Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng

Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
"Nó mắng tôi, đánh tôi, Nó thắng tôi, cướp tôi." Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình. Kinh Pháp cú
Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận. Kinh Pháp cú
Xưa, vị lai, và nay, đâu có sự kiện này: Người hoàn toàn bị chê,người trọn vẹn được khen.Kinh Pháp cú (Kệ số 228)
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay. Kinh Bốn mươi hai chương
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Diệu Pháp Liên Hoa Kinh [妙法蓮華經] »» Bản Việt dịch quyển số 1 »»

Diệu Pháp Liên Hoa Kinh [妙法蓮華經] »» Bản Việt dịch quyển số 1

» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Việt dịch (2) » Việt dịch (3) » Việt dịch (4) » English version (1) » English version (2) » Nguyên bản Sanskrit » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 1.67 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.98 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Kính mong quý độc giả xem kinh cùng góp sức hoàn thiện bằng cách gửi email về admin@pgvn.org
để báo cho chúng tôi biết những chỗ còn có lỗi.

Kinh này có 7 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 |
Việt dịch: Nguyễn Minh Tiến

Đại Tạng Kinh Việt Nam

Font chữ:

1. Phẩm Tựa

Tôi nghe như thế này, vào lúc đức Phật ở tại thành Vương Xá, giữa núi Kỳ-xà-quật, cùng với chúng đại tỳ-kheo 1.200 vị,[1] hết thảy đều là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã dứt, không bị phiền não trở lại, được lợi lạc bản thân, dứt hết trói buộc trong các cõi hiện hữu, tâm được tự tại.

Tên các ngài là: A-nhã Kiều-trần-như,[2] Ma-ha Ca-diếp,[3] Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, Già-da Ca-diếp, Na-đề Ca-diếp,[4] Xá-lợi-phất,[5] Đại Mục-kiền-liên,[6] Ma-ha Ca-chiên-diên,[7] A-nậu-lâu-đà,[8] Kiếp-tân-na,[9] Kiều-phạm-ba-đề,[10] Ly-bà-đa,[11] Tất-lăng-già-bà-sa,[12] Bạc-câu-la,[13] Ma-ha Câu-hi-la,[14] Nan-đà,[15] Tôn-đà-la Nan-đà,[16] Phú-lâu-na Di-đà-la-ni tử,[17] Tu-bồ-đề,[18] A-nan,[19] La-hầu-la.[20] Đó là các vị đại A-la-hán được nhiều người biết đến.[21]

Lại có các vị hữu học, vô học[22] đến 2.000 người.

Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề[23] cùng với ni chúng 6.000 người cùng đến. Mẹ của La-hầu-la là tỳ-kheo-ni Da-du-đà-la[24] cũng cùng đến với ni chúng.

Có 80.000 vị Đại Bồ Tát, tất cả đều không còn thối chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác,[25] đều đạt được đà-la-ni, có tài biện luận vui thích thuyết giảng, chuyển bánh xe pháp không còn thối chuyển, từng cúng dường vô số trăm nghìn đức Phật, ở nơi chư Phật gieo trồng các gốc công đức, thường được chư Phật ngợi khen xưng tán, dùng tâm từ tu thân, khéo thể nhập trí tuệ Phật, thông đạt trí tuệ lớn lao, đạt đến bờ giải thoát, danh xưng được nghe biết khắp vô số thế giới, thường cứu độ vô số trăm ngàn chúng sanh.

Danh hiệu của các vị là: Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi,[26] Bồ Tát Quán Thế Âm,[27] Bồ Tát Đắc Đại Thế,[28] Bồ Tát Thường Tinh Tấn,[29] Bồ Tát Bất Hưu Tức,[30] Bồ Tát Bảo Chưởng,[31] Bồ Tát Dược Vương,[32] Bồ Tát Dũng Thí,[33] Bồ Tát Bảo Nguyệt,[34] Bồ Tát Nguyệt Quang,[35] Bồ Tát Mãn Nguyệt,[36] Bồ Tát Đại Lực,[37] Bồ Tát Vô Lượng Lực,[38] Bồ Tát Việt Tam Giới,[39] Bồ Tát Bạt-đà-bà-la,[40] Bồ Tát Di-lặc,[41] Bồ Tát Bảo Tích,[42] Bồ Tát Đạo Sư[43]… Các vị Đại Bồ Tát như vậy, cả thảy 80.000 vị cùng tham dự pháp hội.

Lúc bấy giờ có Thích-đề-hoàn-nhân[44] và quyến thuộc 20.000 vị thiên tử cùng đến. Lại có Thiên tử Danh Nguyệt, Thiên tử Phổ Hương, Thiên tử Bảo Quang, Tứ đại Thiên vương[45] và quyến thuộc 10.000 thiên tử cùng đến. Thiên tử Tự Tại, Thiên tử Đại Tự Tại và quyến thuộc 30.000 thiên tử cùng đến. Phạm Thiên vương chủ thế giới Ta-bà,[46] cùng Đại Phạm Thi-khí,[47] Đại Phạm Quang Minh[48]... và quyến thuộc 12.000 thiên tử cùng đến.

Có 8 vị long vương:[49] Long vương Nan-đà, Long vương Bạt-nan-đà, Long vương Sa-già-la, Long vương Hòa-tu-cát, Long vương Đức-xoa-ca, Long vương A-na-bà-đạt-đa, Long vương Ma-na-tư, Long vương Ưu-bát-la,[50] mỗi vị đều cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc đến tham dự pháp hội.

Có bốn vị vua khẩn-na-la:[51] Vua Khẩn-na-la Pháp, Vua Khẩn-na-la Diệu Pháp, Vua Khẩn-na-la Đại Pháp, Vua Khẩn-na-la Trì Pháp, mỗi vị đều cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc đến tham dự pháp hội.

Có bốn vị vua càn-thát-bà:[52] Vua Càn-thát-bà Nhạc, Vua Càn-thát-bà Nhạc Âm, Vua Càn-thát-bà Mỹ, Vua Càn-thát-bà Mỹ Âm, mỗi vị đều cùng với trăm ngàn quyến thuộc đến dự pháp hội.

Có bốn vị vua a-tu-la:[53] Vua A-tu-la Bà-trĩ, Vua A-tu-la Khư-la-kiển-đà, Vua A-tu-la Tì-ma-chất-đa-la, Vua A-tu-la La-hầu, mỗi vị đều cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc đến dự pháp hội.

Có bốn vị vua ca-lâu-la:[54] Vua Ca-lâu-la Đại Uy Đức, Vua Ca-lâu-la Đại Thân, Vua Ca-lâu-la Đại Mãn, Vua Ca-lâu-la Như Ý, mỗi vị đều cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc đến dự pháp hội.

Vua A-xà-thế con bà Vi-đề-hi[55] cùng với mấy trăm ngàn quyến thuộc, hết thảy đều đảnh lễ sát chân Phật, rồi lui lại ngồi sang một bên.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn có bốn chúng đi nhiễu quanh, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán, vì các vị Bồ Tát giảng thuyết kinh Đại thừa tên là Vô Lượng Nghĩa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm.[56] Phật thuyết kinh ấy xong, ngồi kết già nhập Tam-muội Vô Lượng Nghĩa Xứ, thân tâm chẳng động.

Lúc bấy giờ trời mưa xuống các loại hoa mạn-đà-la, ma-ha mạn-đà-la,[57] mạn-thù-sa, ma-ha mạn-thù-sa;[58] hoa rơi trên thân Phật và khắp thảy đại chúng.

Cõi đất chấn động khắp thế giới Phật. Bấy giờ trong hội có các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, trời, rồng, dạ-xoa,[59] càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già,[60] người và các loài phi nhân…[61] cùng các vị tiểu vương, chuyển luân thánh vương. Đại chúng gặp việc chưa từng có, hoan hỷ chắp tay, một lòng chiêm ngưỡng Phật.

Lúc bấy giờ, đức Phật phóng hào quang từ nơi tướng bạch hào giữa hai chân mày,[62] soi chiếu 18.000 thế giới ở phương đông, không một nơi nào không soi thấu, phía dưới chiếu đến địa ngục A-tỳ,[63] phía trên chiếu đến cõi trời A-ca-ni-trá.[64]

Từ nơi thế giới này thấy hết thảy sáu đường chúng sanh các cõi kia,[65] lại thấy chư Phật hiện tại ở các cõi ấy cùng nghe được những kinh điển giáo pháp mà chư Phật ấy thuyết giảng, cùng thấy các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, những vị tu hành đạt đạo. Lại thấy các vị Đại Bồ Tát, đủ mọi nhân duyên, đủ mọi tín giải, đủ mọi tướng mạo, thực hành đạo Bồ Tát. Lại thấy chư Phật nhập Niết-bàn ; lại thấy sau khi chư Phật nhập Niết-bàn, đại chúng thu xá-lợi Phật, dựng tháp thờ bằng bảy món báu.

Lúc bấy giờ Bồ Tát Di-lặc nghĩ rằng: “Nay đức Thế Tôn hiện tướng thần biến, do nhân duyên gì mà có điềm lành này? Nay đức Phật Thế Tôn đã nhập tam-muội, việc biến hiện hy hữu không thể nghĩ bàn này nên hỏi ai? Ai có thể giải đáp?” Rồi lại nghĩ rằng: “Ngài Văn-thù-sư-lợi là con đấng Pháp vương, đã từng thân cận cúng dường vô số chư Phật trong quá khứ, chắc hẳn đã từng được thấy tướng ít có này, nay ta nên thưa hỏi.” Lúc ấy các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, cùng với chư thiên, loài rồng, quỷ thần... cũng đều nghĩ rằng: “Tướng thần thông hào quang chiếu sáng của đức Phật, nay biết thưa hỏi ai?”

Lúc bấy giờ, Bồ Tát Di-lặc muốn dứt mối nghi của mình, lại quán sát thấy được tâm nghi của bốn chúng tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di cùng chư thiên, loài rồng, quỷ thần... nên thưa hỏi ngài Văn-thù-sư-lợi rằng: “Do nhân duyên gì mà có điềm lành Phật hiện tướng thần thông, phóng hào quang lớn chiếu đến 18.000 thế giới ở phương đông, [đại chúng] thấy hết được những cõi Phật trang nghiêm nơi ấy?”

Khi ấy, Bồ Tát Di-lặc muốn lặp lại ý nghĩa trên liền đọc kệ thưa hỏi rằng:

Ngài Văn-thù-sư-lợi!
Vì sao đấng Đạo sư,
Từ giữa hai chân mày,
Phóng hào quang soi chiếu.
Mưa hoa mạn-đà-la,
Với hoa mạn-thù-sa,
Gió thơm hương chiên-đàn,
Đại chúng đều hoan hỷ?
Lại do nhân duyên này,
Mặt đất đều nghiêm tịnh,
Và khắp thế giới này,
Chấn động theo sáu cách.[66]
Bấy giờ cả bốn chúng,
Đều vui mừng hoan hỷ,
Thân ý đều sảng khoái,
Được việc chưa từng có.
Hào quang từ giữa mày,
Soi chiếu thấu phương đông,
Khắp mười tám ngàn cõi,
Đều sáng đẹp sắc vàng;
Từ địa ngục A-tỳ,
Lên đến trời Hữu đỉnh,
Các thế giới trong đó,
Đủ sáu đường chúng sanh,
Sống, chết, đi về đâu,
Hay nghiệp duyên lành dữ,
Chịu quả báo tốt xấu,
Từ đây đều thấy rõ.
Lại thấy các đức Phật,
Bậc Sư tử Thánh chủ,
Diễn thuyết nhiều kinh điển,
Đều vi diệu bậc nhất.
Âm thanh thật thanh tịnh,
Tiếng nói nghe dịu dàng,
Dạy bảo hàng Bồ Tát,
Vô số muôn ngàn người.
Tiếng cõi trời sâu mầu,
Ai ai cũng thích nghe.
Mỗi vị nơi cõi mình,
Đều giảng thuyết chánh pháp,
Cùng đủ mọi nhân duyên,
Và vô số thí dụ,
Làm sáng tỏ Phật pháp,
Để khai ngộ chúng sanh.
Với những người gặp khổ,
Chán bỏ già, bệnh, chết,
Vì họ thuyết Niết-bàn,
Dứt hết mọi cảnh khổ.
Với những người có phước,
Đã từng cúng dường Phật,
Quyết cầu pháp vượt trội,
Liền dạy pháp Duyên giác;
Riêng với hàng con Phật,
Tu đủ mọi công hạnh,
Cầu trí tuệ Vô thượng,
Liền thuyết đạo thanh tịnh.
Thưa Văn-thù-sư-lợi!
Tôi ở tại nơi đây,
Thấy nghe những việc ấy,
Cùng muôn ngàn việc khác,
Hội chúng đủ hạng người,
Nay chỉ xin lược nói.
Tôi thấy những cõi kia,
Có vô số Bồ Tát,
Dùng đủ mọi nhân duyên,
Để cầu thành Phật đạo.
Có người thường bố thí,
Vàng bạc với san hô,
Hạt châu quý ma-ni,
Xa cừ cùng mã não,
Kim cương, các trân bảo,
Nô tỳ và xe cộ,
Trang trí bằng châu báu,
Đều hoan hỷ bố thí.
Hồi hướng cầu Phật đạo,
Nguyện đạt được Phật thừa,
Bậc nhất trong ba cõi,
Chư Phật đều khen ngợi.
Hoặc có những Bồ Tát,
Bố thí cả xe quý,
Có bốn ngựa, lọng che,
Cùng trang sức xinh đẹp.
Lại thấy các Bồ Tát,
Bố thí cả xương thịt,
Chân tay cùng vợ con,
Vì cầu đạo Vô thượng.
Lại thấy các Bồ Tát,
Ưa thích, vui mừng thí,
Đầu, mắt cùng thân thể,
Vì cầu trí tuệ Phật.
Thưa Văn-thù-sư-lợi!
Tôi thấy các vị vua,
Đến viếng thăm chỗ Phật,
Thưa hỏi đạo Vô thượng,
Rồi bỏ cõi dục lạc,
Cung điện nhiều mỹ nữ,
Cạo sạch cả râu tóc,
Mặc pháp phục xuất gia.
Hoặc thấy các Bồ Tát,
Mà hiện làm tỳ-kheo,
Sống cô độc nhàn tĩnh,
Ưa thích tụng kinh điển.
Lại thấy các Bồ Tát,
Sức dũng mãnh tinh tấn,
Vào tận trong núi sâu,
Nỗ lực tư duy đạo.
Lại thấy bậc ly dục,
Thường sống nơi nhàn tịnh,
Tu sâu pháp thiền định,
Đạt được năm thần thông.
Lại thấy các Bồ Tát,
Trong thiền định chắp tay,
Dùng muôn ngàn lời kệ,
Ngợi khen các đức Phật.
Lại thấy các Bồ Tát
Trí sâu chí nguyện vững,
Thường thưa hỏi chư Phật,
Nghe giảng liền thọ trì.
Lại thấy hàng con Phật,
Đã trọn đủ định, tuệ,
Dùng vô số thí dụ,
Vì đại chúng giảng pháp.
Vui thích thuyết chánh pháp,
Giáo hóa các Bồ Tát,
Phá trừ hết quân ma,
Đánh vang rền trống Pháp.
Lại thấy các Bồ Tát,
Trụ yên trong tịch lặng,
Trời, rồng đều cung kính,
Nhưng không lấy làm vui.
Lại thấy các Bồ Tát,
Từ rừng sâu phóng quang,
Chúng sanh khổ địa ngục,
Khiến được vào đạo Phật.
Lại thấy hàng con Phật,
Tỉnh thức không ngủ nghỉ,
Trong rừng sâu kinh hành,
Chuyên cần cầu đạo Phật.
Lại thấy người giữ giới,
Oai nghi không khuyết tổn,
Trong sáng như châu ngọc,
Để cầu thành Phật đạo.
Lại thấy hàng con Phật,
An trụ sức nhẫn nhục,
Dù những kẻ kiêu mạn,
Mắng chửi và đánh đập,
Cũng đều nhẫn nhịn được,
Để cầu thành Phật đạo.
Lại thấy hàng Bồ Tát,
Lìa xa chuyện cợt đùa,
Không gần kẻ ngu si,
Thân cận bậc trí tuệ,
Chuyên tâm trừ loạn tưởng,
Giữa núi rừng nhiếp tâm,
Trong suốt muôn ngàn năm,
Để cầu thành Phật đạo.
Hoặc thấy hàng Bồ Tát,
Dùng thức ăn ngon quý,
Cùng trăm loại thuốc thang,
Cúng dường Phật và Tăng.
Dùng y phục thượng hạng,
Giá muôn ngàn lượng vàng,
Hoặc quý báu vô giá,
Cúng dường Phật và Tăng.
Dùng trăm ngàn muôn loại,
Nhà quý gỗ chiên-đàn,
Với tòa ngồi tốt đẹp,
Cúng dường Phật và Tăng.
Dâng vườn rừng yên tĩnh,
Có hoa trái sum suê,
Suối chảy, hồ trong mát,
Cúng dường Phật và Tăng.
Cúng dường những thứ ấy,
Đều tốt đẹp nhiệm mầu,
Tâm hoan hỷ không chán,
Vì cầu đạo Vô thượng.
Hoặc có hàng Bồ Tát,
Thuyết giảng pháp tịch diệt,
Dùng mọi cách chỉ bày,
Cho vô số chúng sanh.
Hoặc thấy hàng Bồ Tát,
Quán chiếu các tánh pháp,
Vốn thật không hai tướng,
Thảy đều như hư không.
Lại thấy hàng con Phật,
Tâm không chút dính mắc,
Dùng trí tuệ nhiệm mầu,
Để cầu đạo Vô thượng.
Thưa Văn-thù-sư-lợi!
Lại có hàng Bồ Tát,
Sau khi Phật diệt độ,
Liền cúng dường xá-lợi.
Lại thấy hàng con Phật,
Xây dựng các tháp miếu,
Nhiều như cát sông Hằng,
Làm trang nghiêm cõi nước.
Tháp báu đẹp tuyệt vời,
Cao năm ngàn do-tuần,
Ngang, rộng giống như nhau,
Đều hai ngàn do-tuần.
Mỗi một ngôi tháp miếu,
Đều có ngàn cờ phướn,
Cùng màn ngọc phủ che,
Với chuông nhỏ hòa ngân.
Có chư thiên, long, thần,
Người và loài phi nhân,
Dùng hương, hoa, âm nhạc,
Thường dâng lên cúng dường.
Thưa Văn-thù-sư-lợi!
Hết thảy hàng Phật tử,
Vì cúng dường xá-lợi,
Nên trang nghiêm tháp miếu,
Khắp cõi nước tự nhiên,
Thành tươi đẹp tuyệt vời,
Như cây chúa cõi trời,
Đang mùa hoa nở rộ.
Một lần Phật phóng quang,
Tôi cùng cả hội chúng,
Đều thấy cõi nước này,
Đủ mọi vẻ tươi đẹp.
Thần lực của chư Phật,
Trí tuệ thật ít có,
Phóng hào quang thanh tịnh,
Chiếu vô số cõi nước.
Chúng tôi đều được thấy,
Việc xưa nay chưa có.
Nguyện Phật tử Văn-thù!
Vì đại chúng giải nghi.
Bốn chúng đều ngưỡng vọng,
Mong đợi ngài và tôi,
Nói rõ Phật vì sao,
Phóng tỏa hào quang này.
Xin kịp thời giải đáp,
Dứt nghi để được vui.
Lại vì lợi ích gì,
Phật hiện phóng hào quang?
Phật ngồi nơi đạo trường,
Đã chứng đắc diệu pháp,
Nay sẽ thuyết pháp ấy,
Hay vì ai thụ ký?
Nên hiện các cõi Phật,
Với châu báu nghiêm tịnh.
Lại thấy các cõi Phật,
Chẳng phải duyên nhỏ nhặt.
Ngài Văn-thù nên biết,
Bốn chúng, hàng trời, rồng...
Đều mong ngóng chờ xem,
Ngài nói ra những gì?

Lúc bấy giờ, ngài Văn-thù-sư-lợi nói với Đại Bồ Tát Di-lặc, các vị đại sĩ và thiện nam tử: “Theo như tôi suy xét thì nay đức Phật Thế Tôn muốn thuyết pháp lớn lao, mưa xuống cơn mưa pháp lớn, thổi tù và pháp lớn,[67] đánh tiếng trống pháp lớn, diễn giảng nghĩa pháp lớn.

“Các vị thiện nam tử! Tôi ở nơi chư Phật trong quá khứ từng thấy điềm lành này, phóng hào quang này rồi ắt thuyết pháp lớn lao. Cho nên biết được rằng, nay Phật hiện hào quang cũng giống như vậy, muốn cho chúng sanh thảy đều nghe biết pháp khó tin nhận với tất cả thế gian, cho nên hiện điềm lành này.

“Các thiện nam tử! Như trong quá khứ cách đây vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn a-tăng-kì số kiếp.

“Lúc bấy giờ có đức Phật hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh[68] Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.[69]

“[Đức Phật ấy] diễn thuyết chánh pháp lúc ban sơ tốt đẹp, khoảng giữa tốt đẹp, sau cùng cũng tốt đẹp, ý nghĩa sâu xa, ngôn ngữ khéo léo mầu nhiệm, thuần khiết không xen tạp, đầy đủ tướng trạng của hạnh thanh tịnh trong sáng.

“Vì người cầu quả Thanh văn mà thuyết pháp tứ đế[70] thích hợp, vượt thoát sinh già bệnh chết, rốt ráo đạt Niết-bàn; vì người cầu quả Duyên giác[71] mà thuyết pháp mười hai nhân duyên thích hợp; vì các Bồ Tát mà thuyết sáu ba-la-mật[72] thích hợp, khiến cho đạt được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thành tựu Nhất thiết chủng trí.[73]

“Tiếp đến có Phật cũng hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh, rồi tiếp nữa lại có Phật cũng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, như vậy đến 20.000 vị Phật đều cùng một hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, lại cũng đồng một dòng họ là Phả-la-đọa. Ngài Di-lặc nên biết, từ vị Phật ban đầu đến vị Phật cuối cùng đều cùng một danh hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh, đều có đầy đủ mười đức hiệu, và những điều thuyết pháp từ ban sơ, khoảng giữa cho đến cuối cùng đều tốt đẹp.

“Vị Phật sau cùng, lúc chưa xuất gia có tám người con. Người thứ nhất tên là Hữu Ý, thứ hai là Thiện Ý, thứ ba là Vô Lượng Ý, thứ tư là Bảo Ý, thứ năm là Tăng Ý, thứ sáu là Trừ Nghi Ý, thứ bảy là Hưởng Ý, thứ tám là Pháp Ý. Tám vị vương tử này đều có oai đức tự tại, mỗi vị đều cai trị bốn thiên hạ. Các vị vương tử nghe tin phụ vương xuất gia, đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, liền xả bỏ vương vị theo cha xuất gia, phát tâm Đại thừa, thường tu hạnh thanh tịnh, đều là những vị pháp sư, ở nơi muôn ngàn đức Phật trồng các cội lành.

“Bấy giờ đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh thuyết kinh Đại thừa tên là Vô Lượng Nghĩa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm. Thuyết kinh xong liền ở giữa đại chúng ngồi kết già nhập tam-muội Vô lượng nghĩa xứ,[74] thân tâm chẳng động. Khi ấy, trời mưa xuống hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đà-la, hoa mạn-thù-sa, hoa ma-ha mạn-thù-sa, hoa rải lên thân Phật và đại chúng. Khắp cõi Phật, mặt đất chấn động theo sáu cách. Khi ấy trong hội có các vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, người và loài phi nhân, cùng các vị tiểu vương, chuyển luân thánh vương... Đại chúng như vậy được việc chưa từng có, đều hoan hỷ chắp tay, một lòng chiêm ngưỡng Phật. Khi ấy, đức Như Lai phóng hào quang từ nơi tướng lông trắng giữa hai chân mày, soi chiếu về phương đông đến 18.000 cõi Phật, không nơi nào không soi thấu, cũng giống như ngày nay đã thấy hiển bày các cõi Phật. Ngài Di-lặc nên biết, khi ấy trong chúng hội có hai triệu Bồ Tát ưa muốn nghe pháp. Các vị Bồ Tát này thấy hào quang soi chiếu khắp các cõi Phật, được điều chưa từng có, đều muốn rõ biết nhân duyên của hào quang này.

“Bấy giờ có vị Bồ Tát tên là Diệu Quang,[75] có 800 người đệ tử. Khi ấy, đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh ra khỏi tam-muội, nhân vì Bồ Tát Diệu Quang mà thuyết kinh Đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm, trong 60 tiểu kiếp không đứng dậy khỏi tòa ngồi. Chúng hội cũng ngồi yên một chỗ, trong 60 tiểu kiếp thân tâm không dao động, lắng nghe Phật thuyết kinh, đều cảm thấy chỉ như thời gian một bữa ăn. Lúc ấy trong chúng hội không một người nào thấy thân hoặc tâm sinh ra lười mỏi.

“Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh qua 60 tiểu kiếp thuyết kinh này rồi, liền tuyên bố với chúng hội gồm các vị phạm chí, ma, sa-môn, bà-la-môn, chư thiên, người, a-tu-la rằng: ‘Hôm nay vào lúc giữa đêm, Như Lai sẽ nhập Niết-bàn Vô dư.’[76]

“Bấy giờ có vị Bồ Tát tên là Đức Tạng,[77] Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh liền thụ ký, nói với các vị tỳ-kheo: ‘Bồ Tát Đức Tạng này sẽ thành Phật tiếp theo, hiệu là Tịnh Thân Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác…’[78]

“Đức Phật thụ ký rồi, đến giữa đêm liền nhập Niết-bàn Vô dư. Sau khi Phật diệt độ, Bồ Tát Diệu Quang thọ trì kinh Diệu Pháp Liên Hoa, trọn 80 tiểu kiếp vì người khác giảng thuyết. Tám người con của đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đều thờ ngài Diệu Quang làm thầy, được ngài dạy dỗ, khiến cho được tâm kiên cố đối với quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh Giác. Các vương tử này, sau khi cúng dường vô số trăm ngàn muôn ức vị Phật rồi thảy đều thành Phật. Vị thành Phật sau cùng hiệu là Nhiên Đăng. Trong số 800 đệ tử, có một người tên là Cầu Danh, tham chấp lợi dưỡng, tuy cũng tụng đọc kinh điển nhưng không thông hiểu, phần nhiều đều quên mất, cho nên có hiệu là Cầu Danh. Người này vì cũng từng gieo trồng nhiều căn lành nên được gặp vô số trăm ngàn muôn ức đức Phật, đều cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán.

“Ngài Di-lặc nên biết, Bồ Tát Diệu Quang thuở ấy nào phải ai khác, chính là tôi đây. Còn Bồ Tát Cầu Danh chính là ngài đó.

“Nay tôi thấy điềm lành này so với thuở xưa không khác, nên suy xét rằng: “Hôm nay đức Như Lai sẽ thuyết giảng kinh Đại thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa, Giáo Bồ Tát Pháp, Phật Sở Hộ Niệm.”

Bấy giờ, ngài Văn-thù-sư-lợi ở giữa đại chúng muốn trùng tuyên ý nghĩa trên nên đọc kệ rằng:

Tôi nhớ đời quá khứ,
Vô lượng vô số kiếp,
Có Phật, đấng cao quý,
Hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh.
Thế Tôn thuyết giảng pháp,
Độ vô lượng chúng sanh,
Vô số ức Bồ Tát,
Khiến vào trí tuệ Phật.
Khi Phật chưa xuất gia,
Sinh ra tám vương tử,
Thấy Đại thánh xuất gia,
Cũng theo tu thanh tịnh.
Khi Phật thuyết Đại thừa,
Kinh tên Vô Lượng Nghĩa,
Liền ở giữa đại chúng,
Vì người rộng phân biệt.
Phật thuyết kinh ấy rồi,
Liền ngồi trên pháp tòa,
Kết già nhập tam-muội,
Tên Vô Lượng Nghĩa Xứ.
Trời mưa hoa mạn-đà,
Trống trời tự nhiên vang,
Chư thiên, rồng, quỷ thần,
Cúng dường Bậc Tôn quý.
Hết thảy bao cõi Phật,
Đều tức thời chấn động,
Phật phóng quang giữa mày,
Hiện những việc ít có.
Hào quang chiếu phương đông,
Mười tám ngàn cõi Phật,
Chúng sanh đều được thấy,
Chỗ nghiệp báo sinh tử.
Cũng thấy các cõi Phật,
Dùng châu báu trang nghiêm,
Màu lưu ly, pha lê,
Đều do hào quang Phật.
Lại thấy chúng trời người,
Rồng, thần và dạ-xoa,
Càn-thát, khẩn na la,
Đều cúng dường Phật ấy.
Lại thấy các vị Phật,
Tự nhiên thành Phật đạo,
Thân sáng như núi vàng,
Đoan nghiêm rất vi diệu.
Trong sạch như lưu ly,
Hiện thành tượng vàng ròng,
Thế Tôn giữa đại chúng,
Rộng thuyết pháp sâu mầu.
Nơi mỗi một cõi Phật,
Có vô số Thanh văn,
Nương hào quang Phật chiếu,
Thấy rõ các chúng ấy.
Hoặc có những tỳ-kheo,
Thường sống giữa núi rừng,
Tinh tấn giữ giới hạnh,
Như giữ hạt minh châu.
Lại nhờ hào quang Phật,
Thấy được các Bồ Tát,
Hành bố thí, nhẫn nhục...
Nhiều như cát sông Hằng.
Lại thấy các Bồ Tát,
Vào sâu các thiền định,
Thân tâm lặng chẳng động,
Để cầu đạo Vô thượng.
Lại thấy các Bồ Tát,
Biết tướng pháp tịch diệt,
Ở nơi cõi nước mình,
Thuyết pháp cầu đạo Phật.
Bấy giờ cả bốn chúng,
Thấy Phật Nhật Nguyệt Đăng,
Hiện sức thần thông lớn,
Trong tâm đều hoan hỷ,
Các vị cùng hỏi nhau,
Đây là nhân duyên gì?
Đấng trời người tôn kính,
Vừa ra khỏi tam-muội,
Khen Bồ Tát Diệu Quang,
Ông là tai mắt đời,
Người người đều tin theo.
Có thể giữ kho pháp,
Những gì ta thuyết giảng,
Chỉ riêng ông rõ biết.
Thế Tôn ngợi khen rồi,
Khiến Diệu Quang hoan hỷ,
Liền thuyết kinh Pháp hoa,
Trọn sáu mươi tiểu kiếp,
Không rời khỏi chỗ ngồi.
Pháp nhiệm mầu Phật thuyết,
Ngài Pháp sư Diệu Quang,
Đều có thể thọ trì.
Phật thuyết kinh Pháp Hoa,
Khiến đại chúng hoan hỷ,
Rồi ngay trong ngày ấy,
Bảo khắp chúng trời, người:
“Nghĩa thật tướng các pháp,
Đã vì chúng giảng thuyết,
Nay vào giữa đêm này,
Ta sẽ nhập Niết-bàn.
Hãy chuyên tâm tinh tấn,
Lìa xa thói phóng túng,
Cơ hội gặp Phật khó,
Trăm ngàn kiếp mới có.”
Hàng đệ tử Thế Tôn,
Nghe Phật nhập Niết-bàn,
Ai ai cũng bi thương,
Sao Phật chóng nhập diệt?
Bậc Thánh chủ Pháp vương,
An ủi vô số chúng:
“Như Ta diệt độ rồi,
Các người chớ lo sợ.
Bồ Tát Đức Tạng đây,
Tâm đã rõ thông được,
Tướng thật pháp vô lậu,
Kế tiếp sẽ thành Phật,
Hiệu Tịnh Thân Như Lai,
Cũng độ vô số chúng.”
Đêm ấy Phật diệt độ,
Như củi hết lửa tắt.
Phân chia Xá-lợi Phật,
Rồi dựng vô số tháp.
Tỳ-kheo, tỳ-kheo ni,
Nhiều như cát sông Hằng,
Lại càng thêm tinh tấn,
Để cầu đạo Vô thượng.
Ngài Pháp sư Diệu Quang,
Vâng giữ pháp tạng Phật,
Trong tám mươi tiểu kiếp,
Rộng thuyết kinh Pháp hoa.
Tám vương tử con Phật,
Được Diệu Quang chỉ bày,
Vững vàng trong đạo Phật,
Rồi gặp vô số Phật,
Đều cung kính cúng dường,
Vâng theo tu hành đạo,
Tiếp nối đều thành Phật,
Lần lượt được thụ ký.
Cho đến Phật sau cùng,
Hiệu là Phật Nhiên Đăng,
Là thầy các tiên nhân,
Độ thoát vô số chúng.
Ngài Pháp sư Diệu Quang,
Lại có một đệ tử,
Thường ôm lòng biếng nhác,
Mê đắm đường danh lợi,
Tham cầu không biết chán,
Giao du các nhà giàu,
Tụng kinh rồi vất bỏ,
Quên mất không rõ nghĩa.
Vì nhân duyên như thế,
Nên tên là Cầu Danh.
Nhưng tạo các nghiệp lành,
Được gặp vô số Phật,
Cúng dường chư Phật rồi,
Vâng theo, tu hành đạo,
Đủ sáu ba-la-mật,
Nay gặp đức Thích-ca.
Sau này sẽ thành Phật,
Hiệu là Phật Di-lặc,
Rộng độ khắp chúng sanh,
Số nhiều đến vô lượng.
Phật xưa diệt độ rồi,
Cầu Danh chính là ông.
Còn Pháp sư Diệu Quang,
Nay chính là tôi đây.
Tôi thấy Phật Đăng Minh,
Xưa phóng quang như thế,
Nên biết Phật ngày nay,
Sắp thuyết kinh Pháp Hoa.
Tướng nay, điềm lành xưa,
Là phương tiện chư Phật.
Nay Phật phóng hào quang,
Giúp hiện nghĩa tướng thật.
Chư vị nay nên biết,
Chắp tay một lòng chờ,
Phật sẽ ban mưa pháp,
Sung túc người cầu đạo.
Người cầu quả Tam thừa,
Nếu như còn nghi vấn,
Phật sẽ giúp đoạn trừ,
Dứt sạch không còn nghi.

2. Phẩm Phương tiện

Bấy giờ, đức Thế Tôn an lành ra khỏi thiền định, bảo ngài Xá-lợi-phất: “Trí tuệ của chư Phật rất sâu xa không thể suy lường, cửa trí tuệ ấy khó hiểu khó vào, hết thảy hàng Thanh văn, Phật Bích-chi đều không có khả năng rõ biết.

“Vì sao vậy? Phật từng thân cận với trăm ngàn muôn ức vô số chư Phật, hết sức thực hành vô số đạo pháp của chư Phật, dũng mãnh tinh tấn, danh xưng được nghe biết rộng khắp, thành tựu pháp rất sâu xa chưa từng có, tùy chỗ thích hợp mà giảng thuyết, ý nghĩa khó hiểu.

“Xá-lợi-phất! Từ khi ta thành Phật đến nay, dùng đủ mọi nhân duyên, đủ mọi thí dụ, rộng nói các giáo pháp cùng vô số phương tiện, dẫn dắt chúng sanh khiến cho lìa bỏ mọi sự bám chấp.

“Vì sao vậy? Phương tiện, tri kiến ba-la-mật của đức Như Lai hết thảy đều trọn đủ. Xá-lợi-phất! Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa, không ngăn ngại, không thể suy lường, những phẩm đức như lực,[79] vô sở úy,[80] thiền định, giải thoát tam-muội đều thâm nhập tận cùng, thành tựu hết thảy các pháp chưa từng có.

“Xá-lợi-phất! Như Lai có thể phân biệt mọi điều, khéo giảng thuyết các pháp, lời lẽ êm dịu uyển chuyển, làm vui lòng đại chúng. Xá-lợi-phất! Theo chỗ cốt yếu mà nói thì Phật đã thành tựu hết vô lượng vô biên các pháp chưa từng có.

“Thôi đi, Xá-lợi-phất! Không nên nói nữa. Vì sao vậy? Pháp mà Phật đã thành tựu cao tột khó hiểu, ít có nhất, chỉ Phật với Phật mới có thể cứu xét đến chỗ rốt ráo.

“Tướng thật của các pháp, đó là nói các pháp có tướng như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, lực như vậy, chỗ làm như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, từ gốc đến ngọn rốt ráo bình đẳng như vậy.”

Bấy giờ đức Thế Tôn muốn nhắc lại những ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:

“Bậc Thế Hùng khôn lường,
Chư thiên và nhân loại,
Cùng các loài chúng sanh,
Đều không thể hiểu Phật.
Phật lực, vô sở úy,
Giải thoát, các tam-muội,
Các pháp khác của Phật,
Đều không thể suy lường.
Từng theo vô số Phật,
Tu hành đủ các pháp,
Rất sâu xa nhiệm mầu ,
Khó thấy, khó rõ biết.
Trong vô số ức kiếp,
Tu các phẩm đạo rồi,
Chứng quả nơi Đạo trường,
Ta đều rõ biết hết.
Quả báo lớn lao ấy,
Đủ mọi nghĩa tánh tướng,
Ta với mười phương Phật,
Mới có thể rõ biết.
Pháp không thể chỉ bày,
Tướng ngôn ngữ dứt bặt.
Các loài chúng sanh khác,
Không thể nào hiểu được,
Trừ các vị Bồ Tát,
Với đức tin kiên cố.
Chúng đệ tử của Phật,
Từng cúng dường chư Phật,
Đã dứt sạch lậu hoặc,
Trụ nơi thân cuối cùng,
Dù những bậc như vậy,
Vẫn không sức thọ nhận.
Nếu người khắp thế gian,
Đều như Xá-lợi-phất,
Dùng hết sức suy lường,
Cũng không rõ trí Phật.
Ví như khắp mười phương,
Đều như Xá-lợi-phất,
Cùng các đệ tử khác,
Tràn ngập khắp mười phương,
Cùng hết sức suy lường,
Cũng không thể rõ biết.
Hàng Duyên giác trí sáng,
Bậc Vô lậu thân cuối,
Cũng đầy khắp mười phương,
Số nhiều như tre rừng,
Như vậy cùng chuyên tâm,
Trong vô số ức kiếp,
Muốn suy biết trí Phật,
Cũng không biết được gì.
Bồ Tát mới phát tâm,
Cúng dường vô số Phật,
Rõ biết các ý nghĩa,
Lại khéo thuyết giảng pháp.
Nhiều như lúa, mè, tre...
Đầy khắp cõi mười phương,
Chuyên tâm dùng trí mầu,
Trong Hằng sa số kiếp,
Cùng chung sức suy lường,
Không thể rõ trí Phật.
Các Bồ Tát bất thối,
Nhiều như cát sông Hằng,
Một lòng cùng suy cầu,
Cũng không thể rõ biết.”
Phật bảo Xá-lợi-phất:
“Pháp sâu xa vi diệu,
Vô lậu, không nghĩ bàn,
Ta nay đã trọn thành,
Tướng ấy riêng ta biết,
Cũng như mười phương Phật.
Xá-lợi-phất nên biết,
Lời chư Phật không khác,
Đối với pháp Phật thuyết,
Phải tin sâu, tin chắc.
Pháp Phật lâu về sau,
Phải thuyết dạy chân thật.
Phật bảo chúng Thanh văn,
Cùng chúng cầu Duyên giác:
‘Ta dạy cho thoát khổ,
Nhưng chưa được Niết-bàn.’
Phật dùng sức phương tiện,
Tạm bày ra ba thừa,
Chúng sanh nhiều bám chấp,
Dẫn dắt cho giải thoát.

Bấy giờ trong đại chúng có các vị Thanh văn đã chứng A-la-hán, dứt sạch lậu hoặc, giống như ngài A-nhã Kiều-trần-như... cả thảy 1.200 vị, cùng những vị tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di phát tâm cầu quả Thanh văn, quả Phật Bích-chi, hết thảy đều nghĩ rằng: “Hôm nay đức Thế Tôn vì sao lại ân cần ngợi khen xưng tán pháp phương tiện mà nói: ‘Pháp Phật đã chứng đắc rất sâu xa khó hiểu, có nói ra điều gì thì ý nghĩa đều khó rõ biết, hết thảy hàng Thanh văn, Duyên giác đều không thể hiểu được?’

“Phật [từng] thuyết dạy một nghĩa giải thoát, chúng ta cũng được pháp ấy, [tưởng rằng] đạt đến Niết-bàn, nhưng nay thì không biết nghĩa ấy hướng về đâu?”

Lúc bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất biết lòng nghi của bốn chúng và chính mình cũng chưa hiểu nên bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà nay Phật ân cần ngợi khen xưng tán phương tiện bậc nhất cùng pháp thâm sâu vi diệu khó hiểu của chư Phật? Con từ xưa nay theo Phật chưa từng được nghe những lời như vậy. Nay bốn chúng đều ôm lòng nghi, nguyện Thế Tôn giảng rõ việc này: Thế Tôn vì sao lại ân cần ngợi khen xưng tán pháp thâm sâu vi diệu khó hiểu?”

Khi ấy, ngài Xá-lợi-phất muốn nhắc lại nghĩa trên nên đọc kệ rằng:

Đấng Đại Thánh trí tuệ,
Lâu mới thuyết pháp này.
Tự nói đã chứng đắc,
Lực, vô úy, tam-muội,
Cùng thiền định giải thoát,
Pháp không thể nghĩ bàn.
Nơi đạo trường chứng đắc,
Không ai đủ sức hỏi,
Ý Phật khó suy lường,
Cũng không thể thưa hỏi,
Nên Phật tự nói ra,
Ngợi khen đạo chư Phật,
Trí tuệ cực vi diệu,
Chư Phật đã đạt được.
A-la-hán vô lậu,
Cùng người cầu Niết-bàn,
Nay chìm trong lưới nghi,
Vì sao Phật nói vậy?
Những người cầu Duyên giác,
Tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
Chư thiên, rồng, quỷ thần,
Với loài càn-thát-bà...
Nhìn nhau lòng phân vân,
Cùng chiêm ngưỡng Thế Tôn,
Việc này là thế nào?
Nguyện được Phật giảng giải.
Trong hàng chúng Thanh văn,
Phật khen con bậc nhất,
Nay con dùng trí mình,
Không thể hiểu, nghi hoặc:
Đây là pháp rốt ráo?
Hay là đạo tu hành?
Chúng từ miệng Phật sinh,
Đều chắp tay mong đợi,
Nguyện Phật ban tiếng mầu,
Nói ra pháp như thật.
Chư thiên, rồng, quỷ thần...
Số nhiều như cát sông,
Bồ Tát cầu quả Phật,
Số đến tám mươi ngàn,
Lại từ muôn ức nước,
Vua Chuyển luân đến đây,
Cùng chắp tay cung kính,
Muốn nghe đạo trọn đủ.

Bấy giờ, đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Thôi, thôi, không nên nói nữa! Nếu ta nói ra việc này thì hết thảy chư thiên và loài người ở thế gian đều sẽ kinh sợ nghi ngờ.”

Ngài Xá-lợi-phất lại bạch Phật: “Thế Tôn! Kính nguyện Phật nói ra, kính nguyện Phật nói ra. Vì sao vậy? Trong chúng hội này có vô số trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ chúng sanh đã từng được gặp chư Phật, căn tánh lanh lợi dũng mãnh, trí tuệ sáng suốt rõ biết, nếu được nghe Phật thuyết dạy ắt có thể cung kính tin nhận.”

Lúc ấy, ngài Xá-lợi-phất muốn nhắc lại nghĩa trên nên nói kệ rằng:

Đấng Pháp vương Vô thượng,
Xin thuyết dạy, đừng lo,
Vì vô số chúng hội,
Phải có người kính tin.

Đức Phật lại ngăn lời ngài Xá-lợi-phất: “Nếu ta nói ra việc này, hết thảy hàng trời, người, a-tu-la... trong khắp thế gian đều sẽ kinh sợ nghi ngờ, các tỳ-kheo tăng thượng mạn[81] sẽ phải sa vào hố sâu tội lỗi vì phỉ báng.”

Bấy giờ, đức Thế Tôn nhắc lại nghĩa trên bằng kệ rằng:

Thôi thôi không nên nói,
Pháp Phật khó nghĩ bàn.
Những kẻ tăng thượng mạn,
Ắt không thể kính tin.

Bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất một lần nữa bạch Phật: “Thế Tôn! Kính nguyện Phật nói ra, kính nguyện Phật nói ra. Nay trong hội này, những người như con, số nhiều đến trăm ngàn muôn ức, trải qua nhiều đời đã từng được Phật giáo hóa. Những người này ắt sẽ có thể kính tin, trong đêm dài sinh tử họ sẽ an ổn, được nhiều lợi ích.” Khi ấy, ngài Xá-lợi-phất muốn nhắc lại nghĩa trên nên nói kệ rằng:

Đấng Thế Tôn Vô thượng,
Nguyện thuyết pháp bậc nhất.
Con là con trưởng Phật,
Xin thương mà giảng thuyết,
Trong hội vô số chúng,
Có thể kính tin lời.
Phật đã qua bao đời,
Giáo hóa những người này,
Nay một lòng chắp tay,
Muốn nghe lời Phật dạy.
Chúng con một ngàn hai,
Cùng người cầu quả Phật,
Nguyện vì hội chúng này,
Thương xót phân biệt nói.
Đại chúng nghe pháp này,
Ắt sinh lòng hoan hỷ.

Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài Xá-lợi-phất: “Ông đã hết lòng thưa thỉnh ba lần, lẽ nào ta lại không nói. Nay ông hãy chú ý lắng nghe, khéo suy xét kỹ và ghi nhớ, ta sẽ vì các ông mà phân biệt giảng nói.”

Khi đức Phật vừa nói ra lời này, trong chúng hội liền có 5.000 tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di cùng đứng dậy khỏi tòa ngồi, lễ Phật rồi lui ra. Vì sao vậy? Những người ấy gốc tội sâu nặng, lại là hàng tăng thượng mạn, chưa chứng nói là chứng, chưa đắc nói là đắc, có những lỗi lầm như vậy nên không ở lại. Đức Thế Tôn lặng thinh không ngăn cản.

Bấy giờ, đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Trong hội chúng này nay không còn cành lá, chỉ thuần hạt chắc. Này Xá-lợi-phất, những kẻ tăng thượng mạn ấy lui ra cũng tốt. Nay ông hãy khéo lắng nghe, ta sẽ vì các ông thuyết giảng.”

Ngài Xá-lợi-phất thưa: “Xin vâng, Thế Tôn! Chúng con nguyện vui thích muốn nghe.”

Đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Pháp vi diệu này, chư Phật Như Lai đúng thời mới thuyết, như hoa ưu-đàm-bát đúng thời chỉ nở một lần. Này Xá-lợi-phất! Các ông nên tin lời Phật thuyết dạy, không hề hư dối. Xá-lợi-phất! Chư Phật tùy chỗ thích hợp mà thuyết pháp, ý nghĩa khó nhận hiểu.

“Vì sao vậy? Ta dùng vô số phương tiện, đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để giảng thuyết các pháp. Pháp ấy không thể suy lường phân biệt mà hiểu được, chỉ có chư Phật mới đủ khả năng thấu hiểu. Vì sao vậy? Chư Phật Thế Tôn chỉ vì duy nhất một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời.

“Xá-lợi-phất! Thế nào là chư Phật Thế Tôn chỉ vì duy nhất một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời?

“Chư Phật Thế Tôn vì muốn giúp chúng sanh khai mở tri kiến Phật để được thanh tịnh nên xuất hiện ở đời; muốn chỉ bày cho chúng sanh thấy được tri kiến Phật nên xuất hiện ở đời; muốn khiến cho chúng sanh tỏ ngộ tri kiến Phật nên xuất hiện ở đời; muốn giúp cho chúng sanh thể nhập đạo tri kiến Phật nên xuất hiện ở đời.

“Xá-lợi-phất, đó là chư Phật chỉ vì duy nhất một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời.”

Đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Chư Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ Tát,[82] hết thảy việc làm thường chỉ vì một mục đích duy nhất là dùng tri kiến Phật để chỉ bày, khai ngộ chúng sanh. Xá-lợi-phất! Như Lai chỉ dùng một Phật thừa vì chúng sanh thuyết pháp, không có thừa nào khác như Nhị thừa, Tam thừa.

“Xá-lợi-phất! Pháp của hết thảy chư Phật mười phương cũng đều như vậy. Xá-lợi-phất! Chư Phật trong quá khứ dùng vô lượng vô số phương tiện, đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để vì chúng sanh thuyết giảng các pháp; các pháp ấy đều là một Phật thừa. Những chúng sanh được nghe pháp từ chư Phật, rốt ráo đều đạt được Nhất thiết chủng trí.

“Này Xá-lợi-phất! Chư Phật trong tương lai ra đời, lại cũng sẽ dùng vô lượng vô số phương tiện, đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để vì chúng sanh thuyết giảng các pháp, các pháp ấy đều là một Phật thừa. Những chúng sanh được nghe pháp từ chư Phật, rốt ráo đều đạt được Nhất thiết chủng trí.

“Xá-lợi-phất! Chư Phật Thế Tôn hiện tại trong vô lượng trăm ngàn muôn ức cõi Phật mang lại rất nhiều lợi ích an lạc cho chúng sanh, chư Phật ấy lại cũng dùng vô lượng vô số phương tiện, đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để vì chúng sanh thuyết giảng các pháp, các pháp ấy đều là một Phật thừa. Những chúng sanh được nghe pháp từ chư Phật, rốt ráo đều đạt được Nhất thiết chủng trí.

“Xá-lợi-phất! [Tất cả] chư Phật ấy cũng chỉ giáo hóa Bồ Tát, muốn dùng tri kiến Phật để chỉ bày chúng sanh, muốn dùng tri kiến Phật để khai ngộ chúng sanh, muốn giúp cho chúng sanh thể nhập tri kiến Phật.

“Xá-lợi-phất! Ta nay cũng như vậy, biết rõ chúng sanh có đủ mọi ham muốn, bám chấp sâu nặng trong tâm, nên tùy theo bản tánh của chúng sanh mà dùng đủ mọi nhân duyên, thí dụ, ngôn từ, sức phương tiện để thuyết giảng pháp. Xá-lợi-phất, như vậy đều là vì để giúp chúng sanh đạt một Phật thừa, được Nhất thiết chủng trí.

“Xá-lợi-phất! Trong khắp thế giới mười phương vốn không có hai thừa, huống gì lại có ba? Xá-lợi-phất, chư Phật thị hiện ở đời xấu ác có năm sự uế trược, đó là kiếp trược, phiền não trược, chúng sanh trược, kiến trược, mạng trược.[83] Như vậy, này Xá-lợi-phất, vào thời kiếp trược hỗn loạn, chúng sanh cấu nhiễm nặng nề, nhiều tham lam, ganh ghét, tạo thành các gốc rễ bất thiện, nên chư Phật dùng sức phương tiện, đối với một Phật thừa mà phân biệt thuyết dạy thành ba thừa.

“Xá-lợi-phất! Nếu các đệ tử của ta có người tự cho mình là A-la-hán, Phật Bích-chi mà không nghe không biết việc chư Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ Tát, những người ấy không phải đệ tử Phật, cũng không phải A-la-hán, không phải Phật Bích-chi.

“Lại nữa, Xá-lợi-phất, những tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni ấy tự cho mình đã chứng quả A-la-hán, cho đó là thân sau cùng, đã được Niết-bàn rốt ráo, không có chí hướng cầu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nên biết rằng hạng người ấy đều là tăng thượng mạn. Vì sao vậy? Nếu có tỳ-kheo nào thật sự chứng quả A-la-hán mà không tin nhận pháp Nhất thừa thì thật vô lý, trừ phi sau Phật diệt độ, hiện tiền không có Phật.

“Vì sao vậy? Sau khi Phật diệt độ thì người có thể thọ trì, tụng đọc, giảng giải những kinh như thế này rất khó gặp được. Nhưng nếu gặp Phật ở cõi khác thì ở trong giáo pháp này liền được thấu triệt rõ ràng.

“Xá-lợi-phất! Các ông nên hết lòng tin hiểu, thọ trì lời Phật dạy. Lời của chư Phật Như Lai không hư dối, thật không có thừa nào khác, chỉ duy nhất một Phật thừa.”

Bấy giờ, Thế Tôn muốn nhắc lại ý nghĩa trên liền nói kệ rằng:

Tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni,
Ôm lòng tăng thượng mạn,
Ưu-bà-tắc ngã mạn,
Ưu-bà-di bất tín.
Bốn chúng thuộc hạng này,
Số nhiều đến năm ngàn.
Không tự thấy lỗi mình,
Giới luật có thiếu sót,
Ôm tiếc lỗi của mình.
Do oai đức của Phật,
Nên những người kém cỏi,
Hạng trí nhỏ rời đi,
Vì phước đức mỏng manh,
Không đủ sức tiếp nhận.
Hội chúng sạch cành lá,
Chỉ còn quả hạt chắc,
Xá-lợi-phất, lắng nghe:
Pháp chư Phật chứng đắc,
Vô số lực, phương tiện,
Vì chúng sanh thuyết dạy.
Chúng sanh tâm khởi niệm,
Cùng đủ mọi việc làm,
Có bao nhiêu tham muốn,
Nghiệp đời trước thiện ác,
Phật đều rõ biết hết.
Dùng nhân duyên, thí dụ,
Sức phương tiện, ngôn từ,
Khiến cho đều hoan hỷ.
Hoặc thuyết giảng Khế kinh,
Hay Già-đà, Bản sự,
Bản sinh, Vị tằng hữu,
Lại thuyết kinh Nhân duyên,
Thí dụ cùng Kỳ-dạ,
Kinh Ưu-ba-đề-xá.[84]
Kẻ ngu, ưa pháp nhỏ,
Bám chấp chốn sinh tử,
Gặp vô số chư Phật,
Vẫn không tu đạo mầu,
Nên bị khổ giày vò,
Vì họ, thuyết Niết-bàn.
Ta bày phương tiện này,
Giúp nhập trí tuệ Phật,
Chưa từng nói các ông,
Rồi sẽ thành Phật đạo.
Sở dĩ chưa từng nói,
Vì thời chưa thích hợp,
Nay chính lúc hợp thời,
Quyết định thuyết Đại thừa.
Chín bộ kinh đã thuyết,[85]
Là tùy thuận chúng sanh,
Nhập Đại thừa là gốc,
Cho nên thuyết kinh này.
Có Phật tử tâm tịnh,
Nhu hòa lại sáng suốt,
Nơi vô số chư Phật,
Đã tu sâu đạo mầu.
Vì những Phật tử ấy,
Thuyết kinh Đại thừa này,
Thụ ký những người ấy,
Tương lai thành quả Phật.
Người tâm thành niệm Phật,
Giữ giới hạnh thanh tịnh,
Vừa nghe được thành Phật,
Hoan hỷ khắp toàn thân.
Phật rõ biết tâm hạnh,
Vì họ thuyết Đại thừa.
Thanh văn hay Bồ Tát,
Nghe ta thuyết kinh này,
Dù chỉ một bài kệ,
Chắc chắn đều thành Phật.
Cõi Phật trong mười phương,
Chỉ có pháp Nhất thừa,
Không hai cũng không ba,
Trừ Phật phương tiện thuyết;
Chỉ là tên giả tạm,
Để dẫn dắt chúng sanh,
Thuyết dạy trí tuệ Phật,
Chư Phật hiện ở đời,
Chỉ có một sự thật,
Ngoài ra đều không thật.
Rốt không dùng Tiểu thừa,
Để cứu độ chúng sanh.
Phật trụ nơi Đại thừa,
Dùng pháp đã chứng đắc,
Định, tuệ, lực trang nghiêm,
Để cứu độ chúng sanh.
Phật chứng đạo Vô thượng,
Pháp bình đẳng Đại thừa,
Nếu dùng pháp Tiểu thừa,
Dù giáo hóa một người,
Ắt tâm Phật tham tiếc,
Việc ấy không thể có.
Nếu người tin theo Phật,
Như Lai không dối gạt,
Không tham tiếc, ganh ghét,
Dứt các pháp xấu ác.
Nên trong khắp mười phương,
Riêng Phật không sợ hãi.
Phật thân tướng trang nghiêm,
Hào quang chiếu thế gian,
Vô số chúng tôn kính,
Vì chúng thuyết tướng thật.
Xá-lợi-phất nên biết,
Phật xưa đã thệ nguyện,
Độ hết thảy chúng sanh,
Được như Phật không khác.
Như thệ nguyện từ trước,
Nay thành tựu viên mãn,
Giáo hóa khắp chúng sanh,
Khiến đều vào Phật đạo.
Nếu ta gặp chúng sanh,
Đều dạy bằng Phật đạo.
Kẻ thác loạn ngu si,
Mê hoặc chẳng nghe lời.
Ta biết chúng sanh ấy,
Chưa từng tu gốc thiện,
Bám chấp nặng năm dục,
Si mê, ái luyến khổ.
Do nhân duyên các dục,
Đọa vào ba đường ác,
Luân hồi trong sáu nẻo,
Chịu đủ các khổ độc.
Thọ thân từ bào thai,
Đời đời thêm nghiệp khổ.
Người thiếu phước, đức mỏng,
Bị các khổ bức bách,
Vào sâu rừng tà kiến,
Chấp có hoặc chấp không,
Cùng các loại kiến chấp,
Đủ số sáu mươi hai.[86]
Chấp sâu pháp hư dối,
Bám chặt không thể buông,
Ngã mạn, tự cao ngạo,
Dua nịnh, không chân thật,
Trong ngàn muôn ức kiếp,
Chẳng nghe danh xưng Phật,
Cũng chẳng nghe chánh pháp,
Người như vậy khó độ.
Cho nên, Xá-lợi-phất!
Ta bày ra phương tiện,
Thuyết dạy đường dứt khổ,
Bảo đó là Niết-bàn.
Tuy nói là Niết-bàn,
Nhưng chưa thật diệt độ,
Các pháp từ xưa nay,
Tướng thường tự tịch diệt.
Phật tử tu hành đạo,
Tương lai sẽ thành Phật.
Ta dùng sức phương tiện,
Mở bày pháp ba thừa.
Hết thảy các đức Phật,
Đều thuyết đạo Nhất thừa.
Nay đại chúng ở đây,
Nên dứt trừ nghi hoặc,
Chư Phật dạy không khác,
Duy Nhất thừa, không hai.
Vô số kiếp quá khứ,
Vô lượng Phật diệt độ,
Trăm ngàn muôn ức vị,
Số không thể tính đếm.
Các đức Phật như vậy,
Dùng nhân duyên, thí dụ,
Vô số sức phương tiện,
Giảng thuyết các tướng pháp.
Những bậc Thế Tôn ấy,
Đều thuyết pháp Nhất thừa,
Giáo hóa vô số chúng,
Khiến được vào Phật đạo.
Lại các bậc Đại thánh,
Rõ biết khắp thế gian,
Chư thiên cùng nhân loại,
Nhiều tham muốn sâu xa,
Nên dùng phương tiện khác,
Giúp hiển bày nghĩa thật.
Nếu có những chúng sanh,
Gặp Phật trong quá khứ,
Hoặc nghe pháp, bố thí,
Hoặc trì giới, nhẫn nhục,
Tinh tấn, thiền, trí tuệ...
Tu các pháp phúc, tuệ.
Phật dạy: Những người ấy,
Đều đã thành Phật đạo.
Chư Phật diệt độ rồi,
Ai khéo điều phục tâm,
Hết thảy những người ấy,
Đều đã thành phật đạo.
Chư Phật diệt độ rồi,
Ai cúng dường xá-lợi,
Dựng muôn ức ngọn tháp,
Bằng vàng, bạc, pha lê,
Xa cừ cùng mã não,
Hồng ngọc, châu lưu ly,
Cao rộng, sạch, trang nghiêm,
Trang hoàng nơi các tháp.
Hoặc dùng đá xây miếu,
Với chiên-đàn, trầm hương,
Gỗ mật, các loại khác,
Hay gạch, ngói, bùn đất...
Hoặc giữa nơi đồng trống,
Đắp gò cao thờ Phật,
Thậm chí trẻ chơi đùa,
Vun cát làm tháp Phật...
Những trường hợp như thế,
Đều đã thành Phật đạo.
Có người vì kính Phật,
Nên vẽ hình, tạc tượng,
Chạm khắc các tướng Phật,
Đều đã thành Phật đạo.
Hoặc dùng bảy món báu,
Hợp kim, đồng đỏ, trắng...
Hoặc chì, thiết... các loại,
Sắt, thép, gỗ, đất bùn...
Hoặc keo, nhựa sơn, vải...
Trang hoàng nên tượng Phật.
Những người làm như vậy,
Đều đã thành Phật đạo.
Hoặc vẽ hình tượng Phật,
Đủ phước tướng trang nghiêm,
Tự làm, sai người làm,
Đều đã thành Phật đạo.
Thậm chí trẻ chơi đùa,
Dùng cỏ, cây, ngọn bút,
Hoặc móng tay, ngón tay...
Vẽ thành hình tượng Phật.
Những đứa trẻ như thế,
Dần dần thêm công đức,
Trọn đủ tâm đại bi,
Đều đã thành Phật đạo.
Chỉ giáo hóa Bồ Tát,
Độ thoát vô số chúng.
Nếu người nơi tháp miếu,
Tượng báu hay hình Phật,
Dùng hoa, hương, phướn, lọng...
Tâm cung kính cúng dường.
Hoặc sai người tấu nhạc,
Đánh trống, thổi tù và...
Tiêu, sáo, đàn không hầu,
Đàn tỳ bà, chập chõa,
Bao âm thanh tuyệt diệu,
Đều dâng lên cúng dường.
Hoặc dùng tâm hoan hỷ,
Xưng tán công đức Phật,
Dù một lời nhỏ nhặt,
Đều đã thành phật đạo.
Nếu người tâm tán loạn,
Dùng chỉ một bông hoa,
Cúng dường tranh vẽ Phật,
Dần gặp vô số Phật.
Nếu có người lễ bái,
Hoặc là chỉ chắp tay,
Thậm chí đưa tay lên,
Hay cúi nhẹ đầu xuống.
Cúng dường hình tượng Phật,
Dần gặp vô số Phật.
Tự thành đạo Vô thượng,
Độ vô số chúng sanh,
Nhập Niết-bàn Vô dư,
Như củi hết lửa tắt.
Nếu người tâm tán loạn,
Vào tháp miếu thờ Phật,
Niệm một tiếng nam-mô,
Đều đã thành Phật đạo.
Nơi chư Phật quá khứ,
Hoặc còn, hoặc diệt độ,
Nếu được nghe pháp này,
Đều đã thành Phật đạo.
Các vị Phật tương lai,
Số nhiều đến vô lượng,
Tất cả chư Phật ấy,
Cũng phương tiện thuyết pháp.
Hết thảy các đức Phật,
Dùng vô số phương tiện,
Độ thoát muôn chúng sanh,
Vào trí Phật vô lậu,
Người đã được nghe pháp,
Không ai không thành Phật.
Chư Phật từng thệ nguyện,
Đạo Phật tu, Phật chứng,
Cũng làm cho chúng sanh,
Đều tu chứng đạo ấy.
Chư Phật đời vị lai,
Tuy thuyết trăm ngàn ức,
Đến vô số pháp môn,
Thật chỉ là Nhất thừa.
Chư Phật đủ phước trí,
Biết pháp không tự tánh,
Hạt giống Phật duyên khởi,
Cho nên thuyết Nhất thừa.
Pháp trụ nơi pháp vị,
Tướng thế gian thường trụ,
Nơi đạo trường rõ biết,
Đạo sư thuyết phương tiện.
Hàng trời người cúng dường,
Mười phương Phật hiện tại,
Số nhiều như cát sông,
Xuất hiện nơi thế gian,
Vì giúp chúng an ổn,
Cũng thuyết pháp như vậy.
Biết tịch diệt hơn hết,
Nhưng dùng sức phương tiện,
Tuy chỉ bày mọi đường,
Thật chỉ vì Phật thừa.
Rõ biết mọi tánh hạnh,
Tâm niệm của chúng sanh,
Và tập khí quá khứ,
Tham muốn, sức tinh tấn,
Cùng căn tánh lợi, độn.
Nên dùng mọi nhân duyên,
Nhiều thí dụ, ngôn từ,
Phương tiện thuyết ứng hợp.
Nay ta cũng như vậy,
Vì giúp chúng an ổn,
Dùng đủ mọi pháp môn,
Để chỉ bày Phật đạo.
Ta dùng sức trí tuệ,
Biết lòng dục chúng sanh,
Phương tiện giảng các pháp,
Khiến cho đều hoan hỷ.
Xá-lợi-phất nên biết!
Ta dùng Phật nhãn quán,
Thấy chúng sanh sáu đường,
Nghèo khốn, không phước trí,
Vào đường hiểm sanh tử,
Khổ triền miên không dứt,
Bám chấp năm món dục,
Như bò thích đuôi bò,
Tham ái tự che lấp,
Mê tối chẳng thấy gì.
Không cầu oai lực Phật,
Dứt trừ các pháp khổ,
Vào sâu rừng tà kiến,
Muốn dùng khổ dứt khổ.
Vì những chúng sanh ấy,
Ta khởi tâm đại bi.
Ban sơ ngồi đạo trường,
Ta nhìn cây, kinh hành,
Trong suốt hai mốt ngày,
Chỉ suy xét một việc:
Trí tuệ ta chứng đắc,
Thật vi diệu hơn hết.
Chúng sanh căn cơ thấp,
Tham đắm, nhiều si mê...
Những hạng chúng sanh này,
Làm sao có thể độ?
Khi ấy những Phạm vương,
Cùng các Thiên Đế thích,
Bốn Thiên vương Hộ thế,
Cùng Đại Tự tại thiên,
Và chúng chư thiên khác,
Quyến thuộc trăm ngàn muôn,
Cùng chắp tay cung kính,
Thỉnh Phật chuyển pháp luân.
Ta liền tự nghĩ rằng:
Nếu chỉ khen Phật thừa,
Chúng sanh chìm đắm khổ,
Không đủ sức tin nhận,
Sẽ chống phá, không tin,
Đọa sâu ba đường ác.
Ta không nên thuyết pháp,
Phải sớm nhập Niết-bàn.
Liền nhớ Phật quá khứ,
Từng dùng sức phương tiện.
Nay ta chứng chánh đạo,
Cũng nên thuyết ba thừa.
Khi ta nghĩ như vậy,
Mười phương Phật hiện ra,
Dùng Phạm âm khuyến khích:
“Lành thay! Phật Thích-ca,
Đấng Đạo sư bậc nhất,
Chứng pháp Vô thượng này,
Theo gương tất cả Phật,
Mà dùng sức phương tiện.
Chư Phật cũng chứng đắc,
Pháp vi diệu bậc nhất,
Nhưng cũng vì chúng sanh,
Phân biệt thuyết ba thừa.
Kém trí ưa pháp nhỏ,
Không tự tin thành Phật,
Nên phải dùng phương tiện,
Phân biệt các quả vị.
Tuy nói có ba thừa,
Chỉ giáo hóa Bồ Tát.”
Xá-lợi-phất nên biết!
Ta nghe tiếng chư Phật,
Thanh âm rất nhiệm mầu,
Liền vui cung kính Phật.
Rồi khởi lên ý nghĩ:
“Ta gặp đời uế trược,
Như lời chư Phật dạy,
Ta cũng thuận làm theo.”
Suy nghĩ như vậy rồi,
Liền đến Ba-la-nại.
Tướng các pháp vắng lặng,
Không thể dùng lời nói,
Phật dùng sức phương tiện,
Giảng cho năm tỳ-kheo.
Gọi là chuyển pháp luân,
Từ đó có Niết-bàn,
Lại có A-la-hán,
Có Pháp bảo, Tăng bảo.
Từ vô số kiếp xưa,
Ngợi khen pháp Niết-bàn,
Dứt hẳn khổ sinh tử,
Ta thường thuyết như vậy.
Xá-lợi-phất nên biết!
Ta thấy những Phật tử,
Quyết chí cầu Phật đạo,
Số nhiều đến vô lượng...
Đều khởi tâm cung kính,
Cùng đi đến chỗ Phật,
Họ từng theo chư Phật,
Được nghe pháp phương tiện.
Ta liền suy nghĩ rằng:
Bậc Như Lai xuất thế,
Chỉ bày trí tuệ Phật,
Nay chính lúc thích hợp.
Xá-lợi-phất nên biết!
Người căn thấp, trí hẹp,
Chấp tướng và kiêu mạn,
Không thể tin pháp này.
Phật hoan hỷ không ngại,
Nay giữa chúng Bồ Tát,
Chính thức bỏ phương tiện,
Chỉ thuyết đạo Vô thượng.
Bồ Tát nghe pháp này,
Đều dứt sạch lưới nghi,
Ngàn hai trăm La-hán,
Cũng đều sẽ thành Phật.
Như nghi thức thuyết pháp,
Của ba đời chư Phật,
Ta nay cũng như vậy,
Thuyết pháp không phân biệt.
Chư Phật hiện ở đời,
Rất lâu xa khó gặp,
Ngay khi đã xuất thế,
Thuyết pháp này càng khó.
Vô lượng vô số kiếp,
Được nghe pháp này khó,
Người đủ sức nghe pháp,
Càng khó tìm gặp hơn.
Giống như hoa ưu-đàm,
Mọi người đều ưa thích,
Giữa hai cõi trời, người,
Hiếm hoi mới xuất hiện.
Người nghe pháp hoan hỷ,
Ngợi khen chỉ một lời,
Cũng bằng như cúng dường,
Ba đời mười phương Phật.
Người như vậy ít gặp,
Hiếm hơn hoa ưu-đàm.
Các ông chớ hoài nghi,
Phật là vua các pháp,
Tuyên cáo cùng đại chúng,
Chỉ dùng đạo Nhất thừa,
Giáo hóa các Bồ Tát,
Không đệ tử Thanh văn.
Xá-lợi-phất, các ông,
Thanh văn cùng Bồ Tát,
Nên biết diệu pháp này,
Bí yếu của chư Phật.
Vì đời ác năm trược,
Chỉ tham đắm các dục,
Những chúng sanh như vậy,
Rốt chẳng cầu Phật đạo.
Những kẻ xấu đời sau,
Nghe Phật dạy Nhất thừa,
Mê hoặc không tin nhận,
Phá pháp, đọa cõi ác.
Người thanh tịnh, tàm quý,
Quyết chí cầu Phật đạo,
Nên vì những người ấy,
Rộng khen đạo Nhất thừa.
Xá-lợi-phất nên biết,
Pháp chư Phật như thế,
Dùng muôn ức phương tiện,
Để thuyết pháp thích hợp,
Nếu không học, không tu,
Thì không thể thấu hiểu.
Các ông đã rõ biết,
Phật là thầy thế gian,
Việc phương tiện quyền biến,
Đừng khởi sinh nghi hoặc.
Phải hết sức vui mừng,
Biết mình sẽ thành Phật.

____________________________


CHÚ THÍCH

[1] Nguyên tác Hán văn là “大比丘眾萬二千人俱, 皆是阿羅漢 - đại tỳ-kheo chúng vạn nhị thiên nhân câu, giai thị A-la-hán” (chúng đại tỳ-kheo 12.000 vị, hết thảy đều là bậc A-la-hán). Tuy nhiên, kinh Chánh Pháp Hoa ở chỗ này nói là 1.200 vị tỳ-kheo: “比丘千二百, 一 切無著 - tỳ-kheo thiên nhị bá, nhất thiết vô trước”. Bản Anh ngữ dịch từ Phạn ngữ của H. Kern cũng nói là 1.200 vị: “twelve hundred monks, all of them Arhats” (1.200 vị tăng, tất cả đều là bậc A-la-hán). Lại xét trong chính bản dịch này, phẩm Phương tiện nói: “爾時大眾中有諸聲聞漏盡阿羅漢,阿若憍陳如等千二百人 - Nhĩ thời đại chúng trung hữu chư Thanh văn lậu tận A-la-hán, A-nhã Kiều-trần-như đẳng thiên nhị bá nhân…” (Bấy giờ trong đại chúng có các vị Thanh văn đã chứng A-la-hán, dứt sạch lậu hoặc, giống như ngài A-nhã Kiều-trần-như... cả thảy 1.200 vị.) (ĐCT, T9, 262, tr.6a, d.28-29) Tiếp theo, trong phẩm Thí dụ, ngài Xá-lợi-phất bạch Phật: “是諸千二百心自在者,昔住學地 - Thị chư thiên nhị bá tâm tự tại giả, tích trụ học địa…” (Trong số 1.200 vị đạt tâm tự tại ở đây, thuở xưa khi còn ở bậc hữu học…) (ĐCT, T9, 262, tr.12b, d.3-4) Ngoài ra còn nhiều nơi khác trong kinh khi nhắc đến số A-la-hán cũng đều dùng số 1.200 vị, nhưng không có bất kỳ nơi nào khác nêu số lượng 12.000. Như vậy có thể kết luận rằng con số 12.000 ở đây là nhầm lẫn, nên phải điều chỉnh đúng là 1.200.

[2] A-nhã Kiều-trần-như (H. 阿若憍陳如, S. Ājñātakauṇḍinya), một trong 5 vị tỳ-kheo được Phật giáo hóa trước tiên tại vườn Lộc uyển. Các vị này đều đã từng tu khổ hạnh với đức Phật.

[3] Ma-ha Ca-diếp (H. 摩訶迦葉, S. Mahākāśyapa), cũng gọi là Đại Ca-diếp, một trong 10 đại đệ tử của Phật, được đức Phật khen ngợi là Đệ nhất Đầu-đà (頭陀第一).

[4] Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp (H. 優樓頻螺迦葉, S. Uruvilvā-kāśyapa), cũng gọi là Kỳ niên Ca-diếp (耆年迦葉). Ông là anh trưởng trong 3 anh em cùng từ bỏ phái ngoại đạo thờ lửa để dẫn tất cả đệ tử của mình về quy y theo Phật. Hai người em cũng được kể ra ở đây là Già-da Ca-diếp (H. 伽 耶迦葉, S. Gayā-kāśyapa) và Na-đề Ca-diếp (H. 那提迦葉, S. Nadī-kāśyapa)

[5] Xá-lợi-phất (H. 舍利弗, S. Śāriputra), một trong 10 đại đệ tử của Phật, cũng được gọi là Xá-lợi Tử (舍利子), Thân Tử (身子), trong kinh Tỳ-kheo Na-tiên gọi là Xá-lê-viết (舍犁曰). Xá-lợi-phất thông minh xuất chúng, từng theo học và thông suốt các luận giải ngoại đạo trước khi quy y Phật. Ngài được Phật khen ngợi là Đệ nhất Trí tuệ (智慧第一).

[6] Đại Mục-kiền-liên, tức Ma-ha Mục-kiền-liên (H. 摩訶目犍連, S. Mahā-maudgalyayāna), một trong 10 đại đệ tử của Phật, là bạn thân với Xá-lợi-phất từ trước khi xuất gia, cùng theo học ngoại đạo. Sau khi Xá-lợi-phất quy y Phật thì Mục-kiền-liên cũng quy y Phật. Ngài được Phật khen ngợi là Đệ nhất Thần thông (神通第一).

[7] Ma-ha Ca-chiên-diên (H. 摩訶迦旃延, S. Mahākātyāyana), một trong 10 đại đệ tử của Phật, từng theo học với tiên nhân A-tư-đà là người xem tướng cho thái tử Tất-đạt-đa lúc mới ra đời. A-tư-đà biết tuổi thọ của mình không còn đủ để được gặp Phật nên dặn dò Ca-chiên-diên sau này nên theo học với Phật. Ngài là người có tài biện luận khuất phục ngoại đạo, được đức Phật ngợi khen là Đệ nhất Luận nghị (論義第一).

[8] A-nậu-lâu-đà (H. 阿㝹樓馱, S. Aniruddha), thường gọi là A-na-luật, một trong 10 đại đệ tử của Phật. Ngài là người họ Thích, là em họ của Thái tử Tất-đạt-đa, đã xuất gia cùng lúc với nhiều vương tử khác trong dịp đức Phật quay về Ca-tỳ-la-vệ. Sau khi xuất gia, ngài tinh tấn tu tập, nhưng có lần quá mệt mỏi nên ngủ gục trong lúc Phật thuyết pháp, bị Phật quở trách. Từ đó ngài phát nguyện không ngủ, đến nỗi bị đau mắt rồi mù lòa. Ngài càng tinh tấn tu tập hơn nữa và chứng được thiên nhãn, nhìn thấy mà không cần mắt thịt, được đức Phật khen ngợi là Đệ nhất Thiên nhãn (天眼第一).

[9] Kiếp-tân-na (H. 劫賓那, S. Kapphiṇa), cũng gọi là Ma-ha Kiếp-tân-na (摩呵劫賓那). Ngài chỉ nghe biết đạo Phật rồi xuất gia tu hành nhưng chưa được gặp Phật. Vì thế, trên đường đi có lần ngài xin nghỉ nhờ trong nhà một người thợ làm đồ gốm, được ở chung phòng với Phật mà không biết, nhưng nghe Phật thuyết pháp liền giác ngộ, sau đó mới biết người thuyết pháp là Phật.

[10] Kiều-phạm-ba-đề (H. 憍梵波提, S. Gavāṃpati), Hán dịch là Ngưu Tích (牛跡) hay Ngưu Chủ (牛主), vì miệng ngài có thói quen nhóp nhép nhai suốt ngày giống như loài trâu bò nhai lại, được cho là do tập khí từ nhiều đời trước. Để tránh cho người đời khỏi nhìn thấy và chế giễu ngài rồi phải mắc tội, nên ngay trong thời Phật tại thế, ngài vẫn thường lên sống và tu tập thiền định trên cung trời Đao-lợi.

[11] Ly-bà-đa (H. 離婆多, S. Revata), là em của ngài Xá-lợi-phất. Kinh Tăng nhất A-hàm nói rằng ngài là người giỏi tọa thiền nhập định, luôn giữ tâm không điên đảo tán loạn.

[12] Tất-lăng-già-bà-sa (H. 畢陵伽婆蹉, S. Pilinda-vatsa), Hán dịch là Dư Tập (惡口) hoặc Ác Khẩu (餘習), vì ngài có tập khí từ xưa chưa bỏ được nên nói năng thô lỗ, thường mắng nhiếc người khác nặng lời.

[13] Bạc-câu-la (H. 薄拘羅, S. Bakkula), Hán dịch là Thiện Dung (善容) vì ngài có dung mạo đoan nghiêm đẹp đẽ. Khi chưa xuất gia, ngài từng bị mẹ kế tìm cách giết hại 5 lần nhưng đều không thành. Sau khi xuất gia, suốt đời ngài không hề mắc phải bệnh tật gì và sống đến 160 tuổi.

[14] Ma-ha Câu-hi-la (H. 摩訶拘絺羅, S. Mahākauṣṭhila), Hán dịch là Đại Tất (大膝) hoặc Đại Thắng (大勝). Ngài là cậu của ngài Xá-lợi-phất, khi chưa xuất gia chính là Phạm-chí Trường Trảo, người uyên bác các luận giải ngoại đạo. Vì chuyên tâm học luận đến nỗi không có thời gian cắt móng tay, để dài thường xuyên nên gọi là “trường trảo”.

[15] Nan-đà (H. 難陀, S. Nanda), cũng gọi là Phóng ngưu Nan-đà (放牛難陀), vì trước khi xuất gia vốn là người chăn trâu. Khi vua Tần-bà-sa-la thỉnh Phật và tăng chúng an cư trong 3 tháng thì ngài cúng dường sữa đều đặn mỗi ngày. Vua thấy tâm thành nên cho phép ngài được gặp Phật. Ngài đem việc chăn trâu thưa hỏi, nhân đó Phật đã thuyết kinh Phóng ngưu (佛說放牛經). Ngài kính phục nên xin được xuất gia tu học từ đó.

[16] Tôn-đà-la Nan-đà (H. 孫陀羅難陀, S. Sundara-nanda), là em trai cùng cha khác mẹ với thái tử Tất-đạt-đa. Ngài có dung nhan rất đẹp, đủ 30 tướng tốt, là người ưa thích nữ sắc, lại cưới người vợ rất đẹp là Tôn-đà-lợi (Sundarī). Sau khi xuất gia vẫn không quên được người vợ nên nhiều lần quay về nhà. Đức Phật dùng phương tiện chỉ ra cho thấy sự vô thường của thế gian, khiến ngài trừ được ái dục, từ đó tinh tấn tu hành.

[17] Phú-lâu-na Di-đà-la-ni tử (H. 富樓那彌多羅尼子, S. Pūrṇa-maitrāyaṇīputra), Hán dịch là Mãn Từ Tử (滿慈子), một trong 10 đại đệ tử của Phật, có tài biện luận, giỏi việc thuyết pháp, được Phật khen ngợi là Đệ nhất Thuyết pháp (說法第一).

[18] Tu-bồ-đề (H. 須菩提, S. Subhūti), Hán dịch là Thiện Hiện (善現) hoặc Không Sanh (空生), một trong 10 đại đệ tử của Phật. Ngài sinh trong nhà bà-la-môn, thông minh xuất chúng nhưng tính tình nóng nảy, sân hận. Sau được Phật giáo hóa tự biết lỗi lầm, sám hối, từ bỏ tánh xấu, sau chứng quả A-la-hán, được Phật khen ngợi là người thấu hiểu về nghĩa Không giỏi nhất, gọi là Đệ nhất Giải không (解空第一).

[19] A-nan, tức A-nan-đà (H. 阿難陀, S. Ānanda), Hán dịch là Khánh Hỷ (慶喜), là em họ của Thái tử Tất-đạt-đa, một trong 10 đại đệ tử của Phật và cũng là thị giả theo hầu bên Phật. Ngài giữ vai trò quan trọng nhất trong việc truyền lại kinh điển, vì có điều kiện nghe tất cả các kinh Phật thuyết cũng như có trí nhớ siêu việt để truyền lại không sai sót, được Phật khen ngợi là Đệ nhất Đa văn (多聞第一).

[20] La-hầu-la (H. 羅睺羅, S. Rāhula), là con trai của Thái tử Tất-đạt-đa, xuất gia nhân dịp Phật quay về thăm Ca-tỳ-la-vệ và trở thành sa-di nhỏ tuổi nhất khi đó. Về sau, ngài là một trong 10 đại đệ tử của Phật và được Phật khen ngợi là Đệ nhất Mật hạnh (密行第一).

[21] Nguyên tác là “眾所知識 - chúng sở tri thức”, chỉ đến việc nhiều người trong đại chúng đều nghe danh biết đến. Văn cú của ngài Trí Khải cũng đưa ra cách hiểu: “Nghe danh là tri, được gặp gỡ nhìn thấy là thức.” Như vậy, tri thức ở đây chỉ đến danh tiếng được đại chúng biết đến.

[22] Hữu học (H. 有學, S. śaikṣa) và vô học (H. 無學, S. aśaikṣa). Hữu học nghĩa là còn phải học tập; vô học là không còn gì phải học, vì đã đoạn trừ hết mọi sự nghi hoặc. Trong 4 thánh quả Tiểu thừa thì cả 3 quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm và A-na-hàm đều là hữu học, riêng quả A-la-hán là bậc vô học.

[23] Ma-ha Ba-xà-ba-đề (H. 摩呵波闍波提, S. Mahāprajāpatī), Hán dịch là Đại Ái Đạo (大愛道), di mẫu của Thái tử Tất-đạt-đa, em gái của Hoàng hậu Ma-da. Vì hoàng hậu qua đời chỉ 7 ngày sau khi sinh thái tử, nên bà là người thay thế nuôi dưỡng thái tử đến khi trưởng thành. Sau khi Phật thành đạo được 5 năm, vua Tịnh Phạn băng hà, bà và Da-du-đà-la cùng 500 phụ nữ khác cùng xin xuất gia tu tập và được Phật cho phép, trở thành những tỳ-kheo-ni đầu tiên. Bà cũng là người đầu tiên đứng đầu Ni giới trong đạo Phật. Bà nhập diệt trước khi Phật nhập Niết-bàn 3 tháng.

[24] Da-du-đà-la (H. 耶輸陀羅, S. Yaśodharā), vợ của Thái tử Tất-đạt-đa và là mẹ của La-hầu-la, xuất gia cùng lúc với bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề sau khi Phật thành đạo 5 năm.

[25] Nguyên tác dùng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề (H. 阿耨多羅三藐三菩提, S. anuttara-samyak-saṃbodhi), Hán dịch là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác (無上正等正覺), cũng tức là quả Phật.

[26] Bồ Tát Văn-thù-sư-lợi (H. 文殊師利, S. Mañjuśrī), Hán dịch là Diệu Đức (妙德) hoặc Diệu Cát Tường (妙吉祥), được xem là bậc đệ nhất trí tuệ trong hàng Bồ Tát.

[27] Bồ Tát Quán Thế Âm (H. 觀世音, S. Avalokiteśvara), là vị Bồ Tát sẽ được nói đến trong phẩm Phổ Môn của kinh này.

[28] Bồ Tát Đắc Đại Thế (H. 得大勢, S. Mahā-sthāma-prāpta), cũng được gọi là Bồ Tát Đại Thế Chí. Trong Tịnh độ tông, Bồ Tát Đại Thế Chí và Bồ Tát Quán Thế Âm cùng với đức Phật A-di-đà được tôn xưng là Tây phương Tam thánh.

[29] Bồ Tát Thường Tinh Tấn (H. 常精進菩薩, S. Nityāyukta).

[30] Bồ Tát Bất Hưu Tức (H. 不休息菩薩, S. Anikṣiptadhura).

[31] Bồ Tát Bảo Chưởng (H. 寶掌菩薩, S. Ratnapāṇi).

[32] Bồ Tát Dược Vương (H. 藥王菩薩, S. Bhaiṣajyarāja).

[33] Bồ Tát Dũng Thí (H. 勇施菩薩, S. Pradānaśūra).

[34] Bồ Tát Bảo Nguyệt (H. 寶月菩薩, S. Ratnacandra).

[35] Bồ Tát Nguyệt Quang (H. 月光菩薩, S. Candraprabha).

[36] Bồ Tát Mãn Nguyệt (H. 滿月菩薩, S. Pūrṇacandra)

[37] Bồ Tát Đại Lực (H. 大力菩薩, S. Mahāvikrāmin).

[38] Bồ Tát Vô Lượng Lực (H. 無量力菩薩, S. Anantavikramin).

[39] Bồ Tát Việt Tam Giới (H. 越三界菩薩, S. Trailokyavikrāmin).

[40] Bồ Tát Bạt-đà-bà-la (H. 跋陀婆羅菩薩, S. Bhadrapāla), tức Bồ Tát Hiền Hộ (賢護菩薩).

[41] Bồ Tát Di-lặc (H. 彌勒菩薩, S. Maitreya), Hán dịch là Từ Thị (慈氏), là vị Bồ Tát Nhất sinh bổ xứ, sẽ thành Phật tiếp theo sau đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Hiện nay ngài đang thuyết pháp ở cung trời Đâu-suất.

[42] Bồ Tát Bảo Tích (H. 寶積菩薩, S. Ratnamakuṭa).

[43] Bồ Tát Đạo Sư (H. 導師菩薩, S. Susārthavāha).

[44] Thích-đề-hoàn-nhân (H. 釋提桓因, S. Śakra devānām indraḥ), cũng gọi là Đế-thích (帝釋) hay Thiên đế thích (天帝釋), là vị Thiên chủ ở cõi trời Đao-lợi.

[45] Tứ đại thiên vương (H. 四大天王, S. Caturmahārājakāyikās), cũng gọi Hộ thế tứ vương (護世四天王), là bốn vị trời ở 4 phương lưng chừng núi Tu-di, hộ trì Phật pháp và che chở chúng sinh trong 4 châu, bao gồm: Trì Quốc Thiên (H. 持國天, S. Dhṛitarāṣṭra) ở phương đông; Tăng Trưởng Thiên (H. 增長天, S. Virūḍhaka) ở phương nam, Quảng Mục Thiên (H. 廣目天, S. Virūpākṣa) ở phương tây và Đa Văn Thiên (H. 多聞天, S. Vaiśramaṇa) ở phương bắc.

[46] Phạm thiên vương (H. 梵天王, S. Sahāṃpati), là vị Thiên chủ ở cõi trời Sơ thiền thuộc Sắc giới, được xem là chủ thế giới Ta-bà.

[47] Đại Phạm Thi-khí (H. 尸棄大梵, S. Śikhin).

[48] Đại Phạm Quang Minh (H. 光明大梵, S. Jyotiṣprabha).

[49] Long vương (H. 龍王, S. nāgarāja), chúa loài rồng, một trong 8 bộ chúng.

[50] Tên các vị này lần lượt là: Nan-đà (H. 難陀, S. Nanda), Bạt-nan-đà (H. 跋難陀, S. Upananda), Sa-già-la (H. 娑伽羅, S. Sāgara), Hòa-tu-cát (H. 和修吉, S. Vāsuki), Đức-xoa-ca (H. 德叉迦, S. Takṣaka), A-na-bà-đạt-đa (H. 阿那婆達多, S. Anavatapta), Ma-na-tư (H. 摩那斯, S. Manasvin), Ưu-bát-la (H. 優鉢羅, S. Utpalaka).

[51] Khẩn-na-la (H. 緊那羅, S. kiṃnara), là một trong 8 bộ chúng, cũng gọi là nhạc thần, được xem là thần phục vụ âm nhạc cho Thiên đế.

[52] Càn-thát-bà (H. 乾闥婆, S. gandharva), là một trong 8 bộ chúng, chỉ dùng hương thơm làm thức ăn nên được gọi là hương thần, cùng với khẩn-na-la phục vụ âm nhạc cho Thiên đế.

[53] A-tu-la (H. 阿修羅, S. asura), một trong 8 bộ chúng, được gọi là phi thiên vì có thần thông như chư thiên nhưng kém về phước đức. A-tu-la là loài nhiều sân hận, thường gây chiến tranh với chư thiên. A-tu-la được xếp vào một trong lục đạo, bao gồm: trời, người, a-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh.

[54] Ca-lâu-la (H. 迦樓羅, S. garuḍa), một trong 8 bộ chúng, cũng gọi là ca-lâu-la điểu (迦樓羅鳥) hay kim sí điểu (金翅鳥) vì là loài chim lớn có cánh màu vàng. Do nghiệp lực nên loài này lấy loài rồng làm thức ăn.

[55] Vua A-xà-thế (H. 阿闍世王, S. Ajātaśatru), con vua Tần-bà-sa-la (H. S. Bimbisāra) và hoàng hậu Vi-đề-hy (H. 韋提希, S. Vaidehī). Tên của ông có nghĩa là “vị sinh oán” (未生怨), nghĩa là chưa sinh ra đã có sẵn mối oán cừu, vì khi còn trong bụng mẹ có một vị thầy đoán là sau này ông sẽ giết cha nên được đặt tên như vậy. Về sau quả nhiên ông giết vua Tần-bà-sa-la để soán ngôi. Do tội giết cha nên hối hận lo sợ, cuối cùng tìm đến đức Phật, nghe pháp được giác ngộ và từ đó trở thành một vị đại hộ pháp.

[56] Kinh Vô lượng nghĩa (無量義經), tuy được nhắc đến trong kinh Pháp Hoa này nhưng phải đến đời Tiêu Tề (479-502) mới được ngài Đàm-ma-già-đà-da-xá (曇摩伽 陀耶舍) Hán dịch. Hiện còn trong Đại Chánh tạng ở Tập 9, kinh số 276.

[57] Hoa mạn-đà-la (H. S. māndāra), một loại hoa cõi trời màu đỏ tươi, rất đẹp, khiến người nhìn thấy sinh tâm vui thích. Cùng loại hoa này nhưng lớn hơn gọi là ma-ha mạn-đà-la (摩訶曼陀羅華).

[58] Hoa mạn-thù-sa (H. 曼殊沙華, S. mañjūṣaka), một loại hoa cõi trời mềm mại, có màu trắng tươi nên cũng gọi là nhu nhuyến hoa (柔軟華) hay bạch viên hoa (白圓華), được chư thiên rải xuống để cúng dường Phật, trang nghiêm các đạo tràng khi thuyết pháp. Cùng loại hoa này nhưng lớn hơn gọi là hoa ma-ha mạn thù sa (摩訶曼殊沙華).

[59] Dạ-xoa (H. 夜叉, S. yakṣa), một trong 8 bộ chúng, cũng gọi là dược-xoa (藥叉), là loài quỷ hung dữ, có thể ở trên mặt đất hoặc giữa không trung, có thể dùng uy thế làm hại con người nhưng cũng có khi theo bảo hộ Phật pháp, người tu tập Phật pháp.

[60] Ma-hầu-la-già (H. 摩睺羅伽, S. mahoraga), Hán dịch là đại mãng thần (大蟒神), là loài rắn thần rất lớn, được xếp vào một trong 8 bộ chúng.

[61] Phi nhân (H. 非人, S. amanuṣya): khi dùng với nghĩa rộng, chỉ tất cả các chúng sanh không phải loài người, như trời, rồng, dạ-xoa… Trong ngữ cảnh đã đề cập đến các loài khác như ở đây thì phi nhân chỉ các loài chúng sanh không phải loài người cũng không thuộc về tám bộ chúng.

[62] Tướng bạch hào (H. 白毫相, S. uṇṇa-lakkhaṇa), một trong 32 tướng tốt của Phật. Tướng này là một sợi lông màu trắng mọc ở vị trí giữa hai chân mày, nếu kéo ra sẽ rất dài nhưng để tự nhiên thì xoắn theo chiều về bên phải như hình xoắn ốc, màu trắng tươi và có thể phát ra hào quang. Mỗi khi đức Phật phóng chiếu hào quang từ tướng bạch hào này đều là một điềm lành báo trước điều tốt đẹp.

[63] Địa ngục A-tỳ (H. 阿鼻地獄, S. Avīci), Hán dịch là Vô gián (無間), nghĩa là không gián đoạn, vì tội nhân trong địa ngục này bị hành hình liên tục không gián đoạn, không có lúc nào được dừng nghỉ. Theo thế giới quan Phật giáo thì địa ngục A-tỳ là phần thấp nhất trong cả thế giới.

[64] Cõi trời A-ca-ni-trá (H. 阿迦尼吒天, S. Akaniṣṭha-deva), cũng gọi là cõi trời Hữu đỉnh (有頂天) là cõi trời cao nhất trong 18 cõi trời của Sắc giới. Do đó, trong phần có hình sắc của thế giới này thì đây là cõi trời cao nhất, vượt lên trên nữa là phạm vi của Vô sắc giới, không có hình sắc.

[65] Tức là các thế giới về phương đông được hào quang Phật soi chiếu.

[66] Chấn động theo sáu cách là hiện tượng xảy ra khi có một sự kiện cực kỳ quan trọng trong một cõi thế giới, chẳng hạn như khi đức Phật thành đạo, đức Phật nhập Niết-bàn v.v. Pháp Hoa Văn cú giải thích là bao gồm sáu cách: động (動 - chuyển động), khởi (起 - khởi lên), dũng (涌 - vọt lên), chấn (震 - chấn động), hống (吼 - phát tiếng kêu lớn), giác (覺 - khiến cho giác ngộ). Văn Cú Ký dẫn cách giải thích khác là động (動), dũng (踊), chấn (震), kích (擊), hống (吼), bộc (爆), và giải thích ý nghĩa chi tiết rằng động là rung động, dao động, khởi là từ thấp lên cao, dũng là từ chỗ thấp vọt mạnh lên cao, chấn là rung động có âm thanh phát ra, hống là phát ra âm thanh lớn có tiếng vọng lại, giác là khiến cho chúng sanh được giác ngộ. Ngoài ra, theo kinh Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật-đa (摩訶般若波羅蜜經), quyển 1, thì 6 cách chấn động là: 1. Phương đông vọt lên, phương tây chìm xuống; 2. Phương tây vọt lên, phương đông chìm xuống; 3. Phương nam vọt lên, phương bắc chìm xuống; 4. Phương bắc vọt lên, phương nam chìm xuống; 5. Bốn phương vọt lên, ở giữa chìm xuống; 6. Ở giữa vọt lên, bốn phương chìm xuống. (ĐCT, T8, 223, tr.217c, d.6-8)

[67] Nguyên tác là “吹大法螺 - xuy đại pháp loa”, chữ loa (螺) chỉ loại vỏ ốc rỗng được khoét lỗ để khi thổi phát ra âm thanh lớn và vang rất xa, tức là một loại tù và. “Pháp loa” được ví với việc âm thanh thuyết pháp vang dội khắp nơi, cũng như tiếng tù và lớn được thổi lên.

[68] Nhật Nguyệt Đăng Minh Như Lai (H. 日月燈明如來, S. Candra-sūrya-pradīpa). Trong kinh Thủ-lăng-nghiêm, quyển 5, Bồ Tát Di-lặc tự kể lại đã từng xuất gia tu học với Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh. (ĐCT, T19, 945, tr.128a, d.10-12)

[69] Đây là Thập hiệu (十號) của tất cả chư Phật, vì được dùng để nêu lên các phẩm tính mà tất cả các vị Phật đều đạt được. Có thể tạm kể ra như sau: 1. Như Lai (H. 如來, S. Tathāgata), phiên âm Đa-đà-a-già-đà (多陀阿伽陀); kinh Kim cang giải thích: “Không từ đâu đến, không đi về đâu, nên gọi là Như Lai.”; 2. Ứng Cúng (H. 應供, S. Arhat), phiên âm là A-la-hán, xứng đáng nhận sự cúng dường của người và chư thiên. 3. Chánh Biến Tri (H. 正遍知, S. Samyak-saṃbuddha), phiên âm là Tam-miệu tam-phật-đà (三藐三佛陀), có năng lực trí tuệ hiểu biết chân chánh và rộng khắp các pháp; 4. Minh Hạnh Túc (H. 明行足, S. vidyā-caraṇa-saṃpanna), sáng suốt (vidyā), tức có đủ tam minh (thiên nhãn minh, túc mệnh minh, lậu tận minh) và đạo hạnh (caraṇa) viên mãn. 5. Thiện Thệ (H. 善逝, S. Sugata), khéo vượt qua, tức dùng Nhất thiết trí đi trên đường bát chánh đạo, thể nhập Niết bàn. 6. Thế Gian Giải (H. 世間解, S. Loka-vid), rõ biết thế gian nên cũng rõ biết sự diệt mất thế gian và con đường ra khỏi thế gian. 7. Vô Thượng Sĩ (H. 無上士, S. Anuttara), là đấng vô thượng, không còn ai vượt lên cao quý hơn. 8. Điều Ngự Trượng Phu (H. 調御丈夫, S. Puruṣa-damya-sārathi), có đủ từ bi, trí tuệ, phương tiện để điều phục, chế ngự, khiến cho chúng sanh có thể đạt đến Niết-bàn. 9. Thiên Nhân Sư (H. 天人師, S. śāstā deva-manuṣyāṇāṃ), bậc thầy dạy, dẫn dắt chúng sinh trong cả hai cõi trời, người. 10. Phật Thế Tôn (H. 佛世尊, S. Buddha-bhagavat), bậc toàn giác, tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, tôn quý nhất trong thế gian. Có nơi xếp chung hiệu thứ năm và thứ sáu thành một: Thiện Thệ, Thế Gian Giải, và tách hiệu thứ mười thành hai: Phật Thế Tôn; hoặc cũng có khi xếp chung Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ, hoặc Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu. Nhưng tất cả đều thống nhất là có 10 hiệu.

[70] Tứ đế, tức là Tứ diệu đế (H. 四妙諦, S: catvāri ārya-satyāni), chỉ 4 chân lý do đức Phật nhận ra và thuyết dạy, luôn đúng thật trong mọi thời gian và không gian. Vì là chân lý đúng thật nên cũng được gọi là tứ chân đế (四真諦) hoặc tứ thánh đế (四聖諦). Các chân lý này bao gồm: 1. Khổ đế (H. 苦諦, S. duḥkha-satya), chỉ ra sự thật rằng mọi trạng thái tồn tại của chúng sanh hiện nay đều là khổ, hay nói cách khác thì bản chất của chúng là khổ; 2. Tập đế (H. 集諦, S. samudaya-satya), là sự thật về nguyên nhân của khổ, như phiền não, nghiệp lực, các hành vi, tư tưởng, lời nói làm sanh khởi khổ; 3. Diệt đế (H. 滅諦, S. nirodha-satya), là sự thật về việc dứt sạch mọi nỗi khổ, thông qua chấm dứt nguyên nhân gây khổ bằng con đường tu tập; 4. Đạo đế (H. 道諦, S. mārga-satya), là con đường cụ thể để chấm dứt nguyên nhân gây khổ, tức là diệt khổ, cụ thể là Bát chánh đạo. Khổ đế và Tập đế chỉ ra mối quan hệ nhân quả trong thế gian, khổ đế không tự nhiên khởi sinh mà do những nguyên nhân được Tập đế chỉ ra. Diệt đế và Đạo đế chỉ ra mối quan hệ nhân quả xuất thế gian, vì khổ có thể được dứt trừ qua sự tu tập theo Đạo đế và khi khổ được dứt trừ thì Diệt đế hiện hữu. Tuy nhiên, giáo lý Tứ đế hướng đến dứt trừ sự khổ trong luân hồi, do vậy chỉ đưa đến Thánh quả Tiểu thừa, không thể rốt ráo đạt đến quả Phật.

[71] Nguyên tác dùng Bích-chi Phật (H. 辟支佛, S. pratyeka-buddha), tức là quả Duyên giác, cũng gọi là Độc giác (獨覺) khi giác ngộ vào thời không có Phật ra đời. Trong 3 thừa thì quả vị này được xem là Nhị thừa, Thanh văn là Tam thừa.

[72] Sáu ba-la-mật (H. 六波羅蜜, S. ṣaḍ-pāramitā), Hán dịch là lục độ (六度), là 6 pháp tu tập quan trọng của hàng Bồ Tát, giúp vượt qua bể khổ luân hồi nên gọi là “độ”, cũng dịch là “到彼岸 - đáo bỉ ngạn” (sang đến bờ kia). Sáu pháp này bao gồm: Bố thí ba-la-mật (H. 布施波羅蜜, S. dāna-pāramitā); trì giới ba-la-mật (H. 持戒波羅蜜, S. śīla-pāramitā); nhẫn nhục ba-la-mật (H. 忍辱波羅蜜, S. kṣānti-pāramitā); tinh tấn ba-la-mật (H. 精進波羅蜜, S. vīrya-pāramitā); thiền định ba-la-mật (H. 禪定波羅蜜, S. dhyāna-pāramitā); trí tuệ ba-la-mật (H. 智慧波羅蜜, S. prajñā-pāramitā).

[73] Nhất thiết chủng trí (H. 一切種智, S. sarvathā-jñāna), tức trí tuệ của Phật, là trí hiểu biết tất cả, thấy rõ được nhân quả của tất cả các pháp cũng như tất cả chúng sanh.

[74] Tam-muội Vô lượng nghĩa xứ (H. 無量義處三昧, S. Anantanirdeśapratiṣṭhāna-samādhi). “Vô lượng nghĩa xứ” nghĩa là chỗ y chỉ của tất cả các nghĩa, tức là thật tướng. Đức Phật chuẩn bị huyết kinh Pháp Hoa hiển bày thật tương nên nhập vào tam-muội này.

[75] Bồ Tát Diệu Quang (H. 妙光菩薩, S. Varaprabhā).

[76] Niết-bàn vô dư (H. 無餘涅槃, S. nirupadhiśeṣa-nirvāṇa), phân biệt với Niết-bàn hữu dư (H. 有餘涅槃, S. sopadhi-śeṣa-nirvāṇa), cũng gọi là Vô dư y Niết-bàn (無餘依涅槃), chỉ Niết-bàn của chư Phật vì hoàn toàn không còn phụ thuộc thân tướng, chấm dứt hoàn toàn cả nhân và quả. Ngoài ra cũng phân biệt việc chấm dứt nhân quả Tiểu thừa là Niết-bàn hữu dư, chấm dứt nhân quả Đại thừa là Niết-bàn vô dư. Hàng Thanh văn, Duyên giác chỉ có thể đạt đến Niết-bàn hữu dư, không có khả năng đạt Niết-bàn vô dư.

[77] Bồ Tát Đức Tạng (H. 德藏菩薩, S. Śrīgarbha).

[78] Ở đây chỉ nêu 3 đức hiệu tức là lược nói, biểu trưng cho đủ 10 đức hiệu của chư Phật.

[79] Tức thập lực (H. 十力, S. daśa balāni), cũng gọi là thập trí lực (十智力), chỉ 10 năng lực trí tuệ siêu việt chỉ riêng chư Phật mới đạt được, rõ biết tất cả các pháp hoàn toàn đúng thật, bao gồm: 1. Tri thị xứ phi xứ trí lực (H. 知是處非處智力, S. artha-dharma-jñāna-bala): Biết rõ như thật sự đúng, sai của tất cả các pháp, không hề nhầm lẫn; 2. Tri tam thế nghiệp báo trí lực (H. 知三世業報智力, S. karma-vipāka-jñāna-bala) hay Nghiệp dị thục trí lực (業異熟智力): Biết rõ luật nhân quả, tức là nghiệp nào tạo quả nào vào thời điểm nào và ở nơi chốn nào; 3. Tri nhất thiết chí xứ đạo trí lực (H. 知一 切至處道智力, S. sarvatragāminī-pratipad-jñāna-bala), cũng gọi là Biến thú hành trí lực (遍趣行智力): Biết rõ nguyên nhân nào dẫn đến con đường tái sanh nào, biết các hành nghiệp hữu lậu phải luân chuyển trong 6 đường và hành nghiệp vô lậu dẫn đến Niết-bàn; 4. Tri chủng chủng giới trí lực (H. 知種種界智力, S. loka-nānā-dhātu-jñāna-bala): Biết rõ các thế giới, môi trường khác biệt của tất cả chúng sanh; 5. Tri chủng chủng giải trí lực (H. 知種種解智力, S. indriya-parāpara-jñāna-bala): Biết rõ căn tánh riêng biệt, sự ham thích, mê đắm, bám chấp của mỗi chúng sanh; 6. Tri chư căn thắng liệt trí lực (H. 知諸根勝劣智力, S. dhātu-jñāna-bala): Biết rõ căn cơ nhanh nhạy hoặc trì độn của mọi chúng sanh; 7. Tri chư thiền giải thoát tam-muội trí lực (H. 知諸禪解脫三昧智力, S. dhyāna-vimokṣa-samādhi-samāpatti-jñāna-bala): Biết tất cả các phương pháp thiền định giải thoát, mức độ sâu cạn, cao thấp của mỗi loại và hoàn toàn tự tại vô ngại trong thiền định; 8. Tri túc mệnh vô lậu trí lực (H. 知宿命無漏智力, S. pūrvanivāsānusmṛti-jñāna-bala): Biết rõ các tiền kiếp của chính mình và chúng sanh, từ một đời cho đến vô số đời; 9. Tri thiên nhãn vô ngại trí lực (H. 知天眼無礙智力, S. cyutyupapatti-jñāna-bala): Biết rõ sự hoại diệt và tái sanh của mỗi chúng sanh, các nghiệp thiện ác và nơi nào họ sẽ tái sinh; 10. Tri vĩnh đoạn tập khí trí lực (H. 知永斷習氣智力, S. āsravakṣaya-jñāna-bala): Biết các pháp ô nhiễm sẽ chấm dứt như thế nào, tự biết đã vĩnh viễn đoạn trừ không còn sinh khởi.

[80] Tức tứ vô sở úy (H. 四無所畏, S. catvāri tathāgatasya vaiśāradyāni), cũng gọi là tứ vô úy (四無畏), chỉ việc chư Phật khi thuyết pháp có đủ bốn phẩm đức tự tin, dũng mãnh, an ổn không sợ sệt, thuộc về Thập bát bất cộng pháp, nghĩa là chỉ có chư Phật mới đạt được, không giống với hàng Thanh văn, Duyên giác. Tứ vô úy bao gồm: 1. Chư pháp hiện đẳng giác vô úy (H. 諸法現等覺無畏, S. sarva-dharmābhisaṃbodhi-vaiśāradya), cũng gọi là Nhất thiết trí vô sở úy (一切智無所畏), do trí tuệ hiểu biết tất cả nên thuyết pháp với đầy đủ sự tự tin, không sợ sệt; 2. Nhất thiết lậu tận trí vô úy (H. 一切漏盡智無畏, S. sarvāsrava-kṣaya-jñāna-vaiśāradya), cũng gọi là Lậu vĩnh tận vô úy (漏永盡無畏), do vĩnh viễn đoạn trừ tất cả phiền não nên thuyết pháp không sợ sệt đối với khó khăn bên ngoài; 3. Chướng pháp bất hư quyết định thụ kí vô úy (H. 障法不虛決定授記無畏, S. antarāyika-dharmānanyathātva-niścita-vyākaraṇa-vaiśāradya), cũng gọi là Thuyết chướng pháp vô úy (說障法無畏), thuyết dạy về các pháp chướng đạo, cách vượt qua để thành tựu, không có sự sợ sệt; 4. Vi chứng nhất thiết cụ túc xuất đạo như tính vô úy (H. 為證一切具足出道如性無畏, S. sarva-saṃpad-adhigamāya nairyāṇika-pratipat-tathātva-vaiśāradya), cũng gọi là Thuyết xuất đạo vô úy (說出道無畏), thuyết dạy đạo xuất thế không có sự sợ sệt.

[81] Tăng thượng mạn (H. 增上慢, S. abhi-māna), chỉ người sinh tâm kiêu căng ngạo mạn, tự cho mình hơn người vì đã chứng đắc, thành tựu quả vị tu tập, nhưng thật ra chưa hề chứng đắc. Biểu hiện rõ rệt nhất là những người tự xưng đã chứng thánh quả.

[82] Nguyên tác Hán văn: “諸佛如來但教化菩薩 - Chư Phật Như Lai đãn giáo hóa Bồ Tát.” Câu này hàm ý rằng tất cả những chúng sanh được đức Phật giáo hóa đều là Bồ Tát, ngay cả hàng Thanh văn như ngài Xá-lợi-phất, vì thật ra giai đoạn Thanh văn đó chỉ là phương tiện để cuối cùng tất cả đều trở thành Bồ Tát, hướng đến quả Phật.

[83] Gọi chung là ngũ trược (H. 五濁, S. pañca kaṣāyāḥ), tức 5 sự uế trược, không thanh tịnh, bao gồm: 1. Kiếp trược (H. 劫濁, S. kalpa-kaṣāya), là những uế nhiễm nói chung của kiếp sống như bệnh tật, nạn đói, chiến tranh, thiên tai, môi trường ô nhiễm…; 2. Phiền não trược (H. 煩惱濁; S. kleśa-kaṣāya), là những uế nhiễm do phiền não khởi sinh, như tham dục, sân hận…; 3. Chúng sinh trược (H. 眾生濁, S. sattva-kaṣāya), là những uế nhiễm của chúng sanh do tập khí như xấu ác, không tin nhân quả, thường tạo ác nghiệp… ; 4. Kiến trược (H. 見濁, S. dṛṣṭi-kaṣāya), là những uế nhiễm trong nhận thức, hiểu biết của chúng sanh, tức là các tà kiến, hiểu biết sai trái…; 5. Mạng trược (H. 命濁, S. āyus-kaṣāya), là sự uế nhiễm về mạng sống, tức là tuổi thọ ngắn ngủi, không chắc chắn, có thể chấm dứt bất kỳ lúc nào. Lưu ý rằng kinh văn ở đây liệt kê thứ tự khác với những kinh luận khác, vốn thường gặp (như trong kinh A-di-đà) là: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược và mạng trược.

[84] Đây là những thể loại kinh điển khác nhau được đức Phật thuyết giảng. Có tất cả 12 thể loại khác nhau, thường được gọi là 12 phần giáo (H. 十二分教, S. dvādaśāṅga-buddha-vacana), hoặc một cách không chuẩn xác là 12 bộ kinh (十二部經), bao gồm: 1. Tu-đa-la (H. 修多羅, S. sūtra), Hán dịch là khế kinh (契經), là những lời Phật dạy thích hợp, khế hợp với căn cơ chúng sanh; 2. Kỳ-dạ (H. 祇夜, S. geya), Hán dịch là ứng tụng (應頌), trùng tụng (重頌), là những lời dạy trong kinh được lặp lại bằng thể kệ tụng để dễ ghi nhớ và thực hành; 3. Hòa-ca-la-na (H. 和伽羅那, S. vyākaraṇa), Hán dịch là thụ ký (授記), là lời Phật báo trước kết quả tu tập trong tương lai của các vị đệ tử, về sự chứng đắc quả vị; 4. Già-đà (H. 伽陀, S. gāthā), Hán dịch là phúng tụng (諷頌), cô khởi (孤起), là lời dạy của Phật được diễn đạt theo thể kệ tụng để dễ ghi nhớ, khác với thể kỳ-dạ là không lặp lại mà tự nêu ra ý mới, nên gọi là cô khởi; 5. Ưu-đà-na (H. 優陀那, S. udāna), Hán dịch là tự thuyết (自說), hay vô vấn tự thuyết (無問自說), là những kinh điển do đức Phật quán xét căn cơ chúng sanh rồi tự nói ra, không có người thưa hỏi; 6. Ni-đà-na (H. 尼陀那, S. nidāna), Hán dịch là nhân duyên (因緣), là sự thuyết dạy của Phật do nhân duyên dẫn khởi, như do có việc thế này nên thuyết dạy pháp như thế này...; 7. A-ba-đà-na (H. 阿波陀那, S. avadāna), Hán dịch là thí dụ (譬喻), là những lời dạy bằng phương thức thí dụ, dẫn dụ, so sánh các sự việc để nêu ý nghĩa; 8. Y-đế-viết-đa-già (H. 伊帝曰多伽; 伊帝越多伽, S. itivṛttaka), Hán dịch là bản sự (本事), là những lời dạy về tiền thân tu tập của các vị đệ tử Phật, được dẫn ra như những bài học cho thính chúng; 9. Xà-đà-già (H. 闍陀伽, S. jātaka), Hán dịch là bản sanh (本生), là lời dạy về các tiền thân đức Phật, được dẫn ra vì mục đích giáo hóa; 10. Tỳ-phật-lược (H. 毘佛略, S. vaipulya), Hán dịch là Phương quảng (方廣), chỉ chung các kinh điển truyền dạy giáo pháp Đại thừa; 11. A-phù-đà-đạt-ma (H. 阿浮陀達磨, S. adbhuta-dharma), Hán dịch là hy pháp (希法) hoặc vị tằng hữu (未曾有), là những kinh điển thuyết giảng những điều bất khả tư nghị, xưa nay chưa từng có, như nói về thần lực, phước đức của chư Phật, Bồ Tát...; 12. Ưu-ba-đề-xá (H. 優波提舍, S. upadeśa), Hán dịch là luận nghị (論議), là những lời dạy mang tính luận thuyết, luận giải, để giúp người nghe nắm hiểu được giáo pháp cũng như các pháp môn tu tập.

[85] Tức là nói 9 phần giáo pháp từ Khế kinh đến Bản sanh, đều thuộc về phương tiện. Chỉ 3 phần giáo pháp gồm Phương quảng (Tỳ-phật-lược), Vị tằng hữu (A-phù-đà-đạt-ma) và Luận nghị (Ưu-ba-đề-xá) mới là rốt ráo, hiển bày Đại thừa, dẫn đến quả Phật.

[86] Tức lục thập nhị kiến (H. 六十二見, S. dvāṣaṣṭi dṛṣṭayaḥ), là 62 kiến chấp sai lầm. Có nhiều thuyết giải thích khác nhau, riêng Đại sư Trí Khải (tông Thiên Thai) y theo kinh Đại Bát-nhã phân tích bao gồm: 1. Đối với năm uẩn trong quá khứ khởi sinh kiến giải cho là thường, hoặc vô thường, hoặc cũng thường cũng vô thường, hoặc không phải thường không phải vô thường; 4 kiến chấp khác nhau như vậy áp dụng với 5 uẩn, thành 20 kiến chấp. 2. Đối với năm uẩn trong hiện tại khởi sinh kiến giải cho là có giới hạn, hoặc không có giới hạn, hoặc cũng giới hạn cũng không giới hạn, hoặc không phải giới hạn không phải không giới hạn; 4 kiến chấp khác nhau như vậy áp dụng với 5 uẩn, thành 20 kiến chấp. 3. Đối với năm uẩn trong tương lai khởi sinh kiến giải cho là sẽ mất đi, hoặc không mất đi, hoặc cũng mất đi cũng không mất đi, hoặc không phải mất đi không phải không mất đi; 4 kiến chấp khác nhau như vậy áp dụng với 5 uẩn, thành 20 kiến chấp. Ba nhóm kiến chấp vừa kể hợp thành 60 kiến chấp, lại thêm 2 kiến chấp cho rằng thần thức với thân này là một, hoặc thần thức với thân này là khác biệt, cộng thành 62 kiến chấp. Tất cả đều sai lầm nên gọi là tà kiến.

« Kinh này có tổng cộng 7 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Đức Phật và chúng đệ tử


Phật Giáo Yếu Lược


Tự lực và tha lực trong Phật giáo


Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.19 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập