Con người sinh ra trần trụi và chết đi cũng không mang theo được gì. Tất cả những giá trị chân thật mà chúng ta có thể có được luôn nằm ngay trong cách mà chúng ta sử dụng thời gian của đời mình.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn
Không thể dùng vũ lực để duy trì hòa bình, chỉ có thể đạt đến hòa bình bằng vào sự hiểu biết. (Peace cannot be kept by force; it can only be achieved by understanding.)Albert Einstein
Ngu dốt không đáng xấu hổ bằng kẻ không chịu học. (Being ignorant is not so much a shame, as being unwilling to learn.)Benjamin Franklin
Kẻ hung dữ hại người cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt. Nước bọt ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống chính mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Nhiệm vụ của con người chúng ta là phải tự giải thoát chính mình bằng cách mở rộng tình thương đến với muôn loài cũng như toàn bộ thiên nhiên tươi đẹp. (Our task must be to free ourselves by widening our circle of compassion to embrace all living creatures and the whole of nature and its beauty.)Albert Einstein
"Nó mắng tôi, đánh tôi, Nó thắng tôi, cướp tôi." Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Chỉ có một hạnh phúc duy nhất trong cuộc đời này là yêu thương và được yêu thương. (There is only one happiness in this life, to love and be loved.)George Sand
Cơ học lượng tử cho biết rằng không một đối tượng quan sát nào không chịu ảnh hưởng bởi người quan sát. Từ góc độ khoa học, điều này hàm chứa một tri kiến lớn lao và có tác động mạnh mẽ. Nó có nghĩa là mỗi người luôn nhận thức một chân lý khác biệt, bởi mỗi người tự tạo ra những gì họ nhận thức. (Quantum physics tells us that nothing that is observed is unaffected by the observer. That statement, from science, holds an enormous and powerful insight. It means that everyone sees a different truth, because everyone is creating what they see.)Neale Donald Walsch

Trang chủ »» Danh mục »» TỦ SÁCH RỘNG MỞ TÂM HỒN »» Chánh niệm (Giảng bằng ngôn ngữ thông thường) »» Xem đối chiếu Anh Việt: Đôi nét về tác giả »»

Chánh niệm (Giảng bằng ngôn ngữ thông thường)
»» Xem đối chiếu Anh Việt: Đôi nét về tác giả

Donate

(Lượt xem: 6.730)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục  Vietnamese || English || Tải về bảng song ngữ


       

Điều chỉnh font chữ:

Đôi nét về tác giả

About the Author

Hoà thượng Thiền sư Bhante Henepol Gunaratana đã thọ giới năm 12 tuổi thành một tu sĩ Phật giáo tại ngôi chùa nhỏ ở Làng Malandeniya, huyện thị Kurunegala, Tích Lan. Người thọ giới cho thầy là Đại trưởng lão Kiribatkumbure Sonuttara. Năm 1947, lúc 20 tuổi, thầy nhận đại thọ giới ở Kandy. Thầy được giáo dục ở Trường Cao đẳng Vidyalankara (Vidyalankara Junior College), Trường Đại Học Vidyalankara (Vidyalankara College) ở Kelaniya, và Đại Học Truyền Bá Phật Giáo (Buddhist Missionary College') ở thủ đô Colombo, Tích Lan. Sau đó, thầy qua Ân Độ năm năm trong sứ mạng phụng sự tại Hội Đại Bồ-Đề (Mahabodhi Society) phục vụ cho những người bị phân biệt là giai cấp Hạ Tiện (Harijana) ở vùng Phật tích Sanchi, ở Delhi và ở Bombay. Sau đó, thầy qua Malaysia mười năm trong một sứ mạng truyền bá Phật giáo, là cố vấn tôn giáo cho Hội Phật Pháp Abhivurdhiwardhana (Sasana Abhivurdhiwardhana Society), Hội Truyền Bá Phật Giáo (Buddhist Missionary Society) và Liên Hiệp Thanh Niên Phật Giáo Malaysia (Buddhist Youth Federation of Malaysia). Thầy đã giảng dạy tại các trường Kishon Dial School và trường Temple Road Girls' School và là Hiệu trưởng Học Viện Phật Giáo ở Kuala Lumpur.
Venerable Henepola Gunaratana was ordained at the age of 12 as a Buddhist monk at a small temple in Malandeniya Village in Kurunegala District in Sri Lanka. His preceptor was Venerable Kiribatkumbure Sonuttara Mahathera. At the age of 20 he was given higher ordination in Kandy in 1947. He received his education from Vidyalankara College and Buddhist Missionary College in Colombo. Subsequently he traveled to India for five years of missionary work for the Mahabodhi Society, serving the Harijana (Untouchable) people in Sanchi, Delhi, and Bombay. Later he spent ten years as a missionary in Malaysia, serving as religious advisor to the Sasana Abhivurdhiwardhana Society, Buddhist Missionary Society and the Buddhist Youth Federation of Malaysia. He has been a teacher in Kishon Dial School and Temple Road Girls' School and Principal of the Buddhist Institute of Kuala Lumppur.
Từ lời thỉnh mời của Hội Phật Pháp Sasana Sevaka (Sasana Sevaka Society), thiền sư Gunaratana đã đến Hoa Kỳ vào năm 1968 đảm nhiệm chức vụ Tổng Thư Ký Danh Dự của Hội Tu Viện Phật Giáo Washington, D.C. (Buddist Vihara Society) tại thủ đô của Hoa Kỳ. Vào năm 1980, thầy được bổ nhiệm làm Chủ tịch của Hội này. Trong thời gian đương nhiệm tại Hội Tu Viện, thầy đã giảng dạy nhiều khóa Phật học, dẫn dắt những khóa thiền, và đi thuyết giảng khắp nước Mỹ, Canada, Châu Âu, Úc, New Zealand, Châu Phi, và Chấu Á.
At the invitation of the Sasana Sevaka Society, Venerable Gunaratana came to the United States in 1968 to serve as Hon. General Secretary of the Buddhist Vihara Society of Washington, D.C. In 1980 he was appointed President of the Society. During his years at the Vihara, he has taught courses in Buddhism, conducted meditation retreats, and lectured widely throughout the United States, Canada, Europe, Australia and New Zealand.
Trong lúc đó, từ năm 1973-1988, thầy làm trưởng khoa Phật học ở Đại học American University, dạy các sinh viên học về giáo lý Phật giáo và Thiền Phật giáo.
Thầy cũng đã theo học lấy các học vị Cử nhân, Thạc sĩ và Tiến sĩ Triết học ở Đại học American University. Thầy cũng giảng dạy Phật học tại trường Đại học American University, Đại học Georgetown University và Đại học University of Maryland. Sách vở và những bài viết của thầy đã được xuất bản ở Malaysia, Ân Độ, Tích Lan và Mỹ. Các sách hướng dẫn của thầy đã được dịch và phát hành trên khắp thế giới hơn 20 năm qua. Một phần bản dịch tiếng Thái đã được trích dạy trong giáo trình chính thức của các trường Trung Học ở Thái Lan.
He has also pursued his scholarly interests by earning a B.A., and M.A., and a Ph.D. in Philosophy from the American University. He taught courses in Buddhism at the American University, Georgetown University and University of Maryland. His books and articles have been published in Malaysia, India, Sri Lanka and the United States.
Since 1973 he has been buddhist chaplin at The American University counseling students interested in Buddhism and Buddhist meditation. He is now president of the Bhavana Society in West Virginia in the Shenandoah Valley, about 100 miles from Washington, D.C. teaching meditation and conducting meditation retreats.
Từ năm 1982, Hòa thượng Gunaratana là Chủ tịch Hội Thiền học West Virginia (Bhavana Society of West Virginia), do thầy và ông Matthew Flickstein sáng lập. Đó là một tu viện và trung tâm thiền ở West Virginia, gần thung lũng Shenandoah Valley, cách thủ đô Washington, D.C. khoảng 100 dặm. Ở đó thầy thọ giới và giảng dạy cho các Tăng Ni, và tổ chức những khóa thiền cho công chúng. Thầy cũng thường xuyên đi nhiều nơi trên thế giới để thuyết giảng và dạy các khóa thiền.

Vào năm 2000, Ngài Hòa thượng Bhante Gunaratana nhận được giải thưởng vì sự cống hiến trọn đời, do trường cũ của ngài là Đại Học Vidyalankara College ở Tích Lan ban tặng.

Hòa thượng Bhante Gunaratana cũng là tác giả của các quyển sách về thiền rất nổi tiếng như là:

Chánh Niệm-giảng bằng ngôn ngữ thông thường
Chánh Định-giảng bằng ngôn ngữ thông thường
Bốn Nền Tảng Chánh Niệm-giảng bằng ngôn ngữ thông thường
Tám Bước Chánh Niệm đi đến Hạnh Phúc.
Con Đường của Định và Tuệ
Hồi ký 'Hành Trình đi đến Chánh Niệm ’
Phân Tích Các Tầng Thiền Định (Jhana) Theo Phật Giáo Nguyên Thủy
Nghi Lễ Thiền Môn

    « Xem chương trước «      « Sách này có 23 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Kinh Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa