Ba ngày này, đức Đạt Lai Lạt Ma ban lễ quán đảnh Thập Lục Tổ Kadampa. Vì
là pháp môn Mật tông cho nên tôi không được phép phổ biến ra ngoài. Mặc
dù sáng sáng tôi vẫn thiền tọa và hành trì, cũng như quán tưởng theo
những buổi thọ lễ quán đảnh và lời dạy của ngài.
Duy trong những buổi thiền tọa sáng sớm, tôi vẫn tiếp tục nhận thức và
quán chiếu rõ ràng về đề tài thân như bọt huyễn.
Khi ở trong hoàn cảnh khó khăn, nơi xa lạ, tôi mới thấy ra sự bất lực và
vô dụng của mình, không làm được gì giúp cho thầy của mình mà ngược lại,
chư tăng còn phải lo cho mình, như mỗi sáng thầy ban cho nước sôi để pha
trà hay cà phê, ban cho ít bánh và mứt gừng để trị ho. Thân mình, cứ ngỡ
là cứng rắn lắm, thế mà chỉ vì không quen thủy thổ, không đủ tiện nghi
mà sinh bệnh nhiễm trùng. Ho liên miên không dứt. Lại thêm đói lạnh.
Thân mong manh như bọt bèo, khó kiếm mà dễ mất. Thầy Ngawang có dạy tôi
là: “Con về đây tu học sẽ tốt cho con rất nhiều, để thấy ra là con ở
Canada rất là sướng.” Quả là như thế, tôi tỉnh ngộ ra rất nhiều. Ở
Canada sung sướng hơn là thế mà tâm phiền não vẫn không dứt được.
Sáng hôm đó, tôi ra ngoài và tìm ra được nhà thuốc tây, mua được thuốc
trụ sinh Cipro trị mọi loại vi trùng và uống. Mấy ngày nay, trời rất đẹp
và ấm áp trở lại, làm tôi như được hồi sinh, bớt lạnh hơn nên tôi có thể
tắm rửa sạch sẽ mỗi ngày. Xong, tôi đi mua quýt tươi và to mang đến cúng
dường thầy Khen Rinpoche, vì sáng nay được nghỉ không có thuyết pháp.
Đến nơi, thầy vui mừng kéo tôi vào nghe nói chuyện vì mấy hôm nay tôi
mải lo đi nghe pháp và học ôn giảng nên không gặp ngài nhiều. Ngài
khuyên tôi nên nghỉ ngơi. Sau đó, bóc quýt ăn, ngài tư lự kể lại chuyện
đời của ngài, tại sao lại thích ăn quýt:
Vào những năm đầu tiên khi đức Đạt Lai Lạt Ma và chư tăng qua Ấn, chính
phủ Ấn đưa toàn thể cộng đồng Tây Tạng về Bengali cư trú.
Thầy im lặng một lúc như để tưởng nhớ, và tiếp tục:
Con biết không, lúc đó rất là khổ cực vì tình trạng khó khăn chẳng thể
làm gì được. Chính phủ Ấn phải mang đến đồ ăn cho chư tăng mỗi ngày.
Trong vùng Bengali đó, đặc biệt là, cây quýt mọc lên tự nhiên rất nhiều
ở mọi nơi và có những trái rất lớn, tươi ngon. Thời gian này, chư tăng
không làm gì ngoài cầu nguyện hành trì, và khi rảnh rỗi thường hái trái
quýt về ăn. Cho nên khi con mang quýt đến cúng dường, thầy lại nhớ lại
thời xa xưa đó...
Tôi mủi lòng, ngồi im lặng một lúc.
Thầy lại nói tiếp:
Con biết không, ngay góc của trại tỵ nạn là một cái tháp, trong đó dựng
máy chém đầu tù nhân. Thực dân Anh đã mang không biết bao nhiêu người
Ấn, tốt cũng có, xấu cũng có, cả những nhà đấu tranh chống thực dân Anh
ra đó xử trảm. Oan hồn ban đêm thường hiện ra than khóc và làm mọi người
sợ hãi. Chư tăng ở trong trại cũng rảnh rỗi bèn họp nhau lại, lập đàn
tràng làm lễ cầu siêu cho các oan hồn uổng tử nên sau đó không còn bị
cảnh oan hồn hiện ra trong đêm...
Tôi xúc động khi nghe thầy kể chuyện ngày xưa, cũng nhờ tôi hay để ý
thương thầy, mang cúng dường những món thầy thích nên hôm nay được nghe
tự ngài kể chuyện ngày xưa một cách sống động.
Chiều hôm 28 tháng 2, khi tôi đi dự lễ quán đảnh về, khi đến lầu 3, sắp
vào phòng thì thấy một số người Việt Nam đứng tụ họp gần trước cửa
phòng, dường như chờ đợi để vào thăm Khen Rinpoche. Trong đó có một vị
sư cô mặc áo vạt hò ngắn, có vẻ lớn tuổi, vẻ mặt rất hiền từ. Tôi cũng
không quen biết ai trong nhóm đó, trừ cô Phật tử ngồi trước chỗ ngồi
nghe pháp của tôi, thì cũng chỉ biết qua những buổi nghe pháp. Cô thấy
tôi đi vào phòng, cạnh phòng thầy Khen Rinpoche bèn hỏi xin mượn phòng
tôi nghỉ ngơi tránh nắng và sử dụng nhà tắm. Tôi hoan hỷ chắp tay và xin
họ chờ giây phút để vào dọn dẹp phòng một chút, trước khi thỉnh họ vào
vì trong nhóm có một sư cô.
Khi ra ngoài thỉnh họ vào thì sư cô cảm ơn và nói là không dám làm
phiền. Tôi bèn quay vào phòng mang quýt và nước uống mời họ giải khát.
Sau này, tôi mới được người bạn đạo ở Paris, cùng là tác giả chuyển dịch
nhiều cuốn kinh sách chung với nhau cho biết, vị sư cô nghiêm trang và
hiền từ đó chính là má nuôi của người bạn đạo đó, gọi tên thân mật là má
Đều. Má Đều (vị sư cô đó) là một vị khá đặc biệt, vì ngoài tính tình
nghiêm trang hiền từ, còn rất là mộ đạo, năm nào cũng đi Ấn hành hương,
dù nghèo và có khi phải mượn tiền để đi hành hương cúng dường chư tăng.
Trong 10 ngày qua, má Đều đi nghe pháp đầy đủ, từ sáng đến chiều và cũng
phải nhịn ăn như tôi, mà má vẫn an nhiên vui vẻ dù toàn bộ 10 ngày không
hề có thông dịch Việt ngữ hay Pháp ngữ để má có thể nghe hiểu (vì má ở
bên Pháp). Khi tôi nghe chuyện đó, tôi cảm thấy thật là cảm phục má, 10
ngày ngồi chen chúc, từ sáng đến chiều mà không có thông dịch! Tôi cảm
phục lòng nhẫn nại vô biên của má quá. Đặc biệt má còn nói, 10 ngày má
sung sướng được an trú trong Pháp nhũ. Quả là một vị sư cô khác thường.
Tôi rất lấy làm tiếc là đã không biết má trong khi ở đó và hy vọng là
nhật ký này sẽ đến tay má để ít nhiều có thể tóm lại những ý chính của
10 ngày thuyết pháp làm quà cho má.
Đường nhập vào cửa đạo có hai: hạnh nhập hoặc lý nhập. Tôi thì có thói
quen đi nghe pháp, học đạo, do đó theo lý nhập trước, rồi phát triển
hạnh nhập sau, còn má Đều thì chọn con đường hạnh nhập là chính yếu. Tôi
thầm nghĩ là con đường hạnh nhập thực là hay và cao cả.
Tối hôm đó, khi đến dùng cơm chung với thầy Ngawang, bệnh ho của tôi có
vẻ bớt đi. Thầy Ngawang vui vẻ hỏi thăm tại sao tôi lại cạo đầu. Tôi kể
lại căn bệnh của tôi, phải đi chữa bệnh bằng tia cực tím. Thầy căn dặn
tôi kỹ càng về nghiệp, khi các chướng ngại đã trổ ra thì sẽ khó khăn như
thế nào. Và dẫn tôi qua thăm ngài Lati Rinpoche, hỏi ngài về bệnh của
tôi cũng như về gia đình tôi. Lati Rinpoche dặn tôi là kể từ hôm nay cho
đến khi về, phải đi cúng dường đèn bơ mỗi ngày. Thầy Ngawang theo lời
ngài, dẫn tôi đến tận tôn tượng linh thiêng thờ đức Quán Thế Âm Thiên
Thủ Thiên Nhãn và chỉ cách cho tôi cúng dường đèn bơ, dâng khăn trắng
với vị thầy hương đăng, và hồi hướng. Tự nhiên, lòng tôi khởi lên tín
tâm sâu xa mạnh mẽ vào sự hành trì hồi hướng.
Kể từ đó, mỗi ngày còn ở lại Dharamsala, tôi đều đi đến cúng dường đèn
bơ và hồi hướng cho tất cả, thân nhân, bạn bè quyến thuộc được mọi sự an
lành, tai qua nạn khỏi và nhất là tiêu trừ bệnh tật, khoẻ mạnh an vui
trong đời sống và an hưởng đạo pháp.
Ngày hôm đó, tôi cũng được thầy Ngawang giới thiệu với một vị tăng trẻ
rất giỏi, Geshe Jangchup Choden, rất thông thạo Anh ngữ và cũng là người
thường hay viết thư tiếng Anh cho thầy Ngawang để gửi đi Montreal cho
tôi.
Ngày 29 tháng 2, thầy Geshe Norbu dẫn phái đoàn đi hành hương khắp nơi
đã trở về Dharamsala, nhiều vị trong phái đoàn có vẻ gầy đi và tiều tụy,
có lẽ vì bệnh hoạn và những khó nhọc trong chuyến đi, nhưng ai cũng vui
vẻ và chúng tôi mừng rỡ thăm hỏi nhau tíu tít.