Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net
Font chữ:
XLV. PHÁP HỘI VÔ TẬN HUỆ BỒ TÁT THỨ BỐN MƯƠI LĂM
Như vầy tôi nghe một lúc Ðức Phật ở thành Vương Xá trong núi Kỳ Xà Quật cùng chúng đại Tỳ Kheo ngàn hai trăm năm mươi người câu hội.
Còn có một vạn đại Bồ Tát cùng họp, đó là Huệ Tràng Bồ Tát, Pháp Tràng Bồ Tát, Nguyệt Tràng Bồ Tát, Nhựt Tràng Bồ Tát, Vô Biên Tràng Bồ Tát v.v…
Còn có mười sáu tại gia Bồ Tát, Bạt Ðà Bà La Bồ Tát làm thượng thủ.
Còn có sáu mươi vô tỉ dụ tâm đại Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát làm thượng thủ.
Còn có tất cả đại Bồ Tát trong Hiền kiếp, Di Lặc Bồ Tát làm thượng thủ.
Còn có sáu vạn đại Bồ Tát, Vô Tận Huệ Bồ Tát làm thượng thủ.
Bấy giờ Vô Tận Huệ Bồ Tát đứng dậy trịch y vai hữu, gối chấm đất chắp tay lễ Phật, đem các hoa báu phụng tán trên Phật mà bạch rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Nói là tâm Bồ đề ấy, do nghĩa gì mà gọi là tâm Bồ đề? Bồ Tát lại do bao nhiêu pháp thành tâm Bồ đề? Thế nào là tâm Bồ đề? Trong Bồ đề, tâm bất khả đắc; trong tâm, Bồ đề cũng bất khả đắc; lìa Bồ đề, tâm bất khả đắc; lìa tâm, Bồ đề cũng bất khả đắc.
Bồ đề ấy không sắc không tướng chẳng ngôn thuyết được, tâm ấy cũng không sắc không tướng chẳng hiển thị được. Chúng sanh cũng như vậy, đều bất khả đắc.
Bạch Ðức Thế Tôn! Các pháp như vậy sẽ y cứ nghĩa gì mà tu hành?"
Ðức Phật dạy: "Nầy Vô Tận Huệ! Nay ông lắng nghe kỹ và khéo suy nghĩ.
Ta nói Bồ đề ấy vốn không danh tự ngôn thuyết. Tại sao, vì trong Bồ đề danh tự ngôn thuyết bất khả đắc vậy. Tâm và chúng sanh cũng lại như vậy, nếu biết như vậy thì gọi là tâm Bồ đề.
Bồ đề ấy chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại. Tâm và chúng sanh cũng chẳng phải quá vị hiện tại. Nếu biết nghĩa ấy thì gọi là Bồ Tát, nhưng trong ấy cũng bất khả đắc.
Với tất cả pháp đều vô sở đắc thì gọi là được tâm Bồ đề.
Như A La Hán được quả A La Hán mà ở trong ấy đều vô sở đắc chỉ trừ theo thế tục gọi là đắc quả, nơi tất cả pháp đều vô sở đắc. Ðược tâm Bồ đề cũng vậy, vì muốn dẫn nhiếp sơ nghiệp Bồ Tát nên nói tâm Bồ đề, nhưng ở trong ấy không có tâm. Không có tâm gọi là không có Bồ đề, không có Bồ đề gọi là không có chúng sanh, không có chúng sanh gọi là không có Thanh Văn, không có Thanh Văn gọi là không có Ðộc Giác, không có Ðộc Giác gọi là không có Như Lai, không có Như Lai gọi là không có hữu vi, không có hữu vi gọi là không có vô vi, không có vô vi gọi là không có hiện được không có sẽ được.
Nầy Vô Tận Huệ! Nay ta y theo ngôn thuyết mà giải bày như vầy: Nếu có chúng sanh thiện căn rộng lớn siêu các chúng sanh như núi Tu Di cao hơn tất cả, là sợ phát tâm làm nhơn cho Bố thí Ba la mật. Dường như đại địa khéo có thể an trụ tất cả sự nghiệp, là đệ nhị phát tâm làm nhơn cho Giới Ba la mật. Chí ý dũng mãnh an thọ phiền não như sư tử vương oai phục bầy dã thú than không kinh sợ, là đệ tam phát tâm làm nhơn cho Nhẫn nhục Ba la mật. Thế lực hùng mạnh nhanh nhẹn hay phục phiền não như Na La Diên xô dẹp mọi kẻ khác là đệ tứ phát tâm làm nhơn cho Tinh tiến Ba la mật. Các công đức thiện căn khai phát như cây ba lợi chất đa câu bệ đà la nở hoa, là đệ ngũ phát tâm làm nhơn cho Thiền Ba la mật. Trừ bỏ si ám như mặt nhựt ánh sáng vô biên là đệ lục phát tâm làm nhơn cho Bát Nhã Ba la mật. Công đức ý lạc tất cả trang nghiêm đều được viên mãn như đại thương chủ của vật giàu có hay dùng phương tiện thiện xảo khỏi các hiểm nạn, là đệ thất phát tâm làm nhơn cho Phương tiện Ba la mật. Chướng ngại đã trừ diệt ý lạc đầy đủ như trăng tròn sáng, là đệ bát phát tâm làm nhơn cho Lực Ba la mật. Phật độ và chúng sanh đều nghiêm tịnh cả đầy đủ pháp lành việc làm thành tựu như người nghèo được vô tận tạng sở nguyện viên mãn, là đệ cửu phát tâm làm nhơn cho Nguyện Ba la mật. Phước trí vô biên như hư không tự tại với tất cả pháp như Chuyển Luân Vương đã thọ quán đảnh, là đệ thập phát tâm làm nhơn cho Trí Ba la mật.
Nầy Vô Tận Huệ! Nếu tu tập thành tựu mười thứ phát tâm nầy thì gọi là Bồ Tát, gọi là tối thắng chúng sanh, là vô chướng ngại chúng sanh, là chẳng phải hạ liệt chúng sanh. Nhưng cứ nơi thiệt nghĩa thì bất khả đắc, thế nên trong ấy không có chúng sanh không có tâm không có Bồ đề.
Lại nầy Vô Tận Huệ! Chư Bồ Tát hành Thí Ba la mật lấy mười pháp làm đầu là: Tín căn, tín lực, ý lạc, tăng thượng ý lạc, lợi ích chúng sanh, đại từ, đại bi, hành tứ nhiếp pháp, ái lạc Phật pháp và cầu Nhứt thiết trí.
Nầy Vô Tận Huệ! Chư Bồ Tát hành Giới Ba la mật lấy mười pháp làm đầu là: Thân nghiệp thanh tịnh, ngữ nghiệp thanh tịnh, ý nghiệp thanh tịnh, không tâm oán hại, trừ sạch ác thú, xa rời bát nạn, siêu hơn bực Thanh Văn và Bích Chi Phật, an trụ Phật công đức, đầy đủ các sở nguyện và thành tựu đại nguyện.
Nầy Vô Tận Huệ! Chư Bồ Tát hành Nhẫn Ba la mật lấy mười pháp làm đầu là: Bỏ lìa sân hận, chẳng kể thân, chẳng kể mạng, tín giải thành tựu chúng sanh, từ lực, tùy thuận pháp nhẫn, thậm thâm pháp nhẫn, quản đại thắng nhẫn và phá tối vô minh.
Nầy Vô Tận Huệ! Chư Bồ Tát hành Tinh tiến Ba la mật dùng mười pháp làm đầu là: Tùy theo chỗ làm của chúng sanh mà làm thân khẩu ý nghiệp thường sanh tùy hỉ, không giải đãi, chuyên tiến đến, tu chánh cần, tu niệm xứ, phá kẻ thù phiền não, quan sát các pháp, thành tựu chúng sanh và cầu Nhứt thiết trí.
Nầy Vô Tận Huệ! Chư Bồ Tát hành Thiền Ba la mật lấy mười pháp đầu là: An trụ thiện pháp, tâm duyên một cảnh, duyên cảnh định, chánh định, thiền giải thoát, định c8an, định lực, phá hoại kẻ thù phiền não, định tụ viên mãn và hộ pháp tam muội.
Nầy Vô Tận Huệ! Chư Bồ Tát hành Bát Nhã Ba la mật dùng mười pháp làm đầu là: Khéo quan sát các ấm, khéo quan sát các giới các xứ, chánh kiến, chánh niệm, biết rõ thánh đế, bỏ lìa các kiến chấp, huệ căn vô sanh pháp nhẫn, huệ lực và vô ngại trí.
Nầy Vô Tận Huệ! Chư Bồ Tát hành Phương tiện Ba la mật lấy mười pháp làm đầu là: Nhập vào sở nguyện tâm hành của các chúng sanh, dùng sức lực giúp vào chúng sanh, đại từ đại bi, thành thục chúng sanh không hề chán mỏi, bỏ lìa bực Thanh Văn, Bích Chi Phật, tri kiến thù thắng, tu tập các Ba la mật, như thiệt quán các pháp, nhiếp bất tư nghị lực và bất thối chuyển địa.
Nầy Vô Tận Huệ! Chư Bồ Tát hành Lực Ba la mật dùng mười pháp làm đầu là:: Biết rừng rậm tâm hành của tất cả chúng sanh, biết rừng rậm phiền não hiện hành của tất cả chúng sanh, biết rừng rậm ý lạc thắng giải hiện hành của tất cả chúng sanh, biết rừng rậm các thứ giới hành của tất cả chúng sanh, biết rừng rậm tùy phiền não hành của tất cả chúng sanh, biết rừng rậm tập khí phiền não hành của tất chúng sanh và dùng tâm không mỏi nhọc thành thục rừng rậm các căn hành của tất cả chúng sanh.
Nầy Vô Tận Huệ! Chư Bồ Tát hành Nguyện Ba la mật dùng mười pháp làm đầu là: Biết tất cả pháp vô sanh, biết tất cả pháp vô tướng, biết tất cả pháp vô diệt, biết tất cả pháp vô sở hữu, biết tất cả pháp không chấp trước, biết tất cả pháp vô lai, biết tất cả pháp vô khứ, biết tất cả pháp không tự tánh, biết tất cả pháp bình đẳng không có sơ trung hậu và đối với tất cả pháp sơ trung hậu không phân biệt.
Nầy Vô Tận Huệ! Chư Bồ Tát hành Trí Ba la mật dùng mười pháp làm đầu là: Với tất cả pháp khéo có thể biết rõ quyết trạch, khéo có thể viên mãn bạch pháp, chứa họp vô lượng tư lương của Bồ Tát thành tựu tư lương phước trí quảng đại, viên mãn đại bi, vào các loại thế giới sai biệt, vào phiền não hành của tất cả chúng sanh, tác ý vào cảnh giới Như Lai, tiến vào cảnh giới thù thắng thập lực vô sở úy bất cộng pháp và thọ vị quánh đảnh thành tựu tướng tối thắng Nhứt thiết trí.
Ðây là đại Bồ Tát hành mười Ba la mật đều dùng mười pháp làm đầu.
Lại nầy Vô Tận Huệ! Thế nào là nghĩa Ba la mật? Ðó là vì nói rõ siêu quá sở hành của Nhị thừa vậy. Vì quảnh đại viên mãn trí Như Lai vậy. Vì chẳng chấp trước nơi hữu vi vô vi vậy. Vì như thiệt biết rõ lỗi họa sanh tử vậy. Vì những kẻ chưa giác ngộ đều khiến giác ngộ vậy. Vì được Như Lai vô tận pháp tạng vậy. Vì được vô ngại giải thoát vậy. Vì dùng bố thí độ thoát các chúng sanh vậy. Vì dùng trì giới để viên mãn bổn thệ nguyện vậy. Vì dùng nhẫn nhục để đầy đủ tướng hảo đoan nghiêm vậy. Vì dùng tinh tiến để đầy đủ các Phật pháp vậy. Vì dùng thiền định để xuất sanh tứ vô lượng tâm vậy. Vì dùng Bát Nhã để diệt trừ các phiền não vậy. Vì dùng phương tiện để chứa hợp các Phật pháp vậy. Vì dùng nguyện có thể khiến các Phật pháp được viên mãn vậy. Vì dùng lực hay khiến chúng sanh tịnh tín vậy. Vì dùng trí để đầy đủ Như Lai Nhứt thiết trí vậy. Vì được vô sanh pháp nhẫn vậy. Vì được bất thối chuyển vậy. Vì nghiêm tịnh Phật độ vậy. Vì thành thục chúng sanh vậy. Vì ở đạo tràng Bồ đề viên mãn tất cả Như Lai trí vậy. Vì hàng phục chúng ma vậy. Vì du hí tứ thần túc vậy. Vì nơi sanh tử và Niết bàn đều không an trụ vậy. Vì siêu quá công đức của tất cả Thanh Văn, Bích Chi Phật và Bồ Tát vậy. Vì xô dẹp tất cả dị luận vậy. Vì thành tựu thập lực, tứ vô úy, thập bát bất cộng Phật pháp vậy. Vì chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác vậy. Vì chuyển mười hai loại pháp luân vậy.
Tất cả như vậy là nghĩa của Ba la mật.
Lại nầy Vô Tận Huệ! Lúc đại Bồ Tát sắp an trụ nơi Hoan hỉ địa trước tiên có tướng như vầy: Thầy trong tam thiên Ðại Thiên thế giới có trăm ngàn ức na do tha phục tạng các thứ bửu. Ðại Bồ Tát sắp an trụ đệ nhị Ly cấu địa trước tiên có tướng nầy: Thấy tam thiên Ðại Thiên thế giới mặt đất bằng phẳng như lòng bàn tay có vô lượng trăm ngàn ức na do tha các thứ hoa sen báu thanh tịnh nghiêm sức.
Ðại Bồ Tát sắp an trụ đệ Tam minh địa trước tiên có tướng nầy: Thấy tự thân mặc giáp cầm trượng dũng mãnh kiên cố dẹp phục oán địch.
Ðại Bồ Tát sắp an trụ đệ tứ Diệm địa trước tiên có tướng nầy: Thấy bốn phương gió thổi các thứ danh hoa rải đầy mặt đất.
Ðại Bồ Tát sắp an trụ đệ ngũ Nam thắng địa trước tiên có tướng nầy: Thấy bốn phương gió thổi các thứ danh hoa rải đầy mặt đất.
Ðại Bồ Tát sắp an trụ đệ ngũ Nan thắng địa trước tiên có tướng nầy: Thấy nữ nhơn đầu đội vòng hoa a đề mục đa, vòng hoa bà lợi sư ca, vòng hoa chiêm bặc ca, trên thân đeo các thứ báu trang nghiêm.
Ðại Bồ Tát sắp an trụ đệ lục Hiện tiền địa trước tiên có tướng nầy: Thấy ao hoa đầy nước bát công đức đứng trong, đáy ao trải cát vàng ròng, bốn bờ bực đường bằng chất báu, trong ao trang nghiêm với những hoa sen xanh, hoa sen vàng, hoa sen đỏ và hoa sen trắng, lại thấy tự thân du hí trong ao ấy.
Ðại Bồ Tát sắp an trụ đệ thất Viễn hành địa trước tiên có tướng nầy: Thấy tự thân hai bên tả hữu đều có địa ngục đi vượt qua các địa ngục ấy mà không bị thương tổn.
Ðại Bồ Tát sắp an trụ đệ bát Bất động địa trước tiên có tướng nầy: Thấy tự thân trên hai vai mang tướng sư tử chúa, tất cả muông thú đều hãi sợ.
Ðại Bồ Tát sắp an trụ đệ cửu Thiện huệ địa trước tiên có tướng nầy: Thấy tự thân làm Chuyển Luân Vương dùng chánh pháp giáo hóa được vô lượng trăm ngàn ức na do tha vua chúa chầu hầu vây quanh, có lọng bát trang nghiêm sạch trắng che trên Bồ Tát.
Ðại Bồ Tát sắp an trụ đệ thập Pháp vân địa trước tiên có tướng nầy: Thấy tự thân làm màu chơn kim đủ ba mươi hai tướng hảo Như Lai đại trượng phu, viên quan chiếu một tầm ngồi an trên tòa sư tử cao rộng, vô lượng trăm ngàn ức na do tha Phạm Thiên vi nhiễu trước sau cung kính cúng dường để nghe thuyết pháp.
Ðại Bồ Tát dùng sức tam muộn hiển hiện trước tiên của Thập địa như vậy.
Lại nầy Vô Tận Huệ! Sơ địa Bồ Tát viên mãn Thí Ba la mật, nhị địa Bồ Tát viên mãn Giới Ba la mật, tam địa Bồ Tát viên mãn Nhẫn Ba la mật, tứ địa Bồ Tát viên mãn Tinh tấn Ba la mật, ngũ địa Bồ Tát viên mãn Thiền Ba la mật, lục địa Bồ Tát viên mãn Bát Nhã Ba la mật, thất địa Bồ Tát viên mãn Phương tiện Ba la mật, bát địa Bồ Tát viên mãn Lực Ba la mật, cửu địa Bồ Tát viên mãn Nguyện Ba la mật, thập địa Bồ Tát viên mãn Trí Ba la mật.
Lại nầy Vô Tận Huệ! Bồ Tát sơ phát tâm được Hiện bửu tam muội, đệ nhị phát tâm được Thiện trụ tam muội, đệ tam phát tâm được Bất động tam muội, đệ tứ phát tâm được Bất thối chuyển tam muội, đệ ngũ phát tâm được Bửu hoa tam muội, đệ lục phát tâm được Nhựt luân quang minh tam muội, đệ thất phát tâm được Thành tựu nhứt thiết nghĩa tam muội, đệ bát phát tâm được Trí cự tam muội, đệ cửu phát tâm được Hiện chứng Phật pháp tam muội, đệ thập phát tâm được Thủ lăng nghiêm tam muội.
Lại nầy Vô Tận Huệ! Ðại Bồ Tát ở trong sơ địa được đà la ni thù thắng gia trì, ở trong nhị địa được đà la ni vô năng thắng, ở trong tam địa được đà la ni thiện trụ, ở trong tứ địa được đà la ni bất khả hoại, ở trong ngũ địa được đà la ni vô cấu, ở trong lục địa được đà la ni trí luân đăng, ở trong thất địa được đà la ni thù thắng hạnh, ở trong bát địa được đà la ni thanh tịnh phân biệt, ở trong cửu địa được đà la ni thị hiện vô biên pháp môn, ở trong thập được đà la ni vô tận pháp tạng".
Lúc ấy ở trong hội có Thiên Tử tên Vô Ngại Quang Minh Sư Tử Tràng đứng dậy trịch y vai hữu, gối hữu chấm đất chắp tay hướng lên Ðức Phật bạch rằng: "Hi hữu Thế Tôn! Hi hữu Thiện Thệ! Pháp môn như vậy rất sâu rất rộng lớn, có thể hàm nhiếp tất cả Phật pháp".
Ðức Phật dạy: "Nầy Thiên Tử! Ðúng như lời ông nói. Nếu có Bồ Tát ở nơi pháp môn nầy có thể tạm nghe nhận tất chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề, tại sao, vì Bồ Tát ấy từng đã trồng căn lành, vì đã thành thục căn lành, nên được nghe kinh điển như vậy và được kinh điển như vậy ấn chứng.
Nầy Thiên Tử! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn được nghe kinh nầy thì thiện căn được họ trồng đều thanh tịnh sẽ được chẳng bỏ rời thấy Phật nghe pháp cúng dường chúng Tăng, được chẳng rời bỏ đà la ni hải ấn, đà la ni xuất hiện vô tận, đà la ni nhập chúng sanh chí nguyện tâm hành, đà la ni thanh tịnh nhựt quang tràng, đà la ni vô cấu nguyệt quang tràng, đà la ni tức nhứt thiết kiết sử, đà la ni tối diệt vô biên phiền não kiên cố như kim cương sơn, đà la ni nhập chơn thiệt ngữ ngôn âm thanh, đà la ni như hư không hiển hiện vô biên thanh tịnh ấn sở ấn, đà la ni thành tựu hiển hiện vô biên Phật thân.
Thành tựu các đà la ni như vậy, đại Bồ Tát có thể nơi tất cả Phật độ mười phương biến hiện thân Phật giáo hóa chúng sanh mà với pháp tánh không có lai khứ cũng không có giáo hóa chúng sanh, nơi pháp được nói chẳng trước văn tự bình đẳng vô động. Dầu hiện thân sanh tử mà không có khởi diệt cũng không có chút pháp khứ lai, biết rõ các hành bổn lai tịch tĩnh an trụ Phật pháp. Tại sao, vì tất cả pháp ấy không có phân biệt vậy".
Lúc Ðức Phật nói pháp nầy, trong chúng có ba vạn Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn, vô lưỡng Bồ Tát được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề, vô lượng chúng sanh phát tâm Bồ đề, vô lượng Tỳ Kheo được pháp nhãn tịnh.
Ðức Phật nói kinh nầy rồi, Vô Tận Huệ Bồ Tát và chư Tỳ Kheo, tất cả thế gian Trời, Người, A Tu La, Càn Thát Bà v.v... đều rất vui mừng tín thọ phụng hành. XLVI. PHÁP HỘI VĂN THÙ THUYẾT BÁT NHÃ THỨ BỐN MƯƠI SÁU
Như vầy tôi nghe, một lúc Ðức Phật ở nước Xá Vệ tại Kỳ Thọ Cấp Cô Ðộc Viên, cùng đại Tỳ Kheo Tăng ngàn người câu hội. Chúng đại Bồ Tát mười ngàn người dùng đại trang nghiêm để tự trang nghiêm đều đã an trụ bực bất thối chuyển. Danh hiệu các Ngài là: Di Lặc Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Vô Ngại Biện Bồ Tát, Bất Xả Thệ Bồ Tát v.v...làm thượng thủ.
Lúc minh tướng hiện, Văn Thù Sư Lợi Ðồng Chơn Ðại Bồ Tát từ chỗ Ngài ở đến chỗ Ðức Phật ngự đứng phía ngoài.
Bấy giờ các Tôn giả Xá Lợi Phất, Phú Lâu Na Di Ða La Ni Tử, Ðại Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Câu Si La v.v...chư đại Thanh Văn cũng từ chỗ các Ngài ở đến chỗ Ðức Phật ngự đứng phía ngoài.
Biết chúng hội đã vân tập, Ðức Như Lai từ chỗ Ngài ở bước ra trải tòa mà ngồi rồi bảo Tôn giả Xá Lợi Phất: "Hôm nay sáng sớm có cớ chi mà ông đến đứng ngoài cửa?"
Tôn giả Xá Lợi Phất bạch rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Văn Thù Sư Lợi Ðồng Chơn đại Bồ Tát đã đến trước đứng ngoài cửa, tôi thiệt đến sau vậy".
Ðức Phật bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: "Ông thiệt đến đứng đây trước muốn thấy Như Lai chăng?".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Tôi thiệt đến trước muốn thấy Ðức Như Lai. Tại sao, vì tôi thích chánh quán lợi ích chúng sanh. Tôi quán Ðức Như Lai: là tướng như như, tướng bất dị, tướng bất động, tướng bất tác, tướng vô trụ, tướng bất diệt, tướng bất hữu, tướng bất vô, tướng chẳng tại phương chẳng ly phương, tướng phi tam thế phi bất tam thế, tướng phi nhị phi bất nhị, tướng phi cấu phi tịnh. Tôi chánh quán Ðức Như Lai như vậy lợi ích chúng sanh".
Ðức Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: "Nếu hay thấy Như Lai như vậy thì tâm vô sở thủ cũng vô bất thủ, chẳng phải tích tụ chẳng phải bất tích tụ".
Tôn giả Xá Lợi Phất nói với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: "Nếu người hay thấy Ðức Như Lai như vậy, như lời Ngài nói, thì rất hi hữu, vì các chúng sanh mà thấy Ðức Như Lai như vậy, nhưng tâm chẳng thủ tướng chúng sanh, hóa độ các chúng sanh hướng đến Niết bàn nhưng chẳng thủ tướng Niết bàn, vì tất cả chúng sanh phát đại trang nghiêm nhưng chẳng thấy tướng trang nghiêm".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói với Tôn giả Xá Lợi Phất: "Ðúng vậy, như lời Ngài nói, dầu vì tất cả chúng sanh mà phát đại trang nghiêm, nhưng tâm hằng chẳng thấy có tướng chúng sanh. Vì tất cả chúng sanh phát đại trang nghiêm, nhưng chúng sanh giới cũng chẳng tăng chẳng giảm.
Giả sử một Ðức Phật trụ thế hoặc một kiếp hoặc quá một kiếp, một thế giới như vậy còn có vô lượng vô biên hằng hà sa chư Phật, mỗi mỗi Ðức Phật trong một kiếp hoặc quá một kiếp ngày đêm luôn thuyết pháp chẳng tạm ngừng, mỗi mỗi Ðức Phật độ được vô lượng hằng hà sa chúng sanh đều nhập Niết bàn, nhưng chúng sanh giới cũng chẳng tăng chẳng giảm. Nhẫn đến tất cả chư Phật mười phương thế giới cũng như vậy, mỗi mỗi Ðức Phật thuyết pháp giáo hóa cũng độ được vô lượng hằng hà sa chúng sanh đều nhập Niết bàn, nhưng chúng sanh giới chẳng tăng chẳng giảm. Tại sao, vì tướng chúng sanh nhứt định bất khả đắc vậy, thế nên chúng sanh giới bất tăng bất giảm".
Tôn giả Xá Lợi Phất lại nói với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: "Nếu chúng sanh giới chẳng tăng chẳng giảm, tại sao chư Bồ Tát vì chúng sanh cầu Vô thượng Bồ đề thường thuyết pháp cho họ?".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: "Nếu các chúng sanh đều là tướng không, thì cũng hkông Bồ Tát cầu Vô thượng Bồ đề, cũng không chúng sanh để vì họ thuyết pháp. Tại sao, vì trong pháp tôi nói không có một pháp khả đắc vậy".
Bấy giờ Ðức Phật bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: "Nếu không có chúng sanh, tại sao nói có chúng sanh và chúng sanh giới?".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: "Chúng sanh giới tướng như chư Phật giới".
Ðức Phật hỏi: "Chúng sanh giới đó là có lượng chăng?".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: "Chúng sanh giới lượng như chư Phật giới lượng".
Ðức Phật hỏi: "Chúng sanh giới lượng có xứ sở chăng?".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: "Chúng sanh giới lượng bất khả tư nghị".
Ðức Phật hỏi: "Chúng sanh giới tướng là có trụ chăng?".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: "Chúng sanh vô trụ, dường như hư không trụ".
Ðức Phật hỏi: "Như thế thì lúc tu Bát Nhã Ba la mật sẽ thế nào trụ Bát Nhã Ba la mật?".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: "Lấy bất trụ pháp làm trụ Bát Nhã Ba la mật".
Ðức Phật hỏi: "Lúc tru Bát Nhã Ba la mật như vậy, các thiện căn ấy thế nào tăng trưởng thế nào tổn giảm?".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: "Nếu có thể trụ Bát Nhã Ba la mật như vậy thì các thiện căn không tăng không giảm, nơi tất cả pháp cũng không tăng không giảm, tánh tướng của Bát Nhã Ba la mật ấy cũng không tăng không giảm.
Bạch Ðức Thế Tôn! Tu Bát Nhã Ba la mật như vậy thì chẳng xả phàm phu pháp cũng chẳng thủ Hiền Thánh pháp. Tại sao, vì Bát Nhã Ba la mật chẳng thấy có pháp khả thủ khả xả.
Tu Bát Nhã Ba la mật như vậy cũng chẳng thấy Niết bàn khả lạc sanh tử khả yểm. Tại sao, vì còn chẳng thấy sanh tử huống là chán nhàm, còn chẳng thấy Niết bàn huống là ưa thích.
Tu Bát Nhã Ba la mật như vậy chẳng thấy cấu não khả xả cũng chẳng thấy công đức khả lạc sanh tử khả yểm. Tại sao, vì còn chẳng thấy sanh tử huống là chán nhàm, còn chẳng thấy Niết bàn huống là ưa thích.
Tu Bát Nhã Ba la mật như vậy chẳng thấy cấu não khả xả cũng chẳng thấy công đức khả thủ. Tại sao, vì nơi tất cả pháp tâm không tăng giảm, vì chẳng thấy pháp giới có tăng giảm vậy.
Nếu được như vậy thì gọi là tu Bát Nhã Ba la mật.
Bạch Ðức Thế Tôn! Chẳng thấy các pháp có sanh có diệt là tu Bát nhã Ba la mật. Chẳng thấy các pháp có tăng có giảm là tu Bát Nhã Ba la mật. Tâm không mong lấy chẳng thấy pháp tướng có khả thủ là tu Bát Nhã Ba la mật.
Chẳng thấy tốt xấu, chẳng sanh cao hạ, chẳng sanh lấy bỏ. Tại sao? Pháp không có tốt xấu vì rời lìa các tướng vậy. Pháp không có cao hạ vì bình đẳng pháp tánh vậy. Pháp không có lấy bỏ vì trụ thiết tế vậy. Ðây là tu Bát Nhã Ba la mật".
Ðức Phật hỏi: "Các Phật pháp ấy được chẳng thù thắng ư?".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: "Tôi chẳng thấy các pháp có tướng thù thắng. Ðức Như Lai tự giác ngộ tất cả pháp không, có thể chứng biết".
Ðức Phật phán: "Ðúng như vậy, Như Lai chánh giác tự chứng pháp không".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: "Bạch Ðức Thế Tôn! Trong pháp không ấy, sẽ có gì hơn chơn như để được chăng?".
Ðức Phật phán: "Lành thay, lành thay! Nầy Văn Thù Sư Lợi! Như chỗ ông nói đó là chơn pháp chăng?
Nầy Văn Thù Sư Lợi! A nậu đa la gọi là Phật pháp".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: "Như lời Phật nói, A nậu đa la gọi là Phật pháp. Tại sao, vì không có pháp để được gọi là A nậu đa la.
Tu Bát Nhã như vậy chẳng gọi là pháp khí, chẳng phải pháp hóa độ phàm phu, cũng chẳng phải Phật pháp, chẳng phải pháp tăng trưởng, đây gọi là tu Bát Nhã Ba la mật.
Lại nữa, bạch Ðức Thế Tôn! Lúc tu Bát Nhã Ba la mật chẳng thấy có pháp gì để phân biệt tư duy ư?".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: "Không vậy, bạch Ðức Thế Tôn! Như chỗ tôi tư duy thì chẳng thấy Phật pháp, cũng chẳng có gì phân biệt được là pháp phàm phu, là pháp Thanh Văn, là pháp Bích Chi Phật. Như thế ấy gọi là Vô thượng Phật pháp.
Lại nữa, lúc tu Bát Nhã Ba la mật chẳng thấy tướng phàm phu chẳng thấy tướng Phật pháp, chẳng thấy các pháp có tướng quyết định, đây là tu Bát Nhã Ba la mật.
Lại nữa, lúc tu Bát Nhã Ba la mật, chẳng thấy cõi Dục, chẳng thấy cõi Sắc, chẳng thấy cõi Vô Sắc, chẳng thấy cõi Tịch diệt. Tại sao, vì chẳng thấy có pháp gì là tướng tận diệt, đây là tu Bát Nhã Ba la mật.
Lại nữa, lúc tu Bát Nhã Ba la mật, chẳng thấy có người làm ơn, chẳng thấy có người báo ơn, tư duy hai tướng tâm không có phân biệt, đây là tu Bát Nhã Ba la mật.
Lại nữa, lúc tu Bát Nhã Ba la mật chẳng thấy có Bát Nhã Ba la mật, cũng chẳng thấy có Phật pháp để lấy, chẳng thấy có pháp phàm phu để bỏ. Ðây là tu Bát Nhã Ba la mật.
Lại nữa, lúc tu Bát Nhã Ba la mật, chẳng thấy có pháp phàm phu để diệt, cũng chẳng thấy có Phật pháp mà tâm chứng biết. Ðây là tu Bát Nhã Ba la mật".
Ðức Phật khen: "Lành thay, lành thay! Nầy Văn Thù Sư Lợi! Ông có thể khéo nói tướng Bát Nhã Ba la mật. Ðó là pháp ấn được học của chư đại Bồ Tát. Nhẫn đến hàng Thanh Văn, Duyên Giác cũng sẽ chẳng rời lìa pháp ấn ấy mà tu đạo quả.
Nầy Văn Thù Sư Lợi! Nếu có người được nghe pháp ấy mà chẳng kinh sợ, người nầy chẳng phải chỉ trồng cội lành nơi ngàn Ðức Phật, mà họ đã ở nơi trăm ngàn vạn ức chư Phật gieo trồng các căn lành, nên họ mới có thể ở nơi thậm thâm Bát Nhã Ba la mật mà chẳng kinh chẳng sợ".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: "Bạch Ðức Thế Tôn! Nay tôi muốn lại nói nghĩa Bát Nhã Ba la mật".
Ðức Phật phán bảo: "Ông nên nói đi".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: "Lúc tu Bát Nhã Ba la mật, chẳng thấy có pháp nào là nên an trụ, là chẳng nên an trụ, cũng chẳng thấy có tướng được thủ được xả nơi cảnh giới. Tại sao, vì như chư Phật chẳng thấy tướng cảnh giới của tất cả pháp. Cho đến còn chẳng lấy cảnh giới chư Phật, huống là lấy cảnh giới Thanh Văn, Duyên Giác, phàm phu.
Lúc tu Bát Nhã Ba la mật, chẳng lấy tướng tư nghị chẳng lấy tướng bất tư nghị, chẳng thấy pháp chư Phật có bao nhiêu tướng. Tự chứng pháp không chẳng thể tư nghị.
Ðại Bồ Tát như vậy đều đã cúng dường trăm ngàn vạn ức chư Phật gieo trồng căn lành mới có thể chẳng kinh chẳng sợ nơi Bát Nhã Ba la mật thậm thâm nầy.
Lại nữa, lúc tu Bát Nhã Ba la mật, chẳng thấy phược chẳng thấy giải, với phàm phu nhẫn đến tam thừa chẳng thấy tướng sai biệt. Ðây là tu Bát Nhã Ba la mật".
Ðức Phật hỏi: "Nầy Văn Thù Sư Lợi! Ông đã cúng dường ở chỗ bao nhiêu chư Phật?".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: "Tôi và chư Phật như tướng huyễn hóa, chẳng thấy tướng cúng dường, chẳng thấy người nhận".
Ðức Phật hỏi: "Nay ông có thể chẳng đã an trụ Phật thừa ư?"
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: "Như chỗ tôi tư duy chẳng thấy có một pháp, thì thế nào sẽ được an trụ nơi Phật thừa".
Ðức Phật hỏi: "Ông chẳng được Phật thừa chăng?".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: "Như Phật thừa ấy chỉ có danh tự, chẳng thể được cũng chẳng thể thất, như vậy thì tôi làm sao được".
Ðức Phậi hỏi: "Ông được trí vô ngại chăng?".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: "Tôi chính là vô ngại. Sao lại đem vô ngại để được vô ngại?".
Ðức Phật hỏi: "Ông ngồi đạo tràng chăng?".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: "Tất cả chư Phật chẳng ngồi đạo tràng. Nay tôi sao lại riêng ngồi đạo tràng. Tại sao, vì hiện tại tôi thấy tất cả pháp an trụ thiệt tế".
Ðức Phật hỏi: "Thế nào gọi là thiệt tế?"
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: "Thân kiến v.v… là thiệt tế".
Ðức Phật hỏi: "Thế nào thân kiến là thiệt tế?".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: "Tướng như của than kiến chẳng phăe thiệt chẳng phải chẳng thiệt, chẳng đến chẳng đi, cũng là than, cũng là chẳng phải than, đây gọi là thiệt tế".
Tôn giả Xá Lợi Phất bạch: "Bạch Ðức Thế Tôn! Nếu ai ở nơi nghĩa ấy mà rõ chắc quyết định thì gọi là đại Bồ Tát. Tại sao, vì được nghe tướng Bát Nhã Ba la mật thậm thâm như vậy mà họ chẳng kinh sợ chẳng mê nghi".
Di Lặc Bồ Tát bạch: "Bạch Ðức Thế Tôn! Nếu được nghe pháp tướng Bát Nhã Ba La mật đầy đủ như vậy thì tức là gần chỗ Ðức Phật ngồi. Tại sao, vì Ðức Phật hiện giác ngộ pháp tướng ấy".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: "Bạch Ðức Thế Tôn! Người được nghe Bát Nhã Ba la mật thậm thâm mà có thể chẳng kinh sợ chẳng mê nghi, thì phải biết người ấy chính là thấy Phật".
Lúc bấy giờ lại có Vô Tướng Ưu Bà di bạch: "Bạch Ðức Thế Tôn! Pháp phàm phu, pháp Thanh Văn, pháp bích Chi Phật, pháp Phật, các pháp ấy đều không có tướng, vì thế nên được nghe Bát Nhã Ba la mật đều không kinh sợ chẳng mê nghi. Tại sao, vì tất cả vốn không có tướng".
Ðức Phật bảo Tôn giả Xá Lợi Phât: "Nếu có thiện nam, thiện nữ nghe Bát Nhã Ba la mật thậm thâm như vậy mà được quyết định, chẳng kinh sợ chẳng mê nghi, thì nên biết người ấy chính là người an trụ bực Bất thối chuyển.
Nếu có người nghe Bát Nhã Ba la mật thậm thâm nầy mà chẳng kinh sợ, hay tinh ưa nghe nhận vui thích không chán, thì tức là có đủ Ðàn Ba la mật, Thi la Ba la mật, Sằn đề Ba la mật, Tì lê gia Ba la mật, Thiền Ba la mật và Bát Nhã Ba la mật. Người ấy cũng hay vì người khác mà hiển thị phân biệt như thuyết tu hành".
Ðức Phật bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát "Ông quán nghĩa gì là được Vô thượng Bồ đề,là an trụ Vô thượng Bồ đề?".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tạ bạch: "Tôi không có được Vô thượng Bồ đề, tôi chẳng an trụ Phật thừa, thì sao lại sẽ được Vô thượng Bồ đề? Như lời tôi nói đó tức là tướng Vô thượng Bồ đề vậy".
Ðức Phật khen: "Lành thay, lành thay! Nầy Văn Thù Sư Lợi! Ông có thể ở nơi pháp thậm thâm ấy mà khéo nói nghĩa như vậy Ông ở chỗ chư Phật trước từ lâu đã gieo các căn lành, dùng pháp vô tướng mà tịnh tu phạm hạnh".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: "Nếu thấy có tướng thì nói không tướng. Nay tôi chẳng thấy có tướng chẳng thấy không tướng, sao lại bảo là dùng pháp vô tướng mà tịnh tu phạm hạnh?".
Ðức Phật hỏi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: "Ông có thấy giới Thanh Vản chăng?".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: "Có thấy, bạch Ðức Thế Tôn!".
Ðức Phật hỏi: "Ông thấy thế nào?".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch: "Tôi chẳng khởi thấy phàm phu, chẳng khởi thấy thánh nhơn, chẳng khởi thấy hữu học, chẳng khởi thấy vô học, chẳng khởi thấy lớn, chẳng khởi thấy nhỏ, chẳng khởi thấy điều phục, chẳng khởi thấy chẳng điều phục, chẳng phải thấy chẳng phải chẳng thấy".
Tôn giả Xá Lợi Phật hỏi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát: "Nay Ngài quán Thanh Văn thừa như vậy, với Phật thừa thì Ngài quán thế nào?".
Văn Thù Sư Lợi nói: "Tôi chẳng thấy pháp Bồ Tát, chẳng thấy tu hành Bồ đề và người chứng Bồ đề".
Tôn giả Xá Lợi Phật hỏi Vản Thù Sư Lợi Bồ Tát: "Thế nào gọi là Phật, quán Phật thế nào?".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát hỏi Tôn giả Xá Lợi Phất: "Thế nào là ngã?".
Tôn giả Xá Lợi Phất nói: "Ngã ấy chỉ có danh tự thôi. Tướng danh tự là không".
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: "Ðúng như vậy. Như ngã chỉ có danh tự, Phật cũng chỉ có danh tự, tướng danh tự là không, chính đó là Bồ đề. Chẳng đem danh tự để cầu Bồ đề.
Tướng Bồ đề không có ngôn không có thuyết. Tại sao, vì ngôn thuyết và Bồ đề cả hai đều không vậy.
Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Ngài hỏi thế nào gọi là Phật và quán Phật thế nào?
Chẳng sanh chẳng diệt chẳng đến chẳng đi, chẳng phải danh chẳng phải tướng, đây gọi là Phật.
Như tự quán than thiệt tướng, quán Phật cũng vậy, chỉ có bực trí mới biết được thôi, đây gọi là quán Phật".
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.142.54.241 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.