Chúng ta chỉ có thể nhìn thấy mọi sự vật, hiện tượng trong phạm vi giới
hạn của đôi mắt mình, nhưng sự thật là còn có rất nhiều điều ta không
nhìn thấy nhưng vẫn đang hiện hữu đồng thời với sự vật, hiện tượng mà ta
nhìn thấy. Ngắm nhìn một bông hoa, ta chỉ thấy được vẻ đẹp qua màu sắc,
đường nét của những cánh hoa, nhưng cái ta không nhìn thấy là sự sống
của bông hoa ấy với vô số những điều kiện tương quan cần thiết, chẳng
hạn như nước được hút lên từ lòng đất với dưỡng chất để tạo thành nhựa
cây, ánh nắng từ không trung tỏa chiếu, vừa sưởi ấm để tạo nhiệt độ cần
thiết, vừa giúp vào quá trình quang hợp của lá cây, cho đến thành phần
không khí mà cây hoa phải dùng đến trong “hơi thở” của nó...
Nhưng tất cả những gì ta không nhìn thấy đó lại là những điều kiện tất
yếu cho sự tồn tại vẻ đẹp của bông hoa. Không có nước, cây sẽ héo úa.
Không có dưỡng chất, cây sẽ không thể sinh trưởng. Cho đến không có
không khí, không có ánh nắng... đều sẽ dẫn đến sự không tồn tại của bông
hoa xinh đẹp kia...
Vì thế, cho dù không nhìn thấy được những yếu tố vừa mô tả, nhưng ta
hoàn toàn có thể nhận biết được chúng qua sự tồn tại sống động của bông
hoa. Bông hoa tươi đẹp còn đó, có nghĩa là vẫn còn có sự hiện hữu của
đất, của nước, của ánh nắng, của không khí... và vô số những yếu tố khác
nữa cần thiết cho sự sống của nó.
Tương tự như vậy, chúng ta có thể và cần phải nhận biết mọi sự vật, hiện
tượng trong cuộc sống này một cách sâu xa và toàn diện, nghĩa là trong
mối tương quan với sự hiện hữu của chúng. Chúng ta sẽ không thường xuyên
giữ được những bông hoa đẹp nếu chúng ta không nhận biết được gì về điều
kiện tồn tại của nó. Vì không nhận biết, ta sẽ có thể vô tình làm hại
đến bông hoa, và vì thế nó sẽ không còn tồn tại để cho ta nhìn ngắm. Nếu
bạn mang một chậu hoa vào nhà, nó sẽ không thể sống khỏe được vì thiếu
ánh nắng. Nếu bạn cắt rời một bông hoa ra khỏi thân cây, nó sẽ héo rũ
vài ba ngày sau đó.... Và nếu bạn không nhớ tưới nước cho cây hoa, nó sẽ
không thể cho bạn những bông hoa xinh đẹp.
Mọi hiện tượng quanh ta đều không tồn tại độc lập. Chúng luôn có mối
tương quan tồn tại và chi phối lẫn nhau. Ngay cả sự tồn tại của mỗi cá
nhân chúng ta cũng không phải là ngoại lệ. Chúng ta không thể nhìn thấy
nhưng cần phải nhận biết điều đó. Sự sống của chúng ta là một chuỗi tiếp
xúc trực tiếp hay gián tiếp với tất cả mọi người quanh ta, với những
người khác trên thế giới này, và cả với vô số những yếu tố, điều kiện,
nhân duyên khác. Chính vì không nhận biết được những điều này mà con
người đã gây ra biết bao tổn hại cho chính mình qua việc tàn phá môi
trường, hủy hoại hệ sinh thái, và thậm chí là gây tổn hại trực tiếp cho
nhau về cả vật chất lẫn tinh thần.
Khi chúng ta nhận biết mọi hiện tượng, sự vật trong mối tương quan tồn
tại với vô số hiện tượng khác, chúng ta sẽ không còn cảm thấy ưa thích
hay ghét bỏ một hiện tượng nào đó, bởi vì ta nhận ra rằng sự ưa thích
hay ghét bỏ như vậy là hoàn toàn không hợp lý. Làm sao bạn có thể yêu
thích bông hoa và ghét bỏ khối phân dùng để bón cho cây hoa ấy? Khi bạn
hiểu rằng sự có mặt của khối phân là điều kiện tất yếu giúp cho bông hoa
kia tồn tại, bạn sẽ thấy rằng thái độ bình đẳng đối với cả hai mới là
hợp lý.
Điều này cũng xảy ra đối với sự tồn tại của mỗi người chúng ta. Khi bạn
cảm thấy không ưa thích một sự việc nào đó, hãy dành thời gian để thử
suy nghĩ lại. Liệu sự việc mà bạn ghét bỏ đó có phải là hoàn toàn không
liên quan đến sự tồn tại của bạn hay chăng? Tôi tin rằng câu trả lời là
không. Bởi vì khi bạn nhận biết vấn đề theo cách như trên, bạn sẽ thấy
là không một yếu tố nào trong cuộc sống này lại không liên quan – trực
tiếp hay gián tiếp – đến sự sống còn của mỗi một cá nhân.
Có những mối quan hệ trực tiếp mà bạn có thể dễ dàng nhận biết, nhưng
cũng có những mối quan hệ tưởng như rất mơ hồ vì sự xa xôi, cách biệt,
nhưng xét cho cùng vẫn luôn có sự chi phối, ảnh hưởng đến cuộc sống của
chúng ta. Ta cần có sự quán xét sâu xa và sáng suốt hơn mới có thể nhận
ra được những mối quan hệ tinh vi như thế. Này nhé, ngày hôm qua giá
xăng dầu vừa tăng cao, và bạn biết ngay là ngân sách chi tiêu của gia
đình sẽ phải có sự thay đổi, điều chỉnh thích hợp. Nhưng bạn có biết vì
sao giá xăng dầu tăng cao hay chăng? Có lẽ để nhận biết điều này bạn cần
phải quan tâm đến thời cuộc thế giới, đến sự phân tích của các chuyên
gia.v.v... Nhưng tôi thật không có ý muốn bạn đi sâu vào những vấn đề
rối rắm như thế. Tôi chỉ muốn nhắc bạn một điều là, những gì ta không
nhìn thấy không có nghĩa là không hiện hữu. Và vì thế, chúng ta không
thể phủ nhận vô số những điều kiện đã và đang chi phối cuộc sống của
chúng ta.
Đạo Phật trình bày những mối tương quan chằng chịt trong cuộc sống như
thế trong một nguyên lý gọi là “duyên sinh”, và được kinh Hoa nghiêm mô
tả như là “trùng trùng duyên khởi”.
Theo nguyên lý duyên sinh, tất cả mọi sự vật, hiện tượng đều không thể
tự nó sinh khởi. Sự sinh khởi của mỗi một sự vật, hiện tượng đều là do
kết hợp bởi một số nhân duyên nhất định nào đó, nhưng mỗi một nhân duyên
trong số này lại cũng là sự kết hợp của một số nhân duyên khác nữa. Và
vì mối tương quan này được nối dài không giới hạn nên khi xét đến cùng
thì tất cả mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ pháp giới đều có liên
quan với nhau, đều nương theo nhau mà sinh khởi và tồn tại.
Kinh Hoa nghiêm mô tả mối tương quan này bằng hình ảnh một tấm lưới được
giăng ra vô tận trong không gian. Ở mỗi một mắt lưới có đính một viên
ngọc sáng. Một cách khéo léo, người giăng lưới đã tính toán sao cho tất
cả các viên ngọc đều được phản chiếu trong mỗi một viên ngọc. Và vì thế,
khi chúng ta nhìn kỹ vào bất cứ một viên ngọc nào, chúng ta cũng đều
thấy được vô số những viên ngọc khác trong toàn tấm lưới.
Toàn thể vũ trụ được mô tả là tương tự như thế. Mỗi một sự vật, hiện
tượng đều có thể được nhận biết nơi những sự vật, hiện tượng khác, vì sự
tương quan tồn tại của chúng. Và nguyên lý này có thể vận dụng ngay vào
những gì đang hiện hữu quanh ta để xóa đi mọi nhận thức phiến diện, hẹp
hòi. Khi nhận biết được mối tương quan thật có giữa mọi sự vật, hiện
tượng, chúng ta sẽ không còn cảm thấy khó chịu hay bực mình vì một sự
việc nhỏ nhặt nào đó đã không diễn ra theo đúng ý mình. Bởi vì khi nhìn
sâu vào sự việc bất như ý đó, chúng ta cũng thấy được vô số những sự
việc quan trọng và cần yếu khác sở dĩ có được là nhờ nó.
Vì không có một sự vật hay hiện tượng nào có thể tự nó sinh khởi, nên
chúng ta cũng có thể hiểu được rằng sự sinh khởi của mỗi một sự vật hay
hiện tượng chẳng qua chỉ là sự kết hợp của những nhân duyên nhất định.
Khi những nhân duyên không còn nữa, sự vật hay hiện tượng đó cũng sẽ mất
đi.
Do ý nghĩa này nên thực sự không hề có sự sinh ra hay diệt mất của sự
vật, hiện tượng như cách nhìn thông thường chia cắt thực tại của chúng
ta. Một bông hoa hiện hữu là do có sự hiện hữu của những điều kiện như
mặt trời, không khí, nước tưới, phân bón... Bông hoa chưa từng thực sự
sinh ra mà chỉ là kết quả sự hội tụ của những điều kiện nhân duyên khác.
Tương tự như vậy, khi những điều kiện nhân duyên không còn đầy đủ, bông
hoa sẽ không còn hiện hữu và ta gọi là mất đi. Nhưng thực ra cũng không
có sự mất đi của bông hoa – vì nó chưa từng sinh ra – mà chỉ có sự tan
rã của những điều kiện nhân duyên tương ứng.
Trong cách nhìn nhận thông thường của chúng ta về vũ trụ, cách hiểu như
trên có vẻ như thật xa lạ. Nhưng nếu bạn càng suy xét kỹ, bạn sẽ càng
thấy được tính hợp lý, xác thật của nó. Chính cách hiểu sai lệch về sự
“sinh ra” và “chết đi” đã là nguyên nhân mang đến cho chúng ta vô vàn
đau khổ. Chúng ta bám lấy những người thân yêu của mình và mong muốn họ
sống mãi với chúng ta. Điều mong muốn vô lý ấy – và vì thế chẳng bao giờ
có được – lại được xem là phù hợp với nhận thức của mọi người, với “thế
thái nhân tình”. Khi nhân duyên tan rã, người thân ấy không còn nữa và
ta gọi đó là “mất đi”. Vì không hiểu được đó chỉ là sự tan rã tất nhiên
của những điều kiện nhân duyên, nên ta đau khổ, quằn quại và mong muốn
cho sự thật thay đổi. Nhưng rõ ràng đó chỉ là một nhận thức và mong muốn
hoàn toàn vô lý nên chẳng bao giờ đạt được. Chúng ta từ chối nhận biết
sự thật theo đúng như nó đang diễn ra, và vì thế mà ta đau khổ!
Đối với vô số những vật sở hữu, tài sản của cải trong đời sống, chúng ta
cũng luôn nhìn nhận, ôm giữ theo cách tương tự như thế. Trong rất nhiều
điều kiện nhân duyên để một sự vật tồn tại thì sự đóng góp của ta chỉ là
một phần nhỏ, nhưng ta luôn muốn quyết định sự việc, muốn ôm giữ mãi mãi
những vật mình yêu thích. Và khi những điều kiện nhân duyên khác tan rã,
sự vật không còn nữa thì chúng ta đau khổ, tiếc nuối...
Sự nhận biết và truyền dạy giáo pháp nhân duyên sinh của đức Phật là một
cuộc cách mạng tư tưởng vĩ đại vào thời bấy giờ, và điều đó được nhận
biết bởi tất cả những bậc trí thức đương đại. Khi ngài Xá-lợi-phất
(Sariputra) còn chưa gặp đức Phật, ngài là một đệ tử xuất sắc của ngoại
đạo. Mặc dù vậy, ngài chưa bao giờ hài lòng với những giáo pháp đã học
được từ vị thầy ngoại đạo. Ngài đã từng có giao ước với một người bạn
chí thân là ngài Mục-kiền-liên (Maudgalyayana), rằng nếu ai tìm được bậc
minh sư thì sẽ lập tức giới thiệu với người kia biết để cùng theo học.
Một hôm, Xá-lợi-phất gặp một vị tỳ-kheo trên đường đi khất thực. Vị này
tên là A-thuyết-thị (Asvajit), là một trong những đệ tử của đức Phật.
Nhìn thấy phong cách siêu việt thoát trần của vị tỳ-kheo, ngài biết ngay
đây là một người đang tu tập theo đúng con đường giải thoát. Ngài liền
hỏi A-thuyết-thị xem vị này đang theo học với ai. Vị tỳ-kheo chậm rãi
trả lời bằng bốn câu kệ như sau:
Nhược pháp nhân duyên sinh,
Pháp diệc nhân duyên diệt.
Thị sinh diệt nhân duyên,
Phật Đại Sa-môn thuyết.
Tạm dịch:
Các pháp nhân duyên sinh,
Cũng theo nhân duyên diệt.
Nhân duyên sinh diệt này,
Do Đức Phật thuyết dạy.
Vừa nghe xong bài kệ, ngài Xá-lợi-phất biết ngay rằng mình đã gặp được
bậc minh sư từ lâu mong đợi. Vì chỉ qua bốn câu kệ ngắn ngủi, ngài đã
thấy được sự sụp đổ hoàn toàn của toàn bộ nền tảng giáo lý ngoại đạo.
Không những thế, những niềm tin sâu xa về một đấng Phạm thiên hay Thượng
đế toàn năng sáng tạo vũ trụ cũng hoàn toàn sụp đổ, bất chấp sự ngự trị
của nó trong môi trường triết học và tín ngưỡng Ấn Độ từ bao nhiêu thế
kỷ qua. Tất cả đều không thật có, chỉ có sự kết hợp và tan rã của các
nhân duyên đã tạo nên sự thành hoại của mọi sự vật, hiện tượng trong vũ
trụ!
Sau lần gặp gỡ đó, ngài Xá-lợi-phất đã cùng ngài Mục-kiền-liên tìm đến
với đức Phật, và họ trở thành 2 trong số 10 vị Đại đệ tử kiệt xuất của
đức Phật.
Nguyên lý duyên sinh hoàn toàn không phải do đức Phật nghĩ ra. Ngài chỉ
là người đầu tiên nhận biết được nó và mô tả lại một cách chính xác,
giúp chúng ta cũng có thể nhận ra được giống như ngài. Sự hình thành và
tan rã của tất cả mọi sự vật, hiện tượng do nơi nhân duyên là một sự
thật khách quan, và vì thế cho dù bất cứ ai cũng không thể phủ nhận được
điều này.
Việc nhận hiểu sâu sắc về nguyên lý duyên sinh giúp chúng ta có một nhận
thức khách quan và chính xác về thực tại, và do đó cũng dẫn đến những
thái độ ứng xử khôn ngoan và chính xác. Nếu như bạn không thể nắm kéo
một cây hoa lên vì muốn nó mau lớn, thì bạn cũng không thể tìm mọi cách
níu giữ những gì bạn yêu thích để chúng được tồn tại mãi mãi. Cả hai
việc này đều đi ngược với nguyên lý duyên sinh, nhưng việc thứ nhất bạn
có thể dễ dàng hiểu được, trong khi việc thứ hai lại là sai lầm của đại
đa số con người.
Điều kỳ lạ là, rất nhiều người trong chúng ta dành thời gian nghiên cứu,
học hỏi về thuyết tương đối của Albert Einstein để có thể nhận biết
chính xác hơn về thế giới vật chất quanh ta, nhưng lại ít người tìm hiểu
về nguyên lý duyên sinh để có thể nhận biết một cách chính xác hơn về
mọi sự vật, hiện tượng trong đời sống!
Khi bạn thấu triệt được nguyên lý duyên sinh, bạn sẽ có thể rèn luyện
được khả năng nhận biết sự việc không giới hạn trong những gì nhìn thấy,
mà luôn có sự mở rộng đến những gì tương quan. Hơn thế nữa, vì nguyên
nhân sâu xa thực sự của vấn đề đã được nhận biết, nên bạn sẽ không còn
bực tức hay oán giận đối với những nguyên nhân cạn cợt bên ngoài của sự
việc. Mọi sự việc đều diễn ra theo tiến trình kết hợp các điều kiện nhân
duyên, nên chúng ta không thể khởi tâm yêu ghét đối với một trong số các
nhân duyên đó.
Nhờ nhận biết được tính chất duyên sinh của mọi sự vật, hiện tượng,
chúng ta không còn cảm thấy khó chịu hay bực tức đối với mọi sự việc
không tốt xảy đến cho mình, và cũng không còn say mê, tham đắm đối với
những sự vật mà ta cho là tốt đẹp, đáng yêu. Điều đó mang lại cho ta một
trạng thái tâm thức luôn bình thản và sáng suốt, luôn nhận biết và đón
nhận mọi sự việc xảy đến cho mình một cách an nhiên tự tại. Đó chính là
khả năng nhẫn nhục được gọi là “đế sát pháp nhẫn”.
Trong mức độ nhẫn nhục này, thực ra cũng không có cả sự nhẫn chịu. Bởi
vì mọi việc đều diễn ra do tiến trình kết hợp và tan rã của các nhân
duyên, nên chúng ta chỉ nhận biết và an nhiên chấp nhận chứ không có gì
gọi là chịu đựng. Khi một cảm giác đau đớn sinh khởi, ta nhận biết sự
sinh khởi của nó do những nhân duyên nhất định, và biết rằng nó sẽ mất
đi khi các nhân duyên không còn nữa. Vì thế, ta có thể an nhiên nhận
biết sự tồn tại và qua đi của nó mà không có bất cứ sự bực tức, khó chịu
hay oán hận nào cả. Và một sự chấp nhận hoàn toàn tự nhiên như thế không
phải là một sự chịu đựng theo nghĩa đen của từ ngữ.
Đối với tất cả mọi trạng thái đau khổ hay những sự tổn hại do người khác
gây ra, ta cũng đều có thể đón nhận theo cách tương tự như thế. Trong ý
nghĩa này, chúng ta có thể thấy là nại oán hại nhẫn và an thọ khổ nhẫn
đều đã được bao hàm trong đó.
Như đã nói, nguyên lý duyên sinh đưa đến nhận thức rằng mọi sự vật không
hề thực có sự sinh ra và diệt mất. Vì thế, nguyên lý này cũng được gọi
là vô sinh hay vô sinh diệt, và pháp nhẫn nhục đạt được do sự thấu triệt
nguyên lý này cũng được gọi là Vô sinh pháp nhẫn.
Vô sinh pháp nhẫn cũng là quả vị chứng đắc đầu tiên của hàng Bồ Tát, khi
mà mọi sự oán ghét, thù hận đều hoàn toàn tan biến, và vị Bồ Tát có thể
sinh khởi tâm từ bi bình đẳng đối với tất cả chúng sinh.
Nhưng nói thật lòng, khi viết lại những dòng này theo ý nghĩa được đọc
thấy trong kinh điển, tôi cũng không dám mong rằng sẽ có bạn đọc nào đó
nhân nơi đây mà đạt đến mức độ Vô sinh pháp nhẫn của hàng Bồ Tát. Tuy
nhiên, tôi thật sự có hy vọng và chân thành mong ước rằng tất cả chúng
ta – các bạn và tôi – đều có thể nhận biết được sự chính xác và hợp lý
trong những gì được mô tả ở đây, và vì thế mà có thể chấp nhận những
điều này như một khuôn mẫu hướng đến trong sự học hỏi vươn lên hoàn
thiện bản thân mình. Chỉ cần được như vậy thôi, chắc chắn bạn sẽ thấy
rằng có rất nhiều vấn đề trước đây giờ bỗng nhiên không còn nghiêm trọng
nữa, nhiều sự căng thẳng cũng không còn nữa, và nhất là sẽ có rất nhiều
người quanh ta bỗng trở nên hiền hòa, dễ mến, hoặc ít ra cũng không còn
đáng ghét như trước đây!