Ông sinh năm 1230 và viên tịch năm 1291. Tên thật là Trần Tung hay Trần Quốc Tung, là một thành viên trong Hoàng tộc Nhà Trần với tước hiệu là Hưng Ninh Vương và là một Thiền sư Việt Nam. Ông là người hướng dẫn Vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập ra Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử.
He was born in 1230 and passed away in 1291. His real name was Tran Tung or Tran Quoc Tung, a member of the Tran Dynasty Royal Family with the title of Hung Ninh Vuong and a Vietnamese Zen master. He was the one who guided King Tran Nhan Tong into Zen and had a great influence on the thoughts of the king who founded the Truc Lam Yen Tu Zen Sect.
Ông là người Tức Mặc, phủ Thiên Trường, nay thuộc tỉnh Nam Định. Ông là con trưởng của An Sinh Vương Trần Liễu, anh ruột của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và Hoàng hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm húy Thiều, vợ của Vua Trần Thánh Tông. Nhìn lại Tộc Phả của họ Trần thì ta thấy Trần Thừa tuy không làm vua, nhưng sau khi con là Trần Cảnh lên làm vua (Trần Thái Tông) đã phong cho ông là Thái Tổ, ông có được 2 người con trai, đó là Trần Liễu và Trần Cảnh.
He was from Tuc Mac, Thien Truong district, now Nam Dinh province. He was the eldest son of An Sinh Vuong Tran Lieu, the older brother of Hung Dao Vuong Tran Quoc Tuan and Queen Nguyen Thanh Thien Cam, whose real name was Thieu, the wife of King Tran Thanh Tong. Looking back at the Tran family tree, we see that although Tran Thua did not become king, after his son Tran Canh became king (Tran Thai Tong), he was given the title of Thai To. He had two sons, Tran Lieu and Tran Canh.
Trần Liễu là anh và nhánh của ông sau này chỉ sinh ra những tướng tài như Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn hay Hoàng hậu như Thiên Cảm (vợ của vua Thánh Tông). Đến đời cháu nội của Trần Liễu (con của Hưng Đạo Vương) thì có đến 4 tướng tài. Đó là Hưng Vũ Vương Quốc Nghiễn sau khi đánh thắng quân Nguyên Mông hai lần vào năm 1285 và 1288 được Vua Trần Nhân Tông phong đến chức Khai Quốc Công Thần; rồi Hưng Hiển Vương Quốc Uy; Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng và Hưng Trí Vương Quốc Hiện. Cũng có một Hoàng hậu, đó là Khâm Từ Hoàng hậu (vợ Vua Trần Nhân Tông.)
Tran Lieu was his elder brother and his branch later only gave birth to talented generals such as Tue Trung Thuong Si Tran Tung, Hung Dao Vuong Tran Quoc Tuan or Queens such as Thien Cam (wife of King Thanh Tong). In the generation of Tran Lieu's grandson (son of Hung Dao Vuong), there were 4 talented generals. They were Hung Vu Vuong Quoc Nghien, after defeating the Yuan-Mongol army twice in 1285 and 1288, who was given the title of Khai Quoc Cong Than by King Tran Nhan Tong; then Hung Hien Vuong Quoc Uy; Hung Nhuong Vuong Quoc Tang and Hung Tri Vuong Quoc Hien. There was also a Queen, Kham Tu Hoang Hau (wife of King Tran Nhan Tong.)
Còn bên phía Trần Cảnh thì làm vua suốt cả nhiều đời trong triều đại Nhà Trần. Từ Trần Thái Tông, đến Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông v.v… nhưng có một điểm đặc biệt trong Triều Trần là anh em nhà Chú lấy anh em nhà Bác hay ngược lại. Nếu đánh giá về huyết thống và gia phong thì nó quá gần gũi, đôi khi trở thành “loạn luân” với nhau, mà chuyện này không phải là không có, sau này có cảnh em ruột thông dâm với chị mình theo lời khuyên của một lão phù thủy. Việc này thực khó chấp nhận trên hành vi đạo đức, nhưng nếu đứng về phương diện luân hồi nhân quả thì có thể hiểu được. Trần Thánh Tông lấy Thiên Cảm làm vợ, tức là con nhà Chú lấy con nhà Bác và sinh ra Trần Nhân Tông. Còn Tuệ Trung Thượng Sĩ là anh ruột của Hưng Đạo Vương, Vũ Thành Vương Doãn và Thiên Cảm Hoàng hậu, như vậy Thánh Tông phải gọi Tuệ Trung Thượng Sĩ là Sư huynh và Nhân Tông phải gọi Tuệ Trung là Cậu. Cậu cháu chắc chắn gặp nhau rất thường nơi cung nội cũng như những nơi tiêu dao ở Thượng Uyển. Có lẽ vì vậy mà Tuệ Trung có nhiều cơ hội để nói cho cháu mình nghe về đạo lý của nhà Phật. Từ đó Nhân Tông mới thấm nhuần giáo lý này.
As for Tran Canh, he was king for many generations during the Tran Dynasty. From Tran Thai Tong, to Thanh Tong, Nhan Tong, Anh Tong, etc., there was a special point in the Tran Dynasty: the Uncle's brothers married the Uncle's brothers or vice versa. If we evaluate the bloodline and family tradition, they were too close, sometimes becoming "incestuous" with each other, and this was not unheard of. Later, there was a scene where a younger brother committed adultery with his older sister following the advice of an old witch. This was really hard to accept in terms of moral behavior, but if we look at the aspect of reincarnation and cause and effect, it could be understood. Tran Thanh Tong married Thien Cam, meaning the Uncle's son married the Uncle's son and gave birth to Tran Nhan Tong. Tue Trung Thuong Si was the older brother of Hung Dao Vuong, Vu Thanh Vuong Doan and Thien Cam Hoang Hau, so Thanh Tong had to call Tue Trung Thuong Si "Senior Brother" and Nhan Tong had to call Tue Trung "Uncle". Uncle and nephew certainly met each other very often in the inner palace as well as in the leisurely places in Thuong Uyen. Perhaps that is why Tue Trung had many opportunities to tell his nephew about the teachings of Buddhism. From then on, Nhan Tong was imbued with this doctrine.
Vậy thì vai trò của ông cũng rất quan trọng, nhưng trong lịch sử nước nhà ít được nhắc đến, nếu có chăng chỉ đề cập Trần Quốc Tung anh ruột Trần Hưng Đạo. Thêm nữa, trong 2 lần chiến thắng quân Nguyên Mông năm 1285 và 1288 đều có sự góp sức của ông, nhưng lịch sử cũng thờ ơ không ít. Ở đây người biên tập bộ “Tiểu thuyết phóng tác về lịch sử cuối Lý đầu Trần” này muốn trả lại những giá trị lịch sử đích thực cho những người làm nên lịch sử về lại với chỗ đứng của họ trong lòng dân tộc Việt, nên chỉ ghi thêm đậm nét đặc biệt của những vị vua, quan, tướng, Hoàng hậu, Công chúa dưới thời Lý cũng như Trần để sau này nếu ai đó đọc đến lịch sử Việt Nam thì có thể hiểu rõ ràng cho một thời đại như thế. Nếu không có những bậc nhân tài hiền đức như vậy xuất thân, thì Việt Nam chúng ta sẽ xoay qua một hướng khác, có thể không độc lập tự chủ được một thời gian dài trong 400 năm như thế.
So his role was also very important, but in the history of the country it was rarely mentioned, if at all, only Tran Quoc Tung, Tran Hung Dao's real brother, was mentioned. In addition, in the two victories over the Yuan-Mongol army in 1285 and 1288, he contributed, but history also ignored him quite a bit. Here, the editor of this "Historical adaptation of novels in the late Ly and early Tran dynasties" wanted to return the true historical values to those who made history and their place in the hearts of the Vietnamese people, so he only wrote down the special features of the kings, mandarins, generals, queens, and princesses under the Ly and Tran dynasties so that later, if anyone reads Vietnamese history, they can clearly understand such an era. If there were no such virtuous and talented people, our Vietnam would have turned in a different direction, and might not have been able to be independent and self-governing for such a long period of 400 years.
Trong cuộc kháng chiến chống quân Nam Tống vào năm 1258, Tuệ Trung Thượng Sĩ đã 28 tuổi (ông sinh năm 1230), nhưng không thấy sử sách ghi công trạng của ông và ông đã làm gì trong thời gian này, đến năm 1285 và 1288 trong hai lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông này ông đều trực tiếp tham gia. Sử chép rằng ngày 10 tháng 6 năm 1285 ông cùng với Hưng Đạo Vương đem hơn 20.000 quân giao chiến với tướng nhà Nguyên là Lưu Thế Anh và đuổi Thoát Hoan chạy dài đến sông Như Nguyệt (sông Cầu) và trong cuộc kháng chiến lần thứ 3 năm 1288, ông còn được giao những nhiệm vụ ngoại giao quan trọng, từng đến đồn trại đối phương vờ ước hẹn trá hàng, làm cho họ mất cảnh giác, sau đó cho quân đến đánh phá.
In the resistance war against the Southern Song army in 1258, Tue Trung Thuong Si was 28 years old (he was born in 1230), but history books do not record his achievements and what he did during this time. In 1285 and 1288, in the two resistance wars against the Yuan-Mongol army, he directly participated. History records that on June 10, 1285, he and Hung Dao Vuong led more than 20,000 troops to fight with the Yuan general Luu The Anh and chased Thoat Hoan to the Nhu Nguyet River (Cau River). During the third resistance war in 1288, he was also assigned important diplomatic missions, even going to the enemy camp to pretend to promise to surrender, making them lose their vigilance, then sending troops to attack.
Chỉ xem một đoạn sử ngắn như bên trên chúng ta cũng thấy vị trí của Tuệ Trung Thượng Sĩ là gì. Ông đã cùng Trần Hưng Đạo, tức là em ruột của mình chiến đấu với tướng của nhà Nguyên và đuổi Thoát Hoan thua chạy đến sông Như Nguyệt. Với 20.000 quân tinh nhuệ dưới sự cầm đầu của ông và Trần Hưng Đạo, các tướng sĩ của nhà Nguyên và ngay cả Thoát Hoan cũng phải liều mình chạy trối chết, thì thử hỏi ông không phải là một người cầm quân đại tài sao? Nhưng tại sao sử sách ta chỉ thấy nhắc nhở đến Trần Hưng Đạo mà ít đề cập đến ông? Có lẽ vì ông đã đi xuất gia đầu Phật. Khi thấy quê hương đất nước lầm than chinh chiến bởi quân Nguyên Mông, ông đã cởi bỏ áo cà sa lại chùa, sát cánh cùng em mình chống giặc mãnh liệt, khiến cho Thoát Hoan phải chạy trối chết. Sau khi chiến trận thành công, ông cũng chẳng màng lợi danh gì cả nên không cần cháu mình là Nhân Tông phong vương hay phong tướng. Vả lại những chức vụ ấy chỉ là hư danh nơi chốn triều đình, chứ có ý nghĩa gì đâu so với một bậc xuất trần làm Thượng Sĩ!
Just looking at a short historical passage like above, we can see what Tue Trung Thuong Si's position was. He and Tran Hung Dao, his younger brother, fought with the Yuan general and chased Thoat Hoan to the Nhu Nguyet River. With 20,000 elite troops under his leadership and Tran Hung Dao, the Yuan generals and even Thoat Hoan had to risk their lives to run away, so is he not a great military leader? But why do our history books only mention Tran Hung Dao and rarely mention him? Perhaps because he became a Buddhist monk. When he saw his homeland in the midst of war with the Yuan-Mongol army, he took off his monk's robe and returned to the temple, fighting fiercely with his brother against the enemy, forcing Thoat Hoan to flee for his life. After the successful battle, he did not care about any fame or fortune, so he did not need his nephew Nhan Tong to confer a title of king or general. Moreover, those positions were just empty titles in the court, and had no meaning compared to a monk who had become a Thuong Si!
Đến lần thứ 3 năm 1288 thì ông lại được giao cho việc ngoại giao, có nhiệm vụ đến đồn trại của đối phương vờ ước hẹn trá hàng, làm cho họ mất cảnh giác và sau đó cho quân đến đánh phá. Như vậy lúc này ông mặc đồ tu hay đồ trận? Trong luật Phật chế thì “người xuất gia không được ở lại nơi quân trận quá 3 đêm”, có lẽ nơi đó là chốn đấu tranh kiên cố, thưởng phạt kẻ có công cũng như người có tội, cho nên Phật không cho phép người xuất gia hiện diện. Nhưng ở đây Tuệ Trung Thượng Sĩ cùng với Nhân Tông hay Hưng Đạo Vương vốn là người nhà, mà đất nước đang lâm nguy thì người trong một nhà không thể làm ngơ ngồi đó mà tu hành được, nên ông phải phương tiện giúp đời dưới hình thức là một vị tướng, nhưng với tâm thức và hành động của một nhà tu, lời nói dịu dàng, văn chương bút đàm linh hoạt, đượm vẻ từ bi, trí tuệ nên quân giặc tin chăng? Và cuối cùng ở những buổi bút đàm ấy làm cho quân giặc mất cảnh giác và họ đã bị thua qua tài trí, mưu lược của một Tuệ Trung Thượng Sĩ. Nếu ông không phải là một người tài thì chắc rằng ông không được tin dùng, để làm một gạch nối giữa đôi bên như vậy.
On the third occasion in 1288, he was again assigned to diplomacy, with the task of going to the enemy's camp to pretend to make a promise to surrender, making them lose their vigilance and then sending troops to attack. So at this time, was he wearing monk's clothes or military uniform? In the Buddhist law, "monks are not allowed to stay in the military battlefield for more than 3 nights." Perhaps that place is a place of solid fighting, rewarding and punishing those who have merit as well as those who have sinned, so the Buddha does not allow monks to be present. But here, Tuệ Trung Thuong Si, along with Nhan Tong or Hung Dao Vuong, were originally family members, and the country was in danger, so people in the same family could not just sit there and practice, so he had to help the world in the form of a general, but with the mind and actions of a monk, gentle words, flexible writing, imbued with compassion and wisdom, so did the enemy believe? And finally, in those writing sessions, the enemy lost their vigilance and they were defeated by the intelligence and strategy of a Tuệ Trung Thuong Si. If he were not a talented person, he would certainly not have been trusted to act as a bridge between the two sides like that.
Sau khi kháng chiến tuy ông cũng được phong cho chức Tiết Độ Sứ cai quản phủ Thái Bình, nhưng không lâu sau ông lại lui về ấp Tịnh Bang (nay là huyện Vĩnh Bảo), ngoại thành Hải Phòng) lập Dưỡng Chân Trang để nuôi dưỡng nghiệp Thiền. Như vậy cả hai bên chính quyền của Vua Trần Nhân Tông vẫn không quên công cán của ông, nhưng với ông việc được phong chức tước Tiết Độ Sứ ấy nó không cần thiết, nên ông về lại Tịnh Bang để an dưỡng nơi Dưỡng Chân Trang để tìm lại chính mình. Đây là hành động thật cao cả của những bậc Chân Tăng xưa nay trong thiên hạ vậy. Không nhất thiết chỉ là Việt Nam mới có những bậc Cao Tăng, thạc đức, hữu học như vậy, mà đa phần những vị vua hay tướng của Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, Mông Cổ, Thái Lan, Miến Điện v.v…đều làm như vậy cả. Vì vinh hoa phú quý đối với họ giờ đây không có ý nghĩa gì. Suốt một cuộc đời làm vua, làm tướng hay công hầu nơi chốn triều ca, cuối cùng rồi cũng chỉ là một bả hư danh rỗng tuếch và tất cả đều bị luật vô thường chi phối. Họ đã hiểu được điều này, nên mới xử sự như vậy.
After the resistance war, although he was also appointed as the Governor to govern Thai Binh prefecture, not long after, he retreated to Tinh Bang hamlet (now Vinh Bao district), on the outskirts of Hai Phong) to establish Duong Chan Trang to cultivate Zen practice. Thus, both sides of King Tran Nhan Tong's government did not forget his contributions, but for him, being appointed as the Governor was not necessary, so he returned to Tinh Bang to rest in Duong Chan Trang to find himself again. This is a truly noble act of the True Monks of the past and present in the world. It is not necessary that only Vietnam has such eminent, virtuous, learned monks, but most of the kings and generals of China, Korea, Japan, Vietnam, Mongolia, Thailand, Burma, etc. all did the same. Because glory and wealth have no meaning to them now. A lifetime of being a king, a general or a mandarin in the royal court, in the end, is just an empty reputation and all are governed by the law of impermanence. They understood this, so they acted like that.
Năm 1291, Tuệ Trung Thượng Sĩ viên tịch, thọ 69 tuổi và suốt một cuộc đời dài hơn 60 năm ấy, lịch sử cho ta thấy ngay khi còn trẻ ông cũng không thích công danh, có lẽ do ông sinh ra trong một gia đình có quá nhiều nghịch cảnh về vấn đề hôn nhân cận huyết giữa bên nội lẫn bên ngoại nên ông chẳng tha thiết gì với đời sống gia đình, ông đã tìm đến Thiền sư Tiêu Dao để học đạo rất sớm. Ông vừa học Thiền, thực hành giải thoát tâm trong đời sống gia đình theo hình thức cư sĩ, vừa đảm trách các công việc xã hội mà triều đình giao phó. Ông đã trực tiếp tham dự vào những thời khắc quyết định của lịch sử về vận mệnh đất nước, do đó ông đã nhận định rất rõ về chân tính cuộc đời và chọn lối sống hòa ái, tự tại. Tư tưởng chính của Tuệ Trung Thượng Sĩ thể hiện qua lời đáp: “Hãy quay về tự thân mà tìm lấy tông chỉ ấy, không thể đạt được từ ai khác” cho câu hỏi của Vua Trần Nhân Tông: “Tông chỉ của Thiền là gì?”
In 1291, Tue Trung Thuong Si passed away at the age of 69 and throughout his life of more than 60 years, history shows us that even when he was young, he did not like fame, perhaps because he was born into a family with too many adversities regarding incestuous marriages between his paternal and maternal sides, so he was not interested in family life, he sought out Zen master Tieu Dao to learn the Dharma very early. He studied Zen, practiced liberation of the mind in family life as a layman, and took on the social work assigned by the royal court. He directly participated in decisive moments in history regarding the fate of the country, so he clearly recognized the true nature of life and chose a peaceful and free lifestyle. The main thought of Tuệ Trung Thuong Si is expressed through the answer: "Turn back to yourself to find that principle, it cannot be obtained from anyone else" to King Tran Nhan Tong's question: "What is the principle of Zen?"
Ông được Vua Trần Thánh Tông nể vì, do kiến thức uyên bác về nội ngoại điển, được Vua tôn làm Đạo huynh. Ông sáng tác nhiều thi, kệ, một số được kết tập trong “Thượng Sĩ Ngữ Lục” rất nổi tiếng.
He was respected by King Tran Thanh Tong, due to his profound knowledge of both internal and external Buddhist scriptures, and was honored by the King as a Dao brother. He composed many poems and verses, some of which were collected in the very famous "Thuong Si Ngu Luc".
Hiện thơ ông còn tất cả 49 bài, được xếp trong bộ Thượng Sĩ Ngữ Lục và ở đây xin trích dẫn 4 bài để nắm bắt được phần nào tư tưởng của ông.
Currently, there are 49 poems of his, which are included in the collection Thuong Si Ngu Luc. Here, I would like to quote 4 poems to grasp some of his thoughts.
Suy táp hình hài khởi túc vân,
Phi quan lão hạc tị kê quần,
Thiên thanh vạn thúy mê hươngquốc,
Hải giác thiên đầu thị dưỡng chân.
The body is weak and weak,
It is not the crane that avoids the flock of chickens,
The thousand green mountains and thousands of green mountains and rivers obscure the mountains and rivers,
The corner of the sea and the middle of the sky is where the true nature is nourished.
Nuôi dưỡng chân tính
After reading these 4 lines of poetry, we see that Thuong Si's meaning is very ethereal, no matter where the sea or horizon is, the green mountains and blue waters are inherently a paradise. Fairyland, do not care about this place or that place. Therefore, do not distinguish between this and that, why waste your body. Contemplate that scene and this body are one, because Buddha nature does not exist outside of the true mind, that true mind cannot be sought outside, but each person must return to himself to be successful.
Thân xác đau gầy há đáng than,
Phải đâu hạc cả lánh gà đàn,
Nghìn xanh muôn thúy mờ non nước,
Góc biển lưng trời, nơi dưỡng chân.
Sau khi đọc 4 câu thơ này ta thấy ý tứ của Thượng Sĩ rất thoát tục, dầu cho có ở góc biển hay chân trời nào đi chăng nữa thì non xanh nước biếc, vốn là chốn bồng lai tiên cảnh, đâu phải nệ hà gì là chỗ nọ, chỗ kia. Cho nên đừng phân biệt bỉ thử nữa làm gì cho hao gầy thân xác. Hãy quán cảnh ấy và thân này là một, vì Phật tánh không ngoài chân tâm mà có, chân tâm ấy không thể tìm cầu bên ngoài được, mà mỗi người hãy tự trở về với chính mình thì mới nên.
I love the pine tree for many years,
Leave me where I live,
The pile of grain has not been used by anyone,
Wild grass and flowers are blooming before my eyes.
Giản đề tùng
The pine tree at the bottom of the ravine
Tối ái thanh tùng chủng kỷ niên,
Hưu ta địa thế sở cư thiên,
Đống lương vị dụng nhân hưu quái,
Dã thảo nhàn hoa mãn mục tiền.
I pity the green pine tree of that age
Don't lament how it grows crooked and slanted
The pillars and beams have not been used by anyone,
Wild grass and flowers are growing before my eyes.
Cây tùng ở đáy khe
This poem describes the scene of a pine tree growing between a rock crevice. It means like him, born into this life surrounded by slander and injustice, but his heart does not envy talented people or people who are inferior to him, but he believes that if the pine tree has not done anything, then it should be spared. After all, in front of the weeds and lowly flowers, the pine tree is still holding its head high towards the sky and earth, stretching its branches and leaves straight into the air!
Thương cội tùng xanh tuổi bấy niên
Đừng than thế mọc lệch cùng xiên
Cột rường chưa dụng người thôi lạ,
Cỏ dại hoa hèn trước mắt chen.
Chieu than
Tieu dau la thang was worn in a golden robe,
Ninety-seven years of being a traitor in the factory,
Tung wildly excelled and was also a panhandler
One moment of release, one moment of elevation.
Bài này tả cảnh một cây tùng bị mọc chen vào giữa một khe đá. Ý nói như ông, sinh ra trong đời này chung quanh bị vây hãm bởi thị phi nhân nghĩa, nhưng tâm ông không ganh ghét với người tài giỏi hay kẻ kém hèn hơn ông, mà ông quan niệm rằng nếu cây tùng ấy chưa làm được gì thì cũng miễn cho đi. Dẫu sao đi nữa ở trước đám cỏ dại và hoa hèn, thì tùng cũng đang ngẩng cao mặt lên với trời đất để vươn thẳng cành lá vào không trung đấy!
Chiếu thân
My head was almost broken and my forehead was worn in a golden robe,
I have been in the factory for so many years,
Once I was superior and surpassed others
Glory then came to hardship.
Tiêu đầu lạn ngạch bị kim bào,
Ngũ thất niên gian thị xưởng tào,
Túng dã siêu quần kiêm bạt tụy
Nhất hồi phóng hạ nhất hồi cao.
After defeating the Yuan-Mongol army twice in 1285 and 1288 with his younger brother Tran Quoc Tuan, he was appointed by his uncle King Tran Thanh Tong and his nephew Tran Nhan Tong as the Governor of Thai Binh, but he realized that the crown and belt of an official did not suit him, so he often examined himself through the image of a mandarin in front of the king and the court, all civil and military mandarins had to shout "long live" and bang their foreheads and bow their heads. Yes yes yes yes. After so many years in the public office, I saw countless cases of jealousy and envy. If someone was more talented than another and excelled in professional aspects of literature or martial arts, that matter was still slandered and criticized as usual. It is indeed glorious, but also full of hardships in the officialdom.
Soi mình
The late Venerable Thich Tam Chau also translated many Chinese poems by Tue Trung Thuong Si when he was still alive and the following is the poem "Xuat tran", which also expresses Tue Trung Thuong Si's idea of being free from the world.
Sém đầu giập trán vận kim bào,
Ta bấy năm nay chốn xưởng tào,
Hễ đã hơn người và vượt bậc
Vẻ vang rồi lại đến lao đao.
Sau khi chiến thắng quân Nguyên Mông hai lần vào năm 1285 và 1288 với em ruột mình là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, ông đã được chú (cậu) mình là Vua Trần Thánh Tông cùng cháu mình là Trần Nhân Tông phong làm Tiết Độ Sứ cai quản phủ Thái Bình, nhưng ông nhận thấy áo mão cân đai của quan lại không phù hợp với mình, nên ông hay tự xét mình qua hình ảnh của một ông quan trước vua chúa và triều thần bá quan văn võ phải tung hô vạn tuế và giập trán, cúi đầu dạ dạ vâng vâng. Bao nhiêu năm như thế ở chốn công đường, thấy xảy ra nhan nhản không biết bao nhiêu là chuyện ganh tị, đố kỵ lẫn nhau. Nếu ai đó giỏi giang hơn người khác và trội lên về những phương diện chuyên môn của văn hay võ thì việc ấy vẫn bị gièm pha dị nghị như thường. Đúng là vẻ vang đó, nhưng lao đao lận đận ở chốn quan trường cũng đó.
Once a material desire to change the world,
I am lost in the world of the world and want to travel outside.
I am far from the Buddha.
One moment of running, one moment of resting.
Cố Hòa Thượng Thượng Thủ Thích Tâm Châu cũng đã dịch nhiều bài thơ chữ Hán của Tuệ Trung Thượng Sĩ khi Ngài còn sanh tiền và sau đây là bài “Xuất trần”, cũng nói lên được cái ý thoát tục của Tuệ Trung Thượng Sĩ vậy.
Leaving the world of the world
Xuất trần
The body of material desires is entangled,
Leaving the world of the world, wandering outside.
On the other side, the Buddha is at ease,
A time of cleansing, a time of happiness.
Tằng vi vật dục dịch lao khu,
Bài lạc trần hiêu thế ngoại du.
Tán thủ ná biên siêu Phật Tổ.
Nhất hồi đẩu tẩu, nhất hồi hưu.
The way of being a human is so difficult! Because people are always swept away by material desires such as: wealth, beauty, fame, food, sleep, making the body tired. If you want to escape from this worldly place of suffering and trouble to wander outside of right and wrong, you must let go of the hustle and bustle of the world. Let go of everything to transcend the realm of Buddhas, after having washed away all the suffering, then that is eternal peace. Only with a rich, peaceful and free mind can we hope to influence those around us. If not, everything is just a matter of the world.
Ra khỏi cảnh trần
He was the son of a mandarin, a general, a royal family, a scholar, and a person who lived freely in Zen, so when he was alive, there were many very Zen and very special anecdotes, such as the following:
Tấm thân vật dục cuốn lôi,
Xa rời trần cảnh, rong chơi cõi ngoài.
Bên kia Phật Tổ thảnh thơi,
Một thời gột rửa, một thời an vui.
One day, Queen Mother Thien Cam held a banquet in the palace. On the table, there were both meat and vegetarian dishes. Tue Trung Thuong Si picked up the food without distinguishing between vegetarian and meat dishes.
Cái đạo làm người nó quá gian nan đi chứ! Vì lẽ con người luôn bị vật dục như: Tài, sắc, danh, thực, thùy cuốn trôi, làm cho thân thể phải mệt nhọc. Muốn ra khỏi chốn trần lao não phiền ấy để rong chơi bên ngoài thị phi, nhơn nghĩa thì phải buông bỏ cảnh huyên náo của trần tình. Buông bỏ hết để vượt qua cảnh giới của chư Phật, sau khi đã gột rửa được hết tất cả những não phiền, thì đó mới là sự an lạc miên viễn. Chỉ có nội tâm phong phú, an lạc tự tại thì ta mới mong cảm hóa được người bên cạnh, nếu không phải là vậy, tất cả đều chỉ là sự thể của thế gian mà thôi.
The Queen Mother asked: "You practice Zen but eat meat and fish, how can you become a Buddha?"
Ông là con nhà quan, nhà tướng, hoàng tộc, sĩ phu và là người tiêu dao tự tại nơi cửa thiền nên khi ông còn sống cũng có nhiều giai thoại rất thiền, rất đặc biệt như sau:
He smiled and replied: "Buddha is Buddha, you are you. You do not need to be Buddha, Buddha does not need to be you. Haven't you heard the ancient sages say: Manjushri is Manjushri, liberation is liberation?"
Một hôm Hoàng Thái Hậu Thiên Cảm mở tiệc trong cung điện. Trên bàn có cả thức ăn mặn và thức ăn chay. Tuệ Trung Thượng Sĩ gắp thức ăn không phân biệt chay hay mặn.
These are truly the words of Zen masters who have attained enlightenment. Only those who have realized emptiness can answer like that. That emptiness is beyond all existence and non-existence; that is, when the Zen master did that action, he did not dwell on existence nor on non-existence, but he dwelled on non-existence; that is, doing is like not doing, not doing but doing. That is the nature of Zen, the freedom and ease of Zen masters that has always been like that. At this party, there was also King Tran Nhan Tong. The King was very curious about this and did not understand the meaning of Tue Trung Thuong Si's answer, but it was not convenient to ask. King Tran Nhan Tong called Tue Trung Thuong Si his uncle. When he came to the court at this party as a Zen master, because he had studied Zen with Zen master Tieu Dao. Therefore, Tran Nhan Tong paid attention to his words and actions through the questioning of Queen Mother Thien Cam, his mother, towards his uncle. The sentence "Van Thu is Van Thu, liberation is liberation". This means that this liberation has nothing to do with Manjushri. Eating is eating, practicing is practicing, Zen is Zen... each is independent of each other, not mixed together. This is also the thought of King Tran Nhan Tong later when he became the King of the Truc Lam Yen Tu Sect:
Hoàng Thái Hậu hỏi: “Anh tu Thiền mà ăn thịt cá thì làm sao thành Phật được?”
In life, enjoy the Dharma and follow your fate
When you are hungry, just eat, when you are tired, just sleep
There is a treasure in the house, stop searching
Without a mind to the situation, why ask about Zen?
Ông cười đáp: “Phật là Phật, anh là anh. Anh chẳng cần làm Phật, Phật chẳng cần làm anh. Em không nghe các bậc cổ đức nói: Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát đó sao?”
This Zen is Zen at ease. For example, when you are hungry, just eat, when you are tired, just rest. When you are hungry, you should not try to resist hunger and when you are tired, you do not need to try any harder. The mind already has Buddha nature, when facing a situation, that mind is already Buddha mind, no need to search far away.
Đúng là câu nói của những Thiền sư đã đạt đạo. Chỉ những người liễu đạt được tánh không thì mới trả lời được như vậy. Cái không ấy vượt lên trên tất cả cái có và cái không; nghĩa là Thiền sư khi làm động tác ấy không trụ vào có mà cũng không trụ vào không, mà ông trụ vào chỗ vô trụ; nghĩa là làm cũng như không làm, không làm nhưng mà làm. Đó là bản chất của Thiền, là sự tiêu dao tự tại của những Thiền sư lâu nay vốn vẫn là như vậy. Trong bữa tiệc này có cả Vua Trần Nhân Tông, Vua rất thắc mắc về việc này và chưa hiểu rõ ý nghĩa câu trả lời của Tuệ Trung Thượng Sĩ, nhưng chưa tiện hỏi. Vua Trần Nhân Tông gọi Tuệ Trung Thượng Sĩ là cậu. Khi ông đến với triều đình trong bữa tiệc này với tư cách là một Thiền sư, vì ông đã học Thiền với Thiền sư Tiêu Dao rồi. Do vậy mà Trần Nhân Tông lưu ý đến câu nói cũng như hành động của ông qua sự tra hỏi của Hoàng Thái Hậu Thiên Cảm, mẹ của ông đối với cậu ruột của mình. Câu “Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát”. Có nghĩa là sự giải thoát này nó không liên quan gì tới Văn Thù hết. Ăn là ăn, tu là tu, Thiền là Thiền… mỗi cái đều độc lập với nhau, không xen lẫn vào nhau. Đây cũng là tư tưởng của Vua Trần Nhân Tông sau này khi đã trở thành Điều Ngự Giác Hoàng của Phái Trúc Lâm Yên Tử:
Many historians still mistakenly think that he is Tran Quoc Tang, not Tran Quoc Tuan, but Tran Quoc Tung, the real brother of Tran Quoc Tuan, that is Hung Dao Vuong. Perhaps for a long time, history books have rarely mentioned his life in detail, so that is why. Recently, Buddhist historians such as Zen Master Thich Nhat Hanh, Scholar Thich Tue Sy, Professor Tri Sieu Le Manh That and especially Zen Master Thich Thanh Tu have annotated the poems and written the history of Tue Trung Thuong Si clearly, so many people are interested in it. As Buddhists, as Vietnamese people, we cannot forget his great merit in defeating the Yuan-Mongol army with Tran Hung Dao, so that today we have the opportunity to exist on this S-shaped strip of land.
Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Đói cứ ăn đi mệt ngủ liền
Có báu trong nhà thôi tìm kiếm
Vô tâm đối cảnh hỏi chi Thiền.
In addition, those who accept the Truc Lam Yen Tu sect as their sect to practice cannot help but know Tue Trung Thuong Si, who was the teacher of King Tran Nhan Tong, the founder of this Zen sect. The lineage of the Truc Lam Tam To is very clear. They are Dieu Ngu Giac Hoang, Phap Loa and Huyen Quang, but if it were not for the figure of Tue Trung Thuong Si in the royal court, how could anyone have influenced King Tran Nhan Tong?Therefore, we can also conclude that: Tue Trung Thuong Si was the one who paved the way for King Tran Nhan Tong to enter the Dharma door and later became the First Patriarch of the Truc Lam Yen Tu sect.
Thiền này là Thiền tự tại. Ví như đói thì cứ ăn, mệt thì cứ nghỉ. Khi đói không nên tìm cách cưỡng lại cái đói và khi mệt thì không cần phải cố gắng gì hơn nữa cả. Trong tâm hiện đã có Phật tánh sẵn rồi, khi đối cảnh thì tâm ấy đã là tâm Phật rồi, không cần phải tìm kiếm đâu xa xôi gì nữa cả.
Có nhiều sử gia vẫn lầm tưởng ông là Trần Quốc Tảng, cũng không phải là Trần Quốc Tuấn, mà ông là Trần Quốc Tung, anh ruột của Trần Quốc Tuấn, tức là Hưng Đạo Vương. Có lẽ lâu nay sách sử ít đề cập về cuộc đời của ông một cách chi tiết, nên mới như vậy. Trong thời gian gần đây các Sử gia Phật giáo như Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Học giả Thích Tuệ Sỹ, Giáo sư Trí Siêu Lê Mạnh Thát và nhất là Thiền sư Thích Thanh Từ đã chú giải những bài thơ và viết nên lịch sử của Tuệ Trung Thượng Sĩ một cách rõ ràng, nên nhiều người mới quan tâm đến. Là Phật tử, là người Việt Nam, chúng ta không thể quên công ơn to lớn của ông đã cùng Trần Hưng Đạo đánh thắng quân Nguyên Mông, nên ngày nay chúng ta mới có cơ hội tồn tại trên dải đất hình cong như chữ S này.
Ngoài ra những ai nhận phái Trúc Lâm Yên Tử làm tông phái của mình để tu hành thì không thể không biết đến Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ, vốn là Thầy của Vua Trần Nhân Tông, người sáng lập ra Thiền phái này. Sự truyền thừa của Trúc Lâm Tam Tổ rất rõ ràng. Đó là Điều Ngự Giác Hoàng, Pháp Loa và Huyền Quang, nhưng nếu không nhờ hình bóng của Tuệ Trung Thượng Sĩ ở chốn triều đình, thì làm sao ai có thể ảnh hưởng đến Vua Trần Nhân Tông được? Do vậy chúng ta cũng có thể kết luận rằng: Tuệ Trung Thượng Sĩ chính là người mở đường dẫn lối cho Vua Trần Nhân Tông đi vào cửa Đạo và sau này trở thành Sơ Tổ của Phái Trúc Lâm Yên Tử vậy.