Người học kiếm ban đầu thường bỡ ngỡ vì chưa biết được kỹ thuật luyện
tập và cách thức chiến đấu, cũng không khác gì người học Thiền trong lúc
đầu luôn bị các ý tưởng và cảm xúc làm cho điên đảo. Dần dần, cả hai đều
nỗ lực thực hành. Khi người chiến sĩ đạt được kiến thức, kỹ thuật và khả
năng chiến đấu cao thì anh ta giống như người học thiền đã biết cách đối
trị các ý tưởng, các điều ham muốn quấy nhiễu tâm mình. Nhưng nếu cả hai
chưa khai mở được sự hiểu biết chân thật thì họ chỉ là những kẻ còn chạy
mãi ở vòng ngoài. Cuối cùng, người chiến sĩ cũng như kẻ học thiền đến
được bờ cõi của tâm bất động: không còn dấu vết của tâm chấp trước, nỗ
lực tìm cầu, ham muốn hay phân biệt hai thế giới đối nghịch bên ngoài và
bên trong.
Các vị kiếm sư hiểu rõ tâm lý đệ tử, và thường giải thích như sau: “Lúc
đầu môn sinh chưa biết cách cầm và sử dụng thanh kiếm cho đúng. Khi bị
tấn công thì đưa kiếm lên đỡ chứ không theo chiêu thức nào cả. Dần dần,
qua nhiều năm tháng tập luyện, anh ta biết thế công và thế thủ, nhưng
mỗi lần đưa kiếm lên hay hạ kiếm xuống anh ta đều hành động theo sự suy
nghĩ. Như thế, mỗi lần ra chiêu là tinh thần anh ta ngưng lại nơi một
chủ đích và điều đó làm tâm anh ta ngưng trệ, dù chỉ trong một thời gian
rất ngắn ngủi. Mỗi lần tâm ngưng trệ như thế thì ý tưởng xuất hiện làm
cho anh ta có thể phân tâm, sợ hãi, lo lắng, tạo cho anh sự hồi hộp bất
an. Sau nhiều năm chuyên cần tập luyện thêm thì thân và tâm người chiến
sĩ dần dần trở thành một khối và trạng thái vô tâm xuất hiện: anh không
còn chú tâm đến kỹ thuật, ý muốn chiến thắng hay chứng tỏ mình hơn kẻ
khác. Người kiếm sĩ đã hiểu được Kiếm đạo, an nhiên tự tại, không còn bị
thế sự ràng buộc. Thanh kiếm của họ giờ đây trở thành vô tâm kiếm, và kỹ
thuật chiến đấu giờ đây trở thành kiếm vô sở trụ tâm pháp.”
Do đó mà Hariya Sekiun, chưởng môn kiếm phái chủ trương vô hành, vô
chiêu thức, tâm vô trụ xứ, đã giải thích cặn kẽ tinh yếu của kiếm pháp:
“Thể tánh uyên nguyên nơi chúng ta ở trạng thái tinh túy nhất khi chúng
ta là đứa trẻ thơ còn được bồng trên tay và bú sữa mẹ. Khi còn bé thì
chúng ta hoàn toàn hòa hợp với thiên nhiên, vậy thì khi trưởng thành
chúng ta cũng có thể để cho thiên nhiên tự do hoạt động nơi chúng ta mà
không cần can dự vào. Nhưng bất hạnh thay, khi vừa bắt đầu khôn lớn là
chúng ta bị nhồi sọ bởi đủ mọi lý thuyết. Do sự khái niệm hóa mà các
giác quan của chúng ta đã chuyển cho chúng ta hình ảnh của một thế giới
bên ngoài sai lạc. Khi nhìn một ngọn núi, chúng ta không nhìn thấy ngọn
núi như chính ngọn núi, chúng ta không thấy ngọn núi đó đúng với hình
ảnh thật sự của nó. Chúng ta thêm vào đó đủ mọi ý tưởng, đôi lúc hoàn
toàn có tính cách tri thức, nhưng phần nhiều chứa đựng các cảm xúc kèm
theo. Khi bị tư tưởng và tình cảm bao phủ, ngọn núi biến thành quỷ quái.
Đó là sự nhồi sọ hay do những kiến thức ta thu lượm được qua các sinh
hoạt cá nhân, chính trị, xã hội, kinh tế hoặc tôn giáo. Hình ảnh đó biến
thành hình ảnh kỳ dị, sai lạc, méo mó. Thay vì sống trong một thế giới
tự hiển bày chân tính một cách tự nhiên, chúng ta lại sống trong một thế
giới giả tạo bởi sự vò nắn của ý tưởng. Điều đáng tội là chúng ta không
ý thức được sự kiện hiển nhiên như vậy.”’
Ông ta lại nhấn mạnh đến điểm quan yếu như sau:
“Nếu một kiếm sĩ muốn biết cái thế giới méo mó đó ảnh hưởng đến hoạt
động của anh ta ra sao, anh ta chỉ cần quan sát chính mình trong khi
chiến đấu. Anh ta sẽ thấy tất cả những hoạt động của mình đi ngược lại
với nguyên tắc kiếm vô sở trụ, vì tâm không linh động được như trẻ thơ.
“Theo phương thức kiếm vô sở trụ, chiêu thức được sử dụng không nhanh và
cũng không chậm, cứ để cho tánh uyên nguyên tự nhiên hành động tùy theo
hoàn cảnh luôn luôn chuyển biến. Người kiếm khách không muốn tỏ ra gan
dạ hay cảm thấy lo lắng. Anh ta không có ý nghĩ về một địch thủ đang ở
trước mặt hay mình đang gặp một địch thủ. Anh ta hành động tự nhiên như
trong công việc bình thường hằng ngày, cũng như việc ăn điểm tâm. Anh ta
cầm kiếm cũng như cầm đũa, gắp thức ăn, bỏ vào miệng rồi buông đũa
xuống. Việc sử dụng kiếm cũng giản dị, không đòi hỏi nỗ lực nào khác hơn
việc cầm đôi đũa ăn điểm tâm... Do đó, anh ta được tự do hoàn toàn,
không chút sợ hãi, không chút lo lắng, không chút bất an, không cần tỏ
ra can trường” (Zen and the Japanese Culture)
Do đó, khi tinh thần võ sĩ đạo tan biến vào nguồn thiền thì tâm người
chiến sĩ trở thành an nhiên bất động, vững vàng như ngọn núi lớn, thư
thái tự nhiên và uyển chuyển linh động. Họ bình thản trước mọi biến động
vì tâm và cảnh không còn là hai thực thể đối nghịch khi đạt được trạng
thái vô tâm như trong một công án thiền:
Tay không cầm cán mai
Đi bộ lưng trâu ngồi
Qua cầu trên bến nước
Cầu trôi nước chẳng trôi.
Thiền đạo, Hoa đạo, Trà đạo, Thi đạo... cũng đều dựa theo những nguyên
lý vô hành, vô tâm, tâm vô trụ xứ như trên. Khi đạt được tâm yếu ấy và
nắm bắt chân lý tối thượng trong đôi tay trống rỗng thì các vị Thiền sư,
Hoa sư, Trà sư, Thi sư, Võ sư, Kiếm sư... không còn quan tâm đến giáo
lý, kinh điển, kỹ thuật, nguyên tắc, vì chính cuộc sống của họ thể hiện
chân lý tự thân. Người cắm hoa, kẻ pha trà, người vẽ tranh, kẻ làm
thơ... ung dung hành động một cách tự nhiên, dung dị, để tạo ra vẻ đẹp,
nét linh động, sự uyển chuyển, tinh khôi như chính thiên nhiên tự phơi
bày đường nét. Do đó, ở Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên thời
trước, nhiều chiến sĩ, ngoài việc trau dồi võ thuật còn là những người
tận tụy học thiền. Với tâm thức chói sáng trong niềm an bình tĩnh lặng,
họ thưởng thức nghệ thuật uống trà, cắm hoa, làm thơ... Tâm hồn họ chín
mùi dần trong Đạo và hướng về niềm an lạc bên trong.