Bà là một người bình thường, vóc dáng thon nhỏ, lưng hơi khòm, chân thấp chân cao, đi đứng chậm chạp, ăn mặc giản dị.
Đạo tràng của bà là một cái chòi lá không có cửa, căng một sợi dây, vắt ngang cái áo tràng giả làm tấm chắn cho trẻ không chạy vào đùa giỡn. Hai tư thế: ngồi niệm Phật và đi kinh hành tay lần chuỗi cứ thay phiên nhau. Hễ đủ số là bà ngồi nhai trầu nghỉ giải lao...
Thế mà bà vãng sanh còn lưu lại xá lợi!
Bà Nguyễn Thị Trị sinh năm 1924, cư ngụ phường Cái Khế, khu vực 5, hẻm 114, đường Cách Mạng Tháng Tám, quận Ninh Kiều, Thành phố Cần Thơ. Đến tuổi trưởng thành bà lập gia đình với ông Nguyễn Văn Kỹ, khi đứa con trai đầu lòng chào đời chưa bao lâu thì ông chồng mất, bà thủ tiết nuôi con.
Vóc dáng bà thấp nhỏ, lưng hơi khòm, chân thấp chân cao vì bị té gãy từ lâu, thế nên bà đi đứng chậm chạp. Bà có đức tính thuần hậu, miệng thường nhai trầu đỏ chót. Bà không biết chữ lại lãng tai. Bà ít nói, trang phục bình dị, ăn uống đạm bạc không khen chê ngon dở. Duy có món trầu thì con cháu phải có cho bà mỗi ngày.
Bà biết chút ít thuốc gia truyền nên hay làm phước cứu giúp chữa trị cho những người bị bệnh: quai bị, đau cổ, dời ăn, ung nhọt… Hơn 10 năm trước khi mất, bà được Phật tử Minh Chất và Diệu Nguyệt hướng dẫn cho bà mến đạo, và dần dà khuyến khích bà quy y Tam Bảo, thọ trì ngũ giới, được Hòa thượng Chơn Đức chùa Hội Linh đặt pháp danh là Diệu Thạnh. Từ đó bà phát tâm ăn chay trường, giữ giới tinh nghiêm. Bà lại được Hòa thượng Thiện Cung và thầy Đức Toàn khuyến tấn pháp môn Tịnh Độ, và bà thường theo Minh Chất đi hộ niệm cầu an cho các bệnh nhân và cầu siêu cho các đám tang. Dù trời có mưa gió hay lụt lội cũng không thiếu vắng bà. Nhờ duyên lành này mà bà nỗ lực tu tạo phước đức, và khi chứng kiến cảnh kẻ giã từ trần thế ra đi về cõi vĩnh hằng đã để lại bao nỗi sầu thương tuôn theo dòng lệ, bỗng chợt nghĩ đến thân phận mình, bà tỉnh ngộ được phần nào về lời khai thị của chư Tôn Đức:
“Người mê đắm đuối tiền tài,
Đến khi dứt thở hình hài ra tro.
Còn kẻ trí toan lo xét kỹ,
Cái thân này có tí nào vui.
Trải qua một cuộc tới lui,
Lưng còm gối mỏi rồi chui vào hòm!
Để mắt ngó gò hoang nghĩa địa,
Cỏ xanh rì mai mỉa người đời!
Giàu nghèo tuy khác hiện thời,
Mãn phần rồi cũng về nơi chốn này!
Kẻ sang với ăn mày hèn hạ,
Cuối cuộc đời mồ mả chung đây!
Người già, trẻ, kẻ dở, hay,
Cũng đồng gởi xác ra ngoài bãi hoang!
Kìa phụ nữ, nọ chàng nam tử,
Lúc chung qui đều ngự cỏ xanh!
Kẻ xấu xí, người đẹp xinh,
Hồn lìa khỏi xác, gởi mình hang sâu.
Kẻ vương bá công hầu tể tướng;
Lâm trận đồ cũng mượn gò ni!
Ai ơi, nghĩ kỹ sầu bi!
Cái thân không thiệt, hồn đi nơi nào?
Sực tỉnh lại mau mau tu tập,
Ác rán chừa, vun đắp thiện căn!
Hôm mai giới luật ân cần,
Chuyên câu niệm Phật, ngự thân sen vàng!”
***
Bà chung sống với gia đình người con trai là Phật tử Thiện Đạo và cô con dâu pháp danh Diệu Dung, cùng bốn đứa cháu nội. Mặc dù nhà cửa khá giả khang trang, nhưng từ ngày quy y thọ giới rồi, bà bảo con cất cho bà một cái chòi lá trong sân, chỉ cách đường đi một hàng rào bông bụt. Chòi lá không có cửa, trong đó kê một chiếc giường cũ kỹ, một cái tủ nhỏ cũ mèm đựng hai ba bộ quần áo. Trên đầu giường là tượng đức Phật A-di-đà tiếp dẫn. Đạo tràng lý tưởng của bà là căng một sợi dây, vắt ngang cái áo tràng giả làm tấm chắn cho trẻ không chạy vào đùa giỡn.
Công khóa thường nhật của bà bắt đầu từ 4 giờ khuya, niệm Phật đến 6 giờ sáng. Điểm tâm xong bà ngồi nhai trầu, lát sau thì đi kinh hành xung quanh sân nhà, đến trưa dùng cơm. Hai tư thế ngồi niệm Phật và đi kinh hành tay lần chuỗi cứ luân phiên nhau, hễ đủ số là bà ngồi nhai trầu nghỉ giải lao. Ai đau bệnh nhờ điều trị thì bà ngưng tu để trị bệnh. Sáu đến tám giờ tối bà đến nhà Phật tử Minh Chất ở gần bên để cộng tu với các bạn đạo, tụng một biến kinh A-di-đà và niệm Phật hồi hướng xong rồi thì bà về chòi lá. Do không biết chữ nên ai tụng kinh thì tụng, còn bà thì cứ ngồi niệm Phật vậy thôi. Bà thường niệm cao thanh, tay thì lần chuỗi, phong thái rất ung dung, giọng điệu rất thanh thoát. Vì chòi lá cạnh đường hẻm nên mọi người đi qua đi lại đều nghe tiếng bà niệm “Nam Mô A-di-đà Phật ” rõ ràng, chậm rãi nối nhau không dứt, mặc cho xe chạy, trẻ con đùa la, người nói ồn ào. Bà đếm xâu chuỗi bằng hột me, cứ 500 hột thì bà ngồi nghỉ và nhai trầu. Thỉnh thoảng khách bộ hành thì thầm với nhau: “Chèn ơi! Bà cụ siêng niệm Phật quá!” Hay là: “Chèn ơi bà cụ niệm Phật tốt quá!”
Đôi lúc các cháu có mời bà vào nhà xem tivi. Bà nói:
- Thôi! Để tao niệm Phật!
Ban đêm bà cũng ngủ trong chòi lá, bà nói như vậy cho được yên tịnh. Lúc ngủ con cháu cũng thấy bà nhép miệng niệm Phật cho đến khi ngủ quên. Thỉnh thoảng bà cũng thường ôm cháu nội hay những đứa bé lối xóm vào lòng mà khuyên:
- Con rán niệm Phật nghen con!
Hoặc là:
- Con rán hiền lành, đừng hung dữ nghen con!
Tháng giêng năm 2004, sức khỏe kém dần, xác thân cụ bà cũng không tránh khỏi luật vô thường chi phối, có sanh ắt có diệt. Bệnh khổ lại đến! Chân yếu đi không được, bệnh cao huyết áp hành hạ bà.
Ngày 22 tháng 1 năm 2004, tinh thần bà vẫn tỉnh táo, ăn rất ít, chủ yếu là uống nước súp, tiếng nói đã trở nên khó nghe. Cô Diệu Dung luôn ở bên cạnh mẹ chồng trợ niệm và nhắc nhở cho bà đừng quên niệm Phật. Sau đó gia đình lại đưa bà qua Bệnh viện 30 Tháng 4 nằm 6 ngày để ổn định huyết áp, xong lại về và đưa bà vào nhà lớn để dễ dàng chăm sóc. Từ đó đến khi mất trọn một tuần lễ, đêm nào Phật tử Minh Chất cũng hướng dẫn các bạn đạo đến cộng tu với bà, luôn khai thị nhắc nhở bà nên cố gắng trì niệm trong giờ phút cuối cùng này. Bà thường lặp đi lặp lại một câu gọn lỏn: “Nam Mô A-di-đà Phật. Phật ơi rước con!” Mặc dù âm thanh hơi khó nghe. Tay bà luôn nắm chặt tượng Phật A-di-đà đem từ chòi lá vào.
Đến sáng ngày mùng 6 tháng 2 năm 2004, gia đình mua bông trái và thỉnh thầy Đức Toàn cùng đoàn hộ niệm đến niệm Phật cho bà suốt ngày. Lúc nào bà cũng để tay lên ngực và nhép miệng niệm Phật theo mọi người.
Hơn 6 giờ chiều, Diệu Dung thấy hơi thở của bà lạ nên bảo con cho cô Diệu Nguyệt hay. Diệu Nguyệt xách áo tràng chạy qua thì thấy Diệu Dung đang thay áo thọ cho bà. Bà nhìn Diệu Nguyệt khẽ gật đầu, thở hơi lên hai ba cái rồi từ từ nhắm mắt ra đi… một cách nhẹ nhàng an nhiên. Bà hưởng thọ 80 tuổi.
Tiếng trợ niệm thanh thoát của các Phật tử suốt tám tiếng đồng hồ mới dò khám thân, mặt mày bà hồng hào, môi đỏ, các khớp xương mềm mại, toàn thân lạnh duy đỉnh đầu còn ấm nóng. Cuộc hộ niệm vẫn được duy trì mãi cho đến sáng ngày hôm sau.
***
Ngày mùng 8 tháng 2 năm 2004, linh cữu của bà được đưa vào lò thiêu của nghĩa trang Mỹ Khánh để hỏa táng, vừa châm lửa có một vị nhìn qua lỗ phát hỏa thấy ngọn lửa thay vì phà tỏa ra như bao nhiêu lần trước, trái lại nó thẳng vút lên cao. Thật là một điều kỳ lạ!
Sáng ngày mùng 9 tháng 2, ông Từ Quản trang đã kéo máng ra để cho nguội sẵn. Diệu Dung thấy cái lò bên kia (nghĩa trang có hai lò) một máng vun chùn xương cốt, tro tàn đen thui. Còn máng của bà cụ thì gom gọn rất ít, xương trắng phau, nằm khơi, không thấy tro bụi, sạch trơn. Cô còn hỏi ông Quản trang xem có lộn không. Ông bảo không bao giờ lộn, vì đây là lò thiêu bà lão có xâu chuỗi (hình bà mặc áo tràng có đeo xâu chuỗi) ở phường Cái khế vào hồi lúc 4 giờ chiều ngày hôm qua. Diệu Dung vừa gắp xương vào hũ vừa nói:
- Để xem có xá-lợi không?
Thật ra cô chưa từng thấy xá-lợi, cô chỉ nghe nên nói chơi vậy thôi. Ông Từ nghe thế liền cười, nói:
- Tôi thiêu ở đây biết bao nhiêu người rồi, làm gì có. Cô lấy bao nhiêu bỏ hũ thì lấy, còn lại đem thả sông hoặc để tôi giải quyết cho!
Vừa lúc đó Minh Chất và Diệu Nguyệt vào tới. Diệu Nguyệt lấy đũa bới dưới đống tro phần đầu thấy hai chiếc răng trắng, một viên tròn đen như hột tiêu, cứng như sắt. Cô vội đem ra ngoài sáng thì thấy chiếu sáng lấp lánh như kim tuyến. Cô vui mừng nói:
- Đây nè thím Út!... Có xá-lợi!
Thế là mọi người phấn khởi lấy đũa khều khều tìm kiếm. Nội phần đầu lượm được gần 40 viên xá-lợi lấp lánh sáng và khoảng 10 cái răng. Ông quản trang nói:
- Tôi mới thấy lần đầu tiên, bà cụ có phước quá!
Và ông xin một hột lớn nhất để dành cho mọi người ở nghĩa trang Mỹ Khánh xem; Còn lại, Thiện Đạo và Diệu Dung bỏ vào hũ. Diệu Dung nói:
- Thôi bấy nhiêu cũng đủ vui mừng quá rồi!
Hiện nay, xá-lợi của bà để trên bàn thờ cho mọi người chiêm ngưỡng. Các Phật tử có đến quay phim và chụp hình.
Cụ bà là một Phật tử thuần thành, không biết chữ, bệnh tật, già yếu, nhưng nhờ vào lòng thành kính Tam Bảo, tin sâu, nguyện thiết, hành trì niệm Phật kiên cố mà ra đi nhẹ nhàng, hỏa táng còn lưu Xá-lợi, thật là một gương sáng để chúng ta noi theo!
(Thuật theo lời Phật tử Minh Chất, Diệu Nguyệt và Diệu Dung.)