Chúng ta có thể tóm lại tác dụng chuyển biến của 5 giới đối với người
thọ giới theo một cách ngắn gọn và dễ hiểu hơn.
Trong giai đoạn thứ nhất, 5 giới có tác dụng giúp ngăn chặn tất cả các
hành vi xấu ác. Ngay cả khi ta vẫn còn nuôi dưỡng những ý tưởng xấu thì
chúng cũng không thể bộc lộ thành hành động.
Trong giai đoạn thứ hai, 5 giới có tác dụng giúp ta chuyển hóa đời sống
tinh thần, cảm nhận được sự an lạc và hạnh phúc thật sự từ kết quả của
đời sống chân chánh, tốt đẹp. Do sự mở rộng nhận thức về phạm vi ý nghĩa
của giới, nên kết quả mang lại do việc giữ giới cũng trở nên lớn lao,
mạnh mẽ hơn nhiều.
Như trên đã nói, Ngũ giới không chỉ là bước khởi đầu căn bản, mà còn là
phương thức tu tập có thể vận dụng trong suốt cuộc đời. Trong ý nghĩa
này, qua thời gian thực hành việc trì giới thật nghiêm túc, Ngũ giới sẽ
trở thành một yếu tố cấu thành đời sống của người thọ giới, mà không còn
là một khuôn thước được tiếp nhận từ bên ngoài để noi theo. Nói cách
khác, vào lúc này người thọ giới không còn trì giới nữa nhưng cũng không
bao giờ phạm giới. Họ đã thực sự sống với giới, nên dù không có sự phân
biệt so sánh nhưng hành động và lời nói, ý nghĩ cũng không bao giờ rơi
vào phạm vi ngăn ngừa của giới.
Khi việc trì giới đã đạt đến mức độ này, ý nghĩa của giới không còn là
sự ngăn ngừa như ban đầu nữa, mà giờ đây trở thành những định hướng
trong cuộc sống của người thọ giới. Dưới đây chúng ta sẽ nêu ra những
thay đổi cơ bản về mặt nhận thức, ý nghĩa của từng giới qua quá trình
thực hành như vừa được mô tả ở trên.
Về giới thứ nhất, sự thực hành ban đầu mang ý nghĩa ngăn ngừa trước hết
là mọi hành vi giết hại. Tiếp theo đó, người thọ giới tiến đến trừ bỏ
những lời nói, ý nghĩ có thể dẫn đến việc giết hại.
Sau thời gian thực hành, ý nghĩa không giết hại được nhận thức mở rộng
trở thành là không làm tổn hại đời sống sinh vật. Bởi vì sự chiêm nghiệm
sâu xa cho thấy là hành vi gây tổn hại đến đời sống của sinh vật thực
chất không gì khác hơn là sự giết hại từng phần, là mức độ nhẹ hơn của
sự giết hại thực sự. Và người thọ giới đi đến chỗ ngăn ngừa hết thảy mọi
hành vi gây tổn hại sự sống.
Trong mức độ cao hơn của việc trì giới này, người thọ giới không còn
thấy có sự giết hại để ngăn ngừa nữa, bởi vì việc không làm tổn hại đến
sự sống của muôn loài giờ đây đã là một hướng sống của người ấy. Và vì
thế người ấy luôn vun đắp, bảo vệ sự sống quanh mình, sinh khởi tâm từ
bi, thương yêu và che chở cho sự sống của mọi sinh vật quanh mình bất cứ
khi nào có thể. Khi việc trì giới đã thực sự mang lại hướng sống tốt đẹp
này cho người thọ giới, điều tất yếu là không còn cần thiết phải đặt ra
vấn đề giữ giới hay phạm giới nữa. Trong khi đó, các việc thiện như
phóng sinh, bố thí thức ăn cho kẻ nghèo đói... cũng do đây mà hình
thành.
Về giới thứ hai, sự thực hành ban đầu mang ý nghĩa ngăn ngừa trước hết
là mọi hành vi lường gạt, trộm cắp hay cướp giật của người khác. Tiếp
theo đó, người thọ giới tiến đến trừ bỏ những ý tưởng tham lam, những
mong muốn chiếm hữu tài sản của người khác.
Sau thời gian thực hành, ý nghĩa của giới này được nhận thức mở rộng trở
thành là không tham về mình những phần lợi bất chính. Bởi vì sự chiêm
nghiệm sâu xa cho thấy là khi ta sử dụng những lợi thế, sự khôn ngoan
hay khéo léo để tham lấy những phần lợi nhiều hơn so với mức đáng có của
mình, điều đó không gì khác hơn là biểu hiện khác đi của một sự ăn cắp.
Và người thọ giới đi đến chỗ ngăn ngừa hết thảy mọi hành vi nhằm giành
lấy phần lợi tức vật chất bất chính về mình.
Trong mức độ cao hơn của việc trì giới này, người thọ giới không còn
thấy có sự tham lam trộm cắp để ngăn ngừa nữa, bởi vì hướng sống của
người ấy giờ đây đã loại bỏ hoàn toàn sự tham lam, ích kỷ. Và vì thế
người ấy luôn có ý muốn chia sẻ, giúp đỡ người khác bằng những tài vật
mà mình hiện có, không còn tham tiếc những của cải vật chất đang có. Và
khi việc trì giới đã thực sự tạo ra được tâm niệm tốt đẹp này, điều tất
yếu là không còn cần thiết phải đặt ra vấn đề giữ giới hay phạm giới
nữa. Trong khi đó, những việc làm như giúp đỡ người nghèo, bố thí cho kẻ
đói, giúp tiền của vào các công tác từ thiện xã hội... cũng được hình
thành như là kết quả của một đời sống mới tốt đẹp hơn.
Về giới thứ ba, sự thực hành ban đầu mang ý nghĩa ngăn ngừa trước hết là
mọi hành vi tà dâm. Tiếp theo đó, người thọ giới tiến đến trừ bỏ những
lời nói, ý nghĩ có thể dẫn đến việc tà dâm.
Sau thời gian thực hành, ý nghĩa không tà dâm được nhận thức mở rộng trở
thành là sự nuôi dưỡng và bảo vệ hạnh phúc gia đình của chính mình cũng
như của người khác. Bởi vì sự chiêm nghiệm sâu xa cho thấy rằng sự nuôi
dưỡng và bảo vệ hạnh phúc gia đình chính là cách tốt nhất để ngăn ngừa
hành vi tà dâm. Và người thọ giới đi đến chỗ luôn tìm mọi cách để vun
đắp cho hạnh phúc gia đình của bản thân cũng như của người khác.
Trong mức độ cao hơn của việc trì giới này, người thọ giới không còn
thấy có sự tà dâm để ngăn ngừa nữa, bởi vì việc xây dựng hạnh phúc gia
đình giờ đây đã là một hướng sống của người ấy. Và vì thế người ấy luôn
vun đắp, bảo vệ hạnh phúc gia đình, tìm mọi cách để duy trì sự thương
yêu và hiểu biết lẫn nhau trong cuộc sống gia đình, cũng như khuyên bảo,
giúp đỡ người khác trong việc bảo vệ hạnh phúc gia đình của họ. Và khi
việc trì giới đã thực sự mang lại hướng sống tốt đẹp này cho người thọ
giới, điều tất yếu là không còn cần thiết phải đặt ra vấn đề giữ giới
hay phạm giới nữa.
Về giới thứ tư, sự thực hành ban đầu mang ý nghĩa ngăn ngừa trước hết là
những lời nói dối, không đúng sự thật. Tiếp theo đó, người thọ giới tiến
đến trừ bỏ những tư tưởng, ý niệm sai sự thật.
Sau thời gian thực hành, ý nghĩa không nói dối được nhận thức mở rộng
trở thành là không nói ra những lời có hại. Bởi vì sự chiêm nghiệm sâu
xa cho thấy sức mạnh của lời nói có thể giúp xây dựng cũng như phá hoại
một đời sống tốt đẹp. Và người thọ giới đi đến chỗ ngăn ngừa hết thảy
những lời nói gây đau khổ cho người khác, những lời nói gây chia rẽ, thù
hận hay tạo sự hiểu lầm giữa những người khác.
Trong mức độ cao hơn của việc trì giới này, người thọ giới không còn
thấy có việc nói dối để ngăn ngừa nữa, bởi vì sự chân thật và ý thức đầy
đủ về sức mạnh của lời nói giờ đây đã là một hướng sống của người ấy. Và
vì thế người ấy luôn nói ra những lời chân thật, những lời hòa ái, dẫn
đến sự đoàn kết, gắn bó và yêu thương nhau giữa mọi người. Và khi việc
trì giới đã thực sự tạo ra được một nhận thức đúng đắn và tốt đẹp trong
việc sử dụng lời nói, điều tất yếu là không còn cần thiết phải đặt ra
vấn đề giữ giới hay phạm giới nữa.
Về giới thứ năm, sự thực hành ban đầu mang ý nghĩa ngăn ngừa trước hết
là việc uống rượu. Tiếp theo đó, người thọ giới tiến đến không sử dụng
tất cả những món ăn thức uống gây say sưa, làm mất đi sự sáng suốt của
lý trí.
Sau thời gian thực hành, ý nghĩa không uống rượu được nhận thức mở rộng
trở thành là không sử dụng tất cả những món ăn thức uống gây nghiện hoặc
có hại cho sức khỏe. Bởi vì sự chiêm nghiệm sâu xa cho thấy là sự chọn
lựa sáng suốt trong việc ăn uống có thể góp phần quan trọng trong việc
bảo vệ sức khỏe và giúp hình thành một đời sống thực sự an vui, hạnh
phúc. Và người thọ giới đi đến chỗ không sử dụng bất cứ món ăn thức uống
nào có hại cho sức khỏe.
Trong mức độ cao hơn của việc trì giới này, người thọ giới không còn
thấy có sự uống rượu để ngăn ngừa nữa, bởi vì sự sáng suốt chọn lựa
trong việc ăn uống giờ đây đã là một hướng sống của người ấy. Và vì thế
người ấy luôn nhận thức đúng về các món ăn thức uống của mình, không bị
sự tham đắm mùi vị lôi cuốn đến với những món ăn thức uống gây ra sự say
sưa, nghiện ngập hoặc có hại cho sức khỏe. Và khi việc trì giới đã thực
sự mang lại hướng sống tốt đẹp này cho người thọ giới, điều tất yếu là
không còn cần thiết phải đặt ra vấn đề giữ giới hay phạm giới nữa.