Câu hỏi có thể là có phần ngớ ngẩn với những ai đã từng đến chùa nghe
kinh, lễ Phật, nhưng lại là rất thiết thực với những ai vừa mới lần đầu
bước chân đến chùa. Hơn thế nữa, ngay cả khi bạn nghĩ rằng mình đã có
được những hiểu biết về Tam bảo, thì sự hiểu biết đó của bạn đôi khi
cũng có thể là chưa được hoàn toàn trọn vẹn, bởi vì trong Phật giáo có
khá nhiều cách giải thích khác nhau – nhưng không hề mâu thuẫn nhau – về
vấn đề này, tùy theo từng đối tượng tu tập.
Trước hết, Tam bảo được hiểu như là “ba ngôi báu”, và được kể ra bao gồm
Phật, Pháp và Tăng. Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu về từng khái niệm khác
nhau đó.
Trước hết là Phật. Theo cách hiểu thông thường nhất, đức Phật là một
nhân vật lịch sử có thật đã sống cách đây hơn 25 thế kỷ. Với những cứ
liệu và kết quả khảo cổ hiện nay đang có được, đa số các nhà nghiên cứu
đều tin rằng đức Phật đã ra đời vào năm 624 trước Công nguyên tại khu
vườn Lam-tì-ni gần thành Ca-tỳ-la-vệ (ngày nay thuộc địa phận Nepal),
với tên gọi là Thích-ca Mâu-ni, là thái tử con vua Tịnh-phạn, thuộc dòng
họ Thích-ca. Sự ra đời của ngài cũng chính là sự khai sinh của đạo Phật,
bởi vì ngài là người đầu tiên đã giác ngộ và truyền dạy những giáo pháp
mà hiện nay chúng ta gọi là Pháp hay là Phật pháp.
Hàng ngàn người đã tin theo giáo pháp do đức Phật Thích-ca Mâu-ni truyền
dạy, họ đã rời bỏ cuộc sống gia đình để theo ngài tu tập trong một tập
thể gọi là Tăng-già, hay Tăng đoàn.
Như vậy, chúng ta có Tam bảo với Phật là “ngôi báu thứ nhất”, hay Phật
bảo, là đấng giác ngộ đầu tiên, người đã tìm ra chân lý và phương pháp
tu tập để hướng đến sự giải thoát, làm giảm nhẹ và xóa bỏ những khổ đau
vốn có trong cuộc đời này. Chính từ ý nghĩa đó mà đức Thích-ca Mâu-ni
được tôn xưng là Phật, bởi danh từ này vốn là do người Trung Hoa phiên
âm từ tiếng Phạn là Buddha, có nghĩa là “bậc giác ngộ”. Khi Phật giáo
lần đầu tiên du nhập Việt Nam trực tiếp từ Ấn Độ vào khoảng đầu Công
nguyên, người Việt đã phiên âm danh xưng này là Bụt. Vì thế, theo cách
gọi của người Việt thì Bụt cũng chính là Phật, cho dù ảnh hưởng lâu đời
và rộng khắp của kinh điển chữ Hán đã làm cho danh xưng Phật ngày nay
trở thành phổ biến hơn.
Tiếp đến, chân lý giác ngộ và phương pháp tu tập do Phật truyền dạy được
gọi là Pháp. Trong ý nghĩa đó, Pháp là phương tiện để chúng ta có thể
thực hành theo đúng và đạt đến sự giác ngộ, đạt đến sự giải thoát giống
như Phật. Ngoài giáo pháp của Phật, không còn có phương pháp nào khác có
thể giúp chúng ta đạt đến sự giải thoát rốt ráo, vì thế mà Pháp được tôn
xưng là “ngôi báu thứ hai”, hay Pháp bảo.
Những người rời bỏ đời sống gia đình để dành trọn cuộc đời thực hành
theo giáo pháp của đức Phật, hướng đến sự giải thoát, sự giác ngộ, được
gọi là chư tăng. Các vị này cùng nhau tu tập trong một tập thể gọi là
Tăng-già (do tiếng Phạn là Sangha) hay Tăng đoàn. Trong sự tu tập của tự
thân mình, chư tăng cũng nêu gương sáng về việc làm đúng theo lời Phật
dạy và truyền dạy những điều đó cho nhiều người khác nữa. Vì vậy, các
ngài được tôn xưng là “ngôi báu thứ ba”, hay là Tăng bảo.
Như vậy, Tam bảo hiểu theo nghĩa như trên là rất cụ thể, có thể thấy
nghe nhận biết bằng tri giác thông thường, và trong Phật học gọi khái
niệm này là “Trụ thế Tam bảo”. Cũng hiểu theo nghĩa này, chúng ta thấy
là Tam bảo đã bắt đầu hiện diện một cách cụ thể trên trái đất từ cách
đây hơn 25 thế kỷ. Nhưng đức Phật Thích-ca Mâu-ni sau 49 năm hoằng hóa
trên khắp nước Ấn Độ, cuối cùng cũng đã nhập Niết-bàn, không còn nhìn
thấy được trong cõi đời này nữa, và vì thế mà hình thức nối tiếp của
Phật bảo là ngọc xá-lợi Phật để lại được mọi người thờ kính, là hình
tượng, tranh vẽ của Phật được tôn trí trong các chùa, hoặc được Phật tử
thờ tại gia... Bởi vì khi nhìn thấy và thờ kính những biểu tượng này,
chúng ta sẽ nhớ đến đức Phật Thích-ca Mâu-ni, người đã khai sáng và
truyền dạy giáo pháp dẫn đến sự giác ngộ.
Về Pháp bảo, khi đức Phật đã nhập Niết-bàn thì không ai đảm bảo có thể
lưu truyền được tất cả những lời ngài đã truyền dạy, cho dù mỗi vị đệ tử
của ngài có thể nhớ được rất nhiều. Vì thế, sau đó một thời gian chư
tăng đã cùng nhau họp lại để ghi chép tất cả những gì đức Phật thuyết
giảng mà họ còn nhớ được. Sự ghi chép tập thể này được gọi là “kết tập
kinh điển”, và là cơ sở đầu tiên để hình thành Tam tạng kinh điển của
Phật giáo, thường được biết nhiều hơn với tên gọi là Đại tạng kinh, bao
gồm Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng. Như vậy, sau 25 thế kỷ, cho đến
nay Pháp bảo vẫn được lưu truyền với dạng cụ thể là Đại tạng kinh Phật
giáo.
Về Tăng bảo, chúng ta có sự truyền thừa nối tiếp trong suốt hơn 25 thế
kỷ qua giữa các thế hệ chư tăng, và Tăng đoàn ngày nay là sự nối tiếp
của Tăng đoàn từ thời đức Phật còn tại thế, bao gồm những người xuất gia
dành trọn cuộc đời cho mục đích tu tập và truyền dạy giáo pháp của đức
Phật. Đó là ý nghĩa của Trụ thế Tam bảo.
Nhưng đức Phật còn dạy rằng, ngài không phải vị Phật duy nhất đạt đến sự
giác ngộ. Trong dòng thời gian từ vô thủy đến nay, con số 25 thế kỷ mà
chúng ta được biết chỉ là một hạt cát trong sa mạc, một giọt nước giữa
biển khơi. Và vì thế, đức Phật dạy rằng trong quá khứ trước ngài đã có
vô số chư Phật, những người đạt đến sự giác ngộ hoàn toàn như ngài. Và
trong tương lai lâu xa, chắc chắn sẽ còn có vô số những người tu tập
theo đúng giáo pháp và giác ngộ thành Phật. Mặt khác, Phật cũng dạy rằng
không phải chỉ có riêng một cõi thế giới Ta-bà này là nơi ta đang sống,
mà nếu chúng ta có thể đi thật xa về phương đông, phương tây... cho đến
mười phương trong không gian, chúng ta sẽ còn gặp vô số các cõi thế giới
khác nữa. Những cõi thế giới ấy cũng có vô số các vị Phật đã và đang
thuyết giảng giáo pháp. Như vậy, Phật bảo không chỉ có đức Phật Thích-ca
Mâu-ni mà chúng ta được biết, mà còn là bao gồm hết thảy chư Phật trong
mười phương ba đời, những vị hoàn toàn giác ngộ và giải thoát khỏi mọi
sự ràng buộc của thế gian. Và tất cả những giáo pháp do chư Phật truyền
dạy đều được tôn xưng là Pháp bảo, tất cả các vị tu tập theo giáo pháp
xuất thế của chư Phật và đạt được sự giải thoát khỏi mọi ràng buộc của
đời sống thế tục đều được tôn xưng là Tăng bảo.
Cách hiểu Tam bảo theo nghĩa rộng hơn này được gọi là Xuất thế Tam bảo.
Cũng theo giáo pháp của Phật, Tam bảo còn được hiểu theo một nghĩa sâu
xa hơn nữa. Theo cách hiểu này, đức Phật cũng là một con người, nhưng là
một con người đã hoàn toàn giác ngộ. Và do đó, ngài dạy rằng tất cả
chúng sanh đều có thể tu tập để đạt đến sự giác ngộ như ngài. Hay nói
khác đi, mỗi chúng sanh đều sẵn có Phật tánh, chỉ vì không chịu tu tập
theo đúng chánh pháp nên không thể đạt đến giác ngộ. Phật tánh hay khả
năng giác ngộ của mỗi chúng sanh và của chư Phật đều là bình đẳng như
nhau không sai khác, nên gọi đây là Đồng thể Phật bảo. Các pháp cũng có
thể tánh bình đẳng như nhau không sai khác, đều là pháp giải thoát, chỉ
do chúng sanh mê muội không nhận ra thực tánh của muôn pháp nên mới phải
dựng bày các phương tiện tu tập để đối trị, theo ý nghĩa này mà gọi là
Đồng thể Pháp bảo. Phật và chúng sanh vốn đã đồng một thể tánh giác ngộ,
nên cũng đều sẵn có bản chất hòa hợp thanh tịnh như Tăng-già, do đây mà
gọi là Đồng thể Tăng bảo.
Như vậy, ý nghĩa Đồng thể Tam bảo là xét về thể tánh tương đồng mà nói,
và sự tương đồng về thể tánh đó chính là nền tảng căn bản để tất cả
chúng sanh đều có thể phát tâm tu tập theo chánh đạo và đạt đến sự giải
thoát rốt ráo. Vì thế, người phát tâm tu tập trước hết phải tự tin vào
thể tánh thanh tịnh sáng suốt vốn có, hay nói khác đi là khả năng có thể
tu chứng thành Phật của chính mình. Theo ý nghĩa này mà nói thì đây cũng
gọi là Tự tánh Phật. Quá trình tu tập luôn nhận rõ được thực tánh của
các pháp, thấy tất cả pháp đều là pháp giải thoát, nên gọi là Tự tánh
Pháp. Bản thân mình dù chưa tu chưa chứng vẫn biết là sẵn có hạt giống
Bồ-đề, sẵn có tự tánh thanh tịnh, cũng đồng với chư tăng, nên gọi là Tự
tánh Tăng.
Tự tánh Tam bảo là nhận thức thiết yếu để xác lập niềm tin và ý chí tu
tập đạt đến giải thoát, nhưng ý nghĩa này không hề tương phản hay che mờ
các ý nghĩa đã nói trên. Vì vậy, người đến chùa tìm hiểu về Tam bảo thì
trước hết phải hiểu đúng và đầy đủ về Trụ thế Tam bảo. Sau đó, khi niềm
tin đã vững chắc mới có thể hiểu rõ được ý nghĩa Xuất thế Tam bảo, bởi
khái niệm này chỉ có thể lấy đức tin và trí tuệ mà nhận hiểu, chứ không
thể dùng các giác quan thông thường để thấy nghe nhận biết. Còn khái
niệm Đồng thể Tam bảo hay Tự tánh Tam bảo lại chỉ có thể thực sự nhận
hiểu được thông qua sự hành trì thực tế, sự thực hành, trải nghiệm các
giáo pháp do Phật truyền dạy. Nếu người không có sự hành trì thực tế,
khi nghe nói đến khái niệm này sẽ cảm thấy rất là trừu tượng, khó nắm
bắt.
Ngày nay không ít người vì muốn tỏ rõ sự uyên bác, học nhiều hiểu rộng
của mình mà nêu lên tất cả những khái niệm này, nhưng kèm theo đó lại
không hiểu được rằng mỗi một khái niệm chỉ thích hợp với một mức độ hiểu
biết, lòng tin và sự hành trì thực tiễn. Khi hiểu được điều này, chúng
ta sẽ thấy là tuy có những khái niệm khác nhau nhưng lại hoàn toàn không
có gì mâu thuẫn mà chỉ là sự mở rộng cho phù hợp với từng trình độ tiếp
nhận khác nhau mà thôi.
Trong thực tế, mỗi chúng ta đều có thể tự mình nhận thức được ý nghĩa
của Tam bảo qua sự tiếp xúc với đạo Phật. Khi chúng ta về chùa dâng
hương cúng Phật, chúng ta đem hết sự thành kính trong tâm hồn để lễ lạy
trước điện Phật. Sự thành tâm thành ý đó giúp cho ta cảm nhận được một
sự giao cảm thiêng liêng với chư Phật, làm cho tâm hồn ta trở nên nhẹ
nhàng, thư thái, và ngay trong lúc ấy được thoát khỏi mọi sự hệ lụy,
trói buộc của đời sống trần tục. Hình tượng thiêng liêng của chư Phật có
thể giúp chúng ta hướng về để đạt được sự thanh thản trong tâm hồn, nên
chúng ta tôn xưng đó là Phật bảo.
Bên cạnh đó, khi chúng ta được nghe hiểu giáo pháp của Phật, thông qua
kinh điển và sự truyền dạy của chư tăng, chúng ta có thể có được một
nhận thức đúng đắn hơn về đời sống, và biết được là có những phương thức
để đạt đến sự an lạc, hạnh phúc chân thật trong đời sống. Khi chúng ta
thực hành theo đúng những phương thức đó, chúng ta đạt được những giá
trị tinh thần cao quý, làm thay đổi đời sống của chúng ta theo hướng tốt
đẹp hơn, hoàn thiện hơn. Do những kết quả quý giá này có được từ việc
thực hành theo giáo pháp, nên chúng ta tôn xưng đó là Pháp bảo.
Mặt khác, ý nghĩa của kinh điển và lời dạy của chư tăng dù sao cũng chỉ
mang tính chất lý thuyết, nên sự diễn giải và thực hành theo đó tất yếu
phải có phần khó khăn và đôi khi có thể bị sai lệch. Vì thế mà chúng ta
thường phải nhìn vào đời sống của chư tăng như một sự minh họa sống động
cho những gì học được từ giáo lý. Nhờ có chư tăng, chúng ta dễ dàng phát
khởi niềm tin mạnh mẽ vào giáo pháp, vì thấy rằng các vị đã thực hành
theo đó và đã đạt được sự an lạc, giải thoát. Hơn thế nữa, bằng vào sự
thực hành, chư tăng còn có khả năng dẫn dắt, giúp ta giải quyết những
vướng mắc, những điều khó hiểu trong giáo lý. Do vai trò dẫn dắt lớn lao
và đáng tôn kính như thế, chúng ta tôn xưng đó là Tăng bảo.