Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
Nhà lợp không kín ắt bị mưa dột. Tâm không thường tu tập ắt bị tham dục xâm chiếm.Kinh Pháp cú (Kệ số 13)
Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi. Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Bậc trí bảo vệ thân, bảo vệ luôn lời nói, bảo vệ cả tâm tư, ba nghiệp khéo bảo vệ.Kinh Pháp Cú (Kệ số 234)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Thích Thiền Ba La Mật Thứ Đệ Pháp Môn [釋禪波羅蜜次第法門] »» Bản Việt dịch quyển số 6 »»

Thích Thiền Ba La Mật Thứ Đệ Pháp Môn [釋禪波羅蜜次第法門] »» Bản Việt dịch quyển số 6

Donate


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.79 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.97 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Thiền Ba La Mật

Kinh này có 12 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 |
Việt dịch: Thích Đạt Ma Ngộ Nhất

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

*2. TỨ VÔ LƯỢNG TÂM
Giải thích Tứ vô lượng tâm
Chia làm năm phần:
A. Giải thích thứ lớp
B. Giải thích danh
C. Giải thích xứ sở
D. Giải thích tu chứng
E. Giải thích công đức Tứ vô lượng tâm
A. GIẢI THÍCH THỨ LỚP
Sở dĩ giải thích Tứ vô lượng tâm kế sau phần giải thích Tứ thiền, là do người tu có hai hạng:
- Thế gian
- Xuất thế gian
I- THẾ GIAN
Có ba hạng:
- Người ưa thích cảnh giới thù thắng tự tại, mong cầu làm Phạm Thiên vương, nên khi chứng được Tứ thiền rồi lại tiếp tục tiến tu Tứ vô lượng tâm. Vì cớ sao?
Vì Tứ thiền chỉ là cõi Sắc, tự mình tu hành đầy đủ nhưng chưa làm lợi ích cho người khác, nên công đức còn thấp kém, nếu sinh về cõi trời kia thì không được làm Thiên vương. Nếu tu thêm Tứ vô lượng tâm nội tâm hướng về mười phương chúng sinh mà nhập tam-muội, khởi lòng từ bi trùm khắp tất cả, tâm lợi tha rộng lớn, cho nên được nhiều công đức. Nếu được sinh về cõi trời kia nhất định sẽ làm Phạm Thiên vương, thống lãnh tự tại. Vì thế khi chứng được Tứ thiền, hành giả cần tu tập thêm Tứ vô lượng tâm.
- Hàng ngoại đạo tu hành, tuy chứng được Tứ thiền, nhưng thấy có tai họa của tâm thức, họ muốn được Niết-bàn vô tưởng tịch diệt, mà không biết phương pháp phá sắc tướng, lại dùng tà trí diệt tâm thức nhập định Vô tưởng.
- Hoặc có hàng phàm phu và ngoại đạo, chán ghét cõi Sắc như lao ngục, chuyên nhất tâm phá sắc tướng, tu định Tứ không. Hàng phàm phu cũng đều tu chứng được các định này, nhưng ý thích lại chẳng đồng, vì mỗi người đều tu tập theo sự ưa thích khác nhau.
II- XUẤT THẾ GIAN
Cũng có hai hạng: Tiểu thừa và Đại thừa. Đây là hai hạng người khi tu chứng được Tứ thiền, lại tiến tu Tứ vô lượng tâm.
- Người tu theo Tiểu thừa thì chỉ điều phục tâm mình, tăng trưởng phước đức, cho nên dễ chứng Niết-bàn.
- Người tu theo Đại thừa, vì muốn hóa độ chúng sinh, nên phải dùng tâm đại bi làm nền tảng, vì thế kế sau Tứ thiền cần phải giải thích phương pháp tu Tứ vô lượng tâm.
HỎI: Như trong Ma Ha Diễn có đặt câu hỏi giả thiết như: “Trong Tứ thiền đã có đủ các định Tứ vô lượng tâm và Nhất thiết nhập v.v… vì sao nay lại giải thích riêng?
ĐÁP: Tuy trong Tứ thiền đều có các pháp định ấy, nếu không giải thích riêng thì người tu không thể biết công đức của Tứ vô lượng tâm. Ví dụ như trong túi đãy có đựng vật báu, nếu không chỉ cho người thì người làm sao biết để lấy. Do muốn chỉ bày những phước đức lớn, cho nên giảng Tứ vô lượng tâm.
Nếu người chán cõi Sắc như lao ngục, nên vì họ giảng nói Tứ vô sắc định. Nếu người đối với trong các duyên quán chiếu mà không được tự tại, nên vì họ giảng nói Bát thắng xứ. Nếu họ bị trở ngại chướng đạo, không được thông đạt, nên vì họ giảng nói Bát bối xả. Nếu có người tâm không được điều hòa, không thể theo thứ lớp để nhập thiền, nên vì họ mà giảng nói Cửu thứ đệ định. Nếu người không thể tùy ý quán chiếu khắp tất cả các duyên, nên vì họ giảng nói Nhất thiết xứ.
HỎI: Nếu luận như thế, hiện nay người đã chứng được Tứ thiền, thì nhất định có đủ các thiền định Tứ vô lượng tâm v.v… hay không?
ĐÁP: Nếu theo ý nghĩa này mà luận, thì trong Tứ thiền vô lậu, có Tứ vô lượng tâm, nghĩa này đâu có lỗi. Vì cớ sao? Vì trong thiền vô lậu đều có đầy đủ các pháp môn Quán hạnh. Nếu nói về căn bản thiền hữu lậu, thì chẳng khác nào trong sữa nói Đề-hồ(1) vậy.
B. GIẢI THÍCH DANH TỪ
Tứ vô lượng tâm: (4 tinh thần phải có của Phật và Bồ-tát để độ khắp vô lượng chúng sinh, cho chúng sinh hết khổ được vui).
1. Từ vô lượng tâm: Từ là tâm yêu mến nhớ nghĩ chúng sinh, mong muốn chúng sinh được an vui và lợi ích.
2. Bi vô lượng tâm: Bi là tâm nhớ nghĩ thương xót chúng sinh thân đang chịu thống khổ trong năm đường ác.
3. Hỷ vô lượng tâm: Hỷ là muốn làm cho chúng sinh từ an lạc mà được hoan hỷ.
4. Xả vô lượng tâm: Xả là xả bỏ cả ba thứ tâm ở trước, chỉ nhớ chúng sinh, không thương không ghét.
Duyên nơi bốn pháp này, nên nói bốn tâm. Bốn tâm này trùm khắp cả mười phương không ngăn cách, nên gọi là Tâm vô lượng.
Tu tâm Từ, là trừ bỏ cảm giác sân hận trong chúng sinh.
Tu tâm Bi, là trừ cảm giác nóng nảy trong chúng sinh.
Tu tâm Hỷ, là trừ bỏ cảm giác lo buồn trong chúng sinh.
Tu tâm Xả, là trừ bỏ cảm giác yêu ghét trong chúng sinh.
Tướng trạng thứ lớp cấp bậc của bốn thứ định này, phần sau sẽ giải thích.
C. GIẢI THÍCH XỨ SỞ
Là chỗ tu của Tứ vô lượng tâm. Chia làm hai phần:
I- Tổng thể
Từ Sơ thiền đến Tứ thiền đều tu được Tứ vô lượng tâm. Như trong Thích Luận nói: “Từ vô lượng tâm ở trong thiền căn bản của cõi Sắc và cũng thuộc Trung gian thiền. Vì cõi Vô sắc không có sắc chất, nên không có chúng sinh để làm phương tiện quán chiếu, mà Định dục giới và Vị đáo địa thì thấp cạn, không có phương tiện nào để tu tạo các công đức”.
HỎI: Trong Định dục giới và Vị đáo địa, người có căn khí nhạy bén có thể trong định này phát lý giải thấy biết chân thật, vì sao không được tu Tứ vô lượng tâm?
ĐÁP: Do sức trí tuệ tư duy trên lý thể quá nhạy bén, nên người có căn tính lanh lợi ngay tại trong Định dục giới và Vị đáo địa, có thể phát khởi thấy biết lý giải chân thật. Nếu là các thần thông vô lượng v.v… nhất định phải nhờ thiền định thâm sâu mới có thể phát huy tác dụng. Định dục giới và Vị đáo địa lại hoàn toàn không tu được Tứ vô lượng tâm, nhưng nếu phát được thì thuộc về Sơ thiền, nên không nói đến.
Như tác dụng của công đức năm chi Sơ thiền: Tác dụng của hai chi Giác và Quán là dùng để phân biệt dục giới, nên dễ dàng phát sinh Bi vô lượng tâm; tác dụng của Hỷ chi, thì dễ dàng phát sinh Hỷ vô lượng tâm; tác dụng của Lạc chi, thì dể dàng phát sinh Từ vô lượng tâm, tác dụng của Nhất tâm chi, thì dễ dàng phát được Xả vô lượng tâm. Cho nên gọi là “Chỗ tu chứng”.
HỎI: Trong định Tứ thiền và Trung gian thiền không có Hỷ và Lạc thì làm sao ban cho chúng sinh?
ĐÁP: Trong đó tuy không có Hỷ và Lạc, nhưng có thể dùng tướng hỷ, lạc ở ngoài mà bình đẳng ban cho chúng sinh được vui vẻ. Ví như hành giả đã lìa bỏ ngũ dục, chính mình không cần ngũ trần, cũng không cùng dục trần giao tiếp nhiễm ô. Nhưng vì muốn tu tạo phước đức, nên đem những khoái lạc thù thắng vi diệu của ngũ dục ban cho chúng sinh, mà chính nội tâm của mình không ô nhiễm. Trong định Tứ thiền ban cho chúng sinh hỷ lạc cũng như thế. Trường hợp của Trung gian và Vị đáo địa, cũng tương tự như thế.
II- GIẢI THÍCH RIÊNG
- Như Sơ thiền dùng giác quán là chủ yếu, biết rất tường tận cảnh khổ não của chúng sinh cõi Dục, nên trong Sơ thiền này tu tâm Bi vô lượng thì dễ thành tựu.
- Trong Nhị thiền đã có niềm vui lớn, nên Nhị thiền tu tâm Hỷ vô lượng dễ thành tựu.
- Trong Tam thiền có cảm giác an lạc toàn thân, nên tam thiền tu tâm Từ vô lượng dễ thành tựu.
- Trong Tứ thiền có sẵn diệu xả làm trang nghiêm, nên Tứ thiền tu tâm Xả vô lượng dễ thành tựu.
Đây là đặc tính mỗi loại thiền, đều có chỗ phương tiện của nó.
HỎI: Như thế tại sao Phật dạy trụ nơi Tứ thiền, tu Tứ vô lượng tâm dễ thành tựu?
ĐÁP: Đệ Tứ thiền gọi là niệm thanh tịnh, do chứng được định bất động, vì trong thiền này tu tất cả Phật pháp, công đức dễ thành tựu, nên mới nói như vậy.
HỎI: Phần trước có nói trong Sơ thiền tu tâm Bi, thì phá thứ tự. Như tu tâm Từ đứng trước thì Sơ thiền phải tu tâm Từ, Nhị thiền tu tâm Bi, Tam thiền tu tâm Hỷ, Tứ thiền tu tâm Xả. Vì sao vậy?
ĐÁP: Đây là tùy theo đặc tính của mỗi loại thiền để tu, mà không tu theo thứ tự. Như 10 vị đệ tử của Phật, mỗi vị đều đứng đầu mỗi hạnh, nếu hỏi người nào là trí tuệ đệ nhất, phải trả lời là Xá Lợi Phất, nếu lấy người có hạ lạp cao mà trả lời là đệ nhất, thì ý nghĩa quá sai lầm.
D. GIẢI THÍCH TU CHỨNG
Tu Tứ vô lượng tâm có bốn pháp:
I- Tu chứng tâm Từ
II- Tu chứng tâm Bi
III- Tu chứng tâm Hỷ
IV- Tu chứng tâm Xả
I- TU CHỨNG TÂM TỪ
Chia làm hai phần:
1. Phương pháp tu tập
2. Tướng thiền định của tâm Từ khai phát
1. Phương pháp tu tập
Trong các kinh Phật thường ghi: “Có Tỳ-kheo dùng tâm Từ tương ưng, vô sân, vô hận, vô oán, vô não, quảng đại vô lượng, khéo tu tập”.
Thế nào gọi là dùng “tâm Từ tương ưng”?
Như trong Thích Luận ghi: “Tâm hành giả luôn nhớ nghĩ chúng sinh khắp cả mười phương, trong lúc mong muốn chúng sinh được vui sướng thì hiện tượng trong các “tâm số pháp” phát sinh pháp lạc”. Tâm thiện chứng được, gọi là “tâm Từ tương ưng”.
Hành giả muốn nhập thiền định, trước phải phát thệ nguyện lớn. Nguyện cho chúng sinh đều được vui sướng và ở trong thiền định, ta có thể thấy được chúng sinh thọ hưởng vui sướng.
“Tâm số pháp” tức là Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Thân nghiệp, khẩu nghiệp, và tâm bất tương ưng các hành, tức là pháp hòa hợp đều gọi là tâm Từ. Vì các pháp này lấy tâm Từ làm chủ yếu, nên có tên gọi là “tâm Từ”. Ví dụ như tất cả “tâm số pháp” đều do người đời sau dùng tư duy mà có tên gọi, là chỗ tạo các nghiệp thiện ác, cho nên sức mạnh của tư duy rất lớn. Đây gọi là hiện tượng “tâm Từ tương ưng”.
Lại nữa, khi hành giả mới tu tâm Từ, phải dùng niệm thanh tịnh, mong muốn những người thân yêu của mình được hưởng vui sướng, hoặc cha mẹ, anh em v.v… tùy theo người nào mà mình yêu quý nhất, chuyên tâm nhớ nghĩ đến họ, nếu có tạp niệm khởi lên, liền nhiếp tâm khiến tan mất, để tâm quán tưởng nhìn thấy cảnh người thân yêu đang thọ hưởng vui sướng được rõ ràng. Sau đó dùng tâm yêu thương, quán tưởng đến tất cả người thân và kẻ oán thù đều được hưởng niềm vui sướng. Kế tiếp lại quán tưởng đến chúng sinh trong năm đường ác cũng hưởng được niềm vui sướng như thế.
Lại nữa, trong khi hành giả đang tu tâm Từ, nếu gặp những cảnh giới thiện ác, hoặc phát các hiện tượng trong thiền định, không nên chấp vào đó, chỉ cần chuyên chú nhất tâm, quán tưởng đến người thân của mình đang hưởng vui sướng, không được gián đoạn. Trên đây chỉ nói sơ lược về phương pháp tu tâm Từ.
2. Tướng thiền định của tâm Từ khai phát
Trong khi thiền định do sức thiện căn, công đức trí tuệ của hành giả đều thanh tịnh, hành giả nhất tâm nhớ nghĩ thương mến chúng sinh, thì tam-muội liền khai phát. Do sức tam-muội, trong thiền định hành giả sẽ thấy cảnh người thân yêu đang hưởng vui sướng. Hành giả nhìn thấy người thân yêu rõ ràng, nên thân tâm vui vẻ, nhan sắc từ hòa. Sau khi thấy người thân được thọ hưởng vui sướng, kế đến quán tưởng những người quen biết cho đến kẻ oán thù cũng được hưởng vui sướng như thế.
Trong định, tâm hành giả thấy từ một người cho đến mười người, lần lượt đến ngàn, vạn người, cả xóm làng, cả nước, cả thế giới v.v… cho đến chúng sinh khắp cả mười phương thế giới cũng đều được hưởng niềm vui sướng. Hành giả ở trong thiền định, thấy người ngoài hưởng niềm vui sướng, nên sức định trong nội tâm càng thâm sâu, cùng với tâm Từ ở ngoài tương ưng, lặng lẽ không động, đây gọi là “Tâm Từ tương ưng”. Tức là tương ưng với các pháp: Thọ, Tưởng, Hành, Thức, Ấm , Giới, Nhập v.v… cũng như đã nói ở phần trước.
HỎI: Trong định “tâm Từ tương ưng”, khi quán thấy chúng sinh là thấy thứ tự từ một người đến mười người hay thấy cùng một lúc?
ĐÁP: Căn tính của hành giả có nhanh chậm, không nhất định một loại. Tâm Từ tương ưng; “tâm Từ” tức là tâm số pháp có công năng loại trừ ô nhiễm phiền não uế trược trong tâm đó là sân hận, xan tham v.v… ví như hạt minh châu, có công năng làm nước đục trở thành nước trong, mỗi khi thả nó vào nước đục, nước lập tức trở nên trong suốt.
“Vô sân, vô hận, vô oán, vô não” là đối với chúng sinh không kể là có nguyên nhân hay không nguyên nhân, nếu tâm xấu ác dấy khởi đều gọi là tâm sân. Tâm sân giận tăng trưởng tính toán suy lường, nhưng chưa quyết định rõ ràng, gọi là Hận, cũng còn gọi là Oán. Nếu khi tâm đã quyết định rồi, không còn lo ngại, mà muốn nhằm vào đối phương để hành động, quyết gây tổn hại, gọi là Não. Dùng sức tâm Từ trừ bỏ tâm sân, hận, não, đây gọi là “Vô sân, vô hận, vô oán, vô não”. Do không có tâm Sân, Hận, Oán, Não, cho nên tán thán công đức của tâm Từ.
“Quảng đại, vô lượng”: trong một tâm chia làm hai tên gọi, như dùng tâm Từ quán thấy chúng sinh ở một phương gọi là Quảng. Khắp cả bốn phương gọi là Đại. Quán thấy bốn phương trên dưới gọi là Vô lượng.
Phá trừ tâm sân hận gọi là Quảng, phá bỏ tâm oán gọi là Đại, phá trừ tâm não, gọi là Vô lượng.
Tâm Từ duyên đến người thân, gọi là Quảng, tâm Từ duyên đến người quen gọi là Đại, tâm Từ duyên đến người thù oán được nhiều phước đức, gọi là Vô lượng.
Vì để đối với tâm Từ hẹp hòi nên gọi là Quảng, tâm Từ nhỏ nhoi nên gọi là Đại, tâm Từ có hạn lượng nên gọi là Vô lượng.
Người “khéo tu”, đây là tâm Từ đã kiên cố. Khi mới chứng được tâm Từ không thể gọi là “khéo tu”. Không những chỉ nhớ thương chúng sinh và chẳng phải chỉ ưa thích chúng sinh mà thôi, cũng không phải làm lợi ích trong một chúng sinh, không chỉ trong một phương chúng sinh, gọi là “khéo tu”. Hành giả nếu đối với người thân gần, thân xa, thân vừa vừa v.v… hay kẻ oán thù nhiều, ít, vừa v.v… trong chín hạng người ấy tâm thương ghét bình đẳng không khác. Cho đến nhớ thương tất cả chúng sinh trong năm đường khổ, dùng tâm Từ thấy họ như cha mẹ, anh em, bạn bè, bà con, tri thức v.v… thường mong cầu sự việc tốt lành, muốn khiến cho họ được lợi ích an lạc, nếu như tâm niệm này có thể ban rải khắp tất cả chúng sinh ở mười phương, đây mới gọi là “khéo tu tâm Từ”.
Lại nữa, nếu chỉ ban cho chúng sinh khoái lạc của Dục giới, không thể gọi là “khéo tu”. Nếu ban cho cảnh vui của Sơ thiền và Nhị thiền cũng không gọi là “khéo tu”. Nếu có thể ban cho chúng sinh cảnh khoái lạc của Dục giới cho đến cảnh giới an lạc của Tam thiền và Tứ thiền, mới gọi là “khéo tu tâm Từ”.
Tu tâm Từ như thế, gọi là Chúng sinh duyên từ, đây là chỗ hành của hàng phàm phu hoặc các bậc hữu học chưa được lậu tận cũng tu pháp này, do họ điều phục tâm, được phước đức lớn nên dễ dàng nhập vô lậu.
Pháp duyên Từ: Các bậc A-la-hán, Bích chi và chư Phật đã dứt hết lậu hoặc, những Thánh nhân này phá tướng ngã, diệt trừ tướng một và khác. Các Ngài chỉ quán tất cả các pháp do nhân duyên tương tục mà sinh, khi các Ngài dùng tâm Từ nghĩ nhớ chúng sinh cũng xuất phát từ nơi nhân duyên tương tục hòa hợp, tự tính là Không, Ngũ ấm tức là chúng sinh, Niệm tức là ngũ ấm.
Vì chúng sinh không biết tự tính các pháp thiền định vốn là không, nhưng lại thường mong muốn được khoái lạc thiền định. Nên bậc Thánh nhân khởi tâm từ thương xót họ, mà tùy ý ban cho họ được khoái lạc, vì đây là pháp thế tục, nên gọi là “Pháp duyên Từ”.
Vô duyên Từ: tâm Từ này chỉ Phật mới có. Vì sao? Vì chư Phật không trụ trong pháp hữu vi và vô vi, chẳng y nơi bốn phương, quá khứ, vị lai, hiện tại, chư Phật biết các pháp nhân duyên là chẳng thật, hư dối điên đảo, nên tâm không chỗ duyên.
Vì chúng sinh không biết thật tướng của các pháp, cho nên bị luân hồi xoay chuyển trong năm đường khổ, nguyên nhân là do tâm chấp trước các pháp phân biệt thủ xả. Do đó chư Phật đem trí tuệ thật tướng của các pháp giáo hóa khiến cho chúng sinh được an lạc, ấy gọi là “Vô duyên Từ”.
Ví dụ như khi cứu trợ cho người nghèo, hoặc ban cho họ tài vật, vàng bạc châu báu, hoặc ngọc thần như ý. Chúng sinh duyên Từ, Pháp duyên Từ, Vô duyên Từ cũng như thế. Nghĩa này trong Ma Ha Diễn có nói rất rộng.
Lại nữa, “Chúng sinh duyên Từ”, chỉ thấy cảnh giới chúng sinh thọ quả báo khoái lạc. “Pháp duyên Từ” thì chỉ thấy chúng sinh tiếp thọ các pháp môn và tướng Niết-bàn. “Vô duyên Từ”, thì thấy tất cả chúng sinh đồng một Phật tính và tướng Thường Lạc bình đẳng.
Lại nữa, “Chúng sinh duyên Từ”, thì xuất hiện trong các thiền căn bản. “Pháp duyên Từ” phần nhiều xuất hiện trong các thiền vô lậu như: Đặc Thắng, Bát bối xả, Thông minh thiền; “Vô duyên Từ” phần nhiều ở trong: Pháp Hoa Tam-muội, Thủ Lăng Nghiêm và Cửu chủng thiền.
II- TU CHỨNG TÂM BI
Chia làm hai phần:
1. Phương pháp tu tập
2. Thiền định của tâm bi khai phát
1. Phương pháp tu tập
Như Phật dạy: “Nếu có Tỳ-kheo dùng tâm Bi tương ưng, vô sân, vô hận, vô oán, vô não, quảng đại vô lượng, khéo tu tâm Bi tương ưng”.
Trong lúc hành giả trụ trong định của tâm Từ, thường nhớ thương mong muốn chúng sinh được vui sướng, nhưng sau khi xuất định vẫn còn thấy thân tâm của chúng sinh đang chịu những thống khổ mà sinh lòng thương xót, liền nghĩ rằng: “Phải nhớ đến chúng sinh, chớ để họ chịu những thứ đau khổ về thân và tâm”.
Hành giả lại nghĩ: “Ta nay như người mù, không thể thấy được người thân yêu và kẻ oán thù đang ở trong năm đường khổ, chính họ chịu bao đau khổ về thân, tâm, mà ta lại chẳng thấy biết. Ta cứ lười biếng ngày đêm ăn ngủ, không khởi tâm cứu vớt họ”. Nghĩ như vậy rồi, liền phát nguyện rằng: “Nếu có chúng sinh đang chịu những thứ khổ, hy vọng ta ở trong định, nguyện được thấy để siêng năng cứu hộ”. Nghĩ như vậy rồi, liền nhập thiền định. Hành giả dùng định tâm thanh tịnh, quán tưởng đến cảnh người thân đang chịu thống khổ, trụ tâm nơi cảnh ấy, nếu có tạp niệm dấy khởi, nhiếp tâm xoay lại, để tâm quán tưởng được rõ ràng.
Khi hành giả thấy người thân yêu thọ khổ, sinh tâm thương xót vô hạn, kế tiếp hành giả quán tưởng đến người quen, kẻ oán, từ một phương cho đến mười phương và chúng sinh trong năm đường khổ cũng như thế. Đây là tóm lược về phương pháp tu tâm Bi.
2. Tướng thiền định của tâm Bi khai phát Khi quán tưởng như thế thì trí tuệ phước đức, thiện căn của hành giả đều thanh tịnh, tam-muội liền khai phát, ở trong thiền định hành giả thấy người thân đang chịu những cảnh đau khổ rất rõ ràng, nên sinh tâm muốn cứu vớt họ. Hành giả đã thấy cảnh người thân thọ khổ rồi, kế tiếp là thấy người quen và kẻ oán cũng thọ khổ, cho đến cảnh các chúng sinh khắp mười phương và trong năm đường cũng như thế. Hành giả trụ trong thiền định thấy người ở ngoài đang chịu đau khổ, mà nội tâm thương xót vô cùng, sau khi xuất định, tâm Bi càng thâm sâu vững chắc, do định tâm cùng ngoại cảnh tương ưng, nên tâm vắng lặng không dao động, đây gọi là “tâm Bi tương ưng”.
“Vô sân, vô hận, vô oán, vô não, quảng đại vô lượng” như đã nói ở trước.
“Khéo tu” tức là tâm Bi của hành giả trụ trong thiền định, không những chỉ thấy người thân yêu đang chịu khổ sinh tâm thương xót, mà cả những người không thân quen và oán ghét khắp mười phương cùng chúng sinh trong năm đường đang chịu đau khổ, hành giả cũng khởi tâm thương xót, mong muốn cứu hộ tất cả với tâm bình đẳng. Nên gọi là khéo tu tâm Bi.
Lại nữa, nếu hành giả thấy người đang thọ khổ mới sinh tâm thương xót, thấy người hưởng sung sướng và người không khổ không vui mà chẳng khởi tâm thương xót, đây không gọi là “khéo tu tâm Bi”. Nếu thấy cả ba hạng người này thảy đều là khổ, khởi tâm thương xót bình đẳng, gọi là “khéo tu tâm Bi”.
Nếu thấy chúng sinh trong năm đường có sự thọ khổ khác nhau, gọi là chẳng khéo tu tâm Bi. Nếu thấy họ thọ khổ đều như nhau mà sinh tâm thương xót bình đẳng, đây gọi là “khéo tu tâm Bi”.
Cũng có thể nói rằng: Thấy chúng sinh trong năm đường đang cùng chịu một thứ khổ, gọi là chẳng “khéo tu tâm Bi”. Nếu có thể phân biệt chúng sinh trong năm đường thọ khổ có sự sai khác bất đồng, đây gọi là “khéo tu tâm Bi”. Trên đây đã nói tóm lược trường hợp khéo tu tâm Bi.
HỎI: Quả báo chúng sinh trong năm đường, thọ những khổ vui khác nhau. Như chúng sinh trong Tam đồ phần nhiều thọ quả báo khổ, chúng sinh cõi người thọ cả khổ và vui, cõi trời phần nhiều hưởng quả báo khoái lạc, vì sao khi hành tâm Từ thì thấy chúng sinh đều hưởng vui sướng, mà khi tu tâm Bi lại thấy chúng sinh đều thọ khổ? Chẳng phải là đảo ngược sao?
ĐÁP: Không phải vậy, vì đây là phương pháp tu hành để giải thoát. Khi hành giả tu tâm Từ vô lượng, trước tiên cần phải phát thệ nguyện: Nguyện cho chúng sinh thọ hưởng tất cả khoái lạc. Quán tưởng cảnh vui sướng của chúng sinh mà nhiếp tâm nhập định, liền thấy chúng sinh đều hưởng cảnh vui sướng.
Ví như dùng một đốm lửa nhỏ, lấy cỏ khô mịn, phân bò, để mồi lửa, khi lửa cháy mạnh, mới có thể đốt đống củi ướt. Tâm đại Từ mới bắt đầu phát sinh cũng như khi lửa mới cháy, chỉ có thể quán tưởng người thân hưởng vui sướng, khi tâm Từ mở rộng đến người không thân và kẻ oán thù bình đẳng, thì đều thấy họ thọ hưởng vui sướng mà không có các cảnh khổ.
Lại nữa, tất cả chúng sinh luân chuyển trong năm đường, khổ vui chẳng cố định, chỉ vui tạm thời mà về sau chịu nhiều đau khổ, nay tuy chịu khổ mà sau này sẽ được an lạc, hiện tại tuy không được như vậy, nhưng nhất định có sự việc này. Cho nên hành giả cần dụng tâm để được giải thoát, quán tưởng tất cả chúng sinh thọ hưởng an lạc, mà chẳng rơi vào điên đảo vậy. Trường hợp tu tâm Bi, Hỷ, Xả cũng như thế.
III- TU CHỨNG TÂM HỶ
Có hai phần:
1. Phương pháp tu tập
Như Phật dạy: “Nếu có Tỳ-kheo dùng tâm Hỷ tương ưng, vô sân, vô hận, vô não, vô oán, quảng đại vô lượng, khéo tu tâm Hỷ tương ưng”.
Sau khi hành giả nhập định tâm Bi rồi, nội tâm thương xót tất cả chúng sinh ngày đêm bị khổ não bức bách, ta phải làm sao để cứu vớt họ thoát khỏi cảnh khổ được hưởng vui sướng, từ cảnh vui sướng mà sinh hoan hỷ? Lúc này hành giả quán chiếu sâu xa những chúng sinh tuy thọ khổ não, nhưng nỗi khổ này là hư giả, chẳng thật, trước kia vốn không mà nay lại có, nên có thể dễ dàng trừ diệt. Vì sao? Ví như người bệnh, nếu gặp thầy thuốc giỏi, cho thuốc thì bệnh sẽ lành, lại còn cung cấp áo quần, ăn uống nên người bệnh vô cùng vui sướng.
Hoặc ví như người bị lửa thiêu đốt rất đau khổ, nếu được tưới nước mát thì cảm giác nóng liền tiêu mất, nên tâm họ rất vui mừng. Hoặc như người nghèo khốn, do nghèo khổ mà sinh tâm tham lam, tạo bao ác nghiệp, nếu cung cấp cho họ vàng ngọc châu báu, khuyên họ tu bố thí, làm lành, không những người này hiện tại hết nghèo khổ mà thân tâm rất sung sướng, đời sau mãi mãi được thọ hưởng an lạc, giàu sang.
Như người thế gian ngu si mê lầm, bị phiền não ràng buộc, phải chịu bao đau khổ, sau khi nghe diệu pháp vô lậu thanh tịnh, y theo tu hành thì các bệnh phiền não tiêu trừ, chứng được thiền định trí tuệ và Niết-bàn an lạc.
Do những nhân duyên như thế, nên các thọ khổ vốn không có tự tính cố định, có thể dễ dàng trừ diệt, khiến tâm được hoan hỷ an lạc.
Hành giả quán chiếu như thế rồi, liền phát lời thệ nguyện rằng: “Nguyện cho tất cả chúng sinh không còn đau khổ nữa, khi ta trụ trong thiền định, thấy được chúng sinh đều an vui, sung sướng”. Hành giả nguyện xong liền nhập thiền định, dùng tâm thanh tịnh, quán tưởng đến người thân yêu thoát khỏi cảnh đau khổ, thọ hưởng niềm vui sướng, nhất tâm quán tưởng khiến cảnh giới được rõ ràng. Khi thấy cảnh người thân thọ hưởng vui sướng rồi, thì nội tâm rất vui vẻ.
Kế tiếp lại quán tưởng đến những người thân, kẻ oán, cho đến tất cả chúng sinh khắp mười phương và chúng sinh trong năm đường khổ cũng đều thọ hưởng cảnh vui sướng, vì thế mà tâm hành giả hoan hỷ vô lượng. Đây là tóm lược phương pháp tu tâm Hỷ.
2. Tướng thiền định của tâm Hỷ khai phát
Sau khi hành giả tu quán như thế rồi, do sức trí tuệ, phước đức, thiện căn thanh tịnh, tam-muội khai phát, nên trong lúc thiền định, tự nhiên thấy cảnh người thân thoát được cảnh khổ, đang thọ hưởng vui sướng, tướng hoan hỷ hiện rõ ràng. Trong tam-muội tâm vui vẻ không thể tả được, thậm chí quán tất cả chúng sinh khắp mười phương và trong năm đường, họ cũng thọ hưởng vui vẻ như thế.
Hành giả ở trong tam-muội, thấy cảnh chúng sinh vui vẻ nhưng nội tâm không hề động chuyển, thiền định càng thêm thâm sâu, đây gọi là “tâm Hỷ tương ưng”.
Trường hợp “Vô sân, vô hận, vô não, vô oán, quảng đại vô lượng” cũng như phần giải thích tâm Từ ở trước.
HỎI: Tâm Từ có thể cho chúng sinh được vui sướng, tâm Hỷ có thể khiến chúng sinh được hoan hỷ, vậy vui sướng và hoan hỷ có gì khác nhau?
ĐÁP: Trong Ma Ha Diễn có ghi: “Thân vui sướng gọi là Lạc, tâm vui vẻ gọi là Hỷ, năm thức tương ưng gọi là Lạc, ý thức tương ưng gọi là Hỷ”. Nếu đối với năm trần, tâm khởi niệm vui sướng gọi là Lạc, trong pháp trần nội tâm phát sinh vui vẻ gọi là Hỷ. Trong Định dục giới, năm thức được tương ưng gọi là Lạc, trong Sơ thiền cả ba thức (nhãn, nhĩ, thân) tương ưng gọi là Lạc, tất cả khoái lạc trong Tam thiền gọi là Lạc. Ý thức tương ưng với Sơ thiền và Định dục giới gọi là Lạc, tất cả cảnh giới khoái lạc trong Nhị thiền gọi là Hỷ. Vui mừng thô gọi là Lạc, vui mừmg vi tế gọi là Hỷ. Trong nhân gọi là Lạc, khi thành quả gọi là Hỷ. Khi mới bắt đầu được vui sướng gọi là Lạc, tướng vui mừng từ nội tâm hoan hỷ hiện bày ra ngoài, vui vẻ nhảy nhót gọi là Hỷ. Lạc căn tương ưng gọi là Lạc, hỷ căn tương ưng gọi là Hỷ. Cho nên giữa Hỷ và Lạc có những sự tướng khác nhau như thế.
HỎI: Như vậy, tại sao tâm Từ và Hỷ, sắp xếp không theo thứ tự?
ĐÁP: Khi thực hành tâm Từ, do thương nhớ chúng sinh như con ruột, trong tâm ước nguyện cho chúng sinh được vui sướng. Sau khi xuất định, lại thấy chúng sinh vẫn đang còn thọ cảnh khổ, trong thâm tâm hành giả vì thương xót muốn cứu vớt họ, để họ được vui sướng. Cho nên đầu tiên là ban cho chúng sinh được sung sướng, sau đó mới ban cho hoan hỷ. Vì tâm Bi sinh khởi kế sau tâm Từ nên không thể sắp xếp kế Từ là Hỷ vậy.
Ví như người mẹ tuy luôn luôn nhớ nghĩ đến con, muốn con mình được hạnh phúc vẫn chưa gọi là hoan hỷ. Về sau thấy con mình nhiễm bệnh, lòng mẹ sầu khổ, khi bệnh của con đã lành, nên mẹ vui vẻ giao gia nghiệp cho con, cho nên kế tâm Bi mới nói tâm Hỷ vậy.
HỎI: Vì sao trong thiền định giải thích về Hỷ Lạc, Hỷ thuộc tâm thô. Trong Vô lượng tâm lại giải thích Hỷ là thuộc về tâm vi tế?
ĐÁP: Thiền lấy định làm chủ, nên tâm an lạc, điềm tĩnh, cùng trợ giúp tướng định là thù thắng. Tu pháp Vô lượng tâm thì tâm quán tưởng chúng sinh làm chủ, do duyên nơi chúng sinh lấy tâm hoan hỷ là thù thắng nên vi tế.
Lại nữa, khi thiền định mới phát, sức định còn cạn, nên chỉ dùng pháp an lạc để quán tưởng chúng sinh. Vì cớ sao? Vì nếu lấy tướng hoan hỷ quán tưởng chúng sinh thì tâm bị tán loạn khó nhiếp phục. Sau khi chánh định được thâm sâu, tuy hoan hỷ nhưng tâm vẫn không bị tán loạn nên nói là vi tế.
IV- TU CHỨNG TÂM XẢ
Có hai phần:
1. Phương pháp tu tập
2. Tướng thiền định của tâm Xả khai phát
1. Phương pháp tu tập
Phật dạy: “Như Tỳ-kheo dùng tâm Xả tương ưng, vô sân, vô hận, vô oán, vô não, quảng đại, vô lượng, khéo tu tâm Xả tương ưng”.
Khi hành giả xuất thiền định của tâm Hỷ, khởi niệm rằng: “Nếu ta tu tâm Từ là ban cho chúng sinh khoái lạc, tu tâm Bi là muốn cứu khổ cho chúng sinh, tu tâm Hỷ là khiến chúng sinh hoan hỷ, mà nội tâm ta lại chấp mình làm lợi ích cho chúng sinh, cứ nhớ nghĩ hai việc này, đây chẳng phải tu hạnh thù thắng. Ví như người cha làm lợi ích cho con của mình mà không mong muốn con báo đền công đức, mới là người cha chân chính.
Lại nữa, nguyên nhân làm cho chúng sinh được vui sướng có rất nhiều, chẳng phải riêng ta, nếu nói do ta ban cho chúng sinh được vui sướng thì thật quá đáng. Tâm Từ ban cho chúng sinh được vui sướng chỉ là sở đắc và giải ngộ của cá nhân hành giả trong lúc tu thiền định, nhưng trên thực tế thì chúng sinh không được vui sướng, nếu chấp cho là thật tức là sai lầm vậy.
Lại nữa, khi quán tưởng chúng sinh thọ khổ và thọ khoái lạc, khiến tâm phát sinh vui buồn. Khi tâm sinh vui, buồn thì có phiền não ràng buộc, như vậy rất khó giải thoát. Hiện nay ta muốn cho chúng sinh có được pháp lành thanh tịnh, thì không nên bám trụ trong ba tâm này. Dù ta thương nhớ chúng sinh kia cũng không có ích lợi gì, nay phải xả bỏ ba tâm này, tu những pháp thiện thực tế để lợi ích chúng sinh. Sau khi hành giả tư duy như thế, liền xả bỏ cả ba tâm, nhất tâm phát nguyện: “Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được tâm Xả trang nghiêm kỳ diệu, khiến ta đều thấy được”. Nghĩ như thế rồi, liền nhập định. Dùng tâm niệm thanh tịnh, quán tưởng đến một người thân, đang thọ cảnh không vui không khổ, chuyên tâm duyên nơi cảnh quán. Nếu có tạp niệm dấy khởi, liền nhiếp niệm xoay trở lại, để tâm quán tưởng được rõ ràng.
Sau khi nhìn thấy cảnh người thân thọ cảnh không khổ không vui, kế tiếp là quán tưởng đến người không thân và kẻ oán thù, cho đến chúng sinh trong mười phương và năm đường, cũng thọ cảnh không vui không khổ, mà tâm Xả đều bình đẳng. Đây là phương pháp tu tâm Xả.
2. Tướng thiền định của tâm Xả khai phát Hành giả tu như thế rồi, do sức thiện căn phước đức chánh niệm, nên khi quán tưởng, tam-muội liền khai phát, ở trong thiền định không cần nỗ lực dụng công, mà tự nhiên thấy người thân, đang thọ cảnh không vui, không khổ, rất rõ ràng. Tuy trong thiền định thấy rõ chúng sinh, nhưng tâm không khởi yêu ghét, cho đến chúng sinh khắp mười phương và trong năm đường cũng như thế. Lúc đó hành giả ở trong định này, thấy các chúng sinh đều là tướng Xả, tam-muội được khai phát, không còn động chuyển, bền vững thâm sâu vi diệu, nội tâm an ổn, bình đẳng không hai, đây gọi là tâm Xả tương ưng.
Ý nghĩa “Vô sân, vô hận, vô não, vô oán, quảng đại, vô lượng, khéo tu” cũng như đã nói ở trên.
HỎI: Tu trong ba thứ tâm ở trước thì phải có phước đức, còn tu tâm Xả đối với chúng sinh, đã là không khổ không vui thì có lợi ích gì?
ĐÁP: Hành giả nghĩ rằng tất cả chúng sinh tạm thời lìa khổ được an vui, nhưng khi hết vui thì lại khổ, đều là phiền não trói buộc, hành giả vì mong muốn chúng sinh được không khổ không vui, thì nội tâm an ổn, trước sau không có tai họa, lấy tâm xả làm lợi ích cho chúng sinh nên được lợi ích cũng rất lớn.
Lại nữa, khi hành giả tu tâm Từ và tâm Hỷ, có lúc khởi tâm yêu thương say đắm, tu tâm Bi có khi sinh tâm buồn thương, nếu tâm tham ái thì công đức ít mà cạn, khi nhập vào tâm Xả có thể trừ lỗi tham ái này, do không có các phiền não, cho nên phước đức tu tâm Xả rất lớn.
Lại nữa, hành giả khi tu tâm Xả có thể làm những việc lợi ích cho chúng sinh, vì thế phước đức tăng lên rất nhiều. Trên đây đã nói tóm lược pháp tu tâm Xả vô lượng.
HỎI: Trong Bi, Hỷ, Xả vì sao không nói Pháp duyên, Vô duyên?
ĐÁP: Vì ý nghĩa cũng như pháp tu tâm Từ, nên không cần nói lại.
HỎI: Trong Tứ vô lượng tâm, pháp Lạc chia làm hai phần, còn Bi, Hỷ, Xả vì sao không chia làm hai phần?
ĐÁP: Pháp Lạc là cảnh chúng sinh ưa thích, nên chia làm hai phần, còn Khổ thì chúng sinh không muốn nên không chia làm hai phần.
HỎI: Tu Tứ vô lượng tâm, khi nhập định phát nguyện thấy chúng sinh, là thấy thật hay do tâm tưởng tượng thấy?
ĐÁP: Nhìn thấy có hai trường hợp:
- Hành giả nếu chứng được Thiên nhãn vô lượng tâm, đây là nhìn thấy thật.
- Hành giả chỉ dùng phương pháp quán tưởng được giải ngộ, quán tưởng chúng sinh mà nhập tam-muội. Khi đã chứng tam-muội, do sức tam- muội nên khi nhập định liền thấy, khi xuất định thì không thấy. Đây là sức tam-muội được giải ngộ, chẳng phải nhìn thấy thật.
HỎI: Chứng Tứ vô lượng tâm vì sao không phân tích những tướng công đức chi lâm, thể dụng, sâu cạn, tiến thoái v.v… ?
ĐÁP: Khi chứng Tứ Vô lượng tâm, cũng không phải hoàn toàn chẳng có nghĩa này, chỉ vì văn tự không ghi chép, nên không cần phân tích.
E. GIẢI THÍCH CÔNG ĐỨC TỨ VÔ LƯỢNG TÂM
Chia làm hai phần:
1. Công đức đời này
Trong Kinh A Hàm, Phật dạy: “Nếu nhập tâm Từ tam-muội, hiện đời có được năm thứ công đức:
Vào lửa không bị cháy. Trúng độc không chết. Đao binh không thương tổn. Không chết bất ngờ. Có thiện thần bảo hộ”.
Đây là do làm lợi ích cho vô lượng chúng sinh, nên được vô lượng phước đức.
2. Công đức đời sau
Nếu khéo tu Tứ vô lượng tâm, sẽ được sinh vào cõi Sắc làm Phạm Thiên vương. Dùng tâm rộng lớn vô lượng thâu nhiếp chúng sinh. Nếu ở Sơ thiền tu Tứ vô lượng tâm thì làm vua cõi Sơ thiền, cho đến Tứ thiền tu Vô lượng tâm, cũng được làm vua như thế.
HỎI: Trong Tam tạng kinh, chỉ nói Sơ thiền hiệu là Phạm Thiên vương làm vua thế giới Ta-bà, vì sao ở đây lại nói Tứ thiền đều có Phạm vương?
ĐÁP: Kinh Anh Lạc có nói về Tứ thiền, mỗi tầng thiền đều có Phạm vương.
HỎI: Như thế tại sao Phật nói chứng định tâm Từ được quả báo sinh lên trời Phạm thiên?
ĐÁP: Vì chúng sinh phần nhiều là nghe biết và tôn kính Phạm thiên. Phật ở nước Thiên Trúc (Ấn Độ), thời ấy có nhiều Bà-la-môn ngoại đạo, thuyết của Bà-la-môn là đem phước đức đã tạo hồi hướng nguyện sinh về trời Phạm thiên, nếu họ nghe nói tu tâm Từ được sinh về trời Phạm thiên, liền tin lời dạy, tu hạnh tâm Từ. Vì thế mà nói tu tâm Từ được sinh lên trời Phạm thiên.
Lại nữa, các cõi trời đã đoạn dứt dâm dục đều gọi là Phạm, chỉ nói danh từ Phạm thì bao hàm cả Tứ thiền, Tứ vô sắc định. Như trong luật nói về ngũ giới, chỉ cần nói một giới không vọng ngữ thì đã bao hàm cả ba việc: ác khẩu, luỡng thiệt, ỷ ngữ.
Nếu trong Tứ thiền, tu Tứ vô lượng tâm, tùy theo tu chứng một thiền nào, thì được sinh vào cõi thiền đó. Đã tùy theo chỗ thiền định mà sinh, thì tu Tứ vô lượng tâm có phước đức to lớn nên quả báo cũng chẳng đồng, cho nên khi sinh vào cõi trời kia mà không thể phân biệt giữa vua và dân hay sao?
Như trong Kinh Nhân Vương, Phật nói: “Mười tám cõi trời Phạm thiên cũng có phân biệt vua và dân khác nhau”.
Lại nói trong cõi trời Tứ thiền có Đại Tịnh vương, mà trong tam tạng, Phật chỉ nói trong Sơ thiền có Đại Phạm Thiên vương(2), vì Sơ thiền có tâm giác và quán, tức là có ngôn ngữ để chủ thống lãnh chúng sinh ở cõi dưới, nếu dùng phương tiện để so sánh thì Nhị thiền trở lên không có ngôn ngữ giác quán, nên không trích dẫn phân biệt.
HỎI: Như thế vì sao Phật nói công đức của Tứ vô lượng tâm: “Tâm Từ khéo tu thiện, tu phước đức tột cùng, sinh lên cõi trời Biến Tịnh thiên; Tu tâm Bi khéo tu thiện, tu phước đức được sinh vào Hư không xứ; Tu tâm Hỷ khéo tu thiện, tu phước đức được sinh vào Thức xứ; Tu tâm Xả khéo tu thiện tu phước đức được sinh vào Vô sở hữu xứ”. Vì sao ở đây nói quả báo tu tâm Từ phải sinh vào cõi trời Phạm thiên?
ĐÁP: Phật pháp sâu mầu không thể nghĩ bàn, Phật tùy theo căn cơ chúng sinh để hóa độ mà nói như thế.
Lại nữa, nếu từ thiền định của tâm Từ khởi, thì dễ tiến nhập Tam thiền.
Từ nơi định tâm Bi khởi, thì dễ tiến nhập Hư không xứ định.
Từ định tâm Hỷ khởi thì dễ nhập Định thức xứ.
Từ nơi định tâm Xả khởi, thì dễ tiến nhập Định vô sở hữu xứ.
Nguyện của tâm Từ là muốn chúng sinh được khoái lạc, nhưng quả báo này lại tự mình hưởng lạc, mà trong tam giới cõi trời Biến tịnh thiên(3) là vui sướng nhất, cho nên nói phước đức tột cùng của tâm Từ là sinh về cõi trời Biến tịnh thiên.
Tâm Bi quán tưởng chúng sinh chịu cảnh khổ sinh, lão, bệnh, tử, nên hành giả sinh tâm thương xót nghĩ rằng “Làm thế nào để chúng sinh lìa khổ, nếu trừ khổ trong thì khổ ngoài lại đến, nếu trừ khổ ngoài thì khổ nội tâm lại đến”. Hành giả tư duy: “Có thân thì có khổ, chỉ không có thân mới không còn đau khổ, mà hư không có thể phá sắc tướng”, cho nên nói phước đức tột cùng của tâm Bi là sinh về cõi trời Hư không xứ.
Tu tâm Hỷ là muốn chúng sinh được vui sướng, tâm thức vui sướng thì tâm được lìa thân, như chim sổ lồng, định Hư không xứ tuy tâm được lìa khỏi thân, nhưng tâm chấp hư không vẫn còn chướng ngại, đối trong tất cả các pháp đều có tâm thức, thức được tự tại vô biên, nên phước đức cùng tột của tâm Hỷ là sinh về cõi trời Thức xứ.
Tu tâm Xả là muốn chúng sinh xả bỏ những khổ vui, đây là pháp chân chánh, nghĩa là Vô sở hữu xứ, vì thế phước đức cùng tột của tâm Xả là sinh vào cõi trời Vô sở hữu xứ.
Công đức Tứ vô lượng tâm, chỉ có Thánh nhân mới được trí tuệ tự tại như thế, chẳng phải hàng phàm phu. Vì sao? Vì phàm phu trụ Sơ thiền đến Tứ thiền, tu Tứ vô lượng tâm, tùy theo quả báo của các thiền định, mà không có phương tiện khéo léo nhập vào cõi Vô sắc để tu Tứ vô lượng tâm.
Lại nữa, Phật biết đời sau căn tính của đệ tử rất chậm lụt, phân biệt bám chấp các pháp, nhầm lẫn tướng Vô lượng tâm, cho là Tứ vô lượng tâm, chỉ Thánh nhân mới biết rõ, còn “Chúng sinh duyên vô lượng tâm”, chỉ là pháp hữu lậu, do duyên nơi Dục giới nên không có Vô sắc giới. Vì sao? Vì Vô sắc giới không liên quan với Dục giới. Cho nên Phật vì đoạn trừ sự thấy biết sai lầm như thế mà nói Tứ vô lượng tâm. Trong Vô sắc giới cũng lấy Tứ vô lượng tâm duyên khắp tất cả chúng sinh khắp mười phương, nên chẳng giải thích lại trường hợp không duyên Vô sắc giới. Nói như thế là vì vẫn còn “Pháp duyên” và “Vô duyên”.
Nếu hành giả ở trong “Chúng sinh duyên” tu Tứ vô lượng tâm là đầy đủ “Pháp duyên” và “Vô duyên”. Khi tu “Chúng sinh duyên” của Tứ vô lượng tâm chính là pháp tu của Đại thừa.
Lại nữa, Bồ-tát phát tâm Bồ-đề hành Bồ-tát đạo, đây là Chúng sinh duyên vô lượng tâm. Tuy là chỗ tu của phàm phu, nhưng phải có chứng biết. Sau khi chứng rồi cũng không thể được, nên không bám chấp, dùng phương tiện khéo léo, có thể trong định này có đầy đủ tất cả thiện pháp để hóa độ chúng sinh, tức là hành Bồ-tát đạo.
Lại nữa, các công đức quán hạnh trong vô lượng tâm rất nhiều, hiện tại cần luận về việc khác, cho nên không giải thích hết được.
Kế sau phần Tứ vô lượng tâm, cần phải giải thích Vô tưởng định. Vì sao? Vì có các ngoại đạo, do nhàm chán sự sinh diệt của tâm thức hữu vi, muốn cầu được cảnh giới thường, lạc, tịch tịnh của Niết- bàn, nhưng họ không có trí tuệ, không biết pháp chân thật, khi chứng được Tứ thiền, không thấy tai họa của sắc pháp vi tế(4) mà chỉ biết tâm thức hư dối sinh diệt, nhân đó sinh chán ghét tâm thức ấy.
Họ đã không biết phương pháp phá sự ràng buộc của sắc pháp và đoạn sắc chất, lại dùng tà trí để diệt trừ tâm thức ấy. Do tà pháp tương ưng, nội tâm không còn niệm tưởng phân biệt, khi đó họ cho là đã chứng được Niết-bàn chân thật. Do họ chưa đoạn trừ được sự ràng buộc của sắc pháp, nên sau khi chết được sinh lên cõi trời Vô tưởng, cõi trời này vẫn còn ở trong Sắc giới, chưa được giải thoát sinh tử, cũng gọi là Khách thiên. Giống như bậc Thánh A-na-hàm, tu Ngũ phẩm Huân thiền, vì chưa đoạn tận tư hoặc của Sắc giới, nên phải nương gá thác sinh vào Sắc giới, cũng gọi là Khách thiên.
Định Vô tưởng đã là tà pháp, chẳng phải là pháp tu của đệ tử Phật, nay vì muốn giải thích đầy đủ các thiền định trong Tam giới, cho nên chỉ nói sơ qua để hành giả biết tướng tà định và chánh định.
Chú thích Quyển 6A:
(1) Đề-hồ: chất dinh dưỡng đặc chế từ sữa bò có mùi vị thơm ngon tuyệt hảo, là 1 trong 5 vị bổ dưỡng: (sữa, lạc, sinh tô, thục tô, đề-hồ).
(2) Đại Phạm Thiên vương: vị trời ở tầng thứ 3 thuộc
Sơ thiền cõi Sắc.
(3) Biến tịnh thiên: cõi trời cao nhất trong Đệ tam thiền, là 1 trong 18 tầng trời của cõi Sắc. Người được sanh lên tầng trời này thụ hưởng khoái lạc đầy đủ nên gọi là Biến tịnh.
(4) Sắc pháp vi tế: là loại vi trần rất nhỏ nhiệm (cực vi), chỉ có Thiên nhãn mới thấy được.
*3. TỨ VÔ SẮC ĐỊNH
Giải thích Tứ vô sắc định (Tứ vô sắc định: bốn cảnh giới vượt ngoài sự ràng buộc của Sắc pháp, là thứ định có được do tư duy Tứ vô sắc)
I- Định Hư không (Không vô biên xứ) II- Định Thức xứ (Thức vô biên xứ)
III- Định Vô sở hữu xứ
IV- Định Phi tưởng phi phi tưởng xứ
Nay giải thích bốn thứ định này chia làm hai phần:
A. Giải thích tổng thể
B. Giải thích riêng
A. GIẢI THÍCH TỔNG THỂ
Tứ thiền và Tứ vô lượng tâm nói ở phần trước, đều do nương nơi sắc pháp mà có, nay bốn thứ định này đều nương nơi Vô sắc pháp, đây là tùy theo cảnh mà đặt tên, cho nên gọi là Vô sắc định.
Trong kinh có ghi: “Tứ Không diệt sắc chất, tâm tâm hỗ tương qua lại nương tựa lẫn nhau”. Cũng tên là Tứ Không định, vì không hình, không sắc chất, nghĩa là giống như hư không, nên gọi là Tứ Không định, cũng còn gọi là Tứ Không định xứ.
Bốn cảnh giới thiền định này, cũng gọi là Định xứ, vì bốn thứ thiền định này dùng cảnh “sở quán” làm xứ sở, như Tứ niệm xứ, Bát thắng xứ, Thập nhất thiết xứ v.v.. đều từ nơi cảnh “sở quán” mà đặt tên, tướng thứ lớp của Tứ không định, phần sau sẽ giải thích. Bốn thứ thiền định này không gọi là Thiền, vì phần trước đã có danh từ Tứ thiền, nên ở đây không lập lại, mà phải dùng danh từ khác là Tứ Không định.
Lại nữa, tự thể của Tứ Không định này còn thiếu các Công đức chi lâm, nên không thể gọi là Thiền.
HỎI: Kinh Anh Lạc nói: “Tứ Không định lấy năm Chi làm nhân, tâm lặng lẽ làm bản thể của định”, ở đây giải thích thế nào?
ĐÁP: Ở đây chỉ lấy ý nghĩa phương tiện mà lập công đức Chi lâm, chẳng phải như Tứ thiền đã thành tựu đầy đủ các công đức chi lâm, nên trong các kinh luận đều không nói các định này có công đức chi lâm vậy.
B. GIẢI THÍCH RIÊNG
I- ĐỊNH HƯ KHÔNG

Chia làm ba phần:
1. Giải thích danh từ
2. Phương pháp tu định Hư không
3. Giải thích tướng chứng đắc
1. Giải thích danh từ
Sở dĩ gọi định Hư không là do định này ban đầu lìa ba thứ sắc pháp, tâm duyên nơi hư không, cùng với Vô sắc tương ưng, nên còn gọi là Không xứ. Nay định này và ba thứ định Vô sắc ở trên, đều không có giác và quán, thuộc về Thánh mặc nhiên và xả. Như trong Ma Ha Diễn có nói: “Khi chứng đắc định Hư không, nội tâm không còn khổ, vui”.
HỎI: Nếu nói hư không là không có sắc tướng nên gọi là định Hư không, nhưng các loại thiền định trước (Dục giới, Vị đáo địa và bốn tầng thiền) cũng không có niệm tưởng, vì sao không gọi là định Hư không?
ĐÁP: Không phải vậy. Sáu tầng thiền định đã giải thích phần trước, không thể gọi là định Hư không, vì sao? Vì sau khi hành giả nhập định, nội tâm chuyển sang vi tế, do không thấy các sắc tướng thô, nên gọi là Không, mà trên thực tế thì chưa có khả năng quán sắc tướng, để phá tan sắc pháp và đoạn trừ sự ràng buộc của sắc chất. Cho nên trong khi thiền định có khi hành giả thấy sắc hoặc không thấy sắc, chẳng giống như định Hư không đã tuyệt đối dứt hẳn sắc tướng. Nên trong sáu tầng thiền định ở trước tuy không có hình tướng mà không thể gọi là định Hư không.
2. Phương pháp tu định Hư không
Chia làm hai phần:
a) Cảnh sở tu
b) Tâm năng tu
a) Cảnh sở tu
Có hai thứ:
a.1. Cảnh giới chướng ngại a.2. Cảnh giới tu thành
a.1. Cảnh giới chướng ngại:
Hành giả muốn nhập định Hư không, cần phải diệt ba thứ sắc pháp:
1/ Sắc có thể thấy (Sắc trần: xanh, vàng, đỏ, trắng v.v…).
2/ Có sắc nhưng không thể thấy (bốn trần: thanh, hương, vị, xúc).
3/ Không hình sắc cũng không thể thấy (tức là Vô biểu sắc).
Nên trong kinh có ghi: “Vượt qua các sắc tướng, tức là diệt (sắc có thể thấy), không nhớ nghĩ các tướng nhập định Vô biên hư không xứ”.
Ma Ha Diễn có ghi: “Vượt qua tất cả sắc tướng liền phá trừ “Sắc có thể thấy” (sắc trần). Diệt sắc tướng tức là phá “Có sắc không thể thấy” (thanh, hương, vị, xúc). Không nhớ nghĩ các tướng tức là diệt “không sắc cũng không thể thấy”(vô biểu sắc)”.
Tất cả sắc pháp chẳng ngoài mười một thứ. Đó là: năm căn, năm trần và vô biểu sắc, tức là sắc, pháp, trần.
Như trong Luận A Tỳ Đàm ghi: “Mười loại sắc có thể thấy là năm căn, năm trần, nhất thiểu phần (Vô biểu sắc) là không sắc tướng, không thể thấy”. Hành giả muốn nhập định Hư không cần phải phá trừ ba thứ sắc pháp này, vì ba thứ sắc pháp này, chính là cảnh giới chướng ngại.
a.2. Cảnh giới tu thành
Hành giả dùng tâm trí duyên nơi Hư không, nhân đây nhập định, liền thành tựu cảnh giới của định Hư không.
b) Tâm năng tu
Chia làm hai phần:
b.1. Quở trách và tán thán b.2. Quán chiếu và phân tích
b.1. Quở trách và tán thán
- Quở trách: Khi hành giả tu tập định Hư không, suy xét tai họa của sắc pháp, nghĩa là nếu có sắc thân thì có các thứ khổ: bệnh tật, đói khát, đại tiện, tiểu tiện, ô uế, thô nặng xấu xí, hư giả v.v... ngoài thân thì có các thứ khổ như: nóng lạnh, đao gậy, cùm khóa v.v… Do từ quả báo của nhân duyên đời trước hòa hợp mà có được thân này, nó chính là nguồn gốc những thứ bệnh khổ, ta không nên bám chấp gìn giữ.
Lại nữa, tất cả sắc pháp ràng buộc tâm, không được tự tại, tức là tâm bị giam giữ khiến phải chịu đựng phiền não, chẳng được an lạc nên không thể tham chấp. Đây là phương pháp quở trách tai họa và tội lỗi của sắc pháp.
- Tán thán: khen ngợi định Hư không, không có sắc pháp thì không có các tai họa như trên, nên được rỗng rang an lạc, định này vắng lặng, không có những tai họa phiền não.
Nay đã giải thích tóm lược phần tán thán và quở trách, tức là pháp tu tập của Lục hành như đã nói ở chương trước.
b.2. Quán chiếu và phân tích
Trong lúc hành giả trụ trong định Tứ thiền, khởi niệm rằng: “Nay ta ở trong định này, thân nương nơi Dục giới, đầy đủ sắc pháp, vì sao ta không thấy?”. Nghĩ như thế rồi nhất tâm quán chiếu thân thể của chính mình, thấy các lỗ chân lông và cửu khiếu, các thứ trong nội tạng đều là rỗng không, thưa thớt như tấm lụa thưa, trong ngoài thông nhau, hoặc như những bẹ cây chuối, từng lớp từng lớp không thật.
Khi quán như thế, hành giả liền thấy được cảnh ấy, sau khi thấy rồi, lại dùng tâm quán sát, thấy thân thể như cái nồi đất, như màng nhện, từ từ vi tế, cả toàn thân đều biến mất dần, không còn thấy thân và năm căn v.v... nội thân đã biến mất sạch thì sắc ngoài cũng như thế. Vì sao? Vì tất cả sắc pháp Tứ đại và Tứ vi trong nội thân, chẳng khác những sắc pháp Tứ đại và Tứ vi ở ngoài thân.
Khi hành giả quán chiếu như thế, mắt có thể nhìn thấy sắc chất tan hoại, nên gọi là “quá sắc”. Các căn trần như: thanh, hương, vị, xúc hoại diệt gọi là “Diệt có sắc không thể thấy” cho nên đối với hai thứ: Sắc và Vô biểu sắc đều không phân biệt, gọi là “Không nghĩ nhớ các tướng biệt và dị”.
Khi sắc pháp đã diệt, hành giả chỉ chuyên tâm quán tưởng hư không thật lâu, không buông xả, thì định Sắc giới đều biến mất, mà trước lúc chưa phát định Hư không, cũng có Trung gian thiền. Lúc này hành giả phải cẩn thận chớ lo buồn, hối hận mà phải tiếp tục tinh tấn nhất tâm nhớ hư không thì sẽ vượt qua cửa nạn của định Sắc giới “sáu tầng định ở trước”. Trên đây đã giới thiệu sơ lược về phương pháp tu tập định Hư không.
3. Giải thích tướng chứng
Chia làm sáu phần:
a) Chứng đắc
b) Có chi lâm hay không có chi lâm
c) Thể dụng
d) Sâu cạn
e) Tiến thoái
f) Công đức
a) Chứng đắc
Hành giả đã nhất tâm nhớ tưởng hư không miên mật không buông xả, thì tâm ấy từ từ tiêu mất, mặc tình tự an trụ trong hư không, cảnh giới này cũng tương tự như tướng trạng của định Vị đáo địa đã nói chương trước. Sau khi được rỗng rang cùng hư không tương ưng, nội tâm sáng suốt vắng lặng, cảm thọ không khổ không vui lại tăng trưởng. Trong thiền định thâm sâu chỉ còn thấy hư không, không có các sắc tướng. Tuy tâm duyên nơi hư không vô biên mà tâm chẳng phân tán. Khi không còn bị sắc ràng buộc, tâm thức được đứng lặng, tự tại vô ngại. Như chim bị nhốt trong lồng, khi được xổ lồng tung bay tự tại. Cảm giác chứng định Hư không cũng như thế.
Khi chứng được định Hư không, tức là đã vượt thoát ra ngoài Sắc giới, nên gọi là “Vượt qua tất cả sắc tướng”, vì dùng pháp Không để trì giữ tâm nên các thứ sắc tướng không thể sinh khởi. Cho nên gọi là “Diệt sắc có thể thấy”.
Nội tâm hành giả đã được rỗng không, thù thắng vi diệu, nên quyết định xả bỏ sắc pháp, thâm tâm không lưu luyến nhớ nghĩ, gọi là “không nhớ nghĩ các tướng”. Vì vậy trong các kinh điển phần nhiều dùng nghĩa này để giải thích trường hợp chứng định Hư không.
b) Có chi lâm hay không có chi lâm
Trong các kinh luận khác đều nói Tứ vô sắc định không có Công đức chi lâm, chỉ trong Kinh Anh Lạc ghi: “Định Tứ không có công đức năm chi làm Nhân, tâm vắng lặng thứ sáu làm bản thể của Định. Thể dụng tương tợ với phương tiện đạo”. Nếu theo Kinh Anh Lạc, thì định Hư không có năm chi công đức. Năm chi đó là Tưởng, Hộ, Chánh, Quán, Nhất Tâm”. Tứ thiền đã nói phần trước đều có tướng trạng của chi lâm, còn định Hư không này thì không có phương pháp chứng được chi lâm nào khác. Cho nên sợ căn cứ vào ý nghĩa phương tiện để tu định Hư không mà thiết lập Chi lâm, do đó kinh mới nói: “Thể dụng tương tợ với Phương tiện đạo”.
Các kinh luận khác đều không có lập Chi lâm của định Tứ không, vì tự thể của định Hư không vốn không có phương pháp chứng được Chi lâm nào khác, trong Kinh Anh Lạc nói có chi lâm, phần nhiều là căn cứ nơi phương tiện để thiết lập.
Ý nghĩa căn cứ nơi phương tiện để thiết lập năm chi công đức như thế nào?
Tưởng: tức là khi tu định Hư không, hành giả tưởng tượng thân thể như tấm lụa mỏng thưa thớt như cái nồi đất.
Hộ: còn gọi là Xả chi, tức là hành giả xả bỏ ba thứ sắc tướng: căn, trần, thức. Hộ cũng còn gọi là Hộ trì, giữ gìn, ngăn chặn ba thứ sắc này, không cho phá tâm Không.
Chánh: nghĩa là không tà, hành giả tu định Hư Không gọi là Chánh, nếu khởi niệm bám chấp vào sắc tướng gọi là Tà.
Quán: nghĩa là quán chiếu được chánh niệm, vì quán chiếu có thể phá trừ ba thứ sắc pháp, chứng đạt lý Không.
Nhất tâm: Quán tâm an trụ nơi hư không, không cho phân tán.
Nói chung chữ Chi, nghĩa là chia chẻ ra. Do năm pháp này được phân chia ra từng phần, không chung một nên gọi là Chi, đây là theo phương tiện tu hành để luận về ý nghĩa Chi thì phải đúng như thế.
Do không có kinh văn ghi chép xác thực, nên không thể nói cố định như thế, chân ý của Phật rất khó suy lường.
Hoặc nói: “Khi chứng định Hư không, trong định ấy có thành lập công đức của năm chi này”.
Vì sao? Vì trên kinh điển nói rằng: “năm chi là Nhân, tâm “Đệ lục mặc nhiên” làm bản thể của định Hư không”.
Nay theo chỗ tu định Hư không để thiết lập Chi lâm và dùng ẩn hiển để thuyết minh Nhân Quả, Thể Dụng tựa hồ không thích hợp. Nếu ước theo ý nghĩa khi chứng được định Hư không để thành lập ra năm chi thì thấy cũng có lý, hành giả nghiên cứu thật kỹ sẽ tự hiểu không cần giải thích nhiều.
c) Giải thích Thể và Dụng
Năm chi của định Hư Không làm Nhân, tâm mặc nhiên (tâm vắng lặng) làm Quả, sau đó Quả lại khởi năm chi làm Dụng. Cho nên lấy tâm mặc nhiên làm Thể giống như Tứ thiền đã nói ở chương trước vậy.
HỎI: Đã nói định này không chứng được Chi lâm, vì sao lại đồng với phần trước?
ĐÁP: Lý ấy là pháp phương tiện nên không có lỗi.
d) Giải thích sâu và cạn
Khi hành giả mới chứng được định Hư không, do xa lìa ba thứ sắc pháp, nên tâm cùng mười phương hư không tương ưng, đến khi sức định từ từ thâm sâu, nhân đó hành giả nhận biết tâm thức sáng suốt, vắng lặng, thấy hư không càng rộng lớn thì định lực càng thâm sâu. Hành giả tự biết sức định trước là thấp cạn, thấy sức định hiện nay càng ngày càng thâm sâu, rộng lớn, thậm chí đạt đến “Cửu phẩm”(1), cũng đại khái như đã nói ở chương trước vậy.
e) Giải thích tiến và thoái
Chứng được định Hư không, cũng có bốn hạng chẳng đồng: Có người lui sụt; Có người dừng; Có người tiến bộ; Có người thông đạt. Tóm lại, cũng như Tứ thiền đã nói ở chương trước vậy.
f) Giải thích công đức
Công đức của định này cũng có đồng và chẳng đồng. Công đức đồng thì như đã nói ở trước.
Công đức chẳng đồng có hai thứ: Lìa họa và Tâm thiện.
- Lìa họa: Sau khi chứng định Hư không, mới xa lìa khỏi họa của ba thứ sắc pháp.
- Tâm thiện: Sau khi lìa khỏi sắc pháp chứng định Hư không, mới được các công đức: tín tâm, cung kính, tăng tiến, thù thắng, hổ thẹn, v.v…
II- ĐỊNH THỨC XỨ
Chia làm ba phần:
1. Giải thích danh từ
2. Phương pháp tu
3. Giải thích tướng chứng
1. Giải thích danh từ
Định thức xứ tức là xả bỏ định Hư không để duyên nơi Thức, vì lấy Thức làm trụ Xứ, nên lấy Thức để lập tên, gọi là định Thức xứ.
2. Phương pháp tu
Có hai thứ:
a) Quở trách định Hư không
b) Quán phá trừ định Hư Không
a) Quở trách định Hư không
Hành giả hiểu rõ định Hư không cùng hư không tương ưng, mà Hư không thì vô biên, nếu tâm duyên nơi định Hư không, duyên nhiều thì tâm tán động, có thể phá hoại định tâm. Hư không là pháp ở ngoài, nếu duyên theo pháp ở ngoài nhập định, do sức định ở ngoài phát sinh, thì không được an ổn, có rất nhiều lỗi lầm, đây gọi là quở trách định Hư không. Hành giả biết định Thức xứ
là pháp ở trong, nếu pháp được duyên bên trong, thì khi nhập định nội tâm sẽ được vắng lặng, an ổn, cho nên tán thán định Thức xứ.
b) Quán phá trừ định Hư không
Hành giả trụ trong định Hư không, quán chiếu Thọ, Tưởng, Hành, Thức như ghẻ lở, bệnh tật, ung nhọt, gai chích, là vô thường, khổ, không, vô ngã, do nhân duyên hòa hợp mà có là hư giả chẳng thật. Đây tức là pháp quán Bát thánh chủng.
Bốn pháp quán (ghẻ, lở v.v...) là phương pháp đối trị, là pháp quán chiếu trên sự tướng; còn bốn pháp quán (vô thường v.v...) là phương pháp quán chiếu trên lý thể chân thật. Trong tám pháp quán này chia ra hai phần:
- Tổng quán: Dùng tám pháp quán này, quán toàn bộ định Hư không là do bốn ấm hòa hợp mà có định này, vì thế chỉ là tai họa chứ chẳng phải thật.
- Biệt quán: Dùng bốn pháp quán (bệnh, ung nhọt v.v...) để đối trị bốn ấm là pháp quán trên sự tướng, như dùng pháp quán “bệnh” để đối trị thọ ấm; quán như “ung nhọt” để đối trị tưởng ấm; quán “ghẻ lở” đối trị hành ấm; quán “gai chích” để đối trị thức ấm.
Dùng bốn pháp quán (vô thường, khổ v.v...) như quán “vô thường” để đối trị Thức ấm; quán “khổ” để đối trị Thọ ấm; quán “Không” để đối trị Tưởng ấm; quán “vô ngã” để đối trị Hành ấm.
Dùng hai pháp quán tổng biệt và sự lý để đối trị định Hư không, do đối với sự và lý không còn tham luyến khoái lạc, nên dễ sinh tâm nhàm chán và mau chóng xả bỏ, nếu hành giả khéo dùng pháp Tứ niệm xứ để suy tìm nghiên cứu và đối chiếu ý nghĩa trên sẽ hiểu rõ chánh định “tam-muội” này.
HỎI: Khi lìa bỏ Tứ thiền vì sao chỉ nói về ba pháp môn phương tiện? Nay lìa Tứ không định lại nói Bát thánh chủng?
ĐÁP: Định Hư không rất vi tế, nếu không dùng Bát thánh chủng để quán, rất khó thấy tai họa lỗi lầm của định Hư không.
HỎI: Như phàm phu không có Bát thánh chủng thì làm sao lìa khỏi định Hư không?
ĐÁP: Chỉ cần tu pháp “Lục hạnh” cũng lìa được định Hư không, nhưng không bằng tu Bát thánh chủng để được mau chóng.
HỎI: Phương pháp tu thiền hữu lậu là dùng Bát thánh chủng, còn thiền vô lậu có pháp tu gì khác không?
ĐÁP: Ở đây nói tu Bát thánh chủng chủ yếu là muốn hành giả mau chóng thoát lìa các định tầng thấp để tu tiến lên các tầng thiền định cao hơn, vì trong định này hành giả không thể thâm nhập quán chiếu, khiến phát được trí tuệ vô lậu, cho nên pháp tu ở đây cùng với pháp thiền vô lậu có khác nhau.
Kế tiếp là giải thích tâm duyên Thức. Hành giả đã khéo biết sai lầm của định Hư không, nội tâm chẳng còn vui mừng, liền xả bỏ định Hư không, nhất tâm duyên nơi tâm thức hiện tại, niệm niệm không rời, hoặc duyên nơi tâm quá khứ và vị lai cũng giống như thế. Hành giả luôn luôn chuyên chú duyên nơi thức, muốn cùng với thức tương ưng, kiên trì dụng công không quản thời gian bao lâu, mà chỉ nhất tâm duyên nơi thức chẳng có tạp niệm nào khác.
HỎI: Tâm thức quá khứ đã diệt, tâm vị lai chưa đến, tâm hiện tại không dừng trụ, thì làm sao tâm duyên theo để nhập định?
ĐÁP: Tâm thức mà ông hỏi, tuy tâm thức cả ba đời không thể được, mà có thể nhớ nghĩ được, ví như tâm sân quá khứ đã diệt, không thể trở lại, nhưng có thể nhớ nghĩ lại được, như người chứng được Tha tâm thông cũng có thể biết tâm lý của người khác, tuy các pháp vốn là Không mà không đoạn diệt, huống gì tự mình duyên nơi tâm thức ba đời của mình, làm sao không thể làm Nhân để nhập định hay sao?
Cái “Nhân” đang luận nơi đây, đương nhiên có ý niệm duyên nơi thức để nhập định, vì thế hành giả nhất tâm duyên nơi thức thì định Hư không liền diệt mất, trước khi định Thức xứ chưa phát sinh cũng có Trung gian thiền giống như đã nói ở chương trước vậy.
HỎI: Như vậy cần phải có trường hợp Trung gian thiền hay không?
ĐÁP: Phần trước đã có giải thích qua, ý nghĩa cũng như thế.
3. Giải thích tướng chứng
Chia làm sáu phần:
a) Tướng chứng b) Chi lâm
c) Thể dụng
d) Sâu cạn
e) Tiến thoái
f) Công đức
a) Tướng chứng
Khi hành giả nhất tâm duyên nơi thức, tâm niệm từ từ tiêu mất, mặc tình tùy duyên an trụ nơi Thức xứ, nhân đây nội tâm được rỗng rang cùng với thức tương ưng, nên tâm an định không dao động. Trong định Thức xứ hành giả không thấy việc gì khác, chỉ thấy tâm thức hiện tại, niệm niệm chẳng dừng trụ, nội tâm an định, sáng suốt rõ ràng, tâm thức tự mở rộng vô biên.
Trong định này hành giả cũng có thể nhớ thức quá khứ đã dứt diệt vô lượng vô biên. Thức vị lai cũng sinh khởi vô lượng vô biên, những hiện tượng này đều xuất hiện trong định cùng với thức tương ưng. Do thức giữ gìn tâm thức, nên niệm không phân tán, định này rất an ổn, thanh tịnh, vắng lặng. Tâm thức sáng suốt, rõ ràng và vô cùng nhạy bén không thể dùng văn tự diễn tả được.
HỎI: Hành giả chưa chứng đắc Tha tâm thông, làm sao biết được tâm cả ba đời?
ĐÁP: Đây là do sức của chánh định, ý nghĩa cũng như Tứ vô lượng tâm.
b) Chi lâm
Như trong Kinh Anh Lạc nói: “Phương tiện năm chi của định Tứ không cũng tương tự như định Hư không”, cho nên ở đây chẳng cần nói lại.
c) Thể dụng,
d) Sâu cạn,
e) Tiến thoái,
f) Công đức (đại khái cũng như các chương trước, nay cũng không cần giải thích riêng)
III- ĐỊNH VÔ SỞ HỮU XỨ
Chia làm ba phần:
1. Giải thích danh từ
2. Phương pháp tu hành
3. Giải thích tướng chứng
1. Giải thích danh từ
Vô sở hữu xứ hay còn gọi là “Bất dụng xứ”. Khi tu pháp định này, không cần dùng tất cả cảnh giới trong và ngoài. Cảnh ở ngoài gọi là Không, cảnh ở trong gọi là Tâm. Do xả bỏ cả hai cảnh giới này mà được định, nên gọi là Bất dụng xứ, cũng còn gọi là Thiểu xứ, Vô sở hữu xứ, Vô tưởng xứ, cả ba danh từ này đều căn cứ nơi bản thể của định mà đặt tên vậy.
2. Phương pháp tu
Có hai thứ:
a) Quở trách và tán thán b) Quán hạnh tu tập
a) Vì sao gọi là quở trách và tán thán?
Hành giả biết rõ định Thức xứ là tai họa. Vì cớ sao? Tâm của định Thức xứ cùng với pháp của thức tương ưng, nếu trong thiền định, tâm duyên nơi thức, mà thức quá khứ, hiện tại, vị lai thì đều vô lượng vô biên, nếu tâm duyên nơi vô lượng vô biên, vì duyên nhiều tâm sẽ bị tán loạn phá mất định lực.
Lại nữa, định Hư không tức là tâm duyên nơi hư không mà nhập định, gọi là định ở ngoài. Nay duyên nơi thức để nhập định, nên gọi là định ở trong. Dù nương ở trong hay ngoài cũng đều chẳng phải tâm vắng lặng, nếu nương nơi nội tâm dùng tâm duyên thức để nhập định, vì định này nương theo tâm thức cả ba đời để phát sinh, thì chẳng phải chân thật. Chỉ có chỗ không có tâm thức, tâm không nương gá, mới gọi là an ổn, sau khi hành giả tư duy như thế, liền tán thán định Vô sở hữu xứ.
b) Quán hạnh tu tập
Hành giả quán chiếu Thọ, Tưởng, Hành, Thức giống như bệnh, như ghẻ, ung nhọt, gai châm và vô thường, khổ, không, vô ngã là do hòa hợp mà có, hư giả chẳng thật, ý nghĩa cũng như giải thích ở chương trước vậy.
Sau khi hành giả biết rõ liền xả bỏ định Thức xứ, duyên niệm nơi định Vô sở hữu xứ, định Vô sở hữu xứ không có chỗ nương gá, nên tâm thức ở trong lặng lẽ dứt bặt, không cần dùng các phương pháp của tâm thức. Biết pháp Vô sở hữu xứ là chẳng phải Không, chẳng phải Thức, không pháp trần, không có phân biệt. Hành giả biết rõ định Vô sở hữu xứ, lặng lẽ dứt bặt tâm niệm như thế thì định Thức xứ liền diệt mất, trong lúc thiền định chưa phát, cũng có Trung gian thiền, tướng chứng như đã nói ở chương trước vậy.
HỎI: Có người nói tu định Vô sở hữu xứ là dùng một ít thức làm duyên để nhập định việc này thế nào?
ĐÁP: Chẳng đúng, phải xả bỏ tất cả, chỉ quán các pháp là Vô sở hữu, nên gọi là Vô sở hữu xứ. Nói Thiểu xứ tức là ý căn “mạt-na” duyên nơi chỗ không có pháp trần mà phát sinh định Vô sở hữu xứ, chẳng phải là tâm duyên nơi một ít thức để nhập định gọi là Thiểu xứ.
3. Giải thích tướng chứng
Chia làm sáu phần:
a) Tướng chứng
b) Chi lâm
c) Thể dụng
d) Sâu cạn
e) Tiến thoái
f) Công đức
a) Tướng chứng định Vô sở hữu xứ
Hành giả trụ nơi Trung gian thiền, nội tâm không còn lo sầu, hối hận, do chuyên chú tu hành không chút giải đãi, thì nội tâm được vắng lặng, không nương gá chỗ nào, không thấy các pháp, thâm tâm lặng lẽ an ổn, không chút dao động. Đây là tướng chứng của định Vô sở hữu xứ.
Khi nhập định này, các vọng tưởng đều lặng lẽ dứt bặt, nội tâm thư thái, tịch tịnh. Tâm niệm còn không thấy, huống chi là các pháp khác sao? Do không có chỗ phân biệt, nên gọi là định Vô sở hữu xứ, cũng gọi là định Vô tưởng.
b) Chi lâm, c) Thể dụng, d) Tiến thoái,
e) Sâu cạn, f) Công đức (ý nghĩa cũng như các tầng thiền đã giải thích ở phần trước vậy).
IV- ĐỊNH PHI TƯỞNG PHI PHI TƯỞNG (PHI HỮU TƯỞNG PHI VÔ TƯỞNG)
Cũng chia làm ba phần:
1. Giải thích danh từ
2. Phương pháp tu
3. Giải thích tướng chứng
1. Giải thích danh từ
Định Phi tưởng phi phi tưởng, cũng có nhiều danh từ chẳng đồng. Có người gọi còn định này là Nhất tồn, Nhất vong.
Phi tưởng: nghĩa là không có niệm tưởng thô, nên gọi là vong, tức là mất hết tưởng thô.
Phi phi tưởng: nghĩa là chẳng phải không có niệm tưởng vi tế, nên gọi là tồn tức là còn tưởng vi tế.
Lại có người giải thích rằng: định Thức xứ là có tưởng, định Vô sở hữu xứ là không có tưởng. Nay Phi tưởng tức là đoạn trừ có tưởng của định Thức xứ, Phi phi tưởng là đoạn trừ không có tưởng của định Vô sở hữu xứ.
Có người giải thích Phi hữu tưởng là trong định này không thấy có các hình tướng, nên gọi là Phi hữu tưởng. Phi vô tưởng là hành giả tự suy nghĩ rằng: Nếu nhất định không có niệm tưởng thì khác nào gạch đá vô tri, vậy làm sao có thể biết được không tưởng? Nên gọi là Phi vô tưởng vậy.
HỎI: Trong định Phi hữu tưởng phi vô tưởng, kỳ thật là có tưởng, vì sao nói vô tưởng?
ĐÁP: Định Phi tưởng có bốn ấm (thọ, tưởng, hành, thức) hợp thành, sao lại nói không? Nhưng hàng phàm phu khi nhập định này, do ấm, giới, nhập quá vi tế, vì không thấy, không biết, nên họ nói là không có tưởng (phi tưởng).
Trong Phật pháp thì nói định này có bốn ấm hợp thành, xưa kia đã có đặt danh từ này, nên hiện nay gọi là Phi hữu tưởng phi vô tưởng. Cũng có người giải thích: “Theo phàm phu thì gọi là Phi hữu tưởng, ở trong Phật pháp thì gọi là Phi vô tưởng”, nếu đem cả hai danh từ hợp lại thì gọi là Phi hữu tưởng phi vô tưởng.
2. Phương pháp tu
Có hai phần:
a) Quở trách và tán thán
b) Tu tập quán hạnh
a) Quở trách và tán thán
Hành giả biết rõ tai họa sai lầm của định Vô sở hữu xứ, bởi vì trong định này bị vô minh che đậy, như ngu si, như say mê, mờ tối, không giác biết, không thể ưa thích. Trong Ma Ha Diễn có ghi: “Quán định Thức xứ giống như ung nhọt, quán định Vô sở hữu xứ như ngu si, hai thứ định này đều là bệnh của tâm thức, chẳng phải cảnh giới vắng lặng chân thực. Ngoài đây ra còn có một tầng định rất thù thắng vi diệu, gọi là Phi tưởng phi phi tưởng, định ấy mới thực là cảnh giới an ổn, không có lỗi lầm, hiện nay ta rất muốn chứng được định này”.
b) Tu tập Quán hạnh
Khi hành giả an trụ trong định Vô sở hữu xứ, chuyên tâm quán chiếu Thọ, Tưởng, Hành, Thức giống như bệnh, ung nhọt, máu mủ, gai châm, là vô thường, khổ, không, vô ngã, là hư giả chẳng thật, do nhân duyên hòa hợp mà có, nên gọi là chẳng thật có. Sau khi quán như thế, liền xả bỏ định Vô sở hữu xứ, tâm niệm quán tưởng chẳng phải có cũng chẳng phải không (phi hữu, phi vô).
- Sao gọi là Phi hữu? Nghĩa là không có tâm thức, vì tâm quá khứ, hiện tại, vị lai đều không thể được. Do tâm thức không có hình tướng, không chỗ trụ nên biết không có.
- Sao gọi là Phi vô? Nếu nói không, sao gọi là Không? Tâm là rỗng không hay lìa tâm mà thành Không? Nếu tâm là Không thì không thể gọi là tâm, vì sao? Vì không có cảm giác, không có cảnh giới để phan duyên nên gọi là không. Tâm chẳng phải là Không cũng không có riêng một cái Không. Vì sao? Không chẳng phải tự không, do phá bỏ tâm Có, nên nói không tâm thức, đã không có thì cái Không ấy cũng Không, cho nên nói là Phi hữu, Phi vô (Chẳng phải có, chẳng phải không).
Khi hành giả quán chiếu như thế, nội tâm chẳng còn thấy Có, thấy Không, liền nhất tâm trụ trong đó, không nhớ tưởng việc gì khác, đây gọi là tu định Phi hữu tưởng phi vô tưởng. Hành giả chuyên chú miên mật không buông xả định này, thì định Vô sở hữu xứ liền diệt mất. Khi định Phi hữu tưởng phi vô tưởng chưa khai phát, cũng có Trung gian thiền như đã nói ở chương trước vậy.
3. Giải thích tướng chứng
Cũng chia làm sáu phần:
a) Tướng chứng
b) Chi lâm
c) Thể dụng
d) Sâu cạn
e) Tiến thoái
f) Công đức
a) Tướng chứng
Hành giả nhất tâm, tinh chuyên dụng công liên tục, do tâm được tự tại, mặc tình an trụ nơi định Phi hữu tưởng Phi phi tưởng. Sau đó phát thiền định chân thật, không thấy hình tướng Có và Không, nội tâm ngưng lặng dứt bặt chẳng dao động, thư thái thanh tịnh tương tự như cảnh giới Niết-bàn, định này rất vi diệu, trong tam giới không có định nào có thể vượt hơn. Hàng ngoại đạo khi chứng đến chỗ này, cho là đã chứng được trung đạo, thật tướng Niết-bàn, thường, lạc, ngã, tịnh, do tham ái chấp bám nơi định này, lại không tiếp tục tu tập Bát-nhã chánh quán, họ chẳng khác nào như trùng đục cây, đục mới đến vỏ cây, không tiến thêm nữa mà quay trở lui.
Như trong kinh có ghi: “Khi phàm phu chứng pháp định này, cũng giống như dây cột lừa, hết dây thì quay trở lại”. Vì chẳng biết định này là do bốn ấm hòa hợp mà có tự tính. Tuy trong định này, không có các phiền não thô, nhưng lại có mười thứ phiền não vi tế, do chẳng biết nên họ chấp cho là đã chứng đến cảnh giới chân thật.
Hàng ngoại đạo nhập trong định này, chẳng thấy tướng có và không, mà cảm nhận có tâm hay Biết (năng tri) chẳng phải có chẳng phải không, liền chấp chặt nơi tâm này, cho là “Chân thần bất diệt(2)” nên nói đến chỗ tâm vi tế không thể phá gọi là “Thần năng tri”. Nếu là đệ tử của Phật thì họ sẽ biết định này là do bốn ấm hòa hợp mà có, là hư giả, chẳng thật, chỉ là vọng tưởng trong nội tâm, thực tế không có “Thần tri” nào khác.
Lại nữa, định Hư không do phá trừ sắc tướng nên nói là Không; định Thức xứ phá chấp Không nên nói là Thức, nói có thức tức là Hữu tưởng. Còn định Vô sở hữu xứ phá bỏ Thức nên không có thức, nói không có thức tức là Vô tưởng. Hiện nay trong định này lại phá định Vô sở hữu xứ, nên nói là chẳng phải không có tưởng, vì thế định này còn gọi là Phi hữu tưởng phi vô tưởng.
Định này đối với các tướng: Trầm, Phù, Trí, Thiền, Định, Có, Không v.v... trong thế gian đều bình đẳng, cho nên định này luôn luôn an ổn, ở trong thế gian định này rất là tôn quý và thù thắng, trí thế gian không thể phá hoại, nên trong thuyết của Số Nhân nói: “Nhất thường hữu lậu”.
Định Vô tưởng có ba nghĩa:
- Vô tưởng thiền.
- Phi hữu tưởng phi vô tưởng.
- Diệt thọ tưởng.
Ngoại đạo không có phương tiện diệt tâm, nên nhập vào định “Vô tưởng thiền”; hàng phàm phu ngoại đạo có phương tiện tu hành để diệt tâm, thì được nhập vào “Định phi hữu tưởng phi vô tưởng”. Còn đệ tử Phật diệt tâm để nhập vào “Định diệt thọ tưởng”.
HỎI: Định Vô sở hữu xứ cũng gọi là định Vô tưởng, vì sao ngài không xếp nó vào ba thứ diệt tâm?
ĐÁP: Vì định Vô sở hữu xứ không khéo diệt các tâm số pháp, nên chẳng vi diệu.
Lại nữa, nếu trong Sắc giới thì định Vô tưởng là cùng tột. Nếu trong Vô sắc giới thì định Phi hữu tưởng phi vô tưởng là cùng tột. Nếu trong Phật pháp thì tự đã có định Diệt thọ tưởng. Cho nên định Vô sở hữu xứ so sánh với cả ba cảnh giới trên thì chẳng phải là pháp định thù thắng nên không lấy vậy.
b) Chi lâm, c) Thể dụng, d) Sâu cạn, e) Tiến thoái, f) Công đức: (cũng như đã nói ở chương trước vậy).
Trí Bát-nhã tuy diệt tất cả các pháp mà không sinh các pháp, như từ Sơ thiền mới diệt được tâm ưu phiền, cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ thì chỉ diệt niệm tưởng của định Vô sở hữu xứ, các tầng định ấy đều thuộc về Tiền phương tiện trong Bát-nhã, dùng phương tiện này diệt hết các pháp để nhập vào định Hư không. Do diệt các pháp ấy rồi sau đó mới phát sinh các pháp thù thắng, nên Bát-nhã có thể sinh muôn pháp. Mười hai pháp môn thiền này chỉ thuộc về một phần của Bát-nhã.
HỎI: Bồ-tát hành đạo Bồ-đề để nhập vào lý chân không thật tướng, còn chẳng được Không, vì sao nay theo cái Không mê lầm chẳng thật này mà phân biệt có bốn thứ ?
ĐÁP: Như trong Thích Luận giải thích ý nghĩa của Tứ không và thật tướng các pháp cùng với “trí huệ hành”, thì luận về bốn tầng định Vô sắc cũng không có gì sai, vì đây là bốn định Vô sắc trong Đại thừa.
HỎI: Thế nào là thật tướng của các pháp?
ĐÁP: Các pháp tự tính là Không.
HỎI: Sắc pháp do nhân duyên hòa hợp, nên được kết luận là Không, còn trong định Vô sắc vì sao lại bảo là Không?
ĐÁP: Sắc pháp là những sự vật thô mà tai mắt có thể thấy nghe, còn cho là Không, huống gì cảnh giới mắt không thể thấy, không có chất ngại, không có cảm giác khổ vui, mà chẳng kết luận là Không hay sao?
Lại nữa, hành giả phân chia sắc pháp cho đến vi trần, thảy đều tan diệt trở về hư không, dù đó là những tâm tâm số pháp mà ngay cả thời tiết ngày tháng cho đến trong một niệm cũng đều không thể được, đây mới đúng thật nghĩa Không của bốn tầng định Vô sắc.
Bồ-tát biết rõ như thế, cũng có khả năng phân biệt các sắc tướng, rồi dùng phương tiện đại bi, vì tất cả chúng sinh mà tu hành, nhưng không có niệm bám chấp, và đem công đức này hồi hướng về Bồ-đề, chứng được đầy đủ tất cả Phật pháp đều ban cho tất cả chúng sinh, đây chính là thực hành Bồ-tát đạo vậy.


Chú thích Quyển 6B:
(1) Cửu phẩm: 9 bậc: Thượng thượng, Thượng trung, Thượng hạ; Trung thượng, Trung trung, Trung hạ và Hạ thượng, Hạ trung, Hạ hạ. Đây là thuật ngữ thường dùng trong giáo pháp Phật.
(2) Chân thần bất diệt: kiến chấp có linh hồn là tinh thần thuần túy thật có, thường trụ, độc tồn, Phật giáo thì cho thần ngã, linh hồn là cái ngã lìa uẩn và chủ trương các pháp vô ngã để phá chấp thuyết hữu ngã của phái Số luận.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 12 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Vì sao tôi khổ


Một trăm truyện tích nhân duyên (Trăm bài kinh Phật)


Kinh Đại Bát Niết-bàn


Kinh Đại Bát Niết bàn Tập 1

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Donate


Quý vị đang truy cập từ IP 18.191.103.28 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập