Theo Freud, con người sinh ra với hai bản năng: bản năng sinh tồn gọi là 
		eros và bản năng hủy diệt gọi là thanatos. Bản năng sinh tồn là động lực 
		thúc đẩy con người hoạt động để sinh tồn như nhu cầu ăn uống, được ấm áp 
		và nhất là tình dục. Còn bản năng hủy diệt không chỉ hướng đến các đối 
		tượng bên ngoài mà còn ngay chính đời sống của mình nữa. Thói quen rượu 
		chè, nghiện ngập, lao vào những trò chơi nguy hiểm... là những biểu lộ 
		của bản năng hủy diệt. 
		Trong mỗi người đều có một “tên man rợ” muốn được ăn khi đói bụng hay 
		thỏa mãn mọi nhu cầu khi chúng xuất hiện, bất kể hậu quả ra sao. Phần đó 
		Freud gọi là id, hay cái đó, là một thành phần nhân cách của chúng ta, 
		có những hành động do bản năng sinh tồn thôi thúc để thỏa mãn các nhu 
		cầu căn bản. 
		Bản năng sinh tồn tác động theo nguyên tắc khoái lạc: Khi thực hành 
		những gì bản năng đòi hỏi thì người ta cảm thấy khoái lạc. Điều ấy ta 
		thường thấy nơi thái độ của các em bé khi chúng đòi hỏi phải cho chúng 
		những bình sữa hay kẹo bánh.v.v... Trẻ em bị bản năng sinh tồn thúc đẩy 
		rất mạnh và theo Freud thì khi được 6 tháng, các em bé bắt đầu biết cách 
		kiểm soát bản năng đó vì hoàn cảnh thực tế em đang sống. Em bé có thể 
		đòi hỏi nhiều thứ nhưng cha mẹ em chỉ đáp ứng một số cần thiết cho em. 
		Nếu em muốn nhiều hơn thì họ sẽ từ chối hay phạt em để cho em biết giới 
		hạn nào cha mẹ có thể chấp nhận được. Em bé được dạy cho những điều gì 
		phải làm và những điều gì không được làm. Nếu em làm theo ý người lớn 
		thì em được thưởng, nếu không làm thì em sẽ khổ vì bị la rầy, chê bai và 
		nhiều khi có cả đòn roi. Đó là hoàn cảnh thực tế. 
		Theo Freud, chính từ sự hiểu biết do hoàn cảnh thực tế đó mà cái tôi 
		(ego) dần dần thành hình để dung hòa những đòi hỏi của bản năng và những 
		cấm đoán của xã hội bên ngoài. Cái tôi này điều hành theo nguyên tắc 
		thực tế. Như một người đói bụng thấy ổ bánh mì trong tiệm bánh muốn lấy 
		ăn ngay, nhưng cái tôi suy nghĩ và biết rằng làm như thế sẽ bị phạt, nên 
		anh ta phải ra trước quầy, sắp hàng và đợi trả tiền xong rồi mới lấy 
		bánh ăn. Như thế, cái tôi giúp thỏa mãn những đòi hỏi, những nhu cầu của 
		bản năng một cách an toàn nhất. 
		Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng có sự đáp ứng đầy đủ cho nhu cầu như 
		thế cả, vì nhiều lúc bản năng sinh tồn đòi hỏi vượt quá khả năng thực 
		tế. Như một người thèm những thứ mà mình không có tiền mua, anh ta có 
		thể lấy bớt tiền tiêu dùng cho gia đình để mua các thứ mình ưa muốn. Tuy 
		nhiên, làm như thế thì cảm giác tội lỗi xuất hiện. Cảm giác tội lỗi này 
		khích động ý muốn trừng trị chính anh ta bằng cách gây tổn thương hay 
		hủy diệt đời sống anh ta. Điều này rất nguy hiểm cho mạng sống của mình 
		nên anh ta dùng một “cơ chế tự vệ” (defensive mechanism) để tự bảo vệ 
		đời sống tinh thần và thể chất của mình. Theo cơ chế này, anh ta sẽ tự 
		bào chữa rằng mình làm như thế là đúng, vì mình là chủ gia đình, có đủ 
		quyền hạn. Sự tự bào chữa như vậy giúp cho anh ta bớt đi những bất an 
		bên trong. 
		Đó là cuộc chiến tranh giữa thiện và ác. Cuộc chiến này không ngừng xảy 
		ra bên trong ta cùng hậu quả tâm lý của nó với cơ chế tự vệ giúp chúng 
		ta sinh tồn. Nhiều lúc chúng ta thấy cuộc xung đột nội tâm của con người 
		được diễn tả trong văn chương, kịch nghệ, phim ảnh hay tôn giáo. Qua 
		những truyện xưa phổ biến trong dân gian hay qua nhiều câu chuyện tôn 
		giáo, chúng ta thấy có nhiều nền văn hóa thuộc nhiều dân tộc cùng nhiều 
		tôn giáo đã nhân cách hóa hay thiêng liêng hóa cuộc xung đột nội tâm 
		này: gọi lòng ham muốn, sự thúc giục của bản năng là ma quỷ và lương tâm 
		hay chân ngã là thiên thần. Ma quỷ quyến rũ người ta làm bậy và thiên 
		thần chống lại sự quyến rũ xấu xa đó. 
		Khi chuyển qua cho ma quỷ và thiên thần những dục vọng của chính ta cùng 
		những chống trả, ngăn cấm của lương tâm ta hay chân ngã, chúng ta đã tạo 
		nên một cuộc chiến tranh bất tận trong lòng mình. Sự tranh chấp bên 
		trong đó còn phản ảnh ra ngoài bằng những cuộc chiến tranh giữa thiện và 
		ác, giữa kẻ anh hùng và người tội lỗi. 
		Trên thực tế, đã có biết bao nhiêu cuộc chém giết tàn bạo xảy ra trong 
		lịch sử loài người nhân danh đạo đức, nhân danh công lý, nhân danh tôn 
		giáo, nhân danh chân lý hay nhân danh đủ điều tốt đẹp. Phe ta dĩ nhiên 
		là tốt và phe đối thủ dĩ nhiên là xấu. Đó là trò chơi của cái tôi mà đạo 
		Phật gọi là ngã chấp. 
		Thiền chỉ bày một cách trực tiếp và giản dị: Hãy biết rõ mọi ý tưởng 
		trong ta ngay khi chúng xuất hiện, không đè nén hay lẫn tránh, dù đó là 
		điều ta ưa thích hay ghét bỏ hoặc sợ hãi. Tâm ta như bầu trời trong 
		sáng, không gì có thể làm vẩn đục nó cả. Khi sống tỉnh thức thì các ý 
		tưởng ưa ghét, cùng những tâm tư buồn phiền, sợ hãi, tức tối, hận thù tự 
		chúng tan biến đi như bầu trời xanh cao không một gợn mây che mờ. 
		
VIII. CƠ CHẾ TỰ VỆ 
		Ngành tâm lý học giải thích sâu hơn về những động lực bên trong. Họ cho 
		rằng những gì mà cha mẹ dạy dỗ về đúng và sai cùng những điều luân lý và 
		đạo đức trong xã hội kết hợp lại thành lương tâm của chúng ta hay là 
		siêu ngã (superego). Bản năng hay cái đó (id) thúc giục phải thỏa mãn 
		ngay những điều nó muốn, ngã (ego) tìm cách thỏa mãn những nhu cầu đó mà 
		không tạo ra sự rắc rối, còn siêu ngã hay lương tâm thì đặt vấn đề: cái 
		điều ta muốn ấy có đúng không, có hợp luân lý không? 
		Một người nghiện rượu thèm uống rượu, anh ta đi mua rượu ở tiệm về uống 
		và tránh uống dọc đường để khỏi bị người khác nhìn thấy. Dù anh ta làm 
		như vậy để có thể uống rượu một cách an toàn, nhưng nếu mẹ anh trước đây 
		thường dạy anh uống rượu là tội lỗi thì lòng anh vẫn không yên. Sự kết 
		án như thế không phải từ bên ngoài, mà do chính lương tâm hay siêu ngã 
		làm cho anh thấy áy náy không yên với mặc cảm tội lỗi. Sau đó anh ta có 
		thể thực hành sự trừng phạt chính mình do mặc cảm tội lỗi nói trên bằng 
		cách “vô tình” tạo ra những tai nạn cho mình. 
		Sự trừng phạt ấy có thể làm nguy hại cho đời sống của anh ta nên cơ chế 
		tự vệ giúp anh giải trừ bớt những căng thẳng do sự xung đột giữa thiện 
		và ác, bản năng (id) và lương tâm hay siêu ngã (superego). Nghĩa là anh 
		ta có thể vẫn tiếp tục uống rượu nhưng không bị xao xuyến bất an nhiều 
		như trước đây, bằng cách tự bào chữa: “Nam vô tửu như kỳ vô phong” (Trai 
		mà không uống rượu thì như cờ không có gió), hay là: “uống rượu là một 
		cách làm cho thân thể khỏe mạnh”... Chúng ta thấy có nhiều người uống 
		“rượu thuốc”, cũng là một cách sử dụng cơ chế tự vệ tinh vi, dù họ có 
		biết hay không biết điều ấy. 
		Những cơ chế tự vệ chính gồm có: 
		
PHÓNG CHIẾU
		Nghĩa là thấy những cái xấu của mình nơi người khác, hay nói khác đi là 
		không nhận mình có những điều xấu mà chiếu chúng lên người khác và thấy 
		họ có những tật xấu của chính mình. Như người háo danh lại hay chỉ trích 
		bạn mình là háo danh, người hay nói lời chia rẽ thì phê bình người khác 
		không chịu đoàn kết, kẻ hèn nhát thì chê bai những người khác là hèn 
		nhát.v.v... 
		Khi có sự phóng chiếu như thế thì bản thân người ấy cảm thấy an ổn vì 
		không thấy lỗi mình, chỉ thấy người khác có lỗi. Và dù biết mình có lỗi 
		thì họ nghĩ “mình cũng như người khác thôi”. Tại sao họ làm như thế? Vì 
		họ muốn giữ sự quân bình bên trong. Nếu nhận mình làm bậy thì mặc cảm 
		tội lỗi sẽ làm cho họ bất an. 
		
HỢP LÝ HÓA
		Nghĩa là đưa ra lập luận cho hợp lý về hành vi của mình, như là: “xã hội 
		ngày nay ai cũng uống rượu, mình uống rượu có sao đâu”, hoặc là “uống 
		rượu có chừng mực thì rất tốt cho sức khỏe”... 
		
DỒN NÉN HAY TRÁNH NÉ
		Nghĩa là không muốn biết đến, hay ngăn chặn không cho mình nhận biết 
		những điều tạo ra lo âu, xao xuyến cho mình, như trường hợp nhiều người 
		hút thuốc lá không bao giờ đọc hay nhìn thấy dòng chữ “hút thuốc có hại 
		cho sức khỏe”, trong khi những người không hút thuốc đọc thấy dòng chữ 
		này rất rõ. 
		
HOÁN VỊ
		Nghĩa là chuyển những cảm xúc của mình đến một đối tượng khác. Như 
		trường hợp một người bị chủ la rầy ở sở nên bực tức ông chủ. Tuy nhiên, 
		anh không thể bày tỏ điều ấy vì sợ mất việc. Khi về nhà, anh ta hướng sự 
		bực tức đến vợ con, la rầy vợ con để xả bớt áp lực bên trong. 
		
THĂNG HOA
		Nghĩa là chuyển sự tiêu cực thành tích cực. Chẳng hạn, một người buồn 
		rầu vì có con bị một người lái xe say rượu đụng chết. Bà dồn hết nỗ lực 
		vào việc gầy dựng phong trào cứu trợ người nghèo. Thăng hoa tuy là tốt 
		nhưng cũng liệt vào cơ chế tự vệ vì không đối điện với cảm xúc và giải 
		quyết tận gốc cảm xúc ấy, mà chỉ là một cách tránh né để không phải đối 
		điện với cảm xúc. 
		
PHẢN ỨNG NGƯỢC
		Nghĩa là làm ngược lại với những gì mình muốn. Một người có khuynh hướng 
		đồng tình luyến ái lại cực lực lên án điều này. Một người thích uống 
		rượu có thể chống đối kịch liệt việc uống rượu. Họ làm như thế để che 
		đậy hay trấn áp những cảm xúc thật sự của họ, để tránh không phải đối 
		điện với điều họ muốn, vì những điều mong muốn ấy bị xem là ngược với 
		luân lý, đạo đức nên gây ra sự bất an trong lòng họ. Tuy nhiên, rất khó 
		nhận biết được hành vi nào là phản ứng ngược. 
		
PHỦ NHẬN
		Nghĩa là không chấp nhận sự thật đang xảy ra. Một người có thân nhân bị 
		chết trận nhất quyết không chấp nhận tin trên là đúng. Họ cho rằng người 
		thân của họ vẫn còn sống ở đâu đó. Một người nghiện rượu phủ nhận rằng 
		mình không bị nghiện, chỉ uống cho vui mà thôi. 
		Những hành vi thuộc cơ chế tự vệ như trên xảy ra một cách vô ý thức. 
		Chúng ta không nhận biết (ý thức) về những hành động có tính cách “bao 
		che” đó. Những hành vi của cơ chế tự vệ giúp ta không nhìn thấy những 
		thiếu sót, những yếu kém, những điều mà mình không muốn chấp nhận là sự 
		thật. Vì nếu thừa nhận như thế thì chúng ta sẽ bị nhiều nỗi bất an như 
		lo lắng hay sợ hãi vì mình đã làm ngược với những gì mà lương tâm mình 
		chấp nhận. Cái ngã của ta thích ứng với những nỗi bất an bằng cách bóp 
		méo thực tại qua những phương cách nói trên. 
		Một cách tổng quát thì cơ chế tự vệ giúp cho chúng tránh chạm trán với 
		sự thật đưa đến những nỗi bất an như lo lắng, sợ hãi hay u uất. Tuy 
		nhiên, đó cũng là con dao hai lưỡi. Nếu sống lâu dài với cơ chế tự vệ 
		như thế thì tâm chúng ta sê luôn luôn là một bãi chiến trường giữa một 
		bên là sự chân thật, một bên là cố gắng che đậy không chịu nhìn vào sự 
		thật để giải quyết tận cội nguồn. Cái tôi khi ấy giống như đang ở trên 
		miệng một núi lửa im lặng nhưng đang gia tăng áp lực bên trong và dễ 
		dàng đi đến tình trạng phun trào. Sống như thế thật rất thiếu hạnh phúc 
		và có thể bị chứng tâm loạn (neuroses). 
		Ngành tâm lý trị liệu giúp cho bệnh nhân thích nghi với những biến 
		chuyển, những đổi thay của đời sống. Những đổi thay đó tạo ra những xáo 
		trộn tâm sinh lý nơi họ. Các nhà tâm lý trị liệu giúp cho bệnh nhân biết 
		được điều ấy và chữa trị cho họ được lành mạnh bằng cách nói chuyện cởi 
		mở hay dùng thuốc men. 
		Đạo Phật chọn cách nói rõ với “bệnh nhân” rằng thế giới luôn biến chuyển 
		(vô thường), nếu họ không chấp nhận, không thích nghi với tính cách đổi 
		thay đó, họ sẽ đau khổ. 
		Thiền là kỹ thuật hay phương pháp cụ thể giúp ta có được sự hiểu biết 
		trực tiếp bằng cách tiếp xúc thẳng với những ý tưởng đến đi, cảm giác 
		sướng khổ, tâm tư vui buồn, những hiện tượng nội tâm hay ngoại cảnh mà 
		không chút che đậy hay bóp méo thực tại. Đó là cách “phản văn văn tự 
		tánh”, (xoay cái nghe lại mà nghe tánh của mình) hay cũng là pháp thiền 
		Tứ niệm xứ, trực tiếp nhận biết về thân thể, về cảm giác, về tâm tư và 
		về những đối tượng của các giác quan cùng ý thức (thân, thọ, tâm, pháp).
		
		Khi có cùng chủ trương phải thấy biết rõ ràng những dòng sinh hoạt tâm 
		lý bên trong thì chúng ta thấy là nơi đây ngành tâm lý trị liệu và thiền 
		gặp nhau: nhận biết rõ sự thật và giải quyết chúng. Nhưng một bên chữa 
		trị dựa vào bên ngoài: bác sĩ phân tâm, bác sĩ tâm thần hay nhà tâm lý 
		chuyên môn, còn một bên dựa vào chính nội kiến của mình, chính sự tự 
		tri, chính sự tiếp xúc trực tiếp với những ý tưởng, những tâm tư, nhưng 
		ước muốn đến đi không ngừng trong tâm. Những vị thầy dạy đạo dĩ nhiên là 
		rất cần thiết, nhưng cuối cùng thì người học trò vẫn phải đứng vững trên 
		đôi chân của chính mình.