Sự ngu ngốc có nghĩa là luôn lặp lại những việc làm như cũ nhưng lại chờ đợi những kết quả khác hơn. (Insanity: doing the same thing over and over again and expecting different results.)Albert Einstein

Nụ cười biểu lộ niềm vui, và niềm vui là dấu hiệu tồn tại tích cực của cuộc sống.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Nếu tiền bạc không được dùng để phục vụ cho bạn, nó sẽ trở thành ông chủ. Những kẻ tham lam không sở hữu tài sản, vì có thể nói là tài sản sở hữu họ. (If money be not thy servant, it will be thy master. The covetous man cannot so properly be said to possess wealth, as that may be said to possess him. )Francis Bacon
Có những người không nói ra phù hợp với những gì họ nghĩ và không làm theo như những gì họ nói. Vì thế, họ khiến cho người khác phải nói những lời không nên nói và phải làm những điều không nên làm với họ. (There are people who don't say according to what they thought and don't do according to what they say. Beccause of that, they make others have to say what should not be said and do what should not be done to them.)Rộng Mở Tâm Hồn
Khi ý thức được rằng giá trị của cuộc sống nằm ở chỗ là chúng ta đang sống, ta sẽ thấy tất cả những điều khác đều trở nên nhỏ nhặt, vụn vặt không đáng kể.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Khi gặp phải thảm họa trong đời sống, ta có thể phản ứng theo hai cách. Hoặc là thất vọng và rơi vào thói xấu tự hủy hoại mình, hoặc vận dụng thách thức đó để tìm ra sức mạnh nội tại của mình. Nhờ vào những lời Phật dạy, tôi đã có thể chọn theo cách thứ hai. (When we meet real tragedy in life, we can react in two ways - either by losing hope and falling into self-destructive habits, or by using the challenge to find our inner strength. Thanks to the teachings of Buddha, I have been able to take this second way.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Nếu bạn không thích một sự việc, hãy thay đổi nó; nếu không thể thay đổi sự việc, hãy thay đổi cách nghĩ của bạn về nó. (If you don’t like something change it; if you can’t change it, change the way you think about it. )Mary Engelbreit
Hoàn cảnh không quyết định nơi bạn đi đến mà chỉ xác định nơi bạn khởi đầu. (Your present circumstances don't determine where you can go; they merely determine where you start.)Nido Qubein
Cách tốt nhất để tìm thấy chính mình là quên mình để phụng sự người khác. (The best way to find yourself is to lose yourself in the service of others. )Mahatma Gandhi
Có hai cách để lan truyền ánh sáng. Bạn có thể tự mình là ngọn nến tỏa sáng, hoặc là tấm gương phản chiếu ánh sáng đó. (There are two ways of spreading light: to be the candle or the mirror that reflects it.)Edith Wharton
Chúng ta thay đổi cuộc đời này từ việc thay đổi trái tim mình. (You change your life by changing your heart.)Max Lucado

Trang chủ »» Danh mục »» »» Tây Vực Ký »» Quyển 1 »»

Tây Vực Ký
»» Quyển 1

(Lượt xem: 4.770)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục  English || Đối chiếu song ngữ


       

Tây Vực Ký - Quyển 1

Font chữ:

Quyển 1

34 nước

● Nước A-kỳ-ni ● Nước Khuất-chi ● Nước Bạt-lộc-ca ● Nước Nô-xích-kiến ● Nước Giả-thời ● Nước Phế-hãn ● Nước Tốt-đổ-lợi-sắt-na ● Nước Táp-mạt-kiến ● Nước Nhị-mạt-hạ ● Nước Kiếp-bố-đát-na ● Nước Khuất-sương-nhĩ-ca ● Nước Khái-hãn ● Nước Bộ-khái ● Nước Phạt-địa ● Nước Hóa-lợi-tập-di-ca ● Nước Yết-sương-na ● Nước Đát-mật ● Nước Xích-ngạc-diễn-na ● Nước Hốt-lộ-ma ● Nước Du-mạn ● Nước Cúc-hòa-diễn-na ● Nước Hoạch-sa ● Nước Kha-đốt-la ● Nước Câu-mê-đà ● Nước Phược-già-lãng ● Nước Hột-lộ-tất-dân-kiện ● Nước Hốt-lẫm ● Nước Phược-khái ● Nước Duệ-mạt-đà ● Nước Hồ-thật-kiện ● Nước Đát-lạt-kiện ● Nước Yết-chức ● Nước Phạm-diễn-na ● Nước Ca-tất-thí


Ra khỏi lãnh thổ nước Cao Xương cũ,[1] quốc gia đầu tiên gần nhất tên là A-kỳ-ni.[2]

1. Nước A-kỳ-ni

Nước A-kỳ-ni,[3] chiều đông tây hơn 600 dặm (194 km), chiều nam bắc hơn 400 dặm (130 km), chu vi kinh thành khoảng 6-7 dặm (2-2.3 km). Bốn phía có núi non, đường đi hiểm trở, dễ phòng thủ. Sông suối giao nhau chằng chịt, nước được dẫn vào làm ruộng. Đất đai thích hợp với các loại lúa môn,[4] lúa mùa, lúa mạch[5] và các loại cây ăn quả như táo hồng,[6] nho, lê, táo tây... Khí hậu điều hòa dễ chịu, phong tục chân chất, thẳng thắn. Chữ viết dùng chữ Ấn Độ, có thay đổi thêm bớt.[7] Y phục dùng vải dệt từ bông vải.[8] Đầu cắt tóc, không đội khăn. Tiền tệ thì dùng tiền vàng, tiền bạc và tiền đồng nhỏ.

Đức vua là người bản xứ, dũng mãnh nhưng ít mưu lược, thích khoe khoang bản thân. Đất nước không có kỷ cương, luật pháp không nghiêm túc. Trong vùng có hơn 10 ngôi chùa, tăng chúng hơn 2.000 vị, học theo giáo lý của Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvastivada) thuộc Tiểu thừa. Vì kinh giáo, luật nghi đều theo như Ấn Độ nên người học dùng thẳng kinh văn Phạn ngữ. Việc giữ giới luật rất nghiêm cẩn, thanh tịnh, chuyên cần, nhưng cho phép dùng ba loại tịnh nhục[9] nên chỉ dừng ở mức của Tiệm giáo.[10]

Từ đây đi tiếp về phía tây nam hơn 200 dặm (64.6 km) nữa, qua một ngọn núi nhỏ, vượt hai con sông lớn, phía tây gặp một vùng đồng bằng. Đi tiếp hơn 700 dặm (226 km) thì đến nước Khuất-chi.

2. Nước Khuất-chi

Nước Khuất-chi,[11] chiều dài đông tây hơn 1.000 dặm (323 km), chiều nam bắc hơn 600 dặm (194 km), chu vi kinh thành khoảng 17-18 dặm (5.5-6 km). Nơi đây thích hợp trồng các loại lúa môn, lúa mạch, lúa nước và trái cây như nho, lựu, lê, táo tây, đào, mơ tây[12]... Có những khoáng sản như vàng, đồng, sắt, chì, thiếc... Khí hậu ôn hòa, phong tục chân chất. Chữ viết cũng dùng chữ Ấn Độ có đôi chút cải biến. Người dân giỏi về kỹ thuật âm nhạc, nhạc cụ đàn, sáo... hơn hẳn các nước khác. Y phục dùng gấm, vải thô; đầu cắt tóc, bịt khăn hoặc đội mũ. Về tiền tệ thì dùng tiền vàng, tiền bạc và tiền đồng nhỏ. Đức vua là người Khuất-chi, kém mưu trí, bị cường thần chèn ép.

Ở đây có tục lệ vừa sinh con ra thì dùng miếng ván phẳng ép vào đầu để làm cho hình dáng của đầu dẹt lại, mỏng hơn, cho rằng như vậy là đẹp.[13] Trong nước có hơn 100 ngôi chùa, tăng chúng hơn 5.000 vị, học theo giáo lý của Thuyết nhất thiết hữu bộ thuộc Tiểu thừa. Kinh giáo, luật nghi đều theo Ấn Độ, nên người học kinh điển dùng nguyên tác Phạn văn. Họ vẫn theo Tiệm giáo nên dùng ba loại tịnh nhục, lấy việc chuyên tâm giữ mình thanh khiết, trong sạch để so sánh công phu.

Ở miền đông nước này có một tòa thành, phía bắc thành ấy có miếu thờ Phạm thiên,[14] trước miếu có hồ rồng rất lớn.

Những con rồng ở đây thường biến hình để giao hợp với ngựa cái, sinh ra giống ngựa con gọi là long câu, bướng bỉnh, rất khó thuần phục để cưỡi. Phải đến những con ngựa con của giống long câu này mới thuần phục được để kéo xe. Do vậy nên nước này có nhiều ngựa hay.

Theo các ghi chép còn lưu lại, thời gần đây có một vị vua [cai trị ở tòa thành này], hiệu là Kim Hoa, dùng chính sách cai trị rất sáng suốt nên cảm được rồng hiện lên kéo xe cho vua. Lúc vua Kim Hoa sắp băng hà, dùng roi đánh xe chạm vào tai rồng, nhân đó rồng liền ẩn hình vào hồ mãi đến ngày nay.

Trong thành không có giếng nước, người dân phải ra lấy nước hồ. Rồng biến hình thành người, giao hợp với những phụ nữ [đi lấy nước], sinh ra con có sức mạnh, dũng mãnh khác thường, chạy nhanh như ngựa. Cứ như thế lâu ngày, dân cư trong thành ấy dần dần đều lai tạp giống rồng. Họ ỷ vào sức mạnh, tác oai tác quái, không nghe theo lệnh vua. Vua liền liên kết với quân Đột-quyết,[15] giết hết dân trong thành, kẻ già người trẻ đều giết sạch, không sót một ai. Do vậy thành này hoang phế cho đến nay, không còn bóng người.

Về phía bắc tòa thành hoang phế này khoảng hơn 40 dặm (13 km), có hai ngôi chùa nằm ven sườn núi, cách nhau một con sông, cùng tên Chiếu-hỗ-ly (Cakuri), nhưng tùy theo vị trí mà gọi là Đông Chiếu-hỗ-ly và Tây Chiếu-hỗ-ly. Tượng Phật được trang trí chạm khắc rất đẹp, tinh xảo như vượt ngoài khả năng con người. Chư tăng dùng chay thanh tịnh, [trong sự tu tập luôn] chí thành gắng sức chuyên cần.

Trong điện thờ Phật ở chùa Đông Chiếu-hỗ-ly có một phiến ngọc thạch, rộng hơn 2 thước (66 cm), màu trắng ngả sang vàng, hình dạng như con sò biển. Trên phiến ngọc thạch này có dấu chân Phật, chiều dài khoảng 1 thước 8 tấc (60 cm), chiều rộng hơn 6 tấc (20 cm), thỉnh thoảng vào những ngày trai[16] [dấu chân Phật] lại tỏa ra ánh sáng.

Bên ngoài cửa tây của kinh thành, hai bên đường đều có tượng Phật trong tư thế đứng, cao hơn 90 thước (30 m). Cứ 5 năm lại tổ chức một lần Đại hội,[17] dựng đàn tràng ngay trước các tượng Phật này.

Mỗi năm, vào tiết thu phân[18] lại có một thời gian khoảng mười mấy ngày,[19] chư tăng cả nước đều về đây tập hội. Trên từ đức vua, dưới cho đến hàng sĩ phu, thứ dân đều gác bỏ mọi công việc thường ngày [để về đây] phụng trì trai giới, nghe kinh học pháp suốt ngày không mệt mỏi. Chư tăng các chùa trang hoàng tượng Phật nghiêm trang, dùng nhiều thứ châu báu, gấm lụa để trang sức rồi dùng xe đưa tượng Phật đi, gọi là rước tượng, số đông đến hàng ngàn cùng quy tụ về nơi đại hội.

Thường thì vào ngày rằm và ngày cuối tháng, đức vua và các vị đại thần cùng họp bàn quốc sự, thỉnh ý các vị cao tăng [về các quyết định] rồi mới công bố.

Từ hội trường này đi về hướng tây bắc, qua sông thì gặp chùa A-xa-lý-nhị.[20] Chùa cao rộng thoáng đãng, tượng Phật được tu tạo trang hoàng rất đẹp. Chư tăng ở đây nghiêm trang, hòa nhã, tinh tấn chuyên cần không giải đãi, lại là những bậc tôn trưởng giàu đức độ, tài cao học rộng. [Do vậy] có rất nhiều người tài đức từ phương xa ngưỡng mộ tìm đến xin được lưu trú.

Nhà vua cùng các bậc đại thần, sĩ phu, thứ dân và các nhà hào phú trong nước luôn cúng dường bốn nhu cầu thiết yếu[21] cho chư tăng, ngày càng thêm cung kính.

Theo các ghi chép còn lưu lại, xưa kia có một vị vua nước này rất sùng kính Tam bảo, muốn đi xa chiêm bái các thánh tích, liền truyền lệnh cho người em cùng mẹ khác cha thay mình chăm lo việc nước. Người em nhận lệnh, âm thầm tự cắt nam căn[22] để ngừa trước việc chưa phát sinh, rồi đặt trong hộp vàng niêm kín lại, dâng lên vua. Vua hỏi: “Đây là vật gì?” Người em thưa: “Ngày nào xa giá hồi cung, xin hãy mở ra xem.” Vua liền giao cho quan chấp sự giữ và mang theo trong chuyến đi.

Ngày vua trở về, quả nhiên có kẻ muốn vu họa, tâu với vua rằng: “Đại vương giao ông ấy lo việc nước, đã làm chuyện dâm loạn trong cung.” Vua nghe qua nổi giận, muốn dùng hình phạt nghiêm khắc. Người em liền thưa: “Thật không dám trốn tránh, chỉ xin đại vương mở hộp vàng ngày trước ra xem.” Vua liền mở hộp ra, nhìn thấy [nhưng không nhận ra là gì]. Vua hỏi: “Vật gì lạ vậy? Em muốn làm rõ điều gì chăng?” Người em thưa: “Khi đại vương đi xa, lệnh cho thần chăm lo mọi việc triều chính, vì sợ mối họa sàm tấu này nên đã tự cắt nam căn trước rồi, để tự minh oan. Nay đã có chứng cứ này, xin đại vương rủ lòng soi xét.” Đức vua hết sức lạ lùng kinh sợ, [hiểu rõ lời sàm tấu] nên tình anh em càng thêm sâu đậm. Từ đó liền cho phép người em tự do ra vào cung cấm.

Về sau, người em vua có lần trên đường đi gặp một người đang lùa 500 con bò đực đi thiến. Người em vua nhìn thấy, liên tưởng đến chuyện của mình càng thêm đau buồn, liền nghĩ: “Ta nay thành người bị hoạn, lẽ đâu chẳng phải do tạo nghiệp từ đời trước?” Liền bỏ tiền ra mua hết cả đàn bò ấy [để cứu chúng].

Do sức chiêu cảm của tâm từ bi hiền thiện nên nam căn dần hồi phục như xưa. Vì hồi phục như xưa nên không ra vào trong nội cung nữa. Vua thấy lạ gạn hỏi, người em liền kể lại hết sự việc như vậy. Đức vua cho là chuyện kỳ đặc, liền xây dựng ngôi chùa A-xa-lý-nhị (có nghĩa là kỳ đặc) để xưng tán chuyện này, truyền lại tiếng thơm cho đời sau.

Từ đây đi về hướng tây hơn 600 dặm (193.8 km), vượt qua một bãi cát nhỏ thì đến nước Bạt-lộc-ca.

3. Nước Bạt-lộc-ca

Nước Bạt-lộc-ca,[23] chiều đông tây hơn 600 dặm (193.8 km), chiều nam bắc hơn 300 dặm (97 km), chu vi kinh thành khoảng 5, 6 dặm (1.5-2 km). Về thời tiết, khí hậu, thổ nhưỡng, phong tục, tính tình người dân cũng như cách dùng chữ viết đều giống như nước Khuất-chi, riêng ngôn ngữ có khác biệt đôi chút. Nước này có các mặt hàng vải bông, vải sợi rất mềm mại, được các nước chung quanh ưa chuộng. Trong nước có mấy chục ngôi chùa, tăng chúng hơn 1.000 vị, tu tập theo Thuyết nhất thiết hữu bộ, thuộc Tiểu thừa.

Đi về hướng tây bắc của nước này hơn 300 dặm (97 km), vượt qua một sa mạc có nhiều đá thì đến Lăng sơn. Đây là vùng núi phía bắc của rặng Thông Lĩnh,[24] sông suối phần lớn đều chảy về hướng đông. Tuyết tụ nơi khe núi, mùa xuân, mùa hạ vẫn đông cứng, tuy cũng có lúc tan ra nhưng rồi lại đóng băng ngay. Đường đi hiểm trở, gió rét lạnh thê lương, thường xảy ra nạn rồng dữ[25] hại người đi đường. Do vậy, người đi đường không được mặc áo đỏ, không mang bình đựng nước, không kêu la lớn tiếng. Chỉ một chút sơ ý phạm vào những điều này thì ngay lập tức tai họa ập đến, cuồng phong nổi dậy, cát bay đá chạy. Người đã gặp phải thì tiêu tan tính mạng, khó lòng sống sót.

Đi theo đường núi hơn 400 dặm (130 km) thì tới hồ nước lớn Thanh trì (cũng gọi là Nhiệt hải hay Hàm hải), chu vi đến hơn 1.000 dặm (323 km), chiều đông tây dài, chiều nam bắc hẹp,[26] bốn bên dựa núi, các dòng nước chảy dồn xuống, có màu xanh đen, vị mặn đắng, sóng cả mênh mông, cuồn cuộn kinh người. Trong hồ có đủ loại rồng, cá, thường xuất hiện các loài linh quái, nên khách bộ hành qua lại thường cúng tế cầu đảo, mong được phước lành. Tuy trong hồ rất nhiều loài thủy tộc nhưng không ai dám đánh bắt.

Từ Thanh trì đi về hướng tây bắc hơn 500 dặm (162 km) nữa thì đến thành Tố Diệp nằm ven sông,[27] chu vi khoảng 6-7 dặm (2-2.3 km). Đây là nơi các nhà buôn người Hồ[28] từ nhiều nước đến, sống chung cùng nhau.

Vùng này thích hợp trồng các loại lúa mì, lúa mạch, nho... Rừng cây thưa thớt, khí hậu lạnh lẽo, gió rét lạnh, người dân dùng y phục vải thô hoặc dệt bằng lông thú.

Phía tây thành Tố Diệp có mấy mươi tòa thành riêng lẻ, mỗi thành đều có người đứng đầu độc lập, tuy không nhận lệnh của nhau nhưng đều trực thuộc đức vua Đột-quyết.[29]

Vùng đất từ thành Tố Diệp đến nước Yết-sương-na (Kasanna) gọi chung là Tốt-lợi, người dân cũng được gọi là người Tốt-lợi (Sūlika). Chữ viết, ngôn ngữ cũng gọi theo tên này. Chữ Tốt-lợi căn bản rất đơn giản, chỉ có hơn 20 chữ cái, phối hợp nhau để tạo ra từ ngữ, ngày càng nhiều hơn. Có một số bản văn ghi chép, được đọc theo chiều đứng. Văn hóa được lưu tâm truyền thụ nối tiếp cho đời sau, không để dứt mất. Y phục dùng vải dệt bằng lông thú hoặc bông vải, quần áo thường vừa bó chặt sát người. Cắt tóc để lộ đỉnh đầu hoặc cạo sạch hết rồi dùng khăn lụa quấn quanh trán. Người dân vóc dáng to lớn nhưng tính khí nhút nhát, kiêu căng dối trá, thường mưu mô gian xảo, nói chung là tham lam, cầu lợi, dù là cha con với nhau cũng tính toán lợi hại. Người nhiều tiền càng được tôn quý, dù lương thiện tốt đẹp hay hèn hạ xấu xa cũng không phân biệt. Cho dù giàu có muôn vạn, họ vẫn ăn mặc tằn tiện thô xấu. Khoảng một nửa dân số ra sức làm nông nghiệp và nửa còn lại chuyên kinh doanh buôn bán.

Từ thành Tố Diệp đi hơn 400 dặm (130 km) về hướng tây thì đến vùng Thiên Tuyền, vuông vức mỗi bề hơn 200 dặm (65 km), phía nam hướng về Tuyết sơn, ba mặt còn lại giáp đồng bằng, đất đai màu mỡ ẩm ướt, cây rừng sum suê. Vào tháng cuối mùa xuân, trăm hoa đua nở rực rỡ muôn phần, ao hồ suối nước có đến ngàn nơi nên mới thành tên gọi Thiên Tuyền.[30]

Khả-hãn[31] Đột-quyết thường đến đây tránh mùa nắng nóng. Nơi đây có bầy hươu, hầu hết đều được đeo vòng lục lạc, quanh quẩn bên người không hề sợ hãi bỏ chạy. Khả Hãn rất thích bầy hươu, hạ lệnh nếu ai giết hươu thì xử tội chết không tha, nên đàn hươu ấy được sống đến trọn đời.

Từ Thiên Tuyền đi về phía tây khoảng 140-150 dặm (45-48 km) thì đến thành Đát-la-tư, chu vi khoảng 8-9 dặm (2.6-2.9 km), là nơi thương gia người Hồ từ các nước đến sống chung. Nơi đây các loại cây trồng cũng như đất đai, khí hậu nói chung đều giống như ở thành Tố Diệp.

Từ đây đi về phía nam khoảng hơn 10 dặm (3.3 km) có một thành nhỏ nằm riêng biệt,[32] có khoảng 300 gia đình, gốc người Trung quốc, trước kia bị quân Đột-quyết bắt đi, sau mới tụ họp người cùng quê hương đến ở chung trong thành này. Họ ăn mặc, đi đứng đều giống người Đột-quyết, nhưng ngôn ngữ, lễ nghi Trung quốc vẫn còn gìn giữ.

Từ thành này đi về hướng tây nam hơn 200 dặm (65 km) thì đến thành Bạch Thủy, chu vi khoảng 6-7 dặm (2-2.3 km). Nơi đây đất đai, sản vật, phong thổ, khí hậu đều vượt hơn hẳn ở thành Đát-la-tư.

Từ đây lại đi tiếp về hướng tây nam hơn 200 dặm (65 km) thì đến thành Cung-ngự (Gongyu), chu vi khoảng 5-6 dặm (1.6-1.9 km). Đây là vùng đồng bằng ẩm ướt, đất đai hết sức màu mỡ tươi tốt, cây cối sum suê rậm rạp.

Từ đây đi về hướng nam 40-50 dặm (13-16 km) nữa thì đến nước Nô-xích-kiến.

4. Nước Nô-xích-kiến

Nước Nô-xích-kiến[33] chu vi hơn 1.000 dặm (323 km), đất đai màu mỡ tốt tươi, việc canh tác và thu hoạch đều hoàn bị. Cây cỏ sum suê sầm uất, hoa quả rất nhiều. Nơi đây trồng nhiều nho, được người dân xem là loại trái quý. Có đến hàng trăm thành ấp, mỗi thành đều có người cai trị riêng, có giao thiệp qua lại nhưng đều độc lập, không chịu mệnh lệnh của nhau. Tuy có bản đồ phân hoạch ranh giới riêng biệt, nhưng đều được gọi chung là nước Nô-xích-kiến.

Từ đây đi về hướng tây hơn 200 dặm (65 km) nữa thì đến nước Giả-thời.

5. Nước Giả-thời

Nước Giả-thời[34] chu vi hơn 1.000 dặm (323 km), phía tây giáp sông Diệp,[35] chiều đông tây hẹp, chiều nam bắc dài. Nơi đây đất đai, khí hậu cũng giống nước Nô-xích-kiến.

Nước này có khoảng mấy chục thành ấp, mỗi nơi đều có người cai trị riêng, nhưng không có người lãnh đạo chung, tất cả đều phụ thuộc Đột-quyết.

Từ đây về hướng đông nam hơn 1.000 dặm (323 km) là nước Phế-hãn.[36]

6. Nước Phế-hãn

Nước Phế-hãn[37] chu vi hơn 4.000 dặm (1.292 km), bốn bề núi non bao bọc, đất đai màu mỡ tốt tươi, hoa màu xanh tốt, trồng nhiều loại hoa quả. Nơi đây thích hợp nuôi ngựa và dê. Khí hậu lạnh lẽo, gió rét. Người dân tính tình rắn rỏi, mạnh mẽ, hình dung tướng mạo xấu xí. Ngôn ngữ khác biệt với những nước khác. Mấy chục năm qua, nước này không có vua, các thế lực trong nước tranh giành quyền lực với nhau, không ai phục ai, mỗi người đều chiếm cứ những nơi địa hình hiểm trở, phân chia ranh giới lãnh thổ riêng.

Từ nước Giả-thời đi về phía tây[38] hơn 1.000 dặm (323 km) thì đến nước Tốt-đổ-lợi-sắt-na.

7. Nước Tốt-đổ-lợi-sắt-na

Nước Tốt-đổ-lợi-sắt-na[39] chu vi khoảng 1.400-1500 dặm (452-485 km), phía đông giáp sông Diệp. Sông Diệp phát nguyên từ phía bắc rặng Thông Lĩnh, chảy về hướng tây bắc, mặt sông mênh mông, nước ngầu đục, dòng chảy xiết. Nơi đây đất đai, phong tục cũng giống nước Giả-thời. Nước này có vua cai trị, thần phục Đột-quyết.

Về hướng tây bắc nước này là một vùng sa mạc rộng lớn, tuyệt nhiên không có cỏ cây, khô khan không có nước. Không có lối mòn để đi theo, bốn phía mênh mông thật khó xác định ranh giới, phương hướng, chỉ có thể dõi nhìn dáng núi cao từ xa để định hướng và dùng xương khô ghi dấu để biết đoạn đường đã đi qua.[40]

Từ nước này đi khoảng hơn 500 dặm (162 km) [về hướng tây nam] thì đến nước Táp-mạt-kiến.

8. Nước Táp-mạt-kiến

Nước Táp-mạt-kiến[41] chu vi khoảng 1.600-1.700 dặm (517-550 km), chiều đông tây dài, chiều nam bắc hẹp. Chu vi kinh thành hơn 20 dặm (6.5 km), hết sức hiểm trở, kiên cố; dân cư đông đúc, có nhiều mặt hàng quý, trân bảo từ nơi khác quy tụ về đây.

Nước này đất đai màu mỡ tốt tươi, việc canh tác và thu hoạch đều hoàn thiện, cây cối xanh tốt, hoa quả tốt tươi. Nơi đây có nhiều ngựa hay, hàng thủ công mỹ nghệ đặc biệt tinh xảo vượt hơn các nước khác. Khí hậu ôn hòa, dễ chịu, cư dân tính tình mạnh mẽ, táo bạo, năng động. Các nước khác đều xem đây là trung tâm, bất kể gần xa đều noi theo những phép tắc, lễ nghi, quy phạm của nước này. Vua nước này sáng suốt dũng mãnh, các nước láng giềng đều thần phục. Binh mã hùng mạnh, đông đảo, phần đông là “giả-yết”. Danh hiệu giả-yết là chỉ những chiến sĩ dũng cảm, mạnh mẽ, xem cái chết chỉ như sự trở về. Họ chiến đấu như không có đối thủ.

Từ nước này về hướng đông nam là nước Nhị-mạt-hạ.[42]

9. Nước Nhị-mạt-hạ

Nước Nhị-mạt-hạ[43] chu vi ước khoảng 400-500 dặm (130-162 km), nằm lọt trong vùng khe núi, chiều đông tây hẹp, chiều nam bắc dài. Nơi đây thổ nhưỡng, phong tục tập quán đều giống như nước Táp-mạt-kiến.

Từ đây về hướng bắc là nước Kiếp-bố-đát-na.

10. Nước Kiếp-bố-đát-na

Nước Kiếp-bố-đát-na[44] chu vi ước khoảng 1.400-1.500 dặm (452-485 km), chiều đông tây dài, chiều nam bắc hẹp, phong tục, thổ nhưỡng đều giống như nước Táp-mạt-kiến.

Từ nước này về hướng tây hơn 300 dặm (97 km) là nước Khuất-sương-nhĩ-ca.

11. Nước Khuất-sương-nhĩ-ca

Nước Khuất-sương-nhĩ-ca[45] chu vi ước khoảng 1.400-1.500 dặm (452-485 km), chiều đông tây hẹp, chiều nam bắc dài. Nơi đây thổ nhưỡng, phong tục tập quán đều giống như nước Táp-mạt-kiến.

Từ nước này về hướng tây hơn 200 dặm (65 km) là nước Khái-hãn.

12. Nước Khái-hãn

Nước Khái-hãn[46] chu vi hơn 1.000 dặm (323 km), thổ nhưỡng, phong tục tập quán đều giống như nước Táp-mạt-kiến.

Từ nước này về hướng tây hơn 400 dặm (130 km) là nước Bộ-khái.

13. Nước Bộ-khái

Nước Bộ-khái[47] chu vi ước chừng 1.600-1.700 dặm (517-550 km), chiều đông tây dài, chiều nam bắc hẹp, thổ nhưỡng, phong tục tập quán đều giống như nước Táp-mạt-kiến.

Từ nước này về hướng tây hơn 400 dặm (130 km)[48] nước Phạt-địa.

14. Nước Phạt-địa

Nước Phạt-địa[49] chu vi hơn 400 dặm (130 km), thổ nhưỡng, phong tục tập quán giống như nước Táp-mạt-kiến.

Từ đây về hướng tây nam hơn 500 dặm (163 km) là nước Hóa-lợi-tập-di-ca.

15. Nước Hóa-lợi-tập-di-ca[50]

Nước Hóa-lợi-tập-di-ca nằm dọc theo hai bên sông Phược-sô,[51] chiều đông tây ước chừng khoảng 20-30 dặm (6.5-10 km), chiều nam bắc hơn 500 dặm (162 km), thổ nhưỡng, phong tục tập quán giống như nước Phạt-địa, ngôn ngữ chỉ khác biệt đôi chút.

Từ nước Táp-mạt-kiến đi về hướng tây nam hơn 300 dặm (98 km) thì đến nước Yết-sương-na.[52]

16. Nước Yết-sương-na

Nước Yết-sương-na[53] chu vi ước khoảng 1.400-1.500 dặm (450-480 km), thổ nhưỡng, phong tục tập quán giống như nước Táp-mạt-kiến.

Từ đây đi về hướng tây nam hơn 200 dặm (65 km) thì vào vùng núi. Đường núi quanh co gập ghềnh, lối đi hẹp rất nguy hiểm. Vùng này không có người ở, lại cũng hiếm cây cỏ, nguồn nước.

Tiếp tục đi theo đường núi về hướng đông nam hơn 300 dặm (97 km) thì vào cửa ải Thiết Môn,[54] hai bên đều là vách núi cao chót vót, tuy có lối đi hẹp nhưng càng đi càng thêm hiểm trở. Vách núi đá hai bên dựng đứng có màu giống như sắt. Cửa ngăn bằng sắt, lại ghép bằng đinh sắt, có nhiều chuông lắc nhỏ cũng bằng sắt treo trên cửa. Do cửa này hiểm trở kiên cố nên có tên là Thiết Môn.

Qua khỏi Thiết Môn thì đến vùng Đổ-hóa-la.[55] Vùng đất này chiều nam bắc hơn 1.000 dặm (323 km), chiều đông tây hơn 3.000 dặm (970 km), phía đông có rặng núi Thông Lĩnh án ngữ, phía tây giáp với Ba-lạt-tư (Persia), phía nam là Đại Tuyết sơn,[56] phía bắc là cửa ải Thiết Môn. Sông lớn Phược-sô chảy ngang qua giữa vùng đất này xuôi về hướng tây.

Trong mấy trăm năm qua, hoàng tộc nước này không có người nối dõi, nên các thế lực trong nước tranh giành với nhau, mỗi phe đều chiếm cứ những nơi hiểm địa, tự xưng vương quyền, phân chia ra thành 27 nước. Tuy các nước này đã phân chia ranh giới, nhưng tất cả đều thần phục Đột-quyết.

Khí hậu ấm nóng sinh nhiều dịch bệnh. Khoảng cuối đông đầu xuân thường có nhiều đợt mưa dầm nối tiếp liên miên, cho nên phát sinh rất nhiều dịch bệnh trong khu vực từ Đổ-hóa-la chạy về phía nam và từ nước Lam-ba (Lampa) chạy về phía bắc.

Tăng chúng nơi đây bắt đầu an cư từ ngày 16 tháng 12, cho đến ngày 15 tháng 3 thì kết thúc, vì thời gian này có mưa nhiều. Đây cũng là ý nghĩa thiết lập giáo pháp, quy định tùy theo hoàn cảnh thực tế của mỗi nơi.

Cư dân nơi đây tính tình nhút nhát, mềm yếu, hình dáng dung mạo xấu xí, có điều cũng biết qua đôi chút về trung tín, nghĩa khí nên không quá gian dối, lường gạt. Cung cách ứng xử và ngôn ngữ có phần khác biệt với những nước khác. Về văn tự, căn bản có 25 mẫu tự, phối hợp tạo thành từ ngữ, đủ dùng để biểu đạt hết thảy sự vật, sự việc. Văn bản được đọc theo chiều ngang, từ trái qua phải. Số lượng văn bản khá nhiều, vượt xa hơn ở vùng Tốt-lợi. Y phục phần nhiều dùng vải dệt từ bông vải, hiếm khi dùng vải gai. Tiền tệ thông dụng là tiền vàng, tiền bạc, hình dạng khác biệt so với tiền của các nước khác.

Xuôi theo bờ phía bắc sông Phược-sô về phía hạ lưu là nước Đát-mật.[57]

17. Nước Đát-mật

Nước Đát-mật,[58] chiều đông tây hơn 600 dặm (194 km), chiều nam bắc hơn 400 dặm (130 km), chu vi kinh thành hơn 20 dặm (6.5 km), chiều đông tây dài, chiều nam bắc hẹp. Cả nước có hơn 10 ngôi chùa, tăng chúng hơn 1.000 vị. Các tháp thờ[59] và tượng Phật đều có nhiều điều thần dị, nhiều sự linh ứng.

Về phía đông là nước Xích-ngạc-diễn-na.

18. Nước Xích-ngạc-diễn-na

Nước Xích-ngạc-diễn-na,[60] chiều đông tây hơn 400 dặm (130 km), chiều nam bắc hơn 500 dặm (162 km), chu vi kinh thành hơn 10 dặm (3.5 km). Có 5 ngôi chùa, tăng chúng rất ít.

Về phía đông là nước Hốt-lộ-ma.

19. Nước Hốt-lộ-ma

Nước Hốt-lộ-ma,[61] chiều đông tây hơn 100 dặm (33 km), chiều nam bắc hơn 300 dặm (97 km), chu vi kinh thành hơn 10 dặm (3.5 km). Vua nước này là người xứ Hề-tố, thuộc Đột-quyết. Trong nước có 2 ngôi chùa, tăng chúng hơn 100 vị.

Về phía đông là nước Du-mạn.

20. Nước Du-mạn

Nước Du-mạn,[62] chiều đông tây hơn 400 dặm (130 km), chiều nam bắc hơn 100 dặm (32 km), chu vi kinh thành khoảng 16-17 dặm (5-5.5 km). Vua nước này cũng là người xứ Hề-tố, thuộc Đột-quyết. Trong nước có 2 ngôi chùa, tăng chúng rất ít.

Phía tây nam giáp với sông Phược-sô rồi đến nước Cúc-hòa-diễn-na.

21. Nước Cúc-hòa-diễn-na

Nước Cúc-hòa-diễn-na,[63] chiều đông tây hơn 200 dặm (65 km), chiều nam bắc hơn 300 dặm (98 km), chu vi kinh thành hơn 10 dặm (3.2 km). Có 3 ngôi chùa, tăng chúng hơn 100 vị.

Về phía đông là nước Hoạch-sa.

22. Nước Hoạch-sa

Nước Hoạch-sa,[64] chiều đông tây hơn 300 dặm (98 km), chiều nam bắc hơn 500 dặm (163 km), chu vi kinh thành khoảng 16-17 dặm (5-5.5 km).

Về phía đông là nước Kha-đốt-la.

23. Nước Kha-đốt-la

Nước Kha-đốt-la,[65] chiều đông tây hơn 1.000 dặm (325 km), chiều nam bắc cũng hơn 1.000 dặm (325 km), chu vi kinh thành hơn 20 dặm (6.5 km).

Phía đông giáp với rặng núi Thông Lĩnh, rồi tiếp đến là nước Câu-mê-đà.

24. Nước Câu-mê-đà

Nước Câu-mê-đà,[66] chiều đông tây hơn 2.000 dặm (646 km), chiều nam bắc hơn 200 dặm (65 km), nằm trong rặng núi Thông Lĩnh. Chu vi kinh thành hơn 20 dặm (6.5 km). Phía tây nam giáp sông Phược-sô, phía nam giáp nước Thi-khí-ni.

Về hướng nam, qua sông Phược-sô thì có thể đến các nước Đạt-ma-tất-thiết-đế (Dharmasthiti), Bát-đạc-sang-na (Madakhshan), Dâm-bạc-kiện (Yamgan), Khuất-lang-noa (Kurana), Hứ-ma-đát-la (Himatala), Bát-lợi-át (Parghar), Ngật-lật-sắt-ma (Kishm), Hạt-la-hồ (Rahula), A-lợi-ni (Arhan), Măng-kiện (Mungan).

Từ nước Hoạt (Huoh) đi về hướng đông nam là nước Khoát-tất-đa (Khost) và nước An-đát-la-phược (Andarab). Các nước này được nói đến trong phần ghi chép hành trình quay về.[67]

Về hướng tây nam nước Hoạt là nước Phược-già-lãng.[68]

25. Nước Phược-già-lãng

Nước Phược-già-lãng,[69] chiều đông tây hơn 50 dặm (16 km), chiều nam bắc hơn 200 dặm (65 km), chu vi kinh thành hơn 10 dặm (3.2 km).

Về hướng nam là nước Hột-lộ-tất-dân-kiện.

26. Nước Hột-lộ-tất-dân-kiện

Nước Hột-lộ-tất-dân-kiện[70] chu vi hơn 1.000 dặm (325 km), chu vi kinh thành khoảng 14-15 dặm (4.5-5 km).

Về hướng tây bắc là nước Hốt-lẫm.

27. Nước Hốt-lẫm

Nước Hốt-lẫm[71] chu vi hơn 800 dặm (259 km), chu vi kinh thành khoảng 5-6 dặm (1.6-2 km). Nơi đây có hơn 10 ngôi chùa, tăng chúng hơn 500 vị.

Về hướng tây là nước Phược-khái.

28. Nước Phược-khái

Nước Phược-khái,[72] chiều đông tây hơn 800 dặm (260 km), chiều nam bắc hơn 400 dặm (130 km), phía bắc giáp sông Phược-sô. Chu vi kinh thành hơn 20 dặm (6.5 km), dân nơi đây gọi là thành Tiểu Vương Xá. Thành tuy kiên cố nhưng dân cư rất ít. Vùng này sản vật phong phú, rất nhiều, trên đồng dưới nước đủ các loại hoa, thật khó kể ra hết. Nơi đây có hơn 100 ngôi chùa, tăng chúng hơn 3.000 vị, đều tu học theo giáo pháp Tiểu thừa.

Phía bên ngoài thành, về hướng tây nam có chùa Nạp-phược,[73] do một vị vua trước đây[74] của nước này xây dựng. Khắp một vùng phía bắc Đại Tuyết sơn,[75] chỉ duy nhất chùa này là có các bậc đại sư trứ tác luận giải truyền nối đời đời không dứt.

Tượng Phật trong chùa sáng chói với những loại trân bảo quý giá. Chùa cũng được trang hoàng bằng nhiều báu vật quý hiếm. Vì vậy, các vua lân bang tham lam đều muốn đánh cướp lấy.

Trong chùa có một pho tượng Tỳ-sa-môn Thiên rất linh ứng, có thể dựa vào đó để âm thầm gìn giữ, bảo vệ.

Gần đây, vị Khả Hãn [đời trước] của Đột-quyết là Diệp Hộ, có người con trai là Khả Hãn Tứ Diệp Hộ, đã huy động toàn bộ binh lực kéo đến, dự tính bất ngờ tấn công vào chùa để cướp lấy trân bảo, báu vật. Khi còn cách chùa không xa, Khả Hãn cho dựng trại đóng quân tạm nghỉ giữa đồng. Đêm hôm đó, Khả Hãn mộng thấy Tỳ-sa-môn Thiên[76] hiện ra nói rằng: “Nhà ngươi sức lực được bao nhiêu mà dám đến phá chùa?” Nói rồi dùng cây kích dài đâm một nhát xuyên từ trước ngực ra sau lưng. Khả Hãn kinh sợ tỉnh giấc, cảm thấy đau nhói nơi tim, liền kể lại cho thuộc hạ nghe về giấc mộng, rồi sai người vội vã đi thỉnh chư tăng đến để đích thân sám hối tạ tội. Nhưng thuộc hạ đi chưa kịp về thì Khả Hãn đã vong mạng.

Nơi phía nam điện thờ Phật trong chùa có một chiếc bồn tắm của Phật, có thể chứa đến hơn một đấu nước,[77] màu sắc rực rỡ kỳ diệu, khó có thể nói được đó là kim loại quý hay đá quý. Lại có một chiếc răng Phật, độ dài hơn một tấc (3.33 cm), bề ngang khoảng 8-9 phân (2.5-3 cm), màu trắng ngà, hình thể sáng đẹp. Trong chùa còn có một cây chổi quét của Phật,[78] được làm bằng cỏ ca-xa,[79] dài hơn 2 thước (67 cm), vòng quanh thân chổi đo được khoảng 7 tấc (23 cm). Cán chổi được trang sức bằng nhiều trân bảo quý giá. Ba báu vật này, vào những ngày lục trai,[80] khi chư tăng và tín đồ cùng tụ họp, thường mang ra để thiết lễ cúng dường. Những lúc chí thành có sự cảm ứng liền phát hào quang.

Phía bắc chùa có tháp thờ cao hơn 200 thước (66.6 m), được trang sức bằng đá kim cương cùng nhiều trân bảo quý giá. Trong tháp có xá-lợi, thường phát hào quang.

Phía tây nam chùa có một tinh xá[81] được xây dựng rất lâu đời. Những bậc tài cao đức trọng từ phương xa về đây tu tập rất nhiều. Trong số đó, những vị chứng thánh quả nhiều không kể xiết. Trước đây, các vị A-la-hán khi sắp nhập Niết-bàn thường thị hiện thần thông, mọi người đều thấy biết, nên liền dựng tháp thờ. Nền tháp san sát kề nhau, có đến mấy trăm tháp. Lại có hàng ngàn vị khác, tuy chứng thánh quả nhưng trước khi nhập Niết-bàn không thị hiện thần thông nên không được dựng tháp ghi nhớ.

Hiện nay[82] chư tăng ở chùa này có hơn 100 vị, ngày đêm tinh tấn tu tập chẳng hề biếng trễ, thật khó phân biệt được [trong số đó] ai là phàm, ai là thánh.

Cách kinh thành hơn 50 dặm (16 km) về hướng tây bắc có thành Đề-vị (Trapusa). Khoảng hơn 40 dặm (13 km) về phía bắc thành Đề-vị lại có thành Ba-lợi (Bhallika). Trong mỗi thành này đều có một ngôi tháp cao hơn 3 trượng (10 m).

Thuở xưa, đức Như Lai vừa chứng đắc quả Phật, từ gốc bồ-đề đứng dậy, sắp sửa đi đến Vườn Nai.[83] Bấy giờ có hai vị trưởng giả[84] nhìn thấy đức Phật thần thái uy nghiêm, dung nhan rạng rỡ, liền nghênh đón trên đường để dâng cúng gạo rang trộn mật ong. Đức Thế Tôn liền vì hai người mà thu-yết giảng về phước báu trong hai cõi trời, người. Đây là những người đầu tiên được nghe về Năm giới và Mười nghiệp lành.[85] Sau khi được nghe giảng dạy giáo pháp, họ đã thỉnh cầu Như Lai ban cho vật gì để [khi về nước có thể] thờ kính cúng dường. Đức Như Lai liền ban cho họ một ít tóc và móng tay của ngài.

Hai trưởng giả sắp về nước, liền thưa thỉnh Như Lai về nghi thức thờ kính cúng dường [Thánh vật]. Đức Phật liền lấy y tăng-già-chi[86] xếp ngay ngắn vuông vức đặt xuống đất. Tiếp theo, ngài đặt lên đó tấm y uất-đa-la-tăng,[87] [cũng được xếp ngay ngắn vuông vức], rồi đến tấm y tăng-khước-kỳ.[88] Sau đó, đức Phật úp bình bát lên rồi dựng thẳng tích trượng lên trên cùng. Tất cả sắp xếp theo thứ tự như vậy tạo thành một mô hình gọi là tốt-đổ-ba.[89]

Hai người vâng lời Phật dạy, khi về lại nơi ở của mình, mỗi người đều phỏng theo mô hình đức Phật đã chỉ dẫn mà xây dựng nên một ngọn tháp thờ [các Thánh vật]. Đây là những ngọn tháp đầu tiên trong đạo Phật.[90]

Về phía tây thành này,[91] cách hơn 70 dặm (23 km) có một ngọn tháp cao hơn 2 trượng (7 m) được xây dựng từ thời Phật Ca-diếp.

Từ kinh thành đi về hướng tây nam vào vùng Đại Tuyết sơn thì đến nước Duệ-mạt-đà.

29. Nước Duệ-mạt-đà

Nước Duệ-mạt-đà,[92] chiều đông tây khoảng 50-60 dặm (16-20 km), chiều nam bắc hơn 100 dặm (33 km), chu vi kinh thành hơn 10 dặm (3.3 km).

Về hướng tây nam là nước Hồ-thật-kiện.

30. Nước Hồ-thật-kiện

Nước Hồ-thật-kiện,[93] chiều đông tây hơn 500 dặm (163 km), chiều nam bắc hơn 1.000 dặm (323 km), chu vi kinh thành hơn 20 dặm (6.5 km). Nơi đây có nhiều sông núi, sản xuất nhiều ngựa hay.

Về hướng tây bắc là nước Đát-lạt-kiện.

31. Nước Đát-lạt-kiện

Nước Đát-lạt-kiện,[94] chiều đông tây hơn 500 dặm (163 km), chiều nam bắc khoảng 50-60 dặm (16-20 km), chu vi kinh thành hơn 10 dặm (3.2 km). Biên giới phía tây giáp với nước Ba-lạt-tư.[95]

Từ nước Phược-khái đi về hướng nam hơn 100 dặm (32.3 km) thì gặp nước Yết-chức.[96]

32. Nước Yết-chức

Nước Yết-chức,[97] chiều đông tây hơn 500 dặm (162 km), chiều nam bắc hơn 300 dặm (97 km), chu vi kinh thành khoảng 5-6 dặm (1-1.5 km). Đất đai nhiều sỏi đá, cằn cỗi, gò đồi nối tiếp nhau không bằng phẳng. Nông sản thì ít hoa quả, trồng nhiều các loại đậu, lúa mạch. Khí hậu rét lạnh, phong tục tánh khí người dân cứng rắn, mạnh mẽ.

Trong nước có hơn 10 ngôi chùa, tăng chúng hơn 300 người, đều tu học theo Thuyết nhất thiết hữu bộ, thuộc Tiểu thừa.

Đi tiếp theo hướng đông nam của nước này là vào Đại Tuyết sơn. Núi cao khe sâu, vách đứng hiểm trở, gió tuyết quanh năm, ngay cả mùa hạ cũng đóng thành băng, tuyết phủ đầy khe, đường trơn khó vượt. Thần núi và những loài yêu quái quỷ mị đe dọa kinh hồn, cướp bóc thành đoàn, hoành hành không kiêng sợ, xem việc giết người như chuyện mưu sinh.

Đi khoảng hơn 600 dặm (193.8 km) thì ra khỏi địa giới vùng Đổ-hóa-la (Tukhara), đến nước Phạm-diễn-na.

33. Nước Phạm-diễn-na

Nước Phạm-diễn-na,[98] chiều đông tây hơn 2.000 dặm (646 km), chiều nam bắc hơn 300 dặm (97 km), nằm bên trong phạm vi của Tuyết sơn. Người dân dựa theo khe núi, tùy thuận địa hình để lập thành làng mạc. Kinh thành xây dựng trên hai sườn núi, nằm vắt ngang qua khe suối, chiều dài khoảng 6-7 dặm (2-2.3 km), phía bắc dựa lưng vào sườn núi cao. Nơi đây trồng được lúa mạch dài ngày,[99] có ít hoa quả, thích hợp việc chăn nuôi gia súc, đa phần là dê và ngựa.

Khí hậu rét lạnh, tánh khí người dân cứng rắn, hung bạo. Y phục thì dùng vải da thú, vải thô dày, cũng là để phù hợp với khí hậu. Về chữ viết, ngôn ngữ, phong tục, giáo hóa cho đến việc sử dụng tiền tệ đều giống như vùng Đổ-hóa-la. Tuy ngôn ngữ có đôi chút khác biệt nhưng cung cách ứng xử cũng như hình dung tướng mạo đại lược đều giống nhau. Về niềm tin [đối với Phật pháp] thì người dân nước này hơn hẳn các nước láng giềng. Trên từ Tam bảo, dưới cho đến các vị thần linh, người dân ở đây thảy đều thành tâm hết lòng tôn kính. Khách buôn từ nơi khác đến, thường có việc thiên thần hiện điềm lành hoặc báo điềm dữ, liền tùy theo đó mà có sự khấn nguyện, cầu phước đức.

Trong nước có khoảng mấy chục ngôi chùa, tăng chúng đến mấy ngàn người, chủ yếu tu học theo Thuyết xuất thế bộ (Lokottaravada) thuộc Tiểu thừa.

Phía đông bắc kinh thành, ven sườn núi có một tượng Phật đứng bằng đá cao khoảng 140-150 thước (46-50 m). Tượng sắc vàng sáng chói, trang sức bằng đá quý màu sắc rực rỡ. Phía đông có một ngôi chùa do đức vua đời trước xây dựng. Phía đông của chùa có tượng Phật Thích-ca đứng, đúc bằng hợp kim đồng,[100] cao hơn 100 thước (33 m), phải chia ra đúc riêng từng phần rồi ghép lại để thành tượng Phật đứng này.

Về phía đông kinh thành, cách khoảng 2-3 dặm (0.7-1 km), trong khuôn viên một ngôi chùa có tượng Phật nhập Niết-bàn, chiều dài hơn 1.000 thước (330 m).[101] Đức vua mỗi lần tổ chức Đại hội Vô già[102] thì từ vợ con đến trân châu, quốc bảo, quốc khố đều mang ra bố thí cho đến hết sạch, rồi vua bố thí cả thân mạng mình [cho chư tăng]. Sau đó, quần thần bá quan phải mang vàng bạc đến chỗ chư tăng để xin chuộc vua về. Đức vua làm những việc này như nhiệm vụ chính của mình.

Từ ngôi chùa có tượng Phật nằm, đi về hướng đông nam hơn 200 dặm (65 km), vượt qua Đại Tuyết sơn, rẽ sang hướng đông thì gặp một vùng đầm nước nhỏ, mặt nước suối, hồ trong vắt phẳng lặng, soi bóng được như gương. Cây cối quanh vùng rậm rạp xanh tốt. Nơi đây có một ngôi chùa, trong chùa có xá-lợi răng Phật và răng của một vị Độc giác[103] từ thời Kiếp sơ, dài hơn 5 tấc (16 cm), bề ngang gần 4 tấc (13 cm). Lại có răng của một vị Kim luân vương, dài 3 tấc (10 cm), rộng 2 tấc (6.6 cm). Lại có bình bát bằng sắt của Đại A-la-hán Thương-nặc-ca Phược-sa[104] đã dùng trước đây, chứa được khoảng 8 đến 9 thăng.[105] Ba di vật này của các bậc hiền thánh đều được niêm kín trong hộp bằng vàng ròng. Lại có tấm y cửu điều tăng-già-chi của ngài Thương-nặc-ca Phược-sa. Y có màu đỏ sậm, được dệt bằng loại cỏ thiết-nặc-ca.[106]

Ngài Thương-nặc-ca Phược-sa là đệ tử của ngài A-nan. Trong một tiền thân xưa kia, ngài dùng y dệt bằng cỏ thiết-nặc-ca cúng dường hết thảy chúng tăng nhân ngày giải hạ an cư. Nhờ phước lực này mà trong 500 đời sau đó ngài luôn được mặc loại áo này, ngay cả trong thân trung ấm cũng như sinh ấm.[107] Đến khi ngài thọ sinh thân cuối cùng, áo này cũng xuất hiện cùng lúc với bào thai. Rồi khi ngài lớn lên mỗi ngày thì áo tự động dài rộng ra cho vừa vặn với thân hình. Đến lúc gặp Tôn giả A-nan độ cho ngài xuất gia thì áo tự nhiên biến thành pháp phục, khi thọ giới Cụ túc lại biến thành y cửu điều tăng-già-chi. Khi sắp tịch diệt, ngài nhập định Biên tế,[108] phát khởi trí nguyện lực, muốn lưu lại áo cà-sa này cho đến khi giáo pháp của Phật Thích-ca diệt mất. Sau khi giáo pháp diệt rồi thì tấm y này mới hư hoại. Ngày nay, tấm y đã thấy có đôi chút hư tổn, nên có thể tin được rằng đây là điềm báo.[109]

Từ nước này đi về hướng đông là sâu vào vùng Tuyết sơn, vượt qua rặng Hắc Lĩnh thì đến nước Ca-tất-thí.

34. Nước Ca-tất-thí

Nước Ca-tất-thí[110] chu vi hơn 4.000 dặm (1.290 km), phía bắc dựa lưng vào Đại Tuyết sơn, ba mặt còn lại đều giáp với rặng Hắc Lĩnh. Chu vi kinh thành hơn 10 dặm (3.2 km). Nơi đây thích hợp trồng các loại ngũ cốc, lúa mạch, nhiều cây trái, gỗ rừng, sản xuất nhiều ngựa hay và uất kim hương.[111] Các loại hàng hóa hiếm lạ phần nhiều đều quy tụ về nước này.

Khí hậu nơi đây rét lạnh, nhiều gió. Người dân tính tình hung bạo dữ dằn, nói năng thô tục, thấp hèn; quan hệ hôn nhân hỗn tạp, rối loạn.

Chữ viết về đại thể giống như ở vùng Đổ-hóa-la, nhưng phong tục, ngôn ngữ, giáo dục có nhiều khác biệt. Y phục dùng vải dệt từ bông vải cũng như vải gai và da thú. Về tiền tệ có tiền vàng, tiền bạc và tiền đồng nhỏ; quy cách, hình thức khác biệt với các nước khác.

Đức vua thuộc chủng tộc sát-đế-lợi, có trí tuệ, mưu lược, dũng mãnh, uy thế nhiếp phục các nước lân cận, thống trị được hơn 10 nước. Vua có lòng thương dân, kính trọng và tôn sùng Tam bảo, mỗi năm đều tạo một tượng Phật bằng bạc cao 1 trượng 8 thước (6 m), lại tổ chức Đại hội Vô già bố thí, chu cấp cho những người nghèo khổ hoặc những người sống neo đơn, góa bụa, cô độc.

Trong nước có hơn 100 ngôi chùa, tăng chúng hơn 6.000 vị, phần lớn đều tu tập theo Phật giáo Đại thừa. Chùa tháp được xây dựng cao to rộng lớn, trang nghiêm thanh tịnh. Có khoảng mấy chục đền thờ Phạm thiên, tu sĩ theo các đạo khác[112] có hơn 1.000 người, hoặc theo đạo lõa thể, hoặc bôi trét bùn đất lên thân hình, hoặc xâu đầu lâu người chết làm thành vòng đội trên đầu như mũ...

Về phía đông kinh thành, cách khoảng 3-4 dặm (1-1.5 km) có ngôi chùa lớn nằm dưới mạn bắc của ngọn núi, tăng chúng hơn 300 người, đều tu tập theo giáo pháp Tiểu thừa.

Đọc trong các ghi chép xưa thấy kể rằng, thuở xưa vua Ca-nị-sắc-ca (Kanishka) của nước Kiện-đà-la (Gandhara) có uy vũ khuất phục các nước lân cận, nhiếp hóa rộng khắp đến cả phương xa, quân binh trải rộng nhiều vùng, đến tận phía đông rặng Thông Lĩnh. [Có vị Phiên vương ở] Hà Tây, [Trung quốc] vì sợ oai nên phải gửi [Thái tử sang làm] con tin. Vua Ca-nị-sắc-ca nhận con tin, đặc biệt ban lệnh đối đãi thật chu đáo, tùy theo mùa nóng lạnh mà cho thay đổi chỗ ở. Mùa đông ở nơi các tiểu quốc tại Ấn Độ, mùa hạ trở về nước Ca-tất-thí, mùa xuân và mùa thu thì ở nước Kiện-đà-la.

[Vị Thái tử từ Trung quốc sang làm] con tin như vậy, mỗi năm tùy thời tiết mà được cư trú ở ba nơi. Tại mỗi nơi ông đều xúc tiến việc xây dựng chùa. Ngôi chùa này chính là được Thái tử xây khi đến đây ở vào mùa hạ. Cho nên, các bức tranh trên tường đều có vẽ hình [vị Thái tử làm] con tin, hình dung, tướng mạo, cách phục sức chính là người Trung quốc.

Về sau, Thái tử được cho về nước, tuy sông núi cách trở xa xôi nhưng lòng vẫn nhớ đến nơi ở cũ, nên tiếp tục việc cúng dường mãi không gián đoạn.

Do vậy nên ngày nay mỗi lần tăng chúng nơi đây làm lễ nhập an cư hoặc giải an cư, đều có tổ chức pháp hội lớn, vì vị Thái tử này mà dâng lời kỳ nguyện cầu phước lành. Điều này được tiếp nối không ngừng, mãi cho đến ngày nay.

Nơi cửa đông của điện thờ Phật trong chùa này, nhìn về hướng nam có tượng Đại Thần vương. Phía dưới chân phải của tượng có chôn một kho báu, chính là kho báu của [vị Thái tử làm] con tin. Cho nên nơi ấy có khắc dòng chữ rằng: “Khi chùa hư hoại thì dùng [kho báu này] để tu sửa.”[113]

Gần đây có vị vua nước lân cận, tham lam hung bạo, nghe nói chùa này có nhiều trân bảo, liền cho đuổi hết tăng chúng đi, rồi sắp sửa khai quật kho báu. Bỗng dưng ngay lúc ấy thì hình tượng chim anh vũ trên mão của Thần vương đập cánh kêu to, cả vùng đất nơi đây chấn động, nhà vua và quân lính đều ngã lăn ra đất, thân thể cứng đờ nằm yên bất động, một hồi lâu sau mới gượng dậy được, liền quỳ lạy sám hối tội lỗi rồi kéo nhau ra về.

Phía bắc chùa này, trên đỉnh núi cao có một số gian thạch thất, là nơi [Thái tử] con tin dùng để tu tập thiền định. Trong đó cũng có chứa nhiều trân bảo đủ loại, bên cạnh có khắc bài minh, do thần dược-xoa gìn giữ bảo vệ. Nếu có người muốn khai quật lấy đi bảo vật thì thần dược-xoa sẽ biến hình thành sư tử, hoặc thành mãng xà, thú dữ, độc trùng, hoặc các hình thù quái dị để khiến người kinh khiếp. Cho nên chẳng ai dám vào trộm cắp hay cướp lấy.

Về hướng tây của những động đá này, cách khoảng 2-3 dặm (0.7-1 km), trên đỉnh núi lớn có tượng Bồ Tát Quán Tự Tại. Nếu người nào chí thành phát nguyện mong được nhìn thấy, Bồ Tát sẽ từ nơi tượng này hiện ra sắc thân mầu nhiệm để an ủi người ấy.

Về hướng đông nam của kinh thành, cách hơn 30 dặm (9.7 km) có chùa Hạt-la-hỗ-la,[114] bên cạnh có ngọn tháp cao hơn 100 thước (33.3 m), thỉnh thoảng vào những ngày trai có khi phát tỏa ánh sáng rực rỡ. Nơi đỉnh tháp hình thể như chiếc bình bát úp bằng đá, có một khe hở, từ trong đó thường có chất dầu thơm màu đen chảy ra. Vào những đêm khuya tĩnh mịch, thỉnh thoảng người ta nghe có tiếng nhạc từ bên trong tháp.

Xem trong các ghi chép xưa thấy kể rằng, tháp này do một vị đại thần của nước này là Hạt-la-hỗ-la xây dựng. Khi vừa hoàn tất, đêm đó vị đại thần nằm mộng thấy có người bảo rằng: “Ngôi tháp ông xây dựng vẫn chưa có xá lợi. Ngày mai sẽ có người hiến xá-lợi, nên đến chỗ nhà vua để thỉnh về.”

Sáng hôm sau, quan đại thần ấy liền vào triều, tâu lên vua rằng: “Hạ thần ngu muội chẳng lượng sức mình, dám xin có lời thỉnh cầu.”

Vua hỏi: “Khanh muốn thỉnh cầu điều gì?”

Quan đại thần thưa: “Trong ngày hôm nay nếu có người hiến dâng vật phẩm, xin ban ân cho thần được nhận món đầu tiên.”

Đức vua nói: “Được, ta chấp nhận.”

Đại thần Hạt-la-hỗ-la ra đứng ngoài cửa cung chờ đợi. Không bao lâu liền có một người mang bình xá-lợi vào. Đại thần liền hỏi: “Ông muốn dâng món gì?”

Người ấy đáp: “Xá-lợi Phật.”

Đại thần Hạt-la-hỗ-la liền nói: “Để ta cầm giữ giúp ông. Ông nên vào tâu vua trước.”

Hạt-la-hỗ-la sợ vua vì trân quý xá-lợi mà đổi ý, không giữ lời hứa đã ban cho, nên vội vã thỉnh xá-lợi ngay về chùa, leo lên tháp. Do tâm chí thành cảm ứng, chỗ bình bát úp bằng đá trên đỉnh tháp tự nhiên mở ra, ông liền vào an trí xá-lợi, xong vội vã ra ngay, miệng tháp đóng lại làm kẹt một vạt áo. Vua sai sứ đuổi theo, vừa đến nơi thì cửa đá đã khép kín lại. Do việc này nên mới có khe hở [chỗ vạt áo], từ đó có chất dầu thơm màu đen chảy ra.

Về phía nam kinh thành, cách hơn 40 dặm (12.9 km) có thành Tập-tế-đa-phạt-lạt-từ (Svetavatālaya). Thường những khi có động đất, hoặc băng lở đổ xuống từ sườn núi, thành này vẫn không bị ảnh hưởng gì.

Lại về phía nam thành Tập-tế-đa-phạt-lạt-từ, cách hơn 30 dặm (9.7 km) là núi A-lộ-nhu. Núi cao chót vót, sườn khe thăm thẳm mịt mù. Đỉnh núi này mỗi năm cao thêm mấy trăm thước,[115] khi cao đến mức có thể nhìn sang núi Lăng-na-yết-la của nước Tào-củ-trá rồi thì tự sụt xuống.

Truyền thuyết địa phương kể rằng: “Thuở xưa thiên thần Sồ-na từ xa đến, muốn dừng ở núi này. Sơn thần tức giận, liền làm cho khe suối đều chấn động. Thiên thần nói: “Ngươi không muốn sống chung cùng ta nên làm chấn động như vậy. Nếu ngươi chỉ cần mở lòng một chút, lấy tình chủ khách mà đối đãi với ta thì sẽ được rất nhiều trân bảo. Nay ta sẽ đến núi Lăng-na-yết-la của nước Tào-củ-trá, mỗi năm đến lúc ta nhận lễ vật hiến cúng từ quốc vương, đại thần, ngươi chỉ có thể đứng xa mà ngóng nhìn.” Cho nên, núi A-lộ-nhu khi cao lên đến mức nhìn được sang núi kia rồi thì tự sụt xuống.

Về phía tây bắc kinh thành, cách hơn 200 dặm (64.6 km) thì đến Đại Tuyết sơn, trên đỉnh núi có hồ nước, đến đó cầu mưa hay cầu nắng đều được thỏa nguyện.

Xem trong các ghi chép xưa thấy chép rằng: “Thuở xưa ở nước Kiện-đà-la có vị A-la-hán thường nhận sự cúng dường của long vương ở hồ này. Mỗi ngày, đến bữa ăn giữa ngày thường dùng thần thông ngồi trên giường bay trên hư không mà đến. Có sa-di làm thị giả cho vị A-la-hán, lẻn chui xuống bên dưới rồi bám chắc vào giường, đến giờ A-la-hán ngồi trên giường, bay đến cung long vương mới nhìn thấy sa-di. Long vương nhân đó thỉnh mời sa-di ở lại dùng cơm, liền dùng cơm cam lồ cõi trời dâng cúng vị A-la-hán, lại đem các món ăn của nhân gian cúng dường sa-di. Vị A-la-hán thọ trai xong liền vì long vương thuyết giảng giáo pháp. Sa-di như thường lệ lo rửa bát của thầy. Trong bát có dư hạt cơm [cõi trời], sa-di nếm biết được hương vị ấy thì lấy làm lạ lùng kinh hãi, khởi lên niệm ác, oán hận thầy và giận long vương [đã không cho mình được hưởng món ăn quý lạ này].

Sa-di ấy liền khấn nguyện cho tất cả phước lực của mình hiển hiện ngay bây giờ, khiến cho long vương mất mạng để tự mình thay thế làm long vương.

Khi sa-di khấn nguyện như vậy thì long vương bị đau đầu. Vị A-la-hán thuyết pháp khuyên dạy, long vương nghe lời dạy lễ tạ sám hối, tự trách lỗi mình. Nhưng sa-di vẫn ôm lòng sân hận, không chấp nhận lời sám hối của long vương.[116] Do vậy, khi trở về chùa, sa-di liền hết lòng chú tâm khấn nguyện như cũ. Do phước lực [từ đời trước] nên khiến cho ngay trong đêm đó sa-di qua đời, lập tức tái sinh làm Đại long vương có oai lực mạnh mẽ, liền trở lại nơi hồ nước, sát hại vị long vương cũ và chiếm lấy long cung, dùng sức mạnh thống lĩnh tất cả thuộc hạ của long vương cũ.

Do lời khấn nguyện [đầy sân hận] trước đó, Đại long vương liền làm cho mưa to gió lớn, cây cối ngả nghiêng, có ý muốn phá nát chùa.

Lúc bấy giờ, vua Ca-nị-sắc-ca[117] (Kaniṣka) thấy chuyện lạ lùng liền thưa hỏi, vị A-la-hán kể rõ mọi sự việc. Vua biết chuyện rồi liền vì vị long vương cũ mà xây dựng một ngôi chùa nơi Tuyết sơn, đồng thời xây tháp cao hơn 100 thước (33 m). Đại long vương ôm mối hận cũ, lại làm cho nổi dậy mưa to gió lớn. Nhà vua dựng chùa, xây tháp hoàn toàn do khởi tâm hoằng truyền Phật pháp, tế độ chúng sinh; Đại long vương thì do tâm sân hận mà làm việc hung bạo, khiến cho việc xây dựng chùa tháp phải 6 lần sụp đổ, đến lần thứ bảy mới hoàn thành.

Vua Ca-nị-sắc-ca xấu hổ vì 6 lần thất bại, muốn lấp hồ để phá hủy nơi cư ngụ của Đại long vương, liền kéo quân đến dưới chân Tuyết sơn. Bấy giờ, Đại long vương hết sức kinh sợ, liền biến hình thành một ông già bà-la-môn, đến lạy trước đầu voi của vua mà can ngăn rằng: “Đại vương nhờ trồng sâu căn lành, làm việc tốt đẹp từ nhiều đời trước, cho nên nay mới được làm vua cõi người, ai ai cũng quy phục. Ngày nay vì sao lại muốn giao tranh với loài rồng? Loài rồng chẳng qua chỉ là loại súc sinh, là loài hung ác hèn kém, nhưng chúng có oai lực rất lớn, không thể dùng sức mạnh để cạnh tranh. Chúng có thể cưỡi mây đạp gió, bay trên không, lặn dưới nước, sức người không thể khống chế được, sao Đại vương phải sinh tâm giận dữ? Nay Đại vương huy động quân binh cả nước chỉ để đánh nhau với một con rồng, nếu thắng thì cũng chẳng có được uy phong nhiếp phục cõi xa, còn nếu thua thì đang lúc không có giặc thù mà phải ôm mối nhục. Nay tôi vì Đại vương hiến kế, tốt nhất là nên lui binh.”

Vua Ca-nị-sắc-ca không chịu nghe theo, rồng liền quay trở lại hồ, lập tức làm cho sấm sét nổi lên, cuồng phong nhổ gốc cây cối, cát bay đá chạy, mây kéo mịt mù, tối tăm trời đất, khiến cho quân binh hốt hoảng, ngựa chiến kinh hoàng.

Khi ấy đức vua liền chí thành hướng về Tam bảo thỉnh cầu sự gia hộ, khấn nguyện rằng: “Đời trước con đã tạo nhiều phước lành, nay mới được làm vua cõi người, nhiếp phục những kẻ địch mạnh mẽ, thống lĩnh châu Thiệm-bộ. Hôm nay nếu bị loài súc sinh là con rồng này khuất phục, lại thành ra là phước báu còn mỏng manh sao? Xin nguyện cho hết thảy phước lành con đã tạo từ xưa được hiển hiện ngay bây giờ.”

Ngay lúc ấy, từ hai bên vai của đức vua liền bốc cháy lên hai ngọn lửa lớn. Rồng lập tức phải thối lui, gió yên mưa tạnh, mây tan trời sáng. Vua ra lệnh cho quân lính mỗi người mang một hòn đá, dùng để lấp hồ.

Đại Long vương biến hình trở lại thành người bà-la-môn, thưa với đức vua rằng: “Tôi chính là Long vương ở dưới ao này, nay đã sợ oai vua xin quy phục. Xin đại vương thương xót tha cho tội lỗi trước đây. Đại vương là người nuôi dưỡng, che chở hết thảy sinh linh, lẽ nào chỉ riêng với tôi lại ra tay giết hại? Nếu đại vương giết tôi, tôi với đại vương sẽ cùng phải đọa vào đường ác. Bởi vì đại vương sẽ mang tội giết hại, còn tôi thì ôm lòng oán hận, nghiệp báo rõ ràng, thiện ác đều sáng tỏ như thế.”

Đức vua liền cùng với rồng lập giao ước, cam kết nếu sau này tái phạm sẽ xử tội không tha. Rồng thưa rằng: “Tôi vì tạo nghiệp ác nên mới sinh làm thân rồng. Tánh rồng hung ác, không thể tự kiềm chế được. Một khi tâm sân hận khởi lên thì không cách gì chế ngự được. Nay đại vương làm chùa, tôi không dám phá nữa. Nhưng xin cho một người canh phòng trên đỉnh núi sau chùa, nếu thấy mây đen nổi lên thì lập tức đánh chuông lớn.[118] Tôi nghe âm thanh đó sẽ dứt tâm xấu ác.”

Đức vua liền tiếp tục xây chùa, dựng tháp. Vua cũng sai người canh chừng mây đen sau núi, đến nay vẫn duy trì việc ấy.

Xem trong các ghi chép xưa thấy nói rằng: “Trong tháp ấy có xá-lợi nhục thân Như Lai, khoảng hơn một thăng.[119] Những sự thần kỳ biến hóa [của xá-lợi ấy] nhiều vô cùng, khó nói hết được. Có lần, trong tháp bỗng dưng có khói bốc lên, rồi không bao lâu lại có ngọn lửa lớn, người thời ấy đều cho rằng tháp kia hẳn là sẽ bị thiêu rụi. Nhưng tiếp tục quan sát không bao lâu thì tự nhiên lửa tắt, khói tan, liền thấy xá-lợi như lá phướn ngọc trắng xoắn thành hình trụ bay lên, cao đến chạm tầng mây rồi xoay vòng hạ xuống trở vào trong tháp.

Phía tây bắc kinh thành, trên bờ phía nam của sông lớn, có chùa Cựu Vương, trong chùa có xá-lợi răng sữa của đức Thích-ca lúc tuổi nhỏ thay răng, dài hơn 1 tấc (3.33 cm). Phía đông nam chùa này lại có một chùa khác cũng tên là Cựu Vương. Trong chùa có xá-lợi một mảnh xương đỉnh đầu của Như Lai, bề ngang hơn 1 tấc (3.33 cm), có màu trắng vàng, nhìn thấy rõ cả lỗ chân tóc. Lại có xá-lợi tóc của Như Lai, màu xanh biếc ửng hồng, hình xoắn xoay về bên phải, kéo dài ra hơn 1 thước (33.3 cm), cuộn lại chừng nửa tấc (1.66 cm).

Vào 6 ngày trai trong tháng,[120] đức vua và các đại thần đều đến dâng hoa cúng dường ba thánh vật này.[121]

Phía tây nam của ngôi chùa có xá-lợi xương đỉnh đầu Phật, lại có chùa Cựu Vương Phi, trong đó có tháp bằng đồng vàng[122] cao hơn 100 thước (33.3 m).

Truyền thuyết kể rằng, trong tháp này có khoảng hơn một thăng xá-lợi Phật, vào đêm rằm mỗi tháng đều phát ra vầng hào quang tròn, chói sáng ra bên ngoài, hòa cùng ánh trăng cho đến lúc rạng đông mới dần dần thu lại rồi nhập vào trong tháp.

Phía tây nam kinh thành có núi Tỷ-la-sa-lạc,[123] có nghĩa là “tượng kiên”. Vì thần núi này hiện hình giống như con voi nên gọi tên núi là “tượng kiên”.

Ngày xưa, khi Phật còn tại thế, sơn thần Tượng Kiên từng có lần phụng thỉnh đức Phật cùng 1.200 vị Đại A-la-hán đến đây. Trên đỉnh núi có tảng đá lớn bằng phẳng, là nơi đức Như Lai ngồi nhận sự cúng dường của thần. Về sau, vua Vô Ưu[124] xây tháp ngay trên tảng đá này, cao hơn 100 thước (33 m), ngày nay gọi là tháp Tượng Kiên. Cũng nghe nói rằng trong tháp có xá-lợi Như Lai, ước khoảng hơn một thăng.[125]

Về phía bắc tháp Tượng Kiên, dưới sườn núi có một con suối rồng,[126] chính là nơi đức Như Lai và các vị A-la-hán sau khi thọ trai xong súc miệng, tước cành dương xỉa răng, nhân tiện cắm xuống, nay mọc lên thành một rừng cây um tùm. Người đời sau xây dựng một ngôi chùa ở đó, gọi tên là Bệ-đạt-khư, có nghĩa là “tước dương chi”.[127]

Từ nơi đây đi về hướng đông hơn 600 dặm (194 km), núi đồi khe suối liên tục nối nhau, núi cao chót vót hiểm trở, sau khi vượt qua ngọn Hắc Lĩnh thì vào địa phận Ấn Độ, đến nước Lam-ba thuộc miền Bắc Ấn.




____________________________________

CHÚ THÍCH

[1] Cao Xương (高昌), vương quốc thời cổ, từng tồn tại vào trước thế kỷ 7, ngày nay thuộc lãnh thổ Tân Cương, nằm quanh vùng thành phố Turban. Ngài Huyền Trang đến đây vào khoảng giữa tháng 12 âm lịch và lưu lại nơi đây hơn 40 ngày. Khi ấy Cao Xương còn là một vương quốc độc lập, nhưng đến năm 640 thì nhà Đường thôn tính nước Cao Xương và thành lập huyện Cao Xương nên khi biên soạn sách này thì gọi là “lãnh thổ của nước Cao Xương cũ” (高昌故地- Cao Xương cố địa).

[2] Ngài Huyền Trang khởi hành từ tháng 8 năm 627 (Trinh Quán nguyên niên), đến đây đã vượt qua đường dài hơn 2.600 km. Pháp sư truyện cho biết ngài cũng nhiều lần dừng lại trên đường đi, qua đó có thể ước tính khi đến nước này là vào khoảng cuối tháng 2 năm Trinh Quán thứ hai, tức là khoảng giữa tháng 4 năm 628.

[3] Nước A-kỳ-ni (S. Agni, H. 阿耆尼國), theo cựu dịch là Ô-kỳ (烏耆). Trong nhiều bộ sách cũ cũng gọi là nước Yên-kỳ (焉耆). Vị trí hiện nay có thể là khu vực quanh vùng thị trấn Karasahr, Yanqi Hui, tức là khu tự trị Tân Cương.

[4] Lúa môn (穈): một loại lúa đặc biệt không thấy ở Việt Nam, lúc mới lên mầm thuần màu đỏ, mọc được khoảng 3, 4 lá thì có hai màu xanh, đỏ lẫn lộn, từ khoảng 7, 8 lá trở đi thì chuyển sang toàn màu xanh.

[5] Bản Hán văn là “túc mạch” (宿麥), loại lúa mạch trồng vào mùa đông.

[6] Bản Hán văn là hương tảo (香棗), một loại táo màu hồng là thổ sản đặc biệt của vùng Tân Cương, có mùi thơm, vị ngon ngọt.

[7] Tức là Phạn ngữ có cải biến.

[8] Bản Hán văn là “chiên hạt” (氈褐) có thể chỉ loại vải dệt bằng lông thú (vải dạ) hoặc dệt bằng cây bông vải. Sách Nam sử (南史) quyển 79, truyện Cao Xương (髙昌傳) nói rằng vùng này có loại cây bông vải gọi là bạch điệp tử (白疊子), được người dân sử dụng dệt thành vải rất mịn, gọi là bạch miên bố (白棉布).

[9] Ba loại tịnh nhục (tam tịnh nhục - 三淨肉): ba loại thịt mà vị tăng theo Tiểu thừa được phép dùng, tức là thịt của những con vật mà: 1. Không nhìn thấy con vật bị giết vì mình; 2. Không nghe nói con vật bị giết vì mình; 3. Không nghi ngờ là con vật bị giết vì mình. “Bị giết vì mình” có nghĩa là người giết con vật ấy có ý giết nó để lấy thịt cho mình ăn.

[10] Tiệm giáo (漸教): Khái niệm đặc thù của Phật giáo Trung Hoa, chỉ sự tu tập từ từ, dần dần trải qua nhiều giai đoạn, mất nhiều thời gian trước khi chứng ngộ, khác với Đốn giáo (頓教) là đi thẳng vào tinh yếu của giáo pháp nên chứng đắc tức thời, nhanh chóng. Bản Hán văn là “trệ ư Tiệm giáo - 滯於漸教“ hàm ý sự tu tập của tăng chúng ở đây tuy chuyên cần, nghiêm cẩn nhưng do học theo Tiểu thừa (dùng tam tịnh nhục) nên bị trì trệ trong phạm vi của Tiệm giáo, khó tiến xa hơn.

[11] Nước Khuất-chi (S. Kuci, H. 屈支國), ngày nay là huyện Khố Xa (庫車) hay Kuqa, thuộc khu tự trị Tân Cương. Cách đọc cũ là Quy-tư (龜茲). Ngài Huyền Trang đến đây khoảng đầu tháng 3 năm Trinh Quán thứ hai, nhưng do tuyết chưa tan không thể đi qua Lăng sơn trên đường phía trước nên phải dừng lại hơn 2 tháng.

[12] Quả mơ tây lớn hơn quả mơ ở Việt Nam, tuy giống nhau nhưng thuộc về 2 chủng loại khác nhau. Mơ tây là Prunus armeniaca L.; mơ ta là Prunus mume.

[13] Bản Hán văn là “dục kỳ biển thê dã - 欲其匾㔸也”. Hai chữ “biển thê - 匾㔸”, Đại Chánh tạng ở đây viết nhầm thành “biến đệ - 遍遞“, không có nghĩa. Trong quyển 12, phần nói về nước Khư Sa (佉沙國) có nhắc lại tục lệ này và dùng đúng hai chữ “biển thê - 匾㔸”.

[14] Bản Hán văn là “thiên từ - 天祠“, miếu thờ trời. Vì vùng này theo tín ngưỡng như Ấn Độ nên đây là miếu thờ Đại Tự Tại Thiên (S. Maheśvara, H. 大自在天), dịch âm là Ma-hê-thủ-la (摩醯首羅). Phật giáo xem vị này chỉ là chủ quản một cõi trời và gọi là Phạm thiên, Đại Phạm thiên hay Đại phạm thiên vương.

[15] Đột-quyết (Göktürk - 突厥), tên một chủng tộc, thường gọi là người Thổ.

[16] Ngày trai (trai nhật), là những ngày chay trong tháng, căn bản có 4 ngày là 14, rằm, ngày cuối tháng và ngày đầu tháng theo âm lịch. Ngoài ra có thể áp dụng lục trai (6 ngày) hoặc thập trai (10 ngày).

[17] 5 năm một lần đại hội: tức Đại hội Vô già (S. Pañca-vārṣika), là một đại hội bố thí rất lớn, không phân biệt tăng tục, sang hèn, tất cả đều thực hiện việc pháp thí và tài thí bình đẳng như nhau. Việc tổ chức hội này 5 năm một lần được bắt đầu từ thời vua A-dục.

[18] Tiết thu phân thường vào khoảng gần cuối tháng 8 âm lịch hằng năm, theo dương lịch thì thường bắt đầu vào khoảng 22, 23 hoặc 24 tháng 9.

[19] Bản Hán văn là “秋分數十日間 - thu phân sổ thập nhật gian“, hiểu theo nghĩa thông thường là “mấy mươi ngày” (sổ thập nhật), nhưng vì nói “trong tiết thu phân” thì thời gian tối đa chỉ là 15 ngày, cho nên hiểu rằng ở đây muốn nói “mười mấy ngày”.

[20] A-xa-lý-nhị (S. Āścarya, H. 阿奢理貳), có nghĩa là “kỳ đặc” (奇特).

[21] Cúng dường bốn nhu cầu thiết yếu (tứ sự cúng dường - 四事供養), tức là dâng cúng bốn điều kiện thiết yếu, bao gồm: thức ăn uống (ẩm thực), quần áo (y phục), nơi cư trú, ngủ nghỉ (ngọa cụ), thuốc men (y dược).

[22] Bản Hán văn là “thiết tự cát thế - 竊自割勢“. “Cát thế” là một hình phạt ngày xưa, cũng gọi là cung hình (宫刑), cắt bỏ sinh thực khí (nam căn). Ở đây người em vua âm thầm tự thực hiện việc này để ngăn ngừa sự vu cáo mà ông biết trước có thể xảy ra.

[23] Nước Bạt-lộc-ca (S. Baluka, H. 跋祿迦國), theo cựu dịch là Cô-hắc (姑黑) hoặc Cức-hắc (亟黑). Ngày nay có thể là địa khu A-khắc-tô (Aksu) thuộc Tân Cương. Ngài Huyền Trang đến đây khoảng gần giữa tháng 5 năm Trinh Quán thứ hai (628).

[24] Bản Hán văn là “葱嶺北原 - Thông Lĩnh bắc nguyên”, nhưng theo Pháp sư truyện nói là “葱嶺北隅 - Thông Lĩnh bắc ngung“ (sườn núi phía bắc của rặng Thông Lĩnh) và mô tả chi tiết đây là vùng núi, đoàn của ngài Huyền Trang phải đi mất 7 ngày mới ra khỏi núi, rất người chết vì quá lạnh. (Xem ĐCT, T50, 2053, tr.227a) Dãy núi này nay gọi là Thiên sơn (Tianshan), trải dài từ Tân Cương sang đến Kazakhstan và Kyrgyzstan, các đỉnh núi cao nhất hơn 7.000 mét. Do yếu tố băng tuyết trên núi “mùa xuân, mùa hạ vẫn đông cứng” nên ngài Huyền Trang qua đây sớm nhất cũng phải giữa tháng 6, hoặc muộn hơn, vì trước đó khi băng chưa tan thì không thể đi qua.

[25] Bản Hán văn là “bạo long nạn” (暴龍難), tuy thời ấy được tin rằng do loài rồng dữ gây ra, nhưng thực sự có lẽ chính là nạn băng tan lở đá từ các sườn núi. Vì tin là do rồng gây ra nên mới cho là có liên quan đến việc mặc áo màu đỏ, mang bình đựng nước hoặc kêu la lớn tiếng...

[26] Hồ nước này nay là hồ Issyk-Kul, nằm về phía đông Kyrgyzstan. Theo số liệu ngày nay thì hồ dài 182 km, rộng 57 km, hoàn toàn khớp với mô tả “đông tây dài, nam bắc hẹp” của ngài Huyền Trang. Thời điểm ngài Huyền Trang đến hồ này được ước tính vào khoảng giữa tháng 6 năm Trinh Quán thứ hai (628).

[27] Bản Hán văn là “素葉水城 - Tố Diệp thủy thành”, vì thành này nằm ở ven sông. Vị trí này ngày nay có thể là Ak-Béshim, thuộc Kyrgyzstan. Theo địa hình thì đây là sông Chuy (Chu Riv-er).

[28] Người Hồ ở đây được dùng chỉ hầu hết các dân tộc nằm về phía tây Trung Hoa vào thời đó.

[29] Đột-quyết (Göktürk - 突厥) là một dân tộc sống du mục từ rất sớm ở vùng Trung Á. Do vậy, họ là tổ tiên của các tộc người Khiết đan, Mông Cổ về sau này. Quyền lực của các vua Đột-quyết vào thời đó chi phối rất nhiều nước nhỏ trong vùng.

[30] Thiên tuyền (千泉), có nghĩa là “ngàn dòng suối”, do vùng này có rất nhiều suối khe nên được gọi tên như vậy.

[31] Khả Hãn (可汗 - Khagan) là danh xưng của vua Đột-quyết. Danh hiệu này đã được tộc người Tiên Ti (Xianbei - 鲜卑) sử dụng từ khoảng thế kỷ 4, về sau người Đột-quyết dùng theo để gọi người lãnh đạo cao nhất của họ. Vị Khả-hãn mà ngài Huyền Trang gặp là Thống Diệp Hộ Khả-hãn (統葉護可汗).

[32] Bản Hán văn là “tiểu cô thành - 小孤城“. Chúng tôi không nghĩ đây là tên riêng, vì trong văn trước đây từng dùng “cô thành” để chỉ các thành nằm riêng biệt, độc lập.

[33] Nước Nô-xích-kiến (笯赤建國), phiên âm từ chữ Nujkend, nay là vùng Chimkent (Shymkent, Kazakhstan). Pháp sư truyện cho biết ngài Huyền Trang gặp Khả-hãn Diệp Hộ ở Thiên Tuyền được tiếp đãi và lưu giữ khoảng 1 tuần, cộng với đường đi đến đây mất khoảng 30 ngày. Như vậy có thể ước tính đến đây vào khoảng đầu tháng 7 năm Trinh Quán thứ hai (628).

[34] Nước Giả-thời (赭時國), phiên âm từ chữ Chaj. Các sách ở Trung Hoa thời đó gọi là Thạch quốc (石國). Nay rất có thể là Tashkent, thủ đô của Uzbekistan.

[35] Sông Diệp (葉河) tức là sông Syr Darya, là một trong 2 sông chính của vùng Trung Á, phát nguyên từ dãy Thiên sơn (Tienshan), chảy theo hướng tây, tây nam rồi tây bắc, đổ vào hồ Aral. Pháp sư truyện gọi là sông Diệp Diệp.

[36] Trên bản đồ ngày nay, quãng đường từ Tashkent đến Fergana Valley (Phế-hãn ngày xưa) được xác định là 302 km, có thể xem là khá tương đồng.

[37] Nước Phế-hãn (S. Fer-ghanah, H. 㤄捍國), nay là vùng Fergana Valley, Uzbekistan. Từ nước Giả-thời nói đến Phế-hãn, nguyên tác chỉ dùng chữ “至 - chí” không có chữ “行 - hành”, có thể ngài Huyền Trang không đích thân đến mà chỉ ghi chép theo sự tìm hiểu. Phế-hãn nằm về hướng đông nam, lệch ra ngoài lộ trình nên việc không đến nước này là hợp lý. Pháp sư truyện cũng không nhắc đến nước này. Như vậy, hành trình thực tế là từ nước Giả-thời đi đến Tốt-đổ-lợi-sắt-na.

[38] Nguyên tác nói “tự thử” (từ đây) nhưng phải được hiểu là từ nước Giả-thời.

[39] Nước Tốt-đổ-lợi-sắt-na (S. Sutrishna, H. 窣堵利瑟那國 ), nay có thể là vùng Istaravshan, Tajikistan, gần sát biên giới Uzbekistan.

[40] Vì có rất nhiều người trước đây khi qua sa mạc này đã bỏ mạng, để lại xương cốt trên cát. Khách bộ hành nhặt các xương khô này xếp làm ký hiệu trên đường đi để tránh việc quay lại nơi đã đi qua. Theo mô tả phương hướng và khoảng cách thì chính là vùng sa mạc Ky-zylkum ngày nay, rộng 298.000 km2, nằm trên lãnh thổ cả 3 nước Kazakhstan, Turkmenistan và Uzbekistan. Sa mạc này nằm về hướng tây bắc của Tốt-đổ-lợi-sắt-na, nhưng nước Táp-mạt-kiến nằm về hướng tây nam, do đó ngài Huyền Trang không thể đi qua sa mạc này để đến Táp-mạt-kiến. Đoạn văn này chỉ mô tả về sa mạc theo như nghe biết nhưng không nằm trên đường đi vì ở hướng ngược lại. Pháp sư truyện có sự nhầm lẫn khi cho rằng tiếp tục đi về hướng tây bắc đến Táp-mạt-kiến.

[41] Nước Táp-mạt-kiến (S. Samarkand, H. 颯秣建國), nhà Đường gọi là nước Khương, vị trí ngày nay có thể là quanh vùng Samaquan.

[42] Theo quy ước sử dụng các chữ “hành” và “chí” thì có thể hiểu rằng từ nước Táp-mạt-kiến ngài Huyền Trang đã đi thẳng đến nước Yết-sương-na. Do vậy, 7 nước tiếp theo sau đây gồm Nhị-mạt-hạ, Kiếp-bố-đát-na, Khuất-sương-nhĩ-ca, Khái-hãn, Bộ-khái, Phạt-địa và Hóa-lợi-tập-di-ca chỉ được ghi chép theo sự tìm hiểu, không thực sự đi đến. Pháp sư truyện có nhắc việc đi đến các nước Khuất-sương-nhĩ-ca, Khái-hãn, Bộ-khái, Phạt-địa và Hóa-lợi-tập-di-ca nhưng không mô tả.

[43] Nước Nhị-mạt-hạ (S. Maymurgh, H. 弭秣賀國), nhà Đường gọi là nước Mễ.

[44] Nước Kiếp-bố-đát-na (S. Kaputana, H. 劫布呾那國), nhà Đường gọi là nước Tào.

[45] Nước Khuất-sương-nhĩ-ca (S. Kusanika, H. 屈霜爾伽國), nhà Đường gọi là nước Hà. Theo cách viết của Tây vực ký thì đọc là Khuất-sương-nhĩ-già, nhưng theo Pháp sư truyện chép là “屈霜儞迦國- Khuất-sương-nhĩ-ca quốc”, gần hơn với âm tiếng Phạn. Do vậy có thể Tây vực ký muốn dùng chữ “伽“ theo âm “ca”.

[46] Nước Khái-hãn (S. Kuan, H. 喝捍國), nhà Đường gọi là nước Đông An. Chữ 喝 thường đọc theo âm “hát” hoặc “ái”, nhưng trong cách dùng để phiên âm ở đây đọc là “khái”. (【集韻】丘蓋切【韻會】苦蓋切,音磕 - Tập vận: khâu cái thiết; Vận hội: khổ cái thiết; âm khái.)

[47] Nước Bộ-khái (S. Bo-khara, H. 捕喝國), nhà Đường gọi là nước Thủ An quốc (守安國), Pháp sư truyện nói là Trung An quốc (中安國), e bị nhầm chữ thủ (守) thành chữ trung (中).

[48] Pháp sư truyện nói là về hướng tây hơn 100 dặm, thay vì 400 dặm như ở đây.

[49] Nước Phạt-địa (S. Betik, H. 伐地國), nhà Đường gọi là nước Tây An.

[50] Nước Hóa-lợi-tập-di-ca (S. Khwārazin, H. 貨利習彌伽國).

[51] Sông Phược-sô (S. Vak-su, H. 縛芻), tức là sông Amu Darya.

[52] Ở đây đặc biệt nói đường đi từ nước Táp-mạt-kiến, chứng tỏ những nước vừa kể trên không được đi đến mà chỉ nghe và ghi chép.

[53] Nước Yết-sương-na (S. Kusana, H. 羯霜那國), nhà Đường gọi là nước Sử. Vị trí ngày nay có thể là thành phố Shahrisabz thuộc vùng Qashqadaryo, Uzbekistan.

[54] Cửa ải này chắn ngang đường khe núi hẹp, là độc đạo bắt buộc phải đi qua. Do cổng làm bằng sắt nên gọi tên là Thiết Môn (鐵門).

[55] Nguyên tác nói là Đổ-hóa-la quốc (S. Tukhara, H. 覩貨邏國) nhưng đây không phải tên một nước mà chỉ một vùng đất, một địa khu bao gồm nhiều nước, trước kia phiên âm là Thổ-hỏa-la (吐火羅). Theo mô tả trong phần tiếp theo thì đến nước Yết-chức rồi, đi hơn 600 dặm (194 km) nữa mới ra khỏi địa giới của vùng Đổ-hóa-la này.

[56] Tuyết Sơn (雪山) thường được dùng để chỉ Hy-mã-lạp sơn. Tuy nhiên, trong ngữ cảnh tại đây và một số trường hợp về sau trong sách này, ngài Huyền Trang đã dùng tên gọi Đại Tuyết sơn (大雪山) để chỉ dãy núi Hindu Kush, được phiên âm là Hưng-đô-khố-thập (興都庫什).

[57] Pháp sư truyện kể rằng ngài Huyền Trang ra khỏi Thiết môn thì đi mấy trăm dặm nữa mới qua sông Phược-sô, tức là lên bờ phía nam, rồi đi đến nước Hoạt, tiếp đến là Phược-khái, Yết-chức... bỏ qua rất nhiều nước được kể ở đây. Như vậy, những nước bên bờ bắc sông Phược sô chỉ là nghe biết rồi ghi chép lại chứ không đi đến.

[58] Nước Đát-mật (S. Tir-midh, H. 呾蜜國), vị trí hiện nay có thể là thành phố Termez ở vùng Surxondaryo thuộc Uzbekistan.

[59] Bản Hán văn là tốt-đổ-ba (S. stūpa, H. 窣堵波) và chú rằng những cách đọc trước đây như phù-đồ (浮圖), thâu-bà (鍮婆), tháp-bà (塔婆) tư-thâu-bá (私鍮簸) tẩu-đẩu-ba (藪斗波) đều không đúng.

[60] Nước Xích-ngạc-diễn-na (S. Saghāniān, H. 赤鄂衍那國), vị trí hiện nay có thể nằm về phía nam thành phố Samarkand, thuộc nước Uzbekistan.

[61] Nước Hốt-lộ-ma (S. Garma, H. 忽露摩國), vị trí hiện nay có thể nằm về phía tây thủ đô Dushanbe của nước Tajikistan.

[62] Nước Du-mạn (S. Shu-man, H. 愉漫國), một nước nhỏ vẫn còn nằm trong vùng Đổ-hóa-la.

[63] Nước Cúc-hòa-diễn-na (S. Kuvayana, H. 鞠和衍那國), cũng được phiên âm là Cửu-việt-đắc-kiền (久越得犍国), kinh đô là Thành Bộ Sư (步师城), nay thuộc khu vực Kubadiyan, nằm về phía tây nam Tajikistan. Đến năm Long Sóc nguyên niên (661) đã thuộc về lãnh thổ nhà Đường, có thiết lập Vương Đình Châu đô đốc phủ (王庭州都督府) tại đây để cai quản.

[64] Nước Hoạch-sa (S. Wakhsh, H. 鑊沙國), vẫn thuộc vùng Đổ-hóa-la, ngày nay thuộc Tajiki-stan.

[65] Nước Kha-đốt-la (S. Khotl, H. 珂咄羅國), vị trí hiện nay có thể là vùng Kulob thuộc nước Tajiki-stan.

[66] Nước Câu-mê-đà (S. Kumidha, H. 拘謎陀國), đúng ra là nằm rất xa về hướng đông bắc của Kha-đốt-la, vẫn thuộc vùng Tajikistan ngày nay.

[67] Tức là sẽ được ghi chép trong quyển 12.

[68] Theo Pháp sư truyện thì ngài Huyền Trang sau khi ra khỏi Thiết Môn đến vùng Đổ-hóa-la rồi từ đó đi đến nước Hoạt, nhưng ở đây không mô tả nước Hoạt mà đến quyển 12 mới mô tả nước này. Từ nước Phạt-địa đến nước Đát-lạt-kiện chỉ thấy nói về phương hướng các nước mà không nói khoảng cách đường đi, cũng không có nhiều chi tiết cụ thể, có thể đoán rằng các nước trong vùng này chỉ được ngài nghe nói và ghi chép chứ không đi đến.

[69] Nước Phược-già-lãng (S. Baghlān, H. 縛伽浪國), vị trí hiện nay có thể là tỉnh Baghlan, thuộc nước Afghani-stan.

[70] Nước Hột-lộ-tất-dân-kiện (S. Hrum-Simingan, H. 紇露悉泯健國), vị trí hiện nay có thể là tỉnh Samangan, nước Afghanistan

[71] Nước Hốt-lẫm (S. Khulm, H. 忽懍國), vị trí hiện nay có thể là phía bắc tỉnh Samangan, nước Afghani-stan.

[72] Nước Phược-khái (S. Balkh, H. 縛喝國), vị trí ngày nay có thể là thành phố Balkh thuộc nước Afghani-stan. Biện Cơ có nêu ra quy tắc về cách biên soạn sách này: “書行者,親遊踐也;舉至者,傳聞記也。 - Thư hành giả, thân du tiễn dã; cử chí dã, truyền văn ký dã.” (Khi viết chữ hành là [nơi ấy] đích thân đi đến; khi nêu chữ chí là chỉ được nghe mà ghi chép lại.) Nguyên tác Hán văn nói về nước này chỉ dùng chữ “chí”, không có chữ “hành”, nhưng theo Pháp sư truyện thì ngài Huyền Trang có đích thân đến đây. Như vậy quy tắc mà Biện Cơ nêu ra cũng không hoàn toàn chính xác. Pháp sư gặp tang sự nhà vua ở Hoạt quốc đã phải dừng lại hơn một tháng. Nước này có nhiều thánh tích, ngài đã dừng lại để chiêm bái. Ngoài ra còn gặp được vị tăng uyên bác là Bát-nhã-yết-la ( 般若羯羅)(Hán dịch là Tuệ Tánh - 慧性) nên lưu lại hơn một tháng để học luận Tỳ-bà-sa.

[73] Chùa Nạp-phược (S. Nava Vihara, H. 納縛), Hán dịch là Tân tự (新寺), có nghĩa là “chùa mới”.

[74] Bản Hán văn là “tiên vương - 先王“ nhưng không phải đức vua đời vừa qua, mà chỉ một vị vua từ trước đó nhiều đời.

[75] Đại Tuyết sơn (大雪山): chỉ dãy núi Hindu Kush trong vùng này.

[76] Tỳ-sa-môn Thiên (S. Vaiśravaṇa, H. 毘沙門天), cũng gọi là Tỳ-sa-môn Thiên vương, dịch nghĩa là Đa Văn Thiên (多聞天). Theo kinh điển Phật giáo thì đây là một trong 4 vị Thiên vương bảo vệ cõi Diêm-phù-đề. Vị này bảo vệ ở phương bắc.

[77] Đấu (斗): đơn vị đo lường cổ, mỗi đấu bằng 10 thăng (升), ước chừng bằng khoảng 10 lít.

[78] Người ta tin rằng chậu tắm và cây chổi ở chùa này trước đây từng được đức Phật sử dụng. Đây chính là lý do tạo nên sự linh thiêng, quý báu của những vật này.

[79] Cỏ ca-xa (S. kāśa, H. 迦奢): cũng được phiên âm là cỏ gia-thi (加尸), là một loại cỏ thường được dùng làm tọa cụ.

[80] Lục trai: là 6 ngày chay trong tháng, gồm các ngày 8, 14, 15, 23 và 2 ngày cuối tháng.

[81] Bản Hán văn là “tinh lư - 精廬” (lều cỏ nơi chư tăng tu tập), trong thực tế dùng để chỉ tinh xá (精舍), nơi được xây dựng với đầy đủ phòng ốc cho chư tăng tĩnh tu.

[82] Tức là nói lúc ngài Huyền Trang đến đây.

[83] Vườn Nai: Bản Hán văn là “lộc viên - 鹿園“, tức là chỉ Lộc Uyển.

[84] Hai vị trưởng giả này tên là Trapusa và Bhallika. Ở đây nhắc chuyện này vì hai tòa thành vừa kể chính là mang tên hai vị.

[85] Tức Ngũ giới (五戒) và Thập thiện (十善).

[86] Y tăng-già-chi (S. saṃghāti, H. 僧伽胝), . Ở đây ngài Huyền Trang (Tân dịch) cho rằng cách phiên âm cũ (Cựu dịch) tăng-kì-lê (僧 祇梨) là không đúng. Tên gọi này cũng được phiên âm là tăng-già-lê (僧伽梨), dịch nghĩa là đại y (大衣), hoặc trọng y (重衣), hoặc tạp toái y (雜碎衣), hoặc cao thắng y (高勝衣), cũng được gọi là cửu điều y (九條衣).

[87] Y uất-đa-la-tăng (S. ut-tarāsaṅga, H. 欝多羅僧), dịch nghĩa là thượng y (上衣), hoặc trung giá y (中價衣), hoặc nhập chúng y (入眾衣), cũng gọi là thất điều y (七條衣).

[88] Y tăng-khước-kỳ (S. saṁghāṭi, H. 僧却崎), ngài Huyền Trang cho rằng trước đây phiên âm tăng-kỳ-chi (僧祇支) là không đúng. Tên gọi này cũng được phiên âm là tăng-cước-kỳ-ca (僧腳崎迦), tăng-kiệt-chi (僧竭支), tăng-ca-chi (僧迦支), tăng-khước-kỳ (僧卻崎), tăng-cước-kỳ (僧腳崎), tăng-cước-sai (僧腳差). Đôi khi được gọi ngắn gọn là y kỳ-chi (祇支) hoặc y kiệt-chi (竭支).

[89] Tốt-đổ-ba (S. stūpa, H. 窣堵波), cũng được dịch âm là phù-đồ (浮屠), tức là ngọn tháp xây dựng với mục đích thờ kính trong đạo Phật.

[90] Theo nội dung ở đây thì có vẻ như chính hai vị Trapusa và Bhallika đã xây hai ngọn tháp ở hai tòa thành ngày nay mang tên họ như vừa được nhắc ở trên.

[91] Ngữ cảnh ở đây không hoàn toàn rõ ràng, nhưng chúng tôi cho là nói đến phía tây của thành Ba-lợi. Vì khi nói đến kinh thành, nguyên tác thường dùng chữ “đại thành”.

[92] Nước Duệ-mạt-đà (S. Jumadha, H. 銳秣陀國), vị trí hiện nay có thể thuộc miền bắc nước Afghanistan. Khi nói về 2 nước Duệ-mạt-đà và Hồ-thật-kiện, nguyên tác Hán văn không dùng chữ “hành”, nhưng Pháp sư truyện nói rõ là ngài Huyền Trang có đích thân đến thăm 2 nước này theo lời mời của 2 đức vua. Ngài dừng lại ở Phược-khái hơn một tháng để học kinh luận.

[93] Nước Hồ-thật-kiện (S. Juzgāna, H. 胡寔健國), vị trí hiện nay có thể là thành phố Sheberghan thuộc tỉnh Jowzjan ở miền bắc Afghanistan.

[94] Nước Đát-lạt-kiện (S. Tālikān, H. 呾剌健國), vị trí hiện nay có thể là thành phố Toloqan thuộc tỉnh Takhar ở miền bắc nước Afghanistan.

[95] Nước Ba-lạt-tư (S. Per-sia H. 波剌斯國), cũng thường được gọi là nước Ba Tư, tức là nước Iran ngày nay.

[96] Theo Pháp sư truyện thì từ nước Phược-khái, ngài Huyền Trang được mời đến thăm các nước Duệ-mạt-đà và Hồ-thật-kiện, sau đó trở về Phược-khái rồi mới đi tiếp. Không thấy đề cập đến nước Đát-lạt-kiện nên có lẽ ngài không đi đến nước này. (Xem ĐCT, T50, 2053, tr.228b, d.25-29.)

[97] Nước Yết-chức (S. Gachi, H. 揭職國), vị trí hiện nay nằm gần tỉnh Bamiyan, về phía bắc nước Afghani-stan.

[98] Nước Phạm-diễn-na (S. Bamiyana, H. 梵衍那國), vị trí hiện nay có thể là thuộc tỉnh Bamiyan, nước Afghan-istan. Theo ước tính, ngài Huyền Trang đã đến đây vào khoảng đầu tháng 11 năm Trinh Quán thứ hai (628).

[99] Bản Hán văn là “túc mạch - 宿麥“, chỉ loại lúa mạch thường trồng vào mùa thu, kéo dài sang năm sau mới thu hoạch, cũng gọi là đông mạch (冬麥).

[100] Bản Hán văn là “thâu thạch - 鍮石“ Đây là kỹ thuật luyện kim thời cổ của địa phương này. Họ dùng đồng nấu chảy với một loại quặng gọi là đá lô-cam (爐甘石) thì có được thâu thạch.

[101] Bản Hán văn là “長千餘尺 - trường thiên dư xích“ (dài hơn ngàn thước), nếu không có gì sai sót ở đây thì tượng Phật này quá lớn. Tượng Phật Niết-bàn dài nhất hiện nay được biết ở Monywa (Myanmar) dài 90 m, và tượng này dài hơn gấp 3.5 lần.

[102] Đại hội Vô-già, tức đại hội bình đẳng bố thí được tổ chức 5 năm một lần, đã có đề cập trong phần trước.

[103] Độc giác: cũng gọi là Phật Độc giác hay Phật Bích-chi, chỉ các vị tu hành chứng ngộ vào thời không có Phật xuất thế, do tự chiêm nghiệm lý nhân duyên, vô thường mà được chứng ngộ nên gọi là “độc giác”.

[104] Thương-nặc-ca Phược-sa (S. Śāṇaka-vāsa, H. 商諾迦縛娑), ngài Huyền Trang cho rằng trước đây phiên âm Thương-na-hòa-tu (商那和修) là không đúng. Vị này là đệ tử nối pháp của ngài A-nan, được xem là Tổ thứ ba của Thiền tông Ấn Độ.

[105] Bản Hán văn là “量可八, 九升 - lượng khả bát, cửu thăng” (chứa được khoảng 8, 9 thăng). Các tài liệu hiện nay đều nói mỗi thăng là 1/10 đấu (斗), tương đương khoảng 1 lít. Chúng tôi chưa rõ có thể có sự nhầm lẫn ở phía nào, nhưng bình bát khất thực mà chứa được 8, 9 lít nước thì quá lớn. Phần trước, chậu tắm của Phật được mô tả là chứa được 1 đấu, tức 10 lít nước, so với mô tả ở đây không hợp lý.

[106] Thiết-nặc-ca (設諾迦): tên một loại cỏ gai, dùng lấy sợi dệt thành vải được.

[107] Trung ấm (中陰) là thân trung gian giữa hai kiếp sống, khi thần thức còn trong giai đoạn chấm dứt đời sống này nhưng chưa khởi đầu đời sống tiếp theo. Sinh ấm (生陰), cũng gọi là sinh hữu (生有), là khi đã sinh ra, bắt đầu một đời sống mới.

[108] Biên tế định (邊際定): mức thiền định cao nhất trong Sắc giới.

[109] Ý ngài Huyền Trang là tấm y bắt đầu hư hoại cho thấy giáo pháp của Phật Thích-ca cũng đã bắt đầu mất dần.

[110] Nước Ca-tất-thí (S. Kāpiśa, H. 迦畢試國), vị trí này ngày nay có thể là vùng phụ cận thủ đô Kabul. Di chỉ kinh thành có thể là Begram, nằm cách Kabul khoảng 60 km về phía bắc, thuộc tỉnh Parwan, Afganisstan. Theo ước tính thì thời điểm ngài Huyền Trang đến đây hẳn là khoảng đầu tháng 12. Pháp sư truyện nói ngài đã dừng lại an cư và giảng giải kinh luận nơi đây. Phần trước ở nước Yết-sương-na có nói: “Tăng chúng nơi đây bắt đầu an cư từ ngày 16 tháng 12, cho đến ngày 15 tháng 3 thì kết thúc, vì thời gian này có mưa nhiều.” Do vậy biết rằng ngài Huyền Trang đã ở lại an cư tại Ca-tất-thí cho đến qua ngày 15 tháng 3 năm sau.

[111] Uất kim hương cũng gọi là nghệ tây (saffron), là một loài thực vật thuộc họ diên vĩ (iridaceae), được trồng để thu hoạch nhụy hoa làm gia vị và hương liệu, có màu vàng như nghệ.

[112] Bản Hán văn là “異道 - dị đạo”, cũng có thể hiểu là ngoại đạo, những người không tin theo đạo Phật.

[113] Nguyên tác ghi câu này là “伽藍朽壞,取以修治 - già lam hủ hoại, thủ dĩ tu trị”.

[114] Hạt-la-hỗ-la (S. Rāhula, H. 曷邏怙羅), thường đọc là La-hầu-la.

[115] Thước cổ, tức là khoảng mấy chục mét.

[116] Nguyên tác không nói rõ, nhưng theo ý nghĩa câu này thì dường như vị A-la-hán đã biết chuyện sa-di có lòng hiềm trách nên nói rõ với Long vương và Long vương đã xin sám hối là vì chuyện này.

[117] Tuy đây chỉ là truyền thuyết, nhưng vua Ca-nị-sắc-ca (S. Kaniṣka, H. 迦膩色迦王) là một vị vua có thật, niên đại vào khoảng thế kỷ 2 (127-151), đặt thủ đô ở Kiện-đà-la (犍陀羅) và chinh phạt mở rộng đất nước thành một đế quốc rộng lớn.

[118] Bản Hán văn là kiền chùy (犍 槌 ) chỉ chung các loại khí cụ phát ra âm thanh như chuông, khánh, mộc bản... được dùng trong chùa. Thuở xưa Ấn Độ chưa dùng chuông trống, chỉ dùng tấm bảng gỗ để gõ vào tạo âm thanh. Về sau thì chữ này được dùng để chỉ chung việc tạo âm thanh lớn và vang xa để triệu tập hoặc cảnh báo chư tăng, như đánh chuông, trống...

[119] Thăng (升): bằng một phần mười của đấu (斗).

[120] Tức lục trai (六齋), gồm các ngày mồng 8, 14, 15, 23 và 2 ngày cuối tháng.

[121] Tức là xá-lợi răng sữa, xương đầu và tóc của Phật.

[122] Bản Hán văn là kim đồng (金銅): loại hợp kim đồng có màu vàng sáng.

[123] Tỷ-la-sa-lạc (S. Pilusāra, H. 比羅娑洛), dịch nghĩa là “tượng kiên” (象堅), con voi mạnh mẽ, dũng mãnh.

[124] Vua Vô Ưu, tức tên khác của vua A-dục (Aśoka). Vô Ưu (無憂) là dịch nghĩa của chữ Aśoka. Trong sách này ngài Huyền Trang thường xuyên sử dụng tên gọi này.

[125] Theo đơn vị ngày nay là khoảng 1 lít.

[126] Bản Hán văn là “有一龍泉 - hữu nhất long tuyền” nên không phải tên riêng, chỉ là một dòng suối nói chung. Theo niềm tin xưa kia thì những nơi được tin là có rồng ở đều gọi bằng chữ “long” (龍), như 龍井 - long tỉnh (giếng rồng), 龍池 - long trì (ao rồng), 龍泉- long tuyền (suối rồng)...

[127] Chữ bệ-đạt-khư (S. piṭṭaka, H. 鞞鐸佉) Hán dịch là tước dương chi (嚼楊枝), chỉ việc nhai một cành dương nhỏ để làm sạch răng sau khi ăn. Tuy nhiên, tùy điều kiện mỗi nơi, cũng không nhất thiết phải dùng cành dương mà có thể dùng nhiều loại cây khác.

    « Xem chương trước       « Sách này có 16 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này



_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Cho là nhận


Tư tưởng xã hội trong Kinh điển Phật giáo Nguyên thủy


Phóng sinh - Chuyện nhỏ khó làm


Dưới cội Bồ-đề

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.

Tiếp tục nghe? 🎧

Bạn có muốn nghe tiếp từ phân đoạn đã dừng không?



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.137 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...