Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Không làm các việc ác, thành tựu các hạnh lành, giữ tâm ý trong sạch, chính lời chư Phật dạy.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay. Kinh Bốn mươi hai chương

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Đại Bảo Tích Kinh [大寶積經] »» Bản Việt dịch quyển số 7 »»

Đại Bảo Tích Kinh [大寶積經] »» Bản Việt dịch quyển số 7

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.53 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.62 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Đại Bửu Tích

Kinh này có 120 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 |
Việt dịch: Thích Trí Tịnh

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Chư Thiên thần ở núi Kê La Ta, có thể làm cho người thuyết pháp được sáu căn thanh tịnh, giúp ngữ nghiệp người thuyết pháp được tương tục không gián đoạn ».
Đức Phật liền nói thần chú rằng :
« Bát ra đa bát đát để- phệ rô chiết na phiệt để- một đà mạt để- phược tô mạt để- đạt ma mạt để- át tam bát ra mưu sa phiệt để- việt bá san nại rị thiết nẵng phiệt để- ô ba tăng hà ra niết đệ xa phiệt để.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Các vị Thiên thần ở rừng Ta La, có thể làm cho thân ngữ ý nghiệp của những người thuyết pháp đều thanh tịnh, làm cho tiếng tăm trong suốt, thanh tao, khả ái, và có thể truyền cho lời ái ngữ, lời hòa thuận ».
Đức Như Lai liền nói thần chú rằng :
« Niết ra lam ba a nghiệt ra yết lê - khất sái ma tỳ chế duệ - niết bá ta phiệt để - niết hà ra phiệt để- ô xà phiệt để- ô ba nẳng danh để - ô ba tăng hà ra yết ra ni - a vĩ xả tha - y hà đà ra ni mục khê - đạt ma mục khê - đạt ma ba tra lê.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Có các vị Thiên thần ở phía Nam núi Tuyết trợ thêm sức lực cho những người thuyết pháp, những người siêng tu hành pháp nầy, những người mong cầu pháp nầy, những người ưa thích pháp nầy ».
Đức Phật liền nói thần chú rằng :
« Yết rị da nẵng át tha vi tác nhã nễ - kiêu xa rị da nộ nghiệt đế - ô bá da tăng ngật rị tứ đế - vi ninh mục đế - phiến đa bát na vi tác ra nễ - ô bá ta da xa phiệt để.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Có các vị Thiên thần ở bờ đại hải, vì nghe pháp nên làm cho các pháp sư được an lạc. Đức Như Lai vì muốn lợi ích cho họ nên nói câu thần chú nầy. Thiên Đế Thích cũng có thể truyền cho họ những câu thần chú nầy. Thần chú đây là những câu có thể nhiếp Đế Thích v.v... ».
Đức Như Lai liền nói thần chú rằng :
« Ma khí bát để - ma tô mãng để - nê bã a ra nhã - xá chí bát để - tát bà a tô ra nẵng - niết ra già đa nể - mạt nhi sái dã - tố bát ra để sắc sĩ đa - bát ra mãng a ra na nỗ tỉ - a tố ra nẳm - nê phược nẳm a địa bát thầm - tát nã - bố ra tắt ngật rị đổ tứ niết - nê vi tứ thử bả tế - phược ta phược tát na - bố lãng nại ra đô - đa bế tứ - a tố ra tát na - đọa nặc a khất lâm - đa phược bát thi chủy - vi đồ dựng tứ đa - ma ha tố ra - a tố lệ na ra bát ra diễn để - tị đa đa ra tất ra - na la địa thâu địa xa - na mãng bột đà tứ dã - dĩ át để sử duệ - nẵng ma ngúc đa ra - ma ha dã xá - nê phược a tố ra tứ danh - tăng nghiệt ra danh - bột đà nhiếp đà - a nậu đa la - thất ra mạt tư - nê phược vi thệ da - na ma bột đà để nẵng mãng tư - tấn yết ra ma xiển na tư mạt nẳm - bột đà nang danh nẳng phược tứ đa - vi thệ duệ tố - đa đa nê phược - a tố ra thất giả - vi ninh đa phạm - ngật lý đa đế - ra khất sa nê phược nẳm - ma nỗ sa nẳm - ra khất sa vĩ na - dục ế ha- đạt ma nễ nê thế - ô đa lang để - tô bát ra để sắc sĩ đa - ninh ngật lý tứ đa - đa phược dạ a tố ra - a ra khứ sái ta dược xoa khẩn na ra - nẵng già cưu bàn tra bộ đa đa nễ - tỳ xá giá na nẵng ra đa tha - a giả la tất thả nẵng - bát ra bát đô tứ - ấn na ra ấn na ra - bố ra tắt ngật lý đa - a để nghiêm tỳ ra - phiến thẻ giả - a nghiệt ra bố lộ sa - tế vĩ nang - bát ra nhương mạn đô tứ - nê mạt na ra - bột địa ma ta tha vi thứ lộ đa - a mạt xả ế ha - tố đa ra tứ thị - a ra khất sa mạt na tứ đa - ta ha tát ra nê đa ra - tố mục khê am bá ta lệ - bát rị phược lý đa - ô ba muộn nhương tát phược cam yết nang - bố ra mê tứ đổ tứ danh - giả ngật rị đảm - a để bát thỉ giá - a nỗ bát ra một đa - a giả ra tố bát rị để sắc sỉ đa - ngật lý chiêm tứ - cứ xá lam bố ra mê - ma nộ thế số - mang tứ bát để - bố ra phược hư mâu tứ - nê phược nẫm - bố thệ ấn để - đáp phược mang nộ sá - bột đà tứ dã ngật rị đắc phược - tát đắc ca lam - bố xà bệ sát để - đế mạc hô - ma ha phược mãng ninh - vi giả lam bá phược nan giả - tố thứ bá để - nê phược lai dã tứ - mãng địa dã tứ thị - dã khứ sớ tứ bá lý phược lý đỗ - bát ra lạm ma - ha rị ma hồng giả - đa phược tứ ca - vi xá na a ngật ra phược tứ - ta đa để ma để - tố ra đa bát ra để - ta ra đa ta đa tha - bát ra bộ tát kiến đà - a nễ ra giả mãng ra giả - ma ha ma nghê - ma ha tát kiến đà - ma ha kế đô- tố bát ra địa giả - ma ha ma ra - ế đế dược xoa - ma ha đế nặc - a ra khất sằn để bá phược nam đa phược - ma hộ dược xoa bát rị phược lộ - duệ na thâu bá tứ phược ta phược - ma tố tát phược phược tố để nặc - ma ha đế nặc ma ha ngưỡng nể - ma ha bát ra ha ra nộ chế phược - a vĩ tứ ta na gia đa thế phược giả - tố danh rô mộ ra đà nễ - đa phược phược ta phược - tát phược nê phược - bố ra tắt ngật rị đỗ - thứ bà để - bà phược nẳng ô bà ta - bát ra ma muộn giả tứ - để nặc ta.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Thần chú nầy là những câu có thể nhiếp Thiên Đế v.v...
Nếu chư Bồ Tát hướng đến Bồ đề, sau đó vì nhiếp thọ chúng sanh mà an trụ trong nhiếp pháp, do thần chú trên đây nên sẽ được Thiên Đế Thích v.v... truyền thọ các câu thần chú.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Gì là những câu có thể nhiếp lấy Tứ Thiên Vương và các quyến thuôïc ? ».
Đức Phật liền nói kệ rằng :
« Dạ Xoa không giận não
Người tu tập pháp nầy
Đa Văn Vương Thái Tử
Cha con đều cung kính.
San Xà Gia, Dạ Xoa
Các đoàn quân lữ mạnh
Thường ủng hộ những người
Nơi pháp nầy ưa thích.
Trì Quốc đại thần vương
Hằng đem quyến thuộc theo
Thường ủng hộ những người
Khéo diễn thuyết pháp nầy.
Quyến thuộc thần Xứ Mục
Tự mình và quân chúng
Tất cả sẽ ủng hộ
Người tu tập kinh nầy.
Tăng Trưởng đại Thiên Vương
Quyến thuộc và quân lữ
Đều thường theo vệ hộ
Người ưa thích pháp nầy.
Thần La Sát Tràng Phan
La Sát Đại Tràng Lực
Đều ở tại phương Đông
Nhiếp vào câu chú nầy
Tự mình và quyến thuộc
Thường gần gũi thủ hộ
Người đọc tụng thọ trì
Pháp môn thậm thâm nầy.
Thần Hề Ly Mạt Để
Lam Bà, Tỳ Yết Giá
Và thần Tát Đà Đa
Đồng ở tại phương Nam
Hầu hạ Thiên Đế Thích
Đều nhiếp trong chú nầy
Thường giúp thêm tinh lực
Cho người trí thuyết pháp.
Và các thần La Sát
Kiếm Ly Tam Mật Đa
Cùng Già La Hệ Sí
Với thần Mật Thất Đa
Đồng ở tại phương Tây
Thần chú nầy nhiếp đến
Tất cả thường ủng hộ
Người thuyết pháp rõ nghĩa.
Và các thần La Sát
Thật Đế, Hữu Thật Đế
Tin sâu nơi pháp nầy
Đồng ở tại Bắc phương,
Vì muốn họ ủng hộ
Phật nhiếp họ vào đây,
Do oai lực Như Lai
Đều chắp tay mà đứng.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là những câu có thể nhiếp Tứ Thiên Vương, các quyến thuôïc và hàng thị tùng ».
Đức Phật liền nói thần chú rằng :
« Tán ninh vi xá nễ - ma ha tát lê - ma ha yết nễ - ma ha yết nhã nễ - bát ra bộ đa vi thệ duệ - đà phược xả a nghiệt ra - ô bá phược tác nễ - a nể lã tế nẳng đô ta ha - nẳng nẳng phiệt nang nại xa nễ xá - chiết đỏa rị lộ ca bá ra nễ - đổ tứ minh ra nhã nẵng ô chiết tha - a phệ thiết na - y ha tát mạn phược ha ra thá - vật ra thệ ninh tiết ra ha - tát mê chiết đột địa xá.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Những câu gì có thể hàng phục ma Ba Tuần ? Ông nên lóng nghe nghĩ kỹ ».
Đức Phật liền nói thần chú rằng :
« Mật để lệ - mật đa ra phược để - ca lộ ninh - ca lộ nẳng phược để - vi bộ để - vi bộ đa phược để - bát ra mâu chiết nễ - bát ra mâu chiết nẳng phược để - ngật rị đa ngật rị đa phược để - a nộ nghinh danh - a nộ nghinh mãng phược để - ô bá đa xiết na nễ - già ma vi phược nhương nễ - đế rị sắc nẵng ta mâu, châu sát nễ - nễ tiết rị tứ đa mang ra phược lam - ôn đa ra nang phược để - bát ra để dữ đa ra phược để - ô bế khứ sa nộ ta tứ đế a lam ma nang vi thâu đà nễ - ninh na ra xá nẵng - a tam mộ ha nễ – nễ sắc tra bát ra bán giả ninh.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là những câu chú hàng phục ma Ba Tuần. Do những câu chú nầy, Thiên ma và ma quân không được dịp đễ.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Gì là những câu có thể nhiếp Đại Phạm Thiên ? Ông lắng nghe và nghĩ kỹ ».
Đức Phật liền nói thần chú rằng :
A địa bát để - ma ha tất thá nẵng phiệt để - ta phược viêm ngật rị đa - tất tha nẵng danh để - nẵng nẵng ma hộ vi vĩ đà - bát ra để dữ bá tát tha nẵng già la nẵng - a địa già tát tha nẵng bát để - thứ đà tát tha nẵng tiết đỗ - ta hàm bát để - a địa yết lãng đa - vi thứ đà nẵng - thứ bà bát rị - bát ra thứ bá địa mục đa - bát ra bột đa thất rị đa - nễphược ta nang - bát ra bộ đa - bát ra bá - nể tiết ra khê đa giá ma - ta phược tất để già ma - bát ra để dữ bá tát tha nẵng.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là những câu có thể nhiếp Đại Phạm Thiên. Do thần chú nầy, Đại Phạm Thiên có thể truyền thọ cho những người thuyết pháp cả văn cú phạm hạnh thanh tịnh viên mãn.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Gì là những câu pháp quan của Tịnh Cư Thiên ? Ông lắng nghe và nghĩ nhớ kỹ ».
Đức Phật liền nói thần chú rằng :
« Vi thâu đà nẵng phược để - án để ma già rô nễ - già ma ma phược - ô ta đả nễ- bát ra niết danh đa nễ - bát rị diễn đa - bát ra để dữ ba tất tha nẵng bát gia - phược ta nẵng - a lại da vi thâu đà nễ - a nhương bát diễn đa già ra nễ - án để ma nể xá - bát ra để dữ bá tất tha ninh.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Do thần chú nầy, chư Thiên cõi trời Tịnh Cư có thể truyền thọ những pháp tạng của Như Lai cho chư Bồ Tát.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Với các vị Thiên Vương, Nhơn Vương, A Tu La Vương, Ca Lâu La Vương, Long Vương, hoặc những hàng quỷ thần oai đức lớn, hoặc oai đức nhỏ, không luận tin hay chẳng tin, Như Lai đều truyền thọ câu đà la ni, làm cho những người đã tin được thêm lớn lòng tin đối với pháp nầy, những kẻ không tin thời mặc nhiên bỏ đó, chẳng cho họ nói năng cãi cọ. Lúc diễn thuyết pháp nầy, nếu có ai đến làm chướng nạn, do thần chú nầy thời đều hàng phục.
Trong đây gì là những câu thần chú có thể nhiếp thủ người có lòng tin ? ».
Đức Phật liền nói thần chú rằng :
« Ngu rô nã lê - a giả bát lệ - ta phược tỳ niết ha ra - cú mạt nê - niết nhương nẵng bát ra để vi rô dị ninh - chỉ đa san giả nẵng nễ - chỉ đa bát rị yết danh - chỉ đa tam bát ra ta nã nễ - ma nẵng tứ dã- ha rị sái già ra nễ - vi nhương nẵng tứ dã - a nộ ta phược để – a nộ đạt ma nộ bế khứ sái ninh - tứ đô san na rị xá nễ- đa tha a khứ sát ra bát na - niết nê xá - thâu địa đa phược để - dã tha tiết đa - dã tha nỗ cú lộ bá ma - ô bá mãng niết nê hiệp - vi thứ địa đa - đát đa ra già lẹâ - nẵng giả yết đáp vi diêm - tam bát ra ta na át tha đổ ta ma - dã tha nộ cú lại giả mục khê - ô ba tăng hạ ra dụ nễ xá - a xá da tứ dã - vi thứ địa gia - dã tha thứ địa để - la khứ sái nẵng la khứ sái nễ - la khứ sái nẵng phược để - la khứ sái nang vi thâu đà nễ - bát ra để phệ đà át tha - san na rị xá nễ - cú xá ra mạo tha tác mê ha - bát ra vi giả duệ - ta ma ta ra nễ - ngật rị đa nộ a ra khứ sử - tát để dã át thế - tát để dã nẳm - tố vi thâu địa đế.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Trên đây là những câu nhiếp thủ người có lòng tin thanh tịnh, và cũng có thể truyền trao nghĩa lành cho pháp sư diễn thuyết pháp nầy.
Như Lai lại nói những câu nhiếp phục người chẳng tin ».
Đức Phật liền nói thần chú rằng :
« Khứ sái mê - khứ sái ma phược để - mê đa ra bát rị yết ma - bát ra để giữ ba ta tha ninh - già lộ nang bát ra để lã ta - tứ đa nỗ kiếm ba - tán nặc nẵng nễ - tăng yết ra ha phược tát đỗ - tứ đa phược tát đỗ - tán na ra xá nễ - bát rị phược nặc nễ gia - phược nặc nễ - ky ba dương đa ra - tế phược nễ - nẵng đát đa ra nê thế tát tha đáp vi gia - dã đa ra vĩ yết ra ha phược để nộ - tát ma tiết lãng đà - bát ra na lã nễ - ô ba giá ra san na rị xá nễ - nễ xá ra dạ vi thứ đà nễ - a đa ma nộ già danh - bát ra ô ba tăng ha la nễ - niết danh đa nễ - a nộ ra khứ sa - bát ra để giữ ba ta tha ninh.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là những câu điều phục người bất tín, chẳng cho họ tạo những lỗi ác, bằng không họ còn ganh ghét pháp lành, huống là đối với pháp vô thượng nầy.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Như Lai thấy chúng sanh, những kẻ không có lòng tin thanh tịnh, hoặc muốn tranh đấu, hoặc muốn tổn hại, hoặc muốn não loạn, mà họ đế gần Như Lai. Như Lai liền biết tâm niệm của họ, theo cơ của mỗi người, Như Lai dùng các pháp môn làm cho họ được giác ngộ, cho họ hết những ý nghĩ chẳng lành mà pháp khởi các căn lành.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Như Lai an trụ trong mười tám pháp bất cộng, có thể khéo rõ biết tâm hạnh của chúng sanh, và rõ biết những phương pháp để nhiếp độ.
Những gì là mười tám pháp bất cộng của Phật ?
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Từ lúc thị hiện chứng vô thượng Bồ đề nhẫn đến nhập vô dư Niết Bàn, trong thời gian đó đức Như Lai trọn không lầm lỗi, không lời sốt bạo, không quên mất, không có chẳng trạch xả, không các thứ tưởng, không tâm chẳng định, tinh tấn bất thối, niệm bất thối, chí nguyện bất thối, đẳng trì bất thối, huệ bất thối, giải thoát bất thối, giải thoát tri kiến bất thối, tất cả thân nghiệp hành động theo trí huệ, tất cả ngữ nghiệp nói năng theo trí huệ, tất cả ý nghiệp là trí huệ, tri kiến về quá khứ, hiện tại và vị lai đều không trụ trước, không chướng ngại.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Vì Như Lai thành tựu mười tám pháp bất cộng nầy nên vô lượng tri kiến thảy đều thành tựu, có thể khai thị diễn thuyết pháp môn thanh tịnh đà la ni nầy. Làm cho những hữu tình bất tín sanh lòng tin thanh tịnh. Làm cho người đã tin được trí thanh tịnh nơi pháp môn nầy.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Nay Như Lai dùng vô lượng danh ngôn vì các ông mà khai thị diễn thuyết pháp môn nầy, muốn cho các ông rõ biết khắp vô lượng pháp môn, được đà la ni ».
Đức Phật liền nói thần chú rằng :
« Đát điệt tha a rị duệ - a rị gia phược để - a rị gia nỗ yết đế - nễ đà ninh - nễ đà nẵng phược để - phược đỗ bát đa danh - phược ra đỗ ky xiết nã già la nễ - a già xá vi thâu đà nễ - a nộ khứ sát ky nễ - a ninh khứ sát ky nễ - a vi tiết đa bát ra danh - a nộ bá tiết để nễ - niết bạn nẳng bát tha vi thâu đà nễ - vi gia ba nễ khứ sử bát để - a nộ bá na - ninh lộ đà bá ra danh - tát phược nhương niết bạn nẵng - ninh ba ra xá ninh.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là ấn đà la ni, câu có thể thanh tịnh, câu danh thuyết đặc dị.
Do thọ trì pháp môn đà la ni nầy, dùng công dụng ít mà có thể chứng Bồ Tát vị, được sai biệt diệu trí và gần đại bi. Do rõ biết nghĩa nên chứng ngộ được nhứt thiết pháp trí.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Câu đà la ni nầy là đại lương dược vì có thể phá trừ được các trọng bịnh. Lại có thểù trừ diệt vô minh vô trí, những chướng rất tối tăm. Thuận với minh pháp mà chuyển viên mãn.
Thuận minh pháp gì mà chuyển viên mãn ? Nghĩa là vì thuận với minh pháp nên trí viên mãn, mà có thể hiện tiền chứng được trí túc mạng minh. Vì thuận với minh pháp nên trí thiện xảo, mà được trí thiên nhãn minh. Vì tùy thuận minh pháp nên xa lìa các phiền não, mà hiện tiền chứng được trí lậu tận minh. Do đây lại có thể thành tựu tất cả môn ba la mật nhẫn đến nhứt thiết chủng trí.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Ông xem Như Lai có thể khéo thuyết pháp rộng lớn như vậy, khéo viên mãn những phương tiện thiện xảo như vậy.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Như Lai thành tựu đại trí như vậy có thể khéo trụ nơi nhứt thiết chủng trí, thập lực, tứ vô úy, mười tám pháp bất cộng. Đây là bảo tạng vô thượng kết tinh của những căn lành đã tu từ vô lượng vô số ức kiếp. Do đó nên khéo an trụ được nơi những pháp môn nầy. Nay Như Lai vì các ông khai thị diễn thuyết pháp môn thanh tịnh đà la ni nầy, để được thành thực Phật Pháp.
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn những người phát tâm cầu đến đại Bồ đề, mà muốn tu học theo Phật, muốn ủng hộ Phật Pháp, muốn thọ trì vô lượng pháp tạng của Phật, đối với pháp nầy phải siêng tu tập chẳng phóng dật, chẳng tham trước nơi ba cõi, phải khéo gia trì nhứt thiết trí, khéo tu tập những phương tiện thanh tịnh nơi sắc, thọ, tưởng, hành, thức, với thật đế, siêng tu tập thanh tịnh, trong các pháp, phải thích cầu trí huệ thanh tịnh.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Vì nội tâm thanh tịnh nên tất cả pháp thanh tịnh, vì nội tâm thanh tịnh nên tất cả pháp tịch tịnh, vì nội tâm tịch diệt nên tất cả pháp tịch diệt, vì nội tâm vô sở thủ nên tất cả pháp vô sở thủ, vì nội tâm bất trụ nên các pháp bất trụ, vì nội tâm diệt nên tất cả pháp diệt, vì nội tâm vô sở tác nên tất cả pháp vô sở tác, vì nội tâm không đến không đi nên tất cả pháp cũng không đến không đi.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Những pháp môn nầy làm cho chư Bồ Tát nội tâm được thanh tịnh. Vì bổn tánh tất cả pháp là vô phân biệt nên nội tâm cũng chẳng khởi phân biệt. Nhưng có thể thọ trì môn thanh tịnh đà la ni, rời bỏ tham lam, sân khuể, cống cao. Được chư Phật khen ngợi. Làm pháp chủ vô thượng tối thắng của chúng sanh. Sẽ có thể chứng đặng trí thanh tịnh vô ngại biện tài, và có thể chứng được vô sanh pháp nhẫn, có thể thanh tịnh các nguyện hạnh, có thể khắp thọ trì tất cả pháp bất cộng, lời nói ra đại chúng đều tín thọ, sẽ có thể chuyển đại pháp luân.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Do được đà la ni nên chư Bồ Tát quyết định sẽ chứng vô sanh pháp nhẫn, được pháp trí thanh tịnh, nghĩa là tất cả pháp bất sanh bất diệt. Tất cả pháp đây đều ở trong môn diệt hoại, môn diệt hoại nầy đồng là tướng vô sanh, đã là vô sanh thời là vô diệt. Quán sát như thật vậy rồi, Bồ Tát đối với tất cả pháp xa lìa tất cả tướng. Đã lìa tướng thời chẳng chấp trước, chẳng hí luận.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là chư Bồ Tát dùng trí vô sanh khéo quan sát mà có thể chứng nhập các môn đà la ni nầy, do đây mau chứng được vô sanh pháp nhẫn biện tài vô ngại ».
Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa nầy mà nói kệ rằng :
« Nếu pháp hư vọng sanh
Sanh xong tất diệt hoại
Các pháp chẳng phải có
Nắm lấy được cái gì ?
Các pháp chẳng phải có
Không có không thể lấy
Pháp đã bất khả đắc
Thời nắm lấy nơi đâu ?
Nếu chẳng rõ các pháp
Tự tánh bất khả đắc
Người nầy duyên theo tướng
Chẳng được đà la ni.
Các pháp như hư không
Nên diễn thuyết khai thị
Hư không và khai thị
Cả hai vô sở hữu.
Hai thứ nầy là không
Các pháp cũng là không
Hiểu pháp được như vậy
Người nầy được tổng trì.
Rõ biết không sơ thỉ
Chẳng phân biệt trung hậu
Các pháp rời phân biệt
Tất cả đều là không
Nếu đã không cứng thật
Chẳng thật chẳng phải có
Cứ chơn lý các pháp
Nắm lấy đâu thể được !
Rõ các pháp như vậy
Tự tánh vô sở hữu
Nay Phật lược nói họ
Được tổng trì thanh tịnh
Các pháp như hư không
Cũng rỗng đồng hư không
Dùng huệ tường quan sát
Người nầy được tổng trì
Các pháp vô sở hữu
Chẳng sanh cũng chẳng khởi
Không có không thể lấy
Thế nào nắm lấy được
Tất cả pháp vô tướng
Tự tánh không hí luận
Tất cả đều ly tướng
Thuyết pháp vô sở hữu
Nếu hiểu được như vậy
Đúng thật lý các pháp
Người nầy vô phân biệt
Mà là nắm lấy được
Tự tánh của các pháp
Vì không nên bất đắc
Rõ nghĩa vô sở hữu
Người nầy được tổng trì
Nếu quán sát như vậy
Không nhiễm tất cả pháp
Trí không vô phân biệt
Người nầy nắm được pháp
Nghĩa không, nghĩa vô thường
Nghĩa yểm ly, nghĩa khổ
Nếu dùng huệ hiểu rõ
Người nầy trí thêm lớn
Thị thuyết vô sở thủ
Nghĩa Niết Bàn như lý
Gìn tâm vô phân biệt
Cũng chẳng phân biệt pháp
Do đây nhận rõ được
Các pháp chẳng bền chắc
Là không vô sở thủ
Tịch tịnh, không, khó thấy
Hiểu pháp xong diễn thuyết
Diễn thuyết vô phân biệt
Vô trước vô phân biệt
Trì được pháp môn nầy
Nếu hiểu pháp tướng rồi
Rõ được là vô tướng
Người nầy nơi các pháp
Chẳng có tưởng xả ly
Người nầy rõ được nghĩa
Pháp của Phật đã nói
Nghĩa lý rất bí mật
Người nầy hiểu theo Phật
Nếu quán sát đúng lý
Tất cả pháp vô lượng
Xa lìa các số lượng
Hiểu được nghĩa lý nầy
Nếu quán sát các pháp
Không danh và không tướng
Rõ thấu được nghĩa nầy
Trí người này thêm lớn
Rõ nghĩa pháp môn này
Quán sát được đúng lý
Trong nghĩa lý các pháp
Người nầy không nghi hoặc
Nếu dùng huệ quán sát
Tướng của tất cả pháp
Quyết định hiểu rõ đó
Người nầy chứng vô tướng.
Đối với nghĩa lý nầy
Hiểu rõ khéo an trụ
Được vô úy như vậy
Mau chứng được Phật Pháp
Chẳng hí luận nơi pháp
Bình đẳng vô phân biệt
Tương ưng hiểu pháp rồi
Không lầm nghĩa yểm ly
Tịch diệt vô phân biệt
Tịch tịnh dứt các uẩn
Bình đẳng với các pháp
Được biện tài đúng lý
Tu tập được từ bi
Lợi ích các chúng sanh
Khéo tương ưng an trụ
Hiểu được đạo vô thượng
Nếu rời tướng chúng sanh
Hiểu được pháp vô ngã
Cùng nghĩa không hí luận
Thật lý chẳng hí luận
Nếu nghe pháp nầy rồi
Được lòng tin thanh tịnh
Người nầy sẽ gặp Phật
Di Lặc Lưỡng Túc Tôn.
Họ làm ta vui mừng
Ở trong chúng hội nầy
Nghe hiểu được pháp đây
Làm được bực hiền thiện
Người kính mến Như Lai
Thì tất không phá hoại
Do nghe được pháp nầy
Được bực hiền thiện mến.
Nếu ở trong hiền kiếp
Muốn được thấy chư Phật
Tu học pháp môn nầy
Chư Phật đều hoan hỷ
Muốn thấy Vô Lượng Thọ
Cùng Phật A Súc Bệ
Oai quang đại danh xưng
Phải học pháp môn nầy.
Nếu muốn thành Bồ đề
Pháp tịch tịnh tối thắng
Hoặc cầu ngôi Chuyển Luân
Phải học pháp môn nầy.
Nếu muốn cầu vô thượng
Môn thiện xảo tổng trì
Phải học pháp môn nầy
Tinh tấn chớ phóng dật.
Nếu muốn thành nguyện lớn
Rộng tối thượng thù thắng
Cầu chứng được Bồ đề
Pháp môn nầy phải học.
Pháp môn đà la ni
Phật nói trong kinh nầy
Là ấn pháp vô thượng
Khai thị được các pháp.
Thật nghĩa trong các pháp
Dùng tổng trì khai thị
Pháp môn hư không nầy
Giải quyết nghĩa vô biên.
Pháp nầy khai thị được
Những thiện pháp đã nói
Nghĩa tổng trì thiẹân xảo
Do sức đà la ni.
Tổng trì là trí huệ
Trì được tất cả pháp
Nghĩa tổng trì thiện xảo
Dùng huệ rõ biết được.
Nơi đây giải thích nhiều
Đã nói rõ Phật Pháp
Dùng nghĩa để khai thị
Đạo Bồ đề Vô thượng.
Trí sai biệt thiện xảo
Chánh khai thị pháp nầy
Nếu học tập pháp nầy
Chứng Bồ đề Vô thượng.
Khai thị văn pháp nầy
Pháp môn lành vô thượng
Được trí phương tiện rồi
Nên diễn thuyết pháp nầy.
Chưa từng nói chủng tánh
Vô thượng của các pháp
Nơi nghĩa nầy phải học
Khai thị pháp cam lồ.
Người trí nếu muốn cầu
Trí vô ngại của Phật
Nếu học tập nghĩa nầy
Sẽ được trí vô thượng.
Thuở quá khứ xa xưa
Vô lượng vô số kiếp
Nếu chẳng học pháp nầy
Ta chẳng chứng tịch diệt.
Do ta từng cúng dường
Vô lượng trăm ngàn Phật
Do đây rõ biết được
Diễn thuyết pháp vô thượng.
Ta vì các chúng sanh
Làm vô biên lợi ích
Các ông cũng nên làm
Sẽ được tổng trì nầy.
Nếu có thể rõ biết
Pháp ấn đà la ni
Người trí do một câu
Vào được pháp môn nầy.
Phật trí huệ vô thượng
Cũng không có số lượng
Do Phật đủ trí huệ
Khai thị được pháp nầy.
Người trí cầu nơi đây
Liền rõ nghĩa Bồ đề
Nghĩa của pháp môn nầy
Nên học pháp vô úy.
Người trí nếu muốn cầu
Tánh trí huệ rộng lớn
Tôn trọng cung kính Phật
Phải học pháp môn nầy.
Nếu muốn chuyển pháp luân
Và thổi pháp loa lớn
Người trí đúng chơn lý
Cần học pháp môn nầy.
Nếu muốn phóng quang minh
Soi khắp vô biên tế
Lúc mong cầu Phật Pháp
Phải học đúng pháp nầy.
Với trời, người, thế gian
Nếu muốn làm thiện thủ
Phải cần học kinh nầy
Quyết định tất cả pháp.
Muốn cầu trí rộng lớn
Phát khởi các công đức
Thích cầu trí huệ Phật
Phải học theo pháp nầy
Muốn học theo pháp môn
Thích cầu trí huệ Phật
Vô thượng không hí luận
Phải học nghĩa lý nầy.
Nếu muốn thích khai thị
Vô ngại trí thuyết pháp
Tu học pháp nầy rồi
Sẽ nói pháp cam lộ.
Nếu muốn soi muôn ức
Vô lượng vô biên cõi
Người nầy phải khéo tu
Giáo pháp của kinh nầy.
Pháp môn vô thượng đây
Sạch trừ được các pháp
Trong kinh nầy đã nói
Tất cả pháp thanh tịnh.
Đấng chủng trí Thế Tôn
Diễn thuyết pháp rộng lớn
Vì Bồ Tát mà nói
Kinh nầy là vô thượng.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Do đây nên Bồ Tát sau khi ưa thích giáo pháp nầy rồi, vì nhiếp thọ pháp nầy cho được còn lâu, lại vì thương xót chúng sanh, thời nên biên chép, thọ trì, đọc tụng.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Nếu có người được nghe pháp nầy, thường có quan niệm kính mến Như Lai, những người nầy sẽ đượcvô biên pháp tạng của Như Lai, sẽ được các môn đà la ni và đầy đủ biện tài, mau được tự tại đối với tất cả pháp, sẽ nhiếp thọ đầy đủ Phật độ trang nghiêm bất tư nghì, chúng Bồ Tát và chúng Thanh Văn cũng bất tư nghì.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Nếu chư Bồ Tát an trụ nơi tất cả pháp không hí luận do môn thanh tịnh đà la ni, nên các pháp môn thường được hiện tiền, nhiếp thọ được công đức thù thắng bất tư nghì.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Đây là môn thanh tịnh đà la ni thứ ba.
Thời kỳ sau đây, nếu chư Bồ Tát muốn theo Phật để học pháp môn đà la ni nầy, thời phải gần gũi thiện hữu, xa lìa ác hữu, ủng hộ các pháp môn nầy, trọn đời thọ trì pháp ấn thanh tịnh đà la ni, dầu phải bỏ thân mạng.
Ví như trăng tròn đêm rằm tháng tám chiếu sáng rực rỡ hơn tất cả tinh tú. Ba pháp ấn đà la ni nầy, quang minh rất sáng suốt trong tất cả khế kinh cũng như vậy. Chư Bồ Tát do tôn trọng pháp môn nầy nên được vô lượng biện tài. Vô lượng biện tài đây chính là bực bất phóng dật. Những gì là bực bất phóng dật ? Nghĩa là nơi những pháp nầy tư duy quán sát đúng như lý, chẳng sanh vọng niệm do đây có thể làm cho chí nhẫn được thanh tịnh. Chư Bồ Tát tinh tấn cầu bực bất phóng dật thời phải khéo tu tập pháp môn nầy. Vì muốn cho pháp nầy được còn lâu, nên tâm thường khiêm hạ tôn trọng chánh pháp, biên chép quyển kinh chẳng rời nơi tay. Thấy người có chí mong cầu pháp nầy, phát tâm hướng đến đại Bồ đề, thời phải vì họ khai thị diễn thuyết bảo họ đọc tụng biên chép, đúng theo nghĩa mà giải thích cho họ, chẳng nên ẩn giấu pháp môn cưa mình đã thọ trì. Phải nguyện cho chúng sanh được Phật Pháp Vô thượng nầy, phải làm cho tất cả chúng sanh thường chẳng khuyết giảm các Phật Pháp. Chư Bồ Tát nầy chẳng lẩn pháp, thường thích đem ban bố cho người, nơi nghĩa lý chẳng giấu giếm, đều vì người diễn giải, không có chút pháp gì mà chẳng khai thị.
Nầy Vô Biên Trang Nghiêm ! Vì an lạc lợi ích các chúng sanh, các ông phải thọ trì pháp môn thanh tịnh đà la ni nầy ».
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn lại bảo Tôn giả A Nan Đà rằng : « Ông nên thọ trì pháp môn nầy. Hàng đệ tử kính thờ ta, cũng phải thọ trì kinh điển nầy ».
A Nan bạch Phật rằng : “ Thế Tôn ! Do thần lực của Phật, tôi đã thọ trì. Do tôi thành tựu pháp môn nầy nên vô lượng pháp môn đều được hiện tiền ».
Phật nói : “Đúng như lời ông. Nầy A Nan ! Do oai lực của Phật và vì pháp môn nầy khắp thanh tịnh, nên những người thọ trì pháp môn nầy, những người gần gũi ta thọ trì được pháp nầy, thời vô lượng pháp môn đều được hiện tiền.
Do đây ông phải thọ trì vô lượng pháp tạng của Như Lai ».
Lúc Phật nói pháp nầy rồi, trong pháp hội, vô lượng Bồ Tát chứng được đại pháp quang minh. Do được pháp quang nên vô lượng pháp môn của chư Phật nói đều được hiện tiền, được gần nhứt thiết chủng trí, được thành tựu những nguyện cầu thù thắng trang nghiêm.
Phật bảo A Nan : “ Ông xem bổn tánh của các pháp rất sâu như vậy. Như Lai có thể ở nơi pháp không danh tướng mà diễn thuyết danh tướng, lại có thể khai thị bổn tánh của các pháp, lại cũng trừ sạch làm cho được thấy thanh tịnh. Dầu rằng nói các pháp nhưng không pháp gì là có thể nói và cũng không người hay nói.
Nầy A Nan ! Nếu có thể quan sát pháp tánh như vậy thì có thể phát sanh được vô lượng trí huệ ».
Lúc Phật nói pháp nầy, vô sốâ Bồ Tát chứng vô sanh pháp nhẫn. Vô lượng chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn gia trì môn đà la ni nầy, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp vô lượng vô biên thế giới của chư Phật. Do ánh sáng nầy, chư Bồ Tát ở các thế giới kia đều được nghe môn đà la ni nầy, được thành thục pháp phần Bồ đề. Trong những thế giới đó lại có vô lượng chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề. Lúc đó tất cả chúng sanh đều được an lạc.
Chư Thiên rưới hoa trời, ở giữa đại hội xướng lên rằng : Nguyện tất cả chúng sanh đồng được Phật huệ.
Chư Bồ Tát bạch Phật : “ Thế Tôn ! Pháp môn nầy tên gọi là gì ? Chúng tôi phải phụng trì thế nào ? ».
Phật nói : « Pháp môn nầy hiệu là Đà La Ni Vương, gọi là Đà La Ni Aán, cũng gọi là Tam Phẩm Nhiếp Trì Thiện Xảo. Các ông phải phụng trì. Đây là pháp môn thiện xảo vô biên biện tài nhiếp tất cả nghĩa. Do pháp môn nầy mà chiếu rõ được tất cả pháp, dứt tất cả nghi. Do đây nên chư Bồ Tát phải phụng trì pháp môn nầy ».
Lúc bấy giờ vì cúng dường pháp nên tất cả đại chúng dùng hoa ngũ sắc rải lên Phật.
Phật nói kinh nầy rồi, chư đại Bồ Tát, toàn thể chúng hội và Trời, Người, Bát bộ, nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.
PHÁP HỘI VÔ BIÊN TRANG NGHIÊM - THỨ HAI

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 120 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 18.226.200.93 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập