Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó.
Kinh Pháp cú
Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Kẻ hung dữ hại người cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt. Nước bọt ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống chính mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
THUYẾT MINH TU CHỨNG THIỀN XUẤT THẾ GIAN (VÔ LẬU)
QUÁN THIỀN
Thiền Vô lậu có hai thứ: Đối trị vô lậu, Duyên lý vô lậu. Trong Kinh Đại Tập ghi: “Có hai hạnh, Hạnh hành và Tuệ hành”.
1/ Hạnh hành: tức là các phương pháp tu đối trị thuộc về thiền vô lậu như: quán Cửu tưởng, Bát bối xả v.v… Nghĩa là duyên nơi sự tướng quán chiếu để đối trị phá trừ các phiền não, nên còn gọi là “Hành hạnh vô lậu”.
2/ Tuệ hành: tức là Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Chân không chánh quán v.v… Nghĩa là duyên nơi lý thể, dùng trí tuệ quán chiếu đoạn trừ các lậu hoặc phiền não, nên còn gọi là “Hành tuệ vô lậu”.
Giải thích Đối trị vô lậu:
Phương pháp đối trị vô lậu gồm có 9 pháp môn:
- Cửu tưởng
- Bát niệm
- Thập tưởng
- Bát bối xả
- Bát thắng xứ
- Thập nhất thiết xứ
- Cửu thứ đệ định
- Sư tử phấn tấn tam-muội
- Siêu việt tam-muội
* Nói chung chín pháp môn thiền này, đều là phương pháp đối trị của thiền vô lậu. Ý nghĩa sâu, cạn thứ lớp của nó đều giống như đã giải thích qua ở trong Quyển 1.
Trong chín pháp môn này có hai thứ đối trị Vô lậu đạo:
A. Pháp quán hoại (Hoại pháp đạo)
B. Pháp quán bất hoại (Bất hoại pháp đạo) A. PHÁP QUÁN HOẠI
Gồm các pháp quán như:
*I- CỬU TƯỞNG
*II- BÁT NIỆM
*III- THẬP TƯỞNG
Nếu khéo tu ba pháp này, vô lậu chân thật sẽ được khai phát, thành tựu A-la-hán hoại pháp (tu pháp quán hoại). B. PHÁP QUÁN BẤT HOẠI
Gồm các thiền như:
*IV- BÁT BỐI XẢ
*V- BÁT THẮNG XỨ
*VI- NHẤT THIẾT XỨ
*VII- CỬU THỨ ĐỆ ĐỊNH
*VIII- SƯ TỬ PHẤN TẤN TAM-MUỘI
*IX- SIÊU VIỆT TAM-MUỘI
Nếu khéo tu đầy đủ các thiền này, vô lậu chân thật sẽ khai phát, thành A-la-hán bất hoại pháp (tu pháp quán bất hoại).
Nay giải thích chung cả loại pháp môn trong một thứ Hoại pháp quán, sở dĩ ba pháp này gọi là Hoại pháp quán, nghĩa là do hành giả nhàm chán Lục dục giống như giặc thù, nên phải tu quán Cửu tưởng để đối trị. Sau khi quán Cửu tưởng, tuy đã phá trừ tâm tham ái Lục dục, nhưng phần nhiều là khởi tâm lo sợ. Nếu tu Bát niệm thì tâm lo sợ tự tiêu trừ, tâm tham dục đã khô cạn, lại không còn lo sợ. Lúc này hành giả muốn đoạn dứt kiết sử phiền não trong Tam giới, cần phải tu thêm pháp Thập tưởng. Sau khi tu Thập tưởng thành tựu, các giặc kiết sử bị quét sạch, liền chứng quả A-la-hán.
Do sắc thân Dục giới của vị này đã bị hoại diệt, nên không thể tu đầy đủ các thiền như: Quán thiền, Luyện thiền, Huân thiền, Tu thiền của Tam giới và chứng Tam minh, Bát giải thoát, nên gọi là A-la-hán hoại pháp.
HỎI: Cửu tưởng và Thập tưởng có gì khác nhau?
ĐÁP: Cũng có khác và không khác.
- Chỗ khác nhau là pháp quán Cửu tưởng, ví như trói được giặc, pháp quán Thập tưởng ví như giết chết giặc. Pháp quán Cửu tưởng ví như mới bắt đầu tu học, quán Thập tưởng ví như sau khi tu học được thành tựu.
Quán Cửu tưởng là nhân, quán Thập tưởng là quả.
Nên kinh có ghi: “Hai pháp môn cam lồ, đó là quán Bất tịnh và quán Sổ tức”.
- Chỗ không khác nhau: nếu khéo tu quán Cửu tưởng tức là đã đầy đủ cả Thập tưởng. Ý nghĩa này chương sau sẽ nói rõ.
Gồm có: *I- QUÁN CỬU TƯỞNG
1. Trướng tưởng
2. Hoại tưởng
3. Huyết nùng tưởng
4. Nùng lạn tưởng
5. Thanh ứ tưởng
6. Đạm tưởng
7. Tán tưởng
8. Cốt tưởng
9. Thiêu tưởng
Chín pháp quán này gọi chung là Tưởng, vì có khả năng chuyển đổi tâm. Nghĩa là pháp quán tưởng có công năng chuyển biến tâm niệm si mê, do chúng sinh từ lâu đã lầm chấp sắc thân này là sạch sẽ, thanh tịnh, nên nay quán tưởng thành thân bất tịnh, gọi là Tưởng. GIẢI THÍCH CỬU TƯỞNG
Chia làm bốn phần:
- Tu chứng
- Đối trị
- Nhiếp pháp
- Nhập đạo TU CHỨNG CỬU TƯỞNG
Trước tiên hành giả giữ giới cho thật thanh tịnh, khiến tâm không hối hận mới tu pháp quán
được dễ dàng và có thể phá trừ các giặc phiền não tham ái, dâm dục.
Đầu tiên hành giả nên quán khi người mới bắt đầu chết, trong lúc họ đang còn nói chuyện luận bàn, nhưng chỉ một hơi thở ra không trở lại liền chết mất, hơi khí diệt hết thân thể lạnh ngắt, chẳng còn cảm giác gì nữa. Những người thân trong gia đình kinh hãi, khóc lóc than trời, kêu đất. Nghĩ rằng: “Mới thấy người này đang nói năng, nhưng bây giờ đã chết. Thật là đáng sợ!”, không ai có thể tránh khỏi việc này. Ví như khi tận thế, cả thế giới sẽ bị lửa thiêu sạch chẳng có một thứ gì thoát khỏi được.
Như bài kệ nói:
Chết không chọn nghèo giàu, Chẳng siêng tu thiện pháp, Không quý cũng không tiện, Trẻ già chẳng tránh khỏi, Không thể xin cầu cứu,
Không dùng mưu tẩu thoát, Cũng không chỗ trốn chạy, Tất cả không thoát được.
Chết tức là xa lìa chỗ yêu quý và những người thương. Tất cả chúng sinh đều có sinh mạng nên rất lo sợ, tuy biết cái chết rất đáng ghét, đáng sợ nhưng lại không thể tránh khỏi. Thân ta chẳng bao lâu chắc chắn sẽ chết, không còn tri giác phân biệt chẳng khác gì cây, đá. Ta nay không nên tham đắm nơi ngũ dục, vì không biết lúc nào sẽ chết, chúng ta thật chẳng khác nào loài cầm thú: trâu, dê v.v… Những loài súc sinh khi biết sắp bị giết chết, chúng hoảng sợ vùng vẫy, kêu rống, nhưng không thể tự tỉnh ngộ. Còn chúng ta nay đã được làm thân người, biết nhận thức những gì tốt xấu, tại sao không tìm cầu pháp cam lồ bất tử. Như bài kệ nói:
Được sáu căn đầy đủ, Trí tuệ cũng sáng suốt. Mà chẳng cầu đạo pháp, Thọ nhận thân trí tuệ. Cầm thú tuy có trí, Nhưng chỉ ham dục lạc,
Không biết pháp phương tiện, Học đạo tu việc thiện.
Đã được làm thân người, Chỉ tự do phóng túng,
Không biết tu điều lành, Chẳng khác gì cầm thú. Chúng sinh ba đường ác, Không tu được đạo nghiệp, Nay đã được thân người, Nỗ lực tự lợi ích.
Sau khi hành giả tư duy như thế, liền quán tưởng đến người thương của mình, hoặc nam hay nữ, thân xác nằm trên mặt đất ở trước mặt, tưởng tượng như xác chết. Hành giả nhất tâm nhập định quán tưởng xác chết này, nội tâm rất kinh sợ, nên có thể phá trừ tâm tham ái đắm chấp. Trên đây đã giới thiệu sơ lược phương pháp quán Tử tưởng, để làm phương tiện đầu tiên của Cửu tưởng vậy.
Lại nữa, pháp quán Cửu tưởng cũng có hai hạng người:
- Lợi căn
- Độn căn
- Nếu người căn tính linh lợi, chỉ cần tâm tưởng tượng hình tướng xác chết trương sình v.v… thì cũng được thành tựu pháp quán.
- Nếu người căn tính trì độn chậm lụt, nếu tâm tưởng tượng không thể thành tựu, cần phải
đích thân đến tận nơi xác chết, nhìn thấy rõ tướng thân xác từ khi mới chết cho đến lúc xác chết thối rã, chuyên chú quán kỹ tướng trạng xác chết, rồi nhất tâm quán tưởng tu tập. Khi thấy cảnh quán rõ ràng, tâm tưởng tượng thành tựu, liền khai phát tam-muội, sau đó dù có rời khỏi xác chết, có thể tùy tâm lúc nào muốn tưởng tượng liền thấy.
1. Trướng tưởng
Hành giả đến bên xác chết, thấy thi thể trương sình như đãy da căng phồng đầy gió, khác hẳn thân thể trước kia. Hiện tại xác thân này không có chủ, phải sống nương nhờ ý thức hư dối điều khiển, nay vọng thức ấy đi về đâu? Mà chỉ còn thấy thân xác cứng đơ, trương sình. Hình dáng thân này xinh đẹp quyến rũ, da dẻ hồng hào, môi hồng răng trắng, tóc dài, mày cong, mắt mũi xinh xắn, đầu cổ đều đặn, thân thể tốt đẹp như thế làm tâm người say đắm, mê hoặc, mà nay chỉ còn thấy thân trương sình, vậy tốt đẹp ở chỗ nào mà đến nỗi hình tướng nam hay nữ cũng không thể phân biệt được.
Hành giả dùng hình tướng xác chết trương sình này, quán tưởng người mà mình yêu quý, quở trách tâm tham dục của mình: “Thân hôi thối, trương sình, phân và nước tiểu thật dơ bẩn, lẽ nào ta lại tham luyến say đắm, mà phải bị chìm trong ba đường khổ? Thân ta rồi đây cũng không khỏi cái chết”. Nên nhất tâm nhập chánh định, đoạn trừ tham ái thế gian.
2. Hoại tưởng
Hành giả lại quán tưởng xác chết, sau khi bị nắng thiêu, gió thổi, thân xác, tay chân, đầu não, lục phủ, ngũ tạng đều tan rã, phân tán khắp mặt đất, mùi nước tiểu và phân uế xông lên hôi thối, tướng ô uế đã hiện bày. Hành giả nghĩ: “Đây là cái mà ta từng yêu thích sao? Nhìn thấy xác chết này có gì đáng ưa đáng quý. Vì ta ngu si bị đãy da thối này lừa gạt, như con thiêu thân lao vào đèn, chỉ tham đắm ánh sáng mà chẳng đoái hoài đến họa lửa đốt thân. Thân ta rồi cũng không thoát khỏi cảnh này”. Nên liền nhất tâm nhập chánh định phá trừ tâm tham ái.
3. Huyết nùng lạn tưởng
Hành giả lại quán tưởng xác chết đã tan nát hư hoại, máu mủ tràn lan, từ đầu đến chân đều ô uế bất tịnh, trương sình, tanh hôi, không thể đến gần, tự suy nghĩ: “Đây là cái ta tham ái ưa thích sao? Nếu quán kỹ thật không có gì là đáng luyến ái, chỉ vì ta ngu si mê lầm, mới bị trầm luân trong ô uế bất tịnh, vậy có chỗ nào tốt đẹp đâu? Thân ta rồi cũng không thoát khỏi cảnh này”. Nên nhất tâm nhập chánh định, trừ bỏ tham ái.
4. Nùng lạn tưởng
Hành giả quán tưởng xác chết, sau thời gian trải qua mưa nắng gió sương, lâu ngày chín cái lỗ trên xác chết phát sinh giòi bọ, máu mủ chảy ra, da thịt nát nhừ tràn lan đầy đất, khiến mùi hôi thối bốc lên càng nhiều, Tự nghĩ: “Đây là cái ta yêu mến sao? Xác chết này là hình dáng xinh đẹp làm ta mê say, nay thấy ô uế hôi thối như phân uế, đâu thể đắm chấp? Thân ta cũng không thoát khỏi cảnh này”. Nên nhất tâm nhập chánh định, trừ bỏ tâm tham ái thế gian.
5. Thanh ứ tưởng
Hành giả lại quán sát xác chết, thấy máu mủ khô hết, do nắng gió làm biến đổi, da thịt xác chết trở thành màu vàng, đỏ, tím bầm, mùi hôi thối càng tăng thêm. Hành giả nghĩ: “Đây là cái mà ta ưa thích sao? Những hình sắc đào hoa từng lừa dối mê hoặc ta, nay ở chỗ nào? Thân ta rồi cũng chưa thoát cảnh này”. Nên nhất tâm nhập chánh định, phá trừ tham ái thế gian.
6. Đạm tưởng
Hành giả lại quán sát xác chết, bị giòi trùng rúc rỉa, chim thú, chó hoang tranh giành cắn xé v.v... thân xác tan nát, rơi vãi thật ghê gớm, hành giả nghĩ: “Đây là cái ta ưa thích sao? Thân này trước kia hình thể sạch sẽ, trang sức lộng lẫy, khiến ta mê đắm, nay nhìn thấy tan hoại, tướng xinh đẹp xưa kia nay còn đâu, thật là nhàm chán, thân ta rồi cũng không thoát khỏi cảnh này”. Nên nhất tâm nhập chánh định, phá trừ tham ái thế gian.
7. Tán tưởng
Hành giả lại quán xác chết bị loài cầm thú tranh giành, thân xác tan nát, lại còn bị nắng gió thiêu đốt, xương cốt, đầu óc tan lìa ngổn ngang. Hành giả nghĩ: “Đây là cái ta ưa thích sao? Hình tướng còn đâu? Thân ta rồi cũng không thoát khỏi cảnh này”. Nên nhất tâm nhập chánh định đoạn trừ tham ái thế gian.
8. Cốt tưởng
Hành giả quán xác chết, thấy thịt đã hết sạch, chỉ còn đống xương trắng. Gồm có hai loại:
- Thấy nhiều đốt xương nối liền nhau.
- Thấy xương nằm rải rác nhiều nơi.
Xương cũng có hai loại:
- Xương còn dính chút ít máu thịt.
- Xương trắng như vỏ ốc.
Hành giả nghĩ: “Đây là người ta ưa thích sao? chỉ là đống xương đầu lâu giống như gạch ngói thật ghê sợ. Hình dáng xinh đẹp, cảm xúc mềm mại đều mất hết, mà thân ta rồi cũng không thoát khỏi cảnh này”. Nên nhất tâm nhập tam-muội, đoạn trừ tham ái thế gian.
9. Thiêu tưởng
Hành giả nhìn thấy xác chết trong rừng hay trong những bụi cây v.v... xác chết bị thiêu đốt. Có xác chết bị đốt, ruột lòi ra ngoài, khói hôi thối bốc lên thật kinh sợ. Hoặc chỉ thấy thiêu xương trắng, lửa bốc cháy mạnh, khi lửa tắt còn lại đống tro tàn. Giả sử không thiêu đốt, không chôn, lâu ngày cũng trở thành tro bụi. Hành giả nghĩ: “Đây là người mà ta ưa thích sao? Thân thể xưa kia ướp xạ xông hương, bôi phấn bôi son, da dẻ mịn màng, lời nói dịu dàng, khiến lòng người mê say, nay đã tiêu sạch trở về chỗ nào? Thân ta rồi cũng không thoát khỏi cảnh này”. Nên nhất tâm nhập chánh định, đoạn trừ tham ái thế gian. ĐỐI TRỊ CỬU TƯỞNG
Sau khi hành giả tu pháp quán Cửu tưởng đã được thông suốt, cần quán tưởng nhiều lần, để hạnh quán được thuần thục, bén nhạy, tùy theo chỗ quán tưởng, tâm định liền tương ưng. Hành giả trụ tâm nơi cảnh sở quán, không cho ý niệm phân tán, do đó mới phá trừ Lục dục và tâm tham ái thế gian. Lục dục gồm có:
a) Sắc dục
b) Hình mạo dục
c) Oai nghi dục d) Âm thanh ngôn ngữ dục e) Tế cốt dục
f) Nhân tướng dục
Sáu thứ dục này, có thể phát sinh sáu thứ đắm nhiễm:
a) Sắc dục: Có người đắm nhiễm những màu sắc như: đỏ, vàng, trắng, đen, xanh, tím, hoặc màu hoa đào, màu xanh nhạt. Dù là người trí hay kẻ ngu, nếu khi nhìn thấy những màu sắc liền sinh tâm mê đắm.
b) Hình mạo dục: Có người chỉ đắm nhiễm hình dáng, khuôn mặt như trăng tròn, mày dài, mi cong, ngón tay thon nhỏ, tướng đẹp đoan nghiêm, khiến lòng say đắm.
c) Oai nghi dục: Có người chỉ mê dáng vẻ oai nghi bên ngoài, bước đi nhẹ nhàng, nhướng mày
nháy mắt, nụ cười. Mỗi khi nhìn thấy liền sinh tâm ái nhiễm.
d) Ngôn ngữ dục: Có người chỉ ưa thích âm thanh lời nói, khi nghe tiếng nói ngọt ngào, ưng ý làm theo. Hoặc lời ca tiếng hát, ngâm ca thơ vịnh, kích động lòng người, khiến người ngu thiếu trí thức, nhân đây bị mê hoặc.
e) Tế cốt dục: Có người chỉ ưa thích thân hình yểu điệu, da dẻ hồng hào, trời lạnh chạm vào thân cảm thấy ấm, khi nóng xúc chạm thấy mát mẻ, ưa thích lúc nắm tay, thân thể và áo quần huân ướp hương thơm, kẻ phàm tình chìm đắm trong đó, chịu tan thân mất mạng.
Tạp dục là: Có hạng người đều đắm nhiễm tất cả năm thứ dục trên.
f) Nhân tướng dục: Có người không đắm nhiễm năm thứ dục trên, nhưng lại chấp tướng người, dù nam hay nữ, tuy thấy năm thứ dục trên, nếu đối tượng không phải là người mà mình yêu thích, thì chẳng đắm nhiễm. Nếu gặp người vừa ý, thì có thể vì họ hy sinh cả thân mạng và vật chất thế gian.
Sáu dục này lừa dối mê hoặc chúng sinh, khiến chúng sinh trầm luân trong sinh tử, chìm đắm trong ba đường ác, không được giải thoát.
Nếu khéo tu pháp Cửu tưởng quán để đối trị, trừ diệt giặc sáu dục, thì sáu dục bị phá tan, mau chóng chứng Niết-bàn.
Vì cớ sao?
- Đầu tiên là quán Tử tưởng để phá trừ hai thứ dục: Oai nghi và Ngôn ngữ.
- Kế tiếp là quán Hoại tưởng, Trướng tưởng, Đạm tưởng để phá trừ Hình mạo dục.
- Quán Huyết đồ tưởng, Thanh ứ tưởng, Nùng lạn tưởng để phá trừ Sắc dục.
- Quán Cốt tưởng, Thiêu tưởng để phá trừ Tế cốt dục.
- Quán Cửu tưởng để phá trừ Tạp dục, Nhân tướng dục.
- Quán Đạm tưởng, Tán tưởng, Cốt tưởng cũng trừ Nhân tướng dục.
Trong phương pháp quán xương trắng phân tán, thì không còn thấy có người đắm chấp. Do quán Cửu tưởng có công năng phá trừ tham dục phiền não, Tam độc tham, sân, si cũng đã khô cạn. Có thể lay động chín mươi tám (98) núi kiết sử, đạo lực tu hành từ từ tăng tiến, dùng sức kim cương tam-muội, đập phá núi kiết sử, chứng được đạo quả của Tam thừa.
Tuy Cửu tưởng là pháp quán bất tịnh, nhưng có công năng thành tựu đại sự. Ví như xác chết nổi trên biển lớn, nếu người bị rơi giữa biển, bám nơi xác chết, liền được vào bờ vậy. NHIẾP PHÁP CỬU TƯỞNG
Pháp quán Cửu tưởng thuộc về sắc ấm và tưởng ấm của thân Dục giới, là phần nhỏ của Thân niệm xứ thuộc về Định dục giới hoặc Sơ thiền và Nhị thiền. Nếu người tu thiền định tâm còn tán loạn, chưa ly niệm tham dục, bị Dục giới trói buộc. Sau khi lìa được niệm tham dục thì được nhập vào định Sắc giới. Hành giả tu tám pháp quán tưởng như: Trương sình v.v… là thuộc về Định dục giới, Sơ thiền, Nhị thiền. Nếu quán tưởng tướng xương trắng v.v... được thành tựu thì thuộc về Định dục giới, Sơ thiền, Nhị thiền và Tứ thiền. Nhưng vì trong Tam thiền có cảm thọ an lạc rất nhiều, nên không thể tu pháp quán Cửu tưởng. NHẬP ĐẠO CỬU TƯỞNG
Tu pháp quán Cửu tưởng có hai trường hợp:
1. Nếu tu quán trực tiếp trên sự tướng thì chỉ hàng phục được hai thứ phiền não Dục giới. Sau đó cần tu thêm pháp quán Thập tưởng để đoạn trừ Kiến hoặc và Tư hoặc mới có thể chứng quả A-la-hán.
2. Nếu khéo tu pháp quán Cửu tưởng từ nơi sự tướng, nhập vào lý thể, cũng là đã đầy đủ Thập tưởng nên không cần tu thêm Thập tưởng. Vì sao? Vì hành giả quán tưởng người sắp chết, ngay khi đang còn thấy họ nói năng bàn luận, bỗng nhiên tắt thở, thân xác từ từ lạnh ngắt, trương sình, thối nát, tan rã v.v... mỗi thứ đều biến đổi, liền giác ngộ được lý vô thường.
Hành giả nghĩ: “Nếu ta đắm chấp vào thân, khi vô thường đến, thân thể tan hoại, đây là Khổ. Nếu sắc thân là vô thường, đau khổ, không được tự tại, đây là Vô ngã. Thân thể đã vô thường, bất tịnh, khổ đau, vô ngã, thì thế gian này có gì đáng tham ái, đắm chấp?”. Hành giả cần phải quán sắc thân như thế để được giác ngộ.
Hành giả lại quán tưởng thức ăn ở trong miệng, cùng chất dịch trên não chảy xuống, hòa lẫn với nước bọt mà thành hương vị để nuốt, nó chẳng khác nào thức ăn nhổ ra, khi thức ăn nuốt vào bụng rồi biến thành phân uế, gọi là quán Thực bất tịnh tưởng.
- Lại dùng pháp quán Cửu tưởng để quán thân thể luôn biến đổi vô thường, niệm niệm đều diệt. Đây là quán Tử tưởng.
- Dùng pháp quán Cửu tưởng để lìa bỏ dục lạc ở thế gian, biết đoạn dứt được phiền não là an ổn tịch diệt, đây gọi là Đoạn tưởng.
- Dùng pháp quán Cửu tưởng để ngăn các phiền não, đây gọi là Ly tưởng.
- Dùng pháp quán Cửu tưởng để nhàm chán thế gian, biết năm ấm diệt rồi, không còn sinh khởi trở lại, là chỗ an ổn, đây gọi là Tận tưởng.
Nếu hành giả khéo tu pháp quán Cửu tưởng thì đã đầy đủ Thập tưởng, có thể đoạn trừ Kiến hoặc và Tư hoặc, nhất định thành tựu đạo quả Tam thừa.
Trong Kinh Đại Thừa có ghi: “Nếu khéo tu Cửu tưởng, khai mở pháp môn Thân niệm xứ. Thân niệm xứ khai mở ba môn niệm xứ, thành Tứ niệm xứ. Tứ niệm xứ khai mở ba mươi bảy phẩm trợ đạo”. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo mở cửa Niết- bàn, do chứng nhập Niết-bàn, nên các khổ đau, lo buồn đều dứt.
Bồ-tát vì thương xót chúng sinh, tuy tu pháp quán Cửu tưởng, có thể nhập Niết-bàn, nhưng không chấp quả chứng. Vì sao? Nếu trong sắc không có tướng Vị (đối tượng cảm giác đối với năm căn) thì chúng sinh không bị đắm chấp sắc. Nếu trong sắc không có tướng lìa, hiện nay cũng không cần quán từ nơi sắc để được giải thoát. Vì trong sắc có Vị, cho nên chúng sinh chấp nơi Sắc; vì trong Sắc có tướng giải thoát, cho nên chúng sinh có thể quán từ nơi sắc mà được giải thoát. Nhưng Vị chẳng phải tướng Lìa, lìa cũng chẳng phải là tướng Vị, lìa bỏ Vị thì không có chỗ giải thoát, lìa bỏ chỗ giải thoát thì không có tướng của Vị. Nên biết sắc chẳng trói buộc, cũng không giải thoát. Lúc này Bồ-tát không bị trôi theo dòng sinh tử, cũng không chứng nhập Niết-bàn, nhưng vì tâm đại bi thương xót tất cả chúng sinh, do đó trong pháp quán bất tịnh này, lại thành tựu hết thảy Phật pháp. Kinh Đại Phẩm Bát Nhã ghi: “Cửu tưởng tức là pháp Hành của Bồ-tát Ma Ha Diễn”. *II- BÁT NIỆM
(Tám pháp cần luôn nhớ nghĩ)
Gồm có:
1. Niệm Phật
2. Niệm Pháp
3. Niệm Tăng
4. Niệm Giới
5. Niệm Xả
6. Niệm Thiên
7. Niệm A-na-Ban-na
8. Niệm Tử
Tám pháp này gọi chung là Bát niệm, vì chuyên tâm nhớ nghĩ nơi pháp, nhiếp niệm không quên, nên gọi là Niệm. GIẢI THÍCH BÁT NIỆM
Chia làm ba phần: Pháp môn Bát niệm Tu chứng Bát niệm Bát niệm nhập đạo PHÁP MÔN BÁT NIỆM
Đệ tử Phật ở chỗ A-lan-nhã, hoặc ở đồng trống, hay núi rừng hoang dã, khéo tu pháp quán Cửu tưởng về xác chết bất tịnh, nhàm chán thân ấy, khởi nghĩ rằng: “Tại sao ta ngày nào cũng ở chỗ đãy da hôi thối bất tịnh này?”. Khi đó tâm hành giả tự nhiên kinh sợ, lông tóc dựng ngược, hoặc bị ác ma hiện những hình sắc để khủng bố, muốn hành giả thối thất đạo tâm, vì thế nên cần niệm Phật.
Kế tiếp sau Cửu tưởng là nói về phương pháp Bát niệm, cốt yếu để trừ diệt tâm sợ hãi.
Trong Kinh có ghi: “Phật dạy Tỳ-kheo, khi ở chỗ hoang dã nếu có tâm sợ hãi, lúc này cần phải niệm Phật, tâm sợ hãi liền trừ diệt. Nếu không niệm Phật, cần nên niệm Pháp, tâm sợ hãi liền trừ. Nếu không niệm Pháp cần phải niệm Tăng, tâm sợ hãi liền trừ”. Nên biết vì trừ tâm sợ hãi nên mới nói ba phương pháp niệm này.
HỎI: Nguyên nhân nói ba phương pháp quán niệm là vì trừ tâm sợ hãi, còn năm niệm sau để làm gì ?
ĐÁP: Nếu Tỳ-kheo tự mình bố thí, trì giới, sợ hãi liền trừ. Vì sao? Nếu Tỳ-kheo phá giới, sợ bị đọa vào địa ngục. Nếu tâm xan tham keo kiệt, sợ đọa vào ngạ quỷ và nghèo khốn. Do đó Tỳ-kheo tự nghĩ: “Ta có trì giới thanh tịnh, có bố thí thì phải hoan hỷ, vì quả báo của chư thiên là do trì giới và bố thí mà được, ta cũng có phước đức như thế”. Cho nên niệm Thiên có thể khiến tâm sợ hãi không phát sinh. Trong mười sáu hạnh, chỉ niệm pháp Sổ tức cũng có thể diệt tâm giác vi tế (vọng niệm), huống gì tâm sợ hãi là thuộc về tri giác thô.
Niệm Tử: tức là nhớ nghĩ thân ngũ ấm, là những niệm sinh diệt, từ khi sinh ra luôn luôn cùng đi với cái chết, vì sao ta lại sợ chết?
Cho nên năm pháp niệm này tuy không nói riêng, chẳng qua vì trừ tâm sợ hãi. Vì sao? Nếu nhớ tưởng những công đức khác để trừ tâm sợ hãi thì rất khó, nếu tự nhớ nghĩ công đức của chính mình để trừ tâm sợ hãi thì dễ, nên không nói riêng năm niệm nào khác. TU CHỨNG BÁT NIỆM
1. Niệm Phật
Nếu hành giả tu hành nơi hoang dã, trong lòng có sự sợ hãi, cần nên niệm Phật. Nghĩ nhớ Đức Phật có đầy đủ mười danh hiệu(1): Đa-đà-a-già-độ, A-la-hán, Tam-miệu-tam-Phật-đà, Bà-già-bà cho đến ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, Thập lực, Tứ vô sở úy, Thập bát bất công. Phật có vô lượng thần thông, trí tuệ sáng suốt, có khả năng độ thoát vô lượng chúng sinh khắp mười phương. Phật là vị Đại sư của ta, Ngài cứu hộ tất cả, vì sao ta lại lo sợ? Hành giả nhất tâm nhớ nghĩ như thế, sợ hãi liền tiêu trừ.
2. Niệm Pháp
Hành giả nhớ nghĩ giáo pháp của Phật là “Pháp “Xảo xuất”, được quả báo hiện đời, không còn các nhiệt não, chẳng đợi thời, có thể đến chỗ an lành, thông đạt vô ngại”.
- Xảo xuất: Khéo giải thích chân đế và tục đế chẳng trái ngược nhau, pháp này có khả năng xa lìa kiến chấp hai bên.
- Được quả hiện đời: Pháp của hàng ngoại đạo đều không tu thành tựu đạo quả ngay hiện đời, chỉ có trong giáo pháp của Phật. Do nhân duyên xoay chuyển tương sinh, nghĩa là nhân giữ giới thanh tịnh nên tâm không hối hận, tâm không hối hận nên thân tâm phát sinh hoan hỷ. Tâm hoan hỷ nên được an lạc, tâm an lạc thì có thể thâu nhiếp tâm, nhiếp được tâm nên phát trí tuệ chân thật, có được trí tuệ chân thật nên nhàm chán thế gian, do nhàm chán nên xa lìa tham dục, do xa lìa tham dục mà được giải thoát, do quả báo giải thoát chứng được Niết-bàn, nên gọi là được quả báo ngay hiện đời.
- Không nhiệt não: Chẳng còn tham, sân, si và sinh tử phiền não nóng bức.
- Chẳng đợi thời: Các ngoại đạo khi lãnh nhận pháp yếu cần phải đợi thời gian, Pháp Phật thì chẳng thế, ví như củi khô gặp lửa liền cháy chẳng cần đợi thời.
- Đến chỗ an lành: Nếu thực hành theo Pháp của Phật, nhất định được quả báo an vui cõi trời, cõi người, cho đến quả Niết-bàn của Tam thừa.
- Thông đạt vô ngại: Do được Tam pháp ấn, nên thông đạt tự tại không chướng ngại.
Hành giả tự nghĩ: “Ta tu những Pháp như thế, thì có gì đáng lo sợ?”. Do hành giả nhất tâm nhớ nghĩ, tâm sợ hãi liền tự tiêu trừ.
3. Niệm Tăng
Hành giả nên nghĩ nhớ chư Tăng. Vì chư Tăng là đệ tử của Phật, có đầy đủ Ngũ phần pháp thân(2) trong đó có hai mươi bảy bậc Hiền Thánh, Tứ hướng, Tứ quả(3) là những vị tôn kính, xứng đáng thọ nhận sự cúng dường của trời người, là ruộng phước vô thượng ở thế gian. Đó là các bậc tăng Thanh văn, hoặc tăng Bích-chi, tăng Bồ-tát, các ngài đã chứng đạt vô lượng thần thông và trí tụê, có khả năng cứu thoát chúng sinh qua khổ nạn, hành giả tự nghĩ: “Chư vị Thánh tăng là bạn chân chính của ta, ta còn lo sợ gì?”. Hành giả nhất tâm nhớ nghĩ như thế, tâm sợ hãi tự nhiên trừ diệt.
4. Niệm Giới
Hành giả cần phải nhất tâm nhớ nghĩ đến giới, vì giới có công năng ngăn các điều ác, đưa đến chỗ an ổn.
Giới có hai thứ:
a) Giới hữu lậu: chia ra hai thứ: Luật nghi giới và Định cộng giới.
- Luật nghi giới có công năng ngăn các điều ác, nên thân được an ổn.
- Định cộng giới có công năng ngăn ngừa các phiền não không sinh khởi, nên nội tâm được an lạc.
b) Giới vô lậu: Có công năng phá trừ nguồn gốc vô minh và các điều ác, nên được giải thoát an lạc. Hành giả nghĩ “Ta tu những giới luật như thế có gì mà sợ”, do nhất tâm nhớ nghĩ, tâm sợ hãi tự tiêu trừ.
5. Niệm xả
Hành giả cần phải nhớ buông xả.
Xả có hai thứ: Xả bố thí và Xả phiền não.
Xả bố thí cũng chia làm hai thứ là xả tài vật và xả pháp, hai thứ này đều gọi là xả, đây chính là nền tảng của tất cả pháp thiện. Hành giả tự nghĩ: “Từ khi ta sinh ra cho đến nay, cũng từng có các công đức xả thí như thế, thì ta có gì phải lo sợ?”. Hành giả nhất tâm nhớ nghĩ như thế, tâm sợ hãi tự nhiên tiêu trừ.
6. Niệm thiên
Hành giả phải nhớ nghĩ về cõi trời Tứ thiên vương, cho đến cõi trời Tha hóa tự tại v.v… các cõi trời này do đời trước trồng nhiều căn lành, như: trì giới, bố thí, v.v… mà được sinh lên cõi trời, hưởng an lạc cả ngày lẫn đêm, đem pháp an lành hộ niệm cho chúng ta.
Lại nhớ nghĩ cõi trời có bốn thứ:
- Danh thiên (cõi trời ở Thế gian): tức là các vị đại quốc vương của các nước trên khắp thế giới ở mười phương, tuy sống trong nhân gian, nhưng hưởng phước như cõi trời.
- Sinh thiên: tất cả chúng sinh tu Ngũ giới, Thập thiện thì được hưởng quả báo sinh lên cõi trời Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.
- Tịnh thiên: tức là cõi trời của hàng Thanh văn và Duyên giác đã đoạn trừ các phiền não, được đại thần thông, biến hóa tự tại, thanh tịnh vô nhiễm.
- Nghĩa sinh thiên: cõi trời của hàng Bồ-tát thập trụ, các ngài khéo thông hiểu ý nghĩa các pháp.
Hành giả tự nghĩ: “Quả báo các cõi trời này đều thanh tịnh, nếu ta có tạo pháp lành bố thí, trì giới, khi xả báo thân nhất định sinh lên cõi trời, thì có gì phải lo sợ”. Hành giả nhất tâm nhớ nghĩ như thế, tâm sợ hãi tự nhiên tiêu trừ.
7. Niệm A-na-ban-na (Nhớ hơi thở):
Như pháp môn đầu tiên trong Thập lục đặc thắng đã nói ở chương trước, nếu tâm hành giả lo sợ phải nghĩ nhớ điều hòa hơi thở, chú tâm nơi hơi thở ra vào, đếm từ 1 đến 10, thì sáu thần sẽ xoay lại. Hành giả nhất tâm nhớ hơi thở như thế, thì tâm sợ hãi tự tiêu trừ.
8. Niệm tử:
Nguyên nhân tử vong có hai loại:
- Thọ mạng kết thúc mà chết.
- Do nhân duyên bên ngoài dẫn đến cái chết. Hành giả tự nghĩ: “Hai trường hợp này thường luôn đeo bám nơi thân này, nếu người khác không giết chết, thì tự nó cũng sẽ chết, đâu có gì phải đáng lo sợ? Như dũng sĩ xông trận, thề chết không trốn chạy, thì tâm an ổn không sợ hãi”. Do nhất tâm nhớ nghĩ như thế, tâm sợ hãi liền tiêu trừ.
Trên đây đã trình bày sơ lược phương pháp quán Bát niệm, dùng đối trị tâm sợ hãi. Pháp tướng Bát niệm có phân biệt rất rộng trong Ma Ha Diễn. BÁT NIỆM NHẬP ĐẠO
Nếu như nói ở phần trước, Bát niệm chính là phương pháp diệt trừ tâm sợ hãi và các chướng nạn, nay nói khéo tu Bát niệm, tức là con đường nhập đạo.
Giải thích Bát niệm nhập đạo chia làm hai phần:
1. Thứ lớp tu hành nhập đạo
2. Mỗi một niệm đều được nhập đạo
1. Thứ lớp tu hành nhập đạo:
Hành giả muốn trừ bệnh phiền não để tìm cầu giải thoát nên nhớ nghĩ đến 8 điều:
Niệm tức là nghĩ nhớ:
- Phật là vị Đại y vương.
- Pháp là phương thuốc hay để trị bệnh.
- Tăng là các bác sĩ khám bịnh.
- Giới là những điều cấm kỵ bệnh nhân ăn uống.
- Xả như bồi dưỡng.
- Thiên như thân bệnh sắp lành.
- Quán hơi thở ra vào như phát thiền định.
- Tử tức là giác ngộ lý Tứ đế và vô thường. Nếu bệnh ở tam giới dứt sạch thì chứng được
Thánh quả.
2. Mỗi một niệm đều được nhập đạo
- Niệm Phật: Tức là niệm Phật tam-muội, tướng nhập đạo như có nói trong các kinh điển như Kinh Văn Thù Bát Nhã(4) v.v...
- Niệm Pháp: Như trong kinh ghi: “Pháp là Thầy chư Phật”. Như các pháp Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Lục ba-la-mật, Thật tướng trung đạo. Các pháp này thảy đều là phương pháp nhập đạo.
- Niệm Tăng: Như có nói trong các Kinh Quán Thế Âm Tam-muội, Kinh Dược Vương v.v...
- Niệm Giới: Như nói mười giới ở phần trước.
- Niệm Xả: Như tướng nhập đạo trong Ma Ha
Diễn và trong Đàn ba-la-mật.
- Niệm Thiên: Như Đệ nhất nghĩa thiên tức là tướng nhập đạo.
- Niệm hơi thở: Tướng nhập đạo có nói đầy đủ như trong Thông minh thiền.
- Niệm Tử: Ý nghĩa như trong phần giải thích
Tử tưởng.
Nên biết Bát niệm này chỉ cần tùy ý tu niệm một thứ cũng được nhập đạo, không cần tu tập các niệm nào khác. Chẳng qua hàng Bồ-tát vì muốn cầu Phật đạo nên hành Bát niệm, tâm không chấp pháp. Dùng tâm đại bi, tu tập rọng các pháp môn để làm phương tiện hóa độ chúng sinh. Nên biết Bát niệm tức là pháp của Bồ-tát Đại thừa. Chú thích Quyển 9A:
(1) Mười đại danh hiệu: 10 tôn xưng đức của chư Phật: Như Lai (Đa-đà-a-già-đà) Ứng cúng, Chánh biến tri (Tam-miệu-tam-Phật-đà), Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế tôn (Bà-già-ba).
(2) Ngũ phần pháp thân: năm thứ công đức đầy đủ trong tự thể của Phật và A-la-hán. Gồm có:
a) Giới thân: xa lìa lỗi lầm của 3 nghiệp.
b) Định thân: chân tâm vắng lặng, bất động.
c) Huệ thân: căn bản trí, thể chân tâm tròn sáng, quán thông các pháp tính.
d) Giải thoát thân: pháp thân, giải thoát các trói buộc.
e) Giải thoát tri kiến thân: chứng biết tự thể xưa nay vô nhiễm, thật sự giải thoát Phần tức là Nhân, vì năm thứ này là nhân để thành thân nên gọi là “Phần”; “pháp” là tự thể của bậc vô học, là khuôn mẫu để tạo thành thân, nên “pháp” có nghĩa là tự thể, là quy tắc, “thân” là thể của các Đức Phật, có các công đức tích tụ, nên thân cũng có nghĩa là Tích tụ.
(3) Hai mươi bảy bậc Hiền Thánh của Tứ hướng, Tứ quả (Nhị thập thất hiền thánh): gồm 18 bậc Hữu học của 4 hướng 3 quả trước và 9 bậc Vô học A-la-hán.
Theo Thành Thật luận, 27 bậc gồm: Tùy tín hạnh, Tùy pháp hạnh, Vô tướng hạnh, Dự lưu quả, Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Trung bát (Niết-bàn), Sinh bát, Hữu hành bát, Vô hành bát, Lạc huệ, Lạc định, Chuyển thế, Hiện bát, Tín giải, Kiến đắc, Thân chứng, Thoái pháp tướng, Thủ hộ tướng, Tứ tướng, Trụ tướng, Khả tiến tướng, Bất hoại tướng, Huệ giải thoát tướng, Câu giải thoát tướng, Bất thoái tướng.
Còn theo Kinh Trung A Hàm Phước Điền, 27 bậc là: Tín hạnh, Pháp hạnh, Tín giải, Kiến đạo, Thân chứng, Gia gia, Nhất chủng, Hướng Tu-đà- hoàn, Đắc Tu-đà-hoàn, Hướng Tư-đà-hàm, Đắc Tư- đà-hàm, Hướng A-na-hàm, Đắc A-na-hàm, Trung bát Niết-bàn, Sinh bát Niết-bàn, Hành bát Niết-bàn, Vô hành bát Niết-bàn, Thượng lưu sắc cứu cánh, Tư pháp, Thăng tiến pháp, Bất động pháp, Thoái pháp, Bất thoái pháp, Hộ pháp, Thật trụ pháp, Huệ giải thoát, Câu giải thoát.
(4) Văn Thù Bát Nhã Kinh: 2 quyển, do ngài Ma-đà-la-tiên người Phù-nam dịch thành sách vào năm 503 đời Lương, Trung Quốc, được xếp vào Đại chính tạng, tập 8.
Nội dung kinh này nói về nhất tướng bất khả đắc, phước điền tướng bất khả tư nghị và các thuyết về nhất tướng trang nghiêm tam-ma-địa của ngài Văn Thù Sư Lợi, Phật và thế giới hữu tình. *III- THẬP TƯỞNG
Thập tưởng là 10 phương pháp quán tưởng gồm có:
1. Vô thường tưởng
2. Khổ tưởng
3. Vô ngã tưởng
4. Thực bất tịnh tưởng
5. Nhất thiết thế gian bất khả lạc tưởng
6. Tử tưởng
7. Bất tịnh tưởng
8. Đoạn tưởng
9. Ly tưởng
10. Tận tưởng GIẢI THÍCH THẬP TƯỞNG
Chia làm ba phần:
Thuyết minh vị thứ
Thuyết minh tu chứng
Thuyết minh nhập đạo THUYẾT MINH VỊ THỨ
Trong Phật giáo, các pháp được giảng nói chia làm Tam đạo: Tức là ba giai vị của hàng Thanh văn và Bồ-tát.
- Kiến đạo: Giai vị mới thấy được lý chân thật và đoạn trừ Kiến hoặc(1).
- Tu đạo: Giai vị thường tu tập và đoạn trừ Tư hoặc(2).
- Vô học đạo: Giai vị đoạn hết các hoặc, giải thoát sự trói buộc.
Mười phương pháp quán tưởng này là đứng về ba giai vị để giải thích vị thứ. Vì sao? Vì hành giả quán pháp hoại, khi đang còn ở ngôi vị Càn huệ địa, quán tướng lửa thiêu cháy xương trắng thành tro, tức là đã có đầy đủ các công đức và năng lực hàng phục các phiền não kiết sử như khi quán Cửu tưởng vậy.
Nay hành giả tu cả ba pháp quán tưởng:
- Vô thường
- Khổ
- Vô ngã
Tức là đã quán bao hàm các pháp quán tưởng, bởi vì hành giả muốn phá trừ sáu mươi hai thứ tri kiến điên đảo, nhập giai vị Kiến đạo chứng quả Tu-đà-hoàn.
Kế tiếp hành giả tu bốn pháp quán tưởng:
- Thực bất tịnh tưởng
- Tử tưởng
- Bất tịnh tưởng
- Thế gian bất khả lạc tưởng
Đây là quả Tu-đà-hoàn và Tư-đà-hàm nhập giai vị Tu đạo, vì muốn đoạn trừ Ngũ hạ phần kiết sử(3), chứng quả A-na-hàm, nên mới nói tu bốn pháp quán trên sự tướng của Biệt tướng(4), để hỗ trợ hành giả thành tựu chánh quán, đoạn Tư hoặc của Dục giới.
Sau đó hành giả tu tiếp ba pháp quán tưởng là Đoạn tưởng, Ly tưởng, Tận tưởng, vì bậc A-na-hàm khi muốn tiến tu Hướng A-la-hán, nhập vào giai vị Vô học đạo để đoạn trừ tham ái cõi Sắc và Vô sắc chứng quả A-la-hán.
Tu các pháp quán của Thập tưởng trước tiên cần phải lấy Tam đạo để thuyết minh vị thứ, kế đến phần thuyết minh Tu chứng dưới đây giải thích sẽ thấy rõ. THUYẾT MINH TU CHỨNG
1. Vô thường tưởng
Hành giả quán xét tất cả pháp hữu vi là vô thường, do cảnh quán cùng trí tuệ tương ưng, nên gọi là Vô thường tưởng. Vì sao? Vì tất cả các pháp hữu vi luôn luôn sinh diệt và thuộc về nhân duyên, không tăng, không tích lũy, khi sinh không từ chỗ nào đến, khi diệt không đi về đâu, nên gọi là Vô thường.
Vô thường có có hai thứ:
- Chúng sinh vô thường
- Thế giới vô thường
a) Chúng sinh vô thường
Hành giả quán tự thân và tất cả chúng sinh đều từ tinh huyết của cha mẹ hợp thành mà có, thân sắc và tâm luôn sinh diệt biến đổi cho đến khi già chết, không bao giờ tạm dừng. Vì sao? Vì tất cả các pháp hữu vi đều thuộc ba tướng: Sinh, Trụ, Diệt, do sự biến đổi của ba tướng ấy nên mới biết các pháp là vô thường.
Do tham dục muốn sống, nên có những chúng sinh luân hồi trong Lục đạo khác nhau. Do tham dục mà chết, nên có chúng sinh, sinh tử trong Lục đạo khác nhau. Sự biến đổi vô thường, sát-na mau chóng như thế, không hề tạm dừng. Nên mới biết tất cả chúng sinh đều là vô thường.
b) Thế giới vô thường
Như bài kệ nói:
Khi thế giới hủy diệt.
Đất đai cây cỏ đều tiêu tàn. Biển cả, Tu Di cũng lấp tan
Cung điện chư thiên đều cháy sạch
Lúc này thế giới chỗ nào thường.
Lại nữa, như Phật dạy pháp quán vô thường có hai thứ: Hữu dư và Vô dư.
- Hữu dư: khi tất cả nhân loại và vật chất đều diệt hết, chỉ có còn lại những danh từ.
- Vô dư: khi tất cả nhân loại và vật chất đều tiêu tan sạch, cái danh từ cũng không có.
Vì sao? Nếu nói do ba tướng Sinh, Trụ, Diệt và tất cả các pháp hữu vi là vô thường, nhưng ba tướng vốn tự là Không, vì sao có chữ vô thường? Như khi có tướng sinh thì không có tướng trụ, diệt; khi lìa tướng sinh cũng không có tướng trụ, diệt. Nếu khi sinh mà có tướng trụ và diệt, không thể gọi là tướng sinh, vì như thế là tướng sinh diệt trái nhau.
Nếu nói không có tướng sinh mà có tướng trụ và diệt, cũng phá mất định nghĩa của cả ba tướng, nếu không có tướng sinh, thì tướng diệt cũng không có chỗ diệt.
Cho nên ba tướng: Sinh, trụ và diệt đều không thể được, nếu không có ba tướng, vì sao nói là vô thường? Nếu hành giả biết rõ tướng vô thường cũng Không, tức là đã thấy được Thánh đạo, đây gọi là Vô thường tưởng.
HỎI: Nếu vậy tại sao Phật nói vô thường là Thánh đế?
ĐÁP: Vì để đối trị phá trừ tri kiến điên đảo chấp các pháp là thường còn. Cũng không nên chấp vô thường là thật, nếu chấp pháp vô thường là thật thì rơi vào đoạn diệt.
Lại nữa, pháp quán tưởng vô thường của Hữu dư đã có giải thích trong Thập lục đặc thắng và Thông minh thiền, còn pháp quán tưởng vô thường của Vô dư thì đến phần giải thích Huệ hành sẽ nói rộng.
HỎI: Vì sao đầu tiên tu tập hạnh Thánh, Phật dạy quán tưởng vô thường trước?
ĐÁP: Vì tất cả phàm phu khi chưa thấy đạo, đều cho rằng công hạnh của mình là tốt, là đúng. Có người nói trì giới là quan trọng, có người cho đa văn là quan trọng, có người nói hành hạnh Đầu- đà là quan trọng, có người nói thiền định là quan trọng v.v… do đó ai cũng chấp hạnh tu của mình là quý trọng, mà không chịu nỗ lực siêng năng cầu Niết-bàn. Phật khuyên chúng sinh tu các công đức, mục đích là hướng đến Niết-bàn đạo phần(5). Nếu quán chiếu thấy các pháp là vô thường, đây chính là Niết-bàn chân thật. Do những nhân duyên như thế, cho nên tuy Phật biết các pháp đều Không, nhưng vẫn giảng nói pháp quán Vô thường tưởng.
2. Khổ tưởng
Hành giả khởi niệm suy nghĩ như vầy: “Nếu tất cả các pháp hữu dư là vô thường biến đổi, tức là Khổ tưởng”. Vì sao? Vì từ trong sáu căn, xúc chạm sáu trần ở ngoài, hợp thành sáu thức, sáu thức sinh khởi ba thứ cảm thọ: Khổ, Lạc, Xả.
- Khổ thọ: có tám thứ: sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ, oán tắng tội khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ, tất cả tám thứ này gọi chung là Khổ thọ. Bản chất của tám thứ khổ thọ này, nếu luận trên sự tình thì tánh nó là đau khổ, cho nên tất cả chúng sinh đều chẳng ưa thích, mong muốn.
- Lạc thọ: tức là các cảm giác khoái lạc thuận theo tình nên tất cả chúng sinh đều ưa thích, ham muốn. Nếu sinh khởi tâm tham đắm nơi khoái lạc, đến khi thế sự vô thường nó sẽ hoại diệt. Sau khi những khoái lạc diệt mất, tâm liền cảm thấy đau khổ mà tương lai cũng phải chịu các cảm thọ khổ ở địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ v.v... Những cảnh giới đau khổ này, đều do tâm tìm cầu khoái lạc mà phát sinh, nên biết rằng các cảm thọ khoái lạc tức là khổ vậy.
- Xả thọ: tức là các cảm thọ không khổ, không lạc, không thủ, không xả, nhưng luận về lý thì trên thực tế nó cũng bị vô thường chi phối dời đổi, bức bách, cho nên cảm thọ Xả này cũng là đại khổ.
Khi hành giả quán cả ba thứ cảm thọ như thế, tâm trạng đối với các cảm thọ khoái lạc ở trong Tam giới, chẳng có gì đáng cho tâm tham đắm, ngược lại còn cảm thấy nhàm chán và lo sợ, cho nên gọi là Khổ tưởng.
HỎI: Nếu vô thường là khổ thì đạo Thánh đế là pháp hữu vi vô thường, cũng phải khổ mới đúng?
ĐÁP: Đạo Thánh đế tuy là vô thường, mà có công năng diệt khổ và không còn sinh khởi tâm đắm nhiễm ngũ dục, lại cùng hợp với các trí tuệ, Không, Vô ngã v.v… cho nên pháp quán Vô thường của Đạo thánh đế, chỉ là vô thường mà không có Khổ vậy.
3. Vô ngã tưởng
Hành giả tư duy suy xét các pháp hữu vi đều là khổ, các thọ khổ là vô ngã. Vì sao? Vì trong năm thứ thọ (khổ, vui v.v…) đều là khổ, do khổ nên tâm chẳng được tự tại, nếu tâm chẳng tự tại thì thọ khổ không có tự ngã. Vì sao? Vì nếu có tự ngã, thì bị các thống khổ bức bách, cho nên quán tưởng thọ khổ không có tự ngã (không thật).
Lại nữa, trong năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới, do các pháp đều từ nhân duyên sinh, nên không có tự tính, nếu ngay nơi năm ấm mà xa lìa năm ấm để tìm mười sáu thứ tri kiến(6) (chấp ngã) v.v… đều không thể được. Đã không còn có tự ngã, thì tất cả kiến chấp được xả bỏ, nếu tâm không còn chấp thủ, liền được giải thoát, đây gọi là Vô ngã tưởng. Ba pháp quán tưởng: Vô thường, Khổ, Vô ngã, rất là vi tế và thâm sâu, phải đến phần Khổ Đế mới giải thích rộng hơn.
HỎI: Cả ba pháp quán: Vô thường, Khổ, Vô ngã là một hay là ba? Nếu là một đâu cần phải nói ba, nếu là ba pháp quán khác nhau tại sao đức Phật lại nói vô thường chính là khổ, khổ là vô ngã ?
ĐÁP: Ba pháp này cũng tức là một. Vì sao? Vì lấy pháp hữu lậu làm pháp quán, nên phân biệt có ba thứ khác nhau:
- Vì nếu hành pháp quán vô thường thì phải tưởng tượng đến sự vô thường.
- Nếu hành pháp quán về khổ thì phải quán tưởng cảnh khổ.
- Nếu hành pháp quán tưởng về vô ngã thì phải quán tưởng đến vô ngã.
Do chúng sinh quán chiếu về vô thường nên không còn đọa vào trong Tam giới. Do quán tưởng khổ nên biết rõ Tam giới là tội lỗi. Do quán biết vô ngã thì dễ dàng xả bỏ thế gian.
Lại nữa, khi quán vô thường thì tâm sinh nhàm chán, quán khổ nên tâm sinh lo sợ, quán vô ngã thì tâm kiến chấp hữu ngã bị nhổ sạch, liền được giải thoát.
Lại nữa, quán vô thường là ngăn ngừa kiến chấp thường, quán khổ là ngăn ngừa kiến chấp Niết-bàn thế gian, quán vô ngã là ngăn ngừa kiến chấp hữu ngã.
- Quán Vô thường vì thế gian chấp cho các pháp là thường.
- Quán Khổ vì chấp thế gian là vui.
- Quán Vô ngã vì thế gian chấp có thật ngã bền chắc.
Các thứ như thế, trong Ma Ha Diễn có phân tích rất tường tận.
4. Thực bất tịnh tưởng:
Tuy hành giả đã biết rõ vô thường, khổ, không, vô ngã, nhưng đối với việc ăn uống vẫn còn tâm tham đắm, cần phải tu quán tưởng Thực bất tịnh để đối trị.
Hành giả quán thức ăn đều từ các nhân duyên bất tịnh mà có. Như thịt động vật là do tinh huyết tạo thành, sinh ra từ đường tiểu tiện, là chỗ sinh sống của vi trùng, là chỗ chứa máu mủ, như sữa, tô-lạc cũng do máu biến thành, chẳng khác máu mủ của ghẻ lở.
Gạo cơm giống như những con sâu trắng, các thứ rau canh ví như phân đặc. Tất cả cơm và thức ăn đều do người nhà bếp làm ra, trộn lẫn giọt mồ hôi bất tịnh. Nếu để vào trong miệng, trong đầu tiết ra dịch vị chảy xuống hòa cùng nước miếng, mới tạo thành hương vị, hình trạng thức ăn cũng như vật ói mửa, theo cửa miệng vào bụng, nhờ địa đại giữ gìn, thủy đại tẩm ướt, phong đại khua động, hỏa đại nung đốt. Như khi nấu cháo, chất cặn bã chìm xuống dưới nồi, phần nước trong nổi lên trên, hoặc như nấu rượu, chất bã hèm ví dụ như phân uế, chất nước trong ví dụ như nước tiểu.
Ở nơi eo lưng có ba cái lô, gió thổi các chất đặc sệt, thấm vào trăm mạch, trước tiên cùng với máu huyết hòa hợp, đọng lại biến thành thịt, từ thịt biến thành mỡ, xương, tủy, do nhân duyên đó nên tạo thành thân thể. Từ chất thịt mới và thịt cũ tạo thành năm căn, từ năm căn sinh ra năm thức, lần lần sinh ra ý thức phân biệt, do ý thức phân biệt chấp đắm hình tướng, so đo đẹp, xấu. Sau đó mới sinh ra tâm phiền não, ngã, ngã sở v.v… và tạo các nghiệp tội lỗi.
Hành giả quán nguyên nhân của sự ăn uống và những thứ bất tịnh như thế, biết bốn đại bên trong cùng bốn đại ở ngoài không khác nhau, chỉ vì chấp ngã, nên gượng cho thân này là ngã. Hành giả tư duy như thế, biết tai họa và tội lỗi của sự ăn uống, nếu ta tham đắm sẽ bị rơi vào địa ngục, ngạ quỷ, nuốt hòn sắt nóng. Hoặc đọa vào loài súc sinh, làm thân chó ăn phân ô uế. Khi hành giả quán tưởng thức ăn bất tịnh thì tâm sinh nhàm chán, do nhàm chán thức ăn nên đối với ngũ dục cũng khô cạn. Đây gọi là Thực bất tịnh tưởng.
5. Nhất thiết thế gian bất khả lạc tưởng
Khi hành giả nhớ nghĩ đến sắc dục, mùi vị ăn uống ở thế gian và bà con thân thuộc, làng xóm, y phục trang sức, tổ quốc, nhà cửa ruộng vườn, nhân tình thế sự v.v… thì sinh khởi ý tưởng ưa thích. Nếu những cảm giác xấu ác này không dứt, nó sẽ làm ngăn chướng việc tu hành, cho nên hành giả cần quán xét tướng tội lỗi của thế gian.
Tội lỗi thế gian có hai thứ: Chúng sinh và Quốc độ.
- Tội lỗi chúng sinh: Tất cả chúng sinh đều có tám thứ khổ, vì thế không nên tham đắm. Lại quán chúng sinh do tham dục quá nhiều không phân tốt xấu, giống như loài dã thú tham lam, sân giận, thậm chí lời Phật dạy cũng không cung kính lắng nghe, chẳng sợ đọa vào ba đường ác. Vì quá ngu si nên mong cầu những điều sai đạo lý, không biết tôn ti. Hoặc tâm keo kiệt, tham lam, cao mạn, tật đố, ghen tị, lừa dối, cướp giật, tà kiến, vô tín, chẳng biết ân nghĩa. Hoặc gây nhiều nghiệp, tạo tội ngũ, chẳng kính Tam bảo, khinh miệt người lành. Chúng sinh ở thế gian, người hiền lành rất ít, kẻ thô bạo ác hèn thì nhiều. Khi hành giả quán xét sâu xa các tội lỗi phiền não của chúng sinh, nên tâm nhàm chán, không muốn gần gũi lâu dài.
- Tội lỗi Quốc độ: Như bài kệ nói: Hoặc có nước khí hậu lạnh, Hoặc có nước khí hậu nóng, Có nước không ai cứu hộ, Hoặc có nước nhiều kẻ ác.
Có nước nghèo đói triền miên, Có nước dịch bệnh lan tràn,
Có nước không tu phước đức, Như thế không chỗ nào vui.
Hành giả quán chiếu sâu xa những việc xấu ác của dục giới, không có chỗ nào đáng ưa thích, thậm chí cả hai cõi trời sắc giới và vô sắc giới, nếu khi quả báo hết thì nỗi lo sầu khổ sở sẽ tăng nhiều
hơn cõi trần gấp bội lần, ví như vật ở chỗ rất cao khi rơi xuống đất liền tan nát. Kinh có ghi: “Ba cõi không an, giống như nhà lửa, các khổ đầy dẫy thật đáng sợ”. Nếu hành giả quán tưởng như thế, tâm sinh nhàm chán, cảm giác tham ái dứt sạch. Đây gọi là Thế gian bất khả lạc tưởng (Quán tưởng tất cả thế gian không có gì đáng vui).
6. Tử tưởng
Nếu hành giả thực hành các phương pháp quán tưởng như trên, nhưng tâm vẫn còn giải đãi, không thể đoạn trừ phiền não mau chóng, lúc này nên tu Tử tưởng.
Như Phật nói ý nghĩa của Tử tưởng:
Có vị Tỳ-kheo quỳ gối cung kính bạch Phật:
- Con có thể tu quán Tử tưởng. Phật hỏi:
- Ông tu như thế nào? Tỳ-kheo ấy đáp:
- Con chẳng hy vọng sống được một năm. Phật dạy:
- Ông vẫn còn phóng dật. Có Tỳ-kheo khác thưa:
Con chẳng hy vọng sống được bảy tháng.
Phật dạy:
- Như vậy là tu còn phóng dật. Lại có Tỳ-kheo thưa:
- Con chẳng hy vọng sống được sáu tháng, sáu ngày, cho đến hai ngày, một ngày.
Phật dạy:
- Các ông đều là người tu còn buông lung. Có Tỳ-kheo nói:
- Con chỉ hy vọng sống trong một bữa ăn. Phật dạy:
- Ông vẫn còn phóng dật.
Sau cùng có một Tỳ-kheo khác cung kính thưa:
- Theo ý con thì đối với hơi thở ra không bảo đảm hơi thở vào, hơi thở vào không bảo đảm hơi thở ra.
Phật khen:
- Lành thay! Đúng vậy, chính ông mới là người quán Tử tưởng rất tinh tấn.
Nếu hành giả có thể quán Tử tưởng như thế, nên biết người này có khả năng phá được giặc lười biếng, tất cả thiện pháp thường hiện tiền, đây gọi là tu Tử tưởng (Quán tưởng tướng chết).
7. Bất tịnh tưởng
Pháp quán tưởng này cũng giống như phương pháp quán tưởng thấy 36 vật bất tịnh và năm loại bất tịnh trong Thông minh thiền.
8. Đoạn tưởng
Do muốn chứng được Niết-bàn, nên tu quán tưởng đoạn trừ phiền não, kiết sử, nên gọi là Đoạn tưởng.
9. Ly tưởng
Quán tưởng xa lìa kiết sử phiền não, nên gọi là Ly tưởng.
10. Tận tưởng
Quán tưởng diệt hết sạch các phiền não, kiết sử, nên gọi là Tận tưởng.
HỎI : Như vậy chỉ nói một pháp quán tưởng là đủ, cần gì phải nói đến ba thứ tưởng?
ĐÁP: Đây cũng như chương trước giải thích một pháp quán mà bao gồm cả ba: quán Vô thường tức là khổ, khổ tức vô ngã. Ba pháp quán tưởng này cũng như thế.
Đoạn tưởng thuộc về Hữu dư Niết-bàn, Tận tưởng thuộc về Vô dư Niết-bàn, Ly tưởng là pháp môn phương tiện của cả hai loại Niết-bàn. Nên biết người tu quán Hoại pháp, sau khi quán thành tựu được Thập tưởng, liền chứng quả A-la-hán, có đầy đủ cả hai loại Niết-bàn. Cho nên nói Cửu tưởng và Thập tưởng là Hoại pháp đạo. Ý nghĩa của Thập tưởng, mỗi thứ đều có phân biệt đầy đủ như trong Ma Ha Diễn. THUYẾT MINH NHẬP ĐẠO
Có ba trường hợp :
1/ Thứ lớp nhập Hoại pháp đạo
Như đã nói đầy đủ ở trước.
2/ Không thứ lớp nhập Hoại pháp đạo
Từ khi hành giả mới phát tâm tu liền quán đầy đủ Thập tưởng, có thể đoạn sạch các kiết sử, chứng quả A-la-hán, có đầy đủ cả hai thứ Niết-bàn. Trong Ma Ha Diễn có ghi: “Nếu đối với noãn, đảnh, nhẫn, thế gian đệ nhất pháp, dùng trí tuệ chân chánh quán chiếu xa lìa các phiền não, tức là Ly tưởng. Khi chứng được quả Vô lậu, đoạn sạch kiết sử, gọi là Đoạn tưởng. Khi chứng nhập Niết-bàn, diệt sạch ngũ ấm không dấy khởi nữa, đây gọi là Tận tưởng”. Nên biết từ Sơ càn huệ địa trở đi, là nói về Ly tưởng, Đoạn tưởng và Tận tưởng, phần giải thích ở đây có khác với ba pháp quán tưởng đã nói ở trước, tức là sau khi chứng quả Vô học mới nói vậy.
3/ Tùy phần nhập đạo
Tức là trong 10 pháp quán tưởng, hành giả chỉ tùy ý tu một pháp quán tưởng, nếu quán tưởng được thành tựu, tức là đã có khả năng đoạn trừ các kiết sử trong tam giới, chứng đắc quả A-la-hán, có đầy đủ hai thứ Niết-bàn. Nên kinh có ghi: “Khéo tu vô thường có công năng đoạn trừ tất cả dục ái, sắc ái, vô sắc ái, trạo mạn, vô minh, kiết sử trong tam giới, vĩnh viễn hết sạch chẳng còn dư thừa”. Phải biết, chỉ tu quán tưởng Vô thường cũng đủ nhập đạo, đoạn trừ phiền não. Phương pháp quán của Cửu tưởng cũng giải thích tướng mỗi thứ nhập đạo cũng như Thập tưởng vậy.
Lại nữa, khi Bồ-tát Ma-ha-tát hành Bồ-tát đạo, do tâm quảng đại, muốn chúng sinh tu tập pháp cam lồ an lạc, tuy Bồ-tát biết các pháp cứu cánh là rỗng lặng nhưng vẫn quán tưởng thành tựu đầy đủ cả Thập tưởng. Bồ-tát đối với trong mỗi pháp quán tưởng, thứ tự tiến nhập khéo léo uyển chuyển tu hành không chướng ngại, sau đó mới vì chúng sinh mà giảng nói Thập tưởng này, nên biết pháp quán Thập tưởng tức là pháp quán của Bồ-tát Đại thừa vậy. Chú thích Quyển 9B:
(1) Kiến hoặc và Tư hoặc: là nhân của phần đoạn sinh tử trong ba cõi, mê lý gọi là Kiến hoặc, mê sự gọi là Tư hoặc. Muốn đoạn hai thứ mê lầm này, theo Tạng giáo và Thông giáo thì phải tu đến Cực quả, theo Biệt giáo thì đến Đệ thất trụ, theo Viên giáo thì đến Đệ nhất tín.. theo Thiên Thai Tứ Giáo ghi: Kiến và Tư hoặc có 7 tên khác: Kiến tu, Tứ trụ, Nhiễm ô trí, Thủ tướng hoặc, Chi mạt vô minh, Thông hoặc, Giới nội hoặc.
(2) Biệt tướng: tướng riêng biệt của một pháp. Tướng có hai loại: Tổng tướng và Biệt tướng. Tổng tướng là tướng trạng chung, như tất cả pháp đều vô thường, vô ngã. Còn Biệt tướng là tướng trạng riêng biệt của một pháp như nước có tướng ướt, đất có tướng cứng, lửa có tướng nóng.
(3) Ngũ hạ phần kiết sử: năm thứ phiền não thuộc cõi Dục, năm thứ này trói buộc chúng sinh, khiến chúng sinh không thể thoát khỏi cõi Dục. Gồm có: Tham dục, Sân giận, Thân kiến (chấp ngã) Giới cấm thủ (chấp giới tà phi lý) Nghi (nghi ngờ, chạy theo vọng tưởng).
(4) Niết-bàn đạo phần: phần vị Niết-bàn, cũng gọi là Nhân của niết-bàn. Nghĩa là dù chưa sạch hết phiền não nhưng vẫn có ít phần Niết-bàn. Nếu dứt
hết phiền não chứng Niết-bàn, gọi là Toàn phần
Niết-bàn.
(5) Mười sáu thứ tri kiến (Thập lục tri kiến): mười sáu tư tưởng vọng chấp trong ngũ ấm là thật Ngã. Đó là:
1/ Ngã: chấp có cái ta và của ta là thật.
2/ Chúng sinh: chấp chúng sinh sinh ra từ các pháp hòa hợp như 5 ấm.
3/ Thọ giả: chấp trong năm ấm có thọ mạng dài
ngắn.
4/ Mạng giả: chấp mạng căn của ta liên tục
không gián đoạn.
5/ Sinh giả: chấp ta có khả năng sinh khởi các việc và ta sinh vào trong loài người.
6/ Dưỡng dục: chấp ta có khả năng sinh sản và được làm cha mẹ, cũng có khả năng nuôi nấng người khác.
7/ Chúng số: chấp ta có các pháp số như: 5 ấm, 12 nhập, 18 giới.
8/ Nhân: chấp ta là người tu hành, khác với người không có khả năng tu hành, ta sinh ra trong đạo, khác với đạo khác.
9/ Tác giả: chấp ta có sức mạnh, có tay chân, tạo ra các việc.
10/ Sử tác giả: chấp ta có khả năng sai khiến được người khác.
11/ Khởi giả: chấp ta có khả năng tạo nghiệp tội phước đời sau.
12/ Sử khởi giả: chấp ta có khả năng khiến người khác tạo nghiệp tội phước đời sau.
13/ Thọ giả: chấp thân sau của ta sẽ thọ quả báo tội phước.
14/ Sử thọ giả: chấp ta có khả năng khiến người khác thọ quả báo tội phước đời sau.
15/ Trí giả: chấp ta có năm căn, biết được năm trần.
16/ Kiến giả: chấp ta có nhãn căn thấy được
các sắc tướng. Lại chấp ta có khả năng khởi lên các tà kiến, chánh kiến, chánh kiến cũng gọi là Kiến giả.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.141.19.212 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.