Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác.
Kinh Đại Bát Niết-bàn
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Dầu nói ra ngàn câu nhưng không lợi ích gì, tốt hơn nói một câu có nghĩa, nghe xong tâm ý được an tịnh vui thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 101)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Chương 7
GIẢI THÍCH TƯỚNG
TU CHỨNG THIỀN BA-LA-MẬT
Giải thích 4 loại thiền đồng thời nói rõ 9 loại Thiền ba-la-mật.
* I. Cửu tưởng
* II. Bát niệm
* III. Thập tưởng
* IV. Bát bối xả
* V. Bát thắng xứ
* VI. Thập nhất thiết xứ
* VII. Cửu thứ đệ định
* VIII. Sư tử phấn tấn tam-muội
* IX. Siêu việt tam-muội
Phần trước đã nêu rõ pháp môn Phương tiện Nội và Ngoại, nếu hành giả có thể chuyên tâm tu tập, chuyên dùng phương pháp của thiền môn, chắc chắn có chứng nghiệm thực tế. Cho nên Chương 7 phần nhiều nói về sự chứng nghiệm tu hành, trong kinh có ghi: “Pháp môn ta tu tập, khi chứng tự nhiên biết”. Nay giải thích tướng tu chứng của bốn loại thiền:
- TƯỚNG TU CHỨNG THIỀN THẾ GIAN (HỮU LẬU)
- TƯỚNG TU CHỨNG THIỀN THẾ GIAN VÀ XUẤT THẾ GIAN
- TƯỚNG TU CHỨNG THIỀN XUẤT THẾ GIAN
- CHẲNG PHẢI THẾ GIAN CHẲNG PHẢI XUẤT THẾ GIAN TƯỚNG TU CHỨNG THIỀN THẾ GIAN (HỮU LẬU)
Có ba phần:
*1. Tứ thiền (bốn tầng thiền)
*2. Tứ Vô lượng tâm
*3. Tứ Vô sắc định
Trước tiên là giải thích tướng tu chứng của bốn tầng thiền: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền.
Nay nếu luận về căn bản chánh định của Dục giới thì chỉ có bốn tầng thiền, nếu có thêm Trung gian thiền thì có nhiều thuyết chẳng đồng.
Như thuyết Tát Bà Đa bộ nói: “Có Vị đáo địa định và Trung gian thiền, thêm bốn tầng thiền, tổng cộng là sáu thứ thiền định”.
Thuyết Đàm Vô Đức nói: “Không có Vị lai thiền mà có Định dục giới và Trung gian thiền, cộng thêm bốn tầng thiền, tổng cộng gồm có sáu thứ thiền định”.
Thuyết Ma Ha Diễn và Cù Sa thì cho rằng: “Có Định dục giới, Vị đáo địa và Trung gian thiền, cộng thêm bốn tầng thiền, tổng cộng là bảy thứ thiền định”. *1. TỨ THIỀN
(bốn tầng thiền căn bản)
Hiện nay ở đây có thể dung hội mà suy ra, nên chỉ giải thích về bốn tầng thiền căn bản là:
A. Sơ thiền
B. Đệ Nhị thiền C. Đệ Tam thiền D. Đệ Tứ thiền
A. SƠ THIỀN
Như bài kệ trong kinh ghi: Ly dục và pháp ác Gồm có giác có quán Ly dục sinh hỷ lạc
Người ấy nhập Sơ thiền
Đã xa lìa lửa dâm
Được thiền định mát mẻ Như người quá nóng nực Vào ao lạnh được vui
Như người nghèo được vàng
Vui mừng động tâm giác Phân biệt gọi là quán Nhập Sơ thiền cũng vậy.
Bài kệ này đã giải thích đầy đủ trường hợp tu chứng Sơ thiền, nhưng hàm ý rất khó hiểu, nên cần giải thích thêm.
Giải thích Sơ thiền chia làm ba phần:
I- Giải thích danh từ Sơ thiền
II- Phương pháp tu tập Sơ thiền
III- Tướng chứng Sơ thiền I- GIẢI THÍCH DANH TỪ SƠ THIỀN
Sơ thiền gọi là Chi lâm, cũng còn gọi là Công đức tùng lâm. Khi hành giả chứng được “chi lâm” thì gọi là Sơ thiền. “Chi” tức là giác và quán, khi hành giả tu giác quán, Sơ thiền nhất định phát sinh trước, cho nên giác quán cũng gọi là Sơ thiền.
HỎI: Nếu nói do thiền định khai phát trước, nên gọi là Sơ thiền, còn Định dục giới và Vị đáo địa cũng khai phát đầu tiên, vì sao không gọi là Sơ thiền ?
ĐÁP: Thiền cũng còn gọi là Công đức tùng lâm. Định dục giới, Vị đáo địa thì chưa có Chi lâm công đức, cho nên dù phát sinh đầu tiên cũng không thể gọi là Sơ thiền. Trong Ma Ha Diễn có ghi: “Định dục giới, Vị đáo địa và Trung gian thiền thì có trí tuệ nhiều mà định lại ít, là chỗ không được an lạc” do chẳng phải chánh định, cho nên không được nhận danh từ Sơ thiền.
Sơ thiền cũng còn gọi là có giác có quán tam- muội, vì có người nghi ngờ nói: “Nội tâm có giác có quán, chắc chắn không được an định” cho nên Phật nói giác quán tam-muội (chánh định).
Luận Địa Trì ghi: “Sơ thiền cũng còn gọi là giác quán câu thiền” vì khi Sơ thiền khai phát thì giác quán đồng thời cũng khai phát. Sơ thiền còn gọi là “Thánh thuyết pháp định” vì trong định này có giác quán, vẫn còn trên ngôn ngữ, nên gọi là Thuyết pháp định. Bởi vậy Sơ thiền mới có những danh từ khác nhau. II- PHƯƠNG PHÁP TU TẬP SƠ THIỀN
Có hai phần:
1. Pháp tu tập
2. Luận về tâm năng tu
1. Pháp tu tập
Tức là phương pháp tu An-na-ban-na (Sổ tức), chính là pháp môn tu tập căn bản của Sơ thiền, trong đó chia làm 3 ý để giải thích.
a) Ý nghĩa danh từ
b) Luận tướng Sổ tức
c) Phương pháp quán hơi thở chẳng đồng
a) Ý nghĩa danh từ
An-na-ban-na là âm Phạn, đời Tần dịch là Sổ tức (hơi thở ra vào). Trong Kinh An Ban Thủ Ý Tam-muội ghi: “Chữ An có nghĩa là sinh, chữ Ban nghĩa là diệt”, nếu y theo ý nghĩa sinh diệt của hơi thở, tức là như ý ở trên vậy. Nếu giải thích trên sự sinh diệt của tâm niệm thì không phải ý nghĩa này. Cho nên ở đây dịch chữ An-na-ban-na, nghĩa là Sổ tức “hơi thở ra vào”.
b) Luận tướng Sổ tức
Nghĩa là tướng trạng hơi thở ra vào, gồm có bốn thứ:
- Phong
- Suyễn
- Khí
- Tức
Bốn tướng hơi thở này, trong phần giải thích về phương pháp điều Tức (điều hòa hơi thở) đã có nói qua. Nếu tướng hơi thở Phong thì tâm tán loạn, nếu tướng hơi thở Suyễn thì ngăn trệ, hơi thở Khí thì nhọc nhằn, hơi thở Tức thì tâm an định. Vì vậy hành giả phải bỏ ba tướng trước, chỉ dùng tướng sau cùng. Tướng Tức là tướng hơi thở điều hòa ra vào không có tiếng, không ngăn trệ, hơi thở nhè nhẹ như còn như mất.
c) Phương pháp quán hơi thở chẳng đồng
Có thầy nói: “Nên chú tâm nơi hơi thở ra, vì sao? Nếu đếm theo hơi thở ra thì hơi khí không gấp, thân không đầy, thân tâm được nhẹ nhàng dễ nhập thiền định”.
Có thầy nói: “Nên đếm theo hơi thở vào, vì sao?” Vì có năm lợi ích:
1/ Dễ dàng nhập định
2/ Dứt trừ ngoại cảnh
3/ Dễ thấy ba mươi sáu vật trong thân thể
4/ Thân nhẹ nhàng, khí lực sung mãn
5/ Nội tâm sung mãn dễ dứt trừ tâm tham sân
Do có những lợi ích thiết thực như thế, cho nên cần theo hơi thở vào.
Có thầy lại nói: “Phương pháp đếm theo hơi thở ra hay vào cũng không nhất định, chỉ cần biết phương tiện tùy lúc, tùy thời có thể dùng, tốt nhất là được an tâm nhập định, nếu không trở ngại thì cứ dùng”.
Ba phương pháp tu tập của ba vị thầy trên đây, đều không cho phép dùng một lúc cả hai pháp, vì cớ sao? Vì dễ phát sinh bệnh tắc nghẹn, trong cổ họng như có vướng vật gì, khạc không ra mà nuốt cũng chẳng vào.
2. Luận về tâm năng tu
Gồm có ba phần:
a) Tâm đếm
b) Chuyển biến c) Tổng kết
a) Tâm đếm
Tức là dùng tâm vi tế để thâu nhiếp tâm niệm tán loạn, chuyên chú tâm nơi hơi thở, đếm từ 1 đến 10, khiến tâm không phân tán, nên gọi là Sổ tức. Nếu số đếm chưa đủ mười gọi là Sổ giảm, nếu đếm lên tới mười một gọi là Sổ tăng. Dù sổ tăng hay sổ giảm cũng đều không phải pháp được an định, nếu đếm từ một đến mười được liên tục không sai, mới gọi là quán Sổ tức được thành tựu.
Nếu trong thời gian đếm số từ 1 đến 10, tâm nghĩ tưởng việc khác thì số đếm bị tán loạn, nếu đếm hơi thở không liên tục thì không thể trị được tâm tán loạn. Nếu số đếm vượt quá 10, thì ngay trong một niệm đồng thời có hai số mục, tâm tán loạn liền khởi, nên gọi là Tăng. Phương pháp tu Sổ tức chỉ cần chuyên chú tâm nơi hơi thở và nhớ số mục đã quy định, không được đếm nhiều số. Nếu hơi thở nhiều thì khí đầy, bụng trướng sình, hơi thở gấp, ngồi không an định.
b) Phương pháp Chuyển biến
Khi hành giả mới bắt đầu tu pháp Sổ tức, biết hơi thở vi tế và có vấn đề bất thường, nên dừng đếm số chuyển sang phương pháp Tùy tức: nghĩa là theo hơi thở ra vào tự nhiên, khi tâm đã yên lặng, bỏ Tùy tức tâm được dừng trụ. Khi tâm dừng trụ nhưng lại bị hôn trầm, liền dùng công phu quán chiếu tâm ấy, nếu tâm dao động liền bỏ pháp quán trở về Sổ tức, Tùy tức và Chỉ, đây gọi là Hoàn. Khi tâm không còn tán loạn, hôn trầm, tinh thần ngưng lặng, đây gọi là Tịnh.
Nếu hành giả khéo ứng dụng Lục diệu pháp môn này để thu nhiếp tâm niệm, thì sẽ dễ dàng được nhập định.
c) Tổng kết
Phương pháp Sổ tức chính là phương tiện đầu tiên nhập đạo tu hành.
HỎI: Các pháp môn đều có thể làm cửa phương tiện đầu tiên, vì sao nói chỉ dùng pháp Sổ tức?
ĐÁP: Không phải vậy, nay y theo trong kinh Phật dạy: “Pháp Sổ tức là cửa đầu tiên bước vào đạo của ba đời chư Phật, cho nên Phật Thích Ca Mâu Ni mới đến ngồi thành đạo dưới cây Bồ- đề”. Khi hành giả muốn tu học Phật pháp, trước tiên nên tu pháp Sổ tức, Tùy tức, cho đến Hoàn, Tịnh, như trong Kinh Thụy Ứng có ghi rất đầy đủ rõ ràng.
Lại nữa, Tổ thứ mười lăm là Đề-bà(1), khi Ngài mới xuất thế, hàng phục ngoại đạo, được nhiều người cung kính và tin tưởng, Ngài độ nhiều người xuất gia không đếm xuể. Có một lần Ngài triệu tập tất cả bảy chúng xuất gia và tại gia, lại có cả vua quan, Bà-la-môn v.v… khi Ngài thăng tòa sư tử, bỗng rơi nước mắt như mưa, lúc này toàn chúng đều lặng lẽ, nghĩ rằng: “Không lẽ Phật pháp sắp diệt, ngoại đạo hưng thịnh hay trong nước có tai nạn bệnh dịch lưu hành?”.
Ngài biết tâm niệm của đại chúng, liền dùng khăn trắng lau khô nước mắt, chỉnh đốn dung nhan, y phục, đưa tay phải lên mà nói rằng: “Chẳng phải Phật pháp sắp diệt và ngoại đạo hưng thịnh, cũng chẳng phải trong nước sắp có tai nạn hay dịch bệnh lưu hành, mà ta chỉ thương xót mặt trời Phật pháp sắp lặn, vầng sáng Thánh hiền sắp chìm mất. Trong hàng Cà-sa không thấy Thánh nhân, Hiền nhân nên ta mới rơi lệ”.
Cả đại chúng nghe Ngài nói lời này, ai ai cũng đều xúc động, thương xót kêu khóc. Trên hư không có đàn chim bay ngang qua, nghe tiếng khóc bi thương, chúng liền rơi loạn xạ. Lúc này Ngài dùng âm thanh từ bi an ủi đại chúng mà nói kệ rằng:
Mặt trời Phật sáng rỡ ở thế gian.
Chúng sinh không mắt nên chẳng thấy. Trăng sáng Thánh hiền chưa từng diệt, Chúng sinh chướng nặng nên không gặp. Nếu hay rửa sạch tâm nhãn bẩn,
Tự nhiên sẽ thấy Phật, Thánh hiền. Tại sao chìm đắm trong sầu khổ, Như kẻ ngu si như trẻ con.
Tất cả đại chúng khi nghe âm thanh từ bi của Bồ-tát, họ liền tỉnh ngộ, thu nhiếp thân tâm, lặng lẽ an tọa không tiếng động, nhất tâm nhìn Bồ-tát và lắng nghe Ngài thuyết pháp. Ngài nói kệ dạy chúng:
Phật nói pháp cam lồ.
Gọi là An-ban-na (Sổ tức), Đối với các pháp môn,
Là an ổn bậc nhất.
Nhân duyên thứ lớp khởi Không loạn không vọng tưởng Ví như trồng cây lựu,
Mầm chồi thứ lớp sinh
Sắc hoa và vị quả
Tự nhiên không giả tạo, Thời đến thì tự chứng, Chẳng phải như phấn vẽ. Các ông đã thuần thục, Ơn ông trồng cây lựu, Khiến tâm nhập cam lộ Thứ lớp sinh đạo pháp.
Từ đây về sau, các pháp sư ở Ấn Độ truyền nhau không dứt, phần nhiều là dùng phương pháp Sổ tức làm cửa vào đạo. Bậc Đại sĩ Tứ y(2), Lục thông Bồ-tát thuyết pháp độ người, trước tiên đều đề xướng dùng pháp này, lẽ nào pháp Sổ tức chẳng phải là phương tiện đầu tiên nhập đạo hay sao?
Vào thời mạt pháp chư Tổ thay nhau thuyết pháp dạy người, tự mình không tu thiền định, vì thế đạo đã không chứng được, nói ra thì lại phá người tu thiền định, nếu xét theo lời dạy của ngài Đề-bà thì thiền định là cốt yếu, hạng người điên đảo ở thế gian thật đáng xót thương thay.
Lại có người nói: “Thiền pháp không thể ở trong đại chúng diễn nói”, nhưng hãy xem ngài Đề-bà ở trong đại chúng diễn nói thiền định. Ngày nay chúng ta lại ngậm miệng hay sao? Nếu phô trương nói giữa đại chúng rằng: “Tôi chứng pháp này, ông chứng pháp kia và cảnh giới bí mật vi diệu trong thiền định”, đó mới thật là tội không phải nhẹ vậy. III- TƯỚNG CHỨNG SƠ THIỀN
Nếu luận từ pháp tu phương tiện cho đến khi chứng Sơ thiền, gồm có ba giai đoạn:
1. Chứng Định dục giới
2. Chứng Vị đáo địa
3. Chứng Sơ thiền
1. Chứng Định dục giới
Có hai phần:
a) Cảnh giới chứng đắc
b) Trường hợp chứng và lui sụt
a) Cảnh giới chứng đắc
Trong Dục giới cũng có ba thứ tâm:
- Trụ Tâm thô
- Trụ Tâm tế
- Chứng Định dục giới
- Trụ tâm Thô: Do dùng phương pháp Sổ tức tu tập, nội tâm dần dần rỗng rang ngưng lặng, không còn những duyên lự, gọi là Thô.
- Trụ tâm Tế: Sau khi tâm thô từ từ chuyển dần sang vi tế, gọi là tâm Tế.
Khi đang nhập tâm thô và tế hoặc khi sắp chứng được, sẽ có trường hợp trì thân xuất hiện, lúc này thân tâm hành giả tự nhiên chánh trực, ngồi không mệt mỏi, như có vật gì trì giữ thân thể.
Nếu trường hợp trì thân tốt thì hành giả cảm thấy nhẹ nhàng vi tế, pháp này chỉ trợ giúp cho thân thể mà thôi.
Nếu gặp trường hợp trì thân không được tốt thì hành giả có cảm giác cứng đờ, cấp bách mạnh mẽ, khi đến thì khổ sở, cấp bách và cứng đơ, lúc đi thì cảm thấy chậm chạp, khó khăn mệt mỏi, pháp này không tốt.
- Chứng Định dục giới: Sau khi tâm hành giả được vi tế, giác biết nội tâm tự nhiên thanh tịnh sáng suốt cùng với thiền định tương ưng. Khi ngồi do pháp định trì giữ, nội tâm lặng lẽ mặc tình bất động, cảnh giới thiền định phát sinh dần dần từ cạn đến sâu, có thể ngồi một tiếng đồng hồ mà tâm ý không phân tán, đây gọi là Định dục giới. Khi hành giả nhập định này, sắc tướng báo thân Dục giới vẫn chưa hết.
b) Trường hợp chứng và lui sụt
Sau khi hành giả nhập Định dục giới, do pháp và tâm còn yếu cạn, phần trì giữ chưa có, cho nên khó nhập được định mà dễ bị lui sụt, nên biết nguyên nhân dễ bị lui sụt là do hai thứ :
- Do từ ngoại duyên
Khi hành giả chứng được định, vì không khéo léo dụng tâm, phương pháp nội phương tiện và ngoại phương tiện chống trái nhau, nên nửa đường bị sai lầm, dễ bị lui sụt thiền định. Hoặc khi hành giả chứng dược thiền định, lại đến nói với người khác, hoặc hiện tướng chứng được thiền định để cho người khác biết, hoặc có duyên sự, nên bị phá hoại tướng định. Tuy gặp những thứ ngoại duyên như thế mà hành giả lại không biết, không có phương pháp đối trị các chướng ngại phát sinh, thì rất dễ dàng bị lui sụt thiền định. Nếu hành giả có thể trì giữ sức định thật tốt không cho lui sụt, những chướng ngại không thể phát sinh. Đây gọi là chứng đắc thiền định.
- Do từ nội duyên
Có sáu nguyên nhân làm lui sụt thiền định:
1/ Tâm hy vọng 4/ Tâm quá vui mừng
2/ Tâm nghi ngờ 5/ Tâm tham ái
3/ Tâm lo sợ 6/ Tâm ưu sầu hối hận
Tâm hy vọng là khi chưa chứng được thiền định, khởi tâm mong cầu được định. Tâm nghi ngờ là khi nhập thiền định, khởi tâm hoài nghi, có được định hay không, hoặc tâm cảm thấy lo sợ, hoặc khởi tâm vui mừng, hoặc sinh tâm tham ái, ưa thích. Tâm ưu sầu hối hận là sau khi xuất thiền định, lại lo sầu hối hận.
Sáu thứ tâm này thường hay phá rối tâm của hành giả, khiến thiền định bị thoái mất. Nếu luận chung cả sáu thứ này, khi tâm chưa được định nên trong lúc Nhập, Trụ, Xuất đều có sáu thứ này phát sinh, khiến lui sụt thiền định. Nếu không có sáu thứ này sẽ dễ dàng chứng được thiền định, do không mất thiền định, nên gọi là Đắc định. Việc này tuy nông cạn, nếu không giải thích thì người tu hành không biết, nếu hành giả khéo hiểu hàm ý trong đó, sẽ biết rõ những chướng ngại.
2. Chứng Vị đáo địa
- Sau khi hành giả chứng được Định dục giới, thân tâm tiêu mất, cảnh giới rỗng không, không có sắc thân dục giới, hoặc trong lúc tọa thiền không thấy đầu, tay, chân, sàn nhà, bồ đoàn v.v… tương tự như hư không, đây là cảnh giới định Vị đáo địa.
Có trường hợp giải thích tướng Vị đáo địa, cũng có thể phát sinh Sơ thiền, tức là những phương tiện đầu tiên khiến cho tâm dễ an định, còn gọi là Tiền phương tiện địnhSơ thiền, cũng gọi là Vị lai thiền, vì nó chưa đạt đến thiền định, cũng gọi là “Hốt nhiêm trạm tâm”, nghĩa là bỗng nhiên nội tâm vắng lặng trong sáng. Cảnh giới tu chứng của định này, đương nhiên có sâu và cạn, nhưng hiện nay không thể nói cụ thể hết. Lại nữa, định này cũng có những hiện tượng tà ngụy, hành giả nên lưu ý, vì cảnh giới tà ngụy rất nhiều, trên đây chỉ giải thích sơ lược có hai thứ:
- Định tâm quá sáng và định tâm quá mờ tối, cả hai tướng cũng đều là Tà định.
a) Tướng định tâm quá sáng: Khi hành giả nhập định thấy các hình sắc xanh, đỏ, vàng, trắng ở ngoài. Hoặc thấy các cảnh giới như cung điện, mặt trăng, mặt trời, tinh tú v.v… Hoặc nhập định từ một ngày cho đến bảy ngày mà không xuất định, hoặc trong thiền định thấy như đã chứng được thần thông. Những hiện tượng này đều là tướng Tà định, hành giả nên xả bỏ.
b) Tướng định tâm mờ tối: Sau khi hành giả nhập định này, bỗng nhiên nội tâm mờ tối không còn tri giác, như trạng thái đang ngủ say. Tức là không có tâm tưởng, nó có thể khiến tâm phát sinh điên đảo, nên hành giả phải nhanh chóng từ bỏ.
Trên đây chỉ nói đại khái về tướng Tà định, trong đó có rất nhiều chướng nạn gây trở ngại, không thể dùng văn tự mà biểu đạt đầy đủ. Nếu y theo thuyết của Luận Thành Thật và Luận Đạt Ma Tỳ Đàm, phân chia hai thứ định này là không tiện vậy. Nay theo tôn giả Cù Sa phân chia hai thứ định này thì có chỗ sai biệt, như trong Ma Ha Diễn đã giải thích qua ở phần trước. Nhưng rất nhiều người khi tọa thiền chứng được Định dục giới và Vị đáo địa, cảnh giới họ chứng nghiệm có hai tướng định khác nhau. Cho nên nay mới chia thành hai thứ định để giải thích.
3. Chứng Sơ thiền
Giải thích trường hợp chứng Sơ thiền có sáu ý:
a) Sơ thiền phát b) Ý nghĩa 5 chi
c) Nhân quả và thể dụng d) Tướng sâu cạn
e) Tướng tiến thoái g) Tướng công đức
a) Sơ thiền phát
Có bốn phần:
a.1. Tướng Sơ thiền phát
a.2. Tướng không phải Sơ thiền
a.3. Nhân duyên khai phát
a.4. Phân biệt tướng tà chánh
a.1. Tướng Sơ thiền phát
Hành giả trụ trong định Vị đáo địa, chứng được mười sáu thứ Xúc, đó là hiện tượng Sơ thiền khai phát.
Thế nào là chứng?
- Nếu sau khi hành giả chứng được định Vị đáo địa, từ từ nhập sâu vào thiền định, cảm giác thân tâm rỗng rang vắng lặng, không thấy có những vật trong và ngoài thân thể. Hoặc trải qua một ngày cho đến bảy ngày, hoặc một tháng, một năm, định tâm vẫn không hoại mất mà lại còn trì giữ và tăng trưởng. Trong định này hành giả thấy thân tâm ngưng lặng, dần dần chuyển động nhè nhẹ, khi động hành giả cảm thấy thân từ từ xuất hiện, bồng bềnh như mây, như bóng, đây là tướng Động xúc đang khai phát, có khi phát từ trên xuống dưới hoặc từ dưới phát lên, hoặc phát sinh từ eo lưng, rồi đến khắp toàn thân. Phát phần trên thì dễ bị thoái mất. Nếu phát phần dưới thì dễ được tăng tiến.
Khi tướng Động xúc khai phát cũng có vô lượng công đức, nay chỉ nói sơ lược có mười thứ thiện pháp cùng Động xúc phát khởi.
Mười thứ là:
- Định - Không - Minh tịnh - Hỉ duyệt - Lạc
- Thiện tâm sinh - Tri kiến sáng suốt - Giải thoát ràng buộc - Cảnh giới hiện tiền - Tâm nhu nhuyến.
Mười thiện pháp này cùng Động xúc đồng thời phát khởi, cho nên gọi là quyến thuộc của động xúc, công đức của nó rất thù thắng nhiệm mầu, trang nghiêm, nếu giải thích đầy đủ thì khó hết được, vì thế ở đây chỉ nói sơ lược về hiện tượng khi Động xúc mới phát.
Khi Động xúc phát, thời gian có thể một ngày, mười ngày, một tháng hay một năm. Trong thời gian trải qua các Xúc đó trở về sau, lần lượt phát thêm những tướng Xúc khác, thời kỳ phát mười sáu thứ Xúc gọi là Sơ thiền.
Những tướng Xúc: tức là tám loại cảm giác:
1/ Động xúc: khi tọa thiền, thân thể chốc lát khởi trạng thái dao động.
2/ Dưỡng xúc: chốc lát thân ngứa ngáy không yên.
3/ Lãnh xúc: chốc lát thân lạnh như nước đá.
4/ Khinh xúc: chốc lát thân nhẹ như mây, như bụi, có cảm giác như bay bổng.
5/ Trọng xúc: chốc lát thân nặng như đá lớn, không thể lay động.
6/ Hoạt xúc: chốc lát thân trơn nhẵn như sữa.
7/ Noãn xúc: chốc lát thân nóng như lửa.
8/ Sáp xúc: chốc lát thân rít ráp như vỏ cây.
Lại có tám thứ cảm giác khác:
1/ Trạo: bứt rứt không yên
2/ Ỷ: trơn
3/ Lãnh: lạnh
4/ Nhiệt: nóng
5/ Phù: dao động
6/ Trầm: hôn trầm
7/ Kiên: cứng
8/ Nhuyễn: mềm
Tám thứ xúc này và tám xúc ở trên, tuy tướng trạng đồng nhau, nhưng nếu quán xét kỹ thì cũng có phần nhỏ khác nhau. Cho nên mới chia danh mục riêng, nếu hợp cả hai thứ cộng thành mười sáu thứ. Khi mười sáu thứ xúc này phát sinh, cũng đều có thiện pháp công đức quyến thuộc, như tướng trạng Động xúc đã nói ở trước.
Hành giả chứng được định Vị đáo địa, phát sinh các công đức thiện pháp của mười sáu xúc, nên gọi là sơ phát Sơ thiền, cũng do Tứ đại thanh tịnh Sắc giới, nương nơi báo thân của Dục giới mà phát sinh những hiện tướng đó. Cho nên trong Ma Ha Diễn có ghi: “Tứ đại cõi Sắc tạo sắc, là nhờ nương gá thân Dục giới”.
a.2. Tướng không phải Sơ thiền
HỎI: Khi hành giả mới bắt đầu tọa thiền, tâm chưa được an định, cũng phát những thứ xúc như: lạnh, nóng, động v.v… nhưng không có những công đức phát sinh như nói ở trước. Có người cho rằng đây là bệnh sinh khởi. Vì sao? Vì các xúc như: rít ráp, nặng nề v.v… là bệnh do Địa đại sinh; các xúc như: nhẹ, động, là bệnh do Phong đại sinh; xúc như: ngứa, nóng v.v… là bệnh do Hỏa đại sinh; xúc như: lạnh, trơn là do bệnh Thủy đại sinh.
Lại nữa, vì có những xúc phát sinh nên Ngũ cái sinh khởi:
- Do nóng, nhiệt, ngứa v.v… nên dẫn đến bệnh tham dục.
- Do nặng nề, hôn trầm v.v... nên sinh bệnh thùy miên.
- Do dao động, lạnh v.v… nên sinh bệnh trạo hối.
- Do cứng, rít ráp v.v… nên sinh khởi niệm nghi.
- Do nặng nề, cứng đơ, rít ráp v.v… nên sinh sân giận.
Nên biết khi phát khởi những thứ xúc, có thể khiến Tứ đại sinh bệnh và sinh khởi Ngũ cái gây chướng ngại. Có người nói những thứ xúc này là do Ma tạo ra, vì thế khi Động xúc phát thì có những bệnh như trên. Đây đều là tướng xúc do Ma tạo ra. Vì sao nói đây là Sơ thiền?
ĐÁP: Không phải thế, như theo lời ông nói thì hiện tượng Xúc phát sinh trên là tướng sinh bệnh ngăn chướng, hiện tượng sáng và tối là tướng Tà xúc phát sinh và hiện tượng Động xúc đang luận ở đây không giống nhau vậy. Vì sao? Nếu trước khi chưa chứng được định Vị đáo địa mà đã phát sinh hiện tượng xúc, phần nhiều thuộc về bệnh thường sinh chướng ngại, đây là do Ma tạo tác.
Nay nói hiện tượng phát xúc, chính là khi định Vị đáo địa khai phát, đồng thời cũng có những công đức quyến thuộc phát khởi. Đây gọi là tướng Sơ thiền phát, tại sao khởi nghi ngờ?
HỎI: Nếu các xúc phát sinh trước khi chứng được định Vị đáo địa, chỉ là sanh bệnh, sanh chướng và do Ma tạo tác. Như vậy có thể nói là tướng xúc cũng có thể dùng để trị bệnh, trừ chướng, chẳng phải ma tạo chăng?
ĐÁP: Cũng có nghĩa này.
HỎI: Như thế thì cùng với những thứ xúc của Sơ thiền có gì khác nhau?
ĐÁP: Có khác nhau, tuy nhiên khi được Định dục giới có thể trị bệnh, trừ chướng và chẳng phải do ma tạo. Nhưng không phải là tướng xúc của Sơ thiền, vì đây thuộc về Tứ đại sắc pháp(3) trong Định dục giới, không thể phát định Sơ thiền, vì không có đầy đủ các phần thiện pháp và công đức chi lâm, nên không thể gọi là Sơ thiền vậy.
Ở đây đặc biệt nói về hiện tượng Động xúc thiện và bất thiện của Dục giới, nhưng khi hành giả mới bắt đầu tọa thiền, có khả năng chứng một trong hai thứ này, hoặc có khi không có hiện tượng nào phát sinh. Do khi tu hành đã có xảy ra những trường hợp như thế, nên nay chỉ nói sơ lược vài đặc điểm nhỏ.
HỎI: Trong định Vị đáo địa, cũng có phát sinh các thứ xúc thiện và bất thiện không?
ĐÁP: Chẳng phải là không có nghĩa này.
a.3. Nhân duyên khai phát thiền
Gồm có hai phần:
- Từ khi hành giả tu tập tọa thiền, không quản ngại khó nhọc, tinh cần tu tập, do có thiện tâm và nỗ lực dụng công, công sức thành tựu, tự nhiên được cảm quả báo thiền định. Như trong Kinh Pháp Hoa ghi: “Tùy theo công lao mà ban thưởng các thứ, cho đến thiền định, ngũ căn, ngũ lực v.v…”. Lại nữa, có thầy nói: “Do tu thập thiện tương ưng, nên các xúc phát sinh”, ý này không rõ ràng.
- Do ngũ ấm của Sắc giới, nương trụ trong thân Dục giới, nhưng thân Dục giới thì thô, Sắc giới thì vi tế, do sự giao tế trái nghịch nhau mà phát sinh những thứ dao động này. Ví như người thế gian, nếu nội tâm lo sầu phiền não, sẽ sinh khởi chướng ngại, ùn tắc không thông, khiến tứ đại nóng nảy bứt rứt cũng từ tâm phát sinh, thậm chí phát bệnh dẫn đến tử vong. Những bệnh khổ não này không phải từ ngoài đưa đến vậy.
Nay những cảm giác khoái lạc trong Sơ thiền cũng phát sinh từ nội tâm, do dùng phương pháp Sổ tức khiến tâm được nhẹ nhàng thư thái. Khi tu thiền định thì định Sắc giới phát sinh trong sắc thân Dục giới, vì định Sắc giới và báo thân Dục giới giao tiếp nhau, nên lần lượt phát sinh mười sáu thứ Xúc, các thứ này không phải do bên ngoài đến, nên gọi là Xúc.
Trong tám thứ xúc này chia thành mười sáu thứ, đều phát sinh từ Tứ đại, trong mỗi một đại lại có bốn thứ:
- Bốn thứ của Địa đại là nặng nề, hôn trầm, cứng đờ, rít ráp.
- Bốn thứ của Thủy đại là ngứa, lạnh, mềm, trơn như sữa.
- Bốn thứ của Hỏa đại là ấm, nóng, trơn, ngứa.
- Bốn thứ của Phong đại là bứt rứt, dao động, lăng xăng, nhẹ bổng.
Cho nên trong Kinh Kim Quang Minh ghi: “Hai con rắn Địa và Thủy, bản tính nó là chìm xuống dưới. Hai con rắn Phong và Hỏa, bản tính nó nhẹ nên bay lên”.
HỎI: Đã là bốn đại thì phải có bốn thứ xúc, tại vì sao lại có mười sáu thứ?
ĐÁP: Vì cùng chung tính nên được như vậy, thí dụ như:
Nhiệt là tính nóng của Hỏa đại, do hòa chung với tính Thủy nên biến thành noãn (ấm). Nếu Hỏa đại và Phong đại hòa chung thì tạo thành mềm mại, do Hỏa đại và Địa đại hòa chung thì biến thành trơn như sữa, khi Hỏa đại hòa chung cả ba đại, nên mất đi tính nhiệt (nóng), trở thành bốn thứ cảm giác. Phong đại, Thủy đại, Địa đại, mỗi đại hòa chung cả ba đại, ý nghĩa cũng như thế.
Khi mười sáu thứ xúc giác này phát sinh, mỗi xúc có mười thứ công đức thiện pháp xuất hiện, cộng chung thành một trăm sáu mươi (160) thứ thiện pháp.
Khi hành giả mới tọa thiền cũng có thể công đức phát hết hoặc chưa phát hết, hoặc chỉ phát ba, hay năm thứ, nên ở đây chỉ giải thích tóm lược.
HỎI: Tám thứ Xúc này phát sinh theo thứ tự hay không theo thứ tự? Trong các xúc, thứ nào phát khởi trước tiên?
ĐÁP: Nếu luận theo thứ tự cũng không nhất định trước hay sau, tuy nhiên khi nhân duyên tứ đại hòa hợp thì cảm giác cứng (kiên) phát trước tiên. Cũng có người thấy tướng Động xúc phát trước, như đã giải thích qua.
a.4. Phân biệt tướng tà chánh
Trong phần Nội phương tiện ở trước đã nói đầy đủ tướng Nghiệm biết căn tính thiện ác về hư thật, trong ấy hành giả phải khéo phân biệt.
b) Ý nghĩa năm Chi
Chia làm ba phần:
b.1. Giải thích danh từ Chi b.2. Giải thích ý nghĩa Chi b.3. Luận về tướng của Chi
b.1. Giải thích danh từ Chi
Sơ thiền có đầy đủ năm Chi: Giác, Quán, Hỷ, Lạc, Nhất Tâm.
Giác: Tâm giác ngộ ban đầu.
Quán: Tâm vi tế quán sát phân biệt.
Hỷ: Tâm vui mừng hoan hỷ.
Lạc: Tâm thư thái điềm tĩnh.
Nhất tâm: Tâm lặng lẽ không tán loạn.
Lập ra năm chi là để đối với pháp bất thiện, tức là phá trừ ngũ dục, xả ngũ cái. Nếu đối với pháp thiện, tức là hành năm pháp (Dục, Tinh Tấn, Niệm, Xảo tuệ, Nhất tâm) cho nên trong Thích Luận có nói: “Lìa Ngũ cái, hành Năm pháp, đủ Năm chi, nhập Sơ thiền”.
b.2. Giải thích ý nghĩa Chi
Như trong Kinh Anh Lạc ghi: “Thiền còn gọi là Chi lâm, đây là giải thích theo tướng chung và riêng”.
Chi nghĩa là tách rời, ví như cây thì gồm có gốc rễ cành lá, gốc chỉ có một mà cành lá thì nhiều, tướng trạng cành lá khác nhau, nên ý nghĩa của thiền định cũng giống như thế. Từ trong một thiền định mà phát sinh ra năm chi. Đây là từ tướng chung phân chia thành từng tướng riêng biệt.
Lâm: ví dụ như trong rừng có nhiều cây cối nên gọi là lâm (rừng). Ý nghĩa của thiền định cũng giống như thế, do tập hợp năm chi nên gọi chung là thiền, đây là từ tướng riêng biệt mà nói về tướng chung. Nếu nói về thiền định, liền biết trong đó có năm chi, ví như nghe nói danh từ rừng liền biết trong đó có nhiều cây cối, cành lá. Có người nói ý nghĩa của Chi là Chi trì, như trong Định dục giới, Vị đáo địa, tuy chỉ có một tâm định yên lặng, chưa có năm chi giác quán cùng nhau phù trì (trợ giúp), thì định tâm yếu và dễ lui sụt. Nếu nhập được Sơ thiền liền có các pháp giác quán v.v… lúc này tâm thiền định mới được an ổn vững bền, không bị tan hoại và lui sụt.
b.3. Luận về tướng của Chi
Nếu theo Thuyết Tát Bà Đa bộ, lấy hai mươi hai tâm số pháp để phân biệt tướng trạng năm Chi. Nếu theo Tông Thiên Thai, chia làm hai phần:
b.3.A/ Giải thích Tướng riêng năm chi của Sơ thiền b.3.B/ Giải thích Tướng chung năm chi của Sơ thiền b.3.A/ Giải thích Tướng riêng năm chi của Sơ thiền:
- Giác chi: Thế nào gọi là Giác? Giác nghĩa là
xúc giác (cảm giác xúc chạm) gồm có hai phần:
Thành tựu thiền giác và Hoại thiền giác, thí dụ như gió có thể làm mưa xuống cũng có thể làm hết mưa. Như phần trước đã có giải thích, trong mười sáu thứ xúc, mỗi xúc có mười thứ thiện pháp quyến thuộc trang nghiêm thiền pháp. Đây gọi là Thành tựu thiền giác. Cũng như phần trước đã nói, trong mỗi một xúc có hai mươi thứ ác pháp, đây gọi là Hoại thiền giác.
Giác: Giác thuộc về thân căn, vì thân thể là vật hữu tình, khác hẳn với các loại cây cỏ, đá gạch, vì thế thân căn cùng xúc giao tiếp nhau mà phát sinh cảm giác. Như trong kinh nói về ý nghĩa: thấy, nghe, giác, biết. Thấy là thuộc về căn mắt; Nghe thuộc về căn tai; Ngửi thuộc về căn mũi; Xúc giác thuộc về thân; hiểu Biết phân biệt thuộc về ý, đối với lưỡi cũng có tăng công dụng.
HỎI: Trong kinh có ghi: “Do sáu căn tiếp xúc sáu trần phát sinh cảm giác, vì sao chỉ nói riêng xúc giác thuộc về thân căn?”.
ĐÁP: Đây là giải thích chung, như khi Thấy cũng có thể gọi là Nghe vậy, ý nghĩa những cái khác cũng như thế. Nay theo ý nghĩa để phân tích Giác chi, cho nên chỉ nói đối với thân căn mà phát sinh cảm giác.
Trong định Vị đáo địa, phát sinh mười sáu thứ xúc, những xúc này tiếp xúc với thân căn, nên phát sinh ý thức, ý thức nhận biết được tướng trạng của xúc, nên gọi là Giác chi.
Giác cũng còn gọi là Linh ngộ, khi hành giả chứng được Sơ thiền liền có phát sinh các công đức thiện pháp chưa từng gặp, nên nội tâm kinh ngạc, giác ngộ. Vì xưa kia đã từng bị lửa dục thiêu đốt, khi chứng được Sơ thiền, chẳng khác nào như người đang bị nóng bức, được nhảy vào hồ nước trong mát. Nhưng thứ cảm giác này khác với cảm giác thân dục giới, vì cớ sao? Vì mười thứ thiện pháp cùng với thiền định đồng thời phát khởi, nên bài kệ nói:
Người nghèo được kho báu, Quá mừng nên tâm động.
Tâm thô gọi là Giác, ý nghĩa này so với Thuyết
Tát Bà Đa bộ có điểm bất đồng.
- Quán chi: Tâm phân biệt vi tế gọi là Quán, sau khi động xúc phát sinh, phải dùng tâm chánh niệm phân tích. Ngay khi phát sinh xúc và các thiện pháp, khoảng giữa Định dục giới và Vị đáo địa cũng có phần khác nhau. Vì sao? Trong lúc Sơ thiền phát sinh xúc thì có những trân bảo thiện pháp và động xúc cũng đồng thời phát sinh, nhưng Định dục giới thì lại không có.
Công dụng phân biệt tướng thiện pháp trong mười sáu thứ xúc cũng khác nhau. Như biết tướng thô liền bỏ, biết điều thiện thì tu hành, tâm phân biệt vi tế này gọi là Quán chi.
HỎI: Như vậy thì giữa Giác và Quán có gì khác nhau?
ĐÁP: Như trong luận ghi: “Tâm thô tại nơi duyên gọi là Giác, tâm vi tế phân biệt gọi là Quán”
HỎI: Trong Luận A Tỳ Đàm nói: “Giác và Quán đều ở trong tâm, vì sao nay lại chia làm hai?”.
ĐÁP: Giác và Quán tuy ở trong một tâm, nhưng hai tướng không đồng thời. Như khi đang Giác biết thì Quán chiếu không được rõ ràng, khi Quán chiếu thì Giác biết không rõ ràng. Thí dụ như khi đánh chuông tuy âm thanh là một, mà tiếng thì có to hay nhỏ khác nhau. Giác và Quán đều có trong một tâm cũng như thế.
Lại nữa thân căn cùng thân thức tương ưng gọi là Giác. Ý căn cùng với ý thức tương ưng gọi là Quán.
Thân thức thuộc về phần ngoài nên trì trệ gọi là thô. Ý thức thuộc phần trong nên linh lợi, có công năng phân biệt gọi là tế. Giác và quán tuy đồng thời bị xúc trần dẫn phát mà hai tướng lại không sinh đồng một lúc, cho nên gọi là Quán chi.
- Hỷ chi: Sau khi hành giả quán chiếu suy nghĩ, biết mười sáu thứ xúc là vi diệu quý báu.
Trước kia chưa từng gặp bao giờ nên sinh tâm vui mừng hoan hỷ. Hành giả cũng biết rõ, tuy mất đi chút ít cảnh vui thú dục lạc, bù lại là chứng được cảnh giới công đức Sơ thiền, cái vui này vô cùng to lớn. Vì công đức giác và quán đối với ta thật lợi ích, nên sinh tâm vui vẻ, đây gọi là Hỷ chi.
- Lạc chi: Sau khi hành giả có được niềm hoan hỷ, trong nội tâm điềm tĩnh, cảm nhận sự an lạc, do pháp lạc khiến tâm vui mừng, an ổn, điềm tĩnh. Nên gọi là Lạc chi.
HỎI: Hỷ và Lạc có gì khác nhau?
ĐÁP: Sự khác nhau giữa giác và quán ở phần trước như thế nào, thì sự sai khác của hỷ và lạc cũng như thế.
Vui vẻ thô gọi là Hỷ, vui mừng vi tế gọi là Lạc. Trong tâm reo mừng gọi là Hỷ, nội tâm an tĩnh gọi là Lạc.
Khi hành giả có được niềm khoái lạc nên tâm sinh vui vẻ, nhưng chưa cảm nhận được cảm giác an lạc, nên gọi là Hỷ. Sau khi trạng thái vui vẻ đã dứt, chỉ còn niềm vui mừng nhẹ nhàng thư thái, nên gọi là Lạc.
Ví như người bị đói khát, khi được thức ăn nên sinh tâm vui mừng, nhưng chưa cảm nhận mùi vị thức ăn đó, gọi là Hỷ.
Sau khi ăn uống lúc này mới hưởng được mùi vị khoái lạc của thức ăn, nên gọi là Lạc. Giống như cảnh giới Tam thiền chỉ có an lạc mà không có hoan hỷ.
- Nhất tâm chi: Sau khi trải qua cảnh giới an lạc một thời gian, tâm thọ lạc đã hết, tuy có những xúc giác mà tâm vẫn không duyên theo, do tâm an định vắng lặng, không tán loạn. Nên gọi là Nhất tâm chi.
Trên đây chỉ giải thích đại khái về năm chi Sơ thiền lần lượt phát sinh, dựa theo công năng của nó mà lập ý nghĩa các chi.
HỎI: Như vậy thì mỗi một xúc trong mười sáu thứ xúc, có ý nghĩa của năm Chi không?
ĐÁP: Đúng như thế, các Chi trong Sơ thiền rất nhiều, tuy nhiều là chỉ đối với mười sáu thứ xúc, nhưng cũng không nằm ngoài phạm vi của năm chi. Thí dụ như: Năm ấm nếu đối với Năm căn thì trong mỗi một căn đều có tướng năm ấm. Tuy có rất nhiều tướng năm ấm nhưng cũng không thể nói có ấm thứ sáu vậy, trường hợp năm chi cũng như thế.
b.3.B/ Giải thích tướng chung năm chi của Sơ thiền:
Khi một xúc giác phát sinh thì có đầy đủ ý nghĩa cả năm chi. Vì cớ sao? Vì ngay trong khi một xúc phát sinh, hành giả liền biết cảm giác nóng hay lạnh, đây là Giác chi. Khi đang phát sinh cảm giác ấy, hành giả liền phân biệt tướng trạng cảm giác nóng hay lạnh khác nhau, đây gọi là Quán chi.
Khi hiện tượng xúc phát sinh, tâm hành giả cảm thấy hoan hỷ, như người vừa thấy hình sắc tốt đẹp của cảnh vật, liền khởi tâm vui vẻ, không cần qua giai đoạn suy nghĩ phân biệt. Đây gọi là Hỷ chi. Nên trong luận có bài kệ:
“Cảm giác vui mừng làm động tâm”
Khi xúc phát sinh, cả toàn thân đều nhận thấy có cảm giác thư thái thoải mái, đây gọi là Lạc chi.
Khi xúc phát sinh thì cùng với định tương ưng, gọi giác quán đều chánh định. Nên biết khi có Nhất tâm chi thì năm chi này đồng thời cùng phát khởi, không cần chờ chi này phát sinh rồi mới phát sinh chi khác. Nhưng do hiện tượng này không hiển bày rõ ràng, nên chỉ giải thích khi giác chi thành tựu. Ý nghĩa trong đó đã có phân biệt ở chương trước.
HỎI: Như vậy trong một lúc đồng thời cũng có năm thứ sao?
ĐÁP: Tuy trong một tâm không đồng thời có năm thứ, nhưng pháp thì đồng thời đều có cả năm thứ, trường hợp này cũng giống như ý nghĩa của tâm số (tâm sở).
HỎI: Nếu luận chung trong một chi có năm pháp như vậy năm chi phải có hai mươi lăm pháp?
ĐÁP: Thí dụ như trong kinh điển Phật nói 5 ấm, mỗi ấm lại có 5 căn, tổng cộng thành hai mươi lăm (25) pháp, 25 pháp này cũng nằm trong phạm vi của 5 ấm. Ý nghĩa thông tướng (luận chung) của 5 chi cũng như thế.
c) Nhân quả và Thể dụng của Sơ thiền
Có hai phần:
- Nhân quả: Luận về nguyên nhân xa, thì từ lúc mới bắt đầu tu Nội phương tiện và Ngoại phương tiện, cho đến nhập định Vị đáo địa làm Nhân, chứng được Sơ thiền làm Quả.
Hiện nay giải thích theo nhân gần thì căn cứ nơi Sơ thiền, đã có đầy đủ cả nhân và quả.
Có người cho rằng: trong năm chi, bốn chi trước là Nhân, chi thứ năm là Nhất tâm chi làm Quả, thuyết này không thông vậy.
Hiện nay chỉ y theo Kinh Anh Lạc để giải thích Sơ thiền.
Năm chi của Sơ thiền là Nhân. Chi thứ sáu là Tâm tĩnh lặng chính là bản thể thiền định, tức là lấy bản thể làm Quả. Nếu luận tổng quát cả nhân và quả thì mỗi một chi đều làm Nhân qua lại lẫn nhau mà thành Quả.
- Thể dụng: Tâm vắng lặng là bản thể Sơ thiền, do Xúc làm động loạn tâm này mà phát sinh ra năm chi, đây gọi là dụng. Vì cớ sao? Vì từ bản thể khởi dụng, tác dụng thuộc phần sau, nguyên nhân phát dụng là do Xúc làm xao động bản thể.
HỎI: Nhân quả và thể dụng, không thể phân biệt giải thích hay sao?
ĐÁP: Không phải vậy, tuy lấy năm chi để nêu rõ Nhân và Dụng, lấy tâm vắng lặng làm Thể và Quả. Nhưng vì ý nghĩa lại có nhiều chỗ bất đồng, vì sao? Do năm chi làm Nhân, nên cảm ứng Quả báo tâm tĩnh lặng. Quả tâm tĩnh lặng, khởi tác dụng thành năm chi, đây là lấy tâm tĩnh lặng làm bản thể, năm chi làm dụng vậy. Thí dụ như ba mươi bảy phẩm trợ đạo, tu tập ba mươi bảy phẩm là nhân, sau khi tu chứng được đạo thì ba mươi bảy phẩm mới phát huy công dụng của nó.
HỎI: Từ bản thể tĩnh lặng phát sinh năm chi thù thắng, sau đó tâm lại càng thêm tĩnh lặng thù thắng, nghĩa này thế nào?
ĐÁP: Trường hợp này nên dùng nhân quả để giải thích, nếu tính chất thù thắng không khai phát thì đó chỉ là dụng của bản thể mà thôi.
d) Tướng sâu cạn của Sơ thiền
Khi Sơ thiền phát sinh tâm tĩnh lặng và năm chi, từ khi mới phát cho đến sau này không có hiện tượng thô tế bất đồng nên có sâu cạn, cần phải phân tích rõ. Vì sao? Như trong luận có nói: “Đệ tử Phật khi tu thiền định, công phu cũng có phân làm ba phẩm thượng, trung, hạ”.
Trong ba phẩm, mỗi phẩm chia làm ba phần. Cho nên trong chín phẩm có hiện tượng sâu cạn. Nếu phân tích để luận, thì có vô lượng phẩm. Thiền định mà ngoại đạo chứng được, cũng có hiện tượng sâu cạn chẳng đồng, nhưng không chia từng phẩm để giải thích. Do tâm họ còn thô, trong định lại không có giác, cũng không tu quán tuệ vô lậu, vì không có quán tuệ chiếu soi, nên tâm họ không thể nhận biết được các hiện tượng sâu cạn.
Hiện nay phân thành từng phẩm để giải thích hiện tượng sâu cạn của Sơ thiền. Gồm có hai phần:
- Tướng đồng loại: Khi một thứ xúc phát sinh, hành giả liền biết tướng thiền định sâu, cho đến sự sai biệt của chín phẩm.
- Tướng dị loại: Sau khi hiện tượng Động xúc hết, liền tiếp tục phát tướng xúc khác, tuy tướng trạng các xúc khác nhau, nhưng hành giả vẫn biết tướng của định này thâm sâu hơn định trước.
Lại nữa, nếu từ trong năm chi để giải thích tướng sâu cạn cũng chia làm hai phần:
- Đồng loại: Khi xúc phát khởi năm chi, năm chi cũng có tướng sâu cạn.
- Dị loại: Khi năm chi thứ tự tăng trưởng, trong mỗi một chi đều có tướng sâu cạn.
HỎI: Cần phải phát sinh đầy đủ cả mười sáu thứ xúc mới gọi là Sơ thiền, hay là chỉ phát sinh một xúc cũng được gọi là Sơ thiền?
ĐÁP: Sơ thiền có hai thứ: Đầy đủ và Không đầy đủ. Nếu cả mười sáu xúc đồng thời phát sinh, đây gọi là đầy đủ Sơ thiền, loại này rất thù thắng. Nếu chỉ phát sinh từ một đến hai thứ xúc cũng có thể gọi là Sơ thiền. Vì sao? Do mỗi một thứ xúc đều có mười thứ định quyến thuộc, lại có thành tựu công đức năm chi, nhưng Sơ thiền này vẫn gọi là không đầy đủ.
e) Tướng tiến thoái của Sơ thiền
Khi chứng Sơ thiền có bốn loại căn tính bất đồng: Lui sụt, Trụ phần, Tiến bộ, Thông đạt.
1/ Lui sụt: Có hành giả sau chứng được Sơ thiền hoặc có nguyên nhân, hoặc không nguyên nhân khiến thiền định bị lui sụt. Trường hợp lui sụt có hai thứ:
- Sau khi tiếp tục tu chứng được thiền định.
- Tuy tiếp tục tu nhưng không chứng được thiền định.
Đây là do các duyên chướng ngại của đời trước và đời này sinh khởi, người tu trong đời mạt pháp, phần nhiều hay gặp trường hợp này.
2/ Trụ phần: Có hành giả sau khi chứng được Sơ thiền, không lui sụt cũng không hoại mất, nội tâm được an định. Trường hợp này cũng có hai thứ:
- Mặc tình (tùy duyên) mà thiền định tự nhiên an trụ.
- Do khéo trì giữ mà thiền định được an trụ.
3/ Tiến bộ: Có hành giả chứng được Sơ thiền, sau khi được phẩm vị thù thắng, thậm chí còn tiến thêm một tầng định cao hơn. Trường hợp tiến bộ có hai thứ:
- Không cần tiếp tục dụng công mà tự nhiên tiến bộ.
- Do nỗ lực tinh cần tu tập mới được tiến bộ.
4/ Thông đạt: Có hành giả sau khi chứng được Sơ thiền, trong thiền định dứt sạch Kiến hoặc và Tư hoặc, chứng đạt đến Niết-bàn. Thông đạt cũng có hai trường hợp:
- Mặc tình tự nhiên thông đạt đến Niết-bàn.
- Tu quán chiếu mới có thể thông đạt đến
Niết-bàn.
Trong bốn trường hợp này, cũng có bốn hạng căn tính bất đồng. Thí dụ như bốn trường hợp bị lui sụt:
+ Tự có lui sụt: Sau khi hành giả chứng được chín tầng thiền định nhưng tự nhiên lui sụt, thậm chí thoái mất hoàn toàn.
+ Tự có thoái trụ: Hành giả tu đến tầng thiền thứ chín, nhưng bị thoái lui tầng thứ tám hay thứ bảy, lại dừng trụ không mất.
+ Tự có thoái tiến: Hành giả từ tầng thiền thứ chín lui sụt xuống tầng thiền thứ tám hay thứ bảy, thậm chí chỉ còn tầng thiền thứ nhất, sau đó tiếp tục tu tiến lên.
+ Tự có thoái đạt: Hành giả từ tầng thiền thứ chín, thoái lui tầng thiền thứ tám, thứ bảy, thậm chí chỉ còn một tầng thiền, nhưng trong quá trình lui sụt, bỗng nhiên được khai phát chân tâm, chứng quả vô lậu.
Ngoài ra có các phần: Trụ, Tiến, Đạt trong mỗi thứ đều có xảy ra bốn trường hợp cũng như thế. Trong đó cũng có những trường hợp do tu hành phóng dật gây chướng ngại khiến thiền định bị thoái thất, hoặc do sám hối nên tâm được thanh tịnh, có thể tiến, trụ và chứng đạt, nghĩa này rất nhiều không thể nói hết.
f) Tướng Công đức của Sơ thiền
Như bài kệ nói ở chương trước: “Đã xa lìa lửa dâm, được thiền định mát mẻ”. Bài kệ này có đầy đủ hai thứ công đức: Công đức xa lìa lỗi lầm và Công đức phát sinh tâm thiện. Đây là nói về hai thứ thiện: Công đức dứt điều ác và Công đức hành việc thiện. Công đức Trí và Đoạn cũng như thế. Cho nên Kinh Đại Tập có ghi: “Sơ thiền cũng còn gọi là Ly, còn gọi là Cụ. Ly là xa lìa ngũ cái. Cụ là đầy đủ ngũ chi”.
Nay giải thích ý nghĩa khi chứng được Sơ thiền, liền xa lìa tham dục và ngũ cái, thọ hưởng sự khoái lạc thô cạn của Dục giới. Nhưng ở đây chứng được an lạc vi tế nhiệm mầu của Sơ thiền, vì vượt hẳn sự khoái lạc nơi cõi Dục, nên khi hành giả chứng được Sơ thiền, liền có công năng xa lìa khoái lạc ngũ dục và sự tham đắm ở cõi Dục. Cho nên sau khi chứng Sơ thiền, hành giả có được năm thứ công đức xa lìa lỗi lầm:
1/ Ly sân: do thống khổ bức bách ở cõi Dục, nên sinh tâm sân hận, sau khi chứng được Sơ thiền, không còn bức bách, nội tâm được an lạc, không sinh sân giận.
2/ Ly thùy miên: sau khi chứng Sơ thiền, thân tâm sáng suốt, thanh tịnh, do trì giữ tâm định, không còn hôn trầm tán loạn, nội tâm sinh khởi hoan hỷ nên không cần ngủ nghỉ.
3/ Ly hối: do nội tâm an định, lặng lẽ bất động, xa lìa trạo cử, tâm không còn trạo cử (lăng xăng), hối hận tự dứt sạch.
4/ Ly nghi: Khi hành giả chưa chứng được Sơ thiền, luôn luôn ôm lòng nghi ngờ, không biết mình tu có được thiền định hay không. Hiện nay đích thân chứng được thiền định, tâm nghi liền tự dứt.
5/ Thiện pháp: Khi hành giả chứng được Sơ thiền, liền có đầy đủ công đức thiện tâm, trường hợp này cũng giống như công đức thiện pháp đã nói ở chương trước.
Lại nữa, nếu chứng được Sơ thiền thì có đầy đủ các tâm thiện: Trì giới, Tín, Xả, Định, Văn, Tuệ v.v… B. ĐỆ NHỊ THIỀN
Như bài kệ nói:
Giác quán làm động tâm, Thiện pháp cũng phải bỏ, Như hồ nước đứng lặng, Sóng nhỏ cũng không thấy, Như người bị mệt mỏi, Chìm đắm giấc ngủ say, Bỗng nghe tiếng thức giấc, Tâm sinh khởi phiền não, Nhiếp tâm nhập Nhị thiền, Giác quán làm não loạn, Cần nên trừ giác quán, Nhập cảnh giới nhất tâm, Nội tâm được thanh tịnh, Trong định sinh hỷ lạc,
Nên chứng nhập Nhị thiền, Trạng thái rất an lạc.
Bài kệ này nói rất tường tận về cảnh giới Nhị thiền và Trung gian thiền. Nay thuyết minh Nhị thiền chia làm ba ý:
I- Giải thích danh từ Nhị thiền
II- Thuyết minh tu tập Nhị thiền
III- Tướng chứng đắc Nhị thiền I- GIẢI THÍCH DANH TỪ NHỊ THIỀN
Phần trước đã giới thiệu qua Sơ thiền, nay giới thiệu về Nhị thiền.
Hành giả xa lìa giác quán chứng được các Chi lâm công đức rất thù thắng, nên gọi là Nhị thiền, cũng còn gọi là Vô giác vô quán tam-muội. Vì sao? Khi hành giả chứng được Trung gian thiền liền đoạn trừ Giác chi, trong Nhị thiền nội tâm được thanh tịnh nên phá trừ Quán chi, đây gọi là “Thánh mặc nhiên định”. Do các ngôn ngữ giác và quán đã diệt, nên gọi là “Định tịch tĩnh”, nếu được trí tuệ vô lậu, tiến nhập sâu vào định này, đây gọi là “Thánh tịch tĩnh”.
Trong Luận Trì Địa ghi: “Nhị thiền là “Hỷ câu thiền”, nghĩa là khi định này phát sinh thì Hỷ chi cũng đồng thời khai phát”. II- THUYẾT MINH TU TẬP NHỊ THIỀN
Có hai phần:
1. Pháp tu tập
2. Chứng trung gian thiền
1. Pháp tu tập
Phàm phu muốn tu chứng Nhị thiền, trước tiên cần tu Lục hạnh. Đệ tử của Phật đa số là tu Bát chánh đạo, ý nghĩa Bát chánh đạo đã có giải thích qua ở chương trước.
Lục hạnh là: Khổ, Thô, Chướng, Thắng, Diệu, Xuất. “Tâm đệ lục mặc nhiên” tức là tâm vắng lặng của Sơ thiền phát sinh nhàm chán, muốn xa lìa giác quán. Quán xét thấy Sơ thiền còn thấp kém và khổ, biết giác và quán gây loạn động khiến thiền định cảm thấy bức bách khổ não, nên gọi là Khổ.
Giác và Quán của Sơ thiền, phát định sinh hỷ lạc, nên gọi là Thô.
Do Giác, Quán gây chướng ngại tâm thanh tịnh của Nhị thiền, nên gọi là Chướng.
Do Nhị thiền thanh tịnh an ổn, thù thắng hơn hẳn cảnh giới thiền định có Giác, Quán của Sơ thiền, nên gọi là Thắng.
Do định hỷ, lạc của Nhị thiền thanh tịnh vi diệu, nên gọi là Diệu.
Sau khi chứng được Nhị thiền, tâm lìa khỏi chướng ngại Giác, Quán, nên gọi là Xuất.
Lại nữa, sau khi hành giả biết Sơ thiền làm chướng ngại Nhị thiền, hành giả muốn xa lìa chướng này, cần phải y theo ba thứ phương tiện:
1/ Đối với những chướng ngại không chấp nhận cũng không dính mắc, nên được xa lìa.
2/ Quở trách những chướng ngại nên được xa lìa.
3/ Dùng phương pháp quán chiếu để phân tích chướng ngại này, nên được xa lìa.
Ví như người ở thế gian, cần người giúp việc, sau một thời gian công tác chung với nhau, thấy những lỗi lầm của họ, trong lòng muốn đuổi người này đi, cần có ba phương pháp sau:
- Người trí tuệ linh lợi, tuy không thể hiện cho họ thấy sắc mặt, họ vẫn tự động bỏ đi.
- Nếu họ không đi, chỉ cần luôn khiển trách, họ tự ra đi.
- Nếu hai pháp trên, họ cũng chưa ra đi, phải dùng gậy xua đuổi họ đi.
Hành giả thâm hiểu ba pháp này, có thể xa lìa lỗi Giác và Quán của Sơ thiền.
2. Chứng Trung gian thiền
Thâm tâm hành giả quở trách giác quán của Sơ thiền, sau khi giác quán và năm chi cùng với tâm vắng lặng đều diệt, liền xa lìa Sơ thiền. Khi Nhị thiền chưa khai phát, khoảng trung gian cũng có định, nên được gọi là Trung gian thiền, nhưng định này không được lâu bền, vì sao? Do không có sự trợ lực của các Công đức chi lâm, nên định này rất vi tế, giống như không có vậy.
Nhiều vị thiền sư nói định này chuyển sang tâm tịch lặng, tức là chuyển thành tâm tĩnh lặng của Sơ thiền.
Trong Thích Luận nói: “Định này gọi là Quán tương ưng”, nghĩa là Trung gian thiền lấy Lục hành quán làm bản thể, do trụ trong định, nếu hành giả xa lìa Lục quán hạnh thì tâm phát sinh ân hận, lo sầu, nếu tâm sầu hận phát sinh thì Nhị thiền vĩnh viễn không phát, thậm chí tâm tĩnh lặng cũng mất luôn, hoặc lại phát Sơ thiền, hoặc Sơ thiền cũng mất, đây là do hành giả không có phương pháp trì giữ vậy.
Khi hành giả chứng được Trung gian thiền, tức là mười phần đã được chín phần, rất dễ bị bỏ dở nửa chừng, cho nên phải khéo thận trọng.
Kinh điển có ghi: “Trung gian thiền có Giác có Quán tam-muội, vì năm chi công đức và tâm vắng lặng Sơ thiền đã diệt mất”. Hành giả nên an trụ nơi tâm tương ưng và lục hạnh để tu Nhị thiền. III- TƯỚNG CHỨNG ĐẮC NHỊ THIỀN
Chia làm sáu phần:
1. Tướng nhị thiền phát 4. Tướng sâu cạn
2. Ý nghĩa chi lâm 5. Tướng tiến thoái
3. Nhân quả thể dụng 6. Tướng công đức
1. Tướng Nhị thiền phát
Khi hành giả chứng Trung gian thiền, tâm không còn lo sầu hối hận, liền quyết tâm nỗ lực công phu, chuyên tinh tiến không dừng, nội tâm thấu đạt đến cảnh giới vắng lặng, trong sáng không tán loạn, đây gọi là định Vị đáo địa.
Trong luận có nói: “Hành giả được nhập vào một thứ tâm thức, đó là Tiền nhị thiền, phương tiện định phát”.
HỎI: Trong luận chỉ giải thích trước Sơ thiền có định Vị đáo địa, vì sao nay lại nói trước Nhị thiền cũng có định Vị đáo địa?
ĐÁP: Về lý thì giải thích chung cho nên chỉ nói một.
Nếu theo Luận A Tỳ Đàm của Xá Lợi Phất, luận về lý, thì định Vị đáo địa có bốn, Trung gian thiền cũng có bốn. Hiện nay y theo luận này nên nói có Vị đáo địa và Trung gian thiền vậy.
Hành giả an trụ trong định Vị đáo địa rất lâu mà không thoái mất, do chuyên tâm không dừng nghỉ, tâm được sáng suốt thanh tịnh, định tâm trong sáng cùng hỷ lạc đồng thời phát sinh. Ví như người từ trong nhà tối bước ra, thấy ánh sáng mặt trăng, mặt trời, cảnh giới tâm định này sáng suốt cũng như thế.
Khi chứng được Nhị thiền, nội tâm thanh tịnh, trong đó phát sinh mười thứ công đức quyến thuộc, như trường hợp của Sơ thiền, chỉ khác nhau ở chỗ, Nhị thiền phát xuất từ nơi nội tâm thanh tịnh.
Khi các chi hỷ lạc của Nhị thiền phát sinh, không phải từ ngoài vào, mà do hành giả nhất tâm tĩnh lặng mới phát sinh hỷ lạc, nên thanh tịnh mỹ diệu thù thắng hơn Sơ thiền.
Trong luận có ghi: “Do nội tâm thanh tịnh, nên định phát sinh hỷ lạc. Do chứng nhập Nhị thiền nên tâm sinh hỷ lạc”.
Thế nào là tâm thanh tịnh?
Nếu giải thích rộng, tức là đối với trần lao bên ngoài mà nói nội tâm thanh tịnh. Nếu luận gần là do đối với tâm ô nhiễm nên mới nói nội tâm thanh tịnh.
Vì sao?
Như trong Sơ thiền, khi phát sinh cảm xúc an lạc thì thân thể sáng suốt vắng lặng. Đồng thời tâm cũng được thanh tịnh. Xúc cùng thân thức tương ưng, gọi là Ngoại tịnh, do ngoại tịnh của Sơ thiền, nên nói tâm thức cùng Nhị thiền tương ưng, là nội tâm thanh tịnh, đồng thời thân cũng thanh tịnh, thanh tịnh ấy gọi là Ngoại tịnh. Nội tịnh tức là thanh tịnh từ trong nội tâm phát sinh, nên thân cũng được thanh tịnh, đây gọi là Nội tịnh.
Ở đây là luận về phần ô nhiễm ở trong mà nói là nội tâm thanh tịnh; vì trong Sơ thiền bị giác quán làm dao động nội tâm, nên nói Nội tâm ô nhiễm. Khi chứng được Nhị thiền, nội tâm không còn giác quán làm dao động, ô nhiễm, nên gọi là Nội tâm thanh tịnh.
HỎI: Sơ thiền là Ly sinh hỷ lạc, còn Nhị thiền là Định sinh hỷ lạc. Ý này thế nào?
ĐÁP: Sơ thiền đã xa lìa Dục giới, được định Sắc giới, nên gọi là Ly sinh. Nhị thiền không có ý nghĩa này nên gọi là Định sinh.
HỎI: Như vậy, Không xứ định cũng có thể gọi là Ly sinh chăng?
ĐÁP: Không đúng, vì Sơ thiền gọi là Ly sinh, nên không thể dùng danh từ trùng lập. Không xứ định tuy xa lìa Dục giới, nhưng khi định phát sinh, lại không có các Công đức chi lâm, nên không thể gọi là Ly sinh.
HỎI: Cảm giác hỷ, lạc của Sơ thiền và hỷ lạc của Nhị thiền có gì khác nhau?
ĐÁP: Cảm giác hỷ lạc của Sơ thiền phát sinh từ giác quán cùng với thân thức tương ưng. Nhưng hỷ lạc của Nhị thiền là do phát sinh từ nội tâm cùng với ý thức tương ưng, đây là chỗ khác nhau.
2. Ý nghĩa chi lâm
Đã có giải thích trong phần tổng luận và biệt luận ở chương trước.
Nhị thiền có bốn chi:
- Nội tịnh chi - Lạc chi
- Hỷ chi - Nhất tâm chi
- Nội tịnh chi: Sau khi tâm hành giả đã xa lìa giác quán, nương nơi nội tâm thanh tịnh, định tâm trong sáng không ô nhiễm, nên gọi là Nội tịnh chi.
- Hỷ chi: Khi định cùng Hỷ chi đồng thời khai phát, nội tâm hành giả tự nhiên phát sinh hoan hỷ và mười thứ công đức thiện pháp cũng khai phát, nên có niềm vui vô hạn, gọi là Hỷ chi.
- Lạc chi: Nội tâm hành giả cảm nhận niềm an lạc thư thái, nhẹ nhàng, điềm tĩnh rất mỹ diệu và khoan khoái, nên gọi là Lạc chi.
- Nhất tâm chi: Sau khi tâm khoái lạc dừng dứt, không duyên theo cái vui hỷ lạc, do nội tâm không còn duyên theo niệm tưởng ở ngoài, chỉ còn một tâm nhất như bất động, nên gọi là Nhất tâm chi.
HỎI: Trong Kinh Anh Lạc nói: Phần trước nhất tâm chi có thêm Ỷ chi?
ĐÁP: Ỷ chi tức là Nội tịnh chi, do phát sinh sau Hỷ chi và Lạc chi nên mới lập thêm danh từ khác mà thôi. Vì sao? Vì Ỷ chi còn có nghĩa là “Phóng túng”, phóng túng cũng có nghĩa là Mặc tình (nhậm vận) vì nội tâm không còn ô nhiễm nên mặc tình tự tại, không còn lo sợ âm thanh xúc não và giác quán trói buộc, nên gọi là Ỷ chi.
HỎI: Vì sao trong Kinh Đại Tập chỉ thành lập ba chi mà không có Nội tịnh chi?
ĐÁP: Do Kinh Đại Tập chỉ giải thích sơ lược, không phải là không nói. Nhị thiền cũng còn gọi là “Hỷ câu định”, tuy xa lìa giác quán mà vẫn có Hỷ chi thì nhất định sẽ có Nội tịnh định. Ý nghĩa thành lập các chi chung và riêng, cũng tương tự như Sơ thiền.
3. Nhân Quả, Thể Dụng
Như trong Kinh Anh Lạc nói: “Nhị thiền lấy bốn chi làm Nhân. Chi thứ năm là “Tâm tĩnh lặng” làm bản thể của thiền định, nếu luận về nhân, quả, thể, dụng thì giải thích xoay vần giống như của Sơ thiền vậy”.
4. Tướng sâu cạn
Cảnh giới sâu hay cạn của Nhị thiền cũng khai phát từ thấp lên cao giống như Sơ thiền, lý này không cần giải thích lại.
5. Tướng tiến thoái
Hiện tượng tiến và thoái cũng giải thích giống như Sơ thiền.
6. Tướng công đức
Gồm có hai phần: Xa lìa lỗi lầm và Chứng được tâm thiện. Trong Kinh Đại Tập ghi: “Nhị thiền cũng gọi là Ly, cũng gọi là Cụ, Ly là xa lìa ngũ cái, Cụ là đầy đủ bốn chi”.
Xa lìa lỗi lầm tức là xa lìa lỗi của giác và quán. Đầy đủ công đức tức là do nội tâm thanh tịnh và an lạc nên phát sinh đầy đủ các công đức như: tín tâm, cung kính, hổ thẹn, lục hạnh v.v… C. ĐỆ TAM THIỀN
Như bài kệ nói:
Nhiếp tâm định bậc nhất, Vắng lặng không thể thấy, Họa khổ muốn xa lìa
Như buông xả giác quán, Do ái nên sinh khổ
Hết vui sinh lo buồn
Lìa khổ thân an vui
Xả niệm và phương tiện.
Bài kệ tường thuật tướng chứng Tam thiền rất rõ ràng. Nay giải thích ý nghĩa Tam thiền chia làm ba phần:
I- Giải thích danh từ Tam thiền
II- Phương pháp tu tập Tam thiền
III- Tướng chứng chứng đắc Tam thiền I- GIẢI THÍCH DANH TỪ TAM THIỀN
Hành giả tiếp tục dụng tâm lần thứ ba, chứng được năm thứ công đức chi lâm và thiện tâm trong thiền định, nên gọi là Tam thiền.
Trong Luận Trì Địa có ghi: “Tam thiền cũng còn gọi là Lạc câu thiền”, do các công đức quyến thuộc cùng với cảm giác an lạc toàn thân đồng thời phát khởi, nhưng vì định này còn thuộc về Không giác, Không quán tam-muội và Thánh mặc nhiên định, cho nên chỉ nói chung, bởi vì Nhị thiền đã dùng danh từ này rồi, nên không giải thích lại. II- PHƯƠNG PHÁP TU TẬP TAM THIỀN
Phương pháp tu của Tam thiền như trong bài kệ trên “Nhiếp tâm định bậc nhất, vắng lặng không thể thấy, họa khổ muốn xa lìa, như buông xả giác quán, do ái nên sinh khổ, hết vui sinh lo buồn”.
Bài kệ này nói rõ trường hợp quở trách cảnh giới hoan hỷ của Nhị thiền, nếu hành giả muốn quán xét cái lỗi của Nhị thiền để chứng được Tam thiền, cần phải tu đầy đủ Lục hạnh quán. Hiện nay chỉ tóm lược về cái lỗi của Nhị thiền và phương pháp tu Lục hạnh quán.
Tuy cảnh giới Nhị thiền xuất phát từ nội tâm thanh tịnh, nhưng do quá vui mừng khiến tâm bị dao động nên sức an định không được lâu bền. Lỗi này như đã nói ở Sơ thiền, cho nên hành giả muốn an trụ tâm nơi chỗ an ổn. Ví như người chồng khi biết vợ mình chính là quỷ La-sát, liền bỏ người vợ đó mà tâm không có tham ái luyến tiếc. Do công đức nhất tâm buông xả liền được xa lìa tâm hỷ lạc và tâm mặc nhiên.
Phương pháp buông xả có ba thứ:
1/ Không chấp nhận tâm vui mừng.
2/ Quở trách những lỗi lầm.
3/ Dùng tâm quán chiếu, kiểm nghiệm.
Do hành giả không còn thọ nhận thì tâm vui mừng và tâm mặc nhiên tự diệt mất, trước khi chưa chứng Tam thiền cũng có phát Trung gian thiền, như nói ở phần trước, nhưng cảnh giới thiền định sâu hay cạn lại có sự sai khác, hành giả nên cẩn thận chớ sinh tâm lo sầu và hối hận, lỗi lầm này cũng như đã giải thích ở phần trước. III- TƯỚNG CHỨNG ĐẮC TAM THIỀN
Có sáu phần:
1. Tướng Tam thiền phát
2. Ý nghĩa chi lâm
3. Nhân quả
4. Sâu cạn
5. Tiến thoái
6. Công đức
1. Tướng Tam thiền phát
Do hành giả dụng công miên mật, nhất tâm tu tập thiền định nên nội tâm được tĩnh lặng, lúc này cảm giác an lạc của thiền định vẫn chưa khai phát, nhưng hành giả không tiếp tục nỗ lực dụng công, lúc này nội tâm trong lặng, đây là cảnh giới định Vị đáo địa của Tam thiền.
Khi tâm hành giả rỗng rang tợ như hư không, tâm định cùng Lạc chi đồng thời khai phát, nhưng chẳng phải ở trong cũng chẳng phải từ ngoài. Ngay trong lúc Lạc chi phát sinh cũng có đầy đủ công đức quyến thuộc như đã giải thích ở phần trước. Tâm hoan hỷ đã dứt chỉ còn cảm giác an lạc, thư thái nhẹ nhàng, xuất phát từ nội tâm, tâm an lạc này vô cùng mỹ diệu không thể dùng văn tự hoặc ví dụ miêu tả được.
Khi thiền định mới phát sinh an lạc, nhưng chưa trùm khắp thân thể, trong giai đoạn đó có xảy ra ba trường hợp:
- Do hoan hỷ của thiền định còn yếu, khiến tâm bị hôn trầm nên tác dụng trí tuệ rất ít.
- Do hoan hỷ của thiền định vi diệu, trí tuệ khai phát mạnh mẽ khiến tâm không an ổn.
- Do tâm định an lạc cùng với trí tuệ đồng thời khai phát, nên rất nhẹ nhàng và mỹ diệu, khiến hành giả sinh tâm tham đắm.
Cho nên kinh ghi: “Chỉ có bậc Thánh nhân mới buông xả được, những hạng khác rất khó xả bỏ”.
Khi sắp chứng được Tam thiền, nếu xảy ra ba trường hợp lỗi lầm này, thiền định sẽ không tăng trưởng và không được an lạc khắp cả toàn thân, cho nên hành giả phải khéo điều hòa thích hợp.
Phương pháp điều hòa có ba:
- Khi tâm bị hôn trầm nên dùng: niệm, tinh tấn, trí tuệ v.v… để sách tấn đối trị hôn trầm.
- Nếu tâm nghĩ tưởng dấy động nên dùng định tam-muội nhiếp phục.
- Nếu tâm tham đắm thiền định, nên quán tưởng có những tầng thiền định rất thù thắng vi diệu và an lạc hơn, để tự tỉnh ngộ khiến tâm không còn tham đắm.
Hành giả khéo tu ba phương pháp này, điều hòa định tâm, cảm giác an lạc sẽ được tăng trưởng khắp toàn thân. Trong kinh có ghi: “Tam thiền thọ hưởng khoái lạc toàn thân”.
HỎI: Nếu Tam thiền được pháp an lạc khắp toàn thân, mà thân thì có năm căn, vậy trong năm căn có khoái lạc chăng?
ĐÁP: Khi pháp lạc đã sung mãn khắp toàn thân thì tất cả các lỗ chân lông trên khắp toàn thân đều có cảm giác an lạc. Lúc này tuy năm căn không có năm trần ở ngoài để phát ra năm thức, vì pháp lạc này xuất phát từ nội tâm và sung mãn khắp năm căn, nên cả năm căn đều được khoái lạc. Do tâm không duyên theo năm trần, thì năm thức không phát khởi. Năm căn nương nơi thân, nếu khoái lạc trùm khắp toàn thân thì các căn cũng đều được khoái lạc. Cảm giác khoái lạc cùng với ý thức tương ưng, do ý thức trùm vốn khắp trong thân thể, cho nên cả trong lẫn ngoài đều có cảm thọ khoái lạc. Trong kinh ghi: “Tam thiền thọ hưởng khoái lạc khắp toàn thân”.
- Cảm giác an lạc của Sơ thiền là do ở ngoài phát sinh cùng với thân thức tương ưng, không phải cùng ý thức tương ưng, nên pháp lạc trong nội tâm không được sung mãn.
- Cảm giác an lạc của Nhị thiền, tuy xuất phát từ nội tâm, nhưng lại phát sinh hoan hỷ cùng Hỷ căn tương ưng mà lại không tương ưng với Lạc căn, vì khoái lạc nương nơi Hỷ căn mà Hỷ căn lại chưa được trùm khắp toàn thân huống gì là Lạc căn.
- Cảm giác an lạc của Tam thiền là do xuất phát từ nội tâm, lấy Lạc căn làm chủ, do nội tâm không bị Hỷ căn làm xao động, lại có công đức của Niệm tuệ, khiến pháp lạc tăng trưởng sung mãn cả trong lẫn ngoài thân. Đây là pháp lạc thù thắng nhất trong thế gian.
HỎI: Phật nói trong Tam thiền có hai thứ: Thọ lạc và Khoái lạc là ý gì?
ĐÁP: Đúng thật có hai thứ cảm giác Lạc này:
- Lạc của Khoái lạc: Nghĩa là khi cảnh giới an lạc của thiền định mới phát sinh, nhưng chưa được sung mãn khắp toàn thân.
- Lạc của Thọ lạc: Khi khoái lạc tăng trưởng có cảm thọ khắp toàn thân. Ví như dòng nước trong đá chảy tràn ra ngoài, đầy khắp các sông ngòi, ao hồ. Cảm thọ an lạc của Tam thiền cũng như thế.
2. Ý nghĩa chi lâm
Chia làm hai phần:
a) Giải thích ý nghĩa Chi
b) Nguyên nhân phát sinh trước sau bất đồng
a) Giải thích ý nghĩa Chi
Tam thiền gồm có năm chi công đức: xả, niệm, tuệ, lạc, nhất tâm.
Xả: Khi hành giả chứng được pháp lạc của Tam thiền, tuy xả bỏ tâm hoan hỷ của Nhị thiền mà không hối tiếc. Cũng có thể gọi là xả bỏ ba thứ bệnh: hôn trầm, tán loạn và tham đắm.
Niệm: Khi chứng được pháp lạc Tam thiền, hành giả nên dùng ba phương pháp: Quở trách, quán chiếu và kiểm nghiệm để bảo trì pháp định khiến cho khoái lạc được tăng trưởng.
Tuệ: Hành giả khéo vận dụng ba phương pháp để đối trị và xa lìa ba thứ bệnh trên.
Lạc: Khi hành giả chứng được khoái lạc thì khắp cả toàn thân đều được thọ hưởng.
Nhất tâm: Khi cảm giác khoái lạc đã diệt mất, chỉ còn nội tâm vắng lặng yên tĩnh, cảnh giới thiền định giống như Nhị thiền.
Năm chi này có bốn ý nghĩa:
1/ Có ba chi thuộc về phương tiện: tức là dùng Niệm, Xả và Tuệ để điều hòa, khiến pháp lạc của thiền định tăng trưởng nhanh chóng khắp toàn thân, nên gọi ba chi này là Phương tiện. Có hai chi thuộc về chứng đắc: tức là Lạc và Nhất tâm thuộc về chứng đắc, hai chi này đồng thời cùng phát khởi, đây là chỗ cốt yếu của Tam thiền.
2/ Bốn chi: Niệm, Tuệ, Lạc, Nhất tâm, đều thành lập trong Tam thiền. Xả chi do buông bỏ Nhị thiền mà thành lập ba chi: Tuệ, Niệm, Lạc. Nhất tâm chi thành lập trong Tam thiền, Xả chi tức là buông bỏ cảnh giới hoan hỷ thô cạn, do không hối tiếc mà được thành tựu.
3/ Cả năm chi này đều là phương tiện. Còn ba chi Xả, Niệm, Tuệ như đã giải thích ở trên.
HỎI: Lạc và Nhất tâm cũng được gọi là Phương tiện hay không?
ĐÁP: Nhân tu thiền định, pháp lạc mới được tăng trưởng đưa đến cảm giác khoái lạc sau này, Nhất tâm chi cũng như thế, vì đối với bản thể của Mặc nhiên định, cũng có thể gọi Nhất tâm chi là phương tiện. Cho nên cả năm Chi đều được gọi là Phương tiện.
4/ Tất cả năm Chi cũng gọi là Chứng chi, vì khi hành giả chứng được pháp lạc của thiền định, tự nhiên xả bỏ tâm hoan hỷ của Nhị thiền. Do tham ái đắm chấp khoái lạc thiền định, như mẹ nhớ con, không cần ai khuyên bảo, vẫn có đầy đủ niệm tưởng. Do trí tuệ các chi tự nhiên phát sinh công dụng điều hòa để thọ hưởng, cho nên năm chi này thuộc về Chứng đắc.
HỎI: Như phần trước có giải thích cả năm chi đều là phương tiện, nhưng ở đây lại nói thuộc về chứng đắc, ý này chẳng phải là có mâu thuẫn sao?
ĐÁP: Những giải thích đó đều có hàm ý này, nếu nghiên cứu kỹ sẽ tự biết.
b) Nguyên nhân phát sinh trước sau bất đồng
Trong các kinh luận, sắp đặt vị trí năm chi theo thứ lớp phát sinh đều có khác nhau.
Như thuyết của:
Thành Thật Luận: Xả, Niệm, Tuệ, Lạc, Nhất tâm. A Tỳ Đàm Luận: Tuệ, Niệm, Xả, Nhất tâm. Kinh Đại Tập: Niệm, Xả, Tuệ, An, Định.
Kinh Anh Lạc: Lạc, Hộ, Niệm, Tuệ, Nhất tâm. Nếu theo Luận Ma Ha Diễn, không nhất định phải sắp đặt theo thứ lớp, vì có khi vị trí giống như thuyết của Thành Thật Luận, cũng có khi như Kinh Anh Lạc.
HỎI: Vì sao chỉ có năm chi của Tam thiền là có thứ lớp bất đồng, còn các thiền khác lại không có?
ĐÁP: Vì Sơ thiền chỉ có một thứ Lạc, còn Tam thiền có hai thứ Lạc, do hai thứ cảm thọ lạc này trước và sau chẳng đồng, sự qua lại cũng không cố định. Cho nên các kinh luận sắp xếp vị trí thứ lớp của các chi khác nhau, tuy nhiên trong đó đều có hàm ý, cần phải hiểu để thực hành.
3. Thể, dụng
Trong Kinh Anh Lạc ghi: “Công đức năm chi là Dụng, tâm tĩnh lặng là Thể”.
4. Sâu cạn:
5. Tiến thoái: (như phần trước đã giải thích)
6. Công đức:
Do Tam thiền đã xa lìa lỗi lầm nên được hai thứ: công đức và thiện tâm. Như trong Kinh Đại Tập ghi: “Ly là xa lìa ngũ cái. Cụ là đầy đủ năm chi công đức”.
Nếu luận về tướng riêng biệt, chỉ có Tam thiền mới được công đức xa lìa cái lỗi tâm hỷ của Nhị thiền, các trường hợp khác cũng tương tự như đã giải thích ở phần trước. D. ĐỆ TỨ THIỀN
Như bài kệ trong kinh:
- Thánh nhân được liền xả
Người khác rất khó xả Nếu biết họa khoái lạc Thấy an nhiên bất động
- Vui buồn đã trừ xong
Khổ lạc cũng dứt diệt
Xả niệm tâm thanh tịnh
Thâm nhập đệ Tứ thiền
- Khoái lạc ở Tam thiền Thường dao động nên xả Sơ, Nhị thiền đều đoạn Khổ buồn trong Dục giới
- Đức Thế tôn có dạy Cảnh giới đệ Tứ thiền Trước tiên đoạn sầu khổ Sơ thiền và Nhị thiền
Kế dứt trừ khổ vui
Khoái lạc đệ Tam thiền.
Bốn hạnh trong bài kệ trên đã giải thích đầy đủ cảnh giới tu chứng đệ Tứ thiền.
Giải thích đệ Tứ thiền gồm có ba phần:
I- Giải thích danh từ đệ Tứ thiền
II- Phương pháp tu tập đệ Tứ thiền
III- Tướng chứng đắc đệ Tứ thiền I- GIẢI THÍCH DANH TỪ ĐỆ TỨ THIỀN
Thiền gọi là chi lâm, định đệ Tứ thiền là do công đức bốn chi mà thành, từ trong nội tâm thứ lớp chứng được, nên gọi là Tứ thiền.
Nhưng đệ Tứ thiền thuộc về không giác không quán tam-muội và Thánh mặc nhiên, cũng còn gọi là Bất động định.
Trong Kinh Trì Địa ghi: “Tứ thiền gọi là Xả câu thiền”, vì khi định này phát, bản thể của nó vốn không có cảm giác khổ hay lạc mà đồng thời cùng với Xả thọ vi diệu phát sinh. Do định này cùng Xả căn tương ưng, nên gọi là Câu thiền. II- PHƯƠNG PHÁP TU TẬP TỨ THIỀN
Như trong bài kệ thứ nhất diễn tả về cảnh giới khoái lạc Tam thiền, bậc Thánh xả bỏ được, người khác bỏ rất khó khăn. Nếu hành giả biết khoái lạc ấy là tai họa, thấy định bất động Tứ thiền thật an ổn nên mới thực hành. Bài kệ này Phật giải thích phương tiện tu tập Tứ thiền rất đầy đủ, vì cớ sao? Vì hành giả muốn chứng được Tứ thiền phải thấy rõ họa hoạn Tam thiền.
Thấy họa Tam thiền như thế nào?
Khi hành giả bắt đầu mong muốn chứng được cảnh giới khoái lạc của Tam thiền, do nhất tâm nỗ lực thật gian khổ, nên sau khi chứng được liền phát sinh tâm tham đắm, giữ gìn bảo vệ cũng thật gian khổ, nếu cảnh giới thiền định khoái lạc này hoại mất hành giả sẽ sinh tâm sầu khổ vô cùng. Nên kinh có ghi: “Khoái lạc trong Tam thiền, luôn luôn biến đổi vô thường nên khổ”.
Ngoài ra, cảnh giới thiền định khoái lạc của Tam thiền gây chướng ngăn che đậy, khiến tâm không được thanh tịnh sáng suốt, hành giả biết cảnh giới khoái lạc của Tam thiền có họa hoạn rất khổ não, nên nội tâm nhàm chán muốn xa lìa, mong cầu chứng được định bất động (Tứ thiền).
Khi hành giả đang trụ Trung gian thiền, tức là khoảng giữa đệ Tam thiền và đệ Tứ thiền, tu pháp Lục hạnh quán như đã giới thiệu ở chương trước. Đồng thời dùng ba phương pháp: vô chấp, quở trách và quán chiếu phân tích để loại trừ Tam thiền.
Sau khi thực hành ba pháp trên, cảnh giới Tam thiền tuy dứt diệt nhưng vẫn chưa chứng được Tứ thiền, lúc này cũng có Trung gian thiền khai phát như đã nói phần trước. Chỉ có cảm giác vui buồn là bất đồng và họa hoạn cũng như nói ở trên. III- TƯỚNG CHỨNG ĐẮC ĐỆ TỨ THIỀN
Như trong ba bài kệ nói ở trên, nay chia làm năm phần để giải thích:
1. Tướng chứng đệ Tứ thiền
2. Ý nghĩa Chi lâm
3. Thể, dụng
4. Tiến, thoái
5. Công đức
1. Tướng chứng đệ Tứ thiền
Hành giả nhập định từ giai đoạn giữa Tam thiền tiến đến Tứ thiền, nhất tâm miên mật không dừng, liền nhập được định Vị đáo địa, tâm không tán động, đây là Định phương tiện của đệ Tứ thiền. Sau đó tâm hành giả hoát nhiên khai phát, định tâm an ổn, hơi thở ra vào dứt bặt. Khi định này phát sinh, xả niệm cũng đồng thời phát sinh. Nội tâm rỗng rang sáng suốt, vắng lặng không còn tướng khổ vui, các công đức thiện pháp quyến thuộc trong định phát sinh cũng như giải thích ở phần trước, chỉ khác là không có cảnh giới hỷ, lạc làm dao động như các thiền trước.
Lúc này tâm hành giả trong sáng như gương, thanh tịnh không chút dao động, như nước hồ trong lặng không gợn sóng. Do chánh niệm kiên cố, không còn loạn tưởng, nội tâm tựa như hư không, đây gọi là thiền định chân thật thế gian, không còn các cấu nhiễm.
Hành giả an trụ trong định Tứ thiền, tâm không nương gá pháp thiện, không trụ pháp ác, không nơi nương tựa, không hình không sắc, không tướng mạo mà thành tựu sắc pháp thanh tịnh ở nội tâm.
Làm sao biết được? Nếu không có sắc thanh tịnh căn bản, thì khi đối với các duyên, trong định không thể phát sinh các sắc tướng như: Tứ vô lượng tâm, Bát thắng xứ, Sắc biến hóa nhất thiết xứ v.v… các pháp này đều nương nơi đệ Tứ thiền.
Nếu không thấy sắc tướng mà cho là không có sắc, như định Hư không xứ, do các sắc như Ngũ căn, Ngũ trần, Vô biểu sắc v.v… thảy đều diệt mất, thì sắc pháp không thể hiển hiện. Nhưng Tứ thiền thì khác, tuy Tứ thiền không thấy được sắc pháp, mà các sắc pháp đều hiển hiện tự tại, pháp định vẫn không bị tổn giảm, cho nên Tứ thiền còn gọi là Chân sắc định. Thí dụ như, thể tính sáng suốt của gương là Sắc thanh tịnh, nên các hình tướng nào cũng đều hiển hiện trong gương.
Nếu Tứ thiền không có Sắc thanh tịnh làm căn bản, thì trong hư không chẳng thể hiển hiện các sắc tướng.
Lại nữa, do trí tuệ Tứ thiền cùng với định tương ưng, nhất tâm bất động nên tâm luôn luôn thanh tịnh. Vì thế Tứ thiền cũng còn gọi là Định trí tuệ bất động. Ở trong Tứ thiền nếu hành giả muốn chuyển duyên tu học tất cả sự việc, có thể tuỳ ý thành tựu. Những năng lực thần thông biến hóa, thuyết pháp biện tài vô ngại, cũng đều xuất phát từ định Tứ thiền. Cho nên Kinh ghi: “Phật lấy Tứ thiền làm căn bản”.
2. Ý nghĩa chi lâm
Tứ thiền gồm có bốn chi:
a) Không khổ, không lạc
b) Xả chi
c) Niệm thanh tịnh d) Nhất tâm
a) Không khổ, không lạc: Khi đệ Tứ thiền
khai phát, Xả thọ cũng đồng thời khai phát, do tâm Xả thọ không cùng với Khổ, Lạc tương ưng, nên nói không khổ, không lạc.
b) Xả chi: Khi nội tâm an định không khổ, không lạc, là do hành giả buông xả pháp định khoái lạc của Tam thiền, không sinh tâm hối hận, luyến tiếc. Vì chân định mới phát chưa được thành tựu, nếu tâm tiến thêm tầng định thù thắng hơn, thì tâm liền bị chuyển động duyên theo niệm, đây không thể gọi là Định bất động. Vì thế khi cảnh giới Tứ thiền khai phát, nội tâm không còn dấy khởi, tâm niệm bám chấp tự nhiên buông sạch, nên gọi là Xả.
c) Niệm thanh tịnh: do thiền định vắng lặng cùng trí tuệ sáng suốt chiếu soi, nên gọi là Niệm thanh tịnh.
d) Nhất tâm: tâm định vắng lặng, tuy đối diện với các duyên trần, tâm không động niệm, đây gọi là Nhất tâm.
Nếu giải thích ý nghĩa của năm Chi theo thứ lớp, thì chỉ cần giải thích một Chi đầu tiên, tức là đã đầy đủ bao gồm cả bốn chi.
HỎI: Trong Kinh Đại Tập nói, cảnh giới không khổ, không lạc là thuộc về Chi thứ ba. Vì sao ở đây lại nói là Chi thứ nhất?
ĐÁP: Sắp xếp thứ tự dù trước hay sau đều có lý do của nó, ở đây căn cứ vào thời gian thiền định khai phát, nên sắp xếp nó đứng hàng thứ nhất. Kinh Đại Tập căn cứ vào giai đoạn thành tựu, nên sắp xếp vào hàng thứ ba, cũng như sắp xếp Lạc chi của Tam thiền, vì thế không cố định thứ tự trước sau.
3. Thể, dụng
Trong Kinh Anh Lạc ghi: “Công đức bốn Chi của Tứ thiền là Dụng, tâm mặc nhiên là Thể”.
4. Sâu cạn
5. Tiến thoái
(Hai tướng Sâu cạn và Tiến thoái này cũng giải thích giống như ở trước)
6. Công đức
Đệ Tứ thiền cũng có đầy đủ hai thứ công đức Cụ và Ly, công đức hai thứ tâm thiện này như trong Kinh Đại Tập ghi: “Ly là xa lìa ngũ cái. Cụ là đủ cả bốn chi”. Nhưng đặc biệt chỉ riêng Tứ thiền mới có thể xa lìa họa hoạn vui buồn, khổ lạc và các tâm thiện: kính, tín, tàm, quý, thiện pháp. Tất cả công đức thiện căn sâu dày này đều xuất phát từ định bất động của Tứ thiền, cho nên thù thắng hơn các thiền trước.
HỎI: Hiện nay tu Bồ-tát đạo, thì phải giảng về Không định và các pháp thật tướng cao thâm mới phải. Vì sao lại nói về Tứ thiền của phàm phu là pháp hư dối, là sinh tử hữu lậu thế gian?
ĐÁP: Không phải vậy, như trong Thích Luận của ngài Long Thọ có lập giả thiết tự hỏi rằng: “Ý nghĩa trong Bát-nhã ba-la-mật, chỉ nói tướng các pháp là Không, nhưng Bồ-tát từ pháp Không làm sao khởi tu thiền định?”.
Ngài tự đáp: “Bồ-tát biết các pháp: Ngũ dục, Ngũ cái v.v… đều từ nhân duyên sinh khởi, không có tự tính là rỗng không, nên buông xả Ngũ dục và Ngũ cái rất dễ dàng. Chúng sinh do điên đảo, đắm chấp Ngũ dục, chìm đắm trong dục lạc xấu xa mà bỏ quên cảnh giới an lạc mỹ diệu của thiền định. Bồ-tát vì thương xót chúng sinh, nên khởi tâm từ bi khuyên bảo chúng sinh tu tập thiền định, nhất tâm chuyên niệm pháp môn thiền định, để xa lìa Ngũ dục, đoạn trừ Ngũ cái, thâm nhập hỷ lạc Sơ thiền.
Kế tiếp là dứt trừ giác quán Sơ thiền, nhiếp niệm thâm nhập nội tâm thanh tịnh. Chứng được niềm vui vi diệu Nhị thiền.
Do vui mừng hỷ lạc của Nhị thiền khiến tâm xao động, nên xả bỏ Nhị thiền, chứng nhập Tam thiền.
Kế tiếp là xa lìa tất cả cảnh giới buồn vui, khổ lạc, hơi thở ra vào tự nhiên dứt bặt, dùng tâm thanh tịnh vi diệu trang nghiêm thiền định, tiến nhập Tứ thiền. Tuy Bồ-tát biết các pháp là Không, là Vô tướng, nhưng vì chúng sinh chẳng hiểu biết, nên Bồ-tát dùng hình tướng thiền định để giáo hóa chúng sinh”.
Nếu không có các pháp thì không thể gọi là Không, đồng thời cũng chẳng phải không xả bỏ Ngũ dục mà được chứng thiền định.
Vì không có tướng xả, tướng chứng đắc, cho nên nói tướng Không của các pháp, không phải là khó nói. Nếu các pháp đều Không thì làm sao chứng được thiền định.
Lại nữa, nếu Bồ-tát tu thiền định, không còn tâm chấp tướng, không tham ái thiền định. Nên
lúc tu hành thiền định, cũng giống như người uống thuốc, chủ yếu là để trị bệnh, không phải vì tham đắm mùi vị mà tham dùng thuốc vậy. Như Bồ-tát tu thiền định cốt yếu là để giới luật thanh tịnh và thành tựu trí tuệ.
Bồ-tát thực hành trong mỗi mỗi tầng thiền, đều tu hạnh quán Không, hạnh đại từ bi, đối với thiền định không nương gá cũng không dừng nghỉ, do Ngũ dục thô thiển thấp kém, hư dối và điên đảo, cho nên mới dùng pháp Không vi tế nhiệm mầu của thiền định để đối trị Ngũ dục, ví dụ như “dùng độc để trị độc vậy”.
Trong Thích Luận có ghi: “Thí dụ như vị quốc vương thấy con mình từ bờ cao rơi xuống, vì sợ con mình bị mất mạng, nên dùng các đồ vật mềm mại để hứng lấy, chủ yếu là muốn con mình không bị tổn thương thân thể vậy”. Bồ-tát cũng như thế, vì thấy chúng sinh xa lìa trí tuệ Bát-nhã, bị điên đảo đọa lạc, mới chỉ dạy chúng sinh về pháp Không của Tứ thiền để tiếp độ họ, khiến họ không bị tổn thất Pháp thân, Tuệ mạng, cho nên hiện nay tuy nói về hạnh Bồ-tát đạo mà lại giải thích Tứ thiền, đối với nghĩa này không có lỗi vậy. Chú thích chương 7:
(1) Đề-bà: Bồ-tát Ca-na Đề-bà (Kanadeva). Cuối thế kỷ thứ sáu sau khi Phật nhập Niết-bàn. Ngài dòng Tỳ Xá Ly ở Nam Ấn.
Thuở nhỏ Ngài bẩm tính thông minh, biện tài vô ngại. Ban sơ Ngài học phong tục trong nước, ưa làm việc phước thiện. Khi Tổ Long Thọ đến nước này, Ngài tìm đến yết kiến. Tổ Long Thọ muốn thử Ngài, sai đồ đệ múc một thau nước đầy để ở trước lối vào. Ngài đi ngang qua lấy cây kim bỏ vào, rồi thẳng đến yết kiến Tổ. Thầy trò gặp nhau vui vẻ lãnh hội, khi Tổ Long Thọ thuyết pháp hiện tướng vầng trăng tròn, Ngài thầm ngộ yếu chỉ.
Ngài theo Tổ xuất gia và được truyền tâm ấn. Sau khi đắc pháp, ngài du hóa khắp nơi, lần lượt sang nước Ca Tỳ La để giáo hóa. Ngài là Bồ-tát thứ ba làm nổi bật giáo lý Đại thừa.
Những tác phẩm Ngài trước thuật như: Bách Luận, Bách Tự Luận. Đại Trượng Phu Luận. Đề Bà Bồ- tát Phá Lăng Già kinh trung ngoại đạo Tiểu thừa Tứ tông luận. Đề Bà Bồ-tát Thích Lăng Già kinh trung ngoại đạo Tiểu thừa Niết-bàn Luận… Những bộ luận trên nổi tiếng nhất là Bách Luận và Đại Trượng Phu Luận.
(2) Đại sĩ Tứ y: Đại sĩ là từ tôn xưng Bồ-tát, là bậc đại hạnh, đại nguyện cứu độ chúng sinh.
Đại sĩ tứ y là bốn hạng người được chúng sinh tin cậy và xứng đáng làm y chỉ đó là: 1/ Xuất thế phàm phu (tam hiền, người còn phiền não); 2/ Bậc Tu-đà- hoàn. Tư-đà-hoàn; 3/ A-na-hàm; 4/ A-la-hán.
(3) Tứ đại sắc pháp: 4 yếu tố: đất, nước, gió, lửa hòa hợp tạo thành (vật chất) sắc pháp.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.145.78.117 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.