8. Phẩm Năm trăm đệ tử được thụ ký
Lúc bấy giờ, ngài Phú-lâu-na được nghe Phật nói trí tuệ phương tiện thuyết pháp thích hợp, lại nghe Phật thụ ký cho các vị đại đệ tử sẽ thành tựu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng như nghe chuyện nhân duyên từ nhiều đời trước, lại nghe việc chư Phật có sức thần thông tự tại lớn lao nên tự thấy được việc chưa từng có, trong lòng thanh tịnh phấn chấn, liền từ chỗ ngồi đứng dậy bước đến trước Phật, cúi đầu chạm mặt lễ sát chân Phật rồi đứng sang một bên, chăm chú không rời mắt chiêm ngưỡng tôn nhan Phật, trong lòng khởi lên ý nghĩ rằng:
“Đức Thế Tôn hết sức lạ lùng đặc biệt, việc ngài làm thật vô cùng hy hữu. Ngài có thể tùy thuận biết bao nhiêu là căn tánh chủng loại khác biệt của chúng sanh thế gian, dùng sự thấy biết phương tiện mà thuyết pháp, cứu thoát chúng sanh ra khỏi mọi chỗ tham đắm bám chấp. Chúng con đối với công đức của Phật thật không thể nói ra, chỉ đức Thế Tôn mới có thể rõ biết bản nguyện sâu xa trong lòng chúng con.”
[1]
Bấy giờ, đức Phật bảo các vị tỳ-kheo: “Các ông có thấy Phú-lâu-na đây chăng? Ta thường nói Phú-lâu-na là bậc nhất trong những người thuyết pháp, lại cũng thường khen ngợi đủ mọi công đức của Phú-lâu-na, tinh tấn chuyên cần bảo vệ giữ gìn và giúp sức truyền giảng giáo pháp của ta, có thể ở trong bốn chúng mà chỉ bày, dạy dỗ, khuyến khích sự lợi ích, làm cho thành tựu hoan hỷ,
[2] giải thích chánh pháp một cách trọn vẹn đầy đủ mà làm lợi lạc lớn lao cho hết thảy các vị đồng tu phạm hạnh. Ngoài đức Như Lai, không ai có thể thấu suốt hết sự biện giải giảng nói của Phú-lâu-na.
[3]
“Các ông đừng cho rằng Phú-lâu-na chỉ có thể bảo vệ giữ gìn và giúp sức truyền giảng giáo pháp của ta. Phú-lâu-na đã từng ở nơi đạo trường của 90 ức vị Phật
[4] trong quá khứ mà bảo vệ giữ gìn và giúp sức truyền giảng chánh pháp của chư Phật. Ở những nơi ấy, Phú-lâu-na cũng đều là bậc nhất trong số những người thuyết pháp. Phú-lâu-na lại thông đạt rõ ràng sáng tỏ đối với pháp không mà chư Phật thuyết dạy, đạt được bốn trí không ngăn ngại, thường có thể suy xét kỹ lưỡng để thuyết pháp thanh tịnh, không còn nghi hoặc, có đầy đủ sức thần thông của hàng Bồ Tát. [Trong những kiếp quá khứ ấy,] Phú-lâu-na thường luôn tu tập hạnh thanh tịnh suốt cả cuộc đời, nên người đời thuở ấy đều cho rằng Phú-lâu-na quả thật là Thanh văn, nhưng ông dùng phương tiện [hiện thân Thanh văn] đó để làm lợi ích cho vô số trăm ngàn chúng sanh, lại giáo hóa vô số a-tăng-kỳ chúng sanh khiến cho đều thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì để đạt được cõi Phật thanh tịnh, Phú-lan-na thường làm các Phật sự, giáo hóa chúng sanh.
[5]
“Này các tỳ-kheo! Trong thời kỳ 7 vị Phật, Phú-lâu-na cũng là bậc nhất trong những người thuyết pháp, cho nên hiện nay ở chỗ của ta là bậc nhất trong những người thuyết pháp.
[6] Đến thời chư Phật tương lai trong Hiền kiếp này,
[7] Phú-lâu-na cũng sẽ là bậc nhất trong những người thuyết pháp, hơn nữa còn bảo vệ giữ gìn và giúp sức truyền giảng pháp Phật, cũng như trong tương lai sẽ bảo vệ giữ gìn và giúp sức truyền giảng giáo pháp của vô số chư Phật, giáo hóa làm lợi ích cho vô số chúng sanh, khiến cho phát khởi tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, lại vì cõi Phật thanh tịnh mà thường chuyên cần tinh tấn giáo hóa chúng sanh.
“Dần dần trọn đủ đạo của hàng Bồ Tát, trải qua vô số a-tăng-kỳ kiếp rồi Phú-lâu-na sẽ ở cõi này mà thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hiệu là Pháp Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật Pháp Minh dùng số thế giới đại thiên nhiều như số cát sông Hằng làm một cõi Phật,
[8] mặt đất bằng bảy món báu, bằng phẳng như lòng bàn tay, không có núi, gò, suối, khe, ngòi, rãnh… Những lầu đài xây bằng bảy món báu đầy khắp trong cõi nước. Cung điện chư thiên ở giữa không trung nhưng rất gần mặt đất nên loài người và chư thiên có thể giao tiếp với nhau, nhìn thấy được nhau; không có các đường xấu ác, không có nữ giới,
[9] hết thảy chúng sanh đều là hóa sanh, không có sự dâm dục, có thần thông lớn, thân tỏa hào quang, bay đi tự tại giữa không trung, có ý chí và niệm tưởng kiên cố, đủ các phẩm tính trí tuệ và tinh tấn; thân thể có màu vàng ròng, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt
[10] để tự thành dáng vẻ trang nghiêm. Chúng sanh cõi ấy thường dùng hai loại thức ăn. Thứ nhất là thức ăn bằng niềm vui chánh pháp, thứ hai là thức ăn bằng niềm vui thiền định. Cõi Phật ấy có vô số a-tăng-kỳ ngàn muôn ức na-do-tha các vị Bồ Tát, đều đạt được thần thông lớn lao, đủ bốn trí không ngăn ngại, thường khéo giáo hóa các loài chúng sanh. Số lượng Thanh văn ở cõi ấy nhiều đến mức tính toán đếm kể đều không thể biết được số lượng, tất cả đều đạt được đầy đủ sáu thần thông, ba sự sáng suốt cùng tám giải thoát. Cõi Phật ấy thành tựu vô số những công đức trang nghiêm như thế. Thời đại ấy tên là Bảo Minh, cõi nước tên Thiện Tịnh. Đức Phật Pháp Minh có tuổi thọ vô số a-tăng-kỳ kiếp, chánh pháp trụ ở đời rất lâu. Sau khi đức Phật ấy diệt độ, chúng sanh dựng tháp bằng bảy báu khắp nước để thờ kính.”
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại những ý nghĩa trên liền nói kệ rằng:
“Các tỳ-kheo, lắng nghe!
Hàng con Phật hành đạo,
Do khéo học phương tiện,
Nên không thể nghĩ bàn.
Biết người ưa pháp nhỏ,
E sợ trí tuệ lớn,
Nên các vị Bồ Tát,
Hiện Thanh văn, Duyên giác,
Dùng vô số phương tiện,
Giáo hóa khắp muôn loài.
Tự nhận là Thanh văn,
Còn cách Phật rất xa,
Độ thoát vô số người,
Khiến cho đều thành tựu.
Tuy cầu Tiểu, biếng nhác,
Dần khiến cho thành Phật.
Trong giấu hạnh Bồ Tát,
Ngoài hiện tướng Thanh văn.
Ít muốn, chán sanh tử,
Tự thanh tịnh cõi Phật.
Thị hiện có ba độc,
Lại có tướng tà kiến.
Đệ tử Phật như thế,
Phương tiện độ chúng sanh.
Nếu như Phật thuyết đủ,
Mọi phương tiện hóa hiện,
Chúng sanh nghe như vậy,
Hẳn ôm lòng nghi hoặc.
Ông Phú-lâu-na này,
Xưa với ngàn ức Phật,
Đã chuyên cần tu tập,
Gìn giữ, thuyết pháp Phật.
Cầu trí tuệ Vô thượng,
Nên ở nơi chư Phật,
Đứng đầu hàng đệ tử,
Nghe nhiều, có trí tuệ,
Thuyết giảng không sợ sệt,
Khiến người nghe hoan hỷ.
Chưa bao giờ chán mệt,
Trợ giúp các Phật sự.
Đã được thần thông lớn,
Đủ bốn trí vô ngại,
Biết căn tánh nhanh, chậm,
Thường thuyết pháp thanh tịnh,
Giảng rõ nghĩa ‘như thị’,
Giáo hóa ngàn ức người,
Khiến trụ nơi Đại thừa,
Tự thanh tịnh cõi Phật.
Tương lai cũng cúng dường,
Vô số các đức Phật,
Trợ giúp truyền chánh pháp,
Tự thanh tịnh cõi Phật.
Thường dùng các phương tiện,
Thuyết pháp, không sợ sệt,
Độ vô số chúng sanh,
Thành tựu Nhất thiết trí.
Cúng dường các đức Phật,
Gìn giữ kho Pháp báu.
Về sau được thành Phật,
Danh hiệu là Pháp Minh,
Cõi nước tên Thiện Tịnh,
Do bảy báu hợp thành,
Thời đại tên Bảo Minh.
Chúng Bồ Tát rất đông,
Nhiều đến vô số ức,
Đều đạt thần thông lớn,
Đủ các lực, oai đức,
Đầy khắp cả cõi nước.
Thanh văn cũng vô số,
Ba minh, tám giải thoát,
Bốn trí không ngăn ngại,
Cùng hợp thành chúng tăng.
Chúng sanh cõi Phật ấy,
Đã dứt trừ dâm dục,
Đều do biến hóa sanh,
Đủ tướng tốt trang nghiêm,
Dùng pháp hỷ, thiền duyệt,
Không muốn ăn gì khác.
Cõi ấy không nữ giới,
Cũng không các đường ác.
Tỳ-kheo Phú-lâu-na,
Công đức đã trọn đủ,
Thành tựu cõi tịnh ấy,
Chúng hiền thánh rất đông.
Vô số việc như vậy,
Nay ta chỉ lược nói.
Bấy giờ, 1.200 vị A-la-hán tâm đạt tự tại liền khởi lên ý nghĩ rằng: “Chúng con đều hoan hỷ, được điều chưa từng có. Nếu như mỗi người chúng con đều được đức Thế Tôn thụ ký cho giống như các vị đại đệ tử kia, chẳng phải là vui thích lắm sao!”
Đức Phật rõ biết suy nghĩ trong tâm các vị ấy, liền bảo ngài Ma-ha Ca-diếp: “Nay ta sẽ lần lượt theo thứ tự mà thụ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho 1.200 A-la-hán này.
“Trong đại chúng này, đại đệ tử của ta là Tỳ-kheo Kiều-trần-như rồi sẽ cúng dường 62.000 ức vị Phật, sau đó thành Phật hiệu là Phổ Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.
“Ngoài ra, 500 A-la-hán trong số này, những vị như Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, Già-da Ca-diếp, Na-đề Ca-diếp, Ca-lưu-đà-ni, Ưu-đà-di, A-nậu-lâu-đà, Ly-bà-đa, Kiếp-tân-na, Bạc-câu-la, Chu-đà, Sa-già-đà… cũng đều sẽ thành tựu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tất cả đều cùng một danh hiệu là Phổ Minh.”
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại những ý nghĩa này nên nói kệ rằng:
Tỳ-kheo Kiều-trần-như,
Sẽ gặp vô số Phật,
Qua a-tăng-kỳ kiếp,
Mới thành Chánh Đẳng Giác.
Thường phóng hào quang lớn,
Đầy đủ các thần thông,
Vang danh khắp mười phương,
Chúng sanh đều cung kính.
Thường thuyết đạo Vô thượng,
Nên hiệu là Phổ Minh.
Cõi Phật ấy thanh tịnh,
Bồ Tát đều dũng mãnh,
Ở trên lầu gác đẹp.
Dạo chơi khắp mười phương,
Dùng những món quý nhất,
Phụng hiến lên chư Phật.
Cúng dường như như vậy rồi,
Trong lòng rất hoan hỷ,
Thoáng chốc đã quay về,
Có thần lực như vậy.
Phật trụ sáu muôn kiếp,
Chánh pháp trụ lâu hơn,
Tượng pháp lâu hơn nữa,
[11]
Pháp diệt, trời người buồn.
Năm trăm A-la-hán,
Theo thứ tự thành Phật,
Cùng một hiệu Phổ Minh,
Lần lượt thụ ký rằng:
‘Sau khi ta diệt độ,
Vị này sẽ thành Phật,
[12]
Việc giáo hóa trong đời,
Cũng giống ta ngày nay.’
Về cõi Phật nghiêm tịnh,
Cùng những sức thần thông,
Chúng Thanh văn, Bồ Tát,
Chánh pháp, rồi tượng pháp,
Trụ thế bao nhiêu kiếp,
Đều như trên đã nói.
Ca-diếp, ông đã biết,
Năm trăm vị tự tại.
Các vị Thanh văn khác,
Cũng đều sẽ như vậy.
Ai vắng mặt hội này,
Ông nên vì họ nói.”
Khi ấy, 500 vị A-la-hán ở trước Phật được thụ ký rồi, trong lòng hoan hỷ phấn khích, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đi đến trước Phật, cúi đầu chạm mặt lễ sát chân Phật, hối lỗi tự trách: “Bạch Thế Tôn! Chúng con thường tự suy nghĩ cho rằng mình đã đạt đến diệt độ rốt ráo, nay mới biết rằng như thế là không có trí tuệ. Vì sao vậy? Chúng con lẽ ra đều được trí tuệ Như Lai, nhưng lại tự cho trí nhỏ nhoi là đủ.
“Bạch Thế Tôn! Ví như có người đến chơi nhà bạn thân, uống rượu say nằm. Khi ấy, người bạn thân có việc quan cần phải đi, liền lấy một hạt châu quý báu vô giá tặng cho bạn bằng cách buộc giấu vào giữa hai lớp vải áo, xong rồi mới rời đi. Người ấy say rượu nằm, hoàn toàn không hay biết. Đến khi tỉnh dậy ra đi, rồi sau đó lưu lạc đến nước khác, vì chuyện cơm áo phải chuyên cần nỗ lực làm lụng, hết sức gian nan vất vả, kiếm được chút ít liền cho là đủ. Sau đó, người bạn thân thuở trước gặp lại, thấy vậy kêu lên: ‘Ôi chao, anh bạn tôi! Sao vì cơm áo mà đến nỗi này! Ngày xưa tôi vì muốn bạn được an vui, tùy ý thụ hưởng 5 món dục, nên vào ngày tháng năm đó đã lấy hạt châu quý báu vô giá buộc giấu vào giữa hai lớp vải áo của anh, nay vẫn còn nguyên đó, sao anh không biết, phải khó nhọc vất vả lo toan khổ sở chỉ cầu đủ sống, thật là ngu si quá! Nay anh có thể lấy hạt châu này bán đi để mua những thứ cần dùng, sẽ thường được như ý, không thiếu thốn gì nữa.’
“Đức Phật cũng như [người bạn thân kia], khi còn là Bồ Tát giáo hóa chúng con, khiến cho phát tâm cầu Nhất thiết trí, [giống như ban cho hạt châu quý báu,] nhưng chúng con lại quên mất đi, không hề hay biết, khi được quả A-la-hán rồi liền tự cho đó là diệt độ, [giống như người kia] mưu sinh vất vả gian nan, vừa được chút ít đã cho là đủ, trong khi tâm nguyện cầu Nhất thiết trí vẫn còn nguyên đó, không hề mất đi. Nay đức Thế Tôn vì thức tỉnh chúng con nên mới dạy rằng: ‘Này các tỳ-kheo! Chỗ mà các ông đạt được đó không phải là diệt độ rốt ráo. Từ lâu ta đã giúp các ông gieo trồng căn lành là hạt giống Phật, vì dùng phương tiện nên thị hiện tướng Niết-bàn [Nhị thừa], nhưng các ông thật ra chưa được diệt độ.’
“Bạch Thế Tôn! Chúng con hôm nay mới biết mình thật là Bồ Tát, được thụ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Do nhân duyên đó nên hết sức hoan hỷ, được việc chưa từng có.”
Bấy giờ, nhóm các ngài A-nhã Kiều-trần-như… muốn lặp lại ý nghĩa trên nên cùng đọc kệ rằng:
Chúng con nghe Phật ban
Lời thụ ký an ổn,
Hoan hỷ chưa từng có,
Lễ trí Phật vô lượng.
Nay trước mặt Thế Tôn,
Xin tự hối lỗi lầm.
Kho báu Phật vô lượng,
Con chỉ được chút ít,
Lại như người ngu si,
Tự cho đó là đủ.
Ví như người nghèo khó,
Đến chơi nhà bạn thân.
Nhà bạn rất giàu có,
Thết đãi nhiều món ngon,
Rồi lấy hạt châu quý
Giấu trong hai lớp áo
Tặng cho trước khi đi,
Người say nằm, không biết.
Sau khi tỉnh dậy rồi,
Lưu lạc sang nước khác,
Cầu cơm áo qua ngày,
Mưu sinh thật khó khăn,
Được ít cho là đủ,
Chẳng mong cầu tốt hơn.
Không biết trong áo mình,
Có hạt châu vô giá.
Người bạn cho hạt châu,
Sau gặp lại người nghèo,
Thấy vậy liền quở trách,
Rồi chỉ rõ hạt châu.
Người nghèo thấy hạt châu,
Lòng vui mừng khôn xiết,
Được giàu có, sung túc,
Tùy ý hưởng năm dục.
Chúng con cũng như vậy,
Thế Tôn trong đêm dài,
[13]
Thường thương xót giáo hóa,
Khiến phát tâm Vô thượng.
Chúng con vì ngu si,
Nên không hề hay biết,
Được phần nhỏ Niết-bàn,
Tưởng đủ, chẳng cầu thêm.
Phật đánh thức chúng con:
“Đó chưa phải diệt độ.
Được Trí tuệ Vô thượng,
Mới diệt độ chân thật.”
Chúng con được nghe Phật,
Thụ ký việc trang nghiêm,
Cùng thứ lớp thành Phật,
Thân tâm đều hoan hỷ.
9. Phẩm Thụ ký cho hàng hữu học và vô học
Lúc bấy giờ, các ngài A-nan và La-hầu-la có ý nghĩ rằng: “Chúng ta mỗi người đều tự nghĩ: ‘Giá như được Phật thụ ký, chẳng phải là vui thích lắm sao!’” Hai vị liền từ chỗ ngồi đứng dậy tiến đến trước Phật, cúi đầu chạm mặt lễ sát chân Phật, cùng bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Chúng con đối với việc thụ ký này cũng nên được dự phần, vì chỉ có đức Như Lai là nơi chúng con quy hướng. Chúng con lại được hết thảy trời, người, a-tu-la trong khắp cõi thế gian biết đến, rằng A-nan thường làm thị giả theo hầu Phật, giữ gìn bảo vệ kho tàng Chánh pháp, rằng La-hầu-la là con của Phật. Nếu được Phật thụ ký quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì chúng con thật mãn nguyện, mà sự ngưỡng vọng của đại chúng cũng được thỏa mãn.”
Khi ấy, 2.000 vị đệ tử Thanh văn hữu học và vô học đều từ chỗ ngồi đứng dậy, trần vai áo bên phải, tiến đến trước Phật, chắp tay một lòng chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, đồng một tâm nguyện như các ngài A-nan và La-hầu-la, rồi đứng sang một bên.
Bấy giờ, đức Phật bảo ngài A-nan: “Trong tương lai ông sẽ thành Phật hiệu là Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Ông sẽ cúng dường 62 ức chư Phật, bảo vệ giữ gìn kho tàng Chánh pháp, rồi sau đó mới thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, giáo hóa chư Bồ Tát nhiều như số cát của 20.000 muôn ức con sông Hằng, khiến cho đều thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Cõi nước ấy tên là Thường Lập Thắng Phan, toàn cõi nước thanh tịnh, mặt đất bằng lưu ly, thời đại ấy tên là Diệu Âm Biến Mãn. Đức Phật ấy có tuổi thọ vô lượng ngàn muôn ức a-tăng-kỳ kiếp, nếu như có người trong suốt ngàn muôn ức vô lượng a-tăng-kỳ kiếp tính toán đếm kể cũng không thể biết được số kiếp chính xác. Thời gian chánh pháp tồn tại ở đời còn lâu hơn gấp bội. Thời gian tượng pháp tồn tại ở đời, so với chánh pháp lại lâu hơn gấp bội.
Này A-nan! Đức Phật Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Phật ấy được chư Phật Như Lai khắp mười phương nhiều như số cát của vô lượng ngàn muôn ức con sông Hằng cùng ngợi khen, xưng tán công đức.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:
“Ta nay bảo chúng tăng,
A-nan, người giữ pháp,
Sẽ cúng dường chư Phật,
Sau đó thành Chánh giác,
Hiệu là ‘Sơn Hải Tuệ
Tự Tại Thông Vương Phật’.
Cõi Phật ấy thanh tịnh,
Tên ‘Thường Lập Thắng Phan’,
Giáo hóa chư Bồ Tát,
Nhiều như cát sông Hằng.
Phật có uy đức lớn,
Danh vang khắp mười phương,
Tuổi thọ không thể lường,
Vì thương xót chúng sanh,
Chánh pháp trụ lâu hơn,
Tượng pháp lâu hơn nữa.
Có vô số chúng sanh,
Nhiều như cát sông Hằng,
Đều ở trong Phật pháp,
Gieo nhân duyên Phật đạo.
Lúc bấy giờ, trong pháp hội có 8.000 vị Bồ Tát vừa mới phát tâm đều suy nghĩ rằng: “Chúng ta thậm chí còn chưa nghe các vị Đại Bồ Tát được thụ ký [lớn lao] như vậy, nay có nhân duyên gì mà các vị Thanh văn lại được thụ ký như vậy?”
Khi ấy, đức Thế Tôn rõ biết suy nghĩ trong tâm các vị Bồ Tát nên bảo họ rằng: “Này các thiện nam tử! Ta cùng với những người như ông A-nan đây từng ở nơi đức Phật Không Vương cùng lúc phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. A-nan thường ưa thích nghe nhiều, trong khi ta thường chuyên cần tinh tấn tu tập, cho nên nay ta đã thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, còn A-nan thì giữ gìn bảo vệ chánh pháp của ta, lại cũng bảo vệ kho tàng chánh pháp của chư Phật trong tương lai, thành tựu việc giáo hóa các vị Bồ Tát. Vì tâm nguyện thuở trước như vậy nên nay A-nan được thụ ký [lớn lao] như vậy.”
[14]
Ngài A-nan ở trước Phật, tự mình nghe Phật thụ ký cùng nói rõ về cõi nước trang nghiêm, tâm nguyện được trọn đủ, trong lòng hết sức mừng vui hoan hỷ, được việc chưa từng có, liền tức thời nhớ lại được kho tàng Phật pháp trong quá khứ của vô lượng ngàn muôn ức chư Phật, thông suốt không ngăn ngại như vừa mới được nghe hôm nay, đồng thời cũng nhớ biết được tâm nguyện thuở trước.
Khi ấy, ngài A-nan liền đọc kệ rằng:
“Thế Tôn thật hy hữu,
Khiến con nhớ quá khứ,
Pháp của vô số Phật,
Như vừa nghe hôm nay.
Nay con không còn nghi,
Trụ yên trong Phật đạo,
Phương tiện làm thị giả,
Hộ trì pháp chư Phật.”
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài La-hầu-la: “Trong tương lai ông sẽ thành Phật, hiệu là Đạo Thất Bảo Hoa Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Ông sẽ cúng dường chư Phật Như Lai nhiều bằng số hạt bụi nhỏ trong 10 thế giới, thường làm con trưởng của chư Phật, cũng giống như ngày nay. Đức Phật Đạo Thất Bảo Hoa sẽ có cõi nước trang nghiêm, về tuổi thọ, số đệ tử giáo hóa được, cho đến thời gian tồn tại của chánh pháp, tượng pháp đều giống như đức Phật Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai không khác, lại cũng là con trưởng của đức Phật ấy. Trải qua thời gian đó rồi sẽ thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Khi ấy, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:
“Khi ta là thái tử,
La-hầu làm con trưởng.
Nay ta đã thành Phật,
Ông trở thành pháp tử.
Trong những đời vị lai,
Gặp vô lượng ức Phật,
Đều làm con trưởng Phật,
Một lòng cầu Phật đạo.
Mật hạnh của La-hầu,
Chỉ Phật mới rõ biết.
Thị hiện con trưởng Phật,
Để chỉ bày chúng sanh.
Vô lượng muôn ngàn ức
Công đức không thể lường,
Trụ yên nơi Phật pháp,
Để cầu đạo Vô thượng.”
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nhìn thấy 2.000 vị đệ tử hữu học và vô học tâm ý đều nhu thuận nhuần nhuyễn, thanh tịnh vắng lặng, đang một lòng chiêm ngưỡng Phật. Đức Phật bảo ngài A-nan: “Ông có thấy 2.000 vị đệ tử hữu học và vô học ở đây không?”
Ngài A-nan thưa: “Dạ, con có thấy.”
Phật dạy: “Này A-nan! Những vị này rồi sẽ cúng dường chư Phật Như Lai nhiều như số hạt bụi trong năm mươi thế giới, tôn trọng cung kính, bảo vệ giữ gìn kho tàng chánh pháp, cho đến sau cùng sẽ ở nơi các cõi nước trong mười phương mà cùng lúc thành Phật, đồng một danh hiệu là Bảo Tướng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, tuổi thọ là một kiếp, cõi nước đều trang nghiêm, chúng Bồ Tát, Thanh văn, cho đến thời gian tồn tại chánh pháp, tượng pháp của chư Phật ấy cũng đều như nhau.
Khi ấy, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:
“Hai ngàn Thanh văn này,
Nay ở trước mặt ta,
Thụ ký cho tất cả,
Tương lai đều thành Phật.
Sẽ cúng dường chư Phật,
Nhiều như số hạt bụi,
Đều hộ trì pháp Phật,
Rồi sau sẽ thành Phật,
Trong cõi nước mười phương,
Đều cùng một danh hiệu,
Cùng lúc ngồi đạo tràng,
Đạt trí tuệ Vô thượng,
Đồng một hiệu Bảo Tướng.
Cõi nước và đệ tử,
Chánh pháp cùng tượng pháp,
Đều giống nhau, không khác.
Đều dùng sức thần thông,
Độ chúng sanh mười phương,
Khắp nơi đều nghe danh,
Rồi dần nhập Niết-bàn.”
Lúc bấy giờ, 2.000 vị đệ tử hữu học và vô học được nghe Phật thụ ký thì vui mừng phấn khích, cùng đọc kệ rằng:
“Thế Tôn soi đèn tuệ,
Chúng con nghe thụ ký,
Tâm ngập tràn hoan hỷ,
Như được rưới cam lộ.”
10. Phẩm Pháp sư
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nhân nơi Bồ Tát Dược Vương để nói với 80.000 vị Bồ Tát:
[15] “Này Dược Vương! Ông hãy nhìn xem tất cả đại chúng nơi đây, có vô số chư thiên, long vương, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và các loài phi nhân, các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, những người cầu quả vị Thanh văn, cầu quả vị Phật Bích-chi, hoặc cầu Phật đạo, hết thảy những chúng sanh như thế đều đang ở trước Phật, được nghe một bài kệ hay một câu kinh Diệu Pháp Liên Hoa này, cho đến chỉ khởi lên một ý niệm hoan hỷ vui theo, ta đều thụ ký cho trong tương lai sẽ được thành tựu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”
Rồi Đức Phật bảo ngài Dược Vương: “Lại nữa, sau khi Như Lai diệt độ, nếu có ai được nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thậm chí chỉ một bài kệ, một câu kinh, hoặc khởi lên một ý niệm hoan hỷ vui theo, ta cũng đều thụ ký cho được thành tựu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nếu như lại có người thọ trì, tụng đọc, giảng thuyết, sao chép kinh Diệu Pháp Liên Hoa, dù chỉ một bài kệ, đối với quyển kinh này cung kính như Phật, dùng đủ mọi cách cúng dường như hương hoa, chuỗi ngọc, hương bột, hương thoa, hương đốt, lọng che bằng lụa, cờ phướn, y phục, âm nhạc… hoặc thậm chí chỉ chắp tay cung kính. Này Dược Vương! Ông nên biết rằng người như vậy đã từng cúng dường mười muôn ức Phật, ở nơi đạo trường chư Phật thành tựu tâm nguyện lớn, vì thương xót chúng sanh nên mới sanh vào cõi thế gian này.
“Này Dược Vương! Nếu như có người hỏi: ‘Những chúng sanh nào trong tương lai sẽ được thành Phật?’, ông nên chỉ cho biết rằng những người như vừa nói trên trong tương lai chắc chắn sẽ được thành Phật. Vì sao vậy? Nếu như có thiện nam hoặc thiện nữ, đối với kinh Diệu Pháp Liên Hoa này, dù chỉ một câu kinh, biết thọ trì, tụng đọc, giảng thuyết, sao chép, dùng mọi cách cúng dường như hương hoa, chuỗi ngọc, hương bột, hương thoa, hương đốt, lọng che bằng lụa, cờ phướn, y phục, âm nhạc… hoặc chắp tay cung kính, thì đối với người này hết thảy thế gian đều nên chiêm ngưỡng kính phụng, nên dùng cách thức cúng dường Như Lai mà cúng dường cho người này.
“Nên biết rằng người như vậy đã là Đại Bồ Tát, thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vì thương xót chúng sanh nên phát nguyện sanh vào thế gian này để phân biệt giảng rộng kinh Diệu Pháp Liên Hoa, huống chi là có thể đem hết khả năng mà thọ trì, dùng đủ mọi cách cúng dường kinh này?
“Này Dược Vương! Nên biết rằng đó là người đã tự xả bỏ nghiệp báo thanh tịnh, nên sau khi ta đã diệt độ rồi, vì thương xót chúng sanh mà sanh vào cõi đời xấu ác để giảng rộng kinh này.
“Nếu như có thiện nam hoặc thiện nữ, sau khi ta diệt độ rồi có thể riêng vì một người mà giảng thuyết kinh Pháp Hoa, dù chỉ một câu, nên biết rằng người ấy đã là sứ giả của Như Lai, do đức Như Lai sai khiến đến, thi hành việc của Như Lai, huống chi là ở giữa đại chúng rộng vì người khác thuyết giảng?
“Này Dược Vương! Nếu có người xấu ác, dùng tâm bất thiện trong suốt một kiếp ở trước đức Phật, thường hủy báng nhục mạ đức Phật, tội lỗi đó vẫn xem là nhẹ nếu so với người dùng một câu xấu ác chế giễu chê bai người tại gia hay xuất gia tụng đọc kinh Pháp Hoa, vì tội lỗi này rất nặng.
“Này Dược Vương! Như có người tụng đọc kinh Pháp Hoa, nên biết rằng người ấy đang dùng sự trang nghiêm của Như Lai để tự trang nghiêm mình, được Như Lai gánh vác trên vai. Người ấy đi đến nơi nào, [mọi người] nên hướng theo mà lễ bái, một lòng chắp tay cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen xưng tán, dùng các loại hoa, hương, chuỗi ngọc, hương bột, hương thoa, hương đốt, lọng che bằng lụa, cờ phướn, y phục, các món ăn ngon, các loại âm nhạc, các món cúng dường thượng hạng trong cõi người để cúng dường người ấy, nên dùng châu báu cõi trời rải quanh để tỏ lòng tôn kính, nên gom góp các báu vật trên cõi trời mà phụng hiến cho người ấy. Vì sao vậy? Vì người ấy hoan hỷ thuyết pháp, nên người được nghe chỉ trong thoáng chốc liền đạt được rốt ráo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:
“Nếu muốn trụ Phật đạo,
Thành tựu trí tự nhiên,
Nên siêng năng cúng dường,
Người thọ trì Pháp Hoa.
Nếu người muốn nhanh chóng,
Được Nhất thiết chủng trí,
Nên thọ trì kinh này,
Cúng dường người trì kinh.
Nếu ai thường thọ trì,
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa,
Đó là sứ giả Phật,
Thường thương xót chúng sanh.
Người thường xuyên thọ trì,
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa,
Từ bỏ cõi thanh tịnh,
Thương chúng sanh, đến đây.
Nên biết người như vậy,
Tự tại, tùy ý sanh.
Có thể nơi cõi ác,
Rộng thuyết pháp Vô thượng.
Nên dùng hương, hoa trời,
Cùng y phục, châu báu,
Kho bảo vật cõi trời,
Cúng dường người giảng kinh.
Sau Phật diệt, đời ác
Ai thường trì kinh này,
Nên chắp tay kính lễ,
Như cúng dường Thế Tôn.
Dùng món ngon thượng hạng,
Cùng đủ loại y phục,
Cúng dường Phật tử ấy,
Cầu nghe kinh chốc lát.
Người nào trong đời sau,
Có thể trì kinh này,
Là Phật sai khiến đến,
Thi hành việc Như Lai.
Nếu người trong suốt kiếp,
Thường ôm lòng bất thiện,
Hung hăng mắng chửi Phật,
[16]
Tạo tội nặng vô lượng;
Nhưng với người tụng đọc,
Giữ gìn kinh Pháp Hoa,
Mà xúc phạm chốc lát,
Tạo tội còn nặng hơn.
Nếu người cầu Phật đạo,
Nên suốt trong một kiếp,
Chắp tay đứng trước Phật,
Đọc vô số kệ khen.
Người ấy xưng tán Phật,
Được công đức vô lượng;
Nhưng khen người trì kinh,
Công đức còn lớn hơn.
Trong tám mươi ức kiếp,
[17]
Dùng thanh, sắc tốt đẹp,
Cùng hương, vị, xúc chạm,
Cúng dường người trì kinh.
Cúng dường như vậy rồi,
Được nghe kinh chốc lát,
Ắt sẽ tự mừng vui:
‘Ta được lợi ích lớn!’
Dược Vương! Nay nói rõ,
Ta đã thuyết nhiều kinh,
Nhưng trong những kinh ấy,
Pháp Hoa là bậc nhất.”
Khi ấy, đức Phật lại bảo Đại Bồ Tát Dược Vương rằng: “Trong vô số ngàn muôn ức kinh điển mà ta thuyết dạy, những kinh đã thuyết, hiện đang thuyết và sẽ thuyết, thì kinh Pháp Hoa này là khó tin khó hiểu nhất.
“Này Dược Vương! Kinh này là kho tàng tinh yếu bí mật của chư Phật, không thể đưa ra phân bố rộng rãi, truyền trao không đúng người. Kinh này được chư Phật Thế Tôn giữ gìn bảo vệ, từ xưa đến nay chưa từng thuyết giảng chung cho đại chúng không chọn lọc.
[18] Kinh này trong lúc Như Lai tại thế mà còn có nhiều kẻ oán ghét,
[19] huống chi là sau khi Phật diệt độ?
“Này Dược Vương! Nên biết rằng sau khi Như Lai diệt độ, những ai đối với kinh này có thể sao chép, giữ gìn, tụng đọc, vì người khác giảng thuyết, ắt sẽ được Như Lai dùng y che chở, lại cũng được chư Phật hiện tại ở các phương khác nhớ nghĩ che chở. Người ấy sẽ có sức tin tưởng lớn lao cùng sức mạnh chí nguyện và sức mạnh của các căn lành. Nên biết rằng người này cùng sống một nơi với Như Lai, được đức Như Lai dùng tay xoa đầu.
“Này Dược Vương! Ở bất cứ nơi nào có sự thuyết giảng, tụng đọc, sao chép hoặc cất giữ kinh Pháp Hoa này, đều nên xây tháp thật cao rộng bằng bảy báu, trang nghiêm đẹp đẽ, không cần an trí xá-lợi bên trong. Vì sao? Vì trong tháp như đã có toàn thân Như Lai. Đối với tháp ấy, nên dùng hết thảy các loại hoa, hương, chuỗi ngọc, lọng che bằng lụa, cờ phướn, âm nhạc, thơ ca mà cúng dường cung kính, tôn trọng, ngợi khen xưng tán. Nếu có người được nhìn thấy tháp ấy, lễ bái cúng dường, nên biết rằng những người như vậy đều đã đến gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
“Này Dược Vương! Có nhiều người tại gia cũng như xuất gia, tu hành đạo Bồ Tát, nếu như chưa được thấy nghe, tụng đọc, sao chép, thọ trì, cúng dường kinh Pháp Hoa này, nên biết là những người ấy chưa tu tập tốt theo đạo Bồ Tát. Nếu như được nghe kinh này rồi, mới có thể tu tập tốt theo đạo Bồ Tát.
“Nếu như có chúng sanh nào cầu Phật đạo, được thấy nghe kinh Pháp Hoa này, nghe rồi liền tin hiểu, thọ trì, nên biết rằng người ấy đã đến gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
“Này Dược Vương! Ví như có người đang khát cần nước, ở nơi gò cao đào xuống để tìm, vì đất còn khô nên biết rằng nước vẫn còn xa; tiếp tục đào xuống không ngừng, liền thấy đất ẩm, rồi đến đất bùn, trong lòng biết chắc đã gần có nước. Bồ Tát cũng giống như vậy, nếu như chưa nghe, chưa hiểu, chưa thể tu tập kinh Pháp Hoa này, nên biết rằng người ấy hãy còn cách xa quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; nếu như được nghe, hiểu, suy ngẫm, tu tập theo kinh này, thì biết là đã đến gần quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao vậy? Hết thảy pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của hàng Bồ Tát đều có đủ trong kinh này. Kinh này mở ra cửa phương tiện, chỉ bày tướng chân thật. Kho tàng kinh Pháp Hoa này thâm sâu kiên cố, kín đáo sâu xa, không ai có thể thấu triệt, nay Phật vì giáo hóa chư Bồ Tát cho thành tựu nên mới khai mở chỉ bày.
“Này Dược Vương! Nếu có Bồ Tát nào nghe kinh Pháp Hoa này lại khởi tâm kinh hãi, nghi ngờ, nên biết đó là Bồ Tát mới phát tâm. Nếu có Thanh văn nào nghe kinh này lại khởi tâm kinh hãi, nghi ngờ, sợ sệt, nên biết đó là kẻ tăng thượng mạn.
“Này Dược Vương! Nếu có thiện nam hoặc thiện nữ, sau khi Như Lai diệt độ rồi, muốn vì bốn chúng thuyết giảng kinh Pháp Hoa này, nên thuyết như thế nào? Người ấy nên vào nhà Như Lai, đắp y Như Lai, ngồi tòa Như Lai, như vậy rồi mới nên vì bốn chúng mà thuyết rộng kinh này.
“Nhà Như Lai tức là tâm đại từ bi của hết thảy chúng sanh; y Như Lai tức là tâm nhẫn nhục nhu hòa; tòa Như Lai tức là hết thảy các pháp đều không. Trụ yên trong chỗ như thế rồi, mới dùng tâm không biếng nhác, vì chư Bồ Tát và bốn chúng mà thuyết rộng kinh này.
“Này Dược Vương! [Khi ấy] ta ở cõi khác
[20] sai khiến người được biến hóa ra, vì người ấy mà tụ tập người đến nghe pháp, lại sai khiến các tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di được biến hóa ra đến nghe người ấy thuyết pháp. Những người được biến hóa ra đó, khi nghe pháp liền tin nhận, thuận theo không trái nghịch.
“Nếu như người thuyết pháp ở nơi vắng vẻ yên tĩnh, khi ấy ta sẽ mở rộng sai khiến chư thiên, loài rồng, quỷ thần, càn-thát-bà, a-tu-la… đến nghe người ấy thuyết pháp. Tuy ta đang ở cõi khác, vẫn thường khiến cho người thuyết pháp ấy được nhìn thấy thân Phật. Nếu như khi thuyết kinh này có quên sót câu nào, ta lại sẽ vì người ấy thuyết, khiến cho được trọn đủ.”
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:
“Muốn trừ bỏ biếng nhác,
Nên lắng nghe kinh này.
Kinh này khó được nghe,
Lại cũng khó tin nhận.
Như người khát tìm nước,
Trên gò cao đào xuống,
Vẫn thấy đất khô ráo,
Nên biết nước còn xa.
Dần thấy ẩm, đất bùn,
Biết chắc đã gần nước.
Dược Vương! Ông nên biết,
Như đối với những người,
Không nghe kinh Pháp Hoa,
Trí tuệ Phật còn xa.
Nghe kinh thâm sâu này,
Dứt sạch pháp Thanh văn,
Là vua trong các kinh,
Nghe rồi suy ngẫm kỹ,
Nên biết người như vậy,
Đã gần trí tuệ Phật.
Người muốn thuyết kinh này,
Nên vào nhà Như Lai,
Và đắp y Như Lai,
Ngồi trên tòa Như Lai,
Giữa đại chúng, không sợ,
Rộng vì người giảng thuyết.
Đại từ bi là nhà,
Áo nhu hòa nhẫn nhục,
Tòa là các pháp không,
Trụ trong đó thuyết pháp.
Nếu khi thuyết kinh này,
Có người xấu mắng chửi,
Ném gạch, đá, dao, gậy,
Niệm Phật nên nhẫn nhục.
Ta ở muôn ức cõi,
Hiện thân tịnh, kiên cố,
Trong vô lượng ức kiếp,
Vì chúng sanh thuyết pháp.
Sau khi ta diệt độ,
Người thường thuyết kinh này,
Ta hóa hiện bốn chúng,
Tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
Cùng nam, nữ cư sĩ,
Cúng dường pháp sư ấy,
Lại dẫn dắt chúng sanh,
Tụ tập đến nghe pháp.
Nếu người muốn hãm hại,
Dùng dao, gậy, gạch, đá,
Phật sai người biến hóa,
Đến bảo vệ người ấy.
Nếu như người thuyết pháp,
Đang ở nơi vắng vẻ,
Yên tịnh, không tiếng người,
Khi tụng đọc kinh này,
Ta vì người ấy hiện
Thân sáng ngời thanh tịnh,
Nếu quên câu kinh nào,
Ta giúp thuyết thông suốt.
Người đủ các đức trên,
[21]
Khi thuyết cho bốn chúng,
Hoặc tụng đọc một mình,
Đều được thấy thân Phật.
Nếu ở chỗ vắng vẻ,
Ta khiến chư thiên, rồng,
Cùng dạ-xoa, quỷ thần,
Đến đó cùng nghe pháp.
Người ấy vui thuyết pháp,
Phân biệt không ngăn ngại,
Nhờ chư Phật hộ niệm,
Khiến đại chúng hoan hỷ.
Nếu gần gũi pháp sư,
Nhanh đạt đạo Bồ Tát,
Theo học với pháp sư,
Được gặp vô số Phật.
11. Phẩm Hiện tháp báu
Lúc bấy giờ, ngay trước đức Phật, bỗng từ trong lòng đất phóng vọt lên một tòa tháp bảy báu, cao năm trăm do-tuần, chiều ngang và chiều dọc đều hai trăm năm mươi do-tuần, trụ yên lơ lửng giữa không trung, có đủ mọi vật báu trang nghiêm tô điểm. Bao quanh tháp có năm ngàn dãy lan can, tầng dưới có ngàn muôn bệ thờ, có vô số cờ phướn trang nghiêm làm đẹp, muôn ức chuỗi ngọc quý và chuông báu nhỏ được treo ở phần trên tháp. Từ bốn phía quanh tháp có mùi hương chiên-đàn đa-ma-la-bạt
[22] lan tỏa thơm ngát khắp thế giới. Bên trên tháp có những lọng che bằng bảy báu: vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, chân châu và ngọc mai khôi, cao vút lên tận cung trời Tứ thiên vương.
Chư thiên cõi trời Đao-lợi
[23] mưa xuống hoa trời mạn-đà-la để cúng dường tháp báu ấy, trong khi những chư thiên khác cùng các loài rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và loài phi nhân, số đông đến ngàn muôn ức, tất cả đều dùng hết thảy các loại hoa, hương thơm, chuỗi ngọc, lọng che, âm nhạc để cúng dường tháp báu, tỏ lòng tôn trọng, ngợi khen xưng tán.
Khi ấy, từ trong tháp báu vang ra âm thanh rất lớn xưng tán rằng: “Lành thay! Lành thay! Đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni có thể vì đại chúng thuyết giảng kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Bình Đẳng Đại Tuệ, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm. Đúng vậy, đúng vậy! Đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni! Những điều ngài thuyết giảng đó đều là chân thật.”
Lúc bấy giờ, bốn chúng nhìn thấy tháp báu lớn trụ yên giữa không trung, lại nghe tiếng nói phát ra từ bên trong tháp, thảy đều có được niềm vui đúng pháp, đều cho là việc kỳ lạ chưa từng có, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cung kính chắp tay, lùi lại đứng sang một bên.
Khi ấy có vị Đại Bồ Tát hiệu là Đại Nhạo Thuyết,
[24] biết được lòng nghi của hết thảy chư thiên, loài người, a-tu-la trong thế gian, liền thưa hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà có tháp báu này từ trong lòng đất bỗng dưng vọt lên, bên trong lại có tiếng nói phát ra như vậy?”
Bấy giờ, đức Phật nói với Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết: “Trong tháp báu này có toàn thân đức Như Lai. Trong quá khứ, cách đây vô số ngàn muôn ức a-tăng-kỳ thế giới về phương đông
[25] có cõi thế giới tên là Bảo Tịnh. Nơi thế giới ấy có đức Phật hiệu là Đa Bảo. Khi đức Phật ấy còn tu hành đạo Bồ Tát có phát đại nguyện rằng: ‘Nếu ta thành Phật, sau khi diệt độ rồi, trong khắp các cõi nước mười phương, nếu nơi nào thuyết giảng kinh Pháp Hoa thì tháp miếu của ta sẽ vì nghe kinh ấy mà [từ trong lòng đất] vọt lên phía trước người giảng kinh để chứng minh, nói lời xưng tán: Lành thay!’
“Vị ấy thành Phật rồi, đến lúc sắp diệt độ, ở giữa đại chúng chư thiên và loài người mà bảo các vị tỳ-kheo rằng: ‘Sau khi ta diệt độ, muốn cúng dường toàn thân ta thì nên xây một tòa tháp lớn.’ Do thần thông nguyện lực của Phật Đa Bảo nên ở khắp mọi nơi trong mười phương thế giới, nếu có người thuyết giảng kinh Pháp Hoa thì đều có tháp báu của Phật từ trong lòng đất vọt lên ngay phía trước, toàn thân Phật bên trong tháp phát lời xưng tán: ‘Lành thay, lành thay!’
“Này Đại Nhạo Thuyết! Hôm nay tháp của đức Như Lai Đa Bảo vì nghe thuyết giảng kinh Pháp Hoa nên từ trong lòng đất vọt lên nói lời xưng tán ‘Lành thay, lành thay!’”
Khi ấy, Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết nương Thần lực Như Lai nên thưa rằng: “Bạch Thế Tôn! Chúng con ước nguyện được nhìn thấy toàn thân đức Phật Đa Bảo.”
Đức Phật bảo Đại Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết: “Đức Phật Đa Bảo có lời nguyện sâu nặng rằng: ‘Khi tháp báu của ta vì nghe kinh Pháp Hoa mà hiện ra ở trước chư Phật, nếu có vị Phật nào muốn chỉ bày cho bốn chúng thấy được toàn thân của ta thì tất cả những vị Phật phân thân của Phật ấy đang thuyết pháp trong khắp mười phương đều phải tập hợp về một nơi, sau đó toàn thân ta mới hiện ra.’ Này Đại Nhạo Thuyết! Các vị Phật phân thân của ta đang thuyết pháp trong các thế giới mười phương nay sẽ tập hợp về đây.”
Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết thưa: “Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng ước nguyện được gặp chư Phật phân thân của Thế Tôn để lễ bái cúng dường.”
Lúc bấy giờ, đức Phật phóng ra một đạo hào quang từ tướng bạch hào ở giữa hai chân mày, đại chúng liền nhìn thấy chư Phật đang dùng âm thanh hết sức nhiệm mầu thuyết pháp trong các cõi Phật nhiều như số cát của 500 muôn ức na-do-tha con sông Hằng về phương đông; tất cả những cõi Phật ấy đều có mặt đất bằng pha lê, trang nghiêm bằng những loại cây báu, những tấm vải quý,
[26] lại có vô số ngàn muôn ức vị Bồ Tát khắp nơi, có màn báu giăng che, bên trên có lưới báu, lại cũng thấy vô số ngàn muôn ức vị Bồ Tát đầy khắp các cõi Phật ấy, đều đang vì chúng sanh thuyết pháp.
Về phương nam, phương tây, phương bắc, 4 phương phụ và phương trên, phương dưới, những nơi được hào quang từ tướng bạch hào của Phật soi chiếu đến cũng đều hiện ra như vậy.
Khi ấy, chư Phật [phân thân của Phật Thích-ca Mâu-ni] trong mười phương, mỗi vị đều nói với chúng Bồ Tát rằng: “Các thiện nam tử! Nay ta phải đến chỗ đức Phật Thích-ca Mâu-ni ở thế giới Ta-bà, cũng để cúng dường tháp báu của đức Như Lai Đa Bảo.”
Lúc bấy giờ, thế giới Ta-bà lập tức hóa ra thanh tịnh, mặt đất bằng lưu ly, có cây báu trang nghiêm, đường đi về tám hướng
[27] đều có dây bằng vàng ròng giăng theo ven đường để ngăn cách, không còn có xóm làng, thôn ấp, thành thị, biển lớn, núi sông, khe suối hay rừng rậm; có lò hương quý rất lớn được đốt lên, hoa mạn-đà-la trải khắp trên mặt đất, có lưới báu giăng che, phủ khắp bên trên, treo các chuông báu nhỏ, và chỉ giữ lại hội chúng trong pháp hội này, còn tất cả chư thiên và người bên ngoài đều di chuyển sang cõi khác.
Khi ấy, mỗi vị phân thân Phật khi đến thế giới Ta-bà đều mang theo một vị Đại Bồ Tát làm thị giả, đến dưới những cây báu, mỗi cây đều cao 500 do-tuần, cành lá hoa trái thứ lớp trang nghiêm đẹp đẽ. Bên dưới mỗi cây báu đều có tòa sư tử cao năm do-tuần, cũng được trang trí bằng châu báu rất đẹp. Lúc bấy giờ, mỗi vị Phật đều ngồi kết già trên một tòa sư tử dưới gốc cây báu, cứ như vậy mà trải đầy khắp cõi thế giới đại thiên mà số Phật phân thân của Phật Thích-ca Mâu-ni ở một phương vẫn còn chưa hết.
Bấy giờ, đức Phật Thích-ca Mâu-ni muốn dung chứa hết các vị Phật phân thân, nên về mỗi phương trong tám phương đều biến hóa ra 200 muôn ức na-do-tha cõi nước, đều làm cho thanh tịnh, không có các cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh cũng như a-tu-la, lại di chuyển hết chư thiên và loài người sang cõi nước khác. Mỗi cõi nước được biến hóa ra đó cũng đều có mặt đất bằng lưu ly, có cây báu trang nghiêm cao 500 do-tuần, cành lá hoa trái thứ lớp trang nghiêm đẹp đẽ, dưới gốc cây có tòa sư tử cao năm do-tuần, có đủ mọi loại châu báu để trang nghiêm làm đẹp, lại cũng không có biển lớn, sông ngòi cho đến các núi chúa như núi Mục-chân-lân-đà, núi Ma-ha Mục-chân-lân-đà, núi Thiết vi, núi Đại Thiết vi, núi Tu-di. Tất cả những cõi nước được biến hóa ra đó lại thông nhau thành một cõi Phật, đất báu bằng phẳng, có màn che bằng các loại châu báu xen nhau che phủ bên trên, treo đầy các loại cờ phướn, lọng che, có lò hương quý rất lớn được đốt lên, có hoa quý của các cõi trời trải khắp mặt đất.
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni vì chư Phật phân thân còn sắp đến ngồi nên về mỗi phương trong tám phương lại biến hóa ra thêm 200 muôn ức na-do-tha cõi nước, đều làm cho thanh tịnh, không có các cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh cũng như a-tu-la, lại di chuyển hết chư thiên và loài người sang cõi khác. Mỗi cõi nước được biến hóa ra đó cũng đều có mặt đất bằng lưu ly, có cây báu trang nghiêm cao 500 do-tuần, cành lá hoa trái thứ lớp trang nghiêm đẹp đẽ, dưới gốc cây có tòa sư tử cao năm do-tuần, có đủ mọi loại châu báu để trang trí làm đẹp, lại cũng không có biển lớn, sông ngòi cho đến các núi chúa như núi Mục-chân-lân-đà, núi Ma-ha Mục-chân-lân-đà, núi Thiết vi, núi Đại Thiết vi, núi Tu-di. Tất cả những cõi nước được biến hóa ra đó lại thông nhau thành một cõi Phật, đất báu bằng phẳng, có màn che bằng các loại châu báu xen nhau che phủ bên trên, treo đầy các loại cờ phướn, lọng che, có lò hương quý rất lớn được đốt lên, có hoa quý của các cõi trời trải khắp mặt đất.
Lúc bấy giờ, các vị Phật phân thân của đức Phật Thích-ca Mâu-ni đang thuyết pháp trong những cõi nước về phương đông nhiều như số cát của trăm ngàn muôn ức na-do-tha con sông Hằng, đều tập hợp về nơi đây. Cũng giống như vậy, chư Phật phân thân trong mười phương đều lần lượt tập hợp đến ngồi ở khắp tám phương, mỗi phương đều đầy khắp 400 muôn ức na-do-tha
[28] cõi nước [đã được đức Phật Thích-ca Mâu-ni biến hóa ra].
Khi ấy, mỗi vị Phật phân thân đều ngồi trên tòa sư tử dưới gốc cây báu, sai thị giả đến vấn an đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Mỗi vị đều trao cho vị thị giả một bụm đầy hoa quý và dặn rằng: “Thiện nam tử! Ông hãy đến chỗ đức Phật Thích-ca Mâu-ni ở núi Kỳ-xà-quật, chuyển lời của ta thưa hỏi rằng: ‘Thế Tôn có được ít bệnh ít phiền, khí lực an vui, cùng các vị Bồ Tát, chúng Thanh văn hết thảy đều được an ổn chăng?’ Hãy dùng bụm hoa quý này tung rải để cúng dường Phật rồi thưa rằng: ‘Đức Phật nơi kia có danh hiệu như vậy, đồng lòng muốn mở cửa tháp báu này ra.’” Tất cả các vị Phật phân thân đều sai khiến thị giả làm giống như vậy.
Lúc bấy giờ, đức Phật Thích-ca Mâu-ni thấy tất cả các vị Phật phân thân đều đã tập hợp đến ngồi trên tòa sư tử, lại nghe hết thảy chư Phật đều đồng lòng muốn mở cửa tháp báu, nên liền từ chỗ ngồi đứng dậy rồi bay lên trụ yên giữa không trung. Hết thảy bốn chúng đều đứng yên chắp tay, một lòng chiêm ngưỡng Phật.
Khi ấy, đức Phật Thích-ca Mâu-ni dùng ngón tay trỏ bên phải mở cửa tháp bảy báu, liền vang lên âm thanh rất lớn, giống như lúc tháo chốt khóa mở cửa thành lớn. Ngay lập tức, toàn thể hội chúng đều nhìn thấy đức Như Lai Đa Bảo bên trong tháp báu, ngồi trên tòa sư tử, toàn thân không hư rã, như đang nhập thiền định, lại nghe tiếng Phật nói rằng: “Lành thay, lành thay! Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thuyết giảng kinh Pháp Hoa này thật vui thích thay! Ta vì nghe kinh này nên mới đến nơi đây.”
Khi ấy bốn chúng thấy việc đức Phật đã diệt độ từ vô số ngàn muôn ức kiếp nói ra lời như vậy thì đều ngợi khen là chưa từng có, liền dùng rất nhiều hoa báu cõi trời tung rải lên trên thân Phật Đa Bảo và Phật Thích-ca Mâu-ni.
Bấy giờ, đức Phật Đa Bảo bên trong tháp báu liền phân chia một nửa tòa ngồi cho đức Phật Thích-ca Mâu-ni, nói rằng: “Phật Thích-ca Mâu-ni! Có thể đến đây ngồi trên tòa này.” Tức thời, đức Phật Thích-ca Mâu-ni liền vào bên trong tháp báu, ngồi kết già trên nửa tòa ngồi ấy.
Khi ấy, đại chúng nhìn thấy hai đức Như Lai cùng ngồi kết già trên tòa sư tử bên trong tháp báu thì mỗi người đều khởi lên ý nghĩ rằng: “Tòa Phật ngồi cao xa quá, kính nguyện đức Như Lai dùng sức thần thông giúp chúng con cũng được bay lên trụ yên trên cao như vậy.” Tức thời, đức Phật Thích-ca Mâu-ni dùng sức thần thông đón lấy đại chúng đưa cả lên không trung.
Rồi Phật cất tiếng rền vang bảo khắp bốn chúng rằng: “Những ai có thể ở cõi Ta-bà này rộng thuyết kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì nay chính là lúc thích hợp. Không bao lâu nữa Như Lai sẽ nhập Niết-bàn, nên Phật muốn có người để giao phó kinh Diệu Pháp Liên Hoa này.”
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:
“Bậc Thế Tôn Thánh Chủ,
Tuy diệt độ đã lâu,
An vị trong tháp báu,
Còn vì pháp đến đây.
Vậy đại chúng tại sao,
Không chuyên cần cầu pháp?
Phật Đa Bảo diệt độ,
Đã vô số kiếp rồi,
Vẫn nghe pháp khắp nơi,
Vì chánh pháp khó gặp.
Phật xưa vốn có nguyện:
‘Sau khi ta diệt độ,
Nơi nào có ta đến,
Đều chỉ vì nghe pháp.’
Lại phân thân của ta,
Là vô số chư Phật,
Nhiều như cát sông Hằng,
Đều muốn đến nghe pháp,
Cùng gặp Phật diệt độ:
Đức Như Lai Đa Bảo,
Nên bỏ cõi tốt đẹp,
Cùng các chúng đệ tử,
Chư thiên, người, long thần,
Và những việc cúng dường,
Vì chánh pháp dài lâu,
Nên cùng đến nơi này.
Vì tòa ngồi chư Phật,
Ta đã dùng thần thông,
Dời chuyển vô số chúng,
Làm cõi nước thanh tịnh.
Và hết thảy chư Phật,
Đến ngồi dưới cây báu,
Như hồ nước thanh tịnh,
Có hoa sen trang nghiêm.
Dưới gốc mỗi cây báu,
Đều có tòa sư tử,
Chư Phật ngồi trên tòa,
Trang nghiêm, đẹp, sáng tỏa,
Như giữa đêm tối tăm,
Bừng lên ngọn đuốc lớn.
Thân tỏa hương nhiệm mầu,
Khắp cõi nước mười phương,
Chúng sanh được xông ướp,
Vui không thể tự chế.
Giống như cơn gió mạnh,
Thổi lay nhánh cây nhỏ.
Dùng phương tiện như vậy,
Để pháp trụ lâu dài.
Thế Tôn hỏi đại chúng:
‘Sau khi ta diệt độ,
Ai có thể giữ gìn,
Tụng đọc, thuyết kinh này?
Hôm nay ở trước Phật,
Nên tự phát thệ nguyện.’
Như đức Phật Đa Bảo,
Tuy diệt độ đã lâu,
Nhưng do đại thệ nguyện,
Phát tiếng hộ trì pháp.
Đức Như Lai Đa Bảo,
Cùng phân thân của ta,
Các hóa Phật tựu về,
Ắt rõ thệ nguyện ấy.
Nay hết thảy Phật tử,
Ai có thể hộ pháp,
Nên phát đại thệ nguyện,
Giữ chánh pháp lâu dài.
Ai có thể giữ gìn,
Bản kinh Pháp Hoa này,
Tức là đã cúng dường,
Ta và Phật Đa Bảo.
Đức Phật Đa Bảo này,
Trụ yên trong tháp báu,
Thường hiện khắp mười phương.
Ai giữ gìn kinh này,
Cũng là đã cúng dường,
Chư hóa Phật đến đây,
Làm trang nghiêm sáng đẹp,
Khắp thảy các thế giới.
Nếu thuyết giảng kinh này,
Ắt sẽ được thấy ta,
Cùng Như Lai Đa Bảo,
Và tất cả hóa Phật.
Này các thiện nam tử!
Hãy suy xét thật kỹ,
Việc này rất khó khăn,
Cần phát khởi đại nguyện.
Bao nhiêu kinh điển khác,
Nhiều như cát sông Hằng,
Tuy thuyết giảng tất cả,
Chưa đủ gọi là khó.
Nắm lấy núi Tu-di,
Mang đặt ở phương khác,
Cách vô số cõi Phật,
Cũng chưa gọi là khó.
Hoặc dùng một ngón chân,
Hất tung cõi đại thiên,
Văng xa đến cõi khác,
Cũng chưa gọi là khó.
Lên cõi trời Hữu đỉnh,
[29]
Vì đại chúng thuyết giảng,
Vô số những kinh khác,
Cũng chưa gọi là khó.
Sau khi Phật diệt độ,
Ở trong đời xấu ác,
Có thể thuyết kinh này,
Mới thực sự là khó.
Ví như có một người,
Tay nắm được hư không,
Mang đi khắp đó đây,
Cũng chưa gọi là khó.
Sau khi ta diệt độ,
Tự sao chép kinh này,
Hoặc bảo người khác chép,
Mới thực sự là khó.
Có thể đặt cõi đất,
Trên đầu một móng chân,
Bay lên cõi Phạm thiên,
Cũng chưa gọi là khó.
Sau khi Phật diệt độ,
Ở trong đời xấu ác,
Đọc kinh này chốc lát,
Mới thực sự là khó.
Gặp tai kiếp lửa thiêu,
Mà gánh vác cỏ khô,
Vào lửa không bị cháy,
Cũng chưa gọi là khó.
Sau khi Phật diệt độ,
Nếu trì tụng kinh này,
Vì một người giảng thuyết,
Mới thực sự là khó.
Nếu trì tụng tám muôn
Với bốn ngàn pháp tạng,
Mười hai thể loại kinh,
Vì người khác giảng thuyết,
Giúp cho người nghe kinh,
Đều được sáu thần thông.
Tuy làm được như vậy,
Cũng chưa gọi là khó.
Sau khi Phật diệt độ,
Nghe, tin nhận kinh này,
Thưa hỏi về nghĩa lý,
Mới thực sự là khó.
Như có người thuyết pháp,
Giúp cho ngàn muôn ức,
Đến vô số chúng sanh,
Nhiều như cát sông Hằng,
Đều chứng A-la-hán,
Đầy đủ sáu thần thông.
Dù hữu ích như thế,
Cũng chưa gọi là khó.
Sau khi Phật diệt độ,
Nếu kính vâng thọ trì,
Bản kinh Pháp Hoa này,
Mới thực sự là khó.
Ta vì truyền Phật đạo,
Ở vô số cõi nước,
Từ thuở xưa đến nay,
Rộng thuyết nhiều kinh điển,
Nhưng trong những kinh ấy,
Pháp Hoa là bậc nhất.
Nếu gìn giữ kinh này,
Là giữ gìn thân Phật.
Này các thiện nam tử!
Sau khi ta diệt độ,
Ai có thể thọ trì,
Tụng đọc kinh điển này,
Thì nay ở trước Phật,
Hãy tự phát thệ nguyện.
Kinh này khó thọ trì,
Ai thọ trì chốc lát,
Đủ làm ta hoan hỷ,
Chư Phật cũng đều vui.
Người làm được như vậy,
Chư Phật đều khen ngợi.
Đó chính là dũng mãnh,
Đó chính là tinh tấn,
Cũng chính là trì giới,
Là tu hạnh đầu-đà,
[30]
Ắt sẽ được nhanh chóng,
Thành tựu đạo Vô thượng.
Ở trong đời tương lai,
Đọc, thọ trì kinh này,
Đúng thật là Phật tử,
Ở địa vị thuần thiện.
Sau khi Phật diệt độ,
Thường giảng giải kinh này,
Thì là mắt nhìn thay
Cho trời, người thế gian.
Giữa đời nhiều khiếp sợ,
Thuyết kinh này chốc lát,
Cũng đủ để trời, người,
Đều nên đến cúng dường.
12. Phẩm Đề-bà-đạt-đa[31]
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo các vị Bồ Tát cùng chư thiên, loài người và bốn chúng: “Trong quá khứ, ta trải qua vô số kiếp tìm cầu kinh Pháp Hoa này, không hề biếng trễ mỏi mệt.
[32] Trong nhiều kiếp ta thường sinh làm bậc quốc vương, phát nguyện cầu đạo Vô thượng Bồ-đề, tâm không thối chuyển. Vì muốn tu tập trọn đủ sáu pháp ba-la-mật nên ta chuyên cần tu hạnh bố thí với tâm không tham tiếc keo lận, từ voi ngựa, bảy món báu, đất nước, thành quách, vợ con, nô tỳ, người hầu hạ, cho đến đầu, mắt, tủy, não, thân thể, xương thịt, tay chân, thậm chí không tiếc cả mạng sống.
“Vào thời ấy, người dân sống lâu đến vô số kiếp. Ta vì cầu pháp nên từ bỏ ngôi vua, giao việc trị nước cho thái tử, đánh trống truyền rao khắp bốn phương để cầu chánh pháp: ‘Nếu ai có thể vì ta thuyết giảng pháp Đại thừa, ta sẽ suốt đời lo việc cung cấp, phục dịch cho người ấy.’
“Lúc bấy giờ có một vị tiên đến nói rằng: ‘Ta có pháp Đại thừa là kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Nếu vua không trái lời, ta sẽ thuyết giảng cho nghe.’ Vua nghe vị tiên ấy nói thì vui mừng phấn khích, lập tức đi theo, cung cấp đủ mọi nhu cầu, phục dịch mọi việc như hái trái cây, lấy nước, nhặt củi, dọn ăn, cho đến dùng chính thân mình để làm giường ghế, thân tâm không hề mỏi mệt. Phụng sự như vậy trải qua ngàn năm. Vua vì cầu pháp nên tinh tấn chuyên cần hầu hạ, cung cấp cho vị tiên không để thiếu thốn.”
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:
“Ta nhớ đời quá khứ,
Vì cầu pháp Đại thừa,
Nên tuy làm quốc vương,
Không tham năm món dục.
Truyền rao khắp bốn phương,
Ai biết pháp Đại thừa,
Nếu vì ta thuyết giảng,
Sẽ theo làm tôi tớ.
Có vị tiên A-tư,
Tìm đến bảo vua rằng:
“Ta có pháp nhiệm mầu,
Thế gian này hiếm có.
Nếu có thể tu tập,
Ta sẽ vì vua thuyết.”
Vua nghe vị tiên nói,
Trong lòng rất mừng vui,
Lập tức đi theo hầu,
Cung cấp đủ mọi thứ,
Nhặt củi, hái trái cây,
Thường cung kính phụng sự.
Lòng mong cầu diệu pháp,
Thân tâm không mỏi mệt.
Rộng vì khắp chúng sanh,
Chuyên cần cầu Đại thừa,
Không vì tự thân mình,
Không tham năm món dục.
Nên làm đại quốc vương,
Chuyên cần được pháp này,
Dần đạt đến quả Phật,
Nay vì các ông thuyết.”
Đức Phật bảo các vị tỳ-kheo: “Đức vua thời ấy nay chính là ta, vị tiên thời ấy nay là Đề-bà-đạt-đa. Nhờ bậc thiện tri thức Đề-bà-đạt-đa nên ta mới tu tập được trọn đủ sáu pháp ba-la-mật, [bốn tâm vô lượng] từ bi hỷ xả, đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, thân thể sáng đẹp màu vàng tía,
[33] đủ mười trí lực, bốn pháp vô sở úy, bốn pháp nhiếp phục,
[34] mười pháp không chung cùng,
[35] đủ thần thông đạo lực, thành bậc Chánh đẳng giác, rộng độ chúng sanh. Tất cả đều nhờ thiện tri thức Đề-bà-đạt-đa mà đạt được.”
Đức Phật nói với bốn chúng: “Đề-bà-đạt-đa về sau trải qua vô số kiếp rồi sẽ thành Phật hiệu là Thiên Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Thế giới ấy tên là Thiên Đạo, đức Phật Thiên Vương trụ thế 20 trung kiếp,
[36] rộng vì chúng sanh thuyết giảng diệu pháp, chúng sanh chứng quả A-la-hán nhiều như số cát sông Hằng, vô số chúng sanh phát tâm cầu quả vị Duyên giác, chúng sanh phát tâm cầu đạo Vô thượng nhiều như cát sông Hằng, đều đạt được pháp nhẫn vô sanh, cho đến được giai vị không còn thối chuyển.
“Sau khi đức Phật Thiên Vương nhập Niết-bàn, chánh pháp trụ thế 20 trung kiếp, xá lợi toàn thân Phật được đại chúng xây tháp bảy báu thờ kính, cao 60 do-tuần, hai chiều ngang dọc 40 do-tuần, chư thiên cùng người dân dùng đủ các loại hoa, hương bột, hương đốt, hương thoa cùng các thứ y phục, chuỗi ngọc, cờ phướn, lọng báu, âm nhạc, tụng ca dâng lên cúng dường tháp bảy báu tốt đẹp này; rồi có vô số chúng sanh chứng quả A-la-hán, vô số chúng sanh giác ngộ thành Phật Bích-chi, số chúng sanh phát tâm Bồ-đề cho đến đạt giai vị không còn thối chuyển nhiều đến mức không thể nghĩ bàn.”
Đức Phật bảo các vị tỳ-kheo: “Trong tương lai nếu có thiện nam, thiện nữ nào được nghe phẩm Đề-bà-đạt-đa trong kinh Pháp Hoa này, trong lòng thanh tịnh cung kính tin theo, không sinh nghi hoặc, người ấy sẽ không còn đọa vào các cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, được tái sanh về trước chư Phật mười phương, và dù sanh ra ở nơi nào cũng thường được nghe kinh này. Người ấy nếu sanh trong cõi trời người sẽ được thụ hưởng niềm vui thù thắng nhiệm mầu; nếu sanh ra trước Phật thì hóa sanh từ hoa sen.”
Lúc bấy giờ, có vị Bồ Tát từ phương dưới theo hầu đức Thế Tôn Đa Bảo, hiệu là Trí Tích, thưa với Phật Đa Bảo: “Bạch Thế Tôn! Chúng ta nên quay về.”
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni liền bảo Bồ Tát Trí Tích: “Này thiện nam tử! Hãy chờ trong giây lát. Ở đây có Bồ Tát hiệu là Văn-thù-sư-lợi, các ông có thể gặp nhau luận bàn diệu pháp rồi sau đó hãy quay về.”
Khi ấy, Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi ngồi trên tòa sen ngàn cánh lớn như bánh xe, với những vị Bồ Tát đi cùng cũng ngồi trên tòa sen báu, từ Long cung Sa-kiệt-la trong lòng biển lớn tự nhiên vọt lên, trụ giữa không trung rồi bay đến núi Linh Thứu, từ trên tòa sen bước xuống đến chỗ Phật, cúi đầu chạm mặt kính lễ dưới chân hai đức Thế Tôn. Sau khi kính lễ liền đến chỗ Bồ Tát Trí Tích, cùng thăm hỏi nhau rồi ngồi sang một bên.
Bồ Tát Trí Tích hỏi Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi: “Ngài đến Long cung giáo hóa được bao nhiêu chúng sanh?”
Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi đáp: “Con số ấy không thể suy lường, không thể tính kể, không thể nói ra bằng lời, không thể dùng tâm suy lường,
[37] xin chờ trong giây lát sẽ tự thấy biết.”
Ngài Văn-thù-sư-lợi nói chưa dứt lời thì đã thấy vô số Bồ Tát ngồi trên tòa sen báu từ trong lòng biển vọt lên, cùng đến núi Linh Thứu, trụ giữa không trung. Các vị Bồ Tát này đều là do ngài Văn-thù-sư-lợi giáo hóa, đều đã trọn đủ công hạnh Bồ Tát, đều cùng nhau luận thuyết về sáu pháp ba-la-mật. Những vị vốn trước đây là Thanh văn, ở giữa không trung nói về công hạnh Thanh văn, nay đều tu hành theo nghĩa không của Đại thừa.
Ngài Văn-thù-sư-lợi nói với Bồ Tát Trí Tích: “Tôi đến [Long cung] trong lòng biển giáo hóa, sự việc là như vậy.”
Bấy giờ, Bồ Tát Trí Tích liền nói kệ khen ngợi rằng:
“Bậc trí đức mạnh mẽ,
Độ chúng sanh vô số,
Nay trong đại hội này,
Cũng như tôi, đều thấy.
Tuyên giảng nghĩa thật tướng,
Mở bày pháp Nhất thừa,
Rộng dẫn dắt chúng sanh,
Khiến mau thành quả Phật.”
Ngài Văn-thù-sư-lợi nói: “Tôi đến [giáo hóa] trong lòng biển, chỉ thường tuyên thuyết kinh Diệu Pháp Liên Hoa.”
Bồ Tát Trí Tích liền hỏi Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi: “Kinh này rất thâm sâu mầu nhiệm, là quý báu trong các kinh, thế gian hiếm có, vậy có chúng sanh nào nhờ chuyên cần tinh tấn tu hành kinh này mà nhanh chóng được thành Phật chăng?”
Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi nói: “Có người con gái Long vương Sa-kiệt-la là Long nữ, mới vừa tám tuổi, là người có trí tuệ, căn tánh nhanh nhạy, khéo rõ biết căn cơ và hành nghiệp của chúng sanh, được pháp tổng trì,
[38] có khả năng thọ nhận giữ gìn tất cả những pháp tạng sâu xa bí mật mà chư Phật đã thuyết giảng, thâm nhập sâu vào thiền định, thấu đạt rõ ràng các pháp, chỉ trong khoảnh khắc một sát-na đã phát tâm Bồ-đề, đạt được giai vị không còn thối chuyển, biện tài không ngăn ngại, tâm từ mẫn nhớ nghĩ chúng sanh như cha mẹ thương con đỏ, trọn đủ mọi công đức, ý niệm và lời nói đều vi diệu lớn lao, từ bi, nhân đức, nhún nhường, tâm chí hòa nhã, có thể đạt đến quả Phật.”
Bồ Tát Trí Tích nói: “Tôi thấy đức Như Lai Thích-ca trải qua vô số kiếp tu hành khổ hạnh khó khăn, tích lũy công đức cầu đạo Bồ-đề chưa từng dừng nghỉ, nay quán xét trong khắp cõi thế giới đại thiên, không một nơi chốn nào dù nhỏ như hạt cải mà không phải nơi Bồ Tát đã từng xả bỏ thân mạng vì chúng sanh, như vậy rồi sau mới thành tựu quả Phật. Thật không tin được người con gái này chỉ trong khoảnh khắc liền thành bậc Chánh giác.”
Những lời bàn luận còn chưa dứt, bỗng dưng đã thấy Long nữ hiện ra ngay trước, cúi đầu chạm mặt kính lễ Phật rồi đứng sang một bên, đọc kệ xưng tán rằng:
“Thấu suốt tướng tội, phước,
Soi chiếu khắp mười phương,
Pháp thân tịnh, nhiệm mầu,
Đủ ba mươi hai tướng,
Dùng tám mươi vẻ đẹp,
Để trang nghiêm pháp thân.
Trời, người đều kính ngưỡng,
Thần, rồng cùng cung kính,
Và muôn loài chúng sanh,
Đều tôn kính phụng thờ.
Lại nghe: ‘Thành quả Phật,
Chỉ Phật mới chứng biết.’
Con mở bày Đại thừa,
Độ thoát chúng sanh khổ.”
Bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất nói với Long nữ: “Cô nói rằng không bao lâu sẽ thành đạo Vô thượng, việc đó thật khó tin. Vì sao vậy? Thân nữ uế nhiễm, không phải pháp khí,
[39] làm sao có thể đạt được Vô thượng Bồ-đề? Phật đạo sâu rộng xa thẳm, phải trải qua vô số kiếp chuyên cần khó nhọc tu tích công hạnh, trọn đủ các pháp ba-la-mật, sau đó mới được thành tựu. Lại nữa, thân nữ còn có năm điều chướng ngại là không làm được Phạm thiên vương, Đế thích, Ma vương, Chuyển luân Thánh vương và thân Phật. Như vậy làm sao thân nữ có thể nhanh chóng thành Phật?”
Lúc bấy giờ, Long nữ có một viên ngọc quý giá trị bằng cả thế giới đại thiên, mang ra dâng lên đức Phật. Đức Phật liền thọ nhận. Long nữ nói với Bồ Tát Trí Tích và ngài Xá-lợi-phất: “Tôi dâng ngọc quý, đức Thế Tôn thọ nhận, việc ấy có nhanh chăng?”
Hai vị cùng đáp: “Rất nhanh.”
Long nữ liền nói: “Nếu dùng thần lực của các vị để xem việc tôi thành Phật thì cũng nhanh như vậy.”
Lúc bấy giờ tất cả hội chúng đều nhìn thấy Long nữ bỗng trong khoảnh khắc biến thành thân nam, trọn đủ hạnh Bồ Tát, tức thời đi sang thế giới Vô Cấu ở phương nam, ngồi trên tòa sen báu, thành bậc Chánh Đẳng Giác, đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, rộng vì hết thảy chúng sanh trong mười phương thuyết giảng diệu pháp.
Khi ấy ở thế giới Ta-bà, hết thảy Bồ Tát, Thanh văn, tám bộ chúng, người và loài phi nhân đều từ xa nhìn thấy Long nữ thành Phật, rộng vì khắp chúng hội chư thiên và loài người nơi ấy thuyết pháp, liền hết sức hoan hỷ cùng kính lễ từ xa. Vô số chúng sanh nghe pháp được nhận hiểu tỏ ngộ, đạt địa vị không còn thối chuyển; vô số chúng sanh được thụ ký đạt đạo. Thế giới Vô Cấu chấn động sáu lượt. Tại thế giới Ta-bà có 3.000 chúng sanh trụ ở địa vị không còn thối chuyển, 3.000 chúng sanh phát tâm Bồ-đề rồi được thụ ký.
Bồ Tát Trí Tích và ngài Xá-lợi-phất cùng hết thảy chúng hội đều lặng yên tin nhận.
13. Phẩm Khuyến khích thọ trì
Lúc bấy giờ, Đại Bồ Tát Dược Vương và Đại Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết cùng với 20.000 vị Bồ Tát thân cận đi theo đều cùng nhau ở trước Phật phát lời thệ nguyện rằng: “Nguyện đức Thế Tôn đừng lo nghĩ việc này. Sau khi Phật diệt độ, chúng con sẽ cung kính giữ gìn, tụng đọc, thuyết giảng kinh điển này. Chúng sanh trong đời xấu ác về sau căn lành dần ít đi, phần nhiều đều là những kẻ hết sức kiêu căng ngạo mạn, tham mối lợi cúng dường, những việc bất thiện tăng thêm, xa lìa con đường giải thoát. Tuy rằng khó giáo hóa được họ, nhưng chúng con sẽ phát khởi sức nhẫn nhục lớn lao, tụng đọc kinh này, hành trì, thuyết giảng, sao chép nhân rộng, thực hiện mọi sự cúng dường, không tiếc cả thân mạng.”
Khi ấy ở giữa đại chúng, 500 vị A-la-hán đã được thụ ký liền bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng xin tự phát lời thệ nguyện, ở nơi cõi thế giới khác giảng rộng kinh này.”
Lại có 8.000 vị đã được thụ ký ở trong hàng [Thanh văn] hữu học và vô học, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng Phật, phát thệ nguyện rằng: “Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng sẽ ở nơi cõi thế giới khác giảng rộng kinh này. Vì sao vậy? Vì trong cõi Ta-bà này con người phần nhiều xấu xa hung ác, ôm lòng kiêu căng ngạo mạn, công đức mỏng manh cạn cợt, sân hận uế trược, gian trá dua nịnh, lòng không chân thật.”
Bấy giờ, di mẫu của đức Phật là Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề
[40] cùng với 6.000 vị tỳ-kheo-ni thân cận cùng đi thuộc hàng hữu học và vô học, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, một lòng chắp tay chiêm ngưỡng tôn nhan Phật không hề chớp mắt.
Khi ấy, đức Thế Tôn nói với bà Kiều-đàm-di: “Vì sao bà lại nhìn Như Lai với ánh mắt u buồn như vậy? Hẳn trong lòng bà cho rằng ta đã không nhắc đến tên, không thụ ký quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho bà? Này Kiều-đàm-di! Trước đây ta đã nói chung rằng hết thảy hàng Thanh văn đều được thụ ký. Nay bà muốn biết cụ thể, thì đời tương lai bà sẽ làm bậc đại pháp sư trong chánh pháp của 68.000 ức vị Phật, cùng với 6.000 tỳ-kheo-ni thuộc hàng hữu học và vô học ở đây cũng đều sẽ là bậc pháp sư. Cứ như vậy rồi bà sẽ dần dần trọn đủ [công hạnh] đạo Bồ Tát, sẽ thành Phật hiệu là Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Này Kiều-đàm-di! Tiếp theo đức Phật Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến, 6.000 vị Bồ Tát sẽ lần lượt được thụ ký quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”
Bấy giờ, mẹ của ngài La-hầu-la là Tỳ-kheo-ni Da-du-đà-la khởi lên ý nghĩ rằng: “Đức Thế Tôn trong khi thụ ký chỉ riêng tên ta là không nhắc đến.”
Đức Phật bảo Da-du-đà-la: “Trong tương lai bà sẽ tu hạnh Bồ Tát trong chánh pháp của trăm ngàn muôn ức đức Phật, làm vị đại pháp sư, rồi dần dần trọn đủ Phật đạo, ở trong cõi nước tốt lành
[41] mà thành Phật hiệu là Cụ Túc Thiên Vạn Quang Tướng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, tuổi thọ đến vô số a-tăng-kỳ kiếp.”
Khi ấy, tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề và tỳ-kheo-ni Da-du-đà-la cùng những người thân cận cùng đi thảy đều hết sức mừng vui hoan hỷ, được điều chưa từng có, liền ở trước Phật cùng đọc kệ rằng:
Đấng Đạo sư Thế Tôn,
Giúp trời, người an ổn.
Chúng con được thụ ký,
Tâm an vui trọn đủ.
Các vị tỳ-kheo-ni đọc kệ như vậy rồi cùng bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng có thể ở những cõi thế giới khác truyền bá giảng rộng kinh này.”
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đưa mắt nhìn 80 muôn ức na-do-tha các vị Đại Bồ Tát. Các vị Bồ Tát này đều đã đạt địa vị không còn thối chuyển, chuyển bánh xe pháp không thối chuyển, đạt được các pháp tổng trì. Các vị liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước đức Phật, một lòng chắp tay rồi có ý nghĩ rằng: “Nếu đức Thế Tôn dạy bảo chúng con thọ trì giảng thuyết kinh này, chúng con sẽ y theo lời Phật dạy mà truyền bá giảng rộng.” Rồi các vị ấy lại suy nghĩ: “Nay Phật lặng yên không ban lời dạy bảo, chúng ta nên làm thế nào?”
Rồi các vị Bồ Tát kính thuận ý Phật cũng như muốn tự làm trọn đủ tâm nguyện từ trước, liền ở trước Phật dùng tiếng uy nghiêm như sư tử gầm mà phát lời thệ nguyện rằng: “Bạch Thế Tôn! Sau khi Như Lai diệt độ, chúng con qua lại trong các thế giới ở khắp mười phương, nếu có thể khiến cho chúng sanh sao chép kinh này, thọ trì, tụng đọc, giảng thuyết nghĩa kinh, y theo giáo pháp trong kinh tu hành, nghĩ nhớ chân chánh, đều là nhờ nơi oai lực của Phật. Kính nguyện đức Thế Tôn ở phương xa nhìn thấy mà che chở bảo vệ cho.”
Tức thời, các vị Bồ Tát đều đồng thanh đọc kệ rằng:
“Nguyện Phật đừng lo nghĩ,
Sau khi Phật diệt độ,
Trong đời ác đáng sợ,
Chúng con sẽ giảng rộng.
Dù có kẻ ngu si,
Dùng lời ác mắng chửi,
Lại thêm dùng dao gậy,
Chúng con đều nhẫn chịu.
Tỳ-kheo đời xấu ác,
Trí tà vạy, dua nịnh,
Chưa chứng nói đã chứng,
Tâm kiêu ngạo tràn đầy.
Hoặc ở nơi vắng vẻ,
Dùng y phục xấu tệ,
Tự xưng tu chánh đạo,
Khinh miệt người thế gian.
Hoặc tham đắm lợi dưỡng,
Thuyết pháp với cư sĩ,
Được người đời cung kính,
Như La-hán lục thông.
Hoặc ôm lòng xấu ác,
Thường nghĩ việc thế tục,
Giả xưng bậc ẩn dật,
Bới móc lỗi chúng con.
Họ nói lời thế này:
‘Những ông tỳ-kheo đó,
Chỉ vì tham lợi dưỡng,
Thuyết dạy pháp ngoại đạo.
Tự nghĩ ra kinh này,
Để lừa gạt người đời.
Vì cầu được danh tiếng,
Nên giảng giải kinh này.’
Họ ở giữa đại chúng,
Muốn làm nhục chúng con,
Đến chỗ vua, đại thần,
Cư sĩ, bà-la-môn,
Và những tỳ-kheo khác,
Rồi phỉ báng, chê bai:
‘Bọn chúng là tà kiến,
Nói toàn thuyết ngoại đạo.’
Chúng con cung kính Phật,
Nên nhẫn chịu tất cả.
Những kẻ khinh miệt ấy,
Sau đều sẽ thành Phật,
Nên bao lời khinh miệt,
Chúng con đều nhẫn chịu.
[42]
Đời xấu ác, uế trược,
Có nhiều điều đáng sợ,
Quỷ ác nhập thân người,
Mắng, làm nhục, chúng con,
Chúng con tin kính Phật,
Mặc áo giáp nhẫn nhục.
Vì thuyết giảng kinh này,
Nhẫn chịu mọi khó khăn.
Con không tiếc thân mạng,
Chỉ trân quý Phật đạo,
Chúng con trong tương lai,
Giữ kinh như lời Phật.
Thế Tôn tự rõ biết,
Các tỳ-kheo đời ác,
Không biết phương tiện Phật,
Thuyết pháp cho thích hợp.
Nhăn mặt, nói lời ác,
Xô đuổi người thuyết kinh,
Phải xa lìa chùa tháp.
Bao việc ác như vậy,
Chúng con nhớ lời Phật,
Nên nhẫn nhục được hết.
Khắp xóm thôn, thành thị,
Nếu có người cầu pháp,
Chúng con đều tìm đến,
Thuyết dạy theo lời Phật.
Làm sứ giả Thế Tôn,
Giữa đại chúng không sợ,
Chúng con khéo thuyết pháp,
Kính nguyện Phật an lòng.
Chúng con ở trước Phật,
Cùng chư Phật mười phương,
Phát lời thệ nguyện này,
Phật biết lòng chúng con.”
____________________________
CHÚ THÍCH
[1] Theo bản Anh dịch của H. Kern thì câu này là “Chỉ có đức Như Lai mới biết được khuynh hướng và sự tu tập trong quá khứ của chúng con.” (None but the Tathâgata knows our inclination and our ancient course.)
[2] Nguyên tác là “示教利喜 - thị giáo lợi hỷ”, chỉ 4 giai đoạn tuần tự giáo hóa. Thị là chỉ bày, làm cho thấy biết, nhận hiểu; giáo là dạy dỗ, giảng giải phương pháp tu tập; lợi là nói lúc người tu tập đã đạt được lợi ích lớn lao từ sự tu tập, nên có ý nghĩa khuyến khích tiếp tục chuyên cần; hỷ là nói lúc người tu tập thành tựu nên đạt được niềm vui chân thật, tự chứng nghiệm được chánh pháp. Cũng có thể hiểu 4 giai đoạn này tương ứng với 3 giai đoạn chuyển pháp luân: Thị là thị chuyển; giáo là khuyến chuyển, lợi và hỷ là chứng chuyển; lại cũng tương ứng với 4 giai đoạn tu tập bốn chân đế: Thị là thị khổ, giáo là đoạn tập, lợi là tu đạo và hỷ là chứng diệt.
[3] Bản Anh dịch của H. Kern là “không ai có thể sánh bằng Phú-lâu-na” (none able to equal Pūna).
[4] Bản Anh dịch của H. Kern dịch chỗ này là “99 vị Phật” (ninety-nine Buddhas).
[5] Kinh văn nói “ 為淨佛土故 - vị tịnh Phật độ cố”, xét theo ngữ cảnh phía sau mô tả cõi Phật nghiêm tịnh mà ngài Phú-lâu-na đạt được khi thành Phật, nên hiểu rằng đây là những nhân tố tu tập giúp thành tựu cõi Phật thanh tịnh đó. Kinh Duy-ma-cật nói: “Tùy chỗ thành tựu cho chúng sinh mà được cõi Phật thanh tịnh.”
[6] Bảy vị Phật (七佛) bao gồm cả đức Phật Thích-ca, cụ thể là Tỳ-bà-thi Phật (毘婆尸佛), Thi-khí Phật (尸棄佛), Tỳ-xá-phù Phật (毘舍浮佛), Câu-lưu-tôn Phật (拘留孫佛), Câu-na-hàm Mâu-ni Phật (拘那含牟尼佛), Ca-diếp Phật (迦葉佛) và Thích-ca Mâu-ni Phật (釋迦牟尼佛).
[7] Bản Anh dịch của H. Kern là “996 vị Phật” (a thousand less four).
[8] Bản Anh dịch của H. Kern nói là “trông giống như được hình thành từ nhiều ngàn cõi nước nhiều như số cát của con sông Hằng” (…will look as if formed by thousands of spheres similar to the sands of the river Ganges).
[9] Kinh văn nói “無女人 - vô nữ nhân”, nghĩa là không có nữ giới, nhưng như vậy thì cũng không có sự phân biệt để gọi là “nam giới”, như câu kinh tiếp theo nói “không có sự dâm dục”, cho nên có thể hiểu sự mô tả ở đây như là “không có giới tính”. Tất cả chúng sanh đều hóa sanh nên không có sự khác biệt giới tính.
[10] Kinh văn chỉ nói là 32 tướng (三十二相 - tam thập nhị tướng), bản Anh dịch của H. Kern nói đủ hơn là “32 tướng của bậc đại nhân” (thirty-two characteristics of a great man). Bản Hán dịch Chánh Pháp Hoa kinh cũng nói đủ là “32 tướng biểu lộ của bậc đại nhân” (三十二表大人之相 - tam thập nhị biểu đại nhân chi tướng). Theo cách hiểu thông thường thì ở đây chỉ đến 32 tướng tốt giống như của đức Phật.
[11] Bản Anh dịch của H. Kern nói tương đồng về thời gian Phật trụ thế (sixty thousand Æons), và nói Chánh pháp trụ thế lâu gấp đôi thời gian Phật trụ thế (his true law shall remain twice as long in the world), tượng pháp lại trụ thế lâu gấp ba lần (the counterfeit of it shall continue three times as long).
[12] Bản Hán văn dùng chữ “mỗ giáp” (某甲當作佛 - mỗ giáp đương tác Phật) để phiếm chỉ một tên gọi bất kỳ, hàm ý các vị A-la-hán này khi thành Phật rồi đều sẽ lần lượt thụ ký cho vị Phật tiếp theo sau mình giống như vậy, thay chữ “mỗ giáp” bằng danh hiệu của người được thụ ký.
[13] Kinh văn dùng “trường dạ” (đêm dài), hàm ý chỉ luân hồi sanh tử trong vô minh tăm tối giống như đêm dài không ánh sáng.
[14] So sánh với việc thụ ký cho các vị Bồ Tát ở trước thì ở đây ngài A-nan được thụ ký với mọi phẩm tính đều lớn lao, trang nghiêm thanh tịnh hơn rất nhiều, do đó khiến cho chúng hội khởi nghi.
[15] Nguyên tán Hán văn dùng “đại sĩ” là một cách danh xưng khác để gọi các vị Bồ Tát. Vì trước đây đã gọi 8.000 vị này là Bồ Tát nên chúng tôi dùng lại như trước để dễ hiểu.
[16] Nguyên tác kinh văn là “作色 - tác sắc”, dịch sát nghĩa là thay đổi sắc mặt, trong ngữ cảnh này được hiểu là lộ rõ vẻ hung hăng.
[17] So sánh nội dung tương đương trong bản Anh dịch của H. Kern là “eighteen thousand kotis of Æons”, tức là “mười tám ngàn ức kiếp”.
[18] Kinh văn dùng chữ “未曾顯說 - vị tằng hiển thuyết”, hiểu theo nghĩa đen là chưa từng thuyết giảng công khai, không che giấu. Các bản dịch hiện có dịch là “chưa hề nói đến một cách minh bạch (HT Trí Quang)”, hoặc “chưa từng bày nói” (HT Trí Tịnh). Bản Anh dịch của H. Kern là “never divulged” (chưa bao giờ công khai). Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng hàm ý trong ngữ cảnh ở đây là chỉ thuyết giảng cho một số thính chúng chọn lọc, thích hợp, không thuyết giảng chung cho tất cả mọi người. Việc đức Phật đợi cho 5.000 người có căn cơ không thích hợp rời khỏi pháp hội rồi mới thuyết kinh này là một thí dụ minh họa cho ý nghĩa này. Ngay câu kinh trước cũng nói rằng kinh này không được “truyền trao không đúng người” (妄授與人 - vọng thụ dữ nhân). Và ý nghĩa phải chọn đúng người thích hợp mới thuyết giảng kinh này đã được nói rất rõ trong phần cuối phẩm Thí dụ.
[19] Kinh văn dùng chữ “怨嫉 - oán tật”, nghĩa là oán ghét. So sánh với bản Anh dịch ở vị trí này là “rejected” (từ chối, không chấp nhận), về mặt ý nghĩa có vẻ như hợp lý hơn. Như câu kinh trước nói kinh này “khó tin khó hiểu nhất” nên thính chúng ít người tin nhận. Trong khi đó, ý nghĩa “oán ghét” có lẽ chỉ đến hàng ngoại đạo, kẻ xấu.
[20] Nguyên tác kinh văn là “我於餘國 - ngã ư dư quốc”. Chữ “dư quốc” được giải thích ở nhiều phần kinh văn trước là cảnh giới không thuộc về ba cõi (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới).
[21] Ở đây nhắc lại về những phẩm đức: vào nhà Như Lai, đắp y Như Lai, ngồi tòa Như Lai, như trên đã nói.
[22] Đa-ma-la-bạt (H. 多摩羅跋, S. tamālapa), một loại chiên-đàn quý, có mùi hương rất thơm.
[23] Văn Cú dùng “三十三天 - tam thập tam thiên” (Trāyastriṃśat-deva), tức là cõi trời Đao-lợi (忉利天). Vì cõi trời này có tất cả 33 thiên cung nên được gọi là cõi trời Tam thập tam (ba mươi ba). Đây là tầng trời thứ hai trong 6 tầng trời thuộc Dục giới.
[24] Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết (大樂說), được dịch từ tên Phạn ngữ là Mahā Pratibhāna. Tên gọi này có liên quan đến một trong Tứ vô ngại biện là Nhạo thuyết vô ngại biện, tức là biện tài không ngăn ngại, có thể thuyết pháp tùy theo sự ưa thích của chúng sanh. Do vậy, tuy chữ 樂 có thể đọc theo cả 2 âm là “lạc” (niềm vui) hoặc “nhạo” (ưa thích), nhưng đọc là “nhạo” mới phù hợp với tên của vị này. Kinh Chánh Pháp Hoa dịch là Bồ Tát Đại Biện (大辯菩薩).
[25] Theo bản Anh dịch của H. Kern thì là về phương dưới (in the point of space below). Điều này phù hợp với phần kinh văn trong phẩm Đề-bà-đạt-đa nói Bồ Tát Trí Tích, thị giả của Phật Đa Bảo, đến từ phương dưới.
[26] Kinh văn dùng chữ “寶衣 - bảo y”, thông thường hiểu là “áo quý”, nhưng trong ngữ cảnh này không phải y áo để mặc mà là những tấm vải quý. Bản Anh dịch của H. Kern là “decorated with strings of fine cloth” (trang hoàng bằng những tấm vải đẹp).
[27] Kinh văn dùng “八道 - bát đạo” (8 con đường), tức chỉ các con đường đi về tám hướng, là các hướng đông, tây, nam, bắc và 4 hướng phụ là đông nam, đông bắc, tây nam và tây bắc.
[28] Kinh văn phần trên nói đức Phật Thích-ca Mâu-ni 2 lần biến hóa ra các cõi nước, mỗi lần là 200 muôn ức na-do-tha cõi nước, cho nên ở đây nói tổng cộng là 400 muôn ức na-do-tha.
[29] Cõi trời Hữu đỉnh (有頂天), chỉ tầng trời thứ 9, cao nhất của cõi Sắc. Tên gọi này lại cũng chỉ tầng trời thứ tư của cõi Vô sắc, cũng là cao nhất cõi này, và do đó cũng là cao nhất trong ba cõi.
[30] Hạnh đầu-đà (H. 頭陀, S. dhūta), chỉ một pháp tu tiết chế nhiều trong sinh hoạt thường ngày như ăn uống, ngủ nghỉ, thường bị nhầm lẫn như là khổ hạnh, nhưng thật ra chỉ là tiết chế đúng pháp chứ không phải khổ hạnh. Theo kinh văn Hán truyền thì có 12 hạnh đầu đà, bao gồm: 1. Sống nơi thanh vắng yên tĩnh; 2. Thường thực hành pháp khất thực; 3. Đi khất thực luôn bình đẳng theo thứ lớp; 4. Mỗi ngày chỉ ăn một bữa; 5. Ăn điều độ, có chừng mực; 6. Sau bữa ăn không uống nước; 7. Chỉ dùng tệ nạp y; 8. Chỉ có 3 tấm y; 9. Ngủ nghỉ nơi nghĩa địa; 10. Ngủ nghỉ dưới gốc cây; 11. Ngủ nghỉ nơi đồng trống; 12. Khi nghỉ ngơi cũng chỉ ngồi không nằm.
[31] Trong bản Anh dịch của H. Kern thì nội dung này là tiếp theo trong phẩm Hiện tháp báu, không tách riêng thành phẩm Đề-bà-đạt-đa như bản Hán dịch.
[32] Bản Đại Chánh chép chỗ này là “懈惓 - giải quyền”, có lẽ nhầm. Chúng tôi tham khảo bản Càn Long chép là “懈倦 - giải quyện” hợp lý hơn, vì chữ quyền (惓 - bộ tâm) mang nghĩa là thành khẩn, chân thành, trong khi chữ quyện (倦 - bộ nhân) mang nghĩa là mệt mỏi, chán mệt. Đây mới là ý nghĩa thích hợp trong ngữ cảnh này. Cũng có thể theo cách dùng xưa kia thì 2 chữ thông nghĩa lẫn nhau.
[33] Văn Cú dùng “紫磨金色 - tử ma kim sắc” (màu vàng tử ma). Vàng tử ma là loại vàng ròng có màu vàng pha sắc tía, được cho là loại vàng tốt nhất, quý nhất. Trong một số kinh luận cũng gọi loại vàng này là vàng diêm-phù-đàn (閻浮檀).
[34] Bốn pháp nhiếp phục, tức Tứ nhiếp pháp (H. 四攝法, S. catvāri-saṃgrahavastūni), bao gồm: 1. Bố thí (H. 布施, S. dāna), dùng pháp bố thí để nhiếp phục, dẫn dắt; 2. Ái ngữ (H. 愛語, S. priyavāditā), dùng lời nhu hòa, êm ái để nhiếp phục, dẫn dắt; 3. Lợi hành (H. 利行, S. arthacaryā), dùng việc làm có lợi cho người khác để nhiếp phục, dẫn dắt; 4. Ðồng sự (H. 同事, S. samānārthatā), cùng chung công việc để nhiếp phục, dẫn dắt.
[35] Kinh văn dùng “thập bát bất cộng”, tức thập bát bất cộng pháp (H. 十八不共法, S: aṣṭādaśāveṇikabuddhadharmāḥ), chỉ 18 phẩm tính siêu việt chỉ có ở chư Phật, không có ở hàng Thanh văn, Duyên giác, cho nên gọi là “bất cộng” (không chung cùng). Các pháp này gồm có: 1. Thân vô thất (身無失): thân chân chánh, không có lỗi lầm; 2. Khẩu vô thất (口無失): lời nói chân chánh, không có lỗi lầm; 3. Niệm vô thất (念無失): Tâm niệm không có lỗi lầm; 4. Vô dị tưởng (無異想): Không có ý tưởng phân biệt, đối đãi bình đẳng với tất cả; 5. Vô bất định tâm (無不定心): Tâm thường trong định, không tán loạn; 6. Vô bất tri kỷ xả tâm (無不知己捨心): Luôn rõ biết những tâm niệm buông xả, luôn an trụ trong tâm xả, không khổ không vui; 7. Dục vô giảm (欲無減): Tâm nguyện, ý muốn độ sinh không suy giảm; 8. Tinh tấn vô giảm (精進無減): Tinh tấn không thối chuyển, thường dùng phương tiện độ sinh; 9. Niệm vô giảm (念無減): Tâm niệm không suy giảm, không thối thất; 10. Tuệ vô giảm (慧無減): Trí tuệ viên mãn, viên mãn không khuyết thiếu, không suy giảm; 11. Giải thoát vô giảm (解脱無減): Giải thoát không suy giảm, đầy đủ các giải thoát hữu vi và vô vi, dứt mọi phiền não, tập khí; 12. Giải thoát tri kiến vô giảm (解脱知見無減): Thấy biết các tướng giải thoát không ngăn ngại nên tri kiến giải thoát không suy giảm; 13. Nhất thiết thân nghiệp tùy trí tuệ hành (一切身業隨智慧行): Mọi hành động của thân đều được trí tuệ soi chiếu, phù hợp; 14. Nhất thiết khẩu nghiệp tùy trí tuệ hành (一切口業隨智慧行): Hết thảy mọi lời nói đều xuất phát từ trí tuệ; 15. Nhất thiết ý nghiệp tùy trí tuệ hành (一切意業隨智慧行): Tất cả ý nghĩ khởi lên đều có sự soi chiếu của trí tuệ; 16. Trí tuệ tri kiến quá khứ thế vô ngại vô chướng (智慧知見過去世無閡無障): Trí tuệ thấy biết các đời quá khứ không có chướng ngại; 17. Trí tuệ tri kiến vị lai thế vô ngại vô chướng (智慧知見未來世無閡無障): Trí tuệ thấy biết tương lai không có chướng ngại. 18. Trí tuệ tri kiến hiện tại thế vô ngại vô chướng (智慧知見現在世無閡無障): Trí tuệ thấy biết trong hiện tại không có chướng ngại.
[36] Trung kiếp: là khoảng thời gian bằng 20 tiểu kiếp. Mỗi tiểu kiếp là khoảng thời gian tuổi thọ con người trải qua đủ một chu kỳ tăng và giảm, theo luận Câu-xá (quyển 10) là 16.800.000 năm. Do đó, một trung kiếp là thời gian 336.000.000 năm. Thời gian 80 trung kiếp hợp thành một đại kiếp.
[37] Kinh văn chỗ này chép là “非口所宣,非心所測 - phi khẩu sở tuyên, phi tâm sở trắc” (không thể nói ra bằng lời, không thể suy lường trong tâm). Trong kinh Tát-đàm Phân-đà-lợi thì chép là: “若當口說,非心所信 - nhược đương khẩu thuyết, phi tâm sở tín” (nếu nói ra bằng lời thì trong lòng không tin được).
[38] Kinh văn dùng chữ “陀羅尼 - đà-la-ni”, phiên âm từ Phạn ngữ dhāraṇī, Hán dịch là “tổng trì” (總持), có nghĩa là thâu nhiếp, nắm giữ được tất cả, không bỏ sót.
[39] Pháp khí: vật chứa đựng chánh pháp, dùng với ý nghĩa biểu trưng để chỉ người có thể học hỏi và truyền bá chánh pháp, như các vị tăng giáo hóa nhiều người thường được tôn xưng là bậc pháp khí.
[40] Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề (H. 摩訶波闍波提, S. Mahā Prajāpatī), là em gái của Hoàng hậu Ma-da, tức dì của thái tử Tất-đạt-đa. Hoàng hậu Ma-da sau khi sanh thái tử được 7 ngày thì qua đời, bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề đã thay thế làm người nuôi dưỡng, chăm sóc thái tử Tất-đạt-đa, cho nên bà thường được gọi một cách cung kính là di mẫu của Phật. Bà cũng được gọi là Kiều-đàm-di (憍曇彌) hoặc Cù-đàm-di (瞿曇彌).
[41] Kinh văn nói “於善國中 - ư thiện quốc trung”, theo ngữ cảnh ở đây không phải nói tên cõi nước là “Thiện Quốc”, vì những nơi khác trong kinh khi Phật thụ ký về tên cõi nước sẽ dùng “國名 - quốc danh” (cõi nước tên là…). Hơn nữa, ở đây nếu hiểu chữ “quốc” để chỉ cõi nước thì trong tên cõi nước chỉ còn lại một chữ “thiện”, không hợp lý. Do vậy chỉ có thể hiểu là “ở trong cõi nước tốt lành”. Bản Anh dịch của H. Kern cũng hoàn toàn không đề cập đến tên cõi nước trong lời thụ ký này.
[42] Nguyên văn 4 câu kệ này là: “ 為斯所輕言, 汝等皆是佛,如此輕慢言, 皆當忍受之。 - Vi tư sở khinh ngôn, nhữ đẳng giai thị Phật, như thử khinh mạn ngôn, giai đương nhẫn thụ chi.” Các bản dịch trước đây đều cho rằng đây là lời chế giễu khi gọi “các người đều là Phật”. Chúng tôi cho rằng tự thân kinh văn không nói đến ý nghĩa “chế giễu” mà chỉ nêu rõ tinh thần của Pháp Hoa: “Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật”, do đó ngay cả những kẻ xấu xa hiện nay đang nói ra lời khinh miệt đối với người hoằng pháp, thì trong tương lai rồi họ cũng sẽ thành Phật, bởi tánh Phật của họ không hề mất đi. Bản Anh dịch của H. Kern có nội dung khá tương tự: “And those fools who will not listen to us, shall (sooner or later) become enlightened, and therefore will we forbear to the last.” (Và những kẻ ngu si không lắng nghe chúng con nhưng rồi (sớm hay muộn) cũng sẽ thành Phật, và do vậy nên chúng con sẽ nhẫn chịu đến cùng.)