Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Xưa, vị lai, và nay, đâu có sự kiện này: Người hoàn toàn bị chê,người trọn vẹn được khen.Kinh Pháp cú (Kệ số 228)
Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Rời bỏ uế trược, khéo nghiêm trì giới luật, sống khắc kỷ và chân thật, người như thế mới xứng đáng mặc áo cà-sa.Kinh Pháp cú (Kệ số 10)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Thích Thiền Ba La Mật Thứ Đệ Pháp Môn [釋禪波羅蜜次第法門] »» Bản Việt dịch quyển số 7 »»

Thích Thiền Ba La Mật Thứ Đệ Pháp Môn [釋禪波羅蜜次第法門] »» Bản Việt dịch quyển số 7


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.5 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.6 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Thiền Ba La Mật

Kinh này có 12 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 |
Việt dịch: Thích Đạt Ma Ngộ Nhất

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

LUẬN TU CHỨNG BA PHÁP MÔN THIỀN
Tướng tu chứng thiền
Thế gian và Xuất thế gian

*A. Lục diệu pháp môn
*B. Thập lục đặc thắng
*C.Thông minh thiền
Ba pháp môn này, cũng còn gọi là Tịnh thiền. trong phần giải thích Tịnh thiền, so với Luận A Tỳ Đàm có khác nhau chút ít, sắp đặt theo thứ vị sâu cạn, đều giống như đã nói trong quyển 5. Nhưng trong giáo môn lập ra ba loại thiền để hóa độ chúng sinh. Phân chia như thế, vì người tu hành có ba hạng căn tính khác nhau.
1. Người có căn tính trí tuệ nhiều, sức định ít, nên vì họ dạy pháp tu Lục diệu môn. Người tu Lục diệu môn, do có căn tính trí tuệ nhiều, vì thế trong Định dục giới và Sơ thiền có thể khai phát trí tuệ vô lậu, không nhất định phải chứng đến các tầng thiền cao hơn mới khai phát vô lậu vậy.
2. Người có căn tính thiền định nhiều, tính trí tuệ ít, nên dạy họ pháp tu Thập lục đặc thắng. Do căn tính trí tuệ ít, vì thế ở tầng thiền thấp, không thể khai phát vô lậu. Do sức định nhiều, nên phải tu đầy đủ các tầng thiền định cao, mới có thể tu chứng đạo.
3. Người có căn tính trí tuệ và thiền định đều bình đẳng, thì dạy họ pháp tu Thông minh thiền. Thông minh thiền cũng có đầy đủ các thiền căn bản và trí tuệ quán chiếu rất thiện xảo vi tế, có thể từ tầng thiền thấp, cho đến tầng thiền cao cũng đều khai phát vô lậu vậy. Đây là tùy theo căn cơ mà giải thích, nếu theo phương pháp đối trị, thì không hợp ở đây. Nên nghiên cứu năm pháp môn thiền ở phần trước sẽ hiểu rõ.
*A. LỤC DIỆU PHÁP MÔN
Gồm có ba phần:
- Giải thích danh từ
- Luận vị thứ
- Giải thích tu chứng
GIẢI THÍCH DANH TỪ
Lục diệu môn tức là: sáu pháp thiền quán gồm có:
I- Sổ tức ( đếm hơi thở)
II- Tùy tức (để tâm theo hơi thở)
III- Chỉ
IV- Quán
V- Hoàn
VI- Tịnh
Chữ “Diệu” gọi là Niết-bàn, diệu pháp này có khả năng thông đạt đến Niết-bàn, nên gọi là Diệu môn, cũng gọi là Lục diệu môn. Trong Lục diệu pháp môn này, có ba pháp trí tuệ, ba pháp thiền định và ý nghĩa “Định ái tuệ sách và cũng hữu lậu cũng vô lậu” đều ở trong này.
LUẬN VỊ THỨ
Thành lập vị thứ của Lục diệu môn không cố định, vì cớ sao? Nếu hành giả ở trong định Dục giới và Vị đáo địa, khéo thực hành sáu pháp quán này, chỉ cần thành tựu pháp quán thứ sáu là “Tịnh”, cũng phát vô lậu của bậc Tam thừa, huống gì tiến lên các tầng thiền cao hơn mà chẳng mau chóng chứng đạo hay sao? Tuy vậy phần này và phần trước cũng có chỗ khác nhau, vì trong Kinh Thụy Ứng có nói: “Nhân nơi sáu pháp này mà phát sinh ra mười hai pháp môn”, theo đây để suy luận, thì thứ vị của Lục diệu môn này không có cố định vậy.
GIẢI THÍCH TU CHỨNG
Nếu giải thích rộng về tu chứng của sáu pháp quán này, thì các pháp thiền định đều thuộc trong phạm vi của Lục diệu môn. Nay chủ yếu chỉ theo thứ lớp nhập đạo, để giải thích tướng trạng tu chứng của Lục diệu môn.
Giải thích tu chứng Lục diệu môn, chia làm mười hai môn. Vì cớ sao? Vì phương pháp Sổ tức có hai thứ: Tu sổ tức và Sổ tức tương ưng, cho đến tu Tịnh và Tịnh tương ưng cũng như thế. Nên hiện nay giải thích tu chứng Lục diệu môn, chia làm mười hai môn.
I- SỔ TỨC
Có hai thứ:
Tu Sổ tức: Hành giả điều hòa hơi thở, được nhẹ nhàng an lành, không ngăn trệ, cũng không gấp gáp, mà chỉ thong thả đếm hơi thở, từ một đến mười, tâm nhiếp nơi số đếm không cho chạy tán loạn, đây gọi là tu Sổ tức.
Cùng Sổ tức tương ưng: Tâm hành giả tự nhiên nhận biết hơi thở từ một đến mười, không cần ra sức dụng công, tâm và hơi thở vẫn tự nhiên được an trụ. Hơi thở đã ngưng lặng, tâm niệm từ từ vi tế, lúc này hành giả biết pháp Sổ tức là thô, ý niệm không muốn đếm, cho nên buông xả pháp Sổ tức, để tu pháp Tùy tức.
II- TÙY TỨC
Cũng có hai thứ:
Tùy tức: Bỏ pháp tu Sổ tức (đếm hơi thở) nhất tâm nương theo hơi thở ra vào, tâm an trụ nơi hơi thở không cho phân tán, gọi là tu Tùy tức.
Cùng Tùy tức tương ưng: Tâm đã từ từ vi tế, biết rõ hơi thở dài ngắn, ra vào khắp thân thể, tâm và hơi thở nương nhau, vận động một cách tự nhiên, ý nghĩ ngưng lặng, đây gọi là “Cùng Tùy tức tương ưng”. Hành giả biết phương pháp (tùy tức) tu theo hơi thở là thô, nên tâm nhàm chán muốn xả bỏ, như người bệnh mệt mỏi muốn được ngủ nghỉ, không ưa làm các việc. Lúc này, hành giả nên xả bỏ pháp tu Tùy tức để tu Chỉ.
III- TU CHỈ
Cũng có hai thứ:
Tu Chỉ: dùng pháp Chế tâm chỉ, đây là một trong ba pháp tu Chỉ vậy, tức là kềm chế tâm niệm, dừng dứt các ý nghĩ, không nhớ hơi thở và đếm hơi thở, tâm niệm ngưng lặng, gọi là Tu Chỉ.
Cùng Chỉ tương ưng: Hành giả tự nhận biết thân tâm lặng lẽ từ từ nhập định, không còn thấy tướng mạo các vật trong và ngoài thân, do pháp định trì giữ tâm, nên tâm niệm tự nhiên không dao động, giống như Định dục giới và Vị đáo địa vậy. Lúc này hành giả khởi nghĩ: “Tam muội này tuy là vô vi tịch tịnh, an ổn khoái lạc, nhưng không có phương tiện của trí tuệ, thì không thể phá hoại sinh tử”. Lại khởi nghĩ: “Định này thuộc về nhân duyên, do các pháp ấm, giới, nhập hòa hợp mà có, là hư dối chẳng thật, ta nay không thấy không biết, nên cần chiếu soi”. Hành giả suy nghĩ như thế thì nội tâm không đắm chấp nơi pháp tu Chỉ mà khởi phương pháp tu Quán.
IV- TU QUÁN
Có hai thứ:
Tu Quán: Phương pháp quán gồm có ba thứ:
- Huệ hành: tức là trí tuệ quán chiếu chân thật.
- Đắc giải: tức là quán giả tưởng.
- Thật quán: tức là quán trên sự tướng vậy. Các thiền như: Lục diệu môn, Thập lục đặc thắng, Thông minh quán v.v... trước tiên đều phải dùng pháp Thật quán để tu tập mới được thành tựu, sau đó dùng Huệ hành quán, để quán chiếu lý thể mà nhập đạo. Vì sao gọi là Thật? Vì thân mạng của quả báo đời này là do Tứ đại và 36 vật bất tịnh hợp thành mà có, nhưng vì vô minh che đậy, nên tâm nhãn không được khai mở, sáng suốt, thì không thể nương nơi chân thật mà thấy được. Nếu có thể chuyên tâm quán chiếu, tâm nhãn khai mở, sáng suốt, nương nơi chân thật mà thấy, đây là gọi Thật.
Hai pháp quán Huệ hành và Đắc giải, đến chương giải thích Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Cửu tưởng sẽ phân tích rộng hơn.
Tu tập Thật quán như thế nào? Hành giả đang trụ tâm trong thiền định, dùng tuệ phân biệt quán chiếu hơi thở ra vào trong thân thể rất vi tế, như gió trong hư không, quán ba mươi sáu vật trong thân như: Da, Thịt, Gân, Xương, Tủy v.v... cũng đều không thật, giống như bẹ cây chuối. Hành giả quán tưởng thấy các vật bất tịnh trong và ngoài thân thể thật là chán ghét.
Hành giả quán chiếu các cảm thọ khoái lạc và hoan hỷ cuối cùng cũng tan hoại, là tướng trạng đau khổ, chẳng phải an lạc. Lại quán chiếu tâm thức là vô thường, sinh diệt từng sát-na chẳng dừng trụ, không có chỗ bám chấp. Ở trong định, hành giả lại quán chiếu các pháp thiện và ác, đều thuộc về nhân duyên hòa hợp mà có, vốn không có tự tính. Khi quán chiếu như thế, có thể phá trừ được bốn thứ chấp điên đảo của phàm phu (chấp các pháp là thường, lạc, ngã, tịnh). Các pháp đã không có nhân ngã, thì cảnh giới định nương gá chỗ nào? Đây gọi là Tu Quán.
Cùng Quán tương ưng: Khi hành giả quán như trên, nhận biết hơi thở ra vào khắp lỗ chân lông, tâm nhãn mở sáng, thấy rõ ba mươi sáu vật và những loài vi trùng trong thân thể, ở trong và ngoài thân thảy đều bất tịnh, các cảm thọ khổ bức bách, thay đổi từng sát-na, tất cả vốn không có tự tính. Tâm sinh khởi vui buồn này không chỗ nương gá, nhân đây hành giả chứng được Tứ niệm xứ, phá trừ bốn thứ chấp điên đảo, đây gọi là “cùng quán tương ưng”.
Sau khi lý giải quán chiếu đã khai phát, tâm duyên nơi cảnh mà phân biệt phá dẹp, biết niệm lưu chuyển dao động là chẳng phải đạo chân thật, lúc này nên xả bỏ pháp Quán, tu Hoàn.
V- TU HOÀN
Có hai thứ:
Tu Hoàn: Hành giả đã biết pháp Quán là từ tâm sinh, hoặc do phân tích cảnh, đều không thể hợp với bản nguyên (cội nguồn). Cần phải xoay lại quán chiếu tâm này sinh khởi từ đâu? Là từ tâm sinh khởi quán, hay chẳng từ nơi tâm không sinh khởi quán chiếu? Nếu từ tâm sinh khởi quán, thì trước kia đã có quán, nay thật không phải như thế. Vì sao? Vì trong ba phương pháp: Sổ tức, Tùy tức và pháp tu Chỉ, chưa có pháp tu quán chiếu.
Nếu chẳng phải do tâm sinh khởi Quán chiếu, thì cái tâm này là sau khi diệt rồi mới sinh, hay không diệt mà sinh? Nếu chẳng phải diệt rồi mới sinh, thì đồng thời có cả hai tâm. Nếu diệt rồi mới sinh, nó đã diệt mất thì không thể sinh tâm quán được. Nếu chấp cũng diệt, cũng không diệt sinh, cho đến chẳng diệt, chẳng phải không diệt sinh, cũng đều chẳng thể được.
Nên biết tâm quán chiếu này, xưa nay vốn tự chẳng sinh, do chẳng sinh nên chẳng có, chẳng có tức là Không, vì không nên chẳng có tâm quán. Nếu không có tâm quán, lẽ nào lại có cảnh quán hay sao? Cảnh quán và trí quán đều mất, đây là chỗ trọng yếu để trở về nguồn nên gọi là Tu Hoàn.
Cùng Hoàn tương ưng: Sau khi tâm huệ đã khai phát, không cần phải nỗ lực dụng công, mà tự thầm thầm vận chuyển phá dẹp pháp Quán, trở về cội nguồn, gọi là “cùng Hoàn tương ưng”. Hành giả cần biết, nếu rời cảnh và trí, muốn trở về chỗ không có cảnh và trí, ngược lại bị cảnh và trí trói buộc, vì tâm còn theo hai bên vậy, lúc này nên xả bỏ pháp Hoàn, an tâm nơi Tịnh đạo.
VI- TU TỊNH
Có hai thứ:
Tu Tịnh: Vì hành giả biết Sắc là thanh tịnh, nên không khởi vọng tưởng phân biệt, các thứ Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng như thế. Dứt bỏ các vọng tưởng ô uế, dứt các phân biệt ô uế, dứt các chấp ngã ô uế, đây gọi là Tu Tịnh.
Nói tóm lại, nếu tâm thường thanh tịnh, gọi là tu Tịnh. Cũng không có năng tu, sở tu, chẳng có tịnh hay bất tịnh nên gọi là tu Tịnh.
Cùng Tịnh tương ưng: Khi tu như trên bỗng nhiên tâm và tuệ tương ưng, có phương tiện vô ngại, tự nhiên dần dần khai phát, chứng được Tam muội chánh thọ, tâm không còn nương gá.
Chứng Tịnh cũng có hai:
- Chứng tương tự: tức là năm pháp tu phương tiện ở trên khai phát tương tự như trí tuệ vô lậu.
- Chứng thật: Khi hành giả phát được trí tuệ vô lậu của Tam thừa như: Khổ pháp nhẫn, cho đến Vô ngại đạo thứ chín v.v... lúc này những phiền não ô uế trong Tam giới đã hết sạch nên gọi là Chứng Tịnh.
Lại nữa, khi hành giả quán chúng sinh vốn là Không nên gọi là Quán; quán thật pháp cũng Không nên gọi là Hoàn; quán bình đẳng cũng Không nên gọi là Tịnh; tánh Không này cùng với Tam-muội tương ưng nên gọi là Quán. Vô tướng cùng Tam-muội tương ưng nên gọi là Hoàn; Vô tác cùng Tam-muội tương ưng nên gọi là Tịnh.
Tất cả ngoại quán, gọi là Quán; tất cả nội quán gọi là Hoàn; tất cả chẳng ngoại quán, chẳng phải nội quán, gọi là Tịnh. Cho nên Tiên Ni Phạm Chí nói: “Chẳng phải do nội quán mà được, ấy là trí tuệ, chẳng phải do ngoại quán mà được, ấy là trí tuệ, chẳng phải do nội quán hay ngoại quán mà được, ấy là trí tuệ; cũng chẳng phải do không quán mà được, ấy là trí tuệ”.
Bồ-tát quán từ Giả nhập Không, gọi là Quán; quán từ không nhập giả gọi là Hoàn; quán Giả và Không vốn là một tâm, gọi là Tịnh; nếu hành giả tu hành đúng như thế, thì Lục diệu môn này chính là pháp Ma Ha Diễn.
Lại nữa, tất cả chư Phật trong ba đời, khi các Ngài mới nhập đạo, cũng đều dùng Lục diệu môn này làm nền tảng để vào đạo, như Phật Thích Ca đến dưới cây Bồ-đề, tư duy pháp tu An-ban, gồm có: sổ tức, tùy, chỉ, quán, hoàn, tịnh. Trải qua nhiều lần, phát sinh thành mười hai thứ, nhân nơi đây mà chứng được tất cả các pháp môn, hàng phục ma quân, thành tựu đạo quả. Cho nên Bồ-tát tu Lục diệu môn, tức là đã đầy đủ tất cả Phật pháp. Pháp tu Lục diệu môn này, chính là pháp tu của Bồ-tát Đại thừa. Hiện nay vì muốn giải thích về vấn đề khác nên chỉ nói tóm lược mà thôi.
* B. THẬP LỤC ĐẶC THẮNG
Chia làm ba phần để giải thích:
- Giải thích danh từ
- Chế lập pháp quán bất đồng
- Thuyết minh tu chứng
1. GIẢI THÍCH DANH TỪ
Thập lục đặc thắng: tức là 16 pháp quán rất thù thắng thuộc về Sổ tức quán đó là: biết hít vào, biết thở ra, biết hơi thở ngắn hay dài, biết hơi thở biến khắp thân, ngừng mọi hành vi của thân, thọ hỷ, thọ lạc, thọ các tâm hành, tâm an vui, tâm thu nhiếp, tâm giải thoát, quán vô thường, quán xuất tán, quán ly dục, quán diệt, quán xa lìa, những pháp quán này gọi chung là Thập lục đặc thắng, “Thập Lục” tức là con số 16. “Đặc Thắng” là danh từ do nhân duyên mà đặt tên.
Khi Phật chưa ra đời, hàng ngoại đạo đã tu chứng đạt đến Tứ thiền, Tứ không. Nhưng vì không có phương pháp quán hạnh để đối trị, nên không thể thoát khỏi sinh tử. Sau khi Như Lai thành đạo, Ngài mới thuyết pháp Tứ diệu đế cho những đệ tử có căn tánh nhạy bén, như ngài Ma-ha-nam(1) và Xá Lợi Phất v.v… thì họ liền chứng đạo.
Những vị như Ma-ha-ca-diếp(2), Hy-na(3) v.v... tuy họ cũng được nghe Như Lai thuyết Tứ diệu đế nhưng không thể khai ngộ, cho nên Như Lai dạy họ tu pháp quán bất tịnh để đối trị, phá trừ các phiền não, vì thế trước tiên Như Lai dạy họ tu các phương pháp quán bất tịnh như: Cửu tưởng, Bát bối xả v.v... Thời ấy, những người tu pháp quán này, chứng được đạo nhiều vô lượng.
Lại có những chúng sinh, tâm tham dục đã khô cạn, hoặc quá nhàm chán thân, khi họ quán bất tịnh, do tâm nhàm chán càng khởi mạnh, thì càng chán ghét tự thân, vì thế trước khi quả vô lậu chưa được khai phát, mà họ đã mượn người khác giết hại thân mình, những việc này trong tạng luật có ghi chép rất rõ.
Nhân đây Phật dạy các Tỳ-kheo nên xả bỏ pháp quán bất tịnh, chuyển qua tu pháp quán thù thắng hơn, pháp ấy tên là “Thập lục đặc thắng”, nếu hành giả y theo đây tu hành có thể chứng được đạo. Thập lục đặc thắng đều có định, có quán, trong đó bao hàm đầy đủ các môn thiền định, do những pháp hỷ, lạc v.v... nuôi dưỡng, khiến hành giả ưa thích, thì không có tai họa tự sát, lại có Thật quán để quán sát nên không còn bám chấp vào các tầng thiền, nhân đó có thể khai phát vô lậu.
Pháp quán này, khi tiến khi lùi đều rất thong thả, không bám chấp hai bên, do có công năng chứng được đạo, nên gọi là Đặc Thắng.
HỎI: Như vậy, cần phải giải thích Quán thiền rồi mới giải thích đến Tịnh thiền, vì sao? Nếu theo giáo môn, Tịnh thiền ở phần sau Quán thiền. Nếu luận theo pháp hành thì pháp Đặc Thắng cũng vượt hẳn hai bên, do đó nó cũng phải nằm ở phần sau?
ĐÁP: Hiện nay nói về tướng trạng sức dụng sâu cạn của thiền định, chẳng phải khi đối duyên làm lợi ích cho chúng sinh. Vì sao? Vì các pháp như: Bát bối xả, Bát thắng xứ v.v... đều là do phương pháp quán chiếu mà được giải thoát, sức quán chiếu có công năng chuyển đổi tâm tưởng, đoạn trừ kiết sử rất mạnh.
Phương pháp “Đặc Thắng” này chỉ là Thật quán, có khả năng thấy được 36 vật trong thân, nhưng sức công dụng yếu kém, không thể nhanh chóng đoạn trừ kiết sử, công đức lại cạn mỏng, nên cần phải giải thích trước.
Nếu quán bất tịnh, khi quán xương người tan hoại hết, thì không thể quán tướng hơi thở ra vào các lỗ chân lông nơi thân thể. Bởi vì sau khi tu Thật quán của Thập lục đặc thắng, chuyển qua quán Cửu tưởng, Bát bối xả v.v... thì mới thành tựu đầy đủ, nên ý nghĩa không sai. Lại nữa, trong Đại Phẩm Kinh Quảng Thừa Phẩm cũng nói Thập lục đặc thắng trước, kế đến là các pháp thiền quán: Cửu tưởng, Bát bối xả v.v... đây là nói để chứng minh, không nên nghi ngờ vậy.
2. CHẾ LẬP PHÁP QUÁN BẤT ĐỒNG
Có hai thứ lý giải:
Có thầy nói: pháp tu của Thập lục đặc thắng là pháp đối xứng với Tứ niệm xứ. Nếu lấy Tứ niệm xứ để giải thích, chỉ cần ở nơi Định dục giới và Vị đáo địa cho đến Sơ thiền, là đã đầy đủ vậy. Muốn tiến lên tầng thiền cao hơn, chẳng phải là không được, nhưng vì pháp quán quá ít nên không đầy đủ, như Tứ thiền không có các pháp: hỷ, lạc và hơi thở ra vào v.v... nếu lấy pháp hỷ, lạc và hơi thở để giải thích Niệm xứ thì bất tiện vậy.
Đối với Tứ niệm xứ cũng có hai thứ lý giải bất đồng, có thầy nói: “Trong 16 pháp này, 5 pháp đầu tiên là đối Thân niệm xứ, 3 pháp giữa đối Thọ niệm xứ, 3 pháp kế đối Tâm niệm xứ, 5 thứ sau cùng là đối Pháp niệm xứ”, vị thầy này nói Thập lục đặc thắng đối xứng với Tứ niệm xứ là y theo trong Thiền Kinh vậy.
1/ Quán hơi thở vào, cho đến khi hơi thở dứt.
2/ Quán hơi thở ra, đến dừng nơi chóp mũi.
3/ Quán hơi thở dài ngắn, nếu thân không an ổn, nội tâm nhiều tán loạn, thì hơi thở bị ngắn. Nếu thân an ổn, tâm tịch lặng, thì hơi thở ra dài.
4/ Quán hơi thở khắp thân: thân tâm đã an ổn, thì hơi thở không bị bế tắc, giống như uống không khí, sung mãn khắp toàn thân.
5/ Trừ các thân hành: (ngưng mọi hành vi của thân) “thọ, tưởng” thuộc về Tâm hành, “giác quán” thuộc về Khẩu hành, “hơi thở ra vào” thuộc về Thân hành. Khi “Hơi thở đã khắp thân” do bị những niệm thô của giác quán làm dao động tâm, nên phải trừ các lỗi thô, gọi là “trừ các thân hành”. Năm pháp này thuộc về Thân niệm xứ. Ba pháp sau đây là thuộc về Thọ niệm xứ.
6/ Thọ hỷ: là bỏ hơi thở thô, khiến thân tâm được an ổn, thọ nhận cảm giác vui vẻ, gọi là Hỷ.
7/ Thọ Lạc: chỉ có niềm vui vi tế, cảm giác khoái lạc khắp toàn thân, do đó thân và tâm đều được an lạc. Cảm giác vui mừng trong nội tâm gọi là Lạc.
8/ Thọ các tâm hành: cảm thọ khoái lạc đã tràn đầy, liền có các tâm số pháp duyên theo, do tâm nương theo cảnh giới khoái lạc này, nên gọi là Thọ các tâm hành.
9/ Tâm tác hỷ: khi tâm đã dừng trụ nơi một cảnh, nếu không có trí tuệ lý giải, tâm sẽ bị chìm lặng và mờ tối, do đó phải vui vẻ đề khởi tâm, khiến không bị chìm đắm hôn mê nên gọi là tác hỷ.
10/ Tâm tác nhiếp: do quá vui vẻ khiến tâm bị dao động lăng xăng, nên phải luôn luôn thu nhiếp tâm xoay trở lại, không cho chạy tán loạn theo các cảnh duyên, gọi là Tác nhiếp.
11/ Tâm tác giải thoát: tâm không có lăng xăng, tán loạn, không bị ràng buộc, gọi là Giải thoát.
12/ Quán vô thường: tâm đã được tự tại, không bị hôn trầm, tán loạn, có thể quán sự vô thường của các pháp, từng niệm từng niệm, sinh diệt, không có an lạc lâu dài, gọi là vô thường.
13/ Quán tán hoại: quán thân này chẳng bao lâu sẽ bị phân tán hoại diệt, tiêu mất, không phải là pháp chân thật lâu dài, gọi là tán hoại.
14/ Quán ly dục: quán thân này là nguồn gốc của khổ đau, nên tâm muốn lìa bỏ, gọi là Ly dục.
15/ Quán diệt: chiếu soi cái tâm dừng diệt có rất nhiều tai họa lỗi lầm, nên không muốn dừng trụ nơi tâm này gọi là diệt.
16/ Quán khí xả: quán chiếu các pháp đều có tai họa và sai lầm, cho nên muốn buông xả tất cả.
Mười sáu pháp quán hơi thở này là tự tánh của trí tuệ, vì không có một hơi thở nào mà tâm không nhận biết. Vị Luận sư kia giải thích 16 pháp Đặc Thắng, nhưng hiện nay chưa thấy nguyên văn của kinh, bởi vì nơi lý này, chỉ là thuật lại của người khác, nên không dám có ý kiến, cũng không nhất định phải như thế.
Lại có vị Luận sư khác giải thích rằng: “Lấy 16 pháp này đối chiếu với Tứ niệm xứ, chẳng phải là không được, nhưng phân chia như thế thật không thỏa đáng”.
Nếu đem mười sáu pháp hành Vô lậu để đối chiếu với Tứ đế (bốn chân lý), trong mỗi Đế gồm có bốn thứ (khổ, tập, diệt, đạo) bốn nhân với bốn thành mười sáu thứ, pháp Hữu lậu cũng như thế. Bởi vì trong Tứ niệm xứ, mỗi niệm xứ phải đầy đủ bốn thứ (thân, thọ, tâm, pháp) bốn nhân với bốn thành mười sáu thứ, ý nghĩa cũng như trên.
Phần trước nói Thân niệm xứ có năm thứ, Thân hành thuộc về Thân niệm xứ, nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì thân và hơi thở là Thân hành, như trong Kinh Đại Tập ghi: “Hơi thở bao gồm cả ba hành (thân, khẩu, ý)”, như vậy chẳng phải chỉ riêng Thân hành mà thôi.
Hiện nay giải thích Thân hành, như trong Ma Ha Diễn ghi: “Hành gọi là Thân nghiệp, những nghiệp thiện ác đều từ tâm sinh, Thân và Hơi thở là vật vô tri, không thể tạo các nghiệp thiện ác, mà chỉ làm nhân duyên của hành vi”.
Thân thể là do có tâm đến thọ thân, khiến thân có sự tạo tác, gọi là Thân. Nay giải thích Thọ niệm xứ và Thân niệm xứ không có Thân hành, tức là phá bỏ Hành vậy, nên biết pháp quán “Trừ các thân hành” thuộc về Thọ niệm xứ, vì trong Thọ niệm xứ cũng có bao hàm đầy đủ cả bốn pháp: (thân, thọ, tâm, pháp).
Phần trước nói Pháp niệm xứ có năm thứ, quán vô thường thuộc về Pháp niệm xứ, đây cũng không đúng. Vì sao? Vì trong các kinh đều ghi: “Quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã” vì thế quán vô thường phải thuộc về Tâm niệm xứ vậy. Bởi trong một niệm xứ, đều phải có đầy đủ bốn thứ, bốn nhân với bốn thành mười sáu thứ, thì ý nghĩa trên mới được thông suốt.
Vị Luận sư thứ hai lại nói rằng: “mười sáu pháp” Đặc Thắng cần “thụ đối”. Tức là lập phương pháp đối chiếu, so sánh với tám pháp quán và các thiền, vì nó có sự quan hệ lẫn nhau, lý do như sau:
1. Biết hơi thở vào.
2. Biết hơi thở ra. Hai pháp này đối xứng với “Sổ tức quán”.
3. Biết hơi thở dài ngắn. Đối xứng với “Định dục giới”.
4. Biết hơi thở khắp thân. Đối xứng với “định Vị đáo địa”.
5. Trừ các thân hành. Đối xứng với “Giác chi của Sơ thiền”.
6. Thọ hỷ. Đối xứng với “Hỷ chi của Sơ thiền”.
7. Tâm thọ lạc. Đối xứng với “Lạc chi của Sơ thiền”.
8. Thọ các tâm hành. Đối xứng với “Nhất tâm chi của Sơ thiền”.
9. Tâm tác hỷ. Đối xứng với “Nội tịnh hỷ chi của Nhị thiền”.
10. Tâm tác nhiếp. Đối xứng với “Nhất tâm chi của Nhị thiền”.
11. Tâm tác giải thoát. Đối xứng với “Lạc chi của Tam thiền”.
12. Quán vô thường. Đối xứng với định “định Bất động của Tứ thiền”.
13. Quán xuất tán. Đối xứng với “định Hư Không”.
14. Quán ly dục. Đối xứng với “định Thức xứ”.
15. Quán diệt. Đối xứng với “định Vô sở hữu xứ”.
16. Quán khí xả. Đối xứng với “định Phi tưởng phi phi tưởng xứ”.
Theo vị Luận sư này phân tích như thế, thì từ khi hành giả mới bắt đầu điều phục tâm cho đến khai phát thiền định, đều nói đầy đủ các pháp quán hạnh rất rõ ràng, nên kiến giải của vị Luận sư này hơn hẳn các vị trước.
3. THUYẾT MINH TU CHỨNG
Lấy tâm để giải thích tướng Tu chứng.
Tu: nghĩa là dụng tâm tu tập, khi tâm còn chưa tương ưng.
Chứng: nghĩa là tâm đã được tương ưng, có thể tự nhiên khai phát.
Ba vị Luận sư này chế lập pháp quán có chỗ chẳng đồng, cho nên tướng Tu và Chứng cũng có khác nhau.
- Hai vị trước nói: Trong Định dục giới, Vị đáo địa và Sơ thiền, lấy Tứ niệm xứ để giảng nói 16 pháp Đặc Thắng, đại ý pháp quán so sánh với pháp quán trong Lục diệu môn, có điểm bất đồng. Danh mục trong đó cũng có khác, nếu khéo suy tầm đối chiếu nghĩa lý trong đó sẽ hiểu.
Hiện nay nói về kiến giải của vị Luận sư thứ ba, vị này dùng phương pháp “Thụ đối tam giới” để giảng 16 pháp Đặc Thắng, do phần trước chưa giải thích pháp quán huệ này. Sở dĩ hiện nay đưa ra tướng Tu chứng và trường hợp chế lập pháp “Thụ đối” là để so sánh đối chiếu với 16 pháp Đặc Thắng”.
1. Biết hơi thở vào
2. Biết hơi thở ra
Dùng hai pháp này để đối chiếu với pháp Sổ tức, vì phương pháp điều hòa hơi thở cũng giống như pháp Sổ tức đã nói phần trước.
Lúc này hành giả đã điều hòa hơi thở rồi, tâm niệm từ từ nương theo hơi thở, nếu khi hít vào biết rõ hơi thở từ chóp mũi vào đến rốn, khi hơi thở ra, biết rõ hơi thở từ rốn ra đến mũi, hành giả chuyên tâm quán sát như thế, nương theo hơi thở, nên tâm không tán loạn.
Lúc này, hành giả biết rõ tướng Thô và Tế của hơi thở. Nếu hơi thở có tướng “Phong, Khí, Suyển” gọi là Thô, nếu hơi thở tướng “Tức” gọi là Tế, khi hơi thở vào nếu thô, thì phải điều hòa hơi thở cho được nhẹ nhàng, đây gọi là biết hơi thở Thô, Tế.
Ví như người gác cổng, biết rõ những người đi ra, kẻ đi vào, cũng nhận biết người tốt, kẻ xấu, nếu người tốt thì cho vào, người có hành vi xấu thì ngăn lại.
Biết Thô, Tế: nghĩa là hành giả biết rõ khi hơi thở vào thân thể thuộc về tướng Thô, hơi thở ra thuộc về tướng Tế. Vì sao? Vì khi hơi thở đi vào thuận và nhanh nên hiện tướng Thô. Hơi thở ra chậm và nhẹ nên tướng trạng rất vi tế.
Biết Khinh, Trọng: biết rõ khi hít vào cảm thấy nhẹ nhàng, khi thở ra cảm thấy nặng nề. Vì sao? Vì khi hơi khí vào khắp thân thể, khiến thân nhẹ bổng. Khi thở ra, không khí trong thân đã hết sạch nên cảm thấy thân thể nặng nề.
Biết hơi thở Trơn, Rít: khi hít vào cảm thấy thông suốt, khi thở ra cảm thấy ngăn trệ. Vì sao? Vì khi hơi thở vào, không khí từ ngoài đi vào rất thuận lợi nên cảm thấy thông suốt “Trơn”, khi hơi thở từ trong thân thể đi ra, tống các chất dơ bẩn ra ngoài, các lỗ chân lông bị ngăn bít, tắt nghẽn, thì có cảm giác ngăn trệ “Rít”.
Biết hơi thở Lạnh, Nóng: khi hít vào cảm thấy lạnh, khi thở ra cảm thấy nóng. Vì sao? Vì hơi khí từ ngoài đi vào nên có cảm giác Lạnh, khi thở ra, do đưa hơi khí nóng từ trong thân thể ra ngoài nên có cảm giác Nóng.
Biết hơi thở dài, ngắn: tức là nhận biết hơi thở dài và hơi thở ngắn. Vì khi hít vào thuận và mau chóng, nên cảm thấy hơi thở ngắn, khi thở ra có sự trở ngại nên cảm thấy hơi thở chậm mà dài.
Hành giả nên biết do hơi thở ra vào, mới có những phiền não đau khổ, sinh tử luân hồi mãi mãi không dừng. Nhân đây mà khởi tâm lo sợ vậy. Khi hành giả theo dõi hơi thở, nhận biết những tướng trạng khác nhau của hơi thở, nên nói rằng “biết hơi thở ra, biết hơi thở vào” vậy.
HỎI: Vì sao lại dùng phương pháp này để thay thế pháp Sổ tức.
ĐÁP: Pháp Sổ tức, chỉ là dùng tâm mờ tối để đếm hơi thở, mà không có Quán hạnh, khi được tu chứng, sẽ dễ phát sinh các bệnh phiền não: Ái, Kiến, Mạn.
Ái: nghĩa là tham ái và đắm chấp nơi pháp Sổ tức.
Kiến: tự cho ta có khả năng tu phương pháp này.
Mạn: tự cho ta tu pháp này hơn hẳn những người khác, nên sinh tâm khinh thường người khác.
Hiện nay dùng phương pháp Tùy tức để thay thế pháp Sổ tức. Vì khi tu pháp Tùy tức có thể biết rõ hơi thở là vô thường, mạng sống nương nơi hơi thở, hơi thở còn thì có mạng sống, một hơi thở không trở lại, sự sống liền kết thúc. Khi đã biết hơi thở là vô thường, thân mạng là nguy hiểm. Do biết hơi thở vô thường, tâm không còn sinh tham ái, biết hơi thở không phải là ta, nên không sinh tâm kiến chấp! Giác ngộ vô thường thì không sinh tâm ngã mạn!
Bởi vì khi hành giả mới bắt đầu tu tập phương pháp này, đã có khả năng phá trừ các kiết sử “phiền não”. Đây là chỗ không đồng với pháp quán Sổ tức vậy.
Lại nữa, nếu tâm hành giả nương theo hơi thở, khiến không tán loạn để được nhập thiền định, nên gọi là “cũng tham ái”. Do được giác ngộ vô thường, nên gọi là “cũng sách phát”. Vì cùng với thiền định tương ưng nên gọi là “cũng hữu lậu”. Do quán chiếu mà không chấp đắm tham ái nơi thiền định này, nên gọi là “cũng vô lậu”.
Lại nữa, khi tu quán Sổ tức, vì chỉ dùng tâm mê mờ để đếm số, không có trí tuệ quán chiếu, nên sau khi chứng thiền định, thì tâm không thấy biết gì. Nay tu pháp Tùy tức có thể dùng tâm sáng suốt quán chiếu hơi thở, sau khi chứng thiền định, tâm nhãn liền khai sáng, thấy rõ 36 vật trong thân thể, phá trừ tâm tham ái, kiến chấp, ngã mạn. Đây tức là chỗ thù thắng của Thập Lục Đặc Thắng hơn hẳn pháp Sổ tức vậy.
3. Biết hơi thở dài ngắn
Dùng pháp này đối chiếu để phá Định dục giới. Nếu khi chứng được Định dục giới, cảnh giới trong định vắng lặng trong sáng, dù một chút tướng trạng của hơi thở cũng không nhận biết. Còn trong 16 pháp này, chỉ khi mới bắt đầu được định, liền có khả năng nhận biết tướng của hơi thở dài hay là ngắn.
Làm sao biết? Nếu khi tâm an định, biết hơi thở vào thì dài, biết hơi thở ra thì ngắn, vì sao? Vì khi nội tâm đã an trụ vắng lặng, hơi thở theo tâm vào, nên cảm thấy hơi thở vào là dài. Do tâm niệm không duyên theo cảnh bên ngoài, nên cảm nhận hơi thở ra là ngắn.
Biết hơi thở dài là tâm Tế, biết hơi thở ngắn là tâm Thô. Vì tâm vi tế thì hơi thở nhẹ nhàng, do hơi thở nhẹ nên khi hít từ mũi đến rốn, thì hơi đi vào chậm mà dài, còn hơi thở từ rốn đi ra đến mũi cũng nhẹ và chậm như thế. Tâm thô thì hơi thở thô, nếu hơi thở thô thì khi hít vào từ mũi đến rốn hơi đi nhanh mà ngắn, khi thở ra từ rốn đến mũi cũng nhanh và ngắn như thế.
Do tâm vi tế nên nhận biết hơi thở ngắn. Do tâm thô nên nhận biết hơi thở dài, vì sao? Vì tâm niệm từ từ chuyển sang vắng lặng, nên khi thở ra, hơi thở đi từ rốn đến ngực thì hết, khi hít vào vừa đến cổ họng liền biết hơi thở đã hết. Đây là do khi tâm yên lặng, nên mới nhận biết được hơi thở là ngắn.
Tâm thô nên nhận biết hơi thở dài là do tâm của hành giả thô, cho nên nhận biết hơi thở đi từ rốn đến mũi, từ mũi đến rốn, trên lộ trình xa mà dài, vì tâm thô nên cảm nhận hơi thở dài. Nếu trên đoạn đường ngắn, có thể cảm nhận hơi thở dài, thì sức định rất vi tế, nếu trên đoạn đường dài mà cảm nhận hơi thở ngắn, là định lực còn thô.
Vì sao vậy? Vì khi hơi thở từ mũi đến rốn thì hết, tuy đoạn đường ngắn mà thời gian lại dài, nên rất lâu hơi thở mới đến được rốn, bởi vì thời gian thì dài mà lộ trình lại ngắn vậy. Nếu theo đó mà luận thì đoạn đường ngắn cảm nhận hơi thở dài, định này là vi tế.
Trên đoạn đường dài, cảm nhận hơi thở ngắn, là định thô, ví như tâm niệm thô, thì hơi thở đi trên đoạn đường dài từ mũi đến rốn, thời gian lại quá ngắn, khi thở ra liền đến mũi, vì sao? Vì tâm niệm còn thô nên hơi khí đi nhanh chóng, tuy đường dài mà hơi thở ngắn, hơi thở ngắn này là tâm Thô.
Cho nên nói rằng: “Dài trong ngắn thì thô, ngắn trong dài thì tế vậy”.
Hành giả cảm nhận thời gian dài ngắn của hơi thở, biết rõ vô thường là do sự sinh diệt không cố định của tâm niệm, cho nên mới có tướng mạo của hơi thở dài hay ngắn khác nhau, vì khi chứng được Định dục giới, tâm giác ngộ vô thường lại càng rõ ràng.
Do chứng được Định dục giới, nên gọi là “cũng Ái”, do quán chiếu sự vận hành hơi thở mà giác ngộ vô thường, nên gọi là “cũng Sách”.
Trên đây đã giới thiệu sơ lược về tướng mạo hơi thở dài ngắn và trường hợp phá trừ Định dục giới.
4. Biết hơi thở khắp thân
Dùng pháp này đối chiếu với định Vị đáo địa. Thông thường khi chứng được Vị đáo địa, chỉ cảm nhận thân thể trống rỗng như hư không, nhưng thật tế là có hơi thở và thân thể, vì tâm nhãn chưa mở sáng, nên không nhận ra và cũng không thấy.
Nay hành giả tu 16 pháp Đặc Thắng này, khi định Vị đáo địa khai phát, nội tâm lặng lẽ nhập định, liền cảm nhận thân thể từ từ xuất hiện, tương tự như bóng, như mây và biết rõ hơi thở ra vào khắp các lỗ chân lông trên thân thể. Lúc này hành giả cũng cảm nhận tướng mạo của hơi thở giống như nhau, cũng biết rõ hơi thở ra vào không tích tụ, không phân tán. Do sự sinh diệt vô thường, cho nên mới biết được thân thể rỗng không là hư giả, chẳng thật. Nhân đây hành giả biết được từng sát-na sinh diệt không dừng trụ.
Do ba thứ, (thân thể như mây, hơi thở ra, hơi thở vào) hòa hợp, mà phát sinh định Vị đáo địa, ba sự kiện này đều là Không, thì pháp định nương gá vào chỗ nào? Hành giả biết cái Không đó cũng không có, nên chẳng còn bám chấp nơi định, tức là phá trừ được định Vị đáo địa. Ý nghĩa Ái và Sách cũng đều bao hàm trong đó.
HỎI: Trong các Kinh điển Ma Ha Diễn, phần nhiều là nói pháp quán hơi thở ra vào, vì sao ở đây lại nói Biết hơi thở ra vào?
ĐÁP: Thực tế ở đây nói chữ Biết, trong các kinh điển gọi là Quán, nhưng trên thực tế thì pháp quán chưa được đầy đủ trọn vẹn, cho nên ở đây mới dùng chữ Biết để thay thế vậy. Phẩm Quảng Thừa trong Kinh Đại Phẩm có ghi: “Khi giải thích tướng mạo của 16 pháp quán Đặc Thắng cũng đều nói Biết hơi thở ra vào, dài ngắn v.v…”, lấy kinh này để chứng minh, vì thế dùng chữ Biết cũng không trái với văn nghĩa của kinh. Đến phần quán huệ sẽ giảng rõ hơn.
5. Trừ các thân hành
Dùng pháp quán này đối chiếu với Giác quán của Sơ thiền, trong đó chia làm hai phần để giải thích:
- Thân hành
- Trừ thân hành
- Thân hành: Khi thân thể của Dục giới phát được Sơ thiền, Tứ đại tạo sắc của cõi Sắc giới, tiếp xúc đến thân Dục giới, thân căn của Dục giới sinh ra thân thức, cảm nhận xúc của Sắc giới, vì sắc chất của Dục giới và sắc giới giao xen nương trụ lẫn nhau, nên gọi là Thân.
Thân hành tức là Quán, do pháp quán này phát sinh từ nơi thân nhận biết những hành động tạo tác trong thân thể, nên gọi là Thân hành.
- Trừ thân hành: Do hành giả nhận biết hơi thở khắp toàn thân, mà chứng được Sơ thiền, tâm nhãn mở sáng, thấy rõ 36 vật ở trong thân rất dơ bẩn nhàm gớm, đồng thời cũng biết 36 vật này do bốn đại tạo thành sáu phần: đầu, thân, hai tay và hai chân. Mỗi một phần ấy chẳng phải là Thân, cả bốn đại đều không phải là Thân, lúc này hành giả có thể phá trừ chấp thân Dục giới vậy.
- Trừ thân của Sơ thiền: Thân tuy còn trong cõi Dục giới mà mong muốn tìm Tứ đại của Sắc giới là không thể được, đây gọi là trừ chấp thân Sơ thiền.
Vì cớ sao? Nếu nói có Tứ đại tạo sắc của Sắc giới, sắc này là do từ ngoài vào hay từ trong ra? Hay ở chặng giữa? Trong khi quán chiếu như thế, thấy tất cả rốt ráo là Không, chỉ do sự tưởng nhớ điên đảo, nên mới có cảm thọ xúc của Sắc giới. Thực tế nếu quán sát kỹ thì chẳng có, tức là phá chấp thân Sơ thiền, sau khi đã loại trừ chấp thân này rồi, thân hành tự diệt mất.
Lại nữa, khi chưa chứng được Sơ thiền, tại thân Dục giới khởi tạo bao nhiêu nghiệp thiện ác, nay quán thấy tướng bất tịnh của thân thể, không còn tạo các nghiệp thiện ác, phiền não, cho nên gọi là Trừ thân hành.
Do tu 16 pháp quán Đặc Thắng mà có được hai thứ:
Công đức năm chi của Sơ thiền: giống như đã nói ở chương trước.
Công đức năm chi của Tịnh thiền là:
- Nhận biết 36 vật trong thân là hư giả chẳng thật, gọi là Giác.
- Có khả năng phân biệt thiền này với các công đức của Định dục giới và căn bản thiền, có sự hơn kém nhau, gọi là Quán.
- Được pháp hoan hỷ sung mãn, nên nội tâm rất vui vẻ, gọi là Hỷ.
- Do tâm không còn những cấu uế nên được thọ hưởng cảm giác khoan khoái, an lạc, gọi là Lạc.
- Khi được chánh định có thể khiến tâm không dao động, gọi là Nhất tâm. Trong định này, thành tựu được cảm giác hoan hỷ an lạc rất thù thắng vi diệu, tâm không đắm nhiễm, chấp trước, nên gọi là Tịnh thiền vậy.
Lại nữa, Trong Luận A Tỳ Đàm ghi: “Ý nghĩa ngăn che vô ký là cấu “phiền não”, không ngăn che vô ký là bất cấu “không phiền não” đây chính là nói về hai thứ thiền định này, cho nên cần phân tích rộng.
6. Thọ Hỷ
Dùng pháp này đối chiếu để phá trừ Hỷ của Sơ thiền và thọ Hỷ trong căn bản thiền.
Sau khi từ chỗ phiền não ngăn che phát sinh giác quán, do không có trí tuệ quán chiếu thì phiền não sinh khởi, cho nên xả bỏ niềm hoan hỷ này.
Nay thọ Hỷ của 16 pháp Đặc Thắng này, là từ trong giác quán của Tịnh thiền phát sinh, do có sức quán chiếu, phân tích, mới liễu đạt được tính không của giác quán. Nên biết niềm hoan hỷ xuất phát từ nơi giác quán cũng là Không, tức là tâm không còn đắm chấp nơi pháp hỷ, do không có những lỗi lầm, nên nói thọ Hỷ, ví như bậc A-la-hán, không còn tham đắm các vật cúng dường, nên gọi là Ứng cúng.
Lại nữa, do thấy biết chân thật, nên tâm có niềm hoan hỷ chân chính, gọi là thọ Hỷ.
7. Thọ Lạc
Dùng pháp này đối chiếu Lạc chi của Sơ thiền. Do Sơ thiền của phàm phu, không có trí tuệ quán chiếu nên sinh tâm đắm nhiễm cảnh giới khoái lạc, vì thế hành giả không nên thọ nhận khoái lạc này. Nay giải thích về thọ Lạc của 16 pháp Đặc Thắng: nghĩa là thọ nhận niềm vui không có khoái lạc, vì biết Lạc này tự tính là Không, do không đắm chấp cảm thọ của Lạc, nên không có những lỗi lầm thọ hưởng khoái lạc, do phần trước không chứng được an lạc vô vi, cho nên chỗ này gọi là thọ Lạc.
8. Thọ các tâm hành
Dùng pháp này đối chiếu để phá Nhất tâm của Sơ thiền.
Các tâm hành: bao gồm tất cả các pháp, tâm hành có hai loại: Động hành, Bất động hành.
Có vị giải thích rằng: “Từ Sơ thiền đến Tam thiền vẫn còn thuộc về Động hành (tu hành còn dao động), từ Tứ thiền trở lên, mới gọi là Bất động hành”. Nay giải thích về Bất động hành.
Bất động hành: bốn chi (giác, quán, hỷ, lạc) thuộc về Động hành, Nhất tâm chi thuộc về Bất động hành, cũng còn gọi là “các tâm hành”. Tức là tu hành đến chỗ nhất tâm bất động.
Khi hàng phàm phu chứng được Nhất tâm của Sơ thiền liền sinh tâm đắm chấp, nên khi hành giả chứng nhập định này cần phải buông xả. Nay giải thích về “thọ các tâm hành” của 16 pháp Đặc Thắng, tức là biết định này là hư giả chẳng thật, không phải chân tâm nên không đắm chấp, do không phát sinh lỗi lầm, có khả năng chứng được Tam-muội chính thọ, nên mới gọi là Thọ các tâm hành.
9. Tâm tác hỷ
Dùng pháp này đối chiếu để phá cảnh giới Nội tịnh hỷ của Nhị thiền.
Vì sao? Vì pháp hỷ của Nhị thiền xuất phát từ nội tâm vắng lặng, nhưng không có trí tuệ chiếu soi, nên phần nhiều đắm nhiễm nơi thọ Hỷ, phương pháp Đặc Thắng là dùng trí tuệ quán chiếu cảnh giới hoan hỷ, biết nó là hư giả chẳng thật nên tâm không còn đắm chấp. Vì thấy biết đúng như thật liền phát sinh pháp hoan hỷ, cũng gọi là Hỷ giác chi. Do từ nơi tâm chánh quán mà phát sinh pháp hoan hỷ chân thật, nên gọi là Tâm tác hỷ.
10. Tâm tác nhiếp
Dùng pháp quán này đối chiếu để phá trừ Nhất tâm của Nhị thiền.
Vì sao? Vì pháp hỷ của Nhị thiền khiến tâm dao động, cần phải thâu nhiếp, gọi là tâm tác nhiếp. Khi thu nhiếp tâm như thế, chính là phá trừ tâm hoan hỷ hư dối ở trước, mà phát sinh cảm giác vui mừng của pháp Hỷ. Cảm giác hoan hỷ này tuy từ chánh định phát ra, nhưng lại có lỗi là còn làm dao động tâm, phải xoay lại quán chiếu tự tính của nó, biết tự tính pháp Hỷ vốn rỗng lặng, do đó tâm không còn bị tán loạn, không chạy theo cảm giác hoan hỷ dao đọng, nên gọi là Tác nhiếp. Cho nên trong Kinh Đại Tập có ghi: “Tâm động đến tâm”.
11. Tâm trụ giải thoát
Dùng Pháp này đối chiếu để phá thọ Lạc của Tam thiền.
Vì sao? Vì Tam thiền có cảm giác khoái lạc khắp toàn thân, nên khi hàng phàm phu chứng được cảnh giới này, đa số sinh tâm tham ái, đắm nhiễm, ràng buộc không thể giải thoát. Nay nói giải thoát là khi hành giả chứng cảnh khoái lạc toàn thân, liền dùng trí tuệ quán chiếu, phá trừ, biết khoái lạc từ nhân duyên sinh, là rỗng không, chẳng có tự tính, là hư dối chẳng thật. Do hành giả quán chiếu như thế nên không còn đắm chấp thì nội tâm được tự tại, đây gọi là Tâm tác giải thoát.
12. Quán vô thường
Dùng pháp này đối chiếu để phá cảnh giới bất động của Tứ thiền.
Vì sao? Vì trong thế gian, có hai pháp là động và bất động, từ Sơ thiền đến Tam thiền, nội tâm đều có cảm thọ hỷ và lạc, khiến tâm bị dao động, nên còn gọi là Pháp động, Tứ thiền còn gọi là định bất động, khi hàng phàm phu chứng được định này, phần nhiều họ chấp cho là cảnh giới thường hằng, nên sinh tâm đắm chấp, tham ái. Nay hành giả quán sát thấy Tứ thiền có ba tướng là Sinh, Trụ, Diệt luôn luôn dời đổi, đó là tướng phá hoại bất an. Nên kinh ghi: “Tất cả pháp động và bất động của thế gian đều là tướng bại hoại bất an”, nên gọi là Quán vô thường.
13. Quán xuất tán
Dùng pháp này đối chiếu để phá cảnh giới của định Hư không.
Xuất: tức là ra khỏi Sắc giới, Tán: tức là tiêu mất ba thứ sắc pháp đó là: năm căn, năm trần và vô biểu sắc.
Xuất Tán: nghĩa là thoát ra khỏi cảnh giới của định Sắc giới, do tâm hành giả nương nơi định Hư không, tiêu dao tự tại, nên không bị các sắc pháp ràng buộc, đây gọi là Xuất Tán. Hàng phàm phu khi chứng được định này, lầm chấp cho là đã đạt được cảnh giới chân Không an ổn, nên sinh tâm tham chấp.
Nay giải thích pháp quán Xuất tán. Khi hành giả nhập định Hư không, biết rõ định này do bốn thứ: thọ, tưởng, hành, thức hòa hợp mà thành, vốn không có tự tính, nên không sinh tâm đắm chấp, vì sao? Vì nếu nói có xuất tán, thì hư không xuất tán, hay tâm xuất tán? Nếu nói tâm xuất tán, thì tâm bị ba tướng (quá khứ, hiện tại, vị lai) thay đổi, nhưng quá khứ đã diệt mất, vị lai chưa đến, hiện tại không dừng trụ, thì làm sao xuất tán “ra khỏi”. Nếu nói hư không xuất tán, hư không vốn là vô tri, đã là vật vô tri thì làm sao xuất tán? Nhân đây hành giả biết định Hư không vốn là Không, nên tâm chẳng còn tham ái đắm chấp, gọi là Quán xuất tán.
14. Quán ly dục
Dùng pháp này đối chiếu để phá định Thức xứ. Vì cớ sao? Hễ tham đắm tất cả ngoại cảnh đều
gọi là dục, từ Định dục giới đến định Hư Không đều là cảnh giới ở ngoài tâm.
Định Hư không là cảnh ở ngoài, tâm thức đến lãnh thọ định này, liền chấp hư không. Định Thức xứ duyên nơi tâm thức ở trong, có thể lìa tâm tham chấp định Hư không nên gọi là Ly dục. Nếu hàng phàm phu khi chứng được định này, do không có trí tuệ quán chiếu, họ cho là tâm và thức tương ưng, là định chân thật an ổn, liền sinh tâm tham ái, đắm chấp.
Nay giải thích pháp quán ly dục của Đặc Thắng: tức là khi hành giả chứng được định này, dùng trí quán chiếu phá trừ, nếu nói do tâm duyên nơi thức, tâm cùng với thức tương ưng mà được nhập định, thật tế thì không đúng! Vì sao? Vì thức quá khứ, vị lai, hiện tại, không cùng với tâm hiện tại tương ưng, vậy thì tại sao có thể nói là do tâm cùng với thức cả ba đời tương ưng mà được định? Nhân pháp định trì giữ tâm, gọi là định Thức xứ, nên biết pháp định của thức này chỉ là danh từ suông, là hư giả không thật nên gọi là Ly dục.
15. Quán diệt
Dúng pháp này đối chiếu để phá định Vô sở hữu xứ.
Vì sao? Vì định Vô sở hữu xứ duyên pháp trần vô vi, tâm cùng với vô vi tương ưng, do định này đối với pháp trần vô vi, phát khởi một ít tâm thức mà được vậy. Khi hàng phàm phu chứng được định này, cho là tâm đã diệt hết, thì khởi tâm tham đắm, không thể buông xả nên bị trói buộc.
Nay giải thích pháp Quán diệt: khi hành giả chứng được định, liền nhận biết có một ít tâm thức, tuy thức này rất vi tế, nhưng cũng là do bốn ấm hòa hợp, là vô thường, vô ngã, hư giả chẳng thật, chẳng khác phân dơ, dù ít hay nhiều vẫn là dơ bẩn hôi thối, không thể đắm nhiễm, gọi là Quán diệt.
16. Quán khí xả
Dùng pháp này đối chiếu để phá định Phi tưởng.
Vì sao? Vì định Phi tưởng phi phi tưởng là pháp đối trị, để xả bỏ định Thức xứ và Vô sở hữu xứ, từ Sơ thiền trở về trước, chỉ có pháp xả bỏ một bên, không xả bỏ cả hai. Cho nên chưa dùng danh từ Khí xả, định Phi tưởng có thể xả bỏ hai thứ: Có tưởng và không tưởng, nên gọi là Khí xả. Định Phi tưởng, cũng là phương pháp buông xả tột đỉnh, nên cuối cùng mới dùng danh từ này. Nếu hạng phàm phu khi chứng được định này, cho là đã chứng được Niết-bàn, do không có trí tuệ phương tiện quán chiếu nên không thể buông xả.
Nay giải thích pháp quán khí xả của Đặc Thắng: khi hành giả chứng được định, liền biết rõ bốn ấm, Thập nhị nhân duyên, Tam giới và Mười thứ tâm vi tế v.v… đều do hòa hợp tạo thành. Hành giả biết rõ pháp định này là vô thường, khổ, không, vô ngã, là hư giả chẳng thật, nên không còn chấp là Niết-bàn an lạc. Biết định này vốn rỗng lặng, nên tâm không còn đắm chấp, gọi là Quán khí xả.
Khi thành tựu được định này, liền có đầy đủ hai thứ Khí xả: xả Niết-bàn và xả bỏ các thiền căn bản, vĩnh viễn xả bỏ sinh tử, nên gọi là Quán khí xả. Lúc này hành giả xả pháp quán, liền chứng ngộ Niết-bàn của Tam thừa! Sự việc này giống như khi Phật bảo ông Tu-bạt-đà-la(4) quán chiếu tâm tưởng vi tế trong định phi tưởng, ông liền chứng quả A-la-hán.
Trường hợp chứng đạo không nhất định phải tu đầy đủ cả 16 pháp Đặc Thắng, chỉ cần hai hay ba pháp, cũng có khả năng ngộ đạo! Có trường hợp những bậc căn cơ linh lợi, khi họ mới tu pháp Tùy tức, giác ngộ vô thường liền ngộ đạo, đây là tùy theo căn cơ từng người vậy.
Từ khi mới tu tập thiền định trở về trước, đều có thể phát được thiền định căn bản, nên gọi là “cũng hữu lậu”. Do trong định dùng trí tuệ quán chiếu phân tích, không còn đắm chấp, nên gọi là “cũng Vô lậu”, nên nói rằng Thập lục đặc thắng là loại thiền “cũng hữu lậu cũng vô lậu”. Trên đây đã giới thiệu từng pháp quán để đối chiếu với các tầng thiền định trong Tam giới.


Chú thích Quyển 7B:
(1) Ma Ha Nam: Ngài là một trong năm người được vua Tịnh Phạn chọn trong hoàng tộc để theo hầu Thái tử, lúc Thái tử vượt thành xuất gia. Sau khi Thái tử đắc đạo thành Phật, chuyển pháp luân đầu tiên ở vườn Lộc Dã, đã độ Ngài cùng với bốn vị khác chứng quả A-la-hán.
(2) Ma Ha Ca Diếp (Đại Ca Diếp, Ẩm Quang): là đệ tử xuất sắc của Đức Phật. Ngài sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn ở vùng ngoại ô thành Vương Xá. Sau khi Đức Phật thành đạo ba năm, Ngài đến quy y với Phật, tu được tám ngày đã chứng quả A-la- hán, sau khi Phật nhập diệt, Ngài là vị dứng đầu Tăng đoàn, đứng ra tổ chức kết tập kinh điển lần thứ nhất tại thành Vương Xá, sau khi truyền pháp cho tôn giả A Nan, Ngài vào núi Kê Túc nhập định để chờ Phật Di Lặc ra đời mới nhập Niết-bàn. Ngài nổi tiếng hành hạnh Đầu Đà nghiêm túc nhất trong hàng đệ tử Phật. Trên hội Linh Sơn “Niêm hoa vi tiếu” (trong Kinh Đại Phạm Thiên Vương Vấn Phật Quyết Nghi. Đại chánh tân tu Đại tạng kinh) Ngài được Đức Phật Thích Ca truyền tâm ấn. Từ đó Ngài trở thành Sơ tổ của Thiền tông Ấn Độ.
(3) Hy Na (Câu-hy-la): một vị A-la-hán, đệ tử lớn của Phật, chứng được lý năm uẩn đều Không. Theo Kinh Tạp A Hàm 12, lúc Ngài ở núi Kỳ-xà-quật, tôn giả Xá Lợi Phất đến hỏi nghĩa lý Thập nhị nhân duyên, Ngài trả lời thông suốt, Xá Lợi Phất khen là bậc trí tuệ biện tài, khéo hàng phục khi có người đến vấn nạn.
(4) Tu-bạt-đà-la: người đệ tử sau cùng được Đức Phật khai thị và đắc đạo trước khi Phật sắp nhập Niết- bàn. Lúc đắc đạo Ngài đã 120 tuổi, trước kia Ngài rất thông minh, khi nghe Phật thuyết Bát chánh đạo liền xuất gia thụ giới ngay trong đêm ấy, nỗ lực tịnh tu phạm hạnh, đêm xuống không bao lâu, Ngài đắc quả A-la-hán rồi liền diệt độ trước Đức Phật.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 12 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Hương lúa chùa quê - Phần 2: Hồi ký của Hòa thượng Thích Như Điển


Dưới cội Bồ-đề


Tự lực và tha lực trong Phật giáo


Cho là nhận

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 18.118.138.223 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập