Lời dẫn
Tiên sinh Chu An Sĩ, người Côn Sơn, trước tác rất nhiều sách. Tôi nhờ đọc qua các sách của tiên sinh mà được lợi ích sâu xa vô vàn. Thuở xưa đức Thế Tôn vì muốn nghe chỉ nửa bài kệ mà xả thân cho quỷ la-sát. Xét theo đó thì ân đức quá lớn lao của tiên sinh, tôi quả thật không biết làm sao báo đáp.
Uông Thạch Tâm vẽ tượng tiên sinh, nhờ người viết lời đề tượng, tôi xem qua thật hết sức kinh ngạc vui mừng, những lúc có thời gian vẫn thường chiêm ngưỡng lễ bái. Nay cung kính mượn bốn câu hai mươi vần, tuy không đủ để nói về tiên sinh dù trong muôn một, nhưng chỉ mong thúc đẩy rộng truyền ý nguyện của tiên sinh khi viết sách, cũng là để kết duyên vãng sinh Tịnh độ. Chắc rằng tiên sinh ngự giữa đài sen nơi Cực Lạc cũng nhân việc này mà mỉm cười thỏa nguyện.
Ngày mồng 2 tháng 12
Năm Canh Tý, niên hiệu Đạo Quang
Trương Nhĩ Đán kính đề
Bài tán thứ nhất
Đại cư sĩ hiện thân cứu thế,
Đời Khang Hy, Thánh đế xiển dương.
Tài biện thuyết không chi ngăn ngại,
Pháp cam lồ thí khắp nơi nơi.
Miệng trao lời, tay thảo sách quý,
Sấm vang chớp lóe phá mê lầm.
Kinh sách Tam giáo đều thông suốt,
Thấu hiểu sâu xa nghĩa nhiệm mầu.
Khí văn cuồn cuộn như mây nổi,
Lời lời lưu loát tựa suối tuôn.
Hiện thân sứ giả đức Như Lai,
Làm bậc Đạo sư dẫn dắt người.
Thương thay thế cuộc thời mạt pháp,
Chúng sinh phần lớn đều ngu si.
Nếu không phải bậc Đại Bồ Tát,
Sao có Pháp âm sư tử hống?
Nếu muốn xả thân về Tịnh độ,
Đời nay há dám chậm trễ sao?
Cư sĩ viết sách hơn vạn câu,
Thảy đều giảng rõ pháp môn ấy.
Trước đã từng nghe qua lời dạy,
Nay được chiêm ngưỡng tôn tượng ngài,
Gậy thiền, nón tịnh hướng Tây phương,
Râu như tuyết trắng bay theo gió.
Hàng đệ tử cúi đầu xưng tụng,
Mắt lệ tuôn, kính ngưỡng muôn phần,
Niệm danh hiệu ngài như niệm Phật.
Biết bao người đồng tâm chiêm bái,
Tuy chỉ là tranh tượng vô tri,
Nhưng nguyện lực vô biên vô lượng,
Sự hiển linh không thể nghĩ bàn.
Nhân duyên ấy nên từ tranh tượng,
Hình vẽ kia hóa hiện cành sen.
Người chí thành lễ bái tượng này,
Thảy đều được lòng từ tiếp độ.
Vô số chúng sinh đồng quy ngưỡng,
Cùng sinh về ao báu Tây phương.
Năm xưa gót ngọc dạo về Tây,
Thánh đức cao vời như còn đó.
Toàn Thư hàm chứa lời Phật dạy,
Lòng từ thương xót khắp muôn loài.
Ngài đã xa chơi miền Cực Lạc,
Lòng từ vẫn độ khắp muôn dân.
Tranh vẽ phỏng theo hình dáng cũ,
Lời xưa vang vọng mãi dư âm.
Cổ Ngô - Chu Triệu Canh, hiệu Ngâm Bạch
Bài tán thứ hai
Tánh thể sáng trong như mặt nguyệt,
Người người sẵn đủ nơi tự tâm.
Ai phát nguyện tu hành tinh tấn,
Trải nhiều đời ắt tỉnh cơn mê.
Bụi trần khi ấy không còn nhiễm,
Sống giữa đời tự tại an nhiên.
Chu Cư sĩ được người kính ngưỡng,
Là hàng tôn túc đất Côn Sơn.
Khởi tâm từ bi, tạo phúc vô biên,
Độ muôn người thoát vòng khổ hải.
So người trước nhiếp ý Long Thư,
Đối người sau, khơi nguồn Xích Mộc.
Kim đài lồng lộng chiếu mười phương,
Phẩm hạnh cao vời soi kim cổ.
Nguyện cho chúng sinh toàn pháp giới,
Lìa xa ô nhiễm chốn trần ai,
Quả lành sớm thành tựu viên mãn,
Đồng sanh Cực Lạc ngự tòa sen.
Nguyên Hòa – Khâu Hồng Nghiệp, tự Ấu Trì
Bài tán thứ ba
Sông ái nhiễm ngày thêm sâu thẳm,
Biển trần lao sóng dữ càng cao.
Thương thay chúng sinh cõi Ta-bà,
Tập khí lâu đời khó thay đổi.
Chỉ riêng Cư sĩ đất Côn Sơn,
Phát đại nguyện, hành đạo Bồ Tát.
Biên soạn Toàn thư, gồm mối đạo,
Lời lời răn dạy, khuyên người tu.
Khác nào trong nhà tối đã lâu,
Bỗng thấy bừng lên ngọn đuốc sáng.
Lại như té ngã vách núi cao,
Bỗng vói tay nắm được dải lụa.
Tự độ chính mình cũng độ người,
Hiển lộ tâm từ bi lân mẫn.
Một mai quả lành được viên mãn,
Đài sen chói sáng sắc vàng tử kim.
Người sau đã mất đi chuẩn mực,
Nhớ tiếc muôn đời gương mẫu xưa.
May sao có hiền sĩ Thạch Tâm,
Tìm khắp trong những người hậu duệ,
Mừng vui gặp được chân dung Ngài,
Khéo tay mô phỏng thành Thánh tượng.
Đau lòng kẻ sinh sau đến muộn,
Chưa từng được diện kiến tôn nhan.
Nay đem hết tâm thành kính ngưỡng,
Mở sách ra như được gặp Người.
Huống chi được chiêm bái Thánh tượng,
Lễ lạy càng sinh lòng kính luyến.
Lặng lẽ ngưỡng bái biết bao lần,
Nguyện dùng thuyền Pháp làm phương tiện,
Cứu độ chúng sinh cõi Ta-bà,
Hết thảy cùng lên bậc Bất thối.
Nguyên Hòa – Chu Triệu Tiêu, tự Vi Khanh
Bài tán thứ tư
Bao lần đọc kỹ sách tiên sinh,
Lễ bái hình tượng bậc thoát tục.
Lời từ rộng độ khắp thế gian,
Dung mạo phi phàm thêm rực rỡ.
Nhiều đời trước hành đạo Bồ Tát,
Một kiếp này hiện tướng phàm nhân.
Dẫu thông suốt vào ra Tam giáo,
Vẫn một lòng hướng Phật Di-đà.
Thương thay chúng sinh cõi Ta-bà,
Trôi giạt bao đời trong sinh tử.
Lời ngài trong sách được rộng truyền,
Như sấm rền muôn đời vang vọng.
Chỉ tiếc không được sinh cùng thời,
Theo hầu bên trướng bậc chân tu.
Bốn mươi năm chẵn thành đạo cả,
Môn nhân kính ngưỡng như Thái sơn.
Thắp một nén hương lòng cung kính,
Đảnh lễ bậc Bồ Tát độ sinh,
Nguyện sớm quay lại cõi Ta-bà,
Cứu độ chúng sinh vô số lượng.
Lạp Thủy – Khâu Tôn Cẩm, tự Họa Đường.
Bài tán thứ năm
Cư sĩ bậc Tiên sinh quê tôi,
Lòng thành kính ngưỡng như núi Thái.
Văn chương lừng lẫy đất Ngọc Phong,
Gần đây bao người tài tiếp bước.
Chân truyền lý học có Trang Cừ.
Tiếp Bá Lư dạy người trọn đủ.
Văn hay nổi tiếng, Quy Chấn Xuyên,
Thông suốt sách sử, Cố Diễm Vũ.
Cư sĩ học thông Nho, Lão, Phật,
Dứt trừ vọng nghiệp, rõ tử sinh.
Soạn hai bộ sách trừ dâm, sát,
Như tiếng quát chấn động người nghe.
Cứu vớt chúng sinh khỏi đường mê,
Sau lại chỉ nẻo về Cực Lạc.
Một lòng niệm Phật hướng Tây phương,
Cách muôn cõi nước, gần gang tấc.
Trong hồ bảy báu, hoa sen nở,
Cười bảo người nhà: Phật đón ta!
Tôi sinh sau Ngài sáu mươi năm,
Không được gặp sứ giả Như Lai.
Cứu cánh không tìm đâu nơi khác,
Nhân duyên giải thoát chính là đây.
Cư sĩ xưng “người nhớ về Tây”,
Riêng tôi ngưỡng vọng theo Cư sĩ.
Côn Sơn – Phương Bộ Doanh, tự Tiểu Tương
Bài tán thứ sáu
Ngài hiện thân cư sĩ,
Vì thuyết pháp độ sinh.
Từ Long Thư đến nay,
Duy nhất chỉ thấy Ngài.
Khuyên người tu Tịnh độ,
Dạy bảo kẻ sơ cơ,
Đều đưa vào cõi Phật.
Sách Tây quy trực chỉ,
Phù hợp cả ba căn.
Bao nhân duyên, thí dụ,
Gồm đủ vào trong đó.
Uông Thạch Tâm chí thành,
Tạo tượng Ngài cúng dường.
Nay xin khuyên người đời,
Nên cung kính tin theo.
Ngô Huyện – Chu Hiếu Cai, tự Tâm Hương
Bài tán thứ bảy
Ngài là thiện tri thức,
Đại Bồ Tát độ sinh.
Hiện thân trong cửa Khổng,
Thuyết giảng đạo Thích-ca.
Khuyên người trì giới luật,
Nghiêm giữ giới sát, dâm.
Dạy giáo pháp Ba thừa,
Sâu xa và rộng khắp.
Đem hết cả thân tâm,
Phụng sự khắp pháp giới.
Rộng truyền pháp niệm Phật,
Xiển dương tông Tịnh độ.
Trừ mê tối khắp nơi,
Hiện mặt trời trí tuệ.
Được đọc sách của Ngài,
Như thấy Ngài hiển hiện.
Cung kính lễ Thánh tượng,
Tâm đạo càng kiên cố.
Trước ngài có Long Thư,
Sau lại thêm Xích Mộc.
Khoảng giữa chính là ngài,
Trọn thành ba chân vạc.
Giáo pháp lúc suy vi,
Chấn hưng nhờ các vị.
Ngăn dứt bao tà thuyết,
Phá bỏ tục suy đồi.
Con sau ngài trăm năm,
Chỉ chiêm ngưỡng hình tượng.
Kính cẩn nâng di thư,
Lòng vui buồn lẫn lộn,
Dòng nước mắt khôn cầm.
Ngài xưa hướng về Tây,
Con nay nguyện cũng vậy.
Nguyện được Ngài gia hộ,
Sen nở chốn Tây phương.
Phương Ngoại – Thích Tổ Quán, tự Giác A
Bài tán thứ tám
Trà thơm vương nhẹ giường thiền,
Năm xưa bao độ triền miên mê lầm.
Một sớm hoa nở đất tâm,
Thuyền sang bến giác, dứt mầm khổ vui.
Quay đầu kính lễ Đạo sư,
Ta-bà cứu độ, Toàn Thư lưu truyền.
Đông Mão – Chu Đại Vận
Bài tán thứ chín
Từng đọc qua sách của Tiên sinh,
Lòng thường nghĩ nhớ xiết bao tình.
Lời nhân ái tình thương trải khắp,
Lẽ chân thường thức tỉnh quần mê.
Mừng vui nay được xem thánh tượng,
Tâm lành nguyện dốc trọn lai sinh.
Ngày sau nơi cõi nước an lành,
Ngẩng đầu ngưỡng vọng kính Tiên sinh.
Hàng Châu – Phùng Húc Thăng
Bài tán thứ mười
Một vuông giấy họa nên Thánh tượng,
Mừng vui thay được thấy Chân sư.
Đức cao hậu thế thường kính ngưỡng,
Nguyện lớn từ lâu vẫn hướng Tây.
Lưu lại Toàn thư truyền Giáo pháp,
Cứu giúp muôn dân, dạy đạo lành.
Thắp nén hương, ngưỡng trông dung mạo,
Nét thanh tao, quắc thước hiển bày.
Tâm thành, chỉ thêu, nên thánh tượng,
Chân dung Ngài, chiêm ngưỡng không thôi.
Kiếp mạt, thương đời ngăn sóng dữ,
Bến mê, cứu khổ thả bè từ.
Gương sáng học theo dường không khó,
Nết xấu dạy người khéo lánh xa.
Mười năm ao ước, tròn nguyện cũ,
Đôi lời xưng tán, rộng truyền lưu.
(Trước đây mười năm, tôi được quen biết cháu cố nội của Tiên sinh Chu An Sĩ là Thiếu Dung Mậu Tài, nhờ đó nhận được bản thảo sách này. Tôi lại có dịp ở chỗ của Uông Thạch Tâm được nhìn thấy di ảnh của Tiên sinh. Không bao lâu sau, Thiếu Dung qua đời, tôi có ý muốn đem bản thảo này khắc in, nhưng dù cố gắng đã lâu vẫn không thành tựu. Đến nay mới được các ông Uông Tâm Trì, Thẩm Tế Chi cùng giúp tiền vào việc in ấn.)
Nhân Hòa – Hồ Đĩnh, hiệu Đĩnh Thần
Bài tán thứ mười một
Đại nguyện Hoài Tây nay đã thỏa,
Hoa khai cõi Phật vạn kiếp xuân.
Chánh pháp rộng truyền, trời người lợi,
Lòng từ cứu độ, khắp muôn dân.
Cõi mộng vang hồi chuông cảnh tỉnh,
Bến mê thuyền pháp độ khách trần.
Tiên sinh công đức tày biển lớn,
Nghĩ bàn xưng tán chẳng xứng phần.
Đến nay còn đó pho sách quý,
Vui sao được khắc bản lưu hành.
Thuyết giảng độ người không ngăn ngại,
Đức lớn ẩn tàng mầu nhiệm thay.
Tâm thành bút mực đôi dòng kính,
Khói hương mờ nhạt cảm oai thần.
Nghiền ngẫm di thư thêm trí tuệ,
Sen vàng đất Phật quyết có phần.
(Nhân chỉnh sửa di cảo của Tiên sinh vừa xong, kính đề mấy vần thơ trên.)
Cổ Ngô – Uông Phụng Chương, tự Tâm Trì
Bài tán thứ mười hai
Tâm đại bi vô cùng dũng mãnh,
Thuyết pháp độ người không ngăn ngại,
Như được nghe từ kim khẩu Thế Tôn,
Khiến cõi đất chấn động theo sáu cách.
Uông Đại Thân