh Ý Bồ Tát : « Nầy thiện nam tử ! Thái Tử Tịnh Ý, con của nhà vua Dũng Quận thuở quá khứ kia chính là đức Câu Lưu Tôn Như Lai. Thái Tử kế hiệu Ly Danh chính là đức Câu Na Hàm Mâu Ni Như Lai. Thái Tử thứ ba tên Tịch Căn chính là Ca Diếp Như Lai. Thái Tử thứ tư tên Nhứt Thiết Khổ Lợi chính là thân của ta, Thích Ca Mâu Ni Phật hiện nay. Thái Tử thứ năm tên Vũ Thất chính là Di Lặc Như Lai. Thái Tử thứ sáu tên Minh Nguyệt Châu Phục sẽ là Phật Sư Tử. Thái Tử thứ bảy sẽ là Phật Diệu Anh. Tuần tự như vậy lần lần đến vị Thái Tử rút được thẻ thứ chín trăm chín mươi chín, sau đây sẽ thành Phật hiệu là Vô Lượng Đức Bửu Xưng. Thái Tử tên Ý Vô Lượng rút được thẻ cuối cùng sẽ thành Phật thứ một ngàn trong một ngàn đức Phật ở hiền kiếp nầy hiệu là Lâu Chí Như Lai.
Nầy Tịch Ý ! Sau khi rút thẻ, ngàn Thái Tử cùng nhau vui cười và nói rằng sau nầy tôi sẽ thành Phật, sẽ hàng phục quân ma, chuyển đại pháp luân, cứu độ vô lượng chúng sanh.
Lúc đó Thái Tử Ý Vô Lượng thấy mình rút được thẻ sau rốt, sẽ thành Phật cuối cùng, trong lòng sầu não tự gieo mình xuống đất lập thệ rằng : Đạo pháp của chư Phật chẳng thể nghĩ lường, chúng sanh giới cũng là vô hạn, chí nguyện của tôi cũng bất tư nghì. Tôi nguyện khi các anh tôi thành Phật giáo hóa đệ tử, thọ mạng dài ngắn, thánh chúng nhiều ít, lúc tôi thành Phật cũng đồng như vậy. Nếu lời nguyện của tôi trên đây sau nầy được đúng như vậy, xin cõi Đại Thiên vì tôi mà hiện điềm lành. Thái Tử Ý Vô Lượng vừa lập thệ xong, Đại Thiên thế giới liền chấn động sáu cách, trời rưới các thứ hoa, tất cả nhạc khí tự nhiên hòa tấu. Giữa hư không có tiếng khen rằng : Sẽ được như nguyện, về sau nầy thành Phật hiệu là Lâu Chí Như Lai Đẳng Chánh Giác.
Thái Tử Ý Vô Lượng sau khi phátnguyện, được thấy điềm lành cùng nghe tiếng ca ngợi giữa hư không, liền nói kệ rằng :
Đạo pháp của chư Phật
Đồng như cõi hư không
Ý giác dường như huyễn
Chúng sanh giới vô tận
Phát nguyện hiện điềm lành
Giới cấm thành thanh tịnh
Các Ngài nên lóng nghe
Lời thệ nguyện của tôi.
Nầy Tịch Ý ! Vương Tử Ý Vô Lượng sẽ là vị Phật cuối cùng trong Hiền Kiếp hiệu Lâu Chí Như Lai. Cớ sao hiệu là Lâu Chí ? Vì lúc Vương Tử rút nhằm thẻ thứ một ngàn tự cảm thương buồn khóc, gieo mình xuống đất chí thành phát nguyện, do đó nên khi thành Phật hiệu là Lâu Chí.
Nầy Tịch Ý ! Ông xem chư Bồ Tát thiện quyền phương tiện, thành tựu giới hạnh phát nguyện rộng lớn đi khắp trong tam giới không lúc nào ngừng nghỉ. Lâu Chí Như Lai riêng một mình giáo hóa chúng sanh cùng ngàn Phật ra đời chỗ độ chúng sanh đồng nhau không khác.
Nầy Tịch Ý ! Hai vị Vương Tử nhỏ hơn hết trong ngàn vị Vương Tử tự lập thệ nguyện. Vương Tử Pháp Ý nguyện rằng : Lúc các Vương huynh thành Phật, tôi sẽ làm Kim Cang Lực Sĩ hộ trì chánh pháp bí yếu của Như Lai.
Vương Tử Pháp Niệm phát nguyện rằng : Lúc các Vương huynh thành Phật, tôi sẽ là người thỉnh mời và hộ trợ chư Phật chuyển pháp luân.
Nầy Tịch Ý !Vua Dũng Quận là tiền thân của Định Quang Như Lai. Ngàn Vương Tử là tiền thân của ngàn đức Phật trong Hiền Kiếp : từ Phật Câu Lưu Tôn thứ nhứt đến Phật Lâu Chí thứ một ngàn.
Vương Tử Pháp Ý chính là Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ đây. Vương Tử Pháp Niệm hiện nay là Thức Kỳ Phạm Thiên.
Phu nhơn, thể nữ trong cung vua thuở trước là những người đến dự pháp hội hôm nay.
Những người ngày trước được các Vương Tử khuyên xuất gia làm Sa Môn và những người được các Vương Tử giáo hóa, trong Hiền Kiếp này họ sẽ lần lượt thọ ký thành Phật.
Nầy Tịch Ý ! Ông xem chư Bồ Tát chí thành phát tâm công đức không bao giờ mất. Chư Bồ Tát sẽ được đầy đủ mười trí lực viên mãn hạnh nguyện của mình. Do đây nên có Bồ Tát nào muốn được sớm thành Phật phải học đòi theo hạnh nguyện của ngàn Vương Tử Bồ Tát, siêng năng phụng hành Phật đạo.
Những gì là Phật đạo ? Chẳng nên có tâm tổn hại chúng sanh, thêm lớn lòng từ thật hành lục độ, thường tu phạm hạnh, tu tập bốn ân, thật hành các phẩm trợ đạo đầy đủ thần thông, phương tiện quyền xảo để trọn nên cội công đức. Các hạnh trên đây chính là Phật đạo.
Nầy Tịch Ý ! Đạo đó tâm thanh tịnh thì thấu đạt bổn tánh. Đạo đó hòa nhã chí ý an ổn. Đạo đó chất phác mà không dua nịnh. Đạo đó rộng khắp không chỗ chướng ngại. Đạo đó bình đẳng không lòng bè đảng thiên lệch. Đạo đó vô úy chẳng phạm các điều ác. Đạo đó giàu có Bố thí ba la mật. Đạo đó đầy đủ giới ba la mật. Đạo đó chẳng tranh luận được Nhẫn ba la mật. Đạo đó lìa chấp trước thành Tinh tấn ba la mật. Đạo đó không tán loạn là Thiền định ba la mật. Đạo đó khéo quyết trạch là Bát Nhã ba la mật. Đạo quy về nơi trí huệ của mình phụng hành đức đại từ. Đạo đó chẳng có ý vạy vò đến nơi đại bi. Đạo đó cảm thọ vui vẻ thật hành lòng đại hỷ. Đạo đó trụ nơi vi diệu đến bực đại xả. Đạo đó trừ các khổ não, diệt bỏ những vọng tưởng tham hại sân hận. Đạo đó đến chỗ an lành không có lòng nguy hại. Đạo đó giáo hóa kẻ khó đều phục dứt trừ sự đắm mê nơi sắc, thinh, hương, vị, xúc. Đạo đó hàng phục ma vương cùng quyến thuộc của ma khiến họ bỏ tâm ngạo mạn và trừ dẹp những giặc oán thù. Đạo đó tiêu trừ các ấm các nhập, không chỗ chấp trước. Đạo đó bỏ việc ma, ở trong trần lao mà được tự tại. Đạo đó đem tâm hướng về Vô thượng, lìa tâm niệm Nhị thừa. Đạo đó huân tập các công hạnh thành trí giác bình đẳng. Đạo đó ngự nơi đại bửu tòa thuận nhứt thiết trí. Đạo đó thường phân biệt trí huệ sáng suốt vô ngại. Đạo đó tuyên thị hạnh lành nhiếp các thiện hữu. Đạo đó bỏ hầm hố tiêu các Kiết sử. Đạo đó bỏ trần lao vượt khỏi sự sân hận tranh đấu. Đạo đó về nơi an ổn hết những điều quấy ác. Đạo đó về nơi cát tường hướng đến nghiệp Niết bàn.
Trên đây là Bồ Tát thật hành ba mươi hai điều Phật đạo. Trụ nơi Phật đạo nầy, Bồ Tát sẽ được mau thành quả Vô thượng Bồ đề ».

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 120 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Chuyện Vãng Sanh - Tập 1


Hương lúa chùa quê - Phần 1: Hồi ký của Hòa thượng Thích Bảo Lạc


Vì sao tôi khổ


Em Là Vì Sao Sáng

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 3.16.69.143 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập