Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
Phẩm 10: DƯỢC VƯƠNG NHƯ LAI
Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Đạo pháp chỉ có một chứ không có hai thừa, nghĩa là đạo Vô thượng chánh chân từ xưa tới nay không có hai chánh. Thí như các sông ngòi ở bốn phương chảy về biển hiệp thành một vị; như mặt trời tỏa chiếu soi sáng khắp nơi, chưa từng tăng giảm. Nếu thiện nam muốn đạt đến Chánh giác, liễu ngộ không có ba đường ác, không có quá khứ, vị lai, hiện tại, thì phải học và thọ trì kinh Chánh Pháp Hoa, phân biệt không tuệ, không có tưởng về sáu pháp Ba-la-mật, chẳng dùng hương, hoa, kỹ nhạc cúng dường mà là cúng dường vậy. Các ông phải liễu ngộ ba giải thoát, đến được trí tuệ vô cực của tam đạt trí mới là cúng dường. Vì sao? Bởi vì từ xưa, trong vô lượng kiếp lâu xa khó tính đếm, về trước bấy giờ có Đức Phật hiệu là Dược Vương Như Lai Chí Chân, Đẳng Chánh giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu; thế giới tên là Đại tịnh, kiếp tên là Tịnh trừ. Dược Vương Như Lai thọ hai mươi trung kiếp; các chúng Thanh văn có ba mươi sáu ức; Bồ-tát Đại sĩ có mười hai ức. Khi ấy có vị Chuyển luân thánh vương tên là Bảo Cái cai quản bốn khu vực. Vua có một ngàn người con tuấn tú, dũng mạnh, có bảy vị bề tôi Thánh đức hàng phục địch quân. Vua ấy cúng dường Đức Dược Vương Như Lai đủ suốt trong năm trung kiếp; vua cùng với quyến thuộc, tất cả đều hết lòng phụng kính Đức Phật Dược Vương. Sau năm trung kiếp vua bảo với một ngàn người con:
- Ta đã cúng dường hầu hạ Như Lai, các con cũng phải tuân theo nề nếp đó.
Khi ấy, các người con nghe lời vua cha dạy, lại cúng dường Đức Dược Vương Như Lai trong năm kiếp, dâng cúng đồ thượng diệu, thích hợp an lành. Tròng đó, có một thái tử tên là Thiện Cái ở nơi vắng vẻ một mình suy nghĩ: “Nay chúng ta cúng dường Đức Như Lai, nhưng có cách nào đặc thù hơn cách này chăng?”
Trên hư không có một vị trời nương oai thần của Phật nói với Thái tử:
- Thiện nam, nay muốn biết chăng? Có một pháp cúng dường tôn quý vô cùng.
Thái tử hỏi:
- Pháp cúng dường ấy gọi là gì?
Vị Trời đáp:
- Thái tử nên đến hỏi Đức Dược Vương Như Lai. Ngài sẽ giảng rõ cho Thái tử.
Thiện Cái liền đi đến chỗ Dược Vương, cúi đầu sát đất bạch với Đức Phật:
- Bạch Thế Tôn! Pháp cúng dường thuận hợp với kinh điển phải như thế nào?
Thế Tôn dạy:
- Pháp cúng dường thuận hợp với kinh điển thâm diệu uyên áo mà Như Lai đã nói là Khai hóa cho tất cả chúng sinh khó lãnh hội, khó hiểu biết ở thế gian, xuất gia xả lợi, có chí cầu kho báu của Bồ-tát, ở trong chốn vắng vẻ xa xôi, dùng ấn Tổng trì mà quán chiếu, nỗ lực tinh tấn không thoái chuyển, thể đạt Trí tuệ vô cực của sáu pháp Ba-la-mật, thiết tha nắm trọn đạo phẩm của Phật, chẳng khởi pháp nhẫn, mở cánh cửa, đi sâu vào chánh điển; có tâm đại Từ bi đối với chúng sinh, hàng phục quân ma, lìa các kiến chấp, thấu hiểu, diễn đạt thông suốt mười hai nhân duyên, không chấp ngã, không chấp nhân, không chấp thọ, chẳng chấp mạng, có chí mong cầu các pháp Không, Vô nguyện, Vô tướng, chẳng duyên với các hành; ở nơi đạo tràng mà chuyển pháp luân, khuyên dạy các chúng Trời, Rồng, Kiền-đạp-hòa,... khiến không ai là không quy ngưỡng, khai mở kho chánh pháp, bảo hộ Hiền thánh, tuyên dương, hiển bày các hạnh Bồ-tát, giải thoát hoàn toàn các khổ, không chấp ngã, chẳng chấp thân; vì chúng sinh vi phạm cấm giới nên lập ra các phương tiện. Các ma và dị đạo rơi vào kiến chấp điên đảo, tham đắm hữu vi, thường ôm lòng sợ sệt nên phải kêu than. Công đức của chư Phật khiến họ diệt sinh tử, được dứt trừ tai họa và được yên ổn giải thoát. Cần phải tán thán chư Phật trong quá khứ, vị lai và hiện tại như thế, và phải phân tích thấu đáo sắc tượng vi diệu, tổng trì tất cả cội nguồn các pháp và pháp nhẫn; mở bày, tuyên thuyết, xiển dương các cảnh giới, tùy phương tiện mà cúng dường chánh pháp. Đó là cúng dường pháp. Đối với các kinh, tâm chí luôn trụ trong pháp nhẫn, diễn bày kinh điển, theo đó lặp đi lặp lại nhiều lần, giảng giải pháp yếu, không có các tà kiến, không khởi niệm tin chấp vào quan điểm: “Không từ đâu sinh”, thể nhập lý nhân duyên, thấy rõ vô ngã, vô nhân nên không sân hận, không tranh cãi, không kiện tụng; thấy rõ lý vô ngã, vô thọ, y cứ vào nghĩa lý ngôn từ mà trí không vướng mắc vào sự hiểu biết, không buông thả, chế ngự tâm thức, trụ tâm vào pháp “vô sở trụ”; biết nghĩa lý mục đích, nhờ đó chỉ rõ nghĩa lý sai lầm, gạn lọc, làm lưu thông các pháp chướng ngại, chẳng gây cho người nghe thấy sự ỷ lại vào chân đế mà quay về đúng như pháp vô trước, vô nhập; đoạn trừ tâm niệm vướng mắc, ỷ lại diệt các ngu si; sinh, lão, bệnh, tử đều trừ sạch, luôn quán mười hai nhân duyên, gặp những kiến chấp sai lầm không rơi vào vòng điên đảo. Đó là sự cúng dường pháp của các thiện nam.
Vương tử Thiện Cái vừa nghe Đức Phật Dược Vương giảng về sự cúng dường pháp xong, ngay khi ấy đạt được pháp nhẫn nhu thuận, liền cởi áo trên thân mình choàng lên thân Phật, rồi thưa với Đức Thế Tôn:
- Bạch Thế Tọn! Cúi xin Thánh ân chứng minh cho sự lập nguyện của con: Sau khi Như Lai diệt độ, con nguyện hộ trì chánh pháp, cúng dường làm hưng thạnh chánh pháp, hàng phục quân ma và sẽ tiếp nối giáo pháp trong tương lai.
Khi ấy Đức Phật biết tâm niệm của vương tử, vào đời tương lai sẽ là thành trì giữ gìn chánh pháp, nên bảo với chúng Tỳ-kheo:
- Vương tử Thiện Cái đó trong đời Phật hiện tại, có lòng tin vững chắc, xuất gia hành đạo, luôn tinh tấn tu học, làm phát khởi cội nguồn của các công đức, chẳng bao lâu sẽ thành tựu năm phép thần thông, có sức tổng trì và biện tài vô ngại. Sau khi Phật diệt độ, vị ấy sẽ đạt được đầy đủ sức thần thông tổng trì vô sở úy và ở trong mười trung kiếp, sẽ chuyển pháp luân, truyền bá kinh pháp mà Đức Như Lai Dược Vương đã dạy. Do Tỳ-kheo Thiện Cái hộ trì chánh pháp, giáo hóa suốt trong một đời, nên ngàn ức người đều phát tâm Vô thượng chánh chân, không thoái chuyển; vô lượng người trụ bậc Thanh văn, Duyên giác, vô số người được sinh Thiên. Các Tỳ-kheo muốn biết vua Bảo Cái lúc ấy là ai chăng? Đâu phả i ai xa lạ, mà chính là Phật Bảo Diệm, Bậc Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác hiện nay.
Ngàn người con của vua chính là ngàn Đức Phật xuất thế ở trong hiền kiếp này. Vị đầu tiên là Đức Như Lai Câu-lâu-tần, vị thành Phật sau cùng tên là Hân Lạc; còn Thái tử Thiện Cái chính là thân ta hiện nay. Do vậy các Tỳ-kheo nên biết rằng tất cả sự cúng dường không vượt qua sự cúng dường Pháp, vì chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều do đó mà thành. Nếu thiện nam, thiện nữ muốn được cúng đường mười phương chư Phật, thì nên thọ trì kinh Chánh Pháp Hoa, đọc tụng, tuyên thuyết, chỉ bày cho tất cả chúng sinh phân biệt rõ là chỉ có một thừa, không có ba thừa.
Khi ấy Phật nói bài tụng:
Giả sử có người
Muốn hiểu đại pháp
Khai hóa tất cả
Đều đạt chánh pháp,
Thì nên thọ trì
Kinh Pháp Hoa này
Chỉ bày xa gần
Cho người chưa nghe.
Như các dòng sông
Đều xuôi về biển
Hợp thành một vị
Chẳng có gì khác,
Thanh văn, Duyên giác
Và Bồ-tát đạo
Tất cả quy về
Vô thượng chánh chân.
Ví như nhật nguyệt
Chiếu khắp trần gian
Trăm loại lúa, thuốc
Gai gốc, cỏ cây,
Pháp Phật cũng thế
Dùng tuệ vô cực
Chiếu soi tam giới
Đều vào một nghĩa.
Xưa có Đức Phật
Hiệu là Dược Vương
Và vị Thánh vương
Tên là Bảo Cái
Năm kiếp cúng dường
Đức Phật Dược Vương
Tất cả đồ dùng
Không hề thiếu thốn.
Rồi bảo ngàn con
Khiến cúng dường Phật
Ngàn con vâng lời
Lòng đều mừng vui
Cúng dường Đức Phật
Cũng đủ năm kiếp
Ăn uống giường nằm
Phướn lọng, kỹ nhạc.
Thái tử Thiện Cái
Nơi vắng, tự nghĩ:
Có pháp cúng nào
Hơn pháp cúng này?
Trên không, trời bảo
Cúng pháp hơn hết.
Chàng liền thưa hỏi:
Cúng pháp là gì?
Vị trời trả lời
Nên đến hỏi Phật.
Thái tử hỏi Phật
Phật giảng đầy đủ
Tạng pháp thâm diệu
Cú nghĩa khó hiểu:
Không, Vô tướng, Nguyện
Thể nhập chánh tuệ
Đại từ, đại bi
Hàng phục chúng ma
Sáu mươi hai kiến
Tự nhiên trừ được.
Các việc vô thường
Khổ, không, phi thân
Vô ngã, vô nhân
Vô thọ, vô mạng
Thuận theo sẽ được
Chắng khởi pháp nhẫn
Chuyển bất thoái luân
Chiếu soi các pháp
Mười hai nhân duyên
Triển chuyển tương sinh
Rõ pháp vốn không
Không có thỉ, chung.
Khi ấy Thiện Cái
Đạt tâm nhẫn thuận
Sau khi Phật diệt
Giữ thành chánh pháp
Tinh tấn không lười
Chứng đắc ngũ thông
Tổng trì biện tài
Khai hóa tất cả
Cả ngàn ức người
Đều trụ đại đạo
Mười bốn vạn tỷ
Thanh văn, Duyên giác
Số người vô lượng
Được sinh cõi trời
Vì vậy ngợi khen
Cúng pháp là nhất
Giả sử có người
Muốn cúng dường pháp
Thì nên thọ trì
Kinh Chánh Pháp Hoa
Hiểu rõ Như Lai
Khéo dùng phương tiện
Không có hai thừa
Đều quy về một.
Lúc bấy giờ, nhân có Đại sĩ Dược Vương và các vị Bồ-tát, Đức Phật bảo với tám vạn Bồ-tát:
- Hãy quán sát bốn bộ chúng này, có vô số ức Trời, Rồng, Quỷ, Thần, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Kiền-đạp-hòa, Ma-hưu-lặc, Nhân phi nhân, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, hiện tại mắt thấy tai nghe Như Lai nói kinh này. Tất cả người trong hội chúng dù nghe một câu kệ, một bài tụng, chỉ phát khởi một ý niệm hoan hỷ tán trợ, ta đều thọ ký cho bốn bộ chúng sẽ đắc đạo Vô thượng chánh chân.
Đức Phật bảo Bồ-tát Dược Vương:
- Nếu sau khi Như Lai diệt độ, người nào nghe một bài tụng bốn câu của kinh này, mà trong khoảnh khắc khởi tâm tán thán thì ta cũng thọ ký sẽ đắc đạo Vô thượng chánh chân. Phải biết người đó trong quá khứ đã từng hầu hạ trăm ngàn Đức Phật, đã theo trăm ngàn ức Đức Phật phát tâm lập nguyện. Những bậc như thế vì thương xót chúng sinh nên đời sau cũng theo kinh này mà thọ trì, đọc tụng, dù một bài tụng, biên chép trên tre, lụa vẫn khắc ghi nhớ mãi không quên; hoặc nghe âm thanh đọc tụng cung kính quán sát liền biết là văn cú cao tột của Như Lai Thánh Tôn, hoặc dùng hương hoa, gấm lụa, tràng phan, phát tâm cúng dường quyển kinh ấy, chắp tay hướng về kinh, cúi đầu làm lễ thì người ấy được gọi là chỗ quy ngưỡng của thế gian.
Lại bảo Bồ-tát Dược Vương:
- Nếu thiện nam, thiện nữ nào có thể thọ trì một bài tụng, khuyến khích, hỗ trợ, hoan hỷ khi nghe tên kinh, hoặc được nghe tên kinh rồi học tập tìm hiểu, thì Đức Thế Tôn sẽ lần lượt thọ ký cho thiện nam, thiện nữ ấy tương lai sẽ thành Bậc Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Vì sao? Những ai vâng theo kinh này đọc tụng, sao chép, xem, nghe cúng dường tràng phan, hương hoa, lụa là và các thứ hương xông, thì phải biết các thiện nam, tín nữ ấy sẽ thành đạo Vô thượng chánh chân. Sau khi diệt độ, nếu gặp Như Lai, thì sẽ trải tình thương đến khắp chư Thiên và loài người, theo sở nguyện của mình mà tâm được tự tại, thường sinh vào cõi người mong muốn diễn nói kinh này. Người ấy vốn đã lập hạnh vi diệu. Do việc đã làm, sẽ sinh vào cõi Phật nghiêm tịnh, thường quán sát nhân duyên để giảng kinh pháp. Phải biết hạng người này thương xót chúng sinh, nên sau khi Phật diệt độ sẽ sinh vào chốn này. Nếu có người làm trái với lời dạy của Như Lai, thì thiện nam ấy sẽ khuyên bảo người ấy làm Phật sự theo và lời dạy của Thế Tôn.
Có người giảng thuyết lời dạy của Như Lai nhưng những điều giảng giải ấy, nếu chẳng thông suốt thì người ấy tiếp tục tìm hiểu. Giả sử có người lánh tình hung hiểm, thường ôm lòng độc hại, chỉ khởi niệm bôi nhọ vị ấy thì tội lỗi khó lường. Nếu trong một kiếp phỉ báng Như Lai, hủy báng vị ấy, thì tội lỗi bằng nhau không khác. Khi vị thiện nam giảng kinh này, nếu có trẻ con thọ trì kinh ấy nhưng có bạch y, Sa-môn dùng lời lẽ thô ác nói với chúng, đem điều bất như ý gán cho chúng, khiến chúng nghe lời nói ác cho là thật, rồi sai lầm loan truyền tiếng oán than, thì sẽ mang tội ác, giống như có ý hại Đức Như Lai.
Nếu thiện nam, thiện nữ nào thọ trì, đọc tụng kinh này mà không du hóa, giảng thuyết cho người khác thì sẽ có lỗi. Nếu có thọ trì kinh này thì phải dùng y phục, thức ăn ngon, hương hoa, đèn lửa, trân châu tốt đẹp mà cúng dường và tôn phụng các thiện nam, thiện nữ ấy là bậc đại bảo, xứng đáng được đảnh lễ. Vì sao? Chính vì có thể một lần được nghe kinh điển này. Nếu ai nghe kinh điển này mà cúng dường thì do đó sẽ có chí nguyện Vô thượng chánh chân.
Khi ấy Phật nói bài tụng:
Nếu muốn trụ Phật đạo
Chí ngưỡng mộ công đức
Nên cúng dường những ai
Đã thọ trì kinh này
Nếu ưa pháp thông tuệ
Tùy hỷ theo nghe pháp
Nên thọ trì kinh này
Và cúng dường người trì.
Người nói kinh pháp này
Thương xót các chúng sinh
Lớn tiếng giữa cõi đời
Đến giáo hóa muôn loài,
Nếu ai trì kinh này
Trọn đời luôn tinh tấn
Tâm dũng mãnh tự đến
Thương xót các chúng sinh
Muốn sinh đâu tùy ý
Rốt sau vào cõi đời
Theo duyên ấy được gặp
Kinh điển tối thượng này
Và sẽ được cúng dường
Hương hoa của trời, người
Yphục và tàng lọng
Thường cúng cho Pháp sư
Luôn kính người ấy
Như cung kính Phật
Chắp tay làm lễ
Thánh đạo tự nhiên
Vào đời sau chót
Gặp được kinh này.
Phật diệt độ rồi
Thọ trì đọc tụng
Phải luôn cúng dường
Như tôn phụng Phật
Các loại đồ ăn
Đầy đủ vị ngon
Phòng ốc giường nằm
Vô số y phục
Một lần được nghe
Cung phụng như thế
Người ấy sẽ được
Như Lai thọ ký
Ta khiến vị ấy
Sinh vào nhân gian
Đến đời sau cùng
Gặp được kinh này
Giả sử người nghe
Biên chép thọ trì
Thì ngay khi ấy
Phật hiện trước mặt
Phỉ báng Như Lai
Trọn cả một kiếp
Trong lòng ôm hận
Sắc mặt biến đổi
Kẻ ấy liền gặp
Vô số họa vương.
Giả sử có người
Thọ trì kinh này
Rồi phân biệt nói
Vì người giảng giải
Mà ai phỉ báng
Thì bọn người này
Tội còn nặng hơn
Không thể kể xiết.
Giả sử có người
Hiện tiền khen Phật
Hai tay chắp lại
Trọn trong một kiếp
Thanh tịnh chí thành
Tôn vinh Phật đạ o
Ức trăm ngàn vạn
Người nào tán tụng
Ca ngợi Pháp sư
Khởi tâm hoan hỷ
Người ấy được phước
Chẳng thể cùng tận,
Do đã tán dương
Đức bậc trí sáng
Người ấy được phước
Hơn hẳn người trên.
Rồi có người đến
Cúng dường người học
Ở trong mười tám
Ngàn muôn ức kiếp
Ngườí ấy cúng dường
Món ăn trân quý
Hương hoa cõi trời
Nhẹ mềm đẹp đẽ
Trong vô số kiếp
Mười tám ngàn muôn
Vui vẻ hòa nhã
Chịu khổ hiến cúng
Nếu có một lần
Nghe được kinh này
Được vui lợi ích
Không gì sánh kịp.
Phật bảo Bồ-tát Dược Vương:
- Ta đã có lần tuyên bố là kinh điển mà ta đã nói trước, sau nhiều vô lượng, kinh điển vừa nói và đang nói cũng rất nhiều, so với tất cả các pháp thế gian thì danh vị rõ ràng bao quát, cao cả đệ nhất; những người không tin, không ưa trong khắp thiên hạ, đối với Như Lai Chánh giác không hủy hoại được, chúng ở trong chỗ vắng, theo rình hại Pháp sư thọ trì kinh này, nhưng được oai lực của Như Lai hộ trì, nên chúng không thể phá hoại được, chính là nhờ đời trước đã từng được nghe kinh này. Đức Như Lai hiện còn, có người nghe kinh này, nhưng phần nhiều phỉ báng, huống là sau khi Như Lai diệt độ, khó mà gặp được. Nếu ai có chí nguyện mong cầu thì sẽ được che chở. Quán thấy thiện nam, tín nữ như thế. Các Đức Như Lai hiện tại ở thế giới khác đều chiếu cố. Do tự thân ghi nhớ những pháp đã được nghe nhờ sức tin tưởng, sức thiện căn, sức chí nguyện, nên họ được ở một chỗ trong nhà Như Lai, đó là do cùng loại phước đức nên được như thế.
Cầu nước cam lộ của Như Lai, đặt trọn niềm tin vào tay Phật, đó chính là do hạnh nguyện dời trước mà đạt được. Sau khi Phật diệt độ, nếu có người tin tưởng kinh Chánh Pháp Hoa này mà thọ trì, sao chép, cúng dường, làm theo, vì người khác giảng thuyết thì phước đức cũng bằng như thế.
Phật bảo Bồ-tát Dược Vương:
- Nếu có người thường giảng dạy, sao chép, đọc kinh này thì ở chỗ người ấy, nên lập chùa thờ Phật, dùng nhiều châu báu xây dựng cho cao rộng, to lớn, không cần phả i thờ xá-lợi Phật. Vì sao? Vì trong ấy đã chứa tất cả xá-lợi của Như Lai. Nơi nào có nói kinh pháp này thì nên phúng tụng, ca vịnh, sao chép; sao chép trên tre, lụa thành quyển kinh rồi, nên cung phụng như là chùa tháp Phậ, hướng về làm lễ, cúng dường tất cả hương hoa, các loại hương thơm, hương xông, đờn cầm, đờn sắc, không hầu, tràng phan, lọng gấm. Nếu có chúng sinh nào muốn có chùa Phật để cung kính lễ bái thì nên gần gũi kinh pháp Vô thượng này.
Lại bảo Dược Vương:
- Có nhiều Bồ-tát xuất gia hành đạo và phàm phu bạch y hành pháp Bồ-tát không thể gặp được kinh điển ấy để đọc tụng, sao chép, cúng dường; có vị hành hạnh Bồ-tát, hiểu rõ quyền nghi, giả sử được nghe cảnh giới Phật, pháp hạnh và việc làm của Bồ-tát mà tin tưởng ưa thích, thâm nhập pháp ấy, diễn đạt rõ ràng, liền nhận được sự cúng dường; ở trên tòa ngồi, sắp đạt đến đạo Vô thượng chánh chân. Nếu có người gặp bậc Bồ-tát ấy, thâm nhập ý nghĩa này thì phước đức không thể kể xiết.
Ví như một người quá khát tìm nước, bỏ nơi đất bằng mà đào tìm nước nơi gò cao, ngày ngày ra công đào xới nhưng chỉ thấy đất khô ; trải qua nhiều ngày tháng nhưng mạch nước ngầm vẫn xa xăm, nên không có nước. Lại vào thời gian khác, người ấy đào đất rất sâu mới thấy nước bùn, dơ bẩn không thế uống được. Người ấy phải làm sao? Người ấy không chán nản, đào xuống thêm nữa thì có nước. Khi ấy, người kia thấy hiện tượng tốt thì không còn hồ nghi, không còn do dự nữa, tự nhủ: “Ta bỏ công sức, trải qua ngày tháng, bây giờ mới gặp được nước.”
Cũng như vậy, này Dược Vương, nếu có Bồ-tát nghe kinh điển này mà không thọ trì, tụng đọc, học hỏi thì cách đạo Vô thượng chánh chân còn rất xa vậy. Những v ị tu tập Bồ-tát hạnh ấy, nếu nghe kinh Chánh Pháp Hoa này mà đọc tụng, chuyên cần tu tập, tâm luôn ghi nhớ và theo đó thực hành, thì mới mau thành tựu quả vị Tối Chánh giác.
Tất cả Bồ-tát, nếu có vị nào không chịu thọ trì, đọc tụng, tu hành (kinh này) thì không thể đạt được đạo Vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác. Vì sao? Trước đây ta đã từng tuyên bố thế này: “Nếu có người không ưa thích kinh này thì còn cách các Đức Như Lai rất xa.” Kính này là đầu mối của đạo pháp, là cội nguồn trí tuệ, thành tựu cho chư Bồ-tát. Nếu có Bồ-tát nghe kinh này kinh hãi sợ sệt và không ưa thích thì nên biết vị ấy là Bồ-tát sơ học. Nếu không kinh sợ thì đó là vị tu hạnh Bồ-tát đã lâu. Nếu Thanh văn gặp được kinh pháp này mà kinh hãi sợ sệt thì kẻ ấy có tâm kiêu mạn, phóng túng.
Phật nói với Dược Vương:
- Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có Bồ-tát Đại Sĩ muốn đem kinh này nói cho bốn bộ chúng, thì phải mặc áo Như Lai, ngồi tòa Sư tử của Thế Tôn, sau đó mới tuyên thuyết kinh này cho bốn bộ chúng. Thế nào là mặc áo Như Lai? Đó là tâm nhẫn nhục, nhu hòa, an ổn; như vậy gọi là mặc áo Như Lai. Các thiện nam phải tu tập tâm ấy. Thế nào là ngồi tòa Sư tử của Thế Tôn? Hiểu rõ tất cả pháp đều là Không tịch, an trú Vô tướng, Vô nguyện, đó gọi là ngồi tòa Sư tử của Thế Tôn.
Các thiện nam phải an trụ vào chỗ ngồi như thế rồi mới đem kinh pháp này rộng nói phân biệt cho hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Trời, Rồng, Quỷ, Thần; tâm vị ấy dũng mãnh không khiếp nhược, chí theo đạo lớn giảng bày cho bốn chúng. Vị thiện nam ấy, nếu ở thế giới tại phương khác, hóa làm người và quyến thuộc hay Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di truyền bá pháp này, nhưng nếu có người nghe mà không ưa thích thì ta liền làm cho họ vui vẻ , khiến họ ưa thích. Nếu ở chỗ vắng vẻ, đồng trống có Trời, Rồng, Kiền-đạp-hòa, A-tu-luân, Ca-1ưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, ta sẽ sai hóa nhân nói kinh pháp cho họ. Tuy ta ở quốc độ khác, cũng tự hiện thân khiến mọi người trông thấy. Nếu người thọ trì kinh điển này mà chẳng nhớ hiểu nghĩa kinh, quên mất thứ tự thì ta sẽ khiến cho người tụng đọc, học hỏi, nương vào oai thần của ta mà thấu đạt được thứ tự, ý nghĩ.
Khi ấy Đức Thế Tôn liền nói kệ:
Dứt bỏ hết khiếp nhược
Nên lắng nghe kinh này
Pháp này khó gặp được
Người tin cũng khó gặp
Như người muốn tìm nước
Đào tìm ở gò cao
Dù luôn luôn gắng sức
Chỉ thấy đất khô thôi.
Vị ấy thấy tự nghĩ
Nước ấy còn rất xa.
Tiếp tục đào sâu xuống
Lại gặp đất khô cằn
Sau đó đào càng sâu
Dần thấy đất ướt hiện
Khi đó lòng hết nghi
Nay đã gần tới nước.
Ai không nghe kinh này
Chẳng thường luôn tu hành
Người ấy cách xa đạo
Cách tuệ Phật cũng thế,
Kinh này rất cao vời
Rõ các việc Thanh văn
Nghe kinh tối cao này
Nghe rồi suy nghĩ nghĩa
Thì được gần đạo lớn.
Người trí thành Thánh tuệ
Giống như thấy đất ướt
Mới biết là có nước
Nên vào nhà của Phật
Mặc áo của Như Lai
Ngồi Thánh tòa Như Lai
Người trí nói điều này
Lòng từ là vào nhà
Nhẫn, nhu hòa là áo
Hiểu “Không”, tòa Sư tử
Rồi nói không sợ sệt
Bị dao, ngói, đá đánh
Bị người khác nhục mạ
Vì để nói pháp này
Ta đều nhẫn lời ấy
Dạo trong ngàn ức cõi
Thân ta vẫn kiên trì
Số kiếp chẳng nghĩ bàn
Vì chúng sinh phân biệt
Sau khi Phật diệt độ
Vì chúng trừ oán kết
Khiến nhiều các hóa nhân
Để nói kinh điển này
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni
Thiện tín nam và nữ
Nên cúng những vị ấy
Và những vị đến nghe
Đá, gậy đánh, mắng nhiếc
Ôm hận, nói lời ác
Nếu có điềm dữ này
Hóa nhân sẽ răn dạy.
Giả sử ở một mình
Phúng tụng và tu tập
Chẳng bị tiếng hung dữ
Đến thẳng chốn an tịnh
Tại đó ngườỉ ấy tu
Ngày đêm chỉ một mình
Ta sai người đến cùng
Làm bạn, thuyết kinh này.
Người ấy biện tài
Không gì vướng mắc
Nhiều tài, thấu rõ
Thuận theo các pháp
Khiến người hân hoan
Ức trăm ngàn vạn
Giống sự kiến lập
Của chư Phật thánh
Giả sử có người
Chẳng nương pháp ấy
Thì gọi họ là
Các nghịch Bồ-tát
Người học, du hành
Hoặc ngồi tại chỗ
Được thấy chư Phật
Như cát sông Hằng. Phẩm 11: THÁP BẢY BÁU
Lúc bấy giờ, trước Phật, có tháp bảy báu từ đất hiện lên, cao hai vạn dặm. Vừa hiện lên, nhiễu Phật, rồi vọt lên trụ trên hư không. Tháp ấy màu sắc đẹp đẽ lạ thường, biến đổi ngàn màu; có năm loại hoa rải trên tháp ấy, rơi lả tả như tuyết. Giảng đường của tháp đẹp đẽ trang nghiêm, do vô số vật báu hợp lại tạo thành; trăm ngàn lan can, cửa sổ, cửa lớn, chẳng thể kể xiết; các loại tràng phan, tàng lọng treo rủ xuống; ngọc báu anh lạc, các thứ minh châu đầy khắp hư không giống các vì tinh tú ; trong lư hương, bình báu đầy ắp các loại danh hương; mùi gỗ Chiên-đàn tỏa ngát hương thơm cùng khắp. Dùng vàng bạc, lưu ly, thủy tinh, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não của các cõi Phật trong tam thiên đại thiên thế giới làm lọng báu; lọng ấy cao tận từng trời thứ nhất. Chư Thiên cõi trời Đao-lợi và Tứ Thiên vương đều rải hương hoa cúng dường tháp bảy báu.
Trong tháp ấy, tự nhiên phát ra tiếng khen ngợi: “Lành thay, lành thay! Thế Tôn an trú, đúng như đã nói, đạo đức huyền diệu, cao vời không ai sánh bằng, trí tuệ bình đẳng giống như hư không, chân thật, không gì sai khác.”
Khi ấy bốn bộ chúng thấy tháp bảy báu ở trên hư không cao lớn vi diệu, ánh sáng chiếu rực, soi chiếu khắp nơi, đều khen: “Lành thay!” và mừng vui phấn chấn, đứng chắp tay, chiêm ngưỡng không chán.
Lúc đó có vị Bồ-tát tên là Đại Biện thấy chư Thiên, loài người, trong lòng do dự, vừa lo, vừa mừng, muốn biết hiện tượng này là gì, nên liền đến trước Phật thưa hỏi:
- Kính bạch Thế Tôn! Nay vì duyên cớ gì mà tháp bảy báu cao rộng vô cùng, hiện ra trước Thế Tôn ai ai cũng thấy? Bảo tháp ấy còn tự nhiên phát ra lời khen ngợi “Lành thay!” Do cảm ứng điều gì mà có hiện tượng này?
Thế Tôn bảo với Bồ-tát Đại Biện:
- Trong tháp báu này, có thân Như Lai nguyên vẹn hoàn toàn, không có khuyết hoại. Tại thế giới chư Phật ở phương Đông, cách đây không thể tính biết, có Đức Phật hiệu là Đa Bảo, tên nước là Bảo tịnh, khi còn hành đạo đã tự phát nguyện: “Ta sẽ quyết dùng kinh Chánh Pháp Hoa này để tu hành đạo, khiến các Bồ-tát đều được nghe. Sau đó mới ngồi dưới gốc cây Bồ-đề, chứng thành đạo Vô thượng chánh chân.” Do chí nguyện ấy của Phật cho nên kết quả đúng như lời nguyện, Ngài đã giảng thuyết kinh pháp khắp mười phương khai hóa tất cả chúng sinh đều được thành tựu đạo quả. Khi sắp diệt độ, Đức Phật đã dạy chư Thiên, người thế gian và chư Tỳ-kheo: “Sau khi ta diệt độ, phải phụng thờ thân Như Lai, bảo toàn thân ấy một cách hoàn hảo và an trí trong một ngôi đại tháp. Nếu ai thấy tháp ấy, thì biết là có Như Lai trong đó, công đức người ấy khó lường.”
Bấy giờ, Đức Phật đã lập lời nguyện rộng lớn thế này: “Ở mười phương thế giới, nơi nào có giảng kinh Pháp Hoa này, thì tháp bảy báu của ta sẽ hiện ra trước chỗ Phật nói kinh ấy, thân xá-lợi ở trong tháp bảy báu sẽ khen rằng: “Hay thay!”
Phật bảo Đại Biện:
- Tháp bảy báu ấy ở cõi phía dưới về phương Đông, cách đây vô lượng hằng hà sa cõi Phật, trụ giữa hư không, chưa từng xuất hiện. Đức Phật ấy nay thấy ta, Đức Năng Nhân Như Lai, Bậc Chánh Giác, khi tu hành đạo Bồ-tát, vì chúng sinh không tiếc thân mạng, tinh tấn không giải đãi, thực hành phương tiện khéo léo, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ, xin đầu cho đầu, xin mắt cho mắt, xin mũi cho mũi, xin tai cho tai, cho đến tay, chân, các bộ phận trong thân, vợ con, người hầu, bảy báu, xe cộ, voi ngựa, y phục, quốc thành, tụ lạc, tùy ý người xin, không có tâm luyến tiếc, cho đến khi đắc Phật quả, nên hiện đến đây để thăm ta và muốn ta ngồi trê n tòa vàng sư tử của Ngài để giảng kinh Chánh Pháp Hoa, khai hóa cho tất cả chúng sinh, khiến họ đều được thấm nhuần ân đức của Đức Phật Thích-ca liền theo đúng như nguyện của Đức Phật ấy, lên ngồi trên sư tử ở giảng đường, phân biệt, giảng thuyết kinh Chánh Pháp Hoa, rồi nói bài tụng:
Ai nghe Phật Đa Bảo
Biết danh hiệu của Ngài
Trước sau chưa từng sợ
Lại không gặp nạn khổ,
Nếu nghe tên Dược Vương
Và nhớ danh hiệu Ngài
Các bệnh tự lành dứt
Liền biết được túc mạng.
Tất cả sự cúng dường
Kính pháp là hơn hết
Phân biệt không, vô tuệ
Tự đắc thành Phật quả,
Nói thông kinh Pháp Hoa
Để chỉ hàng thấp kém
Hiểu vốn không ba thừa
Chỉ một thừa Vô thượng.
Phật bảo Đại Biện:
- Nay Đức Đa Bảo Như Lai Chí Chân, ở trong tháp ấy, xa nghe ta thuyết kinh Pháp Hoa này, cho nê n xuất hiện, khen ngợi: “Lành thay!”
Bồ-tát Đại Biện lại thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Chúng con cùng các vị trong pháp hội này nay muốn được chiêm ngưỡng thân tướng của Đức Phật Đa Bảo. Cúi xin Thế Tôn thương xót gia ân, dùng oai thần khiến cho người trong chúng hội đều được phát tâm đạo lớn.
Phật bảo Bồ-tát Đại Biện:
- Đức Phật Đa Bảo vốn cũng đã phát nguyện: “Tháp của ta đến phương nào để nghe kinh điển này, nếu chư Như Lai và bốn bộ chúng muốn thấy thân ta thì tùy theo ước muốn đó, tất cả mười phương Phật đều phải được thấy, đều cùng cúng dường hóa tượng này.” Này Đại Biện muốn biết thân ta cũng phải cảm được mười phương chư Phật khiến cho hóa thân của Như Lai ở tất cả thế giới đang thuyết pháp đều về nơi đây.
Bấy giờ Bồ-tát Đại Biện lại thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn thương xót gia ân làm hiện rõ thánh đức của chư Phật trong tất cả mười phương quốc độ!
Đức Phật im lặng nhận lời, tức thời từ nơi lông trắng giữa đôi mày phóng ra hào quang vi diệu, chiếu khắp năm trăm hằng hà sa số, ức trăm ngàn quốc độ của chư Phật. Tất cả Thế Tôn đều hiện rõ ngay nơi quốc độ của các Ngài, ngồi dưới cội cây, trên tòa Sư tử trang nghiê m kỳ diệu và với vô số trăm ngàn Bồ-tát ngồi trên tọa cụ tốt đẹp, trang nghiêm bằng châu báu, đẹp đẽ lạ thường; dây lụa, tràng phan, bảo cái treo rủ xuống bốn phía tòa ngồi của chư Phật. Các Ngài đang vì chúng sinh giảng thuyết kinh pháp, âm thanh nhu hòa ai cũng thông hiểu. Trăm ngàn Bồ-tát mở lòng thọ nhận những điều đã nghe. Vô số trăm ngàn vạn ức hằng hà sa thế giới chư Phật ở bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc, phương trên và phương dưới cũng đều như thế, không đâu là không thấy.
Khi ấy chư Phật ở mười phương đều bảo với chư Bồ-tát:
- Các thiện nam! Các ông nên đi đến thế giới Kham nhẫn thăm viếng Đức Phật Như Lai Năng Nhân Chí Chân và chiêm ngưỡng hình tượng cùng tháp của Đa Bảo Thế Tôn.
Lúc bấy giờ, ở thế giới Kham nhẫn tất cả công đức lành huân tập và oai thần vi diệu, đặc thù đều tự nhiên hiện ra; các cây bảy báu xuất hiện chung quanh; mặt đất biến thành lưu ly xanh biếc, dây bằng vàng ròng giăng dài, nối tiếc trang hoàng tám giao lộ mặt đất bằng phẳng; các quận, huyện, ấp, xóm làng, biển rộng, song ngòi, khe suối đều không hiện ra mà tự nhiên chỉ thấy lò hương của chư Thiên đốt các loại danh hương và hoa trời rải khắp. Ở cõi Phật này, khi ấy chư Thiên và nhân dân được dời đến cõi Phật khác. Các chúng hội hiện tại ở trong màn trang hoàng bằng bảy báu đan xen nhau. Các bức màn (bảy báu) đan xen này trang nghiê m đẹp đẽ lạ thường, chẳng thể tả xiết, khắp cùng cõi Phật này.
Khi ấy, tất cả chư Phật mười phương, mỗi vị đều có thị giả cùng nhau đi đến thế giới Kham nhẫn này. Các Ngài đều đến dưới những cây báu; các cây báu này cao hai vạn hai ngàn dặm, cành lá sum suê, hoa quả tươi tốt; dưới các cây ấy có giường sư tử cao hai vạn dặm, tòa ngồi đều làm bằng các loại châu báu. Như Lai ngồi trên tòa cũng giống như thế. Trong thế giới tam thiên đại thiên này, chỉ thấy chư Phật hiện ra khắp nơi, nhưng chẳng phải là do Đức Như Lai Thích-ca Văn Chí Chân Đẳng Chánh Giác biến hiện ra mà tất cả đều từ các cõi Phật ở mười phương đến đây, hiển thị oai đức của đạo lớn tối thượng.
Lúc bấy giờ ở tám phương, mỗi phương có hai vạn ức quốc độ của các hóa thân Như Lai do Đức Thế Tôn Thích-ca Văn Phật biến hóa ra, đều không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh; chư Thiên và A-tu luân được dời đến thế giới chư Phật ở phương khác, mặt đất bằng lưu ly xanh biếc của hai vạn ức cõi Phật đều hóa sinh ra cây bằng bảy báu; các cây báu ấy cao hai vạn, hai ngàn dặm, cành lá hoa quả sum suê tươi tốt; các tòa Sư tử cao hai vạn dặm. Các cõi Phật ấy đều bằng phẳng, không có sông biển, khe suối, cũng không có các núi như: núi Mục-lân, Đại Mục-lân, núi chúa Tu-di, núi Thiết vi, núi Đại Thiết vi; tất cả các nơi trong cõi Phật, mặt đất đều bằng phẳng, do bảy báu tạo thành, trang nghiêm đẹp đẽ. Tại các giao lộ báu, vui vẻ vô cùng, rải đầy các loại hoa, đốt các danh hương. Dưới các cây báu đều có chư Như Lai ngồi trên tòa Sư tử. Cũng giống như thế, lại riêng có hai vạn thế giới của Đức Phật Năng Nhân, mỗi thế giới trang nghiêm cho các phương, hiển bày thanh tịnh, đều vì chư Phật tạo thành các cõi Phật. Những cõi Phật ấy cũng không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, các hàng Rồng, Quỷ, Thần và A-tu-luân; chư Thiên và nhân dân cũng được đến cõi Phật khác. Mặt đất của các cõi Phật này bằng lưu ly xanh biếc, dùng vàng ròng màu tía làm dây báu nối tiếp giữa các hàng cây ở tám giao lộ; các cây ấy cao lớn đẹp đẽ, tòa Sư tử cũng trang nghiêm đẹp đẽ như trước đã nói; mặt đất bằng phẳng, không có núi, sông, biển…, hương hoa, các báu, ngọc ngà đan xen, ngọc minh nguyệt rủ xuống, cũng giống như trước; đường xá giao thông đi lại cũng như trên, không khác.
Lúc bấy giờ các Đức Như Lai, hóa thân của Đức Phật Thích-ca Văn, tại hằng hà sa cõi Phật ở phương Đông đang thuyết giảng pháp cũng đều đến; ba ngàn ức Đức Phật Chánh giác ở mỗi phương trong mười phương thế giới cũng đều đến thế giới này. Các Đức Như Lai đều ngồi trên tòa Sư tử báu, mỗi vị đều lấy hoa sen báu trao cho các thị giả và bảo: “Các thiện nam! Các ông hãy đi đến núi Kỳ-xà-quật, chỗ của Đức Phật Năng Nhân, nói danh hiệu của ta, rồi ân cần thăm hỏi Thánh thể, sức lực, sự đi lại của Đức Phật có được khỏe mạnh, an lành chăng? Rồi đem những hoa này, rải cúng dường trên Đức Phật cùng các đệ tử Bồ-tát và chuyển lời của ta là đã khai hóa được nhiều.”
Khi ấy Đức Như Lai Thích-ca Văn Chí Chân thấy các hóa thân Phật đều ngồi trên tòa Sư tử và các thị giả đã đến rải hoa cúng dường, liền rời khỏi chỗ ngồi, trụ trên hư không; bốn bộ chúng cũng đều đứng đậy chắp tay. Đức Phật dùng ngón tay mở cửa giảng đường của tháp bảy báu, ánh sáng tự nhiên xuyên suốt như ánh mặt trời. Giống như cửa thành lớn mà lấy chốt cửa đi thì trong ngoài thông suốt, Đức Phật Thích-ca Văn dùng hai ngón tay mở cửa giảng đường tháp bảy báu, hiển bày oai đức chẳng thể nói hết, cũng lại như thế. Như Lai mở cửa thảp bảy báu này, thân của Phật Đa Bảo Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác liền hiện ra, ngồi trên tòa Sư tử, màu da tươi nhuận như thường, không bị khô nám, sắc tướng đoan nghiêm, đẹp như tranh vẽ, miệng lại phát ra lời: “Lành thay, lành thay! Phật Thích-ca Văn thuyết kinh điển này, còn gì vui hơn. Ta vì muốn nghe kinh Pháp Hoa này nên tự xuất hiện.”
Khi ấy bốn bộ chúng thấy Như Lai Đa Bảo Chí Chân Đẳng Chánh Giác, biết là Ngài diệt độ, cách đây trăm ngàn ức kiếp không thể kể xiết, và nghe lời khen: “Lành thay!” thì vô cùng kinh ngạc, cho là từ trước chưa từng có, liền dùng hoa trời rải cúng Đức Phật Thích-ca Văn Phật và Đức Như Lai Đa Bảo. Đức Phật Đa Bảo liền nhường nửa bảo tòa cho Đức Phật Thích-ca. Trong tháp bảy báu có tiếng vang ra: “Xin mời Phật Thích-ca ngồi vào tòa này!” Đức Phật Thích ca liền làm theo lời. Hai Đức Như Lai cùng ngồi một chỗ, trên tòa Sư tử trang trí bằng bảy báu, ở trên hư không.
Khi ấy trong bốn bộ chúng, mỗi người đều suy nghĩ: “Chư Phật chí chân, đạo đức cao viễn không ai có thể sánh bằng, vòi vọi khó lường, không thể kể xiết. Cúi xin Như Lai đoái thương cứu xét gia ân, dùng oai thần khiến chúng con đều được lên hư không.” Đức Phật biết tâm niệm đó, liền hiện thần lực, khiến bốn chúng tự nhiên vọt lên ở trên hư không.
Bấy giờ Đức Phật Thích-ca bảo với bốn chúng Tỳ-kheo:
- Ở trong cõi Kham nhẫn này, ai có khả năng đảm nhận thuyết kinh điển này nay chính là lúc, cũng là cơ hội lớn. Nếu sau khi Như Lai hiện tại diệt độ, thì nên thọ trì, phúng tụng pháp này. Nay Như Lai cũng sắp diệt độ, Tỳ-kheo nên thôi cúng dường, phụng sự Như Lai mà phụng thờ, cung kính kinh này.
Khi ấy Phật nói kệ:
Đại Thánh vô thượng
Đã đế nơi đây
Do Phật đã hiện
Bảo tháp diệu kỳ
Tỳ-kheo muốn biết
Người xưa nghe pháp
Ai biết việc này
Mà chẳng tinh tấn
Diệ t độ đến nay
Đã vô số kiếp
Hôm nay lại muốn
Nghe kinh điển này
Cho nên đến đây
Vì tuyên giáo pháp
Được độ vô cùng
Giáo pháp thiện lợi
Ở đời quá khứ
Tự phát thệ này
Nguyện của Đạo sư
Chính là điều ấy
Diệt độ đến nay
Lâu xa cũng vậy
Nay lại hiện ra
Mười phương thế giới
Tự tại đến đây
Từ xa xôi đến
Số ức trăm ngàn
Như cát rạch sông
Cũng vì kinh này
Mà đến nơi này
Đã diệt độ rồi
Mà tự hiện ra
Dạo chơi tất cả
Ở các quốc độ
Thấy tất cả ưa
Hạnh của Thanh văn
Nên muốn hộ trì
Đối vớí chánh pháp
Vì lý do gì
Kinh trụ dài lâu?
Bởi vì nhờ vào
Đạo của chư Phật
Ở trong vô số
Thế giới chư Phật
Chúng sinh tụ hội
Đi đến cõi này
Sửa sang nghiêm tịnh
Nhờ sức thần túc
Ai cũng tự nói
Nghĩa rộng như thế
Do đâu được nói
Ở Pháp nhãn này
Chư Phật ở đây
Chẳng thể kể xiết
Ngồi ở dưới cây
Nơi chốn đạo tràng
Thân tướng đoan nghiêm
Muôn vàn cao cả
Các Bậc Đạo Sư
Ngồi tòa Sư tử
Thanh tịnh trang nghiêm
Sáng như mặt trời
Như ánh đại quang
Phá tan bóng tối
Hương thơm dìu dịu
Xông khắp mười phương
Dâng lên cúng dường
Thương xót cuộc đời
Các Ngài độ thoát
Tất cả chúng sinh
Ân đức thấm nhuần
Khắp cả nơi đây.
Sau khi ta diệt độ
Người trì kinh điển này
Sẽ mau được thọ ký
Sẽ gặp được Đạo Sư
Sau khi Phật diệt độ
Đức Từ phụ Đa Bảo
Thấy được tòa Sư tử
Trong tháp báu hiện lên
Kế là thân của ta
Ngàn ức đến nơi đây
Chỉ vì Bậc Tối Thắng
Giảng nói kinh điển này.
Nếu nghe pháp này
Thọ trì rốt ráo
Tức là phụng sự
Quy mạng thân ta
Và Đức Đa Bảo
Như Lai tôn quý
Phụng sự chư Phật
Hiện tại mười phương
Và trong tương lai
Kính thờ chư Phật
Trang nghiêm Thánh thể
Đẹp đẽ vô cùng
Đều vì cúng dường
Đầy đủ vô hạn
Vì người tuân theo
Thọ trì kinh này
Vì từng gặp ta
Nghe ta thuyết giảng
Cũng lại được thấy
Thế Tôn trong tháp
Và thấy vô số
Các bậc Đạo Sư
Từ trăm ngàn ức
Quốc độ đến đây.
Thiện nam tử, khéo nghĩa
Thương xót các chúng sinh
Nơi đây thật khó gặp
Chốn Đạo sư ưa thích.
Vô số các kinh điển
Giống như cát trong sông
Phật tuy nói kinh ấy
Chưa phải là kỳ đặc.
Người dùng tay đỡ nhấc
Núi Tu-di kia lên
Nhảy qua ngàn ức cõi
Không đủ cho là khó,
Dù có người phân biệt
Nói trăm ngàn chứng cứ
Nghe khắp các cõi Phật
Không đủ cho là khó,
Hoặc trụ cõi cao nhất
Vì trời người giảng pháp
Tuyên nói vô số kinh
Cũng không là kỳ diệu
Sau khi Phật diệt độ
Mạt pháp năng thọ trì
Tuyên nói kinh điển ấy
Như vậy mới kỳ đặc,
Hoặc chỉ dùng một tay
Nắm trọn cả hư không
Cho đến chỗ vô cùng
Không đủ cho là khó
Sau khi ta diệt độ
Nếu quay về Thánh tượng
Sao chép kinh điển này
Mới gọi là kỳ đặc,
Hoặc lấy mười phương cõi
Để trên đầu móng chân
Đem đi đâu tùy ý
Lên để cõi Phạm thiên
Việc này không phải khó
Tinh tấn không gì lạ
Không bằng ở đời sau
Khoảnh khắc đọc kinh này
Giả sử gặp kiếp thiêu
Mang cỏ đi trong lửa
Nhưng vẫn không bị cháy
Không đủ cho là lạ
Sau khi ta diệt độ
Nếu thọ trì kinh này
Và vì người giảng nói
Như vậy mới thù đặc
Nếu có người thọ trì
Tám vạn các Pháp tạng
Nói đúng như đã nói
Khai thị ngàn vạn người
Tỳ-kheo ở thời ấy
Khai hóa chư Thanh văn
An trụ trong thần thông
Cũng chưa lấy làm lạ
Nếu trì kinh điển này
Vui tin và ưa thích
Luôn học hỏi, ngợi khen
Như vậy mới thù thắng
Dù kiến lập vô số
Ức ngàn ngôi bảo tháp
Nhờ Đại thánh lục thông
Nhiều như cát sông Hằng.
Sau khi Phật diệt độ
Nếu ai trì kinh này
Thì công đức người ấy
Khó ai vượt qua được
Trăm ngàn các thế giới
Thuyết pháp không kể xiết,
Nay ta cũng tuyên n ói
Phân biệt trí tuệ Phật
Trong tất cả các kinh
Kinh này là hơn hết.
Người phụng trì kinh này
Là thị giả chư Phật
Thiện nam tử gỉảng thuyết
Trước Như Lai hiện tại
Đời sau trì kinh này
Hiền thánh mới kham nhận
Trì kinh này phút chốc
Tức là phụng kính Phật
Và tất cả Đạo Sư.
Kinh này khó gặp được
Tất cả mười phương Phật
Hiện ra để ngợi khen
Người dũng mãnh oai thần
Đã đạt được thần thông
Danh đức nhuần thấm khắp
Chư Phật đều mến thương
Chỉ vì trì kinh này
Nên đạt được tịch định.
Đạo Sư diệt độ rồi
Vì các trời, loài người
Hiện làm người dẫn đường
Tuyên bố kinh điển này
Ở vào đời vị lai
Khoảng khắc nói kinh này
Thì tất cả chúng sinh
Đều cúi đầu đảnh lễ.
Lúc bấy giờ Đức Phật Năng Nhân nói với các chúng hội:
- Ta từ vô số kiếp khó thể tính đếm, cầu kinh Pháp Hoa chưa từng mệt mỏi. Khi làm quốc vương, ta tu sáu pháp Ba-la-mật, bố thí vàng bạc, pha lê, lưu ly, hổ phách, san hô, châu ngọc, xa cứ, mã não, đầu, mắt, da thịt, tay chân, các bộ phận cơ thể, vợ con, nam nữ, voi ngựa, xe cộ, chẳng tiếc thân mạng.
Lúc bấy giờ nhân dân sống lâu không thể tính đếm. Ta vì chánh pháp mà vứt bỏ ngôi vua, giao cho thái tử để đi cầu kinh điển lớn; đánh trống, khua mỏ, tuyên bố cho khắp cả trong và ngoài nước được biết là ai có khả năng vì ta mà diễn nói đại kinh điển thì ta sẽ làm nô bộc để cung phụng và sai xử. Khi ấy có một vị Phạm chí đến bảo: “Ta có kinh điển lớn tên là Chánh Pháp Hoa. Nếu chịu làm nô bộc của ta, ta sẽ ban cho.”
Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Ta nghe lời ấy rất vui mừng bèn theo phụng sự, hầu hạ vị Phạm chí ấy, cung cấp các thứ cần dùng như đồ ăn, thức uống; phục dịch quét dọn, lau chùi, đi hái rau quả , cất giữ lương thực, chưa từng mệt mỏi bỏ bê, hầu hạ cả ngàn năm mà không chán ngán.
Khi ấy Phật nói bài tụng:
Đánh trống gõ chuông
Tuyên bố xa gần
Muốn cầu đại điển
Kinh Chánh Pháp Hoa
Nếu ai ban cho
Ta làm người hầu
Đi theo phục dịch
Cấp thứ cần dùng
Cam lòng nghe theo
Không dám lười trễ
Đảm nhận cúng dường
Không màng sức khỏe
Chỉ muốn nghe được
Kinh Chánh Pháp Hoa
Nguyện khắp mười phương
Không phải vì mình
Vua ấy tinh tấn
Chưa từng nghỉ ngơi
Cung phụng áo cơm
Chẳng cầu ngon ngọt
Thương xót chúng sinh
Những kẻ chưa độ
Rồi vào khi ấy
Được kinh Pháp Hoa.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Quốc vương khí ấy chính là ta, còn vị Phạm chí chính là Điều-đạt. Nay ta đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật, đại Từ, đại Bi, thành tựu bốn tâm bình đẳng, đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thân sắc màu vàng ròng, mười Lực, bốn pháp Vô sở úy, bốn sự không bảo hộ, mười tám pháp Bất cọng, oai thần tôn quý, độ thoát mười phương đều là nhờ sức ân đức của Điều-đạt. Vô số kiếp về sau, Điều-đạt sẽ thành Phật hiệu là Thiên Vương Như Lai Chí Chân, Đẳng Chánh giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Độ Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu. Thế giới tên là Thiên cù.
Khi ấy Phật Thiên Vương rộng nói kinh pháp, hằng hà sa chúng sinh chứng quả A-la-hán, vô số không thể kể xiết người cầu Duyên giác thừa, hằng hà sa vô lượng nhân dân đều phát tâm đạo Vô thượng chánh chân, không thoái chuyển. Đức Phật ấy thọ hai mươi trung kiếp. Sau khi diệt độ, chánh pháp trụ hai mươi trung kiếp; xá-lợi không phân chia, để nguyên một chỗ, dựng tháp bảy báu, cao sáu mươi dặm, rộng tám mươi dặm để thờ. Người trong khắp thiên hạ đều đem hương hoa kỹ nhạc đến cúng dường và ca tụng công đức, nhiễu quanh bảo tháp làm lễ, số người chứng đắc quả A-la-hán không thể kể xiết; vô số người có chí cầu Duyên giác thừa; vô số chư Thiên, loài người không thể nghĩ bàn phát tâm đạo Vô thượng chánh chân, chí không thoái chuyển. Nếu thiện nam, thiện nữ được nghe kinh Chánh Pháp Hoa này mà trong tâm thông suốt, không còn hồ nghi, thì bít lắp ba đường, không đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, sẽ được sinh đến ở trước chư Phật mười phương, học hỏi, thọ trì chánh pháp; hoặc sinh về cõi trời nhân gian giàu có; hoặc tại trước Phật, tự nhiê n hóa sinh trong hoa sen bảy báu.
Khi ấy, vị Bồ-tát tên là Trí Tích, ở phương dưới, theo hầu Đức Thế Tôn Đa Bảo, thỉnh Phật Đa Bảo nên quay về bản quốc.
Đức Phật Năng Nhân liền bảo với Bồ-tát Trí Tích:
- Ta có vị Bồ-tát tên là Đoàn Thủ Đồng Chân, ông hãy đợi giây lát, cùng nhau gặp gở thà m hỏi vì xa vắng đã lâu và cùng giảng giải kinh điển, rồi sẽ về bản quốc-
Lúc đó Đoàn Thủ ngồi trên hoa sen bảy báu có ngàn cánh lớn như bánh xe và cùng với chư Bồ-tát khác cũng ngồi trên hoa sen báu, từ cung Long vương vọt lên khỏi biển lớn. Đoàn Thủ Đồng Chân rời khỏi hoa sen báu, đảnh lễ hai Đức Thế Tôn, xong rồi cùng Bồ-tát Trí Tích thăm hỏi nhau.
Bồ-tát Trí Tích hỏi Đoàn Thủ:
- Ngài đã vào biển sâu hóa độ được bao nhiêu?
Đáp:
- Số ấy vô lượng, không thể kể xiết, miệng chẳng nói hết, tâm không lường hết. Chẳng bao lâu nữa, sẽ tự ứng hiện.
Ngay lập tức một hoa sen từ biển vọt lên trụ trên hư không, có vô số Bồ-tát đều ngồi trên đó. Những Bồ-tát này đều do Đoàn Thủ đã hóa độ ở biển, đều phát tâm, chí cầu đạo Vô thượng chánh chân, cùng ở trên hư không giảng pháp Đại thừa. Những vị vốn phát tâm Thanh văn ở trên hư không nói hạnh Thanh văn nay đã hiểu biết Đại thừa.
Đoàn Thủ liền bảo với Trí Tích:
- Tại biển, tôi đã giáo hóa được như thế đó.
Bồ-tát Trí Tích dùng tụng để hỏi:
Ngài trí tuệ vô cùng
Ở biển, độ chúng sinh
Chỉ vì bày chánh giáo
Phân biệt nói pháp gì?
Đoàn Thủ đáp:
- Tại biển, tôi chỉ diễn nói kinh Chánh Pháp Hoa.
Trí Tích lại hỏi:
- Pháp ấy sâu xa, cao cả nhiệm mầu khó đạt, có ai có khả năng giác ngộ tức thời không?
Đoàn Thủ đáp:
- Có con gái của Long vương mới tám tuổi, thông minh, trí tuệ siêu việt khác thường phát tâm cầu đại đạo, chí nguyện rộng lớn, tánh hạnh hòa nhã, cử chỉ khoan thai, có thể thành Phật.
Trí Tích nói:
- Tôi thấy Đức Năng Nhân là Bậc Đại Sư khi còn làm Bồ-tát cầu Phật đạo đã tích chứa công đức, tinh tấn không biếng lười, trải qua số kiếp không thể tính đếm được, mới đạt quả vị Phật. Tôi không tin vị nữ nhân ấy có thể thành Phật được.
Nói chưa dứt lời, bỗng nhiên vị nữ nhân ấy xuất hiện, cúi đầu làm lễ, nhiễu Phật ba vòng, đứng sang một bên, khen ngợi:
Đạt công đức thù diệu
Hiện ba mươi hai tướng
Được chư Thiên cung kính
Rồng, thần đều quy ngưỡng,
Tất cả loài chúng sinh
Không ai không tôn phụng
Nay tôi muốn thành Phật
Thuyết pháp cứu quần sinh.
Khi ấy Xá-lợi-phất bảo với vị nữ nhân:
- Tuy Nhân giả đã phát tâm và có trí tuệ siêu việt nhưng không thể đắc quả Phật. Lại như thân nữ nhiều kiếp tinh tấn, chứa nhóm công đức cao vời còn không thành Phật được. Vì sao? Vì thân nữ không đạt được năm bậc: Một là Thiên đế, hai là Phạm thiên, ba là Thiên ma, bốn là Chuyển luân thánh vương, năm là Đại sĩ.
Khi ấy Long nữ liền lấy một viên ngọc như ý quý giá lập tức, dâng lên Đức Phật. Phật liền thọ nhận. Long nữ hỏi Xá-lợi-phất và Trí Tích:
- Tôi dùng viên ngọc ấy dâng cúng Thế Tôn, Thế Tôn nhận lấy có nhanh không?
Đáp:
- Rất nhanh!
Long nữ nói:
- Nay tôi đạt đạo Vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác còn nhanh hơn việc ấy.
Ngay khi ấy Long nữ ấy liền biến thành vị Bồ-tát nam tử và lập tức thành Phật, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt và các vẻ đẹp. Chúng hội đều thấy rõ quốc độ, biết rõ danh hiệu, cho là việc lạ lùng chưa từng có; vô số Trời, Người, Rồng, Quỷ thần đều phát tâm đạo Vô thượng chánh chân; ba ngàn thế giới đều hiện ra sáu loại chấn động; ba vạn vị Đạo tích (Thanh văn) cũng đạt tâm không thoái chuyển, đều sẽ thành đạo Vô thượng chánh chân. Xá-lợi-phất và Bồ-tát Trí Tích im lặng tin nhận. Phẩm 12: KHUYẾN THUYẾT
Lúc bấy giờ có Bồ-tát tên là Dược Vương, lại có Bồ-tát tên là Đại Biện cùng hai vạn Bồ-tát khác ở trước Đức Thế Tôn thưa:
- Cúi xin Đấng Đại Thánh hãy an nhiên tuyên giáo, chớ âu lo. Sau khi Thế Tôn diệt độ, chúng con sẽ cùng nhau phân bố, giảng thuyết kinh này để chỉ bày cho chúng sinh. Giả sử có người tánh tình ngang ngược tự chuyên không sửa đổi, đức mỏng vô phúc, tâm tánh tự đại, tham của cúng dường, không đủ căn lành xa lìa giải thoát, khó thể thành tựu thì bạch Thế Tôn, chúng con sẽ phát khởi sức nhẫn nhục, tại thế giới ấy, thọ trì kinh điển này, biên chép, đọc tụng, cúng dường phụng sự, mang theo bên mình. Ngoài ra, chúng con còn tuyên nói kinh này để báo ân an trụ.
Bấy giờ có năm trăm vị Tỳ-kheo Hữu học và Vô học trong chúng hội, bước tới bạch Phật:
- Kính bạch Thế Tôn! Chúng con xin đảm nhận tuyên bố kinh này. Lại nữa, bạch Thế Tôn chư vị Thanh văn Hữu học, Vô học của chư Như Lai ở thế giới khác, Ngài đã thọ ký thành đạo Vô thượng chánh chân. Tất cả đều chắp tay đảnh lễ Thế Tôn.
Lại có tám ngàn Tỳ-kheo bạch Phật:
- Xin Thế Tôn an tâm, chớ lo ngại. Sau khi Ngài diệt độ, chúng con sẽ giảng nói rộng rãi, truyền bá kinh này, cũng sẽ truyền bá ở thế giới khác. Vì sao? Vì ở thế giới Kham nhẫn này, con người nhiều kiêu mạn, cội đức nông cạn, tâm thường bị loạn động như bị lửa thiêu, mê hoặc trong ba cõi, chẳng thể tự an.
Lúc bấy giờ Tỳ-kheo-ni Đại Kính cùng sáu ngàn Tỳ-kheo-ni quỳ ngước nhìn Thế Tôn, không hề mệt mỏi và thưa với Đức Phật:
- Đấng Đạo Đức chí tôn, cao vời vô lượng, siêu tuyệt hư không, không ai sánh kịp!
Phật liền bảo:
- Kiều-đàm-di và các vị chớ ôm lòng lo âu, buồn rầu mà nhìn Thế Tôn như vậy. Các vị tưởng rằng Thế Tôn không đề cập đến, và không thấy thọ ký cho thành đạo Chánh giác chí chân Vô thượng ư? Tất cả chúng hội đều hòa đồng như nhau.
Khi ấy Đức Phật tuyên bố thọ ký cho mọi người sẽ đạt quả vị Vô thượng chánh chân, đều giống nhau không sai khác. Ngài bảoKiều-đàm-di:
- Về sau, người sẽ gặp và cúng dường phụng sự ba vạn tám ngàn ức Đức Phật, sẽ là Bồ-tát thường làm Pháp sư. Và sáu ngàn Tỳ-kheo-ni Hữu học và Vô học này vì các loàỉ chúng sinh cũng làm Bồ-tát Pháp sư. Tất cả lần lượt dầy đủ hạnh Bồ-tát rồi sẽ thành Phật hiệu là Nhất Thiết Chúng Sinh Hàm Kính Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Sau khi thành Phật, khai hóa nhân dân, tất cả đều lần lượt thọ ký cho nhau sẽ thành Phật, độ thoát vô số người không thể kể xiết.
Khi ấy vị Tỳ-kheo-ni, mẹ của La-vân và Tỳ-kheo-ni Trì Danh Văn tự nghĩ: “Nay Phật Thế Tôn không thương xót ta, chỉ riêng ta bị bỏ quên.”
Bấy giờ Đức Phật bảo với Tỳ-kheo-ni Danh Văn:
- Nay ta tuyên bố với chúng hội xa gần rằng, ngươi sẽ tu tập ở chỗ mười vạn ức Đức Phật, thường làm Pháp sư, phụng trì hạnh Bồ-tát, tuân theo đầy đủ, sẽ đắc quả Phật, hiệu là Cụ Túc Bách Thiên Quang Tràng Phan Như Lai, Chí Chân Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu, thế giới của Phật ấy tên là Nhân hiền. Bấy giờ hào quang oai thần của Phật ấy vô số trăm ngàn, thọ mạng vô hạn.
Tỳ-kheo-ni Đại Kính Quỳ và Tỳ-kheo-ni mẹ La-vân được điều chưa từng có, lo mừng lẫn lộn, liền nói kệ khen ngợi Phật:
Thế Tôn đã khai thị
Đấng Đạo Sư muôn loài
Khai hóa ở thế gian
Gồm cả trời và người
Đưọc trời, người cung phụng
Nay đây được an ủi
Bởi vì Đại Đạo Sư
Làm chúng con thỏa chí.
Tỳ-kheo-ni nói kệ xong, bạch với Đức Phật:
- Kính bạch Thế Tôn! Chúng con vui tin theo pháp huấn của Phật, nhận lãnh đọc tụng và truyền cho người khác và đến thế giới khác.
Khi ấy Đức Thế Tôn xoay nhìn tám mươi ức vạn trăm ngàn vị Tổng trì Khai sĩ (Bồ-tát), những bậc chuyển pháp luân bất thoái. Chư Bồ-tát thấy Phật nhìn đến, liền chắp tay bạch Phật:
- Cúi xin Thế Tôn giao phó kinh điển ấy cho chúng con để chúng con được giảng thuyết, lưu bố và để hiểu biết rõ ân đức của Phật.
Các thiện nam ấy hân hoan ngước nhìn Thế Tôn và cũng xét lại mình, đời trước đã thực hành hạnh nguyện bình đẳng, nên ở trước Đức Phật, lớn tiếng thưa:
- Sau khi Như Lai diệt độ, nếu kinh pháp này ở khắp mười phương, chúng con sẽ biên chép, thọ trì, phúng tụng, tư duy nghĩa lý, phân biệt truyền bá, và chỉ bày khai hóa người khác cũng làm như vậy và bằng hữu chúng con ở các cõi khác cũng làm theo lời Phật dạy. Xin Đại Thánh gia ân, dẫn dắt chúng con khiến được thành tựu.
Lúc bấy giờ các vị Đại sĩ Bồ-tát đồng lòng hiệp ý, ở trước Phật, nói bài tụng:
Cúi xin Thế Tôn
An nhiên lặng lẽ
Sau Phật diệt độ
Xiển dương lời Phật.
Mạt thế về sau
Sợ có hoạn nạn
Nên ban tuyên khắp
Phân biệt kinh này.
Nên bị người đánh, mắng
Dùng đá để ném, quăng
Đại Thánh trong đời sau
Gặp họa ác sẽ nhẫn
Giảng giải khó lãnh hội
Dua nịnh, si kiêu mạn
Về sau ở núi rừng
Không được nói có được.
Kẻ vô trí ở núi
Phải lấy gì giải đáp
Một mình buông thả tâm
Ôm lòng ác, không nhẫn
Ưa ở chỗ tiếng ác
Sẽ vì nói kinh pháp
Lời giảng ra quyết trừ
Giống như sáu thần thông
Hung bạo ôm tâm độc
Chỗ vắng hành ý này
Một mình vào chỗ vắng
Chẳng ưa sự mắng chửi
Cho chúng con không nhẫn
Đắm trước việc lợi dưỡng
Gọi là người ngoại đạo
Nói bố thí vì mình
Đối với kinh tinh tấn
Bới do của cúng dường
Ở trong chúng giảng thuyết
Là vì danh dự thôi
Hoặc đến cung của vua
Đại thần và quan thuộc
Phạm chí cùng trưởng giả
Hoặc chỗ Tỳ-kheo khác
Hủy báng chúng con ác
Việc làm như tà đạo
Chúng con đều nhẫn được
Luôn phụng hầu đại Thánh
Khi ấy lìa lo âu
Nếu đã nhẫn nhục được
Thì đem lời Phật dạy
Khuyên răn giáo huấn họ
Kiếp loạn, Tỳ-kheo tranh
Hung bạo rất kinh sợ
Mắng chửi hết chúng con
Các Tỳ-kheo như quỷ
Ở đời hành cung kính
Đều nhẫn được khổ nạn
Lấy thuận hòa mềm mỏng
Vì để nói kinh này.
Chúng con không ham thân
Cũng chẳng tiếc thọ mạng
Sẽ phụng trì kinh này
Chí nguyện thành Phật đạo.
Thế Tôn biết đầy đủ
Tỳ-kheo hung ác ấy
Về sau đời mạt thế
Sẽ phân biệt hiểu rõ,
Nhan sắc thường không vui
Luôn luôn phạm lầm lỗi
Du hành không đúng thời
Y phục không tề chỉnh.
Giả sử Phật diệt độ
Sau, vào thời mạt thế
Chúng con giữa chúng hội
Dũng mãnh nói kinh này
Nếu người cầu tịch diệt
Hoặc có điều mong cầu
Sẽ ban cho tại chỗ
Không xa rời Phật trí
Vì yêu thương cuộc đời
Nên tu tâm Từ bi
Thiểu dục, hành tri túc
Đạt diệt độ vắng lặng
Tất cả ánh sáng trần
Mười phương đều tụ hội
Lời chí thành chúng con
Biểu hiện tâm chân thật.
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.142.119.220 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.