Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác.
Kinh Pháp cú
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay.
Kinh Bốn mươi hai chương
Nhà lợp không kín ắt bị mưa dột. Tâm không thường tu tập ắt bị tham dục xâm chiếm.Kinh Pháp cú (Kệ số 13)
Không làm các việc ác, thành tựu các hạnh lành, giữ tâm ý trong sạch, chính lời chư Phật dạy.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Cỏ làm hại ruộng vườn, sân làm hại người đời. Bố thí người ly sân, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 357)
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại;
giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to!
(Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
TỰA THIỀN BA-LA-MẬT
Thiền ba-la-mật, trong mục lục Chỉ Quán Phụ Hành Truyền Hoằng Quyết 46, tr. 141, sh. 1912 của ngài (Trạm Nhiên), gọi là Thứ Đệ Thiền Môn, (Tiệm Thứ Chỉ Quán) ghi rằng: Do Đại sư Trí Khải giảng tại chùa Ngõa Quan Tự và Đại Trang Nghiêm Tự, đệ tử Pháp Thận ghi lại, sau được Thiền sư Quán Đảnh ở Chương An chỉnh lý thành 10 quyển, chia làm 10 chương:
1. ĐẠI Ý
2. THÍCH DANH
3. MINH MÔN
4. THUYÊN THỨ
5. PHÁP, TÂM
6. PHƯƠNG TIỆN
7. TU CHỨNG
8. QUẢ BÁO
9. KHỞI GIÁO
10. QUY THÚ (3 chương cuối đã được lược bớt)
Trong phần giải thích tu chứng chia ra bốn
loại thiền, nhưng chỉ giảng đến chương 7, nói về
tu chứng. Ba chương cuối được lược bớt ở trong phần tu chứng lại chia 4 loại thiền: 1. Thế gian; 2. Cũng thế gian cũng xuất thế gian; 3. Xuất thế gian;
4. Chẳng phải thế gian chẳng phải xuất thế gian.
Trong đó có hai phần: Đối trị vô lậu và Duyên lý vô lậu. Đối trị vô lậu lại có 9 loại thiền: Cửu tưởng, Bát niệm, Thập tưởng, Bát bối xả, Bát thắng xứ, Nhất thiết xứ, Cửu thứ đệ định, Phấn tấn, Siêu việt. Những cảnh giới tu chứng không thể diễn tả đầy đủ. Truyện kể rằng: Đại sư từng nói: “Nếu giảng thứ lớp về thiền định, cả năm chỉ nói hết một thiên, nếu chú giải phải tới 50 quyển”. Nay khắc lại để truyền bá rộng rãi, mong học giả hiểu rõ gốc ngọn mà không bị sai lạc vậy. NGUYÊN VĂN
Sách này giải thích thứ lớp pháp môn Thiền ba-la-mật chia thành mười chương Chương 1: Tu Thiền ba-la-mật đại ý Chương 2: Thích Thiền ba-la-mật danh Chương 3: Minh Thiền ba-la-mật môn
Chương 4: Biện Thiền ba-la-mật thuyên thứ Chương 5: Giảng Thiền ba-la-mật pháp, và tâm Chương 6: Phân biệt Thiền ba-la-mật tiền
phương tiện
Chương 7: Thích Thiền ba-la-mật tu chứng Chương 8: Hiển thị Thiền ba-la-mật quả báo Chương 9: Tùng Thiền ba-la-mật khởi giáo Chương 10: Kết hội Thiền ba-la-mật quy thú Dùng 10 chương này điều chỉnh giảng giải
Thiền ba-la-mật trên văn tự, đây là phương pháp
giáo hóa từ xưa nay của chư Phật. Về nghĩa lý thì thấu suốt, hiển bày kho tàng bí mật Như Lai và pháp giới vi diệu viên mãn, hoặc giáo lý, hạnh chứng, hoặc sự tướng hay lý thể, từ phàm phu tu thẳng đến địa vị Phật, gồm có đủ Nhân tu, Quả chứng đều bao hàm trong đó.
Nếu người tu hành có thể thấu đạt, thâm nhập ý thú của thiền, thì tự nhiên hiểu rõ tất cả Phật Pháp, chẳng cần chạy đông chạy tây nương nhờ vào chỗ khác để tìm cầu. Cho nên Kinh Ma Ha Diễn ghi: “Ví như kéo chéo áo, động cả toàn thân”.
Chương 1: Nội dung giảng giải ĐẠI Ý VỀ PHƯƠNG PHÁP HÀNH THIỀN BA-LA-MẬT, là nói về Bồ-tát phát tâm tu thiền định để cầu đạo Bồ-đề, mà thiền định chính là phương pháp vi diệu, thanh tịnh để chứng đạt, do đó cần phải biết thật giả và bí quyết của thiền định. Nếu muốn đầy đủ tất cả pháp tạng của chư Phật, chỉ có phương pháp thiền định là tốt nhất. Giống như đến được chỗ châu báu vàng ngọc, thì các của báu đều có thể lấy được. Cho nên cần phát tâm tu tập thiền định.
Chương 2: Tuy nhiên khi đã phát tâm tu tập thiền định cần phải biết về danh tự các loại thiền định, sau đó mới lý giải ý nghĩa của mỗi môn thiền định. Nên chương này GIẢI THÍCH VỀ DANH TỰ THIỀN.
Chương 3: Từ nơi danh tự thiền định mà tìm cầu thâm nhập lý thiền thì chẳng cửa nào mà không thông suốt. Nên chương này GIẢI THÍCH VỀ THIỀN MÔN.
Chương 4: Thiền định rất vi tế sâu xa, không có biện pháp tức thời mà thành tựu, cần phải từ cạn đến sâu, nương theo thứ lớp mà tu. Nên chương này GIẢI THÍCH VỀ THỨ LỚP CỦA THIỀN ĐỊNH.
Chương 5: Nếu muốn nhập thiền định từ thấp đến cao, từ cạn đến sâu phải hiểu biết cảnh giới và trí tuệ trong thiền định. Do đó chương này GIẢI THÍCH VỀ PHÁP VÀ TÂM.
Chương 6: Sau khi phân biệt hiểu rõ Pháp và Tâm, trong lúc tu tập thiền định, cần phải có những phương tiện thiện xảo. Nên chương này NÓI RO CÁC PHÁP PHƯƠNG TIỆN THIỆN XẢO.
Chương 7: Y theo pháp thiện xảo để tu tập thiền định thì chắc chắn sẽ có chỗ chứng đắc. Nên chương này GIẢI THÍCH VỀ SỰ TU CHỨNG CỦA CÁC THIỀN ĐỊNH.
Chương 8: Nếu tu tập thiền định được thích ứng trong nội tâm thì có Nhân, tức Quả tự đến. Cho nên chương này GIẢI THÍCH VỀ QUẢ BÁO CỦA THIỀN ĐỊNH.
Chương 9: Từ tu Nhân đến chứng Quả, tức là tự mình đã tu hành viên mãn rồi, cho nên công đức lợi ích chúng sinh cũng đuợc đầy đủ viên mãn. Nên chương này GIẢI THÍCH VỀ GIÁO MÔN.
Chương 10: Lý pháp và giáo tướng đã viên mãn đầy đủ, vì thế mà giáo tướng đồng quy về chỉ một đạo thể chân thật, bình đẳng. Nên chương này GIẢI THÍCH CHỖ QUY THÚ.
Nghĩa lý của mười chương này lớp lớp liên quan lẫn nhau. Nếu đem toàn bộ những chương giải thích về Thiền ba-la-mật, có thể tổng nhiếp các pháp môn tu hành, nếu hành giả nghiên cứu đoạn văn dưới đây tự nhiên có thể lý giải được.
Kinh Đại Phẩm Bát Nhã nói: “Bồ-tát từ khi mới phát tâm tu đến nay, an trụ trong thiền định ba-la-mật, tu hành đầy đủ tất cả các Phật pháp, đến lúc ngồi đạo tràng chứng ngộ thành tựu Nhất thiết trí, là trí tuệ của Phật. Sau đó khởi thiền định vận hành bánh xe pháp hóa độ chúng sinh”. Đây gọi là Bồ-tát tu hành thứ lớp, học tập thứ lớp và thành đạo thứ lớp vậy. Chương 1
ĐẠI Ý VỀ PHƯƠNG PHÁP HÀNH THIỀN BA-LA-MẬT
(Nói về đại ý toàn sách, luận sơ lược về tâm đại bi, đồng thời trình bày rõ về Tứ hoằng thệ nguyện của Bồ-tát)
Nay giải thích rõ Bồ-tát tu tập Thiền ba-la- mật. Được chia làm hai phần:
A. Dùng nguyên nhân không chính đáng tu tập thiền định
B. Người hành hạnh Bồ-tát tu tập thiền định A. DÙNG NGUYÊN NHÂN KHÔNG CHÍNH ĐÁNG TU TẬP THIỀN ĐỊNH
Có mười hạng người phát tâm tu thiền định không giống nhau, kết quả bị rơi vào những hành vi tư tưởng thiên lệch, sai lầm, nên không thể nhập pháp môn Thiền ba-la-mật.
Mười hạng người đó là:
1. Vì lợi ích bồi dưỡng thân mạng của mình mà phát tâm tu thiền. Những người này phần nhiều thuộc về tâm Địa ngục.
2. Khởi tâm hư dối tà kiến, vì tham danh tiếng, khen ngợi mà phát tâm tu thiền. Những người này phần nhiều thuộc về tâm Quỷ thần.
3. Vì muốn ủng hộ bà con quyến thuộc của mình mà phát tâm tu thiền. Những người này phần nhiều thuộc về tâm Súc sanh.
4. Vì ganh tỵ muốn hơn người khác mà phát tâm tu thiền. Những người này phần nhiều thuộc về tâm A-tu-la(1).
5. Vì sợ đầu thai vào đường ác chịu quả báo đau khổ và muốn dứt hết những nghiệp lực bất thiện mà phát tâm tu thiền. Những người này phần nhiều phát tâm tái sanh làm người.
6. Vì muốn bồi dưỡng tâm thiện của mình và mong cầu được an lạc mà phát tâm tu thiền. Những người này phần nhiều phát tâm sinh về sáu tầng trời cõi Dục(2).
7. Vì muốn có được thế lực và thần thông tự tại mà phát tâm tu thiền. Những người này phần nhiều thuộc về tâm La-sát(3).
8. Vì muốn được thông minh lanh lợi, phản ứng nhạy bén mà phát tâm tu thiền. Đây thuộc về tâm của Ngoại đạo(4).
9. Vì muốn được sinh lên cõi trời Phạm thiên mà phát tâm tu thiền. Đây thuộc về cõi trời Sắc và Vô sắc(5).
10. Vì muốn thoát khỏi thống khổ sinh, lão, bệnh, tử, mong chóng chứng Niết-bàn mà phát tâm tu thiền. Đây thuộc về tâm của hàng Nhị thừa.
Mười hạng người tu tập thiền định này, tuy họ phát tâm thiện hoặc ác có khác nhau, cảnh giới giải thoát hay trói buộc cũng khác. Chỉ vì họ không có tâm đại bi và mục đích phát tâm không chính đáng, kết quả đọa lạc vào nhị biên, (Đoạn kiến và Thường kiến(6) chẳng vào Trung đạo(7)). Nếu dùng tâm này tu thiền định, cuối cùng cũng không thể thấu hiểu và thích ứng với Thiền ba-la-mật. B. NGƯỜI HÀNH HẠNH BỒ TÁT TU TẬP THIỀN ĐỊNH
Có hai ý: I- Vì sao gọi là Bồ-tát phát tâm
II- Vì sao Bồ-tát cần phải tu thiền? I- VÌ SAO GỌI LÀ BỒ TÁT PHÁT TÂM ?
Bồ-tát phát tâm nghĩa là tâm Bồ-đề. Tức là khi Bồ-tát quán trung đạo và quán thật tướng của các pháp, do thương xót tất cả chúng sinh mà phát tâm đại bi, từ đó phát Tứ Hoằng Thệ Nguyện, tức là bốn điều nguyện rộng lớn:
1. Người chưa được độ thoát, ta phải độ thoát, cũng gọi là Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ.
2. Người chưa hiểu rõ Phật pháp, ta phải giảng rõ Phật pháp, cũng gọi là Pháp môn vô lượng thệ nguyện học.
3. Nếu chưa được an lạc, ta phải được an lạc, cũng gọi là Phiền não vô lượng thệ nguyện đoạn.
4. Nếu chưa chứng đạt Niết-bàn(8), ta phải chứng Niết-bàn, cũng gọi là Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Tứ hoằng thệ nguyện này chính là pháp môn Tứ đế. Cho nên Kinh Anh Lạc ghi: “Người chưa được thoát khỏi Khổ đế, khiến họ thoát được Khổ đế. Người chưa hiểu rõ Tập đế cần hiểu rõ Tập đế. Người chưa an trụ ở Đạo đế cần an trụ nơi Đạo đế. Chưa chứng Diệt đế khiến chứng Diệt đế”.
Bốn pháp này nếu theo tâm của hàng Nhị thừa gọi là pháp Tứ thánh đế. Pháp Tứ đế là pháp Nhân duyên sinh, đạo lý này chân thật không hư dối cho nên gọi là Đế pháp. Nhưng bốn pháp này nếu theo tâm của Bồ-tát thì gọi là Tứ hoằng thệ nguyện. Vì sao vậy? Vì hàng Bồ-tát tuy biết rõ bốn pháp này rốt ráo rỗng lặng, nhưng vì lợi ích chúng sinh mà dùng bốn pháp này để làm phương tiện.
Thế nào là Hoằng thệ nguyện?
- Vì tâm lượng quảng đại của Bồ-tát cho nên gọi là hoằng.
- Vì tâm từ bi, thương xót chúng sinh, nên hạ quyết tâm phải độ chúng sinh, phát tâm kiên cố bền chắc như kim cương, giữ gìn tâm nguyện này không thối chuyển, nhất định thành công viên mãn, nên gọi là thệ nguyện.
Nếu người tu hành có thể phát bốn thệ nguyện này, biết rất rõ bốn tâm nguyện, bao gồm tất cả tâm, tất cả tâm thật ra chính là một tâm, cũng chẳng phải một tâm, mà tâm vốn đã đầy đủ tất cả, nên gọi là Tâm Bồ-đề thanh tịnh. Do phát khởi tâm Bồ-đề thanh tịnh, nên gọi là Bồ-tát. Vì thế trong Luận Ma Ha Diễn ghi:
Ngay khi mới phát tâm
Thệ nguyện sẽ thành Phật
Đã vượt qua thế gian
Nên nhận sự cúng dường. II- VÌ SAO HÀNH BỒ TÁT CẦN PHẢI TU THIỀN ĐỊNH
Khi Bồ-tát phát khởi tâm Bồ-đề, nghĩ rằng muốn thành đạt đầy đủ Tứ hoằng thệ nguyện, nhất định phải hành Bồ-tát đạo.
- Vì sao phải hành Bồ-tát đạo ?
Vì có nguyện vọng mà không thực hành cũng giống như muốn đưa người qua sông mà chẳng chịu làm thuyền bè, nên vĩnh viễn vẫn ở bờ bên này, không cách gì đưa người sang sông được. Ví như người bệnh cần thuốc chữa trị, nhưng có thuốc rồi mà không chịu uống, thì bệnh làm sao lành? Như người nghèo khổ muốn có châu báu, nhưng khi thấy châu báu rồi mà chẳng chịu lấy nên mãi mãi phải chịu nghèo khổ. Như người muốn đi xa lại không chịu bước, nhất định người ấy không thể đi đến mục đích. Bồ-tát phát Tứ hoằng thệ nguyện mà chẳng chịu tu bốn hạnh này thì cũng như vậy.
Bồ-tát nghĩ rằng: “Ta phải tu pháp môn nào để hành Bồ-tát đạo, mới có thể thực hành Tứ hoằng thệ nguyện được tốt đẹp viên mãn?”. Vậy thì phải hiểu và trụ thâm sâu thiền định mới viên mãn được bốn thệ nguyện. Vì cớ sao? Nếu không chứng được Lục thông và Tứ biện tài, làm sao độ chúng sinh? Nếu không có công phu thiền định thì lục thông chẳng phát. Cho nên trong kinh có ghi: “Thiền định thật thâm sâu mới có thể đạt được Ngũ thần thông”. Muốn đoạn trừ phiền não, mà không thiền định thì trí tuệ không hiện tiền. Trí tuệ phát xuất từ nơi thiền định mới có thể đoạn trừ các kiết sử, bởi vì trí tuệ mà không có thiền định cũng giống như đèn ra trước gió. Chúng ta nên hiểu rõ tất cả công đức trí tuệ đều ở tại pháp môn thiền định. Trong Luận Ma Ha Diễn ghi: “Chư Phật thành đạo, chuyển bánh xe pháp độ chúng sinh, hết duyên, nhập Niết-bàn, những công đức ấy hoàn toàn ở trong thiền định”.
Lại nữa, khi Bồ-tát nhập Vô lượng nghĩa xứ tam-muội(9), trong một tâm đầy đủ muôn hạnh mới có thể thông suốt tất cả vô lượng pháp môn. Nếu muốn đầy đủ Phật đạo vô thượng mà không tu thiền định, thì các cõi trời Sắc và Vô sắc cho đến cảnh giới Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, đều chẳng đạt được,
huống chi quả Vô thượng Bồ-đề. Nên biết muốn chứng Diệu giác vô thượng, trước tiên cần nhập Kim cương tam-muội, lúc này Phật pháp mới hiện tiền. Thế nên sau khi Bồ-tát đã nghiền ngẫm, tư duy, xác định rõ chỉ có thiền định mới có thể làm viên mãn Tứ hoằng thệ nguyện. Như trong bài Kệ Ma Ha Diễn ghi:
Thiền là kho trí tuệ,
Ruộng phước của công đức,
Thiền như nước trong sạch,
Công năng rửa sạch bụi
Thiền là giáp kim cương
Ngăn chặn tên phiền não,
Tuy chưa chứng vô vi(10)
Quả Niết-bàn có phần,
Được Kim cương tam-muội(11)
Đập tan núi kiết sử,
Chứng được lục thần thông Độ chúng sinh vô lượng, Bụi trần che vầng dương, Mưa lớn đều trôi sạch,
Gió giác quán động tâm, Thiền định ngăn lặng gió.
Bài kệ này chứng tỏ là phải tu tập thiền định, mới có thể thành tựu đầy đủ viên mãn Tứ hoằng thệ nguyện.
HỎI: Bồ-tát muốn đầy đủ viên mãn Tứ hoằng thệ nguyện, cần phải thực hành mười pháp Ba-la-mật (Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Bát- nhã, Phương tiện, Trí, Nguyện, Lực) vì sao chỉ tán thán thiền định ?
ĐÁP: Nếu so sánh bốn pháp trước có thấp kém, còn năm pháp sau thì hoàn toàn đều do nơi thiền định mà có, nên ở đây chỉ nói riêng về thiền định. Vì sao? Vì Bồ-tát do tu thiền định mà được đầy đủ bốn pháp trước, còn năm pháp sau lại càng thêm thù thắng. Như người phát tâm Bồ-tát vì muốn tu tập thiền định, cho nên xả bỏ tất cả gia nghiệp, trong thì bỏ vợ con, quyến thuộc, ngoài thì xả bỏ tài vật, không tiếc thân mạng, chỉ ở nơi chỗ vắng vẻ tịch tịnh, bố thí tất cả không luyến tiếc, đây gọi là Đại bố thí.
Lại nữa, vì Bồ-tát tu tập thiền định, nên thân và tâm không dấy động, ngăn dứt sáu tình(12) v.v…
Những tâm niệm xấu không thể thâm nhập được, đây gọi là Đại trì giới.
Do Bồ-tát tu tập thiền định có thể kham nhẫn những việc khó nhẫn, đối với những vinh dự, chê bai, đều an tâm kham nhẫn. Giả sử có các việc xấu đến, vì sợ chướng ngại chánh định nên một chút phiền não sân hận cũng không sinh khởi, đây gọi là Đại nhẫn nhục.
- Bồ-tát do tu tập thiền định, nhất tâm nhất ý tinh tấn, dù thân thể bệnh tật khổ não, cũng không thoái tâm, không ngừng nghỉ. Như dùi cây lấy lửa, dù một chút cũng không ngừng nghỉ, nếu chưa có lửa quyết không dừng nghỉ. Bồ-tát thường ngồi thiền, ít nằm, luôn luôn nhiếp phục tâm niệm không sinh khởi vọng tưởng, chưa từng phóng dật giải đãi, cho dù trải qua nhiều năm nhiều tháng mà chưa được chứng ngộ cũng không thoái tâm nhụt chí. Bồ-tát hành những việc khó khăn như thế, đây gọi là Đại tinh tấn.
Do nhân duyên tu thiền định, dù Bồ-tát không cố ý tu bốn pháp này, mà bốn pháp này tự nhiên thành tựu.
- Vì sao Bồ-tát tu thiền định, được đầy đủ Trí tuệ Bát-nhã ba-la-mật ?
Vì khi Bồ-tát tu tập thiền định, nhất tâm trụ trong chánh định. Do tâm được an trụ trong định, nên có thể biết rõ tất cả tướng sinh diệt của pháp thế gian, nhờ đó mà phát xuất trí tuệ, giống như mạch nước trong đá phóng vọt ra. Kinh Ma Ha Diễn ghi:
Trí tuệ Bát-nhã ba-la-mật,
Là pháp chân thật không điên đảo, Vọng niệm ô nhiễm đã diệt trừ, Ngôn ngữ văn tự đều vắng bặt,
Tội chướng vô lượng kiếp đã dứt,
Trong tâm thanh tịnh thường một tướng, Tự nhiên thấy được pháp chân thật.
- Vì sao Bồ-tát tu tập thiền định được đầy đủ
Phương tiện ba-la-mật ?
Vì những phương tiện thiện xảo ấy, cần phải thấy rõ căn cơ của chúng sinh mới sử dụng được. Nếu không thể tiến sâu vào thiền định, thì làm sao biết rõ căn cơ của chúng sinh, nên từ đó mới dùng phương tiện thiện xảo nào thích hợp để dìu dắt chúng sinh.
- Vì sao Bồ-tát tu tập thiền định được đầy đủ
Lực ba-la-mật ?
Vì tất cả sự biến hóa tự tại đều dựa vào sức thần thông, mà sức thần thông cần nương nhờ thiền định mới phát.
- Vì sao Bồ-tát tu tập thiền định được đầy đủ
Nguyện ba-la-mật ?
Trong Ma Ha Diễn ghi: “Thiền định của hàng Bồ-tát như đàn cầm của A-tu-la(13), (Khi muốn nghe đàn, không cần gảy đàn mà đàn vẫn tự phát âm thanh, đó là do phước đức của A-tu-la), đây là ví dụ cho tâm Bồ-tát không còn phân biệt, tự nhiên thích ứng với căn cơ của chúng sinh, dùng pháp phương tiện để giáo hóa chúng sinh”. Đây chính là tướng thành tựu thệ nguyện lớn của Bồ-tát.
- Vì sao Bồ-tát do tu tập thiền định mà đầy đủ
Trí ba-la-mật ?
Nếu không được thiền định hiện tiền thì chẳng do đâu mà phát sinh Đạo chủng trí(14), Nhất thiết trí và Nhất thiết chủng trí(15). Nghĩa này có thể thấy rõ.
Bởi vì người tu hành chỉ cần khéo tu tập thiền định thì tự nhiên thành tựu mười pháp Ba-la-mật và đầy đủ muôn hạnh cùng tất cả pháp môn. Cho nên Bồ-tát muốn thệ nguyện đầy đủ, thực hành các
Ba-la-mật, nhất định phải tu thiền định. Việc nầy trong Luận Ma Ha Diễn có nói rộng.
HỎI: Công hạnh Bồ-tát là độ chúng sinh, nhưng vì sao lại sống riêng một mình, xa lìa chúng sinh, để được rảnh rang, nhàn nhã thôi sao?
ĐÁP: Tuy Bồ-tát đã xả bỏ thân thể, nhưng thâm tâm không bao giờ bỏ chúng sinh. Ví như người bệnh cần uống thuốc để điều trị, bồi dưỡng thân thể, nên tạm thời đình chỉ các công tác, để sau khi bệnh lành rồi mới trở lại làm việc. Bồ-tát cũng vậy, thân tuy xa lánh chúng sinh, mà tâm thường nhớ nghĩ thương xót chúng sinh không thôi. Bồ-tát ở nơi an nhàn vắng vẻ, uống thuốc thiền định, được trí tuệ chân thật, trừ sạch vô minh, phiền não, đợi sau khi tu hành thành tựu lục thần thông, sẽ tái sinh trong sáu đường mà rộng độ chúng sinh.
Do những nguyên nhân đó mà Bồ-tát phát tâm tu tập Thiền định ba-la-mật, quyết tâm của các ngài bền chắc như kim cương, thiên ma ngoại đạo và hàng Nhị thừa không có cách gì phá hoại được. Chú thích Chương 1:
(1) A-tu-la: một loài quỷ thần hiếu chiến của Ấn Độ bị xem là ác thần và thường tranh đấu với trời Đế
Thích; 1 trong 6 đường, 1 trong tám bộ, 1 trong 10 giới.
Theo Phẩm Tu-la-luân trong Kinh Tăng Nhất A Hàm 3, thân hình của A-tu-la cao 84.000 do tuần, miệng rộng mỗi bề 1000 do tuần. Còn Phẩm A-tu- la trong Kinh Trường A Hàm 20, Phẩm A-tu-la trong Kinh Đại Lâu Thán 2, Kinh Khởi Thế Nhân Bản 5, đều ghi rõ nơi ở và sự tích của A-tu-la. Các kinh thường nêu, do ba nguyên nhân: sân, mạn, nghi nên khiến chúng sinh sinh vào loài A-tu-la. Nhưng Kinh Phật Vị Thủ Ca Trưởng Giả Thuyết Nghiệp Báo Sai Biệt liệt kê ra 10 nguyên nhân sinh vào loài A-tu-la:
1/ Thân làm việc ác nhỏ, 6/ Tăng thượng mạn,
2/ Miệng nói lời ác nhẹ, 7/ Đại mạn,
3/ Ý nghĩ điều ác nhỏ, 8/ Tâm tà mạn,
4/ Khởi tâm kiêu mạn, 9/ Tâm mạn mạn,
5/ Khởi tâm ngã mạn, 10/ Lui sụt căn lành.
Hình tượng A-tu-la có nhiều thuyết khác nhau. Có thuyết cho rằng A-tu-la có 9 đầu, 1.000 mắt, 990 tay hoặc 10.000 đầu, 20.000 tay hoặc 3 đầu, 6 tay. Có chỗ lại cho rằng A-tu-la có ba mặt, màu xanh đen, hiện tướng 6 tay, lõa hình giận dữ.
(2) Trời Lục dục (Sáu tầng trời cõi Dục):
1/ Tứ Thiên Vương (Đại Thiên vương, Tứ Vương thiên): gồm có bốn thiên tử Trì Quốc, Tăng Trưởng,
Quảng Mục, Đa Văn và các thiên chúng phụ thuộc.
2/ Tam Thập Tam thiên (Đao Lợi thiên): gồm có 33 cõi, trời Đế Thích ở giữa, bốn phương mỗi phương đều có 8 cõi trời. 3/ Diệm Ma thiên (Dạ Ma thiên, Viêm Ma thiên, Thời Phần thiên): đứng đầu cõi trời này là Tu Dạ Ma thiên. 4/ Đâu Xuất thiên (Đổ Sử Đa thiên, Đâu Xuất Đà thiên, Hy Tức thiên): đứng đầu cõi trời này là San Đâu Xuất Đà thiên. 5/ Hóa Tự Tại thiên (Lạc Biến Hóa thiên, Vô Kiêu Lạc thiên, Vô Cống Cao thiên, Ni Ma La thiên): đứng đầu cõi trời này là Vua Thiện Hóa thiên. 6/ Tha Hóa Tự Tại thiên (Tha Hóa Chuyển thiên, Tha Hóa Lạc thiên, Hóa Ứng Thinh thiên, Ba-la-ni-mật thiên): đứng đầu cõi trời này là Tự Tại thiên. Trong đó, trời Tứ Thiên Vương ở lưng chừng núi Tu Di, trời Đao Lợi ở trên đảnh núi Tu Di, nên gọi hai tầng trời này là Địa Cư thiên. Bốn tầng trời từ cõi Dạ Ma thiên trở lên và các tầng trời cõi Sắc đều trụ giữa hư không, nên gọi là Không Cư thiên. Sáu tầng trời cõi Dục này tuy đối với thế gian có ba thứ thọ dụng khác nhau nhưng cũng thuộc về loại thọ hưởng dục, nên gọi là Dục sinh. (tđphhq)
(3) La-sát (Khả Úy, Tốc Tật Quỷ, Hộ Giả): loài ác quỷ trong thần thoại Ấn Độ, được thấy ghi đầu tiên trong bộ Lê Câu Phệ Đà, tương truyền La-sát nguyên là tên gọi dân tộc thổ trứ ở Ấn Độ, sau khi người A-ri-a chinh phục Ấn Độ, La-sát trở thành một đại danh từ chỉ cho kẻ ác, dần dần dùng làm tên gọi chung loài ác quỷ.
Nam La-sát có thân đen, tóc đỏ, mắt xanh; nữ La-sát gọi là: La-xoa-tư giống như người phụ nữ xinh đẹp, đầy sức quyến rũ, chuyên ăn thịt, uống máu loài người. Tương truyền trong đảo Lăng Già (Tích Lan) có cõi nước của nữ La-sát. Loài La-sát này được ghi trong Kinh Phật Bản Hạnh, tập 49, Hữu Bộ Tỳ Nại Da 47, Huệ Lâm Âm Nghĩa 7 v.v… Quỷ La-sát có sức thần thông, có thể bay nhanh trong hư không hoặc đi nhanh trên mặt đất, bạo ác đáng sợ.
La-sát cũng còn chỉ cho một loại quỷ trong địa ngục, coi về việc trừng phạt tội nhân. Hình dáng của loài này có đầu trâu tay người hoặc có móng tay móng chân hoặc là đầu nai, đầu dê, đầu thỏ v.v… Ngoài các loài La-sát kể trên, trong kinh còn có ghi một loại La-sát là thần thủ hộ của Phật giáo, gọi là La-sát thiên.
(4) Sắc giới (Sắc thiên, Sắc Hành thiên): gọi chung là thế giới và chúng sinh có hình thể tốt đẹp, là chỗ ở của chư thiên một trong ba cõi. Chúng sinh cõi này tuy không dâm dục, không dính mắc sắc pháp, nhưng còn ràng buộc bởi các sắc pháp thanh tịnh vi tế, nên nằm giữa cõi Dục và cõi Trời vô sắc. Chư thiên cõi này không phân biệt nam nữ, áo quần tự
nhiên hiện ra, lấy ánh sáng làm thức ăn và ngôn ngữ.
Ở cõi này y cứ vào sự nhập định sâu cạn mà chia ra làm bốn địa: Sơ thiền gọi là Ly sinh hỷ lạc, Nhị thiền gọi là Định sanh hỷ lạc, Tam thiền gọi là Ly hỷ diệu lạc, Tứ thiền gọi là Xả niệm thanh tịnh. Theo Luận Câu Xá 8: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền mỗi địa đều có riêng ba tầng trời, Tứ thiền có tám tầng trời, cộng chung là mười bảy tầng trời. Tầng trời của Sơ thiền: Phạm Chúng thiên, Phạm Phụ thiên, Đại Phạm thiên; Ba tầng trời của Nhị thiền: Thiểu Quang thiên, Vô Lượng Quang thiên, Cực Quang Tịnh thiên; Ba tầng trời của Tam thiền: Thiểu Tịnh thiên, Vô Lượng Tịnh thiên, Biến Tịnh thiên; Tám tầng trời của Tứ thiền: Vô Vân thiên, Phước Sinh thiên, Quảng Quả thiên, Vô Phiền thiên, Vô Nhiệt thiên, Thiện Hiện thiên, Thiện Kiến thiên, Sắc Cứu Kính thiên. Mười bảy tầng trời này gồm khí thế gian và những hữu tình, gọi chung là cõi Sắc, nhưng sự phân lập các tầng trời ở cõi Sắc có nhiều thuyết khác nhau.
Vô sắc giới (Vô sắc thiên, Vô sắc hành thiên): thế giới siêu vượt vật chất. Những người nhàm chán sắc chất tu Tứ vô sắc định, sau khi chết sinh về cõi này. Sự sinh tồn của thế giới này hoàn toàn không có sắc pháp, nơi chốn, nên không có không gian cao thấp khác nhau, nhưng do quả báo tốt xấu sai biệt nên chia thành bốn chỗ.
Về thọ mạng của bốn tầng trời này có nhiều thuyết khác nhau, theo Luận Đại Tỳ Bà Sa 84 ghi: “Chư thiên ở Không vô biên xứ, sống 2 vạn kiếp, ở cõi Thức vô biên xứ, sống 4 vạn kiếp, ở Vô sở hữu xứ, sống 6 vạn kiếp và ở Phi phi tưởng xứ, sống 8 vạn kiếp”. Theo Kinh Trường A Hàm 20 thì theo thứ lớp là 10.000 kiếp, 21.000 kiếp, 42.000 kiếp, 84.000 kiếp. Theo Luận Lập Thế A Tỳ Đàm 7, thì bốn tầng trời mỗi tầng chia làm ba phẩm: thượng, trung, hạ, từ 17.500 đại kiếp của hạ phẩm Không vô biên xứ, cho đến 80.000 đại kiếp của thượng phẩm Phi tưởng phi phi tưởng xứ, tất cả có thọ lượng sai biệt của 12 phẩm. Ngoài ra, vì ở tầng cao nhất của thế giới hữu tình là Phi phi tưởng xứ còn được gọi là trời Hữu Đảnh. Hữu tình ở cõi Trời vô sắc đều là người nam nhưng không có nam căn.
(5) Ngoại đạo Irthaka (Ngoại giáo, Ngoại pháp, Ngoại học): tất cả các tôn giáo không phải Phật giáo, tương đương với danh từ “dị đoan” của Nho giáo. Nghĩa gốc của danh từ irthaka là chỉ thần thánh hoặc người ở ẩn đáng được tôn kính. Lúc đầu là từ ngữ mà Phật giáo dùng để gọi các giáo phái khác như: Chính thuyết giả, Khổ hạnh giả. Phật giáo tự xưng là nội đạo và kinh điển Phật giáo gọi là nội điển, kinh điển ngoài Phật giáo là ngoại điển. Đến đời sau, dần dần phát minh thêm nghĩa “Dị kiến, Tà thuyết”, cho nên từ “ngoại đạo” trở thành danh từ có tính cách khinh thường, chê bai với ý nghĩa là pháp không đúng chân lý.
Tam Luận Huyền Nghĩa, thượng, ghi: “Chí diệu rỗng rang, gọi đó là đạo, tâm ở ngoài đạo, gọi là ngoại đạo”. Trong các kinh luận có nêu lên nhiều phái ngoại đạo, thông thường chỉ nhóm Lục sư ngoại đạo: Phú-lan-na Ca-diếp, Mạt-ca-lợi-cùi-lê-tử, San- xà-đa-tỳ-la-chi-tử, A-kỳ-đa-chi-xá-khâm-bà-la, Ca- la-câu-đà-ca-chiên-diên, Ni-càn-đà nhã-đề-tử và 6 phái triết học: Luận sư, Du già, Thắng luận, Chính lý, Thanh luận, Phệ-đàn-đa. Ngoài ra còn có sự phân biệt ngoại đạo Tứ chấp, Tứ kiến, Tứ kế, Tứ tông: là loại chuyên chấp trước các pháp là một, là khác; chấp các pháp chẳng phải đồng, chẳng phải sai khác; chấp thế gian là thường, vô thường; chấp có nhân quả không nhân quả. Lục phái ngoại đạo: Tự ngã, Đầu uyên, Phó hỏa, Tự tọa, Tịch nhiên và Ngưu cẩu (ngoại đạo học tập theo trâu, chó để cầu sinh lên cõi trên). Ngoại đạo thập lục tông (Thập lục dị luận, Thập lục ngoại đạo, Thập lục kế): chín mươi sáu phái ngoại đạo. Theo Luận Đại Tỳ Bà Sa 4 thì Lục sư ngoại đạo, mỗi vị đều có 15 đệ tử, đưa ra 15 dị kiến, tổng cộng là 90 dị kiến; pháp của thầy và đệ tử khác nhau, cho nên 90 đệ tử cộng thêm 6 thầy thì thành 96 phái khác nhau, dùng con số này để dụ cho ngoại đạo rất nhiều.
Kinh Niết Bàn 10 thì nêu lên 95 phái ngoại đạo. Ngoài ra còn có các ngoại đạo khác như: Thuận thế, Xuất gia, (đối lại tại gia) Đồ khôi, Ngoại đạo gá Phật pháp, ngoại đạo Ca-bà-ly (kế tóc) v.v… trong các kinh điển có chia các ngoại đạo ra làm hai loại chính: một là Ngoài ngoại đạo, hai là Nội ngoại đạo, Ngoài ngoại đạo chỉ chung cho các giáo pháp, học phái ngoài Phật giáo, đồng nghĩa với ngoại đạo theo nghĩa rộng, còn Nội ngoại đạo thì chỉ cho những người nương gá vào Phật pháp hoặc người vọng chấp một kiến giải trong Phật pháp hoặc tu hành không đúng chánh pháp. Ngoại đạo trong Mật giáo đồng nghĩa với ngoại đạo theo nghĩa rộng; còn Nội ngoại đạo thì có hai loại: một là hàng Nhị thừa, Thanh văn và Duyên giác, hai là chỉ tông phái thuộc Hiển giáo.
(6) Đoạn kiến: loại kiến chấp các pháp thế gian và ngã đều phải đoạn diệt. Theo Luận Đại Trí Độ 26, đoạn kiến có hai loại: không có quả báo tội phước, khổ vui, đời sau và chấp tất cả pháp đều Không.
Thường kiến: kiến chấp chủ trương thế giới là thường trụ bất biến, tự ngã con người cũng bất diệt, tự ngã này sau khi chết cũng không tiêu diệt, lại có khả năng tái sinh và tái diễn lại hiện trạng tương tục, tức nói ngã là thường trụ. Đức Thích Tôn chẳng những không thiên về Thường kiến cũng không thiên về Đoạn kiến. Còn thuyết linh hồn bất diệt thì thuộc một trong những trường hợp chấp thường kiến, chủ nghĩa hư vô thì thuộc một trong những trường hợp chấp đoạn kiến. Đức Thích Tôn chủ trương xa lìa hai bên và thực hành trung đạo.
(7) Trung đạo: là tướng trạng chân thật của vũ trụ, nếu ngộ được lý này thì sẽ có khả năng tự do tự tại, nhập vào mười pháp giới từ cõi Phật đến địa ngục, vì cội nguồn của sự biến hóa có bao hàm cả lý trung đạo.
(8) Niết-bàn: Niết-bàn có 3 loại: Tính tịnh Niết-bàn, Viên tịnh Niết-bàn và Phương tiện tịnh Niết-bàn. Đức Phật vì cứu độ chúng sinh nên thị hiện thân già huyễn, khi hết duyên thì nhập Niết-bàn. Hàng Thanh văn, Duyên giác nhập Vô dư y Niết-bàn, sau đó lại hồi tâm chuyển hướng Đại thừa giáo, gọi là Vô dư hoàn sinh. Đồng thời Niết-bàn là xa lìa tất cả những tướng trạng sai biệt của các pháp, nên gọi là ly tướng.
Theo Tông Tịnh Độ, Tịnh độ của Phật A Di Đà là Niết-bàn vô vi. Theo Tông Duy Thức, Niết bàn có bốn loại: Bản lai tự tính thanh tịnh Niết-bàn, Hữu dư y Niết-bàn, Vô dư y Niết-bàn và Vô trụ xứ Niết-bàn.
Trong bốn loại Niết-bàn này, Bản lai tự tính thanh tịnh Niết-bàn, Tính tịnh Niết-bàn chỉ cho chân như, nghĩa là tướng bản lai của tất cả vạn vật là lý thể chân như tịch diệt. Vô trụ xứ Niết-bàn là nương nơi trí tuệ xa lìa phiền não chướng và sở tri chướng, không trệ vào cõi mê sinh tử. Vì tâm đại bi cứu độ chúng sinh nên qua lại trong ba cõi mê mà không dừng trệ nơi Niết-bàn. Đây là nét đặc sắc của Phật giáo Đại thừa. Ma-ha-diễn: giáo pháp Đại thừa.
(9) Vô lượng nghĩa xứ Tam-muội: Tam-muội là chánh định mà Đức Phật nhập, khi muốn nói Kinh Pháp Hoa. Vô lượng là vô lượng pháp môn như Tam thừa, Ngũ thừa. Nghĩa xứ là y chỗ vô lượng nghĩa, tức là thật tướng. Tam-muội thật tướng vô tướng này phát sinh vô lượng pháp nghĩa.
(10) Vô vi: pháp không có tạo tác, lìa sinh diệt biến hóa và tuyệt đối thường trụ, vốn là tên khác của Niết- bàn, người đời sau ngoài Niết bàn lại lập ra các thứ vô vi, do đó sinh ra nhiều thuyết vô vi như : Tam vô vi, Lục vô vi, Cửu vô vi. Phái Nhất Thiết Hữu Bộ lập tam vô vi : Trạch diệt vô vi, Phi trạch diệt vô vi và Hư không vô vi.
(11) Kim cương tam-muội: chánh định thông đạt các pháp, vì định này kiên cố có khả năng diệt trừ tất cả những phiền não. Như kim cương, không vật nào không bị nó phá vỡ.
(12) Sáu tình (Sáu căn): vì các kinh điển (cựu dịch) phần nhiều dịch là lục tình, vì sáu căn đều có tình thức nên gọi là lục tình.
(13) Đàn cầm của A-tu-la: loài A-tu-la do phước đức mà có cây đàn này. Khi A-tu-la muốn nghe một khúc nhạc, dù không có người đàn, cây đàn cũng tự phát ra âm thanh theo sở thích của họ. Luận Đại Trí Độ dùng sự tích cây đàn này là dụ cho Bồ-tát đã chứng Pháp thân, tâm không phân biệt, tự nhiên ứng theo căn cơ chúng sinh mà thuyết pháp giáo hóa.
(14) Đạo chủng trí: trí tuệ biết khắp tất cả các pháp môn sai biệt của thế gian và xuất thế gian, là Bất động trí của Bồ-tát. Tông Thiên Thai phối hợp trí này với Giả Quán trong ba quán: Không, Giả, Trung và cho đó là trí hóa đạo được thành tựu do phá trừ trần sa hoặc.
(15) Nhất thiết trí: trí biết rõ các pháp tướng trong ngoài, một trong ba trí. Ngoài ra, Nhất thiết trí đối với Nhất thiết chủng trí có hai nghĩa: chung và riêng.
Nghĩa chung: Nhất thiết trí là Phật trí. Đồng nghĩa với Nhất thiết chủng trí. Theo Hoa Nghiêm Kinh Sớ 16, Như Lai dùng trí tuệ vô lậu, biết các pháp vô lậu thì trí huệ đó gọi là Nhất thiết trí.
Nghĩa riêng: Nhất thiết trí là trí tuệ về tính không, xem thế giới bình đẳng, đây là trí tuệ của bậc Thanh văn, Duyên giác. Nhất thiết chủng trí là
trí tuệ về sự tướng, thuộc thế giới sai biệt, là Phật trí thấu rõ “Tướng bình đẳng tức là tướng sai biệt”. Chương 2
GIẢI THÍCH DANH TỪ THIỀN BA-LA-MẬT
Nay giải thích danh từ thiền có ba phần:
A. Phân biệt chỗ đồng và bất đồng
B. Dịch và giải thích
C. Tổng kết A. PHÂN BIỆT CHỖ ĐỒNG VÀ BẤT ĐỒNG
Chia làm hai phần để giải thích:
a) Đồng danh từ
Cũng một danh từ “thiền”, nhưng sở chứng đắc thiền định của phàm phu, ngoại đạo, Nhị thừa, Bồ-tát, chư Phật có khác nhau, nhưng gọi chung là “thiền”.
b) Chỗ bất đồng
Ba chữ “Ba-la-mật” còn gọi là đến bờ kia, nhưng chỉ có Phật và Bồ-tát mới chứng đạt được đến bờ kia.
Trong Luận Ma Ha Diễn ghi: “Thiền định của hàng Bồ-tát gọi là Ba-la-mật”. Đây chính là chỗ bất đồng. Vì hàng phàm phu đắm chấp, hàng ngoại đạo chấp trước tri kiến, hàng Nhị thừa không có tâm đại từ, đại bi, không có phương tiện độ sinh, cho nên không thể tu trọn vẹn tất cả các thiền định. Vì không đạt đến bờ kia, nên nói Ba-la-mật là chỗ bất đồng vậy.
Lại nữa, Tứ thiền (bốn tầng thiền căn bản) hàng phàm phu, ngoại đạo, Nhị thừa, Bồ-tát và chư Phật đều chứng được định này, cho nên nói là đồng.
“Ba-la-mật”, gọi là Độ vô cực, (tức là không có pháp nào độ thoát có thể sánh hơn năng lực này). Chỉ có hàng Bồ-tát và chư Phật mới được đầy đủ. Vì có khả năng thông đạt trung đạo, chứng ngộ Phật tính, phát sinh chín loại thiền lớn (Cửu chủng đại thiền(1)), chứng đắc Đại Niết-bàn(2), do đó chẳng đồng hàng phàm phu, nhị thừa, cho nên nói là bất đồng.
Nếu luận chung, thì không nhọc phải phân tích. Vì sao? Vì thiền có chia ra đồng và chẳng đồng, danh từ “Ba-la-mật” cũng như thế, cho nên Luận Ma Ha Diễn ghi: “Ngữ pháp ở Ấn Độ, hễ có việc gì hoàn thành, đều gọi là Ba-la-mật”. B. DỊCH VÀ GIẢI THÍCH DANH TỪ THIỀN
Gồm có danh từ đồng và bất đồng: I- DỊCH VÀ GIẢI THÍCH ĐỒNG DANH TỪ
Chia làm hai phần:
1. Dịch danh từ thiền
2. Giải thích danh từ thiền
1. Dịch danh từ thiền
Danh từ “thiền” là gọi tắt chữ thiền-na (dhyna), thuộc ngôn ngữ nước Ấn Độ, ở Trung Quốc dịch danh từ thiền không cố định. Nay lược ra 3 nghĩa.
- Trong Luận Ma Ha Diễn dịch chữ “thiền” là Tư duy tu.
- Ví dụ như chữ Đàn ba-la-mật nghĩa là Bố thí độ, cho nên Thiền ba-la-mật gọi là Định độ, vì lấy ý nghĩa thiền định để phiên dịch danh từ Thiền.
- Trong Luận A Tỳ Đàm dịch chữ “thiền” là Công đức tùng lâm.
2. Giải thích danh từ thiền
Ba ý nghĩa trên được chia làm hai phần để giải thích:
a) Giải thích riêng
Ý nghĩa danh từ Tư duy tu là chỉ cho nhân. Vì sao? Vì tư duy nghĩa là tâm niệm suy nghĩ, tu là chuyên tâm nghiên cứu tu tập, nên tu thuộc về nhân.
Chữ Thiền dịch là định đây là đối với quả. Vì cớ sao? Định tức là nội tâm vắng lặng, tịch tịnh, người tu hành dứt tâm tán loạn, để tìm cầu sự tịch tĩnh (vắng lặng, yên tĩnh). Sau khi đạt được mục đích tu tập, đây thuộc về quả.
Dịch chữ Thiền là Công đức tùng lâm, đây là giải thích bao gồm cả nhân và quả.
- Công phu tu tập là nhân.
- Tích chứa công phu thành tính là quả.
- Công phu tu tập muôn hạnh là nhân.
- Tích chứa thành muôn đức là quả.
Nhân và quả gộp chung lại gọi là công đức. Công đức tùng lâm. Tùng lâm: nghĩa là công
đức chẳng phải một thứ, giống như nhiều loại cây
cỏ nhỏ mọc um tùm gọi là tùng, nhiều cây lớn tụ họp gọi là lâm. Cây nhỏ mọc um tùm, ví dụ như công đức nhỏ trong nhân, rừng cây lớn có thể ví dụ như đức lớn trong quả, từ đó mà suy ra thì danh từ Công đức tùng lâm đều đầy đủ cả nhân và quả.
b) Giải thích chung
Danh từ Thiền dịch ra ba ý nghĩa, đều đối với nhân và quả để giải thích. Như danh từ Tư duy tu, tuy chỉ cho nhân cũng có thể đối với quả. Vì sao? Vì “tĩnh lự” trong thiền định, tức là tư duy, tu từ thấp lên cao gọi là tu. Đây là thuyết của phái Số nhân cửu tu(3), (Nhất Thiết Hữu Bộ), căn cứ theo ý nghĩa chữ Tu, cho nên đối với trong quả, cũng gọi là Tư duy.
Danh từ “định” cũng có thể chỉ cho nhân. Như Thập đại địa tâm số(4), tuy tâm tán loạn mà còn gọi là định, huống gì người tu hành, chuyên tâm nhiếp niệm không tán loạn, vì sao không thể gọi là định? Cho nên trong nhân cũng gọi là định.
Ý nghĩa danh từ Công đức tùng lâm cũng có trong nhân, ý này đã nói ở phần trước; do nỗ lực dụng công, nên nhân tu mà thành tựu công đức. Ý nghĩa chữ đức trong quả cũng đã nói qua, cho nên nói chữ công là chỉ cho công dụng ở trên quả, xa lìa lỗi lầm, nội tâm tịch tĩnh, dùng thần thông biến hóa lợi ích chúng sinh gọi là công. Nói tóm lại, nhân và quả đều thành tựu các công đức lành, gọi chung là Công đức tùng lâm.
Do các kinh luận phiên dịch danh từ và lập nghĩa chẳng đồng, hoặc gọi thiền là (khí ác) bỏ ác, hoặc là (tật đại tật) nhanh chóng, hay là (trụ đại trụ) trụ thâm sâu. Những danh từ và ý nghĩa khác nhau như thế, không nên chấp chặt. II- DỊCH VÀ GIẢI THÍCH DANH TỪ BẤT ĐỒNG
Chia làm hai phần:
1. Phiên dịch danh từ
2. Giải thích danh từ
1. Phiên dịch danh từ Ba-la-mật
Danh từ Ba-la-mật (Pramit) có ba nơi dịch khác nhau:
- Trong các kinh luận, đa số dịch Ba-la-mật là
Đáo bỉ ngạn.
- Trong Luận Ma Ha Diễn dịch là Cứu cánh.
- Kinh Thụy Ứng dịch là Độ vô cực.
2. Giải thích danh từ Ba-la-mật
Ý nghĩa của ba danh từ này, chia làm hai phần: Giải thích riêng và Giải thích chung, trong đó chủ yếu nói về sự và lý.
a) Giải thích riêng
Đáo bỉ ngạn tức là đến bờ kia, ngạn là bờ sinh tử, bỉ ngạn là bờ kia Niết-bàn. Nghĩa là ví dụ phiền não như dòng nước chảy, Bồ-tát dùng trí tuệ vi diệu không hình tướng, cưỡi thuyền thiền định, từ bờ sinh tử vượt đến bờ kia Niết-bàn, đây là từ nơi lý thể để giải thích Ba-la-mật.
Giải thích chữ Cứu cánh nghĩa là tâm đại bi của Bồ-tát vì chúng sinh, tu đầy đủ viên mãn tất cả trên sự tướng. Nên trong Kinh Ma Ha Diễn ghi: “Bồ-tát nhân tu thiền định mà các sự việc đều được hoàn tất. Thiền định ở trong tâm của Bồ-tát gọi là Ba-la-mật”. Đây là căn cứ việc tu hành trên sự tướng để giải thích Ba-la-mật.
Độ vô cực nghĩa là nói chung cả sự và lý. Do sự và lý đều có ý nghĩa vi tế sâu xa, cho nên gọi chung là Độ vô cực. Đây là hạnh của Bồ-tát có thể tu hành viên mãn sự và lý nên nói Ba-la-mật.
b) Giải thích chung
Phiên dịch ý nghĩa cả ba danh từ trên có đầy đủ sự và lý, do tùy duyên giáo hóa chúng sinh, nên lập danh từ chẳng đồng.
Vì sao? Nếu nói trí tuệ vô tướng mới có thể vượt thoát sinh tử, là thuộc về lý hạnh, đã thuộc
về lý thì dù có Phật hay không Phật, tính tướng vẫn thường hằng, đâu cần phải có trí tuệ vô tướng mới có thể vượt thoát sinh tử sao? Thực tế đây là tùy theo tu hành trên sự tướng mà giải thích vậy.
Sự cứu cánh cũng từ nơi lý mà đặt tên, hoặc từ trên lý thể mà khởi sự tu, nên nói sự cứu cánh cũng là thuộc về lý thì gọi là Ba-la-mật.
Độ vô cực cũng không nhất định phải đầy đủ cả sự và lý mới gọi là Ba-la-mật. Vì sao? Vì chư Phật tùy theo cơ duyên để làm lợi ích chúng sinh, ra vào không cố định. Do đó danh từ Độ vô cực có lúc đối với sự, hoặc đối với lý, lẽ nào có chuẩn tắc nhất định?
Nên biết danh từ thuộc về lý thể và sự tướng đắp đổi lẫn nhau, không nhất định phải nghiêng về một cái, suy ra có thể biết.
Ý nghĩa của Ba-la-mật, đến phần kết hội quy thú của Chương 10 sẽ giải thích rõ ràng. C. TỔNG KẾT
Như Luận Ma Ha Diễn ghi:
HỎI: Bát bối xả, Bát thắng xứ, Thập nhất thiết xứ v.v... sao không gọi là Ba-la-mật mà chỉ gọi riêng Thiền là Ba-la-mật?
ĐÁP: Thiền thật vô cùng to lớn như vị quốc vương, chỉ nói danh từ Thiền ba-la-mật là bao gồm tất cả. Trong Tứ thiền có 108 tam-muội như : Bát bối xả, Bát thắng xứ, Thập nhất thiết xứ, Tứ vô lượng tâm, Ngũ thần thông, Luyện thiền tự tại định, Thập tứ biến hóa tâm, Vô tránh tam-muội(5), Nguyện, Trí, Đảnh, Thiền, Thủ-lăng-nghiêm(6) v.v...
120 tam-muội của chư Phật bất động, đều hoàn toàn ở trong Thiền.
Chư Phật thành đạo, chuyển pháp luân, nhập Niết-bàn, các công đức thù thắng vi diệu đều ở trong thiền định. Do đó chỉ cần nói chữ “Thiền” là bao hàm thâu nhiếp tất cả, nếu nói những pháp Định nào khác thì không thể thâu nhiếp hết, cho nên Thiền gọi là Ba-la-mật.
Lại nữa, trong Tứ thiền, trí tuệ và định lực bình đẳng, nên gọi là Ba-la-mật. Định Vị đáo địa và Trung gian thiền thì trí tuệ nhiều mà định lực ít, Tứ vô sắc định thì trí tuệ ít mà định lực nhiều. Ví dụ như xe có hai bánh, một bánh cứng một bánh quá mềm, thì không vận chuyển được. Tứ thiền có tuệ và định bình đẳng nên gọi là Ba-la-mật.
Dùng danh từ Thiền để thuyết minh Ba-la- mật thì bao hàm thâu tóm tất cả các pháp Định.
Vì sao? Chữ Thiền ở Trung Hoa vào đời Tần dịch là Tư duy tu, các pháp định này đều do công đức tư duy mà thành tựu, nên các định cũng đều được có danh từ Ba-la-mật. Kinh Bát-nhã có nói về 100 loại ba-la-mật, trong đó có nói Bát bối xả, Bát thắng xứ v.v... cũng đều gọi là Ba-la-mật. Nhưng chỉ bốn loại thiền căn bản (Sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền) là có danh từ “Thiền” trước tiên, còn các pháp định khác thì không gọi là Thiền.
HỎI: Phần giải thích về Thiền, Định, Tam-muội và Ba-la-mật v.v... giống nhau hay khác nhau ?
ĐÁP: Nếu luận chung thì danh và nghĩa qua lại lẫn nhau; nếu luận riêng từng phần, danh và nghĩa của bốn pháp mỗi mỗi đều có đặc sắc riêng.
Vì sao? Vì chỉ gọi bốn loại thiền căn bản (tứ thiền) là Thiền, chẳng phải Định, Tam-muội, nên không thể gọi là Ba-la-mật.
Các định Vô sắc giới chỉ gọi là Định, không phải
Thiền tam-muội, nên không thể gọi là Ba-la-mật.
Định Vị đáo địa và Trung gian thiền, tuy chẳng phải là thiền định chân chánh, chỉ là phương tiện, nên gọi là Thiền, hoặc là Định, do không phải Tam-muội, nên không thể gọi là Ba-la-mật.
Không tam-muội, Vô tướng tam-muội v.v… chỉ gọi là Tam-muội, không phải Thiền, Định, nên không thể gọi là Ba-la-mật.
Pháp quán Bát bối xả, Bát thắng xứ, Lục thông, Tứ biện tài v.v… đều có đủ ba thứ Thiền, Định và Tam-muội, nhưng không gọi là Thiền, Định, Tam- muội, nên không thể gọi là Ba-la-mật.
Cửu thứ đệ định tuy có đầy đủ cả ba pháp, nhưng chỉ gọi là Định, không thể gọi Thiền tam- muội, nên chẳng phải Thiền ba-la-mật.
Các Tam muội có Giác, có Quán và Sư tử tam-muội, Siêu việt tam-muội, Vô tránh tam-muội v.v... tuy có đầy đủ ba pháp, nhưng chỉ gọi là Tam-muội, không gọi Thiền, Định, cũng chẳng phải Ba-la-mật.
Nguyện, Trí, Đảnh v.v… cũng đủ cả ba pháp, nhưng chỉ gọi là Thiền, không gọi Định, Tam-muội, nên không phải Ba-la-mật.
Cửu chủng đại thiền và định Thủ Lăng Nghiêm v.v… đều có đầy đủ bốn pháp, cũng gọi là Thiền, Định, Tam-muội, đây mới chính là Ba-la-mật. Nếu dùng định Thủ-lăng-nghiêm nhập vào trong ba pháp trên, thì đều gọi là Ba-la-mật, nên tất cả pháp môn trong 100 Ba-la-mật đều gọi là Ba-la-mật.
Nay phân tích bốn pháp: Thiền, Định, Tam-muội, Ba-la-mật như trên, đối với bậc Thánh nhân, các ngài khéo léo tùy duyên làm lợi ích cho chúng sinh, thì không cần giải thích cố định. Nên trong các kinh luận dựng lập các danh từ (Thiền, Định, Tam-muội và Ba-la-mật) hàm ý thật khó thấy, do đó không thể lầm chấp.
Trong kinh luận phần nhiều lấy Thiền để thuyết minh Ba-la-mật, vì bốn loại thiền căn bản (tứ thiền) là nền tảng sự tu hành. Trong tất cả các công đức đều do bốn loại thiền đó mà được phát sinh, nương nơi đó mà an trụ, cho nên chỉ riêng Thiền mới được nhận danh từ Ba-la-mật.
HỎI: Thiền ba-la-mật chỉ có một danh từ hay có danh từ nào khác ?
ĐÁP: Trong Kinh Niết Bàn có ghi: “Phật tính gồm có năm danh từ: Thủ Lăng Nghiêm, Bát-nhã, Trung đạo, Kim cương tam-muội, Đại Niết-bàn”. Cũng gọi Thiền ba-la-mật tức là Phật tính.
Nên biết rằng những pháp môn kỳ diệu, thù thắng có ghi chép trong các kinh điển, có vô lượng danh từ, đều là tên gọi khác của Ba-la-mật. Nên Kinh Ma Ha Diễn có nói :
Bát-nhã là một pháp, Phật thuyết có nhiều tên, Tùy mỗi loài chúng sinh, Mà lập riêng tên gọi. Người chứng đắc Bát-nhã, Tâm hý luận đều diệt,
Ví như mặt trời mọc,
Sương móc liền tan sạch.
Do đó danh từ Thiền làm sao không trùm khắp tất cả? Nếu thiền định không thâu nhiếp đầy đủ các pháp, thì ý nghĩa chẳng phải là cứu cánh, làm sao được danh từ Ba-la-mật?
HỎI: Thật tướng của các pháp: Thủ Lăng Nghiêm, Đáo bỉ ngạn v.v... chỉ có Phật mới gọi là cứu cánh, vì sao thiền định mà hàng Bồ-tát tu cũng gọi là Ba-la-mật?
ĐÁP: Đây là từ nhân mà nói quả, tùy theo phần chứng của Bồ-tát. Theo Đốn giáo có nói: “Sơ phát tâm và cứu cánh, cả hai không có sai khác”. Do nhiều nghĩa như thế, nên thiền định mà Bồ-tát tu hành, cũng được gọi là Ba-la-mật. Chú thích chương 2:
(1) Cửu chủng đại thiền: 9 loại thiền của đại thừa.
Theo Pháp Hoa Huyền Nghĩa 4, khi so sánh với các loại thiền khác thì Cửu chủng đại thiền giống như vị đề-hồ, là xuất thế gian thượng thượng thiền.
(2) Đại Niết-bàn (Ma-ha bát-niết-bàn-na) (Đại diệt độ, Đại viên tịch): cảnh giới giải thoát hoàn toàn của chư Phật.
Theo Thiên Thai Tứ Giáo Nghi Tập Chú, thượng. Đại là Pháp thân, diệt là giải thoát, độ là Bát-nhã, là ba đức của chư Phật. Theo Kinh Niết-Bàn (bản bắc, đại 12, 521, trung) ghi: “Bồ-tát ma-ha-tát tu Đại Niết-bàn đối với tất cả pháp đều không có sở kiến, nếu có sở kiến thì không thấy được Phật tính, không thể tu tập Bát-nhã ba-la-mật, không vào được cảnh giới Đại Niết-bàn”.
(3) Số nhân cửu tu (số kinh, số sư, số gia, số nhân): tên gọi khác của luận tạng thuộc Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, (Tát-ba-đa-bộ) của Tiểu thừa, cũng là danh từ gọi thay cho Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ.
Số của Số luận có hai nghĩa, một là Huệ số, hai là Pháp số. Nói theo nghĩa Huệ số thì trong tam học của tam tạng, Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ chú trọng về A-tỳ-đàm, nên gọi là Tông A Tỳ Đàm. Giáo phái của tông này được hiển bày là dùng huệ học để đoạn hoặc chứng lý; nhưng giáo nghĩa tông này lại đặt nặng vấn đề tâm sở hữu pháp, nên thời xưa
gọi là Tâm số. Do đây có thể biết tông này dùng huệ học làm nền tảng, cho nên gọi luận tạng của họ cũng được gọi là Số luận. Nếu nói theo pháp số, thuyết này lập 75 pháp số. Vả lại ý nghĩa của tông này cũng là căn bản pháp số của Phật giáo, nên giáo nghĩa của họ nói ra hoặc luận tạng mà họ tôn trọng gọi là Số luận. Thời gian từ thời đại Nam Bắc triều đến thời Sơ Đường, giới Phật giáo quen gọi các vị trong Tông Địa Luận là Địa sư, Tông Thành Thật Luận là Luận gia, Nhiếp Luận là Nhiếp sư, theo đây thì gọi các vị trong Tông A Tỳ Đàm là Số gia, Số sư, Số nhân.
Ngoài ra, trong sáu phái triết học ở Ấn Độ cũng có một phái gọi là Số luận. Giáo nghĩa của phái này là dùng trí tuệ phân biệt để suy lường các pháp, tên phái này tuy giống với tên Số luận (A-tỳ- đàm) của Tiểu thừa, nhưng tông chỉ và giáo nghĩa thì khác xa nên gọi phái này là Số Luận Ngoại Đạo để phân biệt với Số luận A Tỳ Đàm của Phật giáo.
(4) Thập đại địa tâm số: là (10 tâm sở) tác dụng tâm lý tương ưng và đồng thời sinh khởi với tất cả tâm: thụ, tưởng, tư, xúc, dục, huệ, niệm, tác ý, thắng giải, tam-ma-địa, (tam-ma-địa là chánh định, đẳng trì tức là chuyên tâm một cảnh).
(5) Vô tránh tam-muội: chánh định trụ trong lý Không và không tranh luận với người, ngài Tu Bồ Đề là người thông hiểu lý Không bậc nhất, cho nên trong các đệ tử Phật, Sư là người bậc nhất chứng được Vô tránh tam-muội.
Kinh Kim Cương, đại 8, 749, hạ ghi: “Phật nói con được Vô tránh tam-muội, là bậc nhất trong loài người, là A-la-hán ly dục đệ nhất”. Kim Cương Lược Sớ Thích của ngài Nguyên Hiền cho rằng bậc chứng nhập Vô tránh tam-muội, do hiểu được lý Không cho nên mình và người đều quên, không làm não hại chúng sinh, cũng làm cho chúng sinh không khởi phiền não. Hành giả hàng Sơ môn của Viên giáo chủ trương khi tu tất cả vô lậu để đối trị thiền định Quán, Luyện, Huân, Tu, thì liền chứng Thánh quả, là Đại A-la-hán, đầy đủ lục thông, tam minh đồng thời chứng được Vô tránh tam-muội.
(6) Thủ Lăng Nghiêm (Thủ Lăng Nghiêm tam-ma-địa, Thủ Lăng Già Tam-ma-đề, Thủ Lăng Nghiêm định): ý nghĩa (Đại căn bản định, Kiện tướng tam muội, Kiện hành định, Dũng kiện định, Dũng định) định này nhiếp giữ các pháp một cách vững chắc, là 1 trong 108 tam-muội, là loại thiền định mà chư Phật và hàng Bồ-tát thập địa chứng đắc. Luận Đại Trí Độ 47, đại 25, 398, hạ, ghi: “Thủ Lăng Nghiêm tam- muội, đời Tần dịch là Kiện tướng. Phân biệt được hành tướng các tam-muội sâu cạn, nhiều ít, như vị đại tướng biết rõ năng lực của binh sĩ mạnh hay yếu. Hơn nữa, Bồ-tát chứng được tam-muội này thì các ma phiền não không thể phá hoại, như vị Chuyển Luân Thánh Vương đứng đầu đội binh tướng giỏi, bất cứ đi đến đâu đều hàng phục tất cả”.
Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, thượng, hàng Bồ-tát Sơ địa đến Cửu địa chưa thể chứng được tam-muội này, chỉ có hàng Bồ-tát Thập địa mới chứng được tam muội này. Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội gồm 100 hạng mục: chuyển tâm giống như hư không, quán sát các tâm chúng sinh hiện tại, phân biệt các căn lợi độn của chúng sinh. Tam- muội này không thể dùng một việc, một duyên, một nghĩa mà biết được, tất cả thiền định giải thoát tam- muội, thần thông như ý, trí tuệ vô ngại đều nằm trong Thủ Lăng Nghiêm, ví như các khe suối, sông ngòi đều chảy vào biển cả. Cho nên tất cả thiền định của Bồ-tát và tất các các pháp môn như: tam- muội, thiền định, biện tài, giải thoát, đà-la-ni thần thông, giải thoát đều nằm trong Thủ Lăng Nghiêm tam-muội.
Kinh Niết Bàn, 25 (bản Nam) cho rằng Phật tính tức là Thủ Lăng Nghiêm tam-muội, tam-muội này có 5 danh từ: Thủ Lăng Nghiêm tam-muội, Bát-nhã ba-la-mật, Kim cương tam-muội, Sư tử hống tam-muội và Phật tính, “Thủ lăng” chỉ cho rốt ráo, “Nghiêm” nghĩa là vững chắc, nên gọi định này là Phật tính. Chương 3
GIẢI THÍCH THIỀN BA-LA-MẬT
(Thiền có hai môn: Sắc, Tâm và ba loại thiền: Thế gian, Xuất thế gian và Xuất thế gian
thượng thượng)
Sau khi hành giả đã hiểu ý nghĩa danh từ Thiền ba-la-mật và hiểu được thể tính Thiền ba- la-mật, nếu muốn tiến tu, cần phải có phương tiện vào cửa. Nay giới thiệu phương tiện vào cửa, có ba phần:
A. Tiêu đề thiền môn
B. Giải thích
C. Tổng kết A. TIÊU ĐỀ THIỀN MÔN
Nếu tìm trong các kinh luận thì nhiều vô lượng, nhưng căn bản chỉ có hai mà thôi, đó là Sắc và Tâm. Như bài kệ trong Luận Ma Ha Diễn ghi:
Trong tất cả các pháp, Chỉ có danh và sắc,
Nếu muốn quán như thật, Cũng nên quán danh, sắc. Tuy tâm si nhiều tưởng, Với các pháp phân biệt, Lại không có một pháp,
Ra ngoài danh và sắc.
Nói về Sắc, có hai pháp môn, như trong kinh ghi: “Hai cửa cam lồ đó là pháp Quán bất tịnh và Quán sổ tức”.
Nói về Tâm chỉ có một pháp môn, như trong kinh ghi: “Quán chiếu tâm tính, gọi là thiền định bậc thượng”.
Nay chia riêng pháp môn thiền của Sắc và Tâm gồm có ba thứ:
- Thế gian thiền
- Xuất thế gian thiền
- Xuất thế gian thượng thượng thiền
Cho nên trong Kinh Đại Tập có nói ba phương pháp thâu nhiếp tâm:
- Dùng pháp Sinh để nhiếp tâm
- Dùng pháp Diệt để nhiếp tâm
- Dùng pháp Không sinh không diệt để nhiếp tâm B. GIẢI THÍCH THIỀN MÔN
Trong ba môn thiền này, mỗi pháp môn chia làm hai phần để giải thích.
I- Giải thích riêng
II- Giải thích chung I- GIẢI THÍCH RIÊNG
Chữ “Môn” nghĩa là thông suốt như cánh cửa của người thế gian, có thể đi thông suốt qua lại, hoặc đến chỗ cần đến.
- Dùng pháp Quán Sổ tức làm cửa thiền
Dùng phương pháp Sổ tức để thâu nhiếp tâm, có thể khiến tâm hành giả thông đạt đến Tứ thiền, Tứ không định, Tứ vô lượng tâm, Thập lục đặc thắng, Thông minh thiền v.v… tức là pháp môn thiền của thế gian, cũng gọi là dùng pháp Sinh để nhiếp tâm. Nói chung đây là căn cứ pháp môn thiền của phàm phu.
- Dùng pháp Quán Sắc làm cửa thiền
Dùng phương pháp Quán bất tịnh để nhiếp tâm, có thể khiến tâm thông đạt đến Cửu tưởng định, Bát niệm, Thập tưởng, Bát bối xả, Bát thắng xứ, Thập nhất thiết xứ, Cửu thứ đệ định, Sư tử phấn tấn tam-muội, Siêu việt tam-muội v.v… Đây chính là pháp môn thiền xuất thế gian, cũng gọi là dùng pháp Diệt để nhiếp tâm. Nói chung đây là căn cứ pháp môn thiền của Nhị thừa.
- Dùng pháp Quán Tâm làm cửa thiền
Dùng trí tuệ, xoay lại quán chiếu tâm tính, thì tâm hành giả thông đạt đến các thiền tam-muội lớn: Pháp Hoa tam-muội(1), Niệm Phật tam-muội(2), Bát chu tam-muội(3), Giác ý(4), Thủ Lăng Nghiêm cho đến Tự tính thiền, Thanh tịnh tịnh thiền v.v… là các thiền xuất thế gian thượng thượng, cũng gọi là dùng pháp Không sinh không diệt để nhiếp tâm. Nói chung đây là pháp môn thiền của Bồ-tát. Do những ý nghĩa này, nên lấy ba pháp môn để làm cửa vào thiền.
HỎI: Có vô lượng pháp môn, vì sao chỉ dùng ba pháp môn này làm cửa thiền?
ĐÁP: Nay giải thích sơ lược, có ba nguyên nhân lập ba pháp môn này làm cửa thiền:
a) Như pháp tướng b) Tùy tiện dị
c) Nhiếp pháp tận
a) Như pháp tướng
Trong Kinh Đại Tập ghi: “Lúc mới thọ thai bảy ngày, thai nhi có ba đặc tính là mạng, noãn, thức. Hơi thở ra vào gọi là Thọ mạng. Có tác dụng làm cho sắc thân thai nhi không bị hôi, bị hư nát gọi là Noãn”. Đây chính là nghiệp lực gìn giữ để tứ đại sắc thân không bị hư nát, hôi thối. Ý trong tâm gọi là Thức. Thức chính là tâm giác biết trong sát-na vậy. Ba pháp: noãn, hơi thở, thức hòa hợp, khiến con người có thể từ khi mới sinh đến trưởng thành không tăng, không giảm. Nhưng kẻ phàm phu ngu mê không biết, vọng chấp phân biệt nhân, ngã, chúng sinh v.v… từ đó tạo ra nghiệp ác, nghiệp thiện, sinh tâm chấp trước các nghiệp nhiễm ô. Vì không biết đạo lý nhân duyên quả báo mà chịu điên đảo sinh tử qua lại trong Tam giới. Nếu truy tìm tận nguồn gốc sinh mạng, không ngoài ba pháp này, cho nên lấy ba pháp làm cửa, cũng không nhiều không ít vậy.
b) Tùy tiện dị
Tùy phương tiện dễ, nên lập ba pháp làm cửa thiền.
1. Nhân quán hơi thở để tu, thì có hai phương tiện dễ dàng hội nhập thiền định :
- Nhanh chóng đắc thiền định.
- Dễ giác ngộ vô thường.
2. Dùng Sắc làm pháp Quán bất tịnh, cũng có hai phương tiện:
- Đoạn trừ tâm niệm tham dục.
- Dễ liễu đạt các pháp hư giả.
3. Dùng phương pháp quán Tâm, cũng có hai phương tiện:
- Hàng phục tất cả phiền não.
- Dễ ngộ lý tính Không.
c) Nhiếp pháp tận
Dùng pháp Quán hơi thở, Quán tâm, Quán sắc bất tịnh, ba pháp này là căn bản của thiền môn. Vì thế chỉ nêu ra ba pháp là điểm trọng yếu, nếu nói rộng thì có vô lượng pháp môn.
- Như trong pháp Quán hơi thở, có lúc dùng phương pháp đếm hơi thở, hoặc theo hơi thở, hoặc quán chiếu hơi thở. Do đó, mỗi mỗi pháp môn không đồng, mà cảnh giới tu chứng cũng khác nhau.
- Như trong pháp Quán sắc, có lúc quán Ngoại sắc, hoặc Nội sắc, hoặc Quán từ bi, Quán tướng hảo của Phật, cho đến Quán thật tướng của các pháp. Do pháp quán chẳng đồng, nên cảnh giới đạt đến cũng khác nhau.
- Như trong pháp Quán tâm, hoặc tu Chỉ, hoặc Quán, hoặc Giác, hoặc Liễu đạt, hoặc Giác liễu các tâm nhập chẳng phải tâm, giác ngộ không tâm phát sinh Tứ vô lượng tâm. Hoặc có người giác ngộ Tâm Không chẳng phải là Không tâm, nên biết tất cả Tâm chẳng phải Tâm. Do tu pháp môn Quán tâm mỗi mỗi chẳng đồng, chỗ đạt đến cũng khác nhau.
Cho nên nói ba môn này bao hàm các pháp môn, ý này đến Chương 7 và Chương 8 phần giải thích tu chứng, mới thấy sự thâm diệu trong ấy. II- GIẢI THÍCH CHUNG
Thật ra cả ba pháp môn này đều bao gồm các môn thiền: Thế gian, Xuất thế gian và Xuất thế gian thượng thượng thiền. Vì sao?
- Như pháp Quán hơi thở không nhất định phải thuộc về môn thiền thế gian. Vì trong Tỳ- ni luật tạng, Phật vì hàng đệ tử Thanh văn mà thuyết 16 phương pháp Quán hơi thở, đệ tử y theo đó tu hành, đều chứng đắc Thánh quả. Cho nên pháp Sổ tức cũng là môn thiền Xuất thế gian, tức là pháp môn Đại thừa. Như trong Kinh Đại Phẩm ghi: “Pháp A-na-ba-na là pháp Bồ-tát Ma-ha-diễn
(Đại thừa)”. Trong Kinh Thỉnh Quán Âm ghi: “Dùng pháp Quán hơi thở để luận về 'Lục tự chương cú'(5) và thuyết minh quả chứng của hàng Tam thừa”. Cho nên pháp Quán hơi thở, đâu phải chỉ là pháp thiền của Thế gian?
- Dùng pháp Quán Sắc làm cửa thiền
Không phải chỉ riêng pháp tu của hàng Nhị thừa, cũng không đồng với pháp Đại thừa và phàm phu ngoại đạo. Vì sao? Vì trong Kinh Niết Bàn ghi: “Ngoại đạo chỉ có thể quán đối trị Sắc pháp, không thể quán đối trị Tâm, mà đệ tử của ta rất khéo đối trị nội tâm”. Cho nên phàm phu cũng quán được Sắc pháp. Pháp quán Sắc của Đại thừa, như trong Kinh Đại Phẩm ghi: “Quán sắc thân sình trướng, hư thối là pháp tu của Bồ-tát Ma-ha-diễn”. Cho nên pháp quán Sắc đâu chỉ riêng của môn thiền Xuất thế gian?
- Dùng pháp Quán Tâm làm cửa thiền
Cũng không phải chỉ là pháp quán của Bồ-tát. Vì sao? Vì hàng ngoại đạo cũng có thể quán tâm, do đó khởi (Tứ thập bát kiến) 48 thứ kiến chấp. Phàm phu dùng pháp quán tâm, nhập định Tứ không, thông đạt pháp Thanh văn. Như trong Kinh Niết Bàn ghi: “Hàng đệ tử của ta khéo đối trị nội tâm, nên có thể xa lìa ràng buộc trong tam giới”. Do đó phương pháp quán Tâm và Pháp đâu chỉ riêng của môn thiền Xuất thế gian thượng thượng mà thôi.
Cho nên ba môn thiền này, hỗ thông qua lại lẫn nhau, căn cơ người dụng tâm tu hành, cũng có ba hạng khác nhau, nên khai phát thiền và chứng đạo cũng bất đồng. Ý nghĩa này đến chương 9, phần Giải thích Thiền ba-la-mật, sẽ nói rộng thêm. C. TỔNG KẾT THIỀN MÔN
HỎI: Đã giải thích chung và riêng, vì sao phần trước lại thêm phân biệt?
ĐÁP: Tất cả các nghĩa lý đều có chung và riêng, về giáo môn đối với nhân duyên lợi ích chúng sinh chẳng đồng, nên nói pháp chẳng đồng cũng không có lỗi. Hơn nữa, phần trước nói ý nghĩa chưa được cứu cánh vậy, chẳng nên chấp cố định.
HỎI: Cả ba môn xen lẫn có thể thông đạt, nếu chỉ tu tập pháp Quán hơi thở có thể chứng được các thiền định như: Cửu tưởng, Bát bối xả, Tự tính thiền chăng?
ĐÁP: Không nhất định, có người chứng được hoặc không chứng được. Người mới học thiền thì không chứng được, hàng Nhị thừa tu định tự tại thì
chứng được, hàng Bồ-tát đầy đủ phương tiện Ba-la- mật thì tùy ý vô ngại.
HỎI: Vì sao người mới học không chứng được? Có người tu pháp Quán hơi thở, mà vẫn chứng được các thiền: Cửu tưởng, Bát bối xả, Niệm Phật tam-muội, Tâm từ v.v… thì thế nào?
ĐÁP: Đây là do nhân duyên đời trước được khai phát, chẳng phải do tu pháp Quán hơi thở mà chứng được, duyên hết thì cảnh giới diệt mất, nếu không tiến bộ thì không thể thành tựu pháp môn thứ lớp. Ý nghĩa này đến phần Nội phương tiện giải thích về thiện căn phát tướng, sẽ nói rộng và tỉ mỉ hơn. Hai môn còn lại cũng như thế. Chú thích chương 3:
(1) Pháp Hoa tam-muội (Pháp Hoa sám): Pháp Hoa tam-muội này y cứ theo Kinh Pháp Hoa và Kinh Quán Phổ Hiền lấy 37 ngày làm một thời hạn, vị hành giả tụng kinh hoặc kinh hành, hoặc khi đứng, ngồi đều tư duy quán sát lý thật tướng trung đạo. Phương pháp tu này chủ yếu là sám hối tiêu trừ nghi chướng, nên cần phải tu tập ngũ hối: sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỷ, hồi hướng và phát nguyện. Đêm ngày có sáu thời, có ba phương pháp:
a) Thân khai già: Khai là nên đi và ngồi, Già là không nên đứng nằm một chỗ.
b) Khẩu thuyết mặc: miệng tụng kinh điển Đại thừa, không xen tạp các việc của thế gian.
c) Ý chỉ quán - có hai loại:
- Hữu tướng hành là y theo phẩm Khuyến Phát, không nhập thiền định, bất luận lúc đi, đứng, ngồi đều nhất tâm tụng niệm Kinh Pháp Hoa, ngày đêm sáu thời sám hối tội chướng của sáu căn.
- Vô tướng hành là y theo phẩm An Lạc Hạnh, nhập thiền định thâm sâu vi diệu, quán chiếu sáu căn để thấu suốt trung đạo của tam đế.
(2) Niệm Phật tam-muội: quán niệm công đức của chư Phật có hai loại:
a) Nhân hành niệm Phật tam-muội: có ba thứ là quán tướng hảo của Phật, quán thật tướng Pháp thân Phật và xưng danh hiệu Phật.
b) Quả thành niệm Phật tam-muội: tức là tu thành tựu ba loại nhân hành. Về tướng trạng và công năng của tam-muội này có nhiều thuyết khác nhau đều gọi chung là Niệm Phật tam-muội. Nhưng chư Phật có ba đời mười phương khác nhau thì Pháp thân, Báo thân và Ứng thân riêng biệt nên quán niệm Phật và xưng danh hiệu Phật khác nhau.
(3) Bát chu tam-muội: một loại chánh định nhờ thực hiện pháp môn tu tập vừa đi vừa niệm quán tưởng Phật.
(4) Giác ý tam-muội: Tam-muội phi hành, phi tọa, trọng yếu nhất trong 4 loại tam-muội do Tông Thiên Thai lập, tức là trong tất cả thời, làm tất cả việc niệm khởi liền biết, ý khởi liền tu tam-muội. Kinh Đại phẩm Bát-nhã gọi là Giác ý tam-muội, ngài Huệ Tư gọi là Tùy tự ý tam-muội
(5) Lục tự chương cú: là một trong bốn loại Đà-la-ni sáu chữ: Lục tự chương cú Đà-la-ni của Bồ-tát Quán Thế Âm, Lục tự chân ngôn của Bồ-tát Quán Thế Âm, Lục tự chân ngôn của Bồ-tát Văn Thù, Lục tự đại minh của Phật. Chương 4
GIẢI THÍCH VỀ THỨ LỚP CỦA THIỀN BA-LA-MẬT
(Giải thích thứ tự các giai đoạn tu thiền, từ sơ phát tâm đến Phật quả)
Hành giả đã biết tướng trạng của Thiền môn, hàng Bồ-tát từ sơ phát tâm cho đến
quả vị Phật, trong thời gian tu tập thiền định lần lượt từ cạn đến sâu, nhất định phải hiểu rõ thứ bậc. Nay chúng ta đem giáo lý kinh và luận có liên quan về vấn đề thiền định, để tu tập theo thứ lớp rõ ràng. Trong Kinh Đại Phẩm có ghi: “Bồ-tát Ma-ha-tát tu hành có thứ lớp, học có thứ lớp, chứng đạo có thứ lớp”.
Luận về thứ lớp của thiền định có hai phần:
A. Giải thích ý nghĩa các thiền theo thứ lớp
B. Giải thích ý nghĩa các thiền không theo thứ lớp A. GIẢI THÍCH Ý NGHĨA CÁC THIỀN THEO THỨ LỚP
Hành giả tu thiền định, trước tiên phải trì giới thanh tịnh, đồng thời nhàm chán tai họa nơi Dục giới, tu tập duyên niệm nơi hơi thở, nhập Định dục giới, từ Định dục giới chứng được định Vị đáo địa, từ định Vị đáo địa lần lượt chứng Sơ thiền cho đến Tứ thiền. Đây gọi là Nội sắc giới định (định trong cõi Sắc).
Kế đến làm các công đức lớn, quán tưởng tất cả chúng sinh đều được sung sướng, vui vẻ, lần lượt chứng đắc Tứ vô lượng tâm. Đây gọi là Ngoại sắc giới định (định ngoài cõi Sắc).
Tám thứ thiền định này tuy duyên nơi hai cảnh giới Nội và Ngoại, mà chỗ nhập định chẳng đồng, nhưng đều thuộc về Sắc giới. Khi hành giả trụ trong định Đệ tứ thiền, nhàm chán tai họa vật chất của Sắc giới giống như ngục tù, diệt bỏ hai thứ Nội sắc và Ngoại sắc, nhất tâm duyên nơi Không, vượt qua nạn Sắc giới, chứng được định Tứ không, đây gọi là định Vô sắc giới. Mười hai môn thiền này đều thuộc pháp hữu lậu.
Thiền cũng có hữu lậu và vô lậu. Sau khi hành giả chứng được thiền căn bản rồi, vì muốn bỏ tâm kiến chấp trong thiền này, lại muốn ở Dục giới tu Lục diệu pháp môn. Vì sao? Vì trong Lục diệu môn thì ba pháp: Sổ tức, Tùy tức và Chỉ là phương tiện để nhập định, còn ba pháp: Quán, Hoàn và Tịnh là phương tiện để quán tuệ.
Đặc sắc của Lục diệu pháp môn là Định ái, Tuệ sách.
Định ái: Do tham ái thiền định nên gọi là Hữu lậu.
Tuệ sách: Do trí tuệ thúc đẩy nên nói là Vô lậu. Pháp quán của “Lục diệu pháp” phần nhiều có đầy đủ ở trong Định dục giới, Vị đáo địa, Tứ thiền và cũng có khi tu đến định Vô sắc giới.
Kế tiếp là giải thích Thập lục đặc thắng, nếu theo phương diện về chiều ngang là đối xứng với Tứ niệm xứ. Theo chiều dọc từ Định dục giới đến Phi tưởng định. Do lúc tu thiền định trong mỗi địa đều lập Tứ niệm xứ để quán chiếu phân tích phá trừ chấp trước, nhân đó mới phát sinh Thiền vô lậu.
Kế là giải thích pháp tu Thông minh quán, vì phương pháp quán của Thập lục đặc thắng ở phần trước, là do dùng tổng thể để quán nên còn thô, nay tu Thông minh quán là dùng pháp quán phân tích nên rất vi tế, pháp tu Thông minh quán này cũng từ Định dục giới đến Phi tưởng, thậm chí nhập Diệt tận định, ba loại thiền này cũng gọi là Tịnh thiền, cộng cả định Sắc giới và Vô sắc giới là năm loại, các loại Thiền này còn thuộc trong phạm vi Căn bản thiền.
Nay nói về tướng thứ lớp của Thiền vô lậu, có hai ý nghĩa chẳng đồng: Hạnh hành thứ lớp và Tuệ hành thứ lớp. I- HẠNH HÀNH THỨ LỚP
Có bốn môn thiền: Quán, Luyện, Huân, Tu.
1. Quán thiền: gồm có 6 loại :
a) Đầu tiên tu quán Cửu tưởng: vì trước khi chưa được thiền vô lậu, nên dùng pháp quán Cửu tưởng để đối trị phá trừ phiền não của Dục giới.
b) Kế tiếp là tu Bát niệm: để trừ tâm sợ hãi phát sinh, trong khi tu pháp quán Cửu tưởng.
c) Quán Thập tưởng: Người tu pháp hoại ở trong Dục giới, tu pháp quán Thập tưởng này có thể đoạn trừ phiền não trong Tam giới.
d) Tu pháp Bát bối xả: Người tu pháp bất hoại, dùng pháp quán này, để đối trị tri kiến chấp trước Căn bản thiền ở Tam giới.
e) Tu Bát thắng xứ: là vì ở trong thiền định, quán chiếu các cảnh duyên được tự tại.
f) Tu Thập nhất thiết xứ: là vì ở trong định muốn quán chiếu, khiến Tâm và Sắc có thể trùm khắp. Cho đến tu chứng được sáu thứ thần thông cũng thuộc về Quán thiền.
2. Luyện thiền
Tức là Cửu thứ đệ định, bao quát hai thứ thiền là Quán và Định ở phần trước, để điều hòa tâm được thuần thục, trong lúc nhập thiền định, tâm tâm thứ lớp không gián đoạn. Cho nên Tam tam- muội có giác có quán v.v… cũng đều thuộc phạm vi của Luyện thiền.
3. Huân thiền
Tức là Sư Tử phấn tấn tam-muội. Xuất nhập thứ lớp thuận nghịch huân tu các thiền định, khiến định và quán thuần thục rõ ràng, công đức thiền định thêm tăng trưởng và lợi ích.
4. Tu thiền
Tức là Siêu việt tam-muội. Đối với trong các thiền siêu nhập siêu xuất, vì đã được tự tại giải thoát không chướng ngại.
Trong Kinh Đại Phẩm ghi: “Bồ-tát Ma-ha-tát trụ nơi Bát-nhã Ba-la-mật, dùng Thiền ba-la-mật, ngoại trừ Tam-muội của chư Phật, còn những thứ tam-muội khác như: tam-muội của Thanh văn, tam-muội của Bích chi Phật, tam-muội Bồ-tát v.v... đều hành, đều nhập”.
“Các tam-muội khác” tức là Căn bản định. Tam-muội Thanh văn tức là ba loại Tam-muội: Không, Vô tướng, Vô nguyện và Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, Tứ đế, Thập lục hành. Tam-muội Bích chi Phật tức là Thập nhị nhân duyên tam-muội. Tam-muội Bồ-tát tức là Tự tính thiền v.v... đều gọi là Tam-muội.
Bồ-tát trụ trong các Tam-muội, có thể thuận nghịch xuất nhập định Bát bối xả, nương theo pháp quán Bát bối xả thuận nghịch xuất nhập Cửu thứ đệ định, nương Cửu thứ đệ định có thể thuận nghịch thứ lớp xuất nhập Sư tử phấn tấn tam-muội, nương nơi Sư tử phấn tấn tam-muội có thể thứ tự thuận nghịch xuất nhập Siêu việt tam-muội. Bồ- tát nương nơi các tam-muội, chứng được các pháp tướng v.v… mới ngang bằng với hạnh hành viên mãn thiền vô lậu của hàng Nhị thừa. Vì cớ sao? Vì Đại A-la-hán cũng chứng được Siêu việt tam-muội. II- TUỆ HÀNH THỨ LỚP
- Do nghe pháp Tứ đế, tu Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, sau đó nhập vào Tam giải thoát môn. (Không, Vô Tướng, Vô Nguyện) kế là dùng (Thập lục hành quán)(1) 16 pháp quán phân tích Tứ đế, chứng được Thập trí(2), Tam vô lậu(3) căn, thành tựu Cửu tu(4), chứng được Cửu đoạn(5). Trên đây đã giới thiệu pháp hành trí tuệ vô lậu của Thanh văn.
- Pháp quán Thập nhị nhân duyên chính là pháp tu Tuệ hành vô lậu của Bích chi Phật.
- Tuệ hành vô lậu của Bồ-tát là thứ lớp thành tựu hữu học và vô học của Nhị thừa, chứng đắc Trí đoạn(6), đây gọi là từ Giả nhập Không, đầy đủ các pháp quán.
Cho nên Kinh Đại Phẩm ghi: “Bồ-tát Ma-ha- tát hành Bát-nhã ba-la-mật, dùng sức phương tiện, từ Càn tuệ địa(7) nhập Tính địa(8), Bát nhân địa(9), Kiến địa(10), Ly dục địa(11), A-la-hán(12) và Bích-chi Phật địa(13), đều có khả năng nhập và hành các địa nhưng không thủ chứng”.
Giải thích riêng về thiền thứ lớp của Bồ-tát:
Cửu chủng đại thiền(14):
1. Tự tính thiền
2. Nhất thiết nghĩa thiền
3. Nan thiền
4. Nhất thiết môn thiền
5. Thiện nhân thiền
6. Nhất thiết hành thiền
7. Trừ não thiền
8. Thử thế tha thế lạc thiền
9. Thanh tịnh tịnh thiền
Bồ-tát tu 9 loại thiền này, chứng quả Đại Bồ- đề, được đầy đủ tất cả Phật pháp: Thập lực(15), Tứ vô sở úy(16), Thập bát bất cộng(17) v.v...
Trên đây đã giải thích sơ lược về hàng Bồ-tát từ khi mới phát tâm tu thiền, nương theo thứ lớp tu hành, thứ lớp học tập, thứ lớp đắc đạo, cho đến thứ lớp thành Phật quả, gọi là “Trụ trong thiền định thâm sâu, được Đại Niết-bàn”. Ý nghĩa này đến phần tu chứng của Chương 7 và trong phần hiển thị quả báo của Chương 8, sẽ luận đầy đủ.
HỎI: Bồ-tát Đại Sĩ vì muốn thông đạt tướng trạng sâu cạn của các thiền định, chứng được đầy đủ tất cả Phật pháp, do đó cần thứ lớp tu hành, thứ lớp học tập như đã nói phần trước. Nhưng hiện nay, khi người mới phát tâm tu thiền, cần phải theo thứ lớp tu hành như trên, hay không cần theo thứ lớp?
ĐÁP: Nay vì muốn nói rõ tướng trạng sâu cạn của các thiền, cho nên mới phân chia thứ lớp này.
Nếu luận về người mới phát tâm tu thiền, tùy chỗ ưa thích của họ mà khéo biết phương pháp đối trị, họ mới dễ dàng chứng nhập Niết-bàn.
Chỉ cần bắt đầu tu từ cửa phương tiện của các thiền, không nhất định phải thứ lớp như phần trước. Ý nghĩa này đến phần Nội phương tiện, trong An tâm thiền môn sẽ phân tích rộng. B. GIẢI THÍCH Ý NGHĨA CÁC THIỀN KHÔNG THEO THỨ LỚP
HỎI: Bồ-tát tu thiền, nhất định tu theo thứ lớp, hay không theo thứ lớp?
ĐÁP: Có bốn trường hợp
1. Theo thứ lớp
2. Không theo thứ lớp
3. Theo thứ lớp, không theo thứ lớp
4. Không thứ lớp theo thứ lớp
1. Theo thứ lớp
Kinh Đại Phẩm ghi: “Bồ-tát theo thứ lớp tu, thứ lớp học, thứ lớp chứng đạo”.
2. Không theo thứ lớp
Bồ-tát tu Pháp Hoa tam-muội, Nhất Hạnh tam-muội(18) v.v… quán pháp giới bình đẳng, không sâu, không cạn, nên gọi là tu không thứ lớp. Kinh Vô Lượng Nghĩa có ghi: “Đi đường thẳng lớn, không gặp khổ nạn chướng ngại”.
3. Theo thứ lớp không theo thứ lớp
Kinh Đại Phẩm có ghi: “Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: ‘Tâm nên thứ lớp thực hành Bát-nhã, nên sinh Bát-nhã, nên tu Bát-nhã chăng?’ Phật dạy ông Tu Bồ Đề: ‘Thường không lìa Tát-bà-nhã (Phật tính) là hành Bát-nhã, là sinh Bát-nhã, là tu Bát-nhã’”.
4. Không thứ lớp theo thứ lớp
Như ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: “Hết thảy các pháp đều không có tự tính, vì sao Bồ-tát chứng được từ một địa lên một địa?”. Phật nói: “Do các pháp Không, nên Bồ-tát mới chứng từ một địa lên một địa”.
HỎI: Bốn câu này chỉ đề cập đến Bồ-tát, còn hàng Nhị thừa tu thiền cũng có chăng?
ĐÁP: Hàng Nhị thừa cũng có trường hợp này. Vì sao? Thanh văn cũng có sơ phát tâm, thực hành “Hạnh hành”, bắt đầu tu từ nơi Sơ thiền căn bản, cho đến Siêu việt Tam-muội mới chứng được quả A-la-hán, đây gọi là thứ lớp.
Hoặc có người thuộc căn tánh Thanh văn nghe Phật nói “Thiện lai!” liền chứng đầy đủ Tam minh(19), Bát giải thoát(20) v.v… ấy gọi là không theo thứ lớp.
Hoặc có người thuộc căn tánh Thanh văn khi tu Hạnh hành thứ lớp, có thể dùng Tuệ hành, khéo quán tính Không. Từ sơ tâm thứ lớp chứng đến quả A-la-hán, đây gọi là thứ lớp không thứ lớp.
Hoặc có người thuộc căn tánh Thanh văn từ khi mới phát tâm liền tu Tuệ hành, do “Điện quang tam-muội” được khai phát, chứng Tứ quả, nhưng vẫn chưa đầy đủ các thiền định. Vì muốn viên mãn công đức hữu vi, nên mới thứ lớp tu đầy đủ năm thứ thiền định, đây gọi là không thứ lớp theo thứ lớp vậy.
Ý nghĩa này đến Chương 10 trong quyển 7 và quyển 8 giải thích phần tu chứng và hiển thị quả báo sẽ tự rõ. Chú thích chương 4:
(1) Thập lục hành quán: (Thập lục hành, Thập lục hành tướng, Thập lục hành tướng quán, Thập lục
thánh hạnh, Thập lục đế, Tứ đế thập lục hành tướng)
16 pháp quán của Tứ đế để diệt trừ các kiến chấp:
1/ Bốn pháp quán của Khổ đế: Vô thường: quán 5 thọ ấm do nhân duyên sanh, luôn luôn sanh diệt; Khổ: quán 5 ấm là khổ vì vô thường bức bách; Không: quán 5 thọ ấm không một tướng hay dị tướng nên không, tức là không; Vô ngã: quán trong 5 ấm ngã và ngã sở bất khả đắc, là vô tướng, là hành vô ngã.
2/ Bốn pháp quán của Tập đế: Tập: quán phiền não do nghiệp hữu lậu hòa hợp chiêu quả khổ; Nhân: quán 6 nhân sanh quả khổ; Duyên: quán 4 duyên (đất sét, bánh xe, dây và nước) sanh quả khổ; Sinh: sau khi thọ sanh lại có 5 ấm.
3/ Bốn pháp quán của Diệt đế: Tận: quán khi Niết-bàn, các khổ đều hết; Diệt: quán các lửa phiền não đều tắt; Diệu: Niết-bàn là đệ nhất vì không còn hoạn nạn; Ly: quán Niết-bàn xa lìa sanh tử thế gian vì không còn các tai ương.
4/ Bốn pháp quán của Đạo đế: Đạo: quán 37 phẩm trợ đạo có công năng thông đến Niết-bàn; Chánh: quán 37 phẩm trợ đạo là khế hợp với chân lý; Tích: quán 37 phẩm đạo là con đường Thánh nhân đi; Thừa: quán 37 phẩm trợ đạo có công năng đi đến tam giải thoát, các phiền não ái kiến không thể chướng ngại.
Mục đích của 16 hành tướng là để đối trị các kiến chấp. Quán vô thường, khổ, không, vô ngã là đối trị các kiến chấp: thường, lạc, ngã sở, ngã kiến; Quán Tập, Nhân, Duyên, Sinh là để đối trị các kiến chấp: vô nhân, nhất nhân, biến nhân, tri tiên nhân; Quán Tận, Diệt, Diệu, Ly để đối trị kiến chấp: khổ, không, tĩnh lự, vĩnh hằng; Quán Đạo, Chánh, Tích, Thừa để đối trị kiến chấp: vô đạo, tà đạo, dư đạo, thoái đạo.
(2) Thập trí: 10 trí được phân biệt theo tính chất hữu lậu và vô lậu.
1/ Thế tục trí: trí thường chấp vào cảnh thế tục.
2/ Pháp trí: trí tuệ vô lậu duyên nơi lý Tứ đế để đoạn trừ phiền não cõi dục.
3/ Loại trí: trí tuệ vô lậu tùy theo pháp trí mà sinh, duyên theo Tứ đế cõi sắc và vô sắc để đoạn trừ phiền não.
4/ Khổ.
5/ Tập.
6/ Diệt.
7/ Đạo: (Bốn trí 4;5;6;7 này theo thứ tự để đoạn trừ các phiền não của Tứ đế.)
8/ Tha tâm trí: trí rõ biết tâm tâm sở của cõi dục, cõi sắc, và tâm tâm sở vô lậu.
9/ Tận trí: trí tuệ của bậc Thánh ở giai vị Vô học, biết rõ rằng ta đã biết khổ, ta đã đoạn tập, ta đã chứng diệt, ta đã tu đạo, là trí vô lậu phát sinh đồng thời với “đắc” của lậu tận.
10/ Vô sinh trí: trí tuệ của bậc Thánh ở giai vị Vô học, biết rõ ta đã biết khổ, không còn gì để biết; ta đã đoạn tập không còn gì để đoạn; ta đã chứng diệt không còn gì để chứng, ta đã tu đạo không còn để tu. Là trí vô lậu phát sinh đồng với “đắc” của Phi trạch diệt vô vi.
(3) Tam vô lậu căn: ba căn cơ: Kiến đạo, Tu đạo và Vô học đạo. Ba căn vô lậu này được lập ra do lấy
9 căn: ý, hỷ, lạc, xả, tín, cần, niệm, định và tuệ làm thể, vì 3 thứ vô lậu này có lực dụng tăng thượng, có công năng sinh ra Thánh pháp vô lậu thanh tịnh nên gọi là Căn.
1/ Vị tri đương tri căn: căn cơ thuộc giai vị Kiến đạo, người ở địa vị này từ vô thỉ đến nay chưa hề nghe chân lý Tứ đế, muốn biết chân lý kia, liền học và tu tập các phương tiện nên cũng gọi là Vị tri dục tri căn.
2/ Dĩ tri căn: căn cơ thuộc giai vị Tu đạo, tức là đã biết rõ chân lý Tứ đế, đồng thời đã đoạn trừ các phiền não mê lý, chỉ vì đoạn trừ mê sự nên tiến tới quán lý Tứ đế, biết rõ cảnh Tứ đế.
3/ Cụ tri căn: địa vị Vô học, tức là biết rõ lý Tứ đế, vì đã đoạn các phiền não, tất cả việc làm đã xong, nên 9 căn gọi là Cụ tri căn. Địa vị này đã chứng quả vô học nên mới có trí này.
(4) Cửu tu (Chín phẩm phiền não, Chín phẩm tư hoặc): chín phẩm hoặc chướng, căn cứ vào thô tế mà chia 4 hoặc: tham, sân, mạn, vô minh, làm 3 bậc thượng, trung, hạ. Trong 9 cõi, cõi dục có đủ 4 món tu hoặc, còn Tứ thiền và Tứ vô sắc thì chỉ có 3, trừ sân. Tổng số các hoặc của mỗi địa chia ra 9 bậc từ thượng thượng cho đến hạ hạ. Như vậy cửu địa gồm có 81 phẩm tu hoặc, thông cả hữu lậu và vô lậu. Phàm phu cũng có thể đoạn được 72 phẩm của 8 địa dưới. Bậc thánh ở giai vị Tu đạo đoạn được 6 phẩm trước của cõi dục chứng quả thứ hai. Đoạn 9 phẩm hoặc của cõi dục chứng được quả thứ ba. Đoạn tất cả 72 phẩm tu hoặc của hai cõi Sắc và Vô sắc chứng quả thứ tư.
(5) Cửu đoạn (Cửu vô ngại đạo)
(6) Trí đoạn (Trí đoạn và Trí đức): soi rõ chân lý gọi là Trí đức, tức chỉ Bồ-đề; đoạn hết phiền não gọi là Đoạn đức, tức là chỉ cho Niết-bàn.
(7) Càn tuệ địa: giai vị này chỉ có Tuệ mà chưa có Định, tương đương với vị Tam hiền của Thanh văn và Giác vị của Bồ-tát từ sơ phát tâm cho đến trước khi được Thuận nhẫn.
(8) Tính địa: giai vị này tương đương với Tứ thiện căn vị của Thanh văn và Thuận nhẫn của Bồ-tát, tuy đắm chấp thật tướng các pháp nhưng không khởi tà kiến, đầy đủ trí tuệ và thiền định.
(9) Bát nhân địa (Bát địa): giai vị này tương đương với quả Tu-đà-hoàn hướng trong 15 tâm Kiến đạo của Thanh văn và Vô sinh pháp nhẫn của Bồ-tát.
(10) Kiến địa: hành giả ở giai vị này tương đương với quả Tu-đà-hoàn của Thanh văn và vị A-bệ-bạt-trí (bất thoái chuyển) của Bồ-tát. Hành giả tu tập Bồ-tát thừa ở giai vị này đoạn hết 88 kiến hoặc của 3 cõi, phát sinh chân trí vô lậu, thấy rõ chân lý Tứ đế, tức là Đạo loại trí, tâm cuối cùng trong 16 tâm của Tứ đế.
Theo phẩm Phát Thú, Kinh Đại Phẩm Bát-Nhã 6: “Bồ-tát trụ giai vị này phải thực hành 10 pháp Bất xả (không bỏ): không bỏ trụ xứ A-lan-nhã; ít muốn biết đủ; không bỏ công đức Đầu đà; không bỏ giới cấm; chán ghét các dục vọng; tâm chán thế gian; thích Niết-bàn; bỏ mọi sở hữu; tâm không chìm đắm; không tiếc mọi vật”.
Bạc địa (Vị dục địa): giai vị đoạn 1 phẩm trong 9 phẩm tu Hoặc của cõi Dục, tức là quả Tu-đà-hoàn hoặc quả Tư-đà-hàm. Cũng chỉ cho hàng Bồ-tát đã đoạn các phiền não, nhưng vẫn còn các tập khí mỏng, tức là từ giai vị bất thoái chuyển trở lên cho đến trước quả Phật.
(11) Ly dục địa: giai vị đoạn hết phiền não cõi Dục, tương đương với quả A-na-hàm và giai vị Bồ-tát ly dục địa chứng được ngũ thần thông.
(12) A-la-hán địa (Dĩ tác địa): là giai vị được tận trí, vô sinh trí, chứng quả A-la-hán của hàng Thanh văn hoặc giai vị thành tựu Phật địa của Bồ-tát.
(13) Bích chi Phật địa: tức là hàng Duyên giác quán sát pháp Mười hai nhân duyên mà thành đạo.
(14) Cửu chủng đại thiền:
1/ Tự tính thiền: do quán tự tính của tâm mà rõ biết tất cả các pháp từ tâm lưu xuất, tâm thâu nhiếp muôn vật như hạt châu Như ý; hoặc trụ nơi pháp Chỉ thì nhiếp tâm không tán loạn; hoặc trụ nơi pháp Quán thì phân biệt rõ ràng; hoặc Chỉ và Quán song tu thì định tuệ bình đẳng.
2/ Nhất thiết nghĩa thiền: pháp thiền đạt được tất cả công đức tự tu và giáo hóa người khác, thiền này có hai thứ: Thế gian và Xuất thế gian, trong mỗi thiền lại có ba thứ: a) Thiền trụ hiện pháp lạc: lìa tất cả vọng tưởng, thân tâm dứt bặt, là đệ nhất thiền. b) Thiền xuất sinh công đức tam-muội: sinh ra các thứ tam-muội thuộc vô lượng vô biên bất khả tư nghì thập lực chủng tính, nhập vào tất cả công đức thắng diệu vô ngại huệ, vô tránh nguyện trí. c) Thiền lợi ích chúng sinh: bố thí cho chúng sinh
để trừ các khổ, biết rõ pháp nào nên thuyết, biết ân để báo ân và giúp đỡ chúng sinh thoát khỏi sợ hãi lo âu.
3/ Nan thiền: loại thiền rất khó tu gồm có ba thứ: a) Tu tập lâu ngày thiền định được thắng diệu, tâm tự tại trong tam-muội, vì thương xót chúng sinh muốn cho họ được thành thục, nên xa bỏ cái vui đệ nhất thiền mà sinh vào cõi Dục. b) Nương thiền định phát sinh các tam-muội thâm sâu, vô lượng, vô biên bất khả tư nghị. c) Nương thiền định mà được chứng vô thượng Bồ-đề.
4/ Nhất thiết môn thiền: tất cả thiền định đều do pháp môn này phát sinh. Có bốn thứ: a) Sơ thiền cõi Sắc (thiền có giác có quán). b) Nhị thiền cõi Sắc. c) Tam thiền cõi Sắc. d) Đệ tứ thiền cõi Sắc.
5/ Thiện nhân thiền: nhiếp tất cả pháp thiện là loại thiền của chúng sinh đại thiện tu tập. Có 5 thứ: không chấp, từ, bi, hỷ, xả.
6/ Nhất thiết hành thiền: hàm nhiếp tất cả pháp hành của Đại thừa. Có 13 thứ thiền: thiện, vô ký, hóa hóa, chỉ, quán, tự tha lợi, chánh niệm, xuất sinh công đức thần thông, danh duyên, nghĩa duyên, chỉ tướng duyên, cử tướng duyên, xả tướng duyên.
7/ Trừ não thiền: nếu tu pháp thiền này thì có thể diệt trừ các thứ khổ não của chúng sinh. Có 8 thứ: a) Chú thuật sở y thiền: Bồ-tát nhập định trừ các khổ nạn độc hại sương lạnh bức bách. b) Trừ bệnh thiền: trừ các bệnh do tứ đại phát sinh. c) Vân vũ thiền: thường rưới mưa cam lồ tiêu diệt nạn hạn hán để cứu nạn đói khát. d) Đẳng độ thiền: cứu các nạn sợ hãi của người và phi nhân ở trên đất và dưới nước. e) Nhiêu ích thiền: bố thí thức ăn uống cho chúng sinh đói khát. f) Điều phục thiền: dùng tài vật điều phục chúng sinh. g) Khai giác thiền: khai ngộ chúng sinh mê lầm. h) Đẳng tác thiền: khiến cho việc làm của chúng sinh đều được thành tựu.
8/ Thử thế tha thế lạc thiền: tu thiền này khiến chúng sinh được an vui trong hiện tại, vị lai. Có 9 loại: a) Thiền dùng thần túc biến hiện để điều phục chúng sinh. b) Thiền tùy theo lời nói thị hiện để điều phục chúng sinh. c) Thiền giáo giới biến hiện để điều phục chúng sinh. d) Thiền thị hiện cõi ác để giác ngộ chúng sinh có ác kiến. e) Thiền dùng biện tài làm lợi ích cho chúng sinh mất biện tài. f) Thiền dùng chánh niệm làm cho chúng sinh bị thất niệm. g) Thiền tạo luận không điên đảo, ca tụng Ma-đắc-lặc-già (luận) để làm cho chánh pháp trụ ở đời lâu dài. h) Thiền đem kỹ thuật thế gian làm lợi ích để nhiếp hóa chúng sinh. j) Thiền phóng ánh sáng để tạm dứt cõi ác.
9/ Thanh tịnh tịnh thiền: Nương nơi thiền định này, tất cả phiền não hoặc nghiệp đều đoạn dứt, được quả đại Bồ-đề thanh tịnh. (chữ “tịnh” được lập lại là tiêu biểu cho tướng thanh tịnh cũng bất khả đắc). Có 10 loại: a) Thiền thế gian thanh tịnh không ô nhiễm. b) Thiền xuất thế gian thanh tịnh tịnh. c) Thiền phương tiện thanh tịnh tịnh. d) Thiền được căn bản thanh tịnh tịnh. e) Thiền căn bản thù thắng tiến thanh tịnh tịnh. f) Thiền có lực thanh tịnh tịnh nhập trụ khởi. g) Thiền có lực thanh tịnh tịnh xả rồi lại nhập. h) Thiền thanh tịnh tịnh có lực thần thông. j) Thiền thanh tịnh tịnh lìa tất cả kiến chấp. k) Thiền thanh tịnh tịnh phiền não trí chướng.
(15) Thập lực: 10 thứ trí lực của Như lai đó là:
1/ Xứ phi xứ trí lực: Xứ nghĩa là đạo lý, Như lai biết một cách chắc thật đối với tất cả nhân duyên quả báo, nếu tạo nghiệp thiện nhất định thọ quả báo vui, gọi là Tri thị xứ.
2/ Nghiệp dị thục trí lực: (Nghiệp lực) Như lai biết rõ nghiệp duyên quả báo, sinh xứ trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai của chúng sinh.
3/ Tĩnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí trí lực: (Định lực) Như lai tự tại vô ngại đối với các thiền định, biết khắp và đúng như thật thứ tự sâu cạn.
4/ Căn thượng hạ trí lực: (Căn lực) Như lai biết như thật căn tính thắng liệt, đắc quả của chúng sinh.
5/ Chủng chủng thắng giải trí lực: (Dục lực) Như lai biết như thật tất cả các thứ dục lạc, thiện ác khác nhau của chúng sinh.
6/ Chủng chủng giới trí lực: (Tính lực) Như lai biết khắp và đúng như thật về giới phần khác nhau của chúng sinh ở thế gian.
7/ Biến thú hành trí lực: (Túc mạng lực) Như lai biết khắp và đúng như thật về nơi đến của hạnh hữu lậu là “Lục đạo”, nơi đến của hạnh vô lậu là “Niết-bàn”.
8/ Túc trụ tùy niệm trí lực: Như lai biết khắp và đúng như thật đối với các túc mạng từ một đời cho đến trăm ngàn muôn đời, một kiếp cho đến trăm ngàn muôn kiếp, chết đây sinh kia, chết kia sinh đây, tên tuổi đời sống khổ vui và thọ mạng.
9/ Sinh tử lực: (Thiên nhãn lực) Như lai dùng thiên nhãn biết đúng như thật về thời gian sinh tử của chúng sinh và cõi thiện cõi ác ở đời vị lai, cho đến các nghiệp duyên thiện ác như đẹp xấu, giàu nghèo.
10/ Lậu tận trí lực: Như lai đã đoạn hẳn các tập khí tàn dư chẳng còn sinh khởi; biết khắp và đúng như thật.
(16) Tứ vô sở úy: bốn sự: tự tin, không sợ hãi, dũng mãnh và an ổn của Phật, Bồ-tát khi thuyết pháp. Theo Kinh Tăng Nhất A Hàm 42 thì Tứ vô sở úy của Phật là: Chư pháp hiện đẳng giác vô úy: đối với các pháp đều giác biết, trụ trong chánh kiến không khuất phục điều gì, có sự tự tin không sợ hãi; Nhất thiết lậu tận trí vô úy: đoạn sạch hết phiền não nên không có sự sợ hãi từ các chướng nạn bên ngoài; Chướng pháp bất hư quyết định thọ ký vô úy: giảng nói rộng về phương pháp tu hành chướng ngại, đồng thời không sợ hãi đối với sự bắt bẻ nào; Vị chứng nhất thiết cụ túc xuất đạo như tính vô úy: thuyết giảng đạo xuất thế không hề sợ hãi điều gì.
(17) Thập bát bất cộng: 18 pháp chỉ riêng Phật mới có, không chung cho Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác. 18 pháp bất cộng này được ghi trong Phẩm Quảng Thừa, Đại Phẩm Bát-nhã 5. Đó là:
1/ Thân vô thất: Đức Phật từ vô lượng kiếp đến nay giữ giới thanh tịnh, công đức đầy đủ, tất cả phiền não đều dứt cho nên thân không lỗi.
2/ Khẩu vô thất: Phật có vô lượng trí tuệ biện tài, pháp do Ngài nói ra tùy theo các cơ nghi khiến cho họ đều được chứng ngộ.
3/ Niệm vô thất: Phật tu các thiền định thâm sâu, tâm không tán loạn, không đắm nhiễm các pháp, được sự an ổn đệ nhất nghĩa.
4/ Vô dị tưởng: Phật bình đẳng hóa độ tất cả chúng sinh tâm không chọn lựa.
5/ Vô bất định tâm: mọi hành động đi đứng nằm ngồi của Phật thường không lìa thắng định sâu xa, nhiếp tâm trụ trong thiện pháp, không thoái thất thật tướng các pháp.
6/ Vô bất tri dĩ xả tâm: đối với các cảm thọ như: khổ... Phật giác biết tướng sinh trụ diệt trong từng sát na và trụ trong sự vắng lặng bình đẳng.
7/ Dục vô giảm: Phật có đầy đủ thiện hạnh, luôn muốn hóa độ chúng sinh không bao giờ chán bỏ.
8/ Tinh tấn vô giảm: thân tâm của Phật đều tinh tấn, vì độ chúng sinh nên thường hành các phương tiện không dừng nghỉ.
9/ Niệm vô giảm: Pháp và tất cả trí tuệ của Phật ba đời đều tương ưng, không thoái chuyển.
10/ Huệ vô giảm: Phật có tất cả trí tuệ, trí tuệ này vô ngại đối với ba đời cho nên không khuyết giảm.
11/ Giải thoát vô giảm: Phật xa lìa tất cả chấp trước, có đủ hữu vi giải thoát và vô vi giải thoát, tất cả tập khí phiền não thảy đều dứt sạch, cho nên đối với giải thoát không khuyết giảm.
12/ Giải thoát tri kiến vô giảm: Phật thấy biết rõ ràng các tướng giải thoát, không bị che chướng.
13/ Tất cả thân nghiệp tùy trí tuệ mà thực hành.
14/ Tất cả khẩu nghiệp tùy trí tuệ mà thực hành.
15/ Tất cả ý nghiệp tùy trí tuệ mà thực hành. Ba pháp này là khi Phật khởi ba nghiệp thân khẩu ý, trước quán sát đúng hay sai rồi mới hành động theo trí tuệ, cho nên không lỗi, tất cả đều làm lợi ích cho chúng sinh.
16/ Trí tuệ thấy biết quá khứ không chướng ngại.
17/ Trí tuệ thấy biết vị lai không chướng ngại.
18/ Trí tuệ thấy biết hiện tại không chướng ngại. (18) Nhất hạnh tam-muội (Chân như tam-muội, Nhất tướng tam-muội, Nhất tướng trang nghiêm tam-muội): chánh định do tâm chuyên nhất vào một hạnh để tu tập. Có 2 loại:
1/ Lý: Nhất hạnh tam-muội là một loại định tâm quán pháp giới bình đẳng nhất tướng. Nhập chánh định này, hành giả nhận thức rõ pháp thân chư Phật và thân chúng sinh vốn bình đẳng không hai, không có tướng khác biệt. Do đó trong mọi hành động đi, đứng, nằm, ngồi đều thuần nhất một trực tâm, bất động đạo tràng liền thành Tịnh độ. Luận Đại Trí Độ 47, đại 25, 401, trung, ghi: “Hành giả thâm nhập Nhất Trang Nghiêm Tam-muội thì quán tất cả các pháp đều là một hoặc tất cả các tướng đều là một hoặc tất cả pháp vô tướng đều là một, cứ như thế vô lượng đều là một... Tam-muội này thường chỉ có một hạnh, trong tam-muội tương ưng với Tất Cánh Không này, không có một thứ hạnh nào khác”.
2/ Sự: Nhất hạnh tam-muội là niệm Phật tam- muội do nhất tâm niệm Phật. Kinh Văn Thù Sư Lợi Sở Thuyết Ma-ha-bát-nhã ba-la-mật, hạ, đại 8, 731 trung, ghi: “Này thiện nam tử, thiện nữ nhân, muốn thể nhập Nhất hạnh tam-muội nên ở chỗ vắng vẻ buông bỏ vọng tưởng, không chấp tướng mạo, buộc tâm vào một Đức Phật, chuyên niệm danh hiệu Phật ở phương nào thì ngồi ngay thẳng hướng về phương đó, giữ chánh niệm liên tục về một Đức Phật thì ngay niệm đó hành giả liền thấy chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai”.
(19) Tam minh (Tam đạt, Tam chứng pháp): nghĩa là trí tuệ sáng tỏ thông đạt vô ngại ba việc:
1/ Túc mạng minh: trí tuệ biết rõ tướng trạng của mình và chúng sinh một đời cho đến trăm ngàn vạn ức đời.
2/ Sinh tử minh: trí tuệ biết rõ các tướng trạng sinh tử của chúng sinh, khi chết khi sinh, sắc lành, sắc dữ hoặc do nhân duyên tà pháp mà thành hạnh xấu ác, sau khi mạng chung sinh vào đường ác hoặc nhờ nhân duyên chánh pháp mà thành tựu pháp lành, sau khi mạng chung sinh vào đường lành.
3/ Lậu tận minh: trí tuệ biết rõ như thật và chứng đắc lý tứ đế, giải thoát tâm hữu lậu, diệt trừ tất cả phiền não… Theo Luận Đại Tỳ Bà Sa 102 ghi: “Túc mạng minh: thấy được việc quá khứ nên sinh tâm chán lìa. Thiên nhãn minh: thấy được việc vị lai nên sinh tâm chán lìa. Lậu tận minh: do chán lìa nên ưa thích Niết-bàn; ngoài ra, Túc mạng minh đoạn trừ được Thường kiến. Thiên nhãn minh đoạn trừ được Đoạn kiến. Lậu tận minh xa lìa được hai loại này và an trụ trong trung đạo. Nếu phối hợp với sáu thần thông thì tam minh này theo thứ tự lấy thần thông thứ 5, 2, 6 trong sáu thần thông làm tự tính.
(20) Bát giải thoát: tức là (Bát bối xả) Chương 5
GIẢI THÍCH VỀ PHÁP VÀ TÂM
(Chương này trình bày về Tâm và Pháp, chia làm bốn loại: Hữu lậu, Vô lậu, Cũng hữu lậu cũng vô lậu, Chẳng phải hữu lậu chẳng phải vô lậu. Và nói Phật nhân duyên Tứ-tất-đàn để trình bày pháp này).
Chương trước đã giải thích thứ tự các thiền xong, nhưng tướng trạng của Pháp và Tâm trong các thiền cũng cần nên biết rõ. Trong pháp và tâm chia làm ba ý:
A. Luận về pháp
B. Luận về tâm
C. Tổng kết tâm và pháp A. LUẬN VỀ PHÁP
Pháp có bốn thứ:
1. Pháp Hữu lậu
2. Pháp Vô lậu
3. Cũng hữu lậu cũng vô lậu
4. Chẳng phải hữu lậu chẳng phải vô lậu
1. Pháp Hữu lậu
Là các pháp như Thập thiện, Tứ thiền căn bản, Chúng sinh duyên Tứ vô lượng tâm và Tứ không định. Vì sao? Vì thể tính của mười hai pháp thiền này chẳng phải là pháp quán của trí tuệ, nên không thể quán chiếu và đoạn trừ các phiền não.
2. Pháp Vô lậu
Là các thiền vô lậu như: Cửu tưởng, Bát niệm, Thập tưởng, Bát bối xả, Bát thắng xứ, Thập nhất thiết xứ, Cửu thứ đệ định, Sư tử phấn tấn tam- muội, Siêu việt tam-muội, Tứ đế, Thập lục hành, Thập nhị nhân duyên, Tứ vô lượng tâm, Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, Tam tam-muội, Nguyện trí(1) Đảnh thiền(2), Thập nhất thiết trí, Tam vô lậu căn v.v… Vì cớ sao? Vì trong các thiền này đều có đầy đủ phương pháp đối trị và trí tuệ quán chiếu, nên có công năng đoạn trừ “Tam lậu”(3).
3. Cũng hữu lậu cũng vô lậu
Là Lục diệu pháp môn, Thập lục đặc thắng và Thông minh quán. Vì cớ sao? Vì trong ba loại thiền này, tuy có trí tuệ quán chiếu, nhưng sức đối trị còn yếu, nên gọi là Cũng hữu lậu cũng vô lậu.
4. Chẳng phải hữu lậu chẳng phải vô lậu
Là 108 tam-muội: Pháp Hoa tam-muội, Bát Chu tam-muội, Niệm Phật tam-muội, Thủ Lăng Nghiêm tam-muội, Cửu chủng thiền, Tự tính thiền, cho đến Vô duyên từ, Đại bi, Thập Ba-la-mật(4), Tứ vô ngại trí(6), Thập bát không(5), Thập lực, Tứ vô sở úy, Thập bát bất cộng, Nhất thiết chủng trí v.v... Vì cớ sao? Vì nếu tu những tam-muội này sẽ không rơi vào “nhị biên” (hai bên), nên gọi là Chẳng phải hữu lậu chẳng phải vô lậu.
HỎI: Vì sao nói các pháp như Pháp Hoa tam-muội, Bát Chu tam-muội v.v... đều gọi là pháp Chẳng phải hữu lậu chẳng phải vô lậu? Kinh Pháp Hoa ghi: “Bồ-tát Đức Tạng, tâm đã thông đạt thật tướng vô lậu, kế đến sẽ thành Phật hiệu là Tịnh Thân”. Lại như phần thứ hai trong Tứ vô sở úy gọi là Vô lậu úy, các pháp như thế v.v... trong kinh luận phần nhiều nói là Vô lậu. Vì sao ở đây lại nói Chẳng phải hữu lậu chẳng phải vô lậu?
ĐÁP: Đây là muốn giải thích các pháp trung đạo của Bồ-tát và chư Phật có chỗ bất đồng, cho nên mới chia chẻ như thế. Bởi vì phàm phu thì chuyên tu pháp hữu lậu, hàng Nhị thừa chuyên tu pháp vô lậu, còn ở đây nói chỗ chứng đắc của hàng Bồ-tát và chư Phật chẳng đồng, là do không còn chấp hai bên thì không rơi vào hai bên, cho nên nói là vô lậu.
Làm sao khỏi rơi vào hai bên? Chính là pháp Trung đạo không thuộc về hai bên vậy. Nên gọi là Chẳng phải hữu lậu chẳng phải vô lậu.
Hai thuyết này lời tuy khác mà ý lại đồng, nên không sai trái. Nếu dựa vào lý tính mà luận thì tất cả đều gọi là pháp Chẳng phải hữu lậu chẳng phải vô lậu. Nên Kinh Đại Phẩm ghi: “Sắc không trói buộc cũng không giải thoát, cho đến Nhất thiết chủng trí không buộc, không giải thoát”. Lý đã không trói buộc cũng không giải thoát, là do hạnh đã hợp với lý, há chẳng đồng gọi là không trói buộc không giải thoát sao? “Không trói buộc, không giải thoát” chính là danh từ khác của Chẳng phải hữu lậu chẳng phải vô lậu.
HỎI: Dùng bốn câu để phân biệt định và tuệ thì khả dĩ, còn giới luật như thế nào?
ĐÁP: Từ pháp tu Thập thiện(7), Tam quy, Ngũ giới(8), Bát quan trai(9), Mười giới Sa di(10), 250 giới Tỳ-kheo, 10 giới trọng của Bồ-tát(11), 48 giới khinh, những giới luật này cũng có thể dùng ý nghĩa trong bốn câu để phân biệt, chẳng qua vì giới luật không thuộc trong phạm vi thảo luận.
HỎI: Chương 4 đã giải thích thứ lớp thiền định và Chương 7 luận về tu chứng, trước tiên đều nói “Hữu lậu”, kế đến là “Cũng hữu lậu cũng vô lậu”, sau đó là nói “Vô lậu”, kế tiếp mới nói “Chẳng phải hữu lậu chẳng phải vô lậu”. Hiện nay vì sao phương pháp phân chia bốn câu này, trước sau chẳng đồng, lại lấy câu thứ ba đổi thành câu thứ hai vậy?
ĐÁP: Trước hay sau cũng đều giải thích theo thứ lớp từ khi tu hành đến chứng đắc. Nay muốn phân tích tướng trạng của Pháp và Tâm, nên thuận theo phương tiện của ngôn ngữ, mà trong các kinh luận đều nói bốn câu như thế. Nên nói: “Khi hành chẳng phải lúc nói, lúc nói chẳng phải khi hành” nghĩa này dễ thấy. B. LUẬN VỀ TÂM
Có bốn thứ:
1. Tâm Hữu lậu
2. Tâm Vô lậu
3. Tâm Cũng hữu lậu cũng vô lậu
4. Tâm Chẳng phải hữu lậu chẳng phải vô lậu
1. Tâm Hữu lậu
Tâm phàm phu và ngoại đạo đều có đầy đủ ba thứ lậu, nên gọi là Tâm hữu lậu. Vì sao? Phàm phu và ngoại đạo khi tu thiền định có chia ra bốn giai đoạn, nên không thể thoát ly khỏi ràng buộc phiền não.
Thế nào là bốn giai đoạn?
- Phát tâm: Khi mới phát tâm muốn tu thiền định, do họ không có tâm nhàm chán thế gian, chỉ mong được quả báo và khoái lạc trong thiền định.
- Tu hành: Khi đang thiền định, họ không có khả năng phản chiếu và quán sát nội tâm, do đó sinh tâm kiến chấp.
- Chứng đắc: Khi chứng được các thiền định, họ lại chấp cho là chân thật, chẳng biết hư dối nên trong mỗi một tầng thiền, sinh tâm bám chấp chỗ tri kiến.
- Xuất thiền: Khi xuất thiền định, đối với các cảnh giới, họ lại khởi tạo nghiệp trói buộc.
Do bốn nguyên nhân này, nên phàm phu và ngoại đạo tu thiền định đều gọi là Tâm hữu lậu.
2. Tâm Vô lậu
Cũng có bốn giai đoạn:
- Phát tâm: Khi hàng Nhị thừa mới phát tâm muốn tu thiền định, do tâm nhàm chán tai họa ở thế gian, không tham cầu cảnh giới khoái lạc và quả báo thiền định, mà chỉ điều phục tâm nên phiền não tự nhiên khô cạn không khởi, nhân đây có thể khai phát vô lậu.
- Tu hành: Khi tu thiền định, tùy theo chỗ tu chứng họ biết rõ các cảnh giới là hư dối chẳng thật, nên có thể hàng phục kiến chấp, không sinh khởi nhân tạo nghiệp ràng buộc.
- Chứng đắc: khi nhập các thiền định, nếu trong thiền định khai phát Chân không tuệ(12), là trí tuệ có công năng đoạn trừ các phiền não, thì ba thứ lậu vĩnh viễn không còn.
- Xuất thiền: hàng Nhị thừa sau khi xuất thiền định, đối với các cảnh giới và các tri kiến đều không bám chấp, nên không tạo các nghiệp ràng buộc.
Do những nhân duyên này, nên gọi là Tâm vô lậu. Hai tâm ở trước tuy thuộc về hữu lậu, nhưng lại là nhân của vô lậu, từ trong nhân mà nói quả, cũng gọi là vô lậu.
3. Tâm Cũng hữu lậu cũng vô lậu
Cũng có bốn giai đoạn:
- Phát tâm: khi hành giả mới phát tâm muốn tu thiền định, nhưng nội tâm còn nghi ngờ chưa quyết định, hoặc có khi cũng nhàm chán muốn xa lìa sinh tử, không thích khoái lạc của thiền định; hoặc sinh tâm đắm chấp, mong muốn cảnh giới an lạc của thiền định, tham ái quả báo khoái lạc. Do khởi tâm nhàm chán, nên nghiệp ràng buộc vi tế chìm mất, do tâm mong muốn khoái lạc của thiền định, nên phiền não càng tăng trưởng.
- Tu hành: Khi hành giả muốn phát tâm tu thiền định, mà không đoạn trừ thiện căn, người này tuy thành tựu được năm pháp: Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ, nhưng không thể gọi là Ngũ căn. Vì hành giả không thể quyết định hàng phục các phiền não, nên gọi là Cũng hữu lậu. Do hành giả phát sinh năm pháp thiện: Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ, nên gọi là Cũng vô lậu.
- Chứng đắc (Thất chủng học nhân): bảy hạng người hữu học, khi họ muốn nhập thiền định, tuy trí tuệ chân thật khai phát, nhưng phiền não chưa đoạn sạch, nên gọi là Cũng hữu lậu cũng vô lậu. Cho đến bậc Thoái pháp A-la-hán(13) cũng có ý nghĩa này. Vì sao? Vì quả A-la-hán này, chưa được Vô sinh trí, nên gọi Cũng hữu lậu, do chứng được Lậu tận trí, nên gọi là Cũng vô lậu.
- Xuất thiền: sau khi họ xuất thiền định, tùy theo các cảnh giới, tùy chỗ đoạn phiền não chưa sạch hết, hoặc còn sinh tâm bám chấp, nên gọi là Cũng hữu lậu. Nếu phiền não đã đoạn tận, tuy đối với các cảnh giới, tâm không còn khởi tạo nghiệp ràng buộc, nên gọi là Cũng vô lậu.
4. Tâm Chẳng phải hữu lậu, chẳng phải vô lậu
Cũng chia làm bốn giai đoạn:
- Phát tâm: khi Bồ-tát mới phát tâm muốn tu thiền định, không vì sợ sinh tử cũng không vì mong cầu Niết-bàn, thì tâm không rơi vào hai bên.
- Tu hành: khi Bồ-tát tu Thiền ba-la-mật, vì muốn viên mãn phước đức nên không trụ vô vi; vì có trí tuệ nên không trụ hữu vi.
- Chứng đắc: khi Bồ-tát nhập vào các thiền định, nếu ở trong thiền định, phát trí tuệ Vô sinh nhẫn(14), lúc này tâm cùng pháp tánh tương ưng, nên không bám chấp nơi sinh tử; cũng không đắm nhiễm nơi Niết-bàn.
- Xuất thiền: khi Bồ-tát xuất thiền định, dù đối với những cảnh giới nào, tâm Bồ-tát luôn luôn không nương gá vào hai bên Có và Không.
Do những nhân duyên này, nên tâm của Bồ-tát gọi là tâm Chẳng phải hữu lậu chẳng phải vô lậu. C. TỔNG KẾT TÂM VÀ PHÁP
HỎI: Chư Phật nói tất cả pháp đều Không, dứt tuyệt ngôn ngữ câu cú. Như bài kệ trong Luận Ma Ha Diễn nói:
Bát nhã ba-la-mật, Ví như hầm lửa lớn,
Bốn phía không thể lấy, Thiêu đốt các tà kiến.
Nay đem bốn câu để phân biệt, đâu chẳng rơi vào hý luận sao?
ĐÁP: Trong Phật pháp, lý tính Không bất khả đắc (không thể được), đối với các pháp không có chướng ngại. Chính vì tính Không bất khả đắc, cho nên nói 12 bộ kinh và tất cả Phật pháp. Nay nói bốn câu cũng không có lỗi, thí dụ như hư không, tuy là trống rỗng chẳng có gì, mà muôn vật nương nơi đó để trưởng thành. Như Luận Ma Ha Diễn nói:
Nếu tin các pháp Không, Là thuận theo lý thể,
Nếu chẳng tin pháp Không, Tất cả đều sai lầm.
Chấp Không là rỗng không, Không có chỗ tạo nghiệp, Chưa làm đã có nghiệp, Chẳng có người tạo tác. Những pháp tướng như thế, Ai có thể suy lường,
Chỉ chứng được chân tâm, Lời nói không nương gá. Lìa chấp thấy Có, Không, Nội tâm tự vắng lặng.
Nay dùng phương tiện khai mở tri kiến cho hành giả tu thiền, phân biệt các loại pháp môn. Trên thực tế thì trong câu không có nghĩa lý, mà luận thành câu có nghĩa lý, nên đối với lý này không lỗi. Kinh Đại Phẩm nói: “Câu không nghĩa lý chính là câu có nghĩa lý của hàng Bồ-tát”.
Nếu ông muốn bỏ bốn câu v.v... mà mong cầu được giải thoát, trở lại bị pháp Không trói buộc.
Như nói: Có bốn câu; Không có bốn câu; Cũng có bốn câu cũng không có bốn câu; Chẳng phải có bốn câu, chẳng phải không có bốn câu. Như vậy ông đã bị bốn câu này trói buộc, lẽ nào ông thoát khỏi bốn câu: Có, Không, Cũng có cũng không, Chẳng phải có chẳng phải không? Nên biết nếu hiểu thấu suốt bốn câu không phải là bốn câu, mà nghĩa lý bốn câu không ngăn ngại thì được giải thoát. Không phải muốn bỏ bốn câu, mà ở nơi không có câu liền được giải thoát. Như Thiên nữ nói với ngài Xá Lợi Phất: “Không thể lìa văn tự mà nói tướng giải thoát, lìa tự tính văn tự chính là tướng giải thoát”.
Lại nữa, nay phân chia Pháp và Tâm, gồm có tám câu, nếu phân chia xoay vần thì có 36 câu, nếu chia chẻ giải thích tỉ mỉ thì có vô lượng câu cú. Nếu chỉ trên một câu thông đạt tất cả các câu, thì có thể phân chia biện luận bốn câu này, giống như hư không, không có bờ mé.
HỎI: Như vậy tại sao không đem Pháp và Tâm mỗi thứ phân làm năm câu?
ĐÁP: Chư Phật ra đời, tùy căn cơ chúng sinh để giáo hóa họ, bên giáo môn phần nhiều dùng bốn câu để giảng nói. Như trong Luận Ma Ha Diễn nói có bốn thứ Tất-đàn:
1. Thế giới Tất-đàn.
2. Vị nhân Tất-đàn
3. Đối trị Tất-đàn.
4. Đệ nhất nghĩa Tất-đàn.
Tâm và pháp Hữu lậu, thuộc về Thế giới Tất-đàn. Tâm và pháp Vô lậu, thuộc về Đối trị Tất-đàn Tâm và pháp Cũng hữu lậu, cũng vô lậu, thuộc về Vị nhân Tất-đàn.
Tâm và pháp Chẳng phải hữu lậu, chẳng phải vô lậu, thuộc về Đệ nhất nghĩa Tất-đàn.
Những ý nghĩa trong đó có sự liên quan lẫn nhau, nếu nghiên cứu kỹ sẽ thấy.
Lại nữa, trong Luận Ma Ha Diễn, dùng Đệ nhất nghĩa Tất-đàn chia làm bốn môn. Như bài kệ trong luận chép:
Tất cả các pháp thật, không thật, Tất cả cũng thật, cũng chẳng thật, Tất cả chẳng thật, chẳng không thật, Như thế đều gọi là các pháp thật.
Các loại như thế, cũng đều chỉ có bốn câu để phân biệt mà chẳng có nói năm câu. Nay chỉ dùng bốn câu để giải thích Pháp và Tâm. Trong các kinh
luận khác, giả thiết dù có dùng năm câu để lý giải, thì đều có nhân duyên riêng biệt. Cho nên nay chỉ dùng phương tiện ý nghĩa của bốn câu để giải thích, chứ chẳng dùng năm câu.
HỎI: Trong bốn thứ Pháp và bốn thứ Tâm, có gì khác nhau? Như Pháp hữu lậu và Tâm hữu lậu, cả hai thứ “Pháp và Tâm” này mỗi cái đều là Hữu lậu hay đều là Vô lậu cho nên nói là Lậu?
Nếu cả hai đều là Hữu lậu thì khi Pháp và Tâm hòa hợp, nhất định phải có hai thứ Hữu lậu sinh khởi.
Nhưng nếu mỗi thứ đều là Vô lậu thì khi hòa hợp cũng phải có hai thứ Vô lậu sinh khởi?
ĐÁP: Không thể nói pháp và tâm đều là hữu lậu, cũng không thể nói pháp và tâm đều là vô lậu. Vì sao? Nếu tâm là hữu lậu, như bậc A-la-hán khi chứng lậu tận thì tâm phải diệt tận, pháp cũng diệt tận.
Vì sao? Nếu như pháp nhất định là Lậu (phiền não), thì khi Thánh nhân nhập định Tứ thiền căn bản, cũng phải phát sinh Lậu. Pháp định Tứ thiền này khi chưa cùng với tâm hòa hợp thì tự nó cũng phải là Lậu. Nhưng các vị Thánh nhân khi nhập định Tứ thiền, lại không phát sinh Lậu. Khi pháp
định của Tứ thiền chưa cùng với tâm tương ưng, thì tự nó cũng không có phát sinh pháp hữu lậu, vì sao lại nói pháp tức là hữu lậu?
Nay nói Lậu này, chẳng riêng nơi pháp cũng không riêng nơi tâm, vì khi pháp và tâm hòa hợp liền phát sinh hữu lậu, cho nên mới có danh từ Pháp hữu lậu và Tâm hữu lậu.
Ví như thuốc tiên, sau khi người uống thuốc vào liền thành tiên, mà thuốc và người mỗi cái tự chẳng phải tiên, khi thuốc và người hòa hợp mới thành tiên, cho nên đặt tên thuốc là Thuốc tiên, người uống thuốc thành tiên gọi là Tiên nhân. Nếu thuốc không do người uống, thì không gọi là thuốc tiên; nếu người không uống thuốc tiên thì không gọi là tiên nhân. Danh từ Pháp hữu lậu và Tâm hữu lậu, cũng như thế. Ý nghĩa của ba thứ: Vô lậu, Cũng hữu lậu cũng vô lậu, Chẳng phải hữu lậu chẳng phải vô lậu v.v... của pháp và tâm, ý nghĩa đại khái cũng như thế.
Như bài kệ duyên sinh của ngài Mã Thắng(15)
(Asvajit) khai thị cho Xá Lợi Phất:
Các pháp từ duyên sinh, Các pháp do duyên diệt,
Đây là lý nhân duyên, Thầy ta dạy như thế.
Nếu cho rằng:
Pháp hữu lậu phát sinh pháp hữu lậu,
Hoặc pháp hữu lậu là do tâm hữu lậu mà phát sinh pháp hữu lậu,
Hoặc pháp hữu lậu là do pháp và tâm mà phát sinh pháp hữu lậu,
Hoặc pháp hữu lậu chẳng phải do pháp chẳng phải do tâm mà phát sinh pháp hữu lậu, nếu chấp như thế đều là rơi vào tà kiến.
Vì cớ sao?
Nếu cho rằng do pháp hữu lậu phát sinh pháp hữu lậu, tức là pháp hữu lậu có tự tính. Nếu tự tính pháp hữu lậu đã thành lập thì phải có pháp hữu lậu không cùng tận, vì trong tự tính lại có tự tính, mà nay thật chẳng phải như thế.
Nếu nói pháp hữu lậu không có tự tính (vốn sẵn có) mà do tâm hữu lậu (mới có pháp hữu lậu), tức là Tha tính (nhờ bên ngoài mà có). Vì sao? Bởi vì pháp hữu lậu phải đợi tâm hữu lậu làm tự tính, nay tâm hữu lậu phải đợi có pháp hữu lậu, đâu chẳng phải là Tha tính sao? Nếu nói do tha tính
mà có (phát sinh) pháp hữu lậu. Nếu tha tính là pháp hữu lậu thì pháp hữu lậu lại có hai pháp hữu lậu sao? Nếu tha tính chẳng phải là pháp hữu lậu, (như vậy) không có pháp hữu lậu thì làm sao có thể phát sinh pháp hữu lậu? Nên biết pháp hữu lậu chẳng phải do (nơi) tâm hữu lậu mà có.
Nếu cho rằng pháp hữu lậu do pháp hữu lậu và tâm hữu lậu hợp lại mà có, tức gọi là Cộng hữu (đồng thời có). Nếu cộng hữu (đồng có) thì từ trong Tự tính và Tha tính đều có pháp hữu lậu. Nếu như thế trong một lúc đồng thời phải có hai pháp hữu lậu, mà thực tế không phải như thế. Nên biết chẳng phải Tự tính và Tha tính đồng phát sinh mà có pháp hữu lậu.
Nếu cho rằng lìa pháp hữu lậu, lìa tâm hữu lậu, mà có pháp hữu lậu, tức là không do nhân duyên mà có pháp hữu lậu. Từ nơi nhân duyên mà có pháp hữu lậu còn không thể được, huống là không có nhân duyên mà sinh pháp hữu lậu sao? Thuyết phá Nhân duyên thành giả có này, có nói trong Ma-ha chỉ quán, trường hợp tâm hữu lậu cũng như thế. Ba thứ lậu còn lại của tâm và pháp cũng giải thích như thế.
Lại nữa, nếu nói pháp hữu lậu nhất định là pháp hữu lậu, thì pháp hữu lậu thuộc về pháp sinh diệt tương tục.
Vì sinh nên sinh? Hay là vì diệt nên sinh? Hay là vì sinh diệt nên có sinh? Hay là vì lìa sinh lìa diệt nên có sinh?
Nếu vì sinh nên sinh tức là Tự sinh. Nếu vì diệt nên có sinh tức là Tha sinh. Nếu vì sinh diệt nên sinh, tức là Đồng sinh. Nếu vì lìa sinh, lìa diệt nên có sinh, tức là Không nhân duyên sinh.
Đã từ nhân duyên sinh còn không thể được, huống là không nhân duyên mà có thể sinh pháp hữu lậu sao? Nên biết phát sinh pháp hữu lậu rốt ráo là không thể được. Nếu đã không sinh thì không diệt, nếu không sinh diệt tức là không có tương tục; nếu không có sinh diệt tương tục thì không có pháp hữu lậu. Phương pháp phá Tương tục giả này có giải thích rất rộng trong Ma-ha chỉ quán, trường hợp của tâm hữu lậu cũng như thế. Ba thứ lậu còn lại của tâm và pháp cũng như thế.
Lại nữa, nếu pháp hữu lậu là sinh, là do sinh sinh nên phát sinh pháp hữu lậu? Hay là do chẳng sinh sinh nên phát sinh pháp hữu lậu? Hay là do sinh chẳng sinh nên phát sinh pháp hữu lậu, hay là do chẳng phải sinh nên phát sinh pháp hữu lậu.
Nếu do sinh sinh tức là Tự tính sinh. Nếu chẳng phải do sinh sinh tức là Tha tính sinh. Nếu do không sinh sinh tức là Cộng sinh. Nếu do chẳng phải sinh sinh tức là Không nhân duyên sinh.
Từ nhân duyên sinh còn không thể được, huống là không nhân duyên mà phát sinh được sao? Vì thế đối với trong tướng đối đãi giả có, mà mong phát sinh pháp hữu lậu trọn không thể được. Nếu chẳng sinh thì không có lậu, do không có lậu nên phá tướng đối đãi giả có. Phương pháp phá tướng đối đãi giả có này, có nói rộng trong Ma-ha chỉ quán, trường hợp của tâm hữu lậu cũng giống như thế. Ba thứ lậu còn lại của tâm và pháp cũng giải thích như thế.
Nên biết pháp hữu lậu trong Nhân duyên, Tương tục và Tướng đối đãi, mỗi thứ đều tìm trong bốn câu trọn không thể được. Nếu không thể được, thì làm sao phân biệt mà có pháp hữu lậu? Nếu không có pháp hữu lậu, mà nói pháp hữu lậu, nên biết chỉ có danh từ ở trên văn tự mà thôi. Trong đó không nhất định phải có chỗ y cứ khiến phát sinh những thứ hý luận làm phá hoại mắt trí tuệ.
Trường hợp tâm hữu lậu cũng như thế, ba câu còn lại của tâm và pháp cũng giải thích như thế.
Nếu pháp và tâm hữu lậu đã như thế thì ba câu còn lại của pháp và tâm cũng như thế. Đây chỉ dùng danh tự ở thế gian để giải thích, tướng trạng của danh tự không ở trong, ngoài hay chặng giữa và cũng không tự có thường hằng. Vì danh tự của không danh tự nên gọi là giả danh.
HỎI: Như vậy làm thế nào phân biệt sự khác nhau giữa pháp và tâm.
ĐÁP: Chỉ lấy danh tự thế gian mà phân biệt chia riêng pháp và tâm, thực tế trong đó không có gì cố định.
HỎI: Vì sao trong văn tự, lại chia riêng pháp và tâm?
ĐÁP: Nếu biết rõ pháp và tâm đều là không mà chỉ có một danh tự rỗng, thì dùng phương pháp trên để phân riêng tướng pháp và tâm cũng không có lỗi. Cho nên trong Kinh Đại Phẩm ghi: “Này Tu Bồ Đề, chẳng hoại giả danh mà nói thật tướng các pháp”.
Lại nữa, như Tâm số(16) là thuộc về pháp, Tâm vương là tâm. Thọ, Tưởng, Hành và Sắc ấm là pháp; Thức ấm là tâm. Tâm tương ưng(17), Tâm bất tương ưng(18) và Sắc pháp(19), Vô vi pháp(20) là thuộc về pháp; Tâm pháp(21) là thuộc về tâm. Sở duyên(22) là pháp; Năng duyên là tâm. Năng sinh là pháp; Sở sinh là tâm. Cảnh của sở quán là pháp; Trí của năng quán là tâm. Pháp hình thành là do tâm, tâm nương nơi pháp mà sinh.
Trong các danh tự như thế, phân chia riêng mỗi thứ pháp và tâm, tuy phân chia như thế, cũng đều như huyễn hóa, không chỗ bám chấp, đồng trở về một tướng. Ý nghĩa này đến quyển 10, trong phần Tổng kết quy thú có giải thích rất rộng. Chú thích chương 5:
(1) Nguyện trí: diệu trí do duyên dẫn sinh, là một trong những đức chung của Phật, chỉ có hàng Bất động A-la-hán (bậc cao nhất trong 6 bậc A-la-hán) mới có được trí này.
Trước tiên phát nguyện thành khẩn cầu biết được cảnh giới Phật mà dùng Thế tục trí làm tự tính, lại nương theo Đệ tứ thiền làm chỗ tựa, từ gia hạnh này mà phát sinh diệu trí. Luận Câu Xá 27 (đại 29, 142 thượng) ghi: “Lấy nguyện làm đầu, diệu trí phát sinh, như nguyện đã thành nên gọi là diệu trí”. Theo Luận Thành Thật 16: “Nguyện trí là một trong năm trí, chỉ cho trí không còn bị chướng ngại đối với các pháp”.
(2) Đảnh Thiền (Siêu việt tam-muội): là pháp thiền tối cao cùng tột.
Theo Luận Đại Trí Độ 17 (đại 25, 187 trung) ghi: “Trong các loại thiền có Đảnh thiền”. Vì sao gọi là Đảnh? Có 2 loại: A-la-hán hoại pháp và bất hoại pháp. A-la-hán bất hoại pháp tự tại với tất cả thiền định thâm sâu, có thể khởi Đảnh thiền. Người đắc pháp thiền này có công năng chuyển thọ thành phước, chuyển phước thành thọ. Ngoài ra, có thuyết cho Đảnh thiền là “Biên tế định”, được đề cập đến trong Luận Đại Tỳ Bà Sa 178, Luận Câu Xá 27, Luận Hiển Dương Thành Giáo 2, tức là thiền định thượng thượng phẩm trong Đệ tứ thiền, hoặc cho rằng Đảnh thiền là “siêu định” được nói đến trong Luận Đại Tỳ Bà Sa 165, Luận Câu Xá 28, tức là định vượt khỏi các định hữu lậu, vô lậu.
(3) Tam lậu: ba thứ phiền não làm cho hữu tình bị chìm đắm trong ba cõi.
1/ Dục lậu: trong 36 “tùy miên” phiền não căn bản ràng buộc chúng sinh trong cõi Dục thì trừ 5 bộ vô minh, 31 món còn lại cộng thêm 10 triền thành 41 món Dục lậu.
2/ Hữu lậu: trong 31 “tùy miên” phiền não căn bản ràng buộc trong cõi sắc, cõi sắc thì trừ 5 bộ vô
minh của mỗi cõi, còn lại 26 món, 2 cõi hợp thành
52 món. Luận Nhập A Tỳ Đạt Ma, thượng, thì thêm hôn trầm và trạo cử, thành 54 món.
3/ Vô minh lậu: phiền não mê lầm đối với Trung đạo đệ nhất nghĩa, là cội gốc sinh tử trong ba cõi, có công năng làm cho chúng sinh luân hồi sinh tử, được gọi là Si. Kinh A Hàm cho rằng vô minh là nhận thức sai lầm đối với chân lý Phật giáo (Tứ đế) tức là Vô trí.
(4) Thập Ba-la-mật: mười hạnh thù thắng mà Bồ-tát phải tu tập để đạt đến Niết-bàn. Sáu ba-la-mật thêm bốn ba-la-mật (phương tiện, nguyện, trí, lực).
(5) Thập bát không: 18 Không, được lập ra để phá các tà kiến.
1/ Nội không: chỉ cho sáu căn trong thân không có ngã, ngã sở.
2/ Ngoại không: chỉ cho sáu trần bên ngoài, không có ngã, ngã sở.
3/ Nội ngoại không: tức là sáu căn, sáu trần không có ngã và ngã sở.
4/ Không không: không đắm chấp ba thứ nói
trên.
5/ Đại không: tức là trong mười phương thế
giới không có các tướng phương vị cố định đây kia, xưa nay.
6/ Đệ nhất nghĩa không: lìa các pháp không có tự tính đệ nhất nghĩa thật tướng nào khác, đối với thật tướng không đắm trước.
7/ Hữu vi không: pháp do nhân duyên sinh và pháp tướng của nhân duyên đều không.
8/ Vô vi không: không chấp pháp Niết-bàn.
9/ Tất cánh không: tức là dùng 2 pháp: hữu vi không và vô vi không để phá trừ tất cả các pháp, rốt ráo không còn gì.
10/ Vô thỉ không: các pháp tuy sinh khởi từ vô thỉ, nhưng cũng xa lìa tướng chấp thủ đối với pháp này.
11/ Tán không: các pháp chỉ hòa hợp giả có nên rốt ráo là tướng xa lìa tan diệt, vô sở hữu.
12/ Tính không: là bản tính không, Phật tính không, tức tự tính các pháp là không.
13/ Tự tướng không: tức là tướng tổng biệt (chung và riêng) đồng dị (đồng và khác) của các pháp đều không.
14/ Chư pháp không: tức là tự tướng của các pháp như: uẩn, xứ, giới… đều bất định, lìa tướng chấp trước.
15/ Bất khả đắc: tức là trong các pháp nhân duyên, ngã và pháp đều chẳng thật có.
16/ Vô pháp không: các pháp đã hoại diệt thì không có tự tính, pháp vị lai cũng thế.
17/ Hữu pháp không: tức là các pháp chỉ cho nhân duyên mà có, cho nên hiện có chẳng phải thật có.
18/ Vô pháp hữu vi không: tức là tất cả các pháp sinh diệt và pháp vô vi trong ba đời đều không thật có.
(6) Tứ vô ngại trí (Tứ biện tài): bốn thứ năng lực lý giải và năng lực diễn đạt bằng ngôn ngữ một cách tự do tự tại không trệ ngại.
Bốn thứ này đều lấy trí tuệ làm bản chất nên gọi là Tứ vô ngại trí; nếu nói theo năng lực lý giải thì gọi là Tứ vô ngại giải; còn nói theo năng lực diễn đạt bằng ngôn ngữ thì gọi là Tứ vô ngại biện. Đây là pháp hóa độ chúng sinh nên cũng gọi là Tứ hóa pháp. Tứ vô ngại trí này có nhiều thuyết khác nhau.
Theo Luận Câu Xá 27 thì Tứ vô ngại là:
1/ Pháp vô ngại: tự tại diễn bày, lãnh ngộ danh cú, văn chương của pháp, đồng thời quyết đoán vô ngại.
2/ Nghĩa vô ngại: tinh thông nghĩa lý được trình bày bởi pháp, đồng thời quyết đoán được vô ngại.
3/ Từ vô ngại: tinh thông ngôn ngữ của các địa phương một cách vô ngại tự tại.
4/ Biện vô ngại: tùy thuận chánh lý tuyên dương vô ngại cũng gọi là Nhạo thuyết. Tức là khéo
tùy thuận sự mong cầu của người khác mà ưa thích nói pháp.
Ngoài ra Luận Thành Duy Thức 9 cho rằng trong Tứ vô ngại, Bồ-tát từ Sơ địa trở lên chỉ được một phần trong đó. Địa thứ 9 thì được cả 4, khi đến Phật quả mới hoàn thành viên mãn.
(7) Thập thiện: mười hành vi thiện do thân, khẩu, ý tạo ra. (8) Ngũ giới: năm giới cấm của cư sĩ tại gia: không sát sinh, trộm cắp, dâm dục, vọng ngữ, uống rượu.
(9) Bát quan trai: “Bát” nghĩa là 8, “quan” nghĩa là đóng, “giới” có tác dụng ngăn việc quấy, ngừa điều ác. Đức Phật chế định cho các đệ tử tại gia. Người thọ phải tạm thời rời gia đình một ngày một đêm đến ở trong Tăng đoàn, để học tập cách sinh hoạt của người xuất gia. Giữ tám giới có thể ngăn hành động ác, dừng ba nghiệp thân khẩu ý; lại có thể đóng bít cửa ác đạo.
Bát quan trai giới gồm có: không sát sanh, không trộm cắp, không dâm dục, không vọng ngữ, không uống rượu, không dùng hương hoa trang sức thân, không xem nghe ca múa, không ngồi nằm giường rộng cao đẹp, không ăn phi thời. Phật giáo tuy có đệ tử xuất gia và tại gia, nhưng Phật pháp lấy giải thoát xuất thế làm mục đích, lại cho việc xuất gia là hơn hết. Thọ trì Bát quan trai khiến người tại gia học Phật, huân tập nuôi lớn thiện căn xuất thế.
(10) Mười giới sa di: không sát sinh, không trộm cắp, không dâm dục, không vọng ngữ, không uống rượu, không dùng hương thơm trang sức thân, không ca múa, xem nghe, không ngồi nằm giường cao rộng, không ăn phi thời, không chứa tài vật vàng bạc.
(11) Mười giới trọng của Bồ-tát: trong Kinh Phạm Võng, giới cấm: sát sinh, trộm cắp, dâm dục, vọng ngữ, bán rượu, nói lỗi tứ chúng, tự khen mình chê người, bỏn xẻn và hủy báng, tâm sân giận không nhận người sám hối và phỉ báng Tam bảo. Bất luận là tự mình làm hay bảo người khác làm đều bị cấm chỉ.
Bốn mươi tám giới khinh: (giới của Bồ-tát Đại thừa nói trong Kinh Phạm Võng) 48 giới khinh và 10 giới trọng của Bồ-tát là pháp môn Tâm địa do Đức Phật Lô-xá-na ở thế giới Liên Hoa Đài Tạng nói ra. Bắt đầu từ quá khứ thất Phật cho đến chư Phật, Bồ-tát trong ba đời đều tụng niệm giới này, cho nên tất cả đại chúng như quốc vương, các quan thần, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, thiện nam, tín nữ đều thọ trì.
(12) Chân không tuệ: trí tuệ thấy được lý chân thật tuyệt đối, chân không là lý thể chân như vượt ra ngoài mọi đối đãi Không, Hữu, xa lìa tất cả các tướng do kiến chấp tạo ra.
(13) Thoái pháp A-la-hán: hàng A-la-hán độn căn nhất trong các vị đã chứng A-la-hán, hàng A-la-hán này do gặp các duyên xấu như: bệnh tật, nên bị lui sụt quả vị đã chứng, là một trong 9 vị vô học.
(14) Vô sinh nhẫn (Vô sinh pháp nhẫn): pháp nhẫn vô sinh, là một trong ba nhẫn, nhẫn thứ tư trong năm nhẫn nói trong Kinh Nhân Vương. Tức là quán lý không sinh không diệt của các pháp, nhận kỹ lý ấy, an trụ tâm bất động.
Theo Luận Đại Trí Độ 50 (đại 25, 417 hạ) ghi: “Vô sinh pháp nhẫn là tin nhận thông đạt, vô ngại bất thoái đối với thật tướng không sinh diệt của các pháp”. Đại Thừa Nghĩa Chương 12 (đại 44, 701 trung) ghi: “Theo cảnh đặt tên, lý vắng lặng không khởi, gọi là Vô sinh, tuệ an trụ nơi lý này gọi là Vô sinh nhẫn”. Theo Luận Đại Trí Độ 86 từ Bát nhân địa đến Dĩ biện địa của Thanh văn, Bích chi Phật địa quán tứ đế, Nhất thiết trí đoạn, chỉ được một phần Vô sinh pháp nhẫn của Bồ-tát, Tứ đế: khổ, tập, diệt, đạo thực ra là để phân biệt với một đế Thật tướng các pháp, vì Thanh văn là độn căn nên quán Tứ đế mà đắc đạo, còn Bồ-tát thì lợi căn nên quán thẳng thật tướng các pháp mà nhập đạo. Do đó mà biết, Vô sinh pháp nhẫn là khi Thanh văn vào vị Kiến đạo, thấy lý Tứ đế; còn Bồ-tát thì khi nhập Sơ địa nhận kỹ lý không sinh không diệt của các pháp, trụ ở địa vị bất thoái chuyển. Theo Luận Du Già Sư Địa
74 Bồ-tát ở địa vị bất thoái chuyển nương vào ba tính: Biến kế sở chấp, Y tha khởi, Viên thành thật mà được ba loại Vô sinh nhẫn:
1/ Bản tính vô sinh nhẫn: nghĩa là quán thể tính của biến kế sở chấp đều không, biết rõ bản tính vô sinh.
2/ Tự nhiên vô sinh nhẫn: nghĩa là quán các pháp y tha do nhân duyên sinh, biết rõ chẳng phải tự nhiên mà sinh.
3/ Phiền não khổ cấu vô sinh nhẫn: nghĩa là pháp tính Chân như của thật tính các pháp an trụ vô vi và không tương ưng với tất cả tạp nhiễm, biết rõ xưa nay vắng lặng. Đó là lý biết rõ ba tính nên gọi là Vô sinh nhẫn.
Phẩm Thập Địa trong Kinh Hoa Nghiêm 25 (Loại
60 Q) ghi: “Bồ-tát Thất địa ba nghiệp thanh tịnh, tu hạnh vô tướng, đắc Vô sinh pháp nhẫn, rõ thấu các pháp”. Còn Phẩm Bồ-tát Hạnh trong Kinh Vương Bát-Nhã Ba-La-Mật thượng thì nêu 5 nhẫn: phục, tín, thuận, vô sinh, tịch diệt. Bốn nhẫn trước đều chia làm ba phẩm thượng, trung, hạ, còn riêng Tịch diệt nhẫn chỉ chia làm hai phẩm thượng và hạ; ba phẩm của Tín nhẫn phối với sơ địa, nhị địa, tam địa; ba phẩm của Thuận nhẫn phối với tứ địa, ngũ địa, lục địa; ba phẩm của Vô sinh nhẫn phối với thất địa, bát địa, cửu địa.
(15) Mã Thắng: đệ tử của Đức Phật, một trong năm vị Tỳ-kheo được Phật hóa độ đầu tiên. Sư có thân tướng uy nghi đoan chính, mọi người thích nhìn, là người đã thuyết bài kệ pháp nhân duyên nổi tiếng để khai ngộ cho Xá Lợi Phất.
(16) Tâm số: Tâm sở tùy thuộc vào Tâm vương, là tác dụng tương ưng với Tâm vương. Tâm vương chỉ chấp toàn thể của đối tượng, còn Tâm sở thì chấp cả toàn thể và bộ phận của đối tượng, về mối quan hệ, tính chất đặc biệt là một hay khác giữa tâm vương và tâm sở thì Đại thừa và Tiểu thừa đều có lập thuyết khác nhau. Theo Tông Đại thừa duy thức thì đưa ra thuyết Tứ nghĩa bình đẳng (sở y, sở duyên, thời, sự) lập ra 8 thức (6 thức cộng thêm thức Mạt-na và A-lại-da) làm Tâm vương và nêu ra 6 vị, 51 Tâm sở, cho rằng Tâm vương và Tâm sở có quan hệ phi tức phi ly.
(17) Tâm vương: có công năng chứa nhóm và sinh khởi các tác dụng tinh thần (nghiệp). Cũng như ông vua có oai quyền thế lực, thống trị thiên hạ.
(18) Tâm tương ưng: tức là các Tâm sở (51 món) “tương ưng” là ưng thuận với Tâm vương.
(19) Tâm bất tương ưng: (có 24 món) tức là 24 món này không tương ưng với Tâm vương, Tâm sở và Sắc pháp mà giả thành lập.
(20) Sắc pháp: là những pháp thuộc về sắc, có mười một món đó là năm căn và sáu trần. Sắc pháp là tướng phần ảnh tượng của Tâm vương và Tâm sở.
(21) Vô vi pháp: là pháp không sanh diệt, không biến đổi, không phải như các pháp hữu vi là Tâm vương Tâm sở, Sắc pháp và Bất tương ưng. Do các pháp hữu vi (94 món) diệt rồi thì pháp Vô vi mới hiện bày.
(22) Tâm pháp: là pháp thuộc về tâm, là các Thức chủ thể tạo thành tâm, vì đối với tâm sở mà gọi tự thể của sáu thức hoặc tám thức. Đây cũng là chủ thể của tác dụng tinh thần.
(23) Năng duyên: “Năng” là chủ thể có đủ tác dụng nhận thức, trái lại Sở duyên: “Sở” là khách thể (đối tượng) bị nhận thức. Duyên có nghĩa là nương nhờ, phan duyên, tức là biểu thị tâm thức chẳng thể tự sinh khởi mà phải cần nhờ ngoại cảnh mới có thể sinh ra tác dụng. Năng sinh, Sở sinh cũng tương tự như thế.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 18.117.158.124 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.