Dầu nói ra ngàn câu nhưng không lợi ích gì, tốt hơn nói một câu có nghĩa, nghe xong tâm ý được an tịnh vui thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 101)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn,
ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần,
ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người ta vì ái dục sinh ra lo nghĩ; vì lo nghĩ sinh ra sợ sệt. Nếu lìa khỏi ái dục thì còn chi phải lo, còn chi phải sợ?Kinh Bốn mươi hai chương
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó.
Kinh Pháp cú
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương
Rời bỏ uế trược, khéo nghiêm trì giới luật, sống khắc kỷ và chân thật, người như thế mới xứng đáng mặc áo cà-sa.Kinh Pháp cú (Kệ số 10)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Chương 6
PHÂN BIỆT TIỀN PHƯƠNG TIỆN THIỀN BA-LA-MẬT
(Giảng về Tiền phương tiện của việc tu thiền cho người muốn khai phát nội tâm để an tâm tu tập. Trước tiên nói về Ngoại phương tiện tức là 25 phương tiện, kế là nói về Nội phương tiện.)
Nếu hành giả có thể thông đạt chỗ luận về năm thứ Thiền ba-la-mật ở chương trước, hiểu rõ tướng trạng của các thiền, thì niềm tin từ nội tâm khai phát. Nếu muốn được an tâm học thiền, cần khéo biết phương tiện. Nay giải thích phương tiện tu thiền, chia làm hai phần.
- Ngoại phương tiện: là phương pháp dụng tâm khi chưa được định.
- Nội phương tiện: là phương pháp dụng tâm trong lúc thiền định.
Hai phương pháp này, gọi chung là phương tiện, cũng còn gọi là “Thiện xảo tu học”. Hành giả mới học thiền, khéo léo dùng phương pháp tu tập, nên gọi là phương tiện. Nếu nói rộng thì Ngoại phương tiện cũng có thể dùng trong thiền định. Nội phương tiện cũng có thể dùng ngoài thiền định. Hiện nay theo đa số để thảo luận, nên mới chia ra hai pháp Ngoại và Nội. NGOẠI PHƯƠNG TIỆN
Có năm thứ:
A. Đủ năm duyên B.Trách năm dục C. Xả năm cái
D. Điều hòa năm việc
E. Hành năm pháp
Trong năm thứ phương tiện này, mỗi thứ gồm có năm pháp, tổng cộng là hai mươi lăm phương pháp đều để sử dụng trong lúc chưa đắc thiền định. Đây gọi là tướng phương tiện khi mới bắt đầu điều phục tâm. A. ĐỦ NĂM DUYÊN
I- Trì giới thanh tịnh
II- Y thực đầy đủ
III- Ở chỗ nhàn tịnh
IV- Dứt các duyên
V- Gần thiện tri thức I- TRÌ GIỚI THANH TỊNH
Chia ba ý:
1. Có giới và không giới
2. Trì giới, phạm giới
3. Phương pháp sám hối
1. Có giới và không giới
Sau khi xuất gia thọ được giới cấm, gọi là có giới, chia làm ba ý :
a) Cơ duyên đắc giới chẳng đồng
Gồm có mười thứ:
1. Tự nhiên đắc giới: Chỉ có Phật, tuy không có thầy mà giới thể tự phát.
2. Tự thệ đắc giới: Như ngài Đại Ca Diếp, vốn là căn tính Bích chi Phật, gặp lúc Đức Phật ra đời, kết quả thuộc vào hàng Thanh văn. Ngài thưa với Phật: “Phật là Thầy của con, con là đệ tử của Phật”, vừa nói dứt lời liền đắc giới thể.
3. Kiến đế đắc giới: (đoạn kiến hoặc đắc giới) như năm anh em Kiều Trần Như, khi Phật mới chuyển pháp luân thuyết pháp Tứ Đế, họ liền chứng ngộ Sơ quả, nhân đó mà đắc giới.
4. Quy y Tam bảo đắc giới: Khi chưa có pháp Yết-ma(1), chỉ cần nghe Phật nói ba lần liền đắc giới phẩm, người này là hạng căn tính thuần tịnh.
5. Thọ bát kỉnh pháp được đắc giới: Di mẫu của Phật, trước kia Phật không cho người nữ xuất gia, do sự cầu xin của di mẫu, Phật dạy A-nan bảo họ thọ Bát kỉnh pháp(2), liền phát Cụ túc giới.
6. Luận nghĩa đắc giới: như vị Sa di tên là Tu- đà-na cùng Phật luận nghĩa lý, Phật hỏi ông ta về lý vô thường v.v… mỗi vấn đề ông đều trả lời được, cuối cùng Phật hỏi: “Nhà ông ở chỗ nào”. Ông trả lời: “Tam giới đều không, tại sao Thế Tôn lại hỏi nhà con ở chỗ nào?”. Phật bảo A Nan đưa Tu-đà-na trở về tăng đoàn và cho thọ Cụ túc giới(3), lúc ấy ông mới bảy tuổi.
7. Thiện lai đắc giới: Có người khi căn cơ đã thuần thục, Phật gọi “Thiện lai Tỳ-kheo” liền đắc giới.
8. Nhờ người thọ giới thay mà đắc giới: Như nàng Bình Ca Thi có nhan sắc xinh đẹp, làm mọi người yêu mến, nàng muốn xuất gia thọ giới, nhưng người trong nước sợ nàng đi giữa đường gặp điều bất trắc, nên phái người đến chùa Tăng thọ giới thay, sau đó trở về chùa Ni để làm lễ thọ giới cho nàng.
9. Ở biên địa ít Tỳ-kheo nhưng thanh tịnh như pháp: Chỉ cần năm vị Tỳ-kheo Tăng chứng minh, giới tử cũng đắc giới.
10. Ở địa phương có Phật pháp thịnh hành: Phải có mười vị Tỳ-kheo Tăng chứng minh. Giới tử mới có thể đắc giới.
Trên đây là mười trường hợp đắc giới, thời đại này phải có mười vị Tỳ-kheo thanh tịnh làm yết-ma, giới tử mới đắc giới. Đây là luận về có giới tướng.
b) Giải thích giới thể
Có hai thứ giáo lý bất đồng:
- Giáo lý Tiểu thừa cho rằng giới là “Vô tác thiện pháp”, chỉ cần nhân duyên thọ giới đầy đủ, nếu phát được Vô tác giới, về sau kể cả khi ngủ nghỉ, nhập định, thiện pháp này tự nhiên sinh trưởng, không cần thân, khẩu, ý tạo tác, nên lấy “Vô tác” làm giới thể. Theo thuyết Tát-bà-đa bộ giải thích, Vô tác giới là Vô biểu sắc, tức là sắc vô hình không thể thấy.
- Nếu theo thuyết Đàm-vô-đức giải thích “Vô tác giới thể” là phi sắc phi tâm pháp (không hình nên chẳng phải sắc, không duyên lự nên chẳng
phải tâm). Thuyết của các bộ phái chẳng đồng, không thể cố chấp một bên. Nói chung giáo môn của Tiểu thừa đều lấy “vô tác” làm giới thể, nghĩa này không sai. Nếu theo giáo môn của hàng Đại thừa, nói giới từ nơi tâm khởi, tức là lấy tâm thiện làm giới thể. Nghĩa này trong Kinh Anh Lạc có nói. Có thầy lại nói: “Bộ Ma-ha-tăng-kỳ cho rằng: “Vô tác giới chính là Tâm pháp”.
c) Giải thích giới tướng
Có hai thứ bất đồng:
- Nếu theo bảy chúng(5) của Tiểu thừa phát tâm thọ giới, do khi thọ giới, tác pháp bất đồng, nên đắc giới cũng có chỗ hơn kém. Như hàng Ưu- bà-tắc, Ưu-bà-di tu tại gia có năm giới tướng. Nếu người nam hay nữ, khi chưa làm đệ tử Phật, không phạm tội ngũ nghịch: (giết cha, mẹ, A-a-hán, phá hòa hợp tăng, làm thân Phật ra máu), nếu gặp thầy lành, dạy quy y Tam bảo, thọ ngũ giới, tác pháp thành tựu, tức là giới Vô tác khởi, từ đây gọi là Thanh tịnh tín sĩ.
Lại nữa, Sa-di có mười giới tướng, nếu Hòa thượng, A-xà-lê trao quy y Tam bảo thanh tịnh như pháp, theo Phật xuất gia. Nếu nhị sư tác pháp thành tựu, liền phát vô tác giới thể, gọi là giới Sa-di.
Đại Tăng có giới tướng, nếu khi làm Sa-di không phạm trọng tội, thì có mười vị (ba vị Hòa thượng và bảy vị A-xà-lê thanh tịnh) tác pháp yết- ma thành tựu như pháp, gọi là đại Tỳ-kheo cụ túc giới. Nếu Sa-di, Thức-xoa và Đại giới ni có giới tướng cũng như thế. Bảy chúng đệ tử Phật trước kia chưa phạm trọng giới, nếu gặp thầy lành, duyên tốt, tác pháp sám hối Đại thừa phương đẳng(4), được thấy tướng hảo thành tựu, sau đó thọ giới cũng đắc Vô tác giới thể. Nếu ngược lại với trên đây, gọi là Bất đắc giới thể, cũng gọi là Vô giới.
- Người hành hạnh Bồ-tát có thọ giới hay không thọ giới cũng không thể biết được, vì sao? Do Bồ-tát đã tu nhiều đời, hoặc khi mới phát tâm, gặp ngay duyên tốt thọ cũng đắc giới.
2. Trì giới phạm giới
Có ba ý :
a) Giải thích sơ lược về Trì, Phạm
b) Giải thích rộng về Trì, Phạm
c) Giải thích phát và không phát
a) Giải thích sơ lược về trì, phạm
Có hai phần:
a.1. Trì giới tướng
a.2. Phạm giới tướng
a.1. Trì giới tướng: nghĩa là giữ gìn hộ trì. Những đệ tử của Phật sau khi thọ giới cấm, vì có mười lợi ích nên giữ gìn không phạm giới, mười lợi ích như trong Tỳ-ni có nói:
1/ Nhiếp tăng
2/ Nhiếp thọ người tốt
3/ Muốn tăng chúng được an lạc
4/ Chiết phục người có tâm cống cao
5/ Người có tâm tàm quý được an lạc
6/ Người không tin có được lòng tin
7/ Người có lòng tin thì niềm tin thêm lớn
8/ Ngăn dứt hữu lậu đời này
9/ Đoạn việc ác đời sau
10/ Người có phạm hạnh được sống lâu
Hành giả đối với giới luật, nhất tâm cung kính cẩn thận, không dám hủy phạm, như ôm giữ phao nổi trên nước, không dám coi thường vứt bỏ, nên gọi là hộ trì, trì giới luật giống như hai tay bưng chén dầu đầy, không để rơi rớt một giọt, nên gọi là Trì giới tướng.
a.2. Phạm giới tướng: Phạm nghĩa là vi phạm. Tuy đã thọ giới Phật, muốn ra khỏi vòng sinh tử, mong cầu giải thoát, nay gặp nhân duyên xấu, không thể chế phục tâm mình, nửa đường bị vi phạm giới luật, hoặc giới khinh hoặc giới trọng, nên gọi là Phạm giới tướng.
Lại nữa, “phạm” còn gọi là Phạm xúc. Giống như người bệnh uống thuốc, thầy thuốc khuyên nên kiêng cử ăn uống các thức ăn độc hại. Nhưng do không nghe lời thầy thuốc, cứ tiếp tục dùng những thức ăn độc, cho nên càng ngày bệnh càng thêm trầm trọng mà thậm chí dẫn đến tử vong. Phạm giới tướng cũng như thế, nên gọi là Phạm.
b) Giải thích rộng về Trì giới và Phạm giới
Từ sơ tâm cho đến quả vị Phật, có mười thứ Phạm giới và Trì giới:
1. Trì giới không thiếu khuyết: Giữ gìn bốn giới trọng không hủy phạm.
2. Trì không phá giới: Không phạm mười ba giới Tăng-tàn.
3. Trì không xuyên giới: Không phạm ba thiên Ba-dật-đề.
4. Trì bất tạp giới: Không khởi tâm tà và các tạp niệm phiền não giác quán, cũng gọi là Định cộng giới.
5. Trì tùy đạo giới: Tâm hành (Thập lục hành quán) mười sáu pháp quán, phát trí tuệ, nhẫn, khổ(6) cũng gọi là Đạo cộng giới.
6. Trì vô trước giới: Người chứng quả A-na- hàm, nếu đoạn được chín phẩm tư hoặc của Dục giới, gọi là Đoạn luật nghi giới, cho đến dứt hết các phiền não kiết sử, tham ái sắc giới và vô sắc giới, đều gọi là Vô trước giới.
7. Trì trí sở tán giới: Bồ-tát phát Bồ-đề tâm, vì muốn tất cả chúng sinh chứng đắc Niết-bàn nên trì giới. Trì giới như thế được người trí khen ngợi, như trì giữ 10 giới trọng và 48 giới khinh của hàng Bồ-tát, vì trì giới này có công năng chứng đến quả Phật, nên được người trí khen ngợi.
8. Trì tự tại giới: Hàng Bồ-tát trì giới, ở trong các duyên phá giới mà vẫn được tự tại. Cũng có thể nói là do Bồ-tát biết rõ có tội hoặc không tội đều không thể được, chỉ tùy sự lợi ích của chúng sinh mà trì giới, tâm không chấp trước, nên gọi là Tự tại giới.
9. Trì cụ túc giới: Bồ-tát có thể trì giữ đầy đủ tất cả giới pháp của hết thảy chúng sinh và giới bậc thượng của Bồ-tát.
10. Trì tùy định giới: Không khởi Diệt thọ tưởng định, mà hiện các oai nghi giới pháp để hóa độ chúng sinh.
Bốn loại trì giới trước là Tịnh giới của thế gian, cũng được phát sinh giới xuất thế gian, ý nghĩa đã nói đầy đủ ở phần trước, phải khéo phân biệt. Hai loại trì giới ở đoạn giữa, là Tịnh giới xuất thế gian. Bốn loại trì giới sau cùng là Tịnh giới siêu xuất thế gian. Nếu hay thọ trì giữ gìn những giới tướng trên, gọi là Trì giới tướng. Nếu làm ngược lại những điều nói trên, gọi là Phạm giới tướng.
Đây gọi là từ sơ phát tâm đến quả vị Phật, phân tích thứ lớp Trì giới và Phạm giới tướng từ cạn đến sâu. Nên kinh có nói: “Chỉ có Phật mới đầy đủ tịnh giới, còn những người khác đều gọi là phá giới”.
Lại nữa, nay giải thích trì giới, chỉ tùy theo năng lực mà tu tập được tăng tiến, từ từ được thanh tịnh. Nếu không như thế thì chẳng thể phát sinh các thứ thiền định.
Hàng Bồ-tát tu pháp viên đốn, có thể dùng trí tuệ phương tiện, từ trong một niệm sơ phát tâm tu hành, liền thọ trì đầy đủ mười giới. Cho nên trong kinh có ghi: “Phát tâm và cứu cánh không hai không khác”.
c) Giải thích “Phú phát” phát giới và không phát
giới.
Có hai ý:
c.1. Vì sao gọi là phát và không phát
c.2. Phân tích phát và không phát bất định
c.1. Vì sao gọi là phát và không phát: Nếu hành giả trì giới thì phát thiền định, phá giới thì không phát thiền định. Nếu hành giả trì giới luật của thế gian thì thiền định thế gian khai phát. Nếu trì giới không thanh tịnh thì ngăn che thiền định thế gian.
Nếu hành giả trì giới luật của xuất thế gian và giới luật thượng thượng siêu xuất thế gian thì thiền định sẽ khai phát. Nếu phá giới thì bị ngăn che thiền định.
c.2. Phân tích phát và không phát bất định: Vì chúng sinh tu thiền có nhiều căn cơ không cố định, cho nên chia ra bốn câu để phân tích:
- Có người tuy phạm giới vẫn phát thiền định. Có người tuy trì giới mà thiền định chẳng phát.
- Có người phá giới nên thiền định chẳng phát. Có người trì giới mà được thiền định.
- Có người trì giới hay phạm giới cũng đều phát thiền định.
- Có người trì giới hay phạm giới cũng không phát thiền định.
1/ Người phạm giới tu thiền định mà thiền định vẫn phát là do đời trước có nhân duyên thiện căn sâu dày đã từng tu tập thiền định, dù hiện tại có phạm tội, nhờ sức thiện căn của đời trước quá mạnh, và hiện đời cũng có nỗ lực tu thiền định, hay đối với tội đã phạm mà sinh tâm hổ thẹn, giống như mắc nợ phải hoàn trả, cho nên tuy phá giới mà vẫn phát thiền định.
2/ Người tuy có trì giới luật, tu thiền nhưng thiền định không phát là do quá khứ người này không gieo nhân thiền định, nên đời nay tuy có trì giới và tu thiền định nhưng thiền định lại không phát.
3/ Người có trì giới và phạm giới đều phát thiền định.
4/ Người có trì giới hay phạm giới cũng không phát thiền định. Có thể giải thích đại khái như phần trên, nên có bốn thứ bất đồng.
Suy tìm tận nguồn gốc của nó, thì phải cần nhân nơi trì giới mà phát thiền định. Phạm giới không nhất định làm chướng ngăn thiền định, vì sao? Nếu quá khứ đã từng được thiền định, tức là biết quá khứ từng trì giới mà được phát thiền định, nên chuyển thành Nhân tu tập của đời này. Do đời này có tâm hổ thẹn sám hối được thanh tịnh làm duyên, cho nên thiện căn đời trước dẫn phát, khiến hiện tiền được thiền định vậy.
3. Phương pháp sám hối
Có hai ý:
a) Sinh tâm sám hối
b) Phương pháp sám hối
a) Sinh tâm sám hối
Nếu người không từng làm điều ác, thì không có tội để sám hối. Nếu người tu hành không quyết tâm trì giới, hoặc gặp duyên ác liền phá hủy giới, hoặc nhẹ hoặc nặng, cũng đều là phá giới, do giới luật không thanh tịnh thì Tam-muội không phát sinh. Ví như y phục dơ bẩn, không thể nhuộm màu được, cho nên cần phải sám hối. Do sám hối giới phẩm mới được thanh tịnh, tam-muội mới có thể phát sinh, ví như y phục bị dơ bẩn nếu được giặt tẩy sạch, nhuộm vải mới thấm màu được.
Hành giả tư duy như thế, nếu giới không thanh tịnh, phải cần quyết tâm sám hối. Trong kinh có ghi: “Trong Phật pháp có hai hạng người dũng mãnh: Người bẩm tính không làm việc ác; người đã tạo ác rồi, biết ăn năn sám hối”. Người đã tạo tội lỗi mà biết sám hối, gọi là trượng phu vậy.
Sám hối nghĩa là: “Sám” gọi là sám tạ, tạ lỗi với Tam bảo và tất cả chúng sinh. “Hối” là hổ thẹn những lỗi lầm, cầu xin sửa đổi không vi phạm và phát nguyện: “Tội lỗi mà con vi phạm ở đời này, nếu được trừ diệt, tương lai dù có mất thân mạng cũng không dám tái phạm những lỗi lầm và tạo nghiệp khổ như thế”. Có vị Tỳ-kheo thưa với Phật: “Con thà nhảy vào lửa lớn bị thiêu đốt, trọn không dám hủy phạm tịnh giới Như Lai chế định”. Khởi tâm sám hối như thế, xin nguyện Tam bảo chứng minh nhiếp thọ, ấy gọi là Sám hối.
Lại nữa, “Sám” là ngoài không che đậy, “Hối”
là trách và khắc chế nội tâm; “Sám” là biết tội
lỗi đã phạm là xấu ác, “Hối” là lo sợ thọ báo ứng. Nghĩa sám hối rất nhiều, nay không nói rộng.
Nói tóm lại, nếu biết rõ các pháp đều hư giả, mới có thể dứt sạch nghiệp ác, tu những nghiệp thiện, ấy gọi là Sám hối.
b) Phương pháp sám hối
Chia làm ba phần:
b.1. Giải thích Pháp sám hối b.2. Giải thích Diệt tội thứ lớp
b.3. Giải thích khôi phục và không khôi phục
b.1. Giải thích Pháp sám hối
Nguyên do diệt tội đều có phương pháp, ví như y phục bị dính dầu bẩn, nếu chỉ dùng nước, không thể tẩy sạch chất dầu, mà phải dùng tro, bồ kết hay thuốc tẩy, mới tẩy hết được, phương pháp diệt tội cũng như thế.
Nay giải thích phương pháp sám hối, theo giáo môn thì rất nhiều, nói chung cũng không ngoài ba thứ:
- Tác pháp sám hối: Dựa vào giới luật để giải thích sám hối.
- Quán tướng sám hối: Dựa vào pháp thiền định để giải thích sám hối.
- Quán vô sinh sám hối: Dựa vào trí tuệ để giải thích sám hối.
Ý nghĩa ba pháp sám hối này, bao hàm chung cả Tam tạng, Ma-ha diễn, nhưng theo đa số mà nói, như phương pháp thứ nhất phần nhiều thuộc pháp sám hối của Tiểu thừa, hai phương pháp sau phần nhiều là pháp sám hối của Đại thừa áp dụng.
b.1.a) Giải thích Tác pháp sám hối
Làm việc thiện xoay chuyển việc ác đã làm, nên gọi là sám hối. Như trong Tỳ-ni (tạng luật) thường dùng pháp này diệt tội. Vì sao? Như pháp sám hối ở Thiên thứ hai trong tạng luật quy định, hai mươi vị Tỳ-kheo làm phép Yết-ma tác pháp biệt trụ, xuất tội v.v… tác pháp thành tựu, gọi là Diệt tội.
Đây không nhất định phải thấy các tướng mạo, cũng bất luận trí tuệ quán Không, nên biết chỉ làm tác pháp sám hối mà thôi.
Yết-ma dịch là tác pháp. Như (5 thiên) năm phần trong tạng luật của tỳ-kheo, (3 thiên) ba phần sau đều nói về tác pháp sám hối. Việc này cũng dễ hiểu, nghĩa lý trên đây, trong tạng luật nói rất rộng, nhưng chưa nói rõ phương pháp sám hối bốn tội trọng như thế nào? Riêng trong kinh Tối Diệu Sơ Giáo nói: “Nên thỉnh hai mươi vị Tỳ-kheo Tăng thanh tịnh ở trong đại chúng, Tỳ-kheo phạm tội đối trước đại chúng, tự mình phát lồ tội đã phạm, chư Tăng vì vị ấy làm tác pháp Yết-ma thành tựu. Tỳ-kheo phạm tội ở trước Tam bảo, như pháp thực hành đồng thời tụng giới (ngàn thiên) một ngàn lần liền được thanh tịnh”.
Cũng có nói thấy tướng hảo làm chứng, tội diệt, giới luật mới thanh tịnh. Nên biết trong tạng luật không có pháp sám hối bốn tội trọng, nhưng trong kinh điển có ghi rõ pháp Yết-ma này, tướng tác pháp như trong kinh Tối Diệu Sơ Giáo có nói rộng.
b.1.b) Giải thích Quán tướng sám hối
Hành giả y theo phương pháp sám hối ở trong các kinh điển, chuyên tâm dụng ý, nội tâm tĩnh lặng thấy các tướng cảnh giới. Như trong giới Bồ- tát có ghi: “Nếu sám hối 10 tội trọng, cần phải thấy tướng hảo, tội liền diệt”. Tướng là: thấy Phật đến xoa đầu, thấy Phật phóng các thứ ánh sáng, hoa sen, tội liền tiêu diệt. Nếu không thấy tướng hảo, tuy có sám hối cũng vô ích.
Pháp tu Đà-la-ni trong các Kinh Đại Thừa Phương Đẳng có rất nhiều phương pháp sám hối loại này. Trong tam tạng, Kinh Tạp A Hàm cũng có nói phương pháp sám hối. Như quán thành tựu tướng địa ngục, rắn độc, tướng bạch hào v.v... tức là nói tội đã diệt. Ở đây đều làm trong lúc tâm an định, cho nên phương pháp quán tướng sám hối được thành tựu, phần nhiều nương nơi pháp tu thiền định mà nói.
HỎI: Thấy các tướng cảnh giới, làm sao biết tội được diệt?
ĐÁP: Kinh nói chẳng đồng, tội phá giới khinh, trọng có khác nhau, chẳng có tiêu chuẩn nhất định. Nay chỉ nêu chung để giải thích, cũng không ngoài bốn tướng:
- Tướng trong mộng thấy.
- Khi hành đạo nghe thấy tiếng trong hư không, hoặc thấy dị tướng và điềm lành linh dị.
- Trong khi tọa thiền thấy các tướng thiện ác, phá giới, trì giới v.v…
- Thấy tướng đạo tâm khai phát, nội tâm chứng mỗi thứ pháp môn. Đây là tùy theo tội nặng hay nhẹ để chế đoạn, không thể nói cố định. Đến phần chứng nghiệm thiện ác căn tính sẽ bình luận sau.
HỎI: Thiên ma cũng có thể hiện ra các tướng này thì làm sao phân biệt?
ĐÁP: Thật vậy, tà chánh thật khó phân biệt, không thể chấp cố định. Nếu khi hiện các tướng trạng, bậc thiện tri thức liền biết, cho nên việc này cần đối diện trực tiếp với sự việc mới quyết định, không thể dùng văn tự để trình bày. Cho nên khi hành giả bắt đầu sám hối, cần phải thân cận thiện tri thức, để nhận định tà hay chánh. Lại nữa, tướng (hiện tượng) nhìn thấy tức là bỗng nhiên thấy, chính đương sự phân biệt còn khó biết tà chánh, huống chi tìm cầu trong văn tự, nếu khởi tâm mong cầu được thấy, phần nhiều bị chấp vào ma sự.
HỎI: Như thế thì không nên gọi Quán tướng sám
hối?
ĐÁP: Nói quán tướng sám hối là chỉ khi dụng
tâm tu thiền định, khi công phu thành tựu thì các tướng xuất hiện, theo đó mà phán đoán, liền biết tội diệt hay chưa diệt. Chẳng phải nói trong lúc hành đạo, tâm còn trên sự tướng, sinh tâm chấp trước, nếu dụng tâm như thế nhất định rơi vào ma sự.
HỎI: Phương pháp quán tướng sám hối như thế nào?
ĐÁP: Phương pháp có trong các Kinh Phương Đẳng Đại Thừa, hành giả tự nghiên cứu nơi kinh điển, y theo văn tự mà thực hành.
b.1.c. Giải thích Quán vô sinh sám hối:
Như bài kệ Phổ Hiền Quán Kinh nói:
Tất cả biển nghiệp chướng, Đều do vọng tưởng sinh, Nếu người muốn sám hối,
Ngồi thẳng niệm thực tướng. Tội lỗi như sương móc,
Trí tuệ chiếu tiêu tan, Thế nên phải thành tâm, Sám hối tội sáu căn.
Hành giả hễ muốn thực hành Đại sám hối, cần phải khởi tâm đại bi, thương xót tất cả chúng sinh, hiểu rõ thấu triệt nguồn gốc của tội lỗi. Vì tất cả pháp xưa nay vốn rỗng lặng, phước báo còn không có huống gì là tội báo sao? Chỉ do chúng sinh không khéo tư duy, vọng chấp là có sinh có diệt v.v… do đó khởi tam độc: vô minh, tham ái, sân giận, tạo vô lượng vô biên tội lỗi trầm trọng, cũng là do một niệm chưa liễu ngộ chân tâm mà phát sinh.
Nếu muốn trừ diệt, chỉ cần xoay lại quán chiếu, tâm vô minh này từ đâu sinh khởi? Nếu từ quá khứ thì quá khứ đã diệt, các pháp đã diệt thì không chỗ có, pháp đã không chỗ có, chẳng thể gọi là tâm. Nếu tâm là vị lai, vị lai thì chưa đến, pháp chưa đến tức là chẳng có, pháp đã chẳng có thì cũng không có tâm này. Nếu hiện tại sinh khởi, ngay hiện tại từng sát-na sinh diệt không dừng trụ, trong tướng không dừng trụ, tâm cũng chẳng thể được.
Lại nữa, nếu nói tâm là hiện tại, hiện tại là ở trong hay ở ngoài, ở chặng giữa hay ở hai bên? Nếu nói tâm ở trong thân thể, thì chẳng đợi duyên tạo bên ngoài, bên trong tự có sẵn. Nếu nói ở ngoài thân thì đối với ta có quan hệ gì. Sắc trần bên ngoài thì vô tri vô giác, chẳng lẽ có tâm sao? Trong ngoài đã không có lẽ nào ở giữa, nếu không có ở giữa, thì tâm không có chỗ dừng trụ. Hành giả quán chiếu như thế, không thấy hình tướng của tâm, không chỗ tâm dừng trụ. Phải biết tâm này vốn là không tịch (rỗng rang, vắng lặng). Đã không thấy tâm, chẳng thấy không có tâm. Tâm quán chiếu còn không có huống là có cảnh giới quán chiếu sao? Đã không có năng quán, sở quán, vọng tưởng điên đảo tự đoạn diệt. Điên đảo đoạn diệt rồi, thì chẳng có vô minh và tham ái sân hận. Tam độc này không có thì tội từ đâu phát sinh?
Lại nữa, muôn pháp đều do tâm sinh. Tâm tính còn không có, huống là muôn pháp? Nếu không có muôn pháp thì cái gì là nghiệp tội? Nếu tội không thể được tức là chẳng có tội. Nếu quán chiếu tội vốn chẳng sinh, có thể phá tất cả nghiệp tội vì nguồn gốc các tội không có tự tính, mà thường thanh tịnh. Nên ngài Duy Ma Cật bảo ngài Ưu Ba Ly rằng: “Hai vị tỳ-kheo này vốn tự không tội, ông chớ kết thêm tội cho họ, ông nên trực tiếp trừ diệt tội, chớ làm nhiễu loạn tâm họ”.
Lại như trong Kinh Phổ Hiền Quán ghi: “Quán tâm vốn không tâm thì pháp không chỗ trụ, tâm ta vốn tự không thì tội phước cũng không có chủ, cho nên tất cả các pháp cũng đều như thế. Nếu tác pháp sám hối như thế, gọi là Đại sám hối, là Trang nghiêm sám hối, là Sám hối phá hoại tâm thức, là Sám hối vô tội tướng. Người hành pháp sám hối này, tâm như dòng nước chảy, trong mỗi mỗi niệm đều thấy Bồ-tát Phổ Hiền và mười phương chư Phật”. Nên biết quán pháp vô sinh gọi là Đại sám hối, trong pháp sám hối này rất tôn quý, rất huyền diệu. Nên trong các kinh điển Đại thừa giải thích pháp sám hối, đều lấy pháp quán này làm chủ. Nếu bỏ pháp sám hối này thì không thể gọi là pháp sám hối của Đại thừa.
HỎI: Tu quán pháp sám hối vô sinh, làm sao biết được tướng của tội đã diệt?
ĐÁP: Dùng tâm quán chiếu như pháp sám ở trước, đối trong mỗi niệm các nghiệp tội, niệm niệm tự diệt. Nếu người muốn biết những tội lỗi chướng ngại sự tu hành đã chuyển hay chưa, cần nỗ lực tinh chuyên không dừng, các tướng tự nhiên xuất hiện, quán sát các tướng này sẽ biết rõ. Như trong pháp quán tướng nói ở trước, là có mộng tốt điềm lành xuất hiện và thiền định hiện tiền, trí tuệ khai phát v.v... sẽ ứng hiện đầy đủ trong đó.
Lại nữa, nếu hành giả quán tâm cùng lý tương ưng, tức là tướng tội đã diệt, không nhọc công tìm cầu chỗ khác. Nên trong Kinh Phổ Hiền Quán có ghi: “Khiến tuệ không và tâm này tương ưng, sẽ biết ở trong mỗi niệm, có thể diệt trừ các trọng tội sinh tử trăm vạn ức a-tăng-kỳ kiếp”. Theo kinh điển trên chứng minh, nếu chứng được trí tuệ vô sinh nhẫn, thì biết rõ nguồn gốc cứu cánh của nghiệp tội. Do giới luật thanh tịnh có thể tu thiền định.
b.2. Giải thích Diệt tội thứ lớp
Phương pháp sám hối có sự sai khác, thì pháp diệt tội cũng lại bất đồng. Vì sao? Tội có ba phẩm:
- Tội vi vô tác
- Thể tính
- Vô minh và Phiền não
Tội có nghĩa là phá hủy. Hiện tại thì phá hủy hao tổn công đức trí tuệ người tu hành, đời vị lai phải chịu quả báo trong ba đường ác, vì nó có thể phá dứt sắc thân và tâm trí hành giả, nên gọi là Tội.
- Tác pháp sám hối: Có công năng phá trừ tội “Vi vô tác” chướng đạo.
- Quán tướng sám hối: Có công năng phá trừ “Thể tính” nghiệp ác của tội.
Trong Ma Ha Diễn Luận có ghi: “Nếu Tỳ-kheo phạm giới sát sinh, tuy tu pháp sám hối, đắc giới thanh tịnh, tội chướng đạo đã diệt, mà quả báo sát sinh không mất”. Đây khả dĩ chứng minh pháp sám hối trước, đồng thời cũng giải thích công dụng quán tướng sám hối rất to lớn, có khả năng phá trừ thể tính của tội.
- Quán vô sinh sám hối tội diệt: Có công năng phá trừ vô minh, tập khí phiền não và nguyên nhân của tội. Đây là phương pháp cứu cánh, trừ diệt tận nguồn gốc của tội.
b.3. Giải thích Khôi phục và không khôi phục giới
HỎI: Sau khi tu pháp sám hối được thanh tịnh, giới luật có được khôi phục không?
ĐÁP: Kiến giải mỗi người bất đồng. Có người nói không khôi phục, như cái áo bị rách liền vá lại, tuy không còn rách thủng, nhưng vẫn chẳng bằng khi còn nguyên lành. Có người nói được khôi phục, như chiếc áo dơ bẩn, sau khi giặt tẩy sạch vẫn mới đẹp như trước. Có người nói có thể khôi phục, có thể không khôi phục. Như trong Luật Ngũ Phần có nói rõ, phạm hai thiên đầu tiên, không thể khôi phục, còn phạm ba thiên sau thì có thể khôi phục được.
Kinh Sơ Giáo có nói: “Tác yết-ma sám hối, bốn tội trọng đều khôi phục được”. Nay những lời nói trên không nhất định, cần lấy ba pháp sám hối trước, chia làm ba ý nghĩa để suy xét.
- Nghĩa khôi phục được.
- Nghĩa vượt hơn trước.
- Nghĩa tăng vượt hơn trước.
Nay cần mượn thí dụ để hiển bày ba ý nghĩa trên:
- Tác pháp sám hối: Sau khi làm pháp sám hối có người khôi phục được, có người thì không. Ví như người bị cảm lạnh, sau khi uống thuốc gừng, bệnh tuy lành nhưng sức khỏe có khi khôi phục như cũ hoặc yếu hơn trước.
- Quán tướng sám hối: Không những tội được trừ diệt mà có thể khai phát thiền định. Đây là nghĩa vượt hơn trước. Vì sao? Do trước kia chưa có công phu thiền định. Ví như người bị bệnh cảm lạnh mà uống thạch tán v.v... không những chỉ lành bệnh mà còn khỏe mạnh tráng kiện hơn trước.
- Quán vô sinh sám hối: Không những tội được diệt mà còn khai phát các thiền định, thậm chí thành tựu đạo quả. Đây là nghĩa tăng vượt hơn trước. Như bệnh nhân uống thuốc tiên, chẳng những bệnh được lành mà còn có phép thần tiên, biến hóa tự tại. Nhân đây mà suy thì đâu cố định một loại vậy.
HỎI: Người đắc giới thì như thế, còn người không đắc giới thì sao?
ĐÁP: Người không đắc giới, phải đi thọ giới lại, hoặc có người do sám hối mà phát giới, Kinh Phổ Hiền Quán ghi: “Như trường hợp Bồ-tát giới. Chúng sinh do nhiều đời về trước, hoặc gặp thiện tri thức, phát Bồ-đề tâm, thọ giới Bồ-tát, nhưng vì bị luân hồi trong sinh tử điên đảo tạo nghiệp tội, do quên mất nên vi phạm cấm giới. Đời nay lại được quy y Tam bảo, nhờ tu tập lại còn sám hối, giới luật thanh tịnh, dùng giới bổn này cũng có thể khai phát thiền định. Tuy không thọ giới nhưng vốn đã có sẵn giới của Bồ-tát”.
Lại nữa, như trong Luận Ma Ha Diễn ghi: “Thi-la đời Tần dịch là Hảo thiện, tức là thích thực hành điều thiện. Tự mình không phóng dật, gọi là Thi-la. Hoặc thọ giới hành thiện, hoặc không thọ giới hành thiện, đều gọi là Thi-la”.
Nếu người không thọ giới hành thiện gọi là Thi-la, đã có Thi-la chẳng lẽ không được khai phát thiền định tam-muội sao?
HỎI: Nếu như thế, đâu cần thọ giới?
ĐÁP: Không nên nói như thế, vì thọ giới có hai nghĩa: Trợ đạo và duy trì Phật pháp, do đó đâu thể không thọ giới sao?
HỎI: Phần trước nói người mới học tọa thiền cần phải sám hối, hay không nhất định như vậy?
ĐÁP: Đương nhiên không nhất định, như Kinh Diệu Thắng Định ghi: “Chỉ cần chân chánh dụng tâm tọa thiền, đó là sám hối tốt nhất”. Nếu trong lúc tọa thiền, có những khó khăn chướng ngại không dụng tâm được thì cần phải tu pháp sám hối. II- Y THỰC ĐẦY ĐỦ
1. Pháp y phục
Có ba thứ:
1/ Như các bậc Đại sĩ học đạo ở núi tuyết, chỉ giữ một y là đủ, vì không du hành đến chốn nhân gian, sức kham nhẫn sự đói lạnh đã thành tựu, đây là bậc thượng nhân.
2/ Như ngài Ca Diếp v.v... thường hành hạnh Đầu đà, chỉ giữ ba y phấn tảo, không chứa dư thừa, đây là pháp y của bậc trung.
3/ Nếu ở xứ có khí hậu lạnh nhiều, người bậc hạ không kham nỗi, Như Lai khai mở, ngoài ba y còn được sắm thêm 101 vật cần dùng, nhưng cần phải làm pháp thuyết tịnh, biết lượng vừa đủ, nếu quá tham cầu thì ngăn chướng tâm đạo.
2. Ăn uống vừa đủ
Có bốn thứ:
1/ Như bậc Thượng nhân Đại sĩ ở nơi thâm sơn, xa hẳn người đời, chỉ tùy thời dùng rau quả nuôi thân.
2/ Như người thường hành hạnh Đầu-đà, theo pháp khất thực, phá trừ bốn thứ tà mạng, sống theo chánh mạng, vì hay sinh thánh đạo, nên gọi là Thánh Chủng. Bốn thứ tà mạng tự kiếm sống là: Hạ khẩu thực, Ngưỡng khẩu thực, Duy khẩu thực, Phương khẩu thực. Bốn tướng tà mạng này, như ngài Xá Lợi Phất vì Thanh mộc nữ mà nói.
3/ Ở chỗ vắng vẻ, nhờ đàn việt đưa thức ăn đến.
4/ Ở trong Tăng, thọ thực theo chúng Tăng đúng pháp.
Có những pháp ăn mặc như trên gọi là duyên đầy đủ, gọi là Y thực đầy đủ. Nếu không có những nhân duyên này để nuôi dưỡng thân, thì tâm chẳng an ổn, đối với đạo có sự trở ngại. III- Ở CHỖ NHÀN TỊNH
Không làm các việc gọi là “Nhàn”. Không ồn náo gọi là “Tịnh”. Có ba nơi có thể tu thiền định:
a) Ở thâm sơn, tuyệt dứt bóng người qua lại. b) Chỗ lan-nhã hành hạnh đầu-đà. “lan-nhã” là nơi vắng vẻ, xa hẳn xóm làng, ít nhất cũng ba, bốn dặm, trẻ chăn trâu, bò không đến đó, vắng bặt chẳng còn các tiếng ồn náo.
c) Chỗ Già-lam (chùa, đạo tràng) thanh tịnh, xa nơi ở của người thế tục, ở những nơi này đều gọi là “nhàn tịnh” vắng vẻ. IV- DỨT CÁC DUYÊN VỤ
Duyên vụ (công việc) có nhiều loại, tóm lược có bốn thứ:
- Dứt các việc mưu sinh: là không làm các sự nghiệp (hữu vi) thế gian.
- Dứt các việc giao tiếp với người đời: là không kết bạn bè, thân thích, dứt tuyệt sự qua lại.
- Dứt các kỹ thuật khéo léo thế gian: là không làm các nghề thuốc, chú thuật, thầy bói, thầy tướng số v.v... các việc ở thế gian.
- Dứt các sự học vấn: là những việc đọc sách, luận nghị, học hỏi v.v... thảy đều buông bỏ.
Vì sao phải dứt hết duyên vụ? Vì nếu còn nhiều công việc ràng buộc thì bỏ phế việc tu thiền định, khó nhiếp phục tâm loạn động, thiền định chẳng hiện tiền. V- THÂN CẬN THIỆN TRI THỨC
Có ba thứ:
- Ngoại hộ thiện tri thức: người kinh doanh, cúng dường ủng hộ người tu hành, mà không não loạn nhau.
- Đồng hạnh thiện tri thức: người cùng tu hành nhắc nhở lẫn nhau, không nhiễu loạn nhau.
- Giáo thọ thiện tri thức: bậc thầy chỉ dạy những pháp môn phương tiện, điều phục trong và ngoài, để người học được pháp hỷ lợi ích và an lạc.
Trên đây đã lược nói xong đầy đủ 5 duyên. B. TRÁCH NĂM DỤC
Trong kinh nói: “Dục và pháp ác gồm có Giác và Quán”. Ly dục là tránh xa năm thứ dục, pháp ác là xả bỏ năm thứ ngăn che.
Năm thứ dục: Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, ở thế gian, những thứ này thường mê hoặc phàm phu, phá hoại việc lành, nếu không biết rõ tội lỗi của nó để tránh xa, thì các thiền tam-muội không thể chứng được. I- TRÁCH SẮC DỤC
Những hình dáng kiều diễm đoan nghiêm của nam nữ, như mắt trong, mày đẹp, môi hồng, răng trắng và các vật quý báu của thế gian, những màu sắc vi diệu như: xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía, xanh nhạt, xanh đậm v.v... thường làm cho người ngu khi thấy liền sinh tâm tham muốn, tạo các ác nghiệp. Như vua Tần-bà-sa-la do ham sắc dục, đem thân vào nước giặc, ở trong phòng của dâm nữ A-phạm-ba-la. Như vua Ưu-trấn vì nhiễm sắc dục mà chặt đứt tay chân của 500 vị tiên. Những nguyên nhân như thế, nên biết sắc dục gây ra bao nhiêu tội lỗi. Như trong Luận Ma Ha Diễn có nói rất tường tận. II- TRÁCH THANH DỤC
Tức là những âm thanh như: đàn cầm, sáo, tiêu, tiếng trúc, đàn đá tấu thành âm nhạc v.v… và những giọng ca, tiếng hát, thơ, tán, tụng của nam và nữ, có thể khiến kẻ phàm phu vừa nghe thì say mê, khởi tạo bao ác nghiệp. Như 500 vị tiên nhân ở núi tuyết nghe tiếng ca của nàng Chân-đà-la liền mất thiền định, tâm mê say cuồng loạn. Do những nhân duyên đó, nên biết “Âm thanh gây ra tội lỗi”. III- TRÁCH HƯƠNG DỤC
Mùi hương trên thân thể của nam nữ, các thức ăn uống và những thứ hương xông ướp ở thế gian, kẻ ngu không biết quán xét tướng trạng của nó, vừa ngửi liền sinh tâm mê đắm, mở cửa phiền não kiết sử. Như vị Tỳ-kheo ở bên hồ sen, ngửi mùi hương của hoa sen, sinh tâm ưa thích, bị vị thần giữ hồ sen quở trách “Vì sao trộm mùi hương của ta”. Vì thích mùi hương, khiến các phiền não trỗi dậy. Do những nguyên nhân đó, nên biết say đắm mùi hương gây tai hại tội lỗi như thế, ở trong Luận Ma Ha Diễn có nói rất rộng. IV- TRÁCH VỊ DỤC
Là những mùi vị: đắng, cay, chua, ngọt, mặn, lạt, những thứ cao lương mỹ vị ấy, hay làm cho tâm kẻ phàm phu sinh tâm đắm nhiễm, tạo các nghiệp ác. Như ông Sa-di vì ưa thích vị tô-lạc nên sau khi chết sinh làm con giòi ở trong tô-lạc. Nên biết mê đắm vị dục gây tai hại tội lỗi như thế, trong Luận Ma Ha Diễn có nói rất rộng. V- TRÁCH XÚC DỤC
Da thịt mềm mại, mịn màng của nam nữ, khi lạnh chạm ấm, khi nóng chạm thấy mát, những cảm xúc ưa thích. Kẻ ngu không trí tuệ vì đó mà chìm đắm, khiến chướng ngăn đạo nghiệp. Như vị tiên một sừng vì xúc dục mà mất thần thông, bị dâm nữ cỡi cổ. Xúc dục có lắm việc tai hại như thế, ở trong Luận Ma Ha Diễn có nói rất rộng.
HỎI: Vì sao phải trách ngũ dục?
ĐÁP: Phương pháp trách ngũ dục, trong Luận Ma Ha Diễn ghi: “Than ôi! Chúng sinh bị ngũ dục não loạn, mà mãi tìm cầu không thôi. Ngũ dục này, nếu cầu được càng hăng, như lửa thêm củi, ngọn lửa càng mạnh. Ngũ dục không vui, như chó gặm xương khô. Ngũ dục gây tranh đấu, như bầy quạ giành thịt thúi. Ngũ dục thiêu người, như cầm đuốc đưa ngược gió. Ngũ dục hại người như đạp nhằm rắn độc. Ngũ dục không thật, như mộng gặp của báu. Ngũ dục tạm bợ, không lâu bền như chọi đá nháng lửa. Người đời ngu mê, tham đắm ngũ dục đến chết không bỏ, đời sau phải chịu vô lượng khổ não”. Tất cả chúng sinh đồng có ngũ dục này, thường bị ngũ dục sai sử, khác nào làm đầy tớ cho ngũ dục. Do quá tham đắm ngũ dục, nên chìm đắm trong ba đường ác. Ta nay tu thiền định, lại bị chúng ngăn che, chúng là bọn giặc hung dữ, phải chóng xa lìa.
Như bài kệ trong Thiền Kinh(7) ghi:
Sinh tử không dứt đoạn, Vì ưa dục thích vị,
Nuôi kẻ thù trong nhà, Luống chịu các đắng cay. Thân thúi như xác chết, Chín lỗ chảy bất tịnh, Như trùng phân ưa phân,
Kẻ đắm thân không khác. Người trí nên quán thân, Không tham nhiễm thế gian.
Không dính, không tham muốn, Ấy gọi chân Niết-bàn.
Như chư Phật đã nói, Nhất tâm nhất ý hành, Sổ tức tu thiền định,
Ấy gọi hành Đầu-đà. C. XẢ NGŨ CÁI
Tức là xả bỏ năm thứ ngăn che: Tham muốn, giận hờn, mê ngủ, dao động, hối hận và nghi ngờ. I- XẢ THAM DỤC
Trước đã nói, đối năm trần bên ngoài sinh tâm tham muốn, nay nói chính trong ý căn sinh tâm tham muốn. Nghĩa là khi hành giả ngồi ngay thẳng tu thiền định, tâm khởi tham muốn, niệm niệm tiếp nối, che đậy thiện tâm không được tăng trưởng, sau khi biết rồi liền bỏ. Vì cớ sao? Như nàng Thuật-bà-già trong tâm khởi tham dục, còn bị đốt cả thân thể thay, huống chi tâm sinh lửa tham dục mà chẳng thiêu các pháp lành sao?
Người tham dục cách đạo rất xa, vì tham dục là nguồn gốc của các phiền não, loạn tâm, nếu tâm ôm ấp tham dục, thì khó được gần đạo. Như bài kệ Trừ Cái nói rằng:
Người hổ thẹn vào đạo, Ôm bát phước chúng sinh, Tại sao theo trần tục,
Đắm chìm trong ngũ tình. Đã xả bỏ ngũ dục,
Bỏ nó không luyến tiếc, Vì sao lại muốn được, Như người ăn đồ mửa.
Cầu các dục thì khổ, Khi được nhiều lo sợ, Khi mất lại lo rầu,
Tất cả thời không vui. Họa các dục như thế, Do đâu xả được nó?
Được vui sâu thiền định, Liền không bị nó lừa. II- XẢ GIẬN HỜN
Sân giận là cội gốc sinh các pháp bất thiện, là nguyên nhân đọa vào ba đường ác, là oan gia của pháp an lạc, là bọn giặc dữ của tâm thiện, là kho chứa bao nhiêu ngôn ngữ thô ác. Thế nên hành giả khi tọa thiền khởi nghĩ: “Người này phá hại ta, và người thân ta, khen ngợi người thù của ta”. Suy nghĩ quá khứ, vị lai cũng như thế. Đó là chín thứ phiền não, do sân hận nên sinh oán thù, do tâm oán thù nên khởi tâm sát hại kẻ khác, cho nên những phiền não, sân hận, oán thù che đậy tâm nên gọi là Cái. Phải gấp bỏ nó không cho tăng trưởng.
Như ngài Thích-đề-bà-na, dùng bài kệ hỏi Phật:
Vật gì giết an lạc? Vật gì giết vô ưu?
Vật gì gốc của độc? Nuốt mất tất cả thiện?
Phật đáp:
Giết sân thì an lạc, Giết sân thì vô ưu, Sân là gốc của độc, Sân diệt tất cả thiện.
Đã biết sân nguy hiểm như thế, nên phải tu từ bi nhẫn nhục để trừ diệt nó, cho tâm được thanh tịnh. III- XẢ THÙY MIÊN (mê ngủ)
Nội tâm hôn ám gọi là thùy, phóng túng buông thả tứ chi, nằm lăn ra ngủ vùi gọi là miên. Ý thức mê mờ gọi là thùy, năm tình (ngũ căn) che tối mê man gọi là miên. Do nhân duyên đó gọi là thùy miên cái.
Trong Luận A Tỳ Đàm nói mê ngủ là tăng tâm số pháp (51 tâm sở), hay phá hoại cái vui chân thật nơi tâm của đời này và đời sau, cũng phá hoại phước báu sinh thiên ở đời vị lai. Nó là pháp ác, thật là bất thiện. Vì cớ sao? Vì những loại ngăn che tâm tính khác dễ phát hiện, nên có biện pháp đối trị được, còn khi mê ngủ như chết, không thể hiểu biết, vì không biết nên khó trừ.
Như có vị Bồ-tát quở các đệ tử mê ngủ: Ông dậy chớ ôm thây thúi nằm, Những thứ nhơ nhớp gọi là người, Như bệnh nặng tên cắm vào thân, Đầy dẫy đau đớn đâu yên ngủ. Như người bị trói sắp đem giết,
Tai hại kề bên đâu thể ngủ,
Giặc phiền não chưa diệt chưa trừ, Như cùng rắn độc chung nhà ở. Như xông vào trận giữa làn dao, Khi ấy làm sao yên ngủ được,
Ngủ là mê tối không thể thấy, Ngày ngày cướp mất trí tuệ ta.
Do ngủ che tâm không thấy được, Hại lớn như thế đâu yên ngủ.
Những việc quở trách mê ngủ như thế, nên lấy vô thường để cảnh giác, giảm bớt ngủ nghỉ, khiến không cho mê mờ tâm tính. Nếu tâm mê ngủ quá nặng, phải dùng thiền trượng để đuổi nó. IV- XẢ TRẠO HỐI
a) Trạo: Là trạo cử
Có ba thứ: Thân, khẩu, ý.
- Thân trạo cử: Thân ưa thích chạy rong, đùa giỡn lăng xăng, ít khi ngồi yên.
- Khẩu trạo cử: Miệng ưa ca hát, tranh cãi phải quấy, luận bàn những chuyện vô ích, nói các việc thế tục.
- Tâm trạo cử: Tâm tính phóng túng, ý nghĩ lăng xăng, suy nghĩ văn chương, kỹ nghệ thế gian, xét nghĩ những điều xấu ác v.v... gọi là tâm trạo cử. Tâm trạo cử hay phá hoại tâm người xuất gia. Người cố nhiếp tâm vẫn không được định, huống chi kẻ tâm tán loạn. Người tâm tán loạn như con voi say không móc sắt, con lạc đà không dây mũi, không thể kềm chế được.
Như có bài kệ:
Ông đã cạo tóc mặc áo nhuộm, Ôm bình bát vào xóm xin ăn, Vì sao lại ưa thích lăng xăng,
Buông lung tâm ý, mất lợi lành.
Đã mất pháp lợi trong Phật pháp, lại mất cả sự vui ở đời. Biết trạo cử là tai hại phải gấp bỏ nó. b) Hối: Nếu trạo cử mà không có hối hận thì chưa thành che đậy. Vì cớ sao? Vì khi trạo cử còn
ở bên ngoài, trong khi nhập định mới hối hận việc làm trước, khiến lo buồn che đậy tâm tính.
Hối hận có hai thứ: Không nên làm mà làm; Nên làm mà chẳng làm.
Do trạo cử rồi mới sinh hối hận. Như người gây tội nặng, thường ôm lòng lo sợ, mũi tên hối hận cắm sâu vào tim khó nhổ ra được. Có bài kệ:
Không nên làm mà làm, Nên làm mà chẳng làm, Lửa hối hận thiêu cháy, Đời sau đọa ác đạo.
Nếu phạm tội nên hối, Hối rồi chẳng còn lo, Như thế tâm an lạc, Không nên thường nhớ mãi. Đây có hai thứ hối,
Như nên làm không làm, Không nên làm lại làm,
Ấy là tướng kẻ ngu.
Do không tâm hối hận, Chẳng nên làm lại làm, Các việc ác đã làm,
Không thể bảo không làm.
Dùng những nhân duyên quở trách trạo hối che đậy như thế. Tâm thần thanh tịnh, không có ngăn che, thường ở nơi tâm thiện thì được an lạc, vắng lặng, do đó nội tâm hỷ lạc sung mãn. V- XẢ NGHI NGỜ
Do nghi ngờ che đậy tâm, đối trong chánh pháp chẳng có lòng tin. Vì lòng tin không có nên ở trong Phật Pháp chẳng lợi ích gì cả. Ví như người vào núi đầy của báu, vì không có tay nên chẳng thể lấy được gì. Trường hợp nghi có rất nhiều, không hẳn là chỉ riêng có chướng ngại thiền định mà thôi.
Nay nói về tâm nghi ngăn chướng thiền định. Gồm có ba thứ:
1. Nghi mình: Như có người nghĩ rằng: “Ta là kẻ ngu, tội chướng nặng nề, không như các bậc kia”. Tự khởi nghi như thế, thì thiền định không thể phát sinh. Hành giả muốn tu thiền định, chớ có khinh mình, vì căn lành đời trước đâu thể lường được.
2. Nghi thầy: Nghi thầy ấy tướng mạo và oai nghi như thế, chinh bản thân của thầy còn chưa có đạo đức thì làm sao dạy ta được. Khởi nghi mạn như thế, tức là chướng ngại thiền định. Phương pháp trị bệnh này như trong các Luận Ma Ha Diễn dạy: “Ví như trong đãy da thúi có đựng vàng, vì ham vàng ta không thể bỏ đãy da thúi này”. Người tu cũng vậy, vị thầy tuy chưa hoàn toàn thanh tịnh, cũng phải khởi tưởng như Phật.
3. Nghi pháp: Người đời phần nhiều hay chấp tâm mình suy nghĩ là đúng, nên sau khi thọ nhận pháp không thể tức thời tin tưởng, khởi tâm cung kính lãnh thọ thực hành. Nếu tâm do dự thì diệu pháp không thể lãnh hội. Vì cớ sao? Như bài kệ trách tâm nghi ngờ:
Như người trước ngã ba, Nghi ngờ không biết lối, Trong các pháp thật tướng, Nghi cũng lại như vậy.
Vì nghi không cần cầu, Thật tướng của các pháp, Thấy nghi từ si sinh,
Là ác trong các ác.
Trong pháp thiện bất thiện, Sinh tử và Niết-bàn,
Hẳn thật có pháp chân, Trong đó chớ sinh nghi. Ông nếu ôm lòng nghi, Chết bị chúa ngục trói, Như sư tử chụp nai,
Chẳng thể nào thoát khỏi. Ở đời tuy có nghi,
Phải tùy hỷ pháp lành, Ví như thấy ngã ba, Đường tốt, lợi nên đi.
Lòng tin hay vào được Phật pháp. Nếu người không tin, tuy ở trong Phật pháp mà hoàn toàn chẳng có lợi ích. Những việc như thế, đủ biết tâm nghi ngờ rất tai hại phải gấp bỏ nó.
HỎI: Những việc ác nhiều như bụi không thể tính hết, tại sao ở đây chỉ bảo bỏ năm điều mà thôi?
ĐÁP: Trong năm điều này gồm có cả tam độc và đẳng phần, bốn thứ này làm căn bản, nhiếp cả tám muôn bốn ngàn (84000) trần lao. Đó là:
- Tham muốn thuộc tham độc.
- Giận hờn thuộc sân độc.
- Mê ngủ và nghi thuộc si độc.
- Diêu động và hối hận thuộc đẳng phần. Chúng hiệp thành bốn phần phiền não. Trong mỗi phần có hai vạn một ngàn (21000), bốn phần hợp lại là tám muôn bốn ngàn (84000). Thế nên trừ Ngũ cái là trừ tất cả pháp ác. Người tu nên lấy những việc như thế trừ bỏ Ngũ cái. Ngũ cái bỏ rồi, ví như người mang vật nặng được gỡ bỏ, như bệnh được lành, như người nghèo đói được đến ở nước giàu có, như bị giặc bao vây được cứu thoát, yên ổn không lo sợ. Người tu cũng vậy, trừ được Ngũ cái rồi, nội tâm an ổn mát mẻ an vui, như mặt trời, mặt trăng bị năm thứ che tối: Khói, bụi, mây, sương mù, và bàn tay của thần A-tu-la che thì không thể chiếu sáng. Tâm của người bị năm việc ngăn che cũng như vậy. D. ĐIỀU HÒA NĂM VIỆC
I- Điều hòa ăn uống
II- Điều hòa ngủ nghỉ
III- Điều hòa thân
IV- Điều hòa hơi thở
V- Điều hòa tâm
Vì cớ sao? Nay mượn một thí dụ cụ thể, để so sánh pháp điều hòa này cho dễ hiểu. Như người thợ làm đồ gốm, muốn làm các món đồ, trước phải nhồi đất cho thật dẻo, khéo làm sao cho không cứng không nhão, rồi sau mới đưa lên khuôn mà nặn. Như muốn sử dụng cây đàn cầm, trước phải chỉnh dây đàn không căng, không dùn, sau mới khảy lên những bản nhạc âm thanh vi diệu. Hành giả tu tâm cũng như vậy, khéo điều hòa năm việc khiến được điều hòa thích nghi, thì chánh định dễ sinh. Nếu có một trong năm việc không được điều hòa, thì sinh nhiều chướng nạn, thiện căn khó phát sinh. I- ĐIỀU HÒA ĂN UỐNG
Sự ăn uống là chủ yếu nuôi thân để tiến tu đạo nghiệp. Nếu ăn quá no thì bao tử đầy, hơi thở gấp, trăm mạch không thông, tâm bị bế tắc, ngồi niệm chẳng yên. Nếu ăn uống quá ít thì thân gầy, bao tử lỏng lẻo, ý lao lự xao động, không vững. Hai việc này đều không được định. Nếu ăn những vật trược uế, khiến tâm thức phải hôn mê. Nếu ăn những vật không thích hợp, thì kích phát bệnh cũ, khiến Tứ đại chống nghịch nhau. Người mới tu tập thiền định phải dè dặt, tránh những điều này. Cho nên kinh chép:
Thân an thì đạo tăng, Ăn uống có tiết độ, Thường ưa chỗ vắng vẻ, Tâm lặng ưa tinh tấn, Là lời chư Phật dạy. II- ĐIỀU HÒA NGỦ NGHỈ
Ngủ là bị vô minh che đậy, không nên ngủ nhiều. Nếu người ngủ nhiều quá, không những bỏ bê việc tu hành, lại mất hết công phu, khiến tâm ám muội, căn lành tan mất. Phải giác ngộ lý vô thường, điều phục sự ngủ nghỉ để tinh thần trong sáng, tâm niệm sáng suốt thanh tịnh. Được thế mới có thể gá tâm nơi Thánh cảnh, chánh định hiện tiền. Cho nên trong kinh có ghi: “Đầu hôm và gần sáng chớ có bỏ phế, không do vì nhân duyên ngủ nghỉ, khiến cho một đời luống qua, không được gì cả. Phải nghĩ rằng ngọn lửa vô thường thiêu đốt cả thế gian, sớm cầu tự độ chớ nên ngủ nghỉ”. III- ĐIỀU HÒA THÂN
Hành giả muốn nhập Tam-muội, phải áp dụng phương pháp điều thân. Khi chưa nhập định, đi, đứng, nằm, ngồi và mọi hành động thảy đều nhẹ nhàng thư thả, nếu các hành động thô tháo, hơi thở thành thô, do hơi thở thô thì tâm tán loạn khó kềm chế, đến khi ngồi tâm bứt rứt, không thư thái. Do đó, tuy chưa nhập định, hành giả vẫn phải dụng ý, sớm tìm phương tiện hạn chế nó dần. Lúc nhập định phải khéo an thân cho được ổn định. Khi đến chỗ ngồi thiền, trước phải ngồi yên, mỗi bộ phận đều thấy an ổn, lâu sau không thấy có gì trở ngại, mới bắt đầu sửa soạn chân.
Nếu ngồi bán già(8) thì lấy chân trái để lên đùi mặt, kéo sát vào thân, để bàn chân trái bằng với đùi mặt, bàn chân mặt bằng với đùi trái.
Nếu ngồi kiết già(9) thì kéo bàn chân trái lên đùi chân phải. Nới rộng dây lưng, cổ áo, sửa cho ngay thẳng, chớ để khi ngồi rời tuột. Lấy bàn tay trái để lên lòng bàn tay mặt và các ngón tay lật ngửa, chồng lên nhau, hai ngón cái đối nhau, rồi đặt lên bàn chân, kéo sát vào thân, đặt nằm ngay chính giữa.
Kế tiếp là chỉnh thân ngay thẳng, chuyển động thân và các chi tiết bảy lần, giống như phương pháp xoa bóp, không cho tay xê dịch. Như thế rồi giữ xương không cho cong vẹo. Kế nữa là sửa cổ cho ngay, đầu hơi cúi, giữ chóp mũi ngay, thẳng với rún, chẳng nghiêng chẳng vẹo, không ngước không cúi, nét mặt bình thản, thân ngồi yên bất động.
Kế tiếp là dùng miệng thở hơi ô trọc ra, khi thở há miệng cho hơi ra, đừng mạnh cũng đừng gấp, phải đều đều nhè nhẹ. Khi hít vô tưởng không khí trong sạch khắp trong thân thể, những chỗ không thông đều theo hơi thở mà được lưu thông, rồi há miệng thở hơi ra sạch hết. Thở như thế đến ba lần, nếu khi thân và hơi thở đã điều hòa, thì thở một lần cũng được. Thở xong ngậm miệng lại, môi và răng vừa khít nhau, lưỡi để trên vòm họng. Từ từ nhắm mắt, vừa khuất ánh sáng bên ngoài là được.
Thân ngồi ngay thẳng như vách đá, thân và chân tay không được cử động. Đây là phương pháp điều thân khi mới bắt đầu nhập định. Nói tóm lại, không hoãn cũng chẳng gấp, là tướng thân được điều hòa. IV- ĐIỀU HÒA HƠI THỞ
Phương pháp điều hòa hơi thở khi bắt đầu nhập định, gồm có bốn tướng:
- Tướng phong
- Tướng suyễn
- Tướng khí
- Tướng tức
Ba tướng trước là không điều hòa, tướng sau cùng là điều hòa.
- Thế nào là tướng Phong? Khi ngồi thiền, hơi thở ra vào trong mũi nghe có tiếng, ấy là tướng Phong.
- Thế nào là tướng Suyễn? Khi ngồi hơi thở ra vào tuy không có tiếng, nhưng ngăn trệ không thông, ấy là tướng Suyễn.
- Thế nào là tướng Khí? Khi ngồi mà hơi thở ra vào tuy không có tiếng, không bị ngăn trệ, nhưng chẳng nhẹ nhàng, là tướng Khí.
- Thế nào là tướng Tức? Khi ngồi thiền mà hơi thở không có tiếng không bị ngăn và không thô, ra vào nhè nhẹ như còn như mất, tinh thần an ổn, thư thái, ấy là tướng Tức.
Nếu hơi thở Phong thì tán loạn, dùng hơi thở Suyễn thì ngăn trệ, hơi thở Khí thì nhọc nhằn, chỉ dùng tướng Tức sẽ được an định.
Lại nữa, khi ngồi mà có ba tướng: phong, suyễn và khí, gọi là chẳng điều hòa, nếu dụng tâm thì dễ sinh bệnh, nội tâm cũng khó an định.
Nếu muốn điều hòa phải y theo ba pháp:
1/ Chuyên tưởng an tâm tại dưới rún (huyệt đan điền).
2/ Buông thả thân thể.
3/ Tưởng khắp lỗ chân lông hơi thở ra vào thông suốt không ngăn ngại.
Nếu tâm được vi tế thì hơi thở nhẹ nhàng. Hơi thở điều hòa thì các bệnh không sinh, tâm dễ được định. Đây là phương pháp điều Tức khi mới bắt đầu nhập định. Nói tóm lại, hơi thở nhẹ và dài là tướng điều hòa. V- ĐIỀU HÒA TÂM
Điều tâm có ba cách: Nhập, Trụ, Xuất.
a) Nhập: Có hai nghĩa:
1/ Điều phục loạn tưởng không cho buông lung.
2/ Phải điều hòa được các tướng: Trầm, Phù, Khoan, Cấp.
Thế nào là tướng Trầm?
Nếu khi ngồi mà tâm mờ mịt, không ghi nhớ, đầu ưa gục xuống, là tướng Trầm. Khi ấy phải chú tâm nơi chóp mũi, khiến tâm duyên nơi một cảnh, không cho ý phân tán. Đây là pháp trị bệnh Trầm.
Thế nào là tướng Phù?
Nếu khi ngồi, tâm ưa phóng túng loạn động, thân cũng không yên, nhớ những việc đâu đâu, là tướng Phù. Khi ấy nên tưởng tâm tại rún, ngăn các loạn niệm, tâm liền dừng trụ, dễ được an định. Tóm lại không Trầm, không Phù là tướng điều hòa.
HỎI: Tâm định ấy có tướng Khoan, Cấp không?
ĐÁP: Cũng có việc này:
- Tướng Cấp là do trong khi ngồi dùng niệm nhiếp tâm mà được vào định, thế nên hơi xông lên trên ngực, đau nhói, phải buông xả tâm đó, quán tưởng đưa hơi thở xuống, bệnh liền được lành.
- Nếu tâm mắc bệnh Khoan thì tâm trí bị tản mát, thân ưa xiêu vẹo, hoặc trong miệng chảy nước miếng, hoặc khi ấy tâm mờ mịt. Bấy giờ phải thúc liễm thân và tâm chuyên niệm, khiến tâm trụ trong một chỗ, thân thể kềm giữ nhau, lấy đó mà trị bệnh. Tâm có tướng thô phù hay hôn trầm, cứ xét nơi đó có thể biết. Đây là phương pháp điều tâm khi mới vào định.
Khi mới nhập định, phải bắt đầu từ thô vào tế. Thân là thô, Hơi thở là trung bình, Tâm là vi tế, nên điều hòa từ thô đến tế khiến tâm được an tịnh. Đây là phương tiện đầu tiên trước khi nhập định.
b) Trụ: Trong khi ngồi điều hòa có ba việc: Hành giả trong thời gian một lần ngồi, tùy thời gian dài hay ngắn, dụng tâm nhiếp niệm. Trong ấy phải khéo biết thân, hơi thở và tâm đã được điều hòa hay không điều hòa. Nếu khi ngồi, tuy điều thân xong, nhưng thân buông thả, hoặc kềm thúc, hoặc nghiêng, cong, cúi, ngước, không ngay thẳng, biết rồi liền sửa cho thẳng khiến được an ổn. Không khoan, không cấp, thân thể ngay thẳng bình thường, trụ ở mức trung bình.
Lại nữa, trong khi ngồi, thân tuy điều hòa, mà hơi thở lại không điều hòa. Tướng hơi thở không điều hòa như trước đã nói, hoặc Phong, hoặc Suyễn, hoặc Khí, hoặc trong thân đầy hơi. Phải dùng những phương pháp ở trước, tùy bệnh mà trị, khiến hơi thở êm nhẹ và dài, như có, như không.
Kế đến, trong thời gian ngồi thiền, thân và hơi thở tuy điều hòa mà tâm bị Phù động, hoặc Trầm, hoặc Khoan, hoặc Cấp không an định, bấy giờ nên dùng phương pháp đã nói ở trước mà điều hòa khiến được vừa chừng.
Ba việc này không nhất định trước sau, chỉ tùy cái nào không điều hòa thì chỉnh sửa cho được điều hòa, khiến thời gian ngồi, thân, tâm, hơi thở được điều hòa thích ứng, không để trái nhau, dung hòa không hai. Pháp này có thể trừ được các bệnh trước, nếu những chướng ngại không sinh, pháp thiền định chắc chắn thành tựu.
c) Xuất: Khi hành giả tọa thiền sắp xong, muốn xuất định, trước phải phóng tâm duyên vào cảnh khác, tụng bài hồi hướng, từ từ mở miệng cho hơi thở ra, đồng thời tưởng trăm mạch máu trong thân theo ý và hơi thở lưu chuyển ra ngoài, tưởng tất cả phiền não bệnh hoạn đều đẩy ra ngoài hết.
Sau đó là động thân, động vai, bắp tay và lần lượt đến tay, đầu, cổ, kế tiếp động hai chân, tất cả cử chỉ đều phải nhẹ nhàng. Sau đó là dùng tay xoa khắp lỗ chân lông, chà xát hai bàn tay cho ấm, áp nhẹ lên hai mắt, rồi mới mở mắt, đợi hơi nóng trong người tan hết mới tùy ý ra đi.
Nếu không đúng như vậy, khi ngồi được trụ tâm, khi xuất, buông xả mau quá, thì phần vi tế
chưa tan, trụ lại trong thân khiến người nhức đầu, trăm lóng xương cứng đờ như chứng phong lao, sau này khi tọa thiền bứt rứt không an. Thế nên khi mới xuất định, mỗi việc đều phải lưu ý. Đây là phương pháp điều thân, hơi thở và tâm, từ tế đến thô, gọi là khéo Nhập, Trụ, Xuất, như bài kệ nói:
Tiến dừng có thứ tự, Thô tế chẳng trái nhau, Ví như khéo tập ngựa, Tùy ý muốn dừng đi. E. HÀNH NĂM PHÁP
I- Dục
II- Tinh tấn
III- Niệm
IV- Xảo tuệ
V- Nhất tâm I- DỤC
Hành giả mới tu thiền, từ trong Định dục giới phát ra, mong muốn chứng được Sơ thiền, nên cũng gọi là Chí, gọi là Nguyện, là Ưa, là Thích. Vì nội tâm người này có chí nguyện ưa thích các thiền định.
HỎI: Tâm hy vọng sinh khởi, đối trong thiền định có chướng ngại, vì sao lấy làm phương tiện?
ĐÁP: Dục là chỉ cho tâm nguyện ưa thích muốn thành tựu chí lớn, nên gọi là Dục, chẳng phải trong lúc dụng tâm lại khởi niệm ý tưởng mong cầu. Nếu khởi mong muốn thì tâm không được lóng lặng, nếu tâm không lóng lặng, thì chánh định không thể khai phát được. II- TINH TẤN
Có hai thứ: Thân tinh tấn và tâm tinh tấn. Nếu hành giả có thể tu 12 hạnh đầu-đà, tức là thân và tâm đã đầy đủ tinh tấn. Như Phật dạy ngài Ca Diếp: “Ở nơi a-lan-nhã, Tỳ-kheo xa lìa hai thứ đắm chấp thân và tâm, thanh tịnh thực hành hạnh đầu đà”. Hạnh đầu đà gồm có 12 việc:
1/ Ở nơi a-lan-nhã, xa lìa xóm làng đông đúc.
2/ Thường thực hành hạnh khất thực.
3/ Thứ tự khất thực, (không lựa chọn giàu nghèo).
4/ Thọ nhất thực pháp (ngày chỉ ăn một bữa).
5/ Tiết lượng thực (tiết chế lượng thức ăn).
6/ Sau giờ ngọ không uống nước trái cây.
7/ Mặc y cũ rách.
8/ Chỉ giữ được ba y.
9/ Ở gò mã nghĩa địa.
10/ Ở gốc cây.
11/ Ở nơi đất trống.
12/ Chỉ ngồi không nằm.
Mười hai hạnh đầu-đà này, trong Kinh Đầu Đà có nói rất rộng.
“Đầu-đà” còn gọi là Đẩu-tẩu, tức là tu tập khổ hạnh, thân tâm dứt bỏ các pháp bất thiện. Nếu khi tu thiền, thực hành các pháp này, ấy gọi là hạnh không phóng dật, thân tâm tinh tấn đầy đủ. Nên biết người này có thể chứng Thánh quả tam thừa, huống gì các thiền định của thế gian. Lại nữa, hành giả kiên trì giữ giới luật, xả bỏ Ngũ cái, đầu hôm và khuya, tinh chuyên không bê trễ, như người kéo lửa, nếu lửa chưa phát trọn không dừng nghỉ, ấy gọi là pháp Tinh tấn.
Như Phật dạy ngài A Nan: “Chư Phật chuyên nhất tâm tinh tấn, nên chứng được Bồ-đề, huống gì các pháp thiện khác”. III- NIỆM
Như trong Luận Ma Ha Diễn nói: “Quán tưởng cõi Dục giới là bất tịnh, hư dối thấp hèn, nhớ nghĩ Sơ thiền là pháp tôn trọng đáng quý”. Pháp này ý nghĩa đồng với “Lục hành quán”, chỉ có danh từ khác nhau mà thôi.
Lục hành quán: là 6 phương pháp quán, thứ tự đoạn trừ Tư hoặc.
Đó là nhàm chán ba thứ: Khổ, Thô, Chướng của hạ địa, tức là quán Dục giới bất tịnh, hư dối, thấp kém và quán tưởng ưa thích ba thứ: Thắng, Diệu, Xuất của thượng địa, tức là quán Sơ thiền rất tôn trọng đáng quý. * GIẢI THÍCH LỤC HÀNH QUÁN
Chia làm hai ý:
1. Giải thích Quả trong Lục hành quán
2. Giải thích Nhân trong Lục hành quán
1. Giải thích Quả trong Lục hành quán
a) Quả của Dục giới: Nhàm chán ba thứ: Khổ, Thô, Chướng, nghĩa là nhàm chán thân, tâm dục giới thô nặng và tai họa.
- Khổ: Hành giả suy nghĩ rằng: “Hiện nay báo thân của Dục giới này bị các thứ đói khát, nóng, lạnh, bệnh tật, đao binh v.v... bức bách, nên gọi là Khổ”.
- Thô: là thân này do 36 vật bất tịnh như: phân, nước tiểu, máu mủ v.v… hợp thành, nên gọi là Thô. Thô là xấu xí.
- Chướng: là sắc chất của thân này chướng ngại không được tự tại hoặc bị núi sông, vách đá ngăn cách, nên gọi là Chướng.
b) Quả của Sắc giới: nghĩa là ưa thích cảnh giới Thượng thắng, Diệu, Xuất:
- Thượng thắng: Hành giả nghĩ rằng: “Biết cái vui của Sắc giới là thù thắng, cái vui của Dục giới là khổ. Cái vui của Sắc giới là thù thắng vi diệu, cho nên khi được vui sướng thì ưa thích hơn khổ”, nên gọi là Thượng thắng.
- Diệu: thọ hưởng được sắc thân của cõi Sắc giới, như bóng trong gương, tuy có hình sắc mà chẳng có chất ngại, nên gọi là Diệu.
- Xuất: khi chứng được Ngũ thông, có thể thấy thấu suốt các thứ bị ngăn chướng ở bên ngoài, dù vách núi cũng không thể ngăn ngại, nên gọi là Xuất.
2. Giải thích Nhân trong Lục hành quán
a) Nhân của Dục giới: nghĩa là nguyên nhân nhàm chán các thứ: Khổ, Thô, Chướng của dục giới.
- Khổ: Hành giả tư duy: “Nếu ở trong Báo thân mà khởi các tâm niệm, duyên theo tham dục, không thể xa lìa được”. Như trong kinh ghi: “Tất cả chúng sinh là đầy tớ của ái”, nên gọi là Khổ.
- Thô: nghĩa là tâm duyên theo năm trần của Dục giới, khiến tâm dao động tán loạn, khởi tạo các ác nghiệp, nên gọi là Thô.
- Chướng: do phiền não che đậy, nên gọi là Chướng.
b) Nhân của Sắc giới: nghĩa là ưa thích
Thượng thắng, Diệu, Xuất của Sắc giới.
- Thượng thắng: Hành giả nghĩ rằng: “Cái vui của Sơ thiền là thù thắng, vì niềm vui này từ trong nội tâm khai phát”, nên gọi là Thượng thắng. So với cái vui tham dục phát sinh từ năm trần bên ngoài, là phiền não oán kết, là thấp kém chẳng bằng.
- Diệu: do chứng được cảnh giới an vui của thiền định, tâm an ổn không dấy động, nên pháp lạc được thành tựu, gọi là Diệu. Cái khoái lạc tham dục khiến nội tâm tán loạn dao động, nên gọi là Thô.
- Xuất: nghĩa là nội tâm được thoát khỏi sự chướng ngại, chứng được Sơ thiền, nên gọi là Xuất. Ví dụ như nước trong mạch đá ngầm, nước chẳng phải từ ngoài đến mà chính từ trong kẽ đá chảy vọt ra.
Nay lấy Lục hành quán này để giải thích nghĩa của Niệm, hàm ý có thể thấy trong đó.
HỎI: Nay nói đệ tử Phật tu thiền định, thì đâu cần giải thích phương pháp Lục hành quán của phàm phu?
ĐÁP: Phần trước đã giải thích các thiền định trong Tam giới, ở đây cũng cần biết nguyên nhân sở hành của nó. Nếu theo hàng đệ tử của Phật thì dùng phương pháp Bát thánh đạo, tu 16 pháp quán để xa lìa Ngũ dục, là ý muốn nhập vào Sơ thiền, thì đâu có lỗi gì? Ở trong phần thuyết minh về Thiền vô lậu, sẽ giải thích rộng. IV- XẢO TUỆ
Nghĩa là so lường cảnh giới khoái lạc của Dục giới và cảnh giới an lạc của Sơ thiền, trong đó sự được, mất, khinh, trọng như thế nào? Nay chia ra hai phần để giải thích:
1. So lường: tức là dùng trí tuệ suy nghĩ để so sánh.
2. Được, mất: nghĩa là cảm giác khoái lạc trong Dục giới là mất, cảnh giới an lạc của Sơ thiền là được. Nghĩa là pháp an lạc của Sơ thiền không có lỗi lầm, nên gọi là được, cảm giác khoái lạc của Dục giới là sai lầm, nên gọi là mất.
Cũng có thể nói cảnh giới an lạc Sơ thiền là mất, và khoái lạc của Dục giới là được.
- Dục giới là được: nghĩa là hành giả chấp cảm giác khoái lạc thô thiển của Dục giới là thật, nên sinh khởi tâm chứng đắc.
- Sơ thiền là mất: nghĩa là hành giả nhận biết thân này rỗng rang và vắng lặng, có cảm thọ an lạc rất vi tế, tương tự như có, như không, không cố định, mất hết tướng trạng khoái lạc nên gọi là mất.
Khinh, Trọng: nghĩa là cõi Dục là khinh, Sơ thiền là trọng.
Vì sao gọi Dục giới là khinh? Vì năm thức tương ưng với cảm giác khoái lạc Dục giới thì nhanh chóng dễ mất, nên gọi là Khinh.
Vì sao gọi Sơ thiền là trọng? Vì cảnh giới an lạc của Sơ thiền cùng ý thức tương ưng, dừng trụ lâu nơi cảnh duyên, nên gọi là Trọng. Trọng là trân trọng, quý báu.
Cũng có thể gọi Dục giới là trọng, Sơ thiền là khinh. Vì khoái lạc của Dục giới cùng hợp với phiền não, nên nội tâm bị trói buộc nặng nề, nên gọi là Trọng. Cảnh giới an lạc của Sơ thiền, không bị tâm niệm ràng buộc, nên gọi là Khinh.
Lại có thầy giải thích về Xảo tuệ rằng: “Khi hành giả mới tập tu thiền, phải hiểu biết phương tiện nội và ngoại, khéo léo sử dụng, không mất đi sự thích ứng, sẽ mau chóng chứng được thiền định, nên gọi là Xảo tuệ”. V- NHẤT TÂM
Hành giả khéo dùng phương pháp Xảo tuệ để so sánh, khéo léo dụng tâm không cho sai lầm, hành giả chỉ quyết định nhất tâm tu hành, nên gọi là Nhất tâm. Như người đi đường, trước phải biết đường thông hay bít, sau mới quyết định hướng theo con đường đã chọn mà tiến bước. Nên nói “Chẳng phải người trí thì không thể tu thiền, không thiền thì không trí tuệ” chính là ý nghĩa này vậy. Chú thích chương 6:
(1) Yết-ma (Tác nghiệp): các việc làm có liên quan đến giới luật như thọ giới, sám hối, kiết giới, tức là chỉ cho Tác pháp sinh thiện diệt ác. Lúc thọ giới, nhờ yết-ma mà giới tử thành tựu được giới thể.
(2) Bát kỉnh pháp: 8 pháp mà Tỳ-kheo ni phải tôn trọng Tỳ-kheo tăng:
1/ Tỳ-kheo ni dầu 100 tuổi hạ, nhưng khi thấy vị Tỳ-kheo mới thọ giới, cũng phải đứng lên tiếp đón, lễ bái và trải tòa sạch sẽ mời ngồi.
2/ Tỳ-kheo ni không được chê bai mắng nhiếc
Tỳ-kheo.
3/ Tỳ-kheo ni không được cử tội, nói lỗi của Tỳ-kheo, nhưng ngược lại Tỳ-kheo được quyền nói lỗi Tỳ-kheo ni.
4/ Thức-xoa-ma-na (học pháp nữ) học giới xong đương sự nên theo chúng Tăng cầu thọ đại giới.
5/ Tỳ-kheo ni mà phạm tội tăng-tàn thì phải trong nửa tháng ở trong hai bộ Tăng hành pháp Ma-na-đỏa.
6/ Tỳ-kheo ni nên mỗi nửa tháng theo Tỳ-kheo cầu thọ học.
7/ Tỳ-kheo ni không được an cư nơi không có
Tỳ-kheo.
8/ Tỳ-kheo ni An cư kiết hạ xong, nên ở trong chúng Tỳ-kheo cầu xin ba việc để Tự Tứ sám hối.
(3) Cụ túc giới (Đại giới): giới luật đầy đủ mà Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni phải thọ trì. Theo giới pháp quy định, người thọ trì giới Cụ túc thì chính thức đạt được tư cách một Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni.
Giới Tỳ-kheo có 250 giới, Tỳ-kheo ni có 348 giới. Luật tứ phần ghi, giới đại khái có thể chia làm
8 loại: Ba-la-di: Tỳ-kheo 4; Tỳ-kheo ni 8. Tăng-tàn: Tỳ-kheo 13; Tỳ-kheo ni 17. Bất định: Tỳ-kheo 2. Xả đọa: Tỳ-kheo 30; Tỳ-kheo ni 30. Đơn đọa: Tỳ-kheo
90; Tỳ-kheo ni 178. Hối quá: Tỳ-kheo 4; Tỳ-kheo ni
8. Chúng học: Tỳ-kheo 100; Tỳ-kheo ni 100. Diệt tránh: Tỳ-kheo 7; Tỳ-kheo ni 7.
Ngoài ra, về giới Cụ túc, các bộ Luật Thập Tụng, Luật Ngũ Phần, Thiện Kiến Luật Tỳ-bà-sa, Giới bản Paly, Giới bản Tây Tạng đều ghi chép khác nhau. Khi thọ giới này, tác pháp thọ giới phải đầy đủ các điều kiện: tam sư thất chứng, bạch tứ yết-ma. Người thọ giới Cụ túc không được phạm 13 nạn và 10 già. Cụ túc phương tiện: từ trong giới Cụ túc tùy theo căn cơ rút ra 5 giới, 8 giới v.v… theo thứ lớp để dạy cho họ.
Ở Trung quốc từ đời Tùy, Đường về sau tăng ni đều y theo Luật Tứ Phần mà thọ giới. Đặc biệt ngoài việc thọ giới Cụ túc, tăng ni còn thọ thêm giới Bồ-tát gồm 10 giới trọng và 48 giới khinh. Ngoài ra, người muốn thọ giới cụ túc này, cần phải có thân thể khỏe mạnh, các căn đầy đủ, không có các tật như đui, điếc v.v… thân tâm phải thanh tịnh, không có các lỗi như: biên tội, phạm Tỳ-kheo ni, tặc trụ v.v… phải cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, đã thọ giới Sa-di hoặc (Sa-di ni) đủ 20 tuổi và không quá 70 tuổi.
Giới Cụ túc cũng chỉ nêu bày các giới luật chủ yếu, giúp cho người trì giới nhờ đó mà xa lìa được tội ác, trí đức tròn đủ. Nếu căn cứ vào số giới mà nói thì thật là vô lượng vô biên, phải siêng năng tu trì trong mọi hoàn cảnh, giữ việc lành bỏ việc ác.
(3) Bảy chúng: 7 hàng đệ tử xuất gia và tại gia, hình thành giáo đoàn của Đức Thích Tôn: Tỳ-kheo, Tỳ kheo ni, Sa di, Sa di ni, Thức xoa ma na, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di.
(4) Tác pháp sám hối Đại thừa phương đẳng: tức là thực hành thân lễ bái cung kính, miệng xưng niệm tán tụng, tâm ý quán tưởng diệu tướng của Phật, ba nghiệp siêng năng, mỗi mỗi đều theo phép tắc mà sám hối các nghiệp tội đã gây ra trong quá khứ và hiện tại.
(5) Trí tuệ, Nhẫn: bậc Kiến đạo do quán Tứ đế mà phát sinh nhẫn vô lậu, trí vô lậu; Nhẫn là nhân của Trí, Trí là quả của Nhẫn Khổ: là 1 trong 8 Nhẫn; 4 nhẫn trước có thể ấn chứng cho 4 đế của cõi Dục, tức là
4 pháp nhẫn: Khổ pháp nhẫn, Tập pháp nhẫn, Diệt pháp nhẫn và Đạo pháp nhẫn; 4 Nhẫn sau có thể ấn chứng 4 đế của cõi sắc và cõi vô sắc, tức là 4 loại nhẫn: Khổ loại nhẫn, Tập loại nhẫn, Diệt loại nhẫn, Đạo loại nhẫn. Do 4 thứ nhẫn này chính là đoạn kiến hoặc của ba cõi, gọi là Vô gián đạo.
(6) Thiền Kinh (Tọa thiền tam-muội)
(7) Bán-già: cách ngồi chỉ một bàn chân gác lên bàn chân kia có hai cách: 1/ Cát tường bán già tọa: lấy chân phải đặt lên đùi chân trái. 2/ Hàng ma bán già tọa: lấy chân trái đặt lên đùi chân phải. Đời sau khi khắc vẽ hình tượng Bồ-tát hiện thân người nữ, phần nhiều đều vẽ theo tư thế ngồi bán già.
(8) Kiết-già (Kiết già phu tọa, Liên hoa tọa): đây là tư thế ngồi của Như lai khi thành chánh giác dưới cội Bồ-đề.
Có 2 loại: 1/ Hàng ma tọa: trước đặt chân phải lên đùi trái, sau đó đặt chân trái lên đùi phải, hai lòng bàn chân ngửa ra, tay trái nằm trên tay phải. 2/ Cát tường tọa: tư thế ngược lại với Hàng ma tọa.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.188.188.152 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.